Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

Tự tâm của các ông chính là Phật đó, đừng hồ nghi gì nữa. Ngoài tâm không một pháp nào có thể kiến lập, từ gốc tâm sanh ra vạn pháp, cho nên Kinh dạy: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt”....

  Một hôm, Sư gọi môn nhân gồm có Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như v.v… mà dạy rằng:

            - Các ông không như người khác, sau khi tôi diệt độ, mỗi người sẽ làm thầy một phương, nay tôi dạy cho các ông thuyết pháp không để mất tông chỉ. Trước phải đưa ra pháp môn ba khoa, sử dụng 36 đôi, ra vào đều lìa cả hai bên. Khi nói tất cả các pháp chớ rời tự tánh.

            Ba khoa là ấm, giới, nhập. Ấm là năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập, tức sáu trần ở ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và sáu căn ở trong (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý). Giới là 18 giới: sáu trần, sáu căn và sáu thức. Tự tánh có công năng hàm chứa vạn pháp, gọi là hàm tàng thức. Nếu khởi tư lượng thì chuyển thành thức, phát sanh ra sáu thức đi ra sáu cửa mà thấy sáu trần, như vậy 18 giới đều từ tự tánh mà khởi ra ứng dụng. Tự tánh mà tà mê thì khởi 18 tà, tự tánh chánh thì khởi 18 chánh. Ứng dụng ác thì gọi là chúng sanh dụng. Ứng dụng thiện thì gọi là Phật dụng.

            Dụng do đâu mà có? Do tự tánh có đối pháp: ngoại cảnh vô tình có 5 đối: trời đối với đất, mặt trời đối với mặt trăng, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: lời đối với pháp, có đối với không, hữu sắc đối với vô sắc, hữu tướng đối với vô tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với Thánh, Tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Đó là 12 đối.

            Tự tánh khởi dụng có 19 đối: dài – ngắn, tà – chánh, si – tuệ, ngu – trí, loạn – định, hiền – dữ, giới – quấy, thẳng – cong, thật – hư, hiểm – bình, phiền não – Bồ đề, thường – vô thường, bi – hại, hỷ - sân, xả - xan, tới – lui, sanh – diệt, Pháp thân – sắc thân, Hóa thân – Báo thân. Ấy là 19 đối. 36 đối pháp này nếu biết rõ ứng dụng thì bao quát hết thảy binh pháp, ra vào đều lìa hai bên, tự tánh động dụng, khi cùng người đối đáp. Ngoài thì ngay tướng mà lìa tướng, trong thì ngay nơi không mà lìa không. Nếu toàn chấp tướng ấy là tăng trưởng tà kiến, toàn chấp không là tăng trưởng vô minh. Ngoài chấp không thường bài bác Kinh, nói rằng không dùng văn tự. Nhưng đã nói không dùng văn tự, thì đáng lẽ cũng không được nói phô. Nội một lời ấy đã là cái tướng văn tự rồi. Lại nói “Đạo thẳng thì không cần lập văn tự”, nhưng hai tiếng “bất lập” cũng là văn tự. Hạng người ấy thấy người khác nói ra điều gì liền bác, cho là chấp văn tự. Các ông nên biết mình mê còn khả thứ, đằng này còn chê bai Kinh Phật thì tội chướng vô số. Nếu chấp tướng bên ngoài làm các sự việc tìm chân lý như thiết lập đạo tràng để bàn luận về không về hữu, những người như vậy mãn kiếp không thể thấy tánh được.

            Các ông chỉ có việc hãy như pháp mà tu hành. Lại cũng chớ nên trăm việc không nghĩ tới, khiến cho cái tánh (lưu thông) của đạo bị chướng ngại. Nếu chỉ nghe và giảng nói mà không tu, thì sẽ làm cho người phát sanh tà niệm. Chỉ cần y pháp mà tu hành, ấy là bố thí Phật pháp một cách vô tướng. Nếu các ông đã ngộ, theo đấy mà giảng nói, theo đấy mà ứng dụng, theo đấy mà hành trì, theo đấy mà làm tức không mất tông chỉ. Khi cùng người đối đáp nghĩa lý, hỏi về hữu thì đối bằng vô, hỏi về vô thì đối bằng hữu, hỏi về phàm thì đối bằng Thánh, hỏi về Thánh thì đối bằng phàm. Hai đường làm nhân cho nhau phát sanh cái nghĩa Trung đạo. Các câu hỏi khác cứ y theo đấy mà làm thì khỏi mất chánh lý. Ví dụ, có người hỏi các ông “tối” là gì? Hãy đáp “sáng là nhân, tối là dyên, sáng hết thì tối, dùng sáng mà tỏ rõ cái tối; lấy tối mà làm tỏ cái sáng”. Đến đi làm nhân cho nhau, thành cái nghĩa lý Trung đạo. Các câu hỏi khác cũng vậy. Các ông về sau truyền pháp, cứ theo đấy mà truyền dạy nhau, chớ để mất tông chỉ.

            Năm Nhâm Tý vào thời đại Thái cực nguyên niên tháng bảy, Sư dạy môn nhân tới chùa Quốc Ân ở Tân Châu xây tháp, lại bảo làm gấp rút. Năm sau cuối mùa hạ công tác hoàn tất. Vào ngày mồng một tháng bảy, Sư tập hợp đồ chúng dạy:

            - Đến tháng tám này tôi sẽ từ biệt thế gian. Các ông còn điều nghi nào nên hỏi cho sớm, tôi sẽ phá nghi cho, khiến các ông hết mê lầm. Sau khi tôi đi rồi thì không còn ai dạy các ông.

            Pháp Hải và đồ chúng nghe xong đều khóc rơi lụy, chỉ có Thần Hội là bất động, Sư dạy:

            - Ra chỉ có Thần Hội là có tâm bình đẳng, khen chê bất động, buồn vui không sanh, còn bao nhiêu đều chưa được. Vậy chớ các ông ở trong núi bao nhiêu năm, tu cái đạo gì? Nay các ông sầu khổ rơi lụy là khóc cho ai? Nếu khóc cho tôi, ấy là không biết chỗ tôi đi, nếu không tôi đã không báo trước cho các ông. Nếu các ông biết chỗ tôi đi, thì thật không đáng khóc lóc gì cả. Pháp tánh vốn không sanh diệt đến đi. Thôi, hãy ngồi xuống, tôi sẽ nói cho các ông một bài kệ mệnh danh là “Chơn giả động tịnh”. Các ông hãy học thuộc bài kệ này, đồng ý với tôi, theo đấy tu hành thì không mất tông chỉ.

            Đại chúng đảnh lễ mà nghe Sư đọc:

                        Hết thảy đều không thật

Không do thấy mà thật

Nếu giả cho là thật

Cái thấy đó không chơn.

 

Nếu tự tánh có chơn

Lìa giả là tâm chơn

Tự tâm không lìa giả

Không chỗ nào có chơn.

 

Loài hữu tình thì động

Vô tình thì bất động

Nếu tu hạnh bất động

Là hóa như vô tình.

 

Tìm bất đông chơn thật

Là ngay nơi cái động

Còn như loài bất động

Vô tình, không Phật chủng

 

Khéo phân biệt pháp tướng

Là bất động đệ nhất

Chỉ cần thấy như vậy

Ấy là dụng chơn như.

 

Hỡi các người học đạo

Hãy nổ lực để ý

Chớ ở cửa Đại thừa

Lại chấp sanh tử trí.

 

Nếu lời nói hợp nhau

Thì cùng bàn ý nghĩa

Nếu thật không hợp nhau

Cùng chấp tay vui hòa.

 

Tông này không tranh cãi

Tranh cãi mất ý đạo

Giữ cái thói đấu tranh

Là đi vào sanh tử.

            Đồ chúng nghe kệ xong đều đảnh lễ nguyện vâng Thánh ý, nhiếp tâm theo đó tu hành, không dám tranh luận. Thượng tọa Pháp Hải biết Sư không còn trú lâu ở đời nên đảnh lễ mà hỏi:

            - Bạch, sau khi Hòa thượng nhập diệt, y pháp sẽ truyền cho ai?

            Sư dạy:

            - Từ ngày ở chùa Đại Phạm đến nay những pháp tôi nói ra hãy sao lục mà lưu hành, đặt tên là PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Các ông hãy giữ gìn để trao truyền cho nhau mà hóa độ quần chúng. Chỉ nương theo đó mà nói pháp thì đấy là Chánh pháp. Nay tôi chỉ nói pháp cho các ông mà không trao y, bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, quyết định không còn nghi hoặc, có thể đảm trách việc lớn. Lại theo Thánh ý trong bài kệ của Đạt Ma Sư Tổ thì không nên truyền y nữa, kệ ấy như vầy:

                        Ta vốn đến đất này

Để truyền pháp cứu mê

Một hoa nở năm cánh

Kết quả tự nhiên thành.

            Sư lại dạy:

            - Các ông muốn thành tựu trí Phật thì phải đạt “Nhất tướng Tam muội” và “Nhất hạnh Tam muội”. Trong tất cả chỗ mà không chấp tướng, đối với mọi sự không sanh tâm yêu ghét lấy bỏ, không nghĩ đến chuyện lợi ích thành hoại, luôn giữ thái độ an nhàn điềm tịnh Như thái đạm bạc, ấy là Nhất tướng Tam muội.  Ở tất cả các chỗ, lúc đi đứng ngồi nằm, đều giữ một tâm ngay thẳng, đó là bất động đạo tràng, đó là Tịnh độ chân thật, ấy gọi là Nhất hạnh Tam muội. Đủ hai thứ Tam muội ấy, thì như đất có tàng ẩn hạt giống, dần dần lớn lên thành cây trái. Nhất tướng nhất hạnh cũng vậy. Tôi nói pháp như mưa đúng thời thấm vào đất, Phật tánh các ông như những hạt giống gặp sự thấm nhuần ấy đều được nảy nở. Theo tông chỉ của tôi thì chắc chắn được trí Bồ đề, theo hạnh của tôi thì quyết sẽ chứng diệu quả. Hãy nghe kệ này:

                        Đất tâm đủ các giống

Gặp mưa đều nảy mầm

Hoa “đốn ngộ” đã nở

Trái “Bồ đề” tự thành.

            Đọc bài kệ xong, Sư lại dạy:

            - Pháp vốn không hai, tâm cũng vậy. Đạo vốn thanh tịnh không có các tướng. Các ông hãy cẩn thận , chớ quán tịnh và làm trống rỗng cái tâm. Tâm vôn thanh tịnh, không có một vật gì có thể lấy hay bỏ. Các ông hãy nổ lực.

            Đồ chúng đảnh lễ mà lui.

            Ngày mồng tám tháng bảy, Sư gọi môn nhân bảo:

            - Tôi muốn về Tân Châu, các ông hãy mau sửa soạn thuyền chèo.

            Đại chúng tha thiết xin Ngài lưu lại, nhưng Sư bảo:

            - Chư Phật ra đời còn thị hiện nhập Niết bàn. Có đến phải có đi, lẽ thường là vậy. Hình hài này của tôi đi về đã có chỗ.

            Chúng bạch hỏi:

            - Hòa thượng đi rồi, xin sớm trở lại.

            Sư dạy:

            - Lá rụng về cội, trở lại không có ngày.

            Chúng lại hỏi:

            - Chánh pháp nhãn tạng nay truyền cho ai?

            Sư trả lời bằng hai câu kệ:

                        Hữu đạo giả đắc

                        Vô tâm giả thông.

                        Người có đạo thì được

                        Người vô tâm thì thông.

            - Bạch, từ khi Phật Tổ ứng hiện đến nay, truyền pháp đã được mấy đời? Xin Hòa thượng từ bi giải nói.

            - Chư Phật xưa xuất hiện ra đời thì số lượng không thể đếm xiết. Nay chỉ kể bảy vị Phật làm nguyên thủy vào kiếp trung Nguyên, thì quá khứ có:

            Phật Tỳ bà Thi.

            Phật Thi Khí.

            Phật Tỳ Xá Phù.

            Hiền kiếp hiện tại có:

            Phật Câu Lưu Tôn.

            Phật Câu Na Hàm Mâu Ni.

            Phật Ca Diếp.

            Thích Ca văn Phật.

            Ấy là bảy vị Phật. Từ đức Thích Ca Mâu Ni truyền xuống có:

1.      Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.

2.      Tôn giả A Nan.

3.      Tôn giả Thương Na Hòa Tu.

4.      Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa.

5.      Tôn giả Đề Đa ca.

6.      Tôn giả Di Giá Ca.

7.      Tôn giả Bà Tu Mật Đa.

8.      Tôn giả Phật Đà Nan Đề.

9.      Tôn giả Phục Đà Mật Đa.

10.  Hiếp Tôn giả

11.  Tôn giả Phú Na Dạ Xà.

12.  Mã Minh Đại Sĩ.

13.  Tôn giả Ca Tỳ Ma La.

14.  Long Thụ Đại Sĩ.

15.  Tôn giả Ca na Đề bà.

16.  Tôn giả La hầu La Đa.

17.  Tôn giả Tăng Già Nan Đề.

18.  Tôn giả Già Da Xá Đa.

19.  Tôn giả Cưu Ma La Đa.

20.  Tôn giả Xà Da Đa.

21.  Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu.

22.  Tôn giả Ma Noa La.

23.  Tôn giả Cưu Lặc Na.

24.  Tôn giả Sư Tử.

25.  Tôn giả Bà Xá Tư Đa.

26.  Tôn giả Bất Như Mật Đa.

27.  Tôn giả Bát Nhã Đa La.

28.  Tôn giả Bồ Đề Đạt ma.

Còn đất này thì có:

29.  Đại Sư Huệ Khả.

30.  Đại Sư Tăng Xán.

31.  Đại Sư Đạo Tín.

32.  Đại Sư Hoằng Nhẫn.

Huệ Năng là Tổ thứ 33.

Từ các đời chư Tổ về trước, mỗi vị đều có hệ thống truyền thừa, các ông về sau hãy thay nhau lưu truyền Chánh Pháp, chớ để sai lạc.

Chúng hỏi:

- Về sau có nạn gì nữa không?

Sư đáp:

- Sau khi tôi mất sáu năm, sẽ có kẻ muốn trộm cái đầu của tôi, hãy nghe tôi nói lời sấm này:

            Trên đầu nuôi người thân

            Trong miệng cần đồ ăn

            Khi gặp nạn Mãn này

            Dương Liễu làm quan xử.

            (Đầu thượng dưỡng thân

            Khẩu lý tu xan

            Ngộ Mãn chi nạn

            Dương Liễu vi quan).

Năm Quý Sửu (nhằm thời đại Tiên Thiên năm thứ hai) ngày mồng ba tháng tám, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai xong. Đại sư gọi đồ chúng bảo:

- Các ông hãy theo thứ bậc mà ngồi xuống, tôi sẽ từ biệt.

Pháp Hải bạch:

- Hòa thượng để lại giáo pháp gì cho người mê đời sau thấy được Phật tánh?

Sư dạy:

- Các ông hãy nghe kỹ. Người mê đời sau, nếu biết rõ chúng sanh, thì đấy là Phật tánh. Nếu không hiểu rõ chúng sanh, thì vạn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Tôi nay khuyên các ông hãy biết rõ chúng sanh của tự tâm thì thấy được Phật tánh của tự tâm. Muốn tìm thấy Phật, chỉ cần biết rõ chúng sanh. Chính vì chúng sanh mê không thấy Phật, chứ không phải Phật làm cho chúng sanh mê lầm. Nếu ngộ được tự tánh, thì chúng sanh là Phật. Nếu tự tánh mê, thì Phật trở thành chúng sanh. Tự tánh mà bình đẳng, thì chúng sanh là Phật, tự tánh mà hiểm hóc tà vạy, thì Phật làm chúng sanh. Nếu tâm các ông hiểm độc quanh co thì Phật bị ẩn khuất trong chúng sanh, mà một niệm ngay thẳng khởi lên, thì đó là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Đức Phật của tự tâm mới là Phật thật. Nếu tự tâm không có Phật, thì biết tìm đâu cho ra một Đức Phật thật?

Tự tâm của các ông chính là Phật đó, đừng hồ nghi gì nữa. Ngoài tâm không một pháp nào có thể kiến lập, từ gốc tâm sanh ra vạn pháp, cho nên Kinh dạy: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt”. Nay tôi để lại một bài kệ để từ biệt các ông, gọi là bài kệ về Đức Phật chơn thật của tự tánh. Người đời sau nếu biết được ý bài kệ này, thì sẽ tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo:

            Tự tánh chơn như là Phật thật

            Tà kiến, ba độc là ma vương

            Khi tà mê khởi; ma làm chủ

Khi chánh kiến sanh: Phật ngự tòa

Ba độc, tà kiến sanh nơi tánh

Ấy là ma vương lui tới nhà

Dùng chánh kiến trừ tâm ba độc

Thì ma hóa Phật thật không sai

Pháp thân, Báo thân và hóa thân

Ba thân xưa nay chỉ là một

Nếu xoay vào tánh mà tự thấy

Ấy là nhân thành Phật Bồ đề

Vốn từ Hóa thân sanh tịnh tánh

            Tánh thanh tịnh ở trong Hóa thân

            Tánh ấy khiến thân làm đạo chánh

            Tương lai viên mãn vô cùng chơn

            Tánh tội lỗi vốn là nhân của tịnh

            Vì bỏ tội lỗi thành thân thanh tịnh

            Tự tánh xa lìa hết ngũ dục

Sát na thấy tánh, đó là chơn

Đời nay nếu được pháp Đốn giáo

Liền gặp tự tánh, thấy thế Tôn

Nếu muốn tu hành, muốn làm Phật

Biết chỗ nào khác để cầu chơn?

Nếu tự thấy chơn ở trong tâm

Có chơn thật là nhân thành Phật

Không thấy tự tánh, tìm Phật ngoài

Khởi tâm như vậy là đại ngu si

Nay tôi lưu lại pháp Đốn giáo

Cứu thế độ nhân, hãy tự tu

Hỡi những người học Phật tương lai

Không thấy vậy thì rất mờ mịt.

            Sư nói kệ xong bảo đại chúng:

            - Các ông khéo ở lại. Sau khi tôi diệt độ, chớ nên làm như thế gian, khóc lóc nhận người phúng điếu chia buồn, vận tang phục, như thế không phải đệ tử tôi, cũng không phải Chánh pháp. Chỉ cốt phải biết tự tâm, thấy tự tánh, không động tịnh, không sanh không diệt, không đến không đi, không thị không phi, không ở không về. Sợ các ông tâm còn mê không hiểu ý tôi, nay tôi dặn dò các ông một lần nữa để các ông thấy được bản tánh. Sau khi tôi diệt độ hãy theo đấy tu hành thì cũng như tôi còn, nếu làm trái lời dạy của tôi, thì dù tôi có ở đời cũng không ích gì.

            Rồi Ngài dạy thêm bài kệ:

                        Ngột ngột bất tu thiện

                        Đằng đằng bất tạo ác

Tịch tịch đoạn kiến văn

Đảng đảng tâm vô trước.

Trơ trơ không đắm thiện

Lăng xăng không tạo ác

Lặng lặng dứt thấy nghe

Tỏ tỏ tâm không vướng.

            Dạy kệ xong, Ngài đoan tọa đến nửa đêm thì gọi đồ chúng mà từ biệt: “Tôi đi nhé” rồi an nhiên thị tịch. Bấy giờ một mùi hương lạ xông khắp, cầu vồng trắng tiếp giáp đến đất, cây rừng biến thành trắng xóa, cầm thú kêu tiếng bi ai.

            Đến tháng 11 năm ấy, quan liêu ở ba quận Quảng Châu, Thiên Châu, Tân Châu cùng với đệ tử xuất gia, tại gia đều tranh nhau cung nghênh chơn thân của Ngài về đất của quận nhà, không thể quyết đoán sẽ thỉnh về đâu. Họ đốt hương khấn nguyện rằng, khói bay về đâu thì Đại sư sẽ về nơi ấy. Khi ấy khói hương bay thẳng đến Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, nhục thân Ngài được cung nghênh về Tào Khê cùng với y bát.

            Năm sau, vào ngày 25 tháng 7, quan tài được mở ra, đệ tử của Tổ là Phương Biện tô ngoài thi hài một lớp đất sét nhồi với bột trầm hương. Nhớ lời tiên đoán của Tổ về sự ăn cắp đầu, môn nhâm bèn lấy thiếc và vải sơn quấn vào cổ đề phòng bị trước khi nhập tháp. Bỗng nhiên một luồng ánh sáng trắng xuất hiện từ trong tháp vọt thẳng lên trời ba ngày sau mới tan. Quan sở tại Thiều Châu dâng sớ tâu lên vua, vua lập bia ghi lại đạo hạnh của Tổ.

Lục Tổ thọ 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y bát, 39 thế phát, thuyết pháp độ sanh 37 năm. Đệ tử đắc pháp có 43 người, còn số người ngộ đạo thoát trần thì không kể xiết.

Cái y của Sư Tổ Đạt Ma truyền lại, y ma nạp và bình bát quý do vua trung Tông tặng cùng với pho tượng của Sư do Phương Biện đắp và các pháp khí khác đều giao người coi tháp giữ gìn vĩnh viễn tại chùa Bảo Lâm. Đàn Kinh này được lưu truyền để hiển minh tông chỉ của thiền, làm cho Tam Bảo hưng thịnh, và đem lại lợi lạc cho quần sanh.

@&?

PHỤ LỤC CỦA  LINH THAO

(NGƯỜI GIỮ THÁP)

Sau khi nhập tháp, vào thời Khai Nguyên năm thứ 10, ngày mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất, nửa đêm bỗng nghe trong tháp có tiếng kéo dây sắt. chúng Tăng kinh hãi thức dậy, thấy một người trong tháp chạy ra. Kiểm soát lại thì thấy cổ của Sư bị thương tổn, bèn đem việc ấy trình Châu huyện. Huyện sai dương Khản, Thứ sử Liễu Vô Thiểm gia công tầm nã. Năm ngày sau ở thôn Thạch Giác bắt được tên giặc, giải đến Thiều Châu. Hỏi thì y khai là họ Trương, tên Tịnh Mãn, người ở Nhữ Châu, huyện Lương, tại chùa Khai Nguyên, Hồng Châu, có nhận của một Tỳ kheo tên Kim Đại Bi người Tân La (Triều tiên) hai mươi ngàn đồng để đi trộm lấy đầu của Lục Tổ về thờ. Quan Thứ sử họ Liễu nghe lời cung xong, chưa vội gia hình, đến Tào Khê hỏi ý kiến vị thượng túc của Tổ là inh Thao nên xử thế nào. Linh Thao đáp:

- Căn cứ phép nước mà nói thì đáng tội tru di, nhưng vì Phật giáo từ bi, xem oán thân bình đẳng, vả lại kẻ kia muốn thỉnh về thờ, thì tội cũng nên tha vậy.

Thứ sử nghe xong không ngớt lời ca tụng:

- Thế mới biết cửa Phật là quảng đại!

Bèn ra lệnh ân xá. Niên đại Thượng Nguyên năm đầu, vua Túc Tông sai sứ đến thỉnh y bát của Lục Tổ về cung để thờ. Đến Vĩnh Thái nguyên niên vào ngày mồng 5 tháng 5, vua Đại Tông mộng thấy Lục Tổ đến thỉnh y bát, nên vào ngày mồng 7, vua ra sắc lệnh cho quan Thứ sử Dương Hàm rằng:

 “Trẫm mộng thấy Năng Thiền Sư đến thỉnh y bát và ca sa về Tào Khê. Nay sai quan Trấn Quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh cung nghinh về đó. Đối với Trẫm đấy là báu vật của nước, nên phải như pháp mà tôn trí tại bổn tự, bảo tăng chúng những vĩ đã đích thân thừa kế tông chỉ, hãy cẩn thận giữ gìn, chớ để hư hao”.

            Về sau nhiều lần những bảo vật ấy bị trộm, nhưng chưa đi xa đã lấy lại được.

            Vua Hiển Tông truy tăng Sư thụy hiệu là Đại Giám Thiền Sư, tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu.

            Ngoài ra, những sự tích khác về Tổ rất nhiều người biên chép như Thượng thư Vương Duy, Thứ sử Liễu Tôn Nguyên, Thứ sử Lưu Ngung Tích … đều thuộc đời Đường.

(Người giữ tháp là Linh Thao sao lục)

---o0o---

Đánh máy: Trần Thị Minh Tâm

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm