Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder


KIM THÁNH THÁN
Trùng tuyên
Kinh Phật hoá Tôn-đà-la-nan-đà nhập đạo

Bản Hán : Kim Thánh Thán [ ? -1661]
Bản Việt : Nhượng Tống [ ? -1948]
Trích từ Mái Tây ( Tây sương ký )
Chú thích : Đặng Hữu Phúc

…Phật nói

Hết thảy chúng sinh

Ở trong bể khổ

nhân nghĩ càn

Gây duyên lăn-lộn …

Duy-Nhiên thế - tôn hỏi :

Thế nào là vì nhân nghĩ càn

Gây duyên lăn-lộn

Phật nói : Được lắm !

Nhà ngươi để ý

Ta giảng cho nghe :

“ Cõi đời vốn là

Một bể không lớn

Thường tự hòa-hợp ,

Không phép gặp mặt ;

Thường tự vắng-lặng ,

Không phép biệt-ly ;

Không có Ta , Nó ,

Không phải không kể…

Nhất-thiết đều-đủ ,

Không thể kể được..

Nhưng mà chúng-sinh ,

Vì cớ vô-minh ,

Chẳng giữ tính mình…

Tự-nhiên nghiệp-chướng ,

Như sức gió thổi

Xin cho nghĩ càn

Chăm-chui tỷ- mỷ .

Bắt đầu từ chỗ

Không ta trong sạch ,

Suy xằng tính bậy ,

Bảo đây là ta !...

Đã có ta rồi ,

Ngoài ra chúng nó

Không phải là ta ,

Tự-nhiên không thể

Không gọi là người .

Vì thế lần-lượt ,

Bao nhiêu những kẻ ,

Không phải là Ta

Mà gọi là Người

Cũng đều suy-tính ,

Và đều tự bảo :

Đây chính là Ta .

Đã đều tự bảo

Đây chính là Ta ,

Thì đối với Ta ,

Tự nhiên chúng nó

Đều cho là Ta

Không phải chúng nó

Không phải chúng nó ,

Thì tất chúng nó

Không thể không lại

Gọi Ta là người …

Bọn chúng-sinh ấy

Cùng sinh một nước

Hoặc một bộ lạc

Có khi một nhà…

Đối lẫn với nhau

Sinh lòng mến-yêu

Vì cớ mến-yêu

Sinh ra không-biết

Khăng-khít lâu ngày

Gây nên ân-nghĩa

Ân sâu nghĩa nặng

Bày ra lời nói

Hoặc khi tựa vai

Hoặc khi kề đùi

Hoặc khi giắt tay

Hoặc khi ôm-ấp

Nhẹ lời sẽ tiếng

Chỉ bể thề non

Rằng tôi ở đời

Chỉ yêu một người …

Mà một người ấy,

Tức là mình đó !

Tôi thực không yêu

Một người nào khác …

Và lại nói rằng :

Nay tôi với mình

Tức là một người

Không có phân biệt…

Và lại nói rằng :

Mình không phải mình !

Tôi không phải tôi !

Mình mới là tôi !

Tôi mới là mình !

Khi đã nói ra

Những lời như thế

Đôi tình yêu-mến

Như đôi nai khát

Chạy vào đống lửa !

Không thích lời can

Của người ngoài cuộc

Cũng không để cho

Những người ngoài cuộc

Được biết chuyện mình…

Ở ngay trong nhà

Xây một lầu cao…

Sửa sang trang-sức

Cho rất xinh-đẹp

Giữa đặt giường êm

Hai đầu bày gối …

Ống tiêu , ống địch ,

Đàn , sáo , tì-bà ,

Các thứ âm-nhạc

Bày ra không thiếu …

Rồi đó hai người

Ngồi ở trong lầu

Lấy đêm làm ngày

Lấy ngày làm đêm

Nhất-thiết những việc

Người đời thường làm

Thì hai người ấy

Cũng đều làm cả

Rồi đến những chuyện

Người đời chưa làm

Nhưng hai người ấy

Cũng đều làm cả

Bốn mặt lầu ấy

Đều xây tường cao

Thang , bậc dưới lầu

Cất bỏ không để

Không để cho ai

Có thể nom-dòm

Cũng không để ai

Được lên tiếng gọi…

Hạng chúng-sinh ấy

Chìm ở trong bể

Lăn-lộn nghĩ càn…

nhân nghĩ càn

Làm chuyện lăn-lộn…

duyên lăn-lộn

Lại sinh nghĩ càn

Nghĩ càn ! Nghĩ càn !

Lăn-lộn ! Lăn-lộn !

Hạng chúng-sinh ấy

Sa vào trong đó

Kể từ một kiếp ,

Cho đến hai kiếp ,

Ba kiếp , bốn kiếp ,

Rồi hàng nghìn kiếp

Như kẻ say rượu

Mờ-mịt mê-man…

Bệnh ấy ít thuốc

Có chữa sao nổi !... “

Thế-Tôn đương ngồi

Liền đứng ngay dậy

Sụt-sùi khóc mếu

Lại thưa Phật rằng

Lạy đức Đại-từ !

Hạng chúng-sinh ấy

Sao độ được họ ?

Phật dạy : được lắm !

Nhà ngươi để ý

Ta nói cho nghe :

“ Hạng chúng-sinh ấy

Không thể độ thoát !

Dù đức Như-lai

Đại-từ đại-bi ,

Nhiều cách thuyết pháp

Rất là khôn-khéo

Cũng không làm sao ,

Độ thoát được chúng !

Huống chi kém ngài :

Bọn tu-đà-hằng

Bọn tỳ-đà-xá

Bọn tích-chi-phất

Có làm thế nào

Mà độ chúng thoát ? “

Thế-Tôn khi ấy

Lại thưa Phật rằng :

Lạy đức Đại-từ !

Hạng chúng –sinh ấy ,

Như lời Phật dạy ,

Thì không bao giờ

Được độ thoát sao ? “

Phật rằng : “ Được lắm !

Nhà ngươi để ý

Ta nói cho nghe :

Hạng chúng-sinh ấy ,

Độ sao được thoát !

Ví phỏng kiếp trước

Có dày phúc đức

Thì họa may ra ,

độ thoát chăng !

Có thể độ được

Nhưng là chúng nó ,

Lại tự độ lấy

Chứ không phải ai

Có thể độ được !

Thế nào lại bảo :

Đáng không độ thoát ,

Bỗng được độ thoát ?

Mà lại là chúng ,

Tự độ lấy thoát ;

Chứ người ở ngoài ,

Không thể độ được ?

Nhà ngươi để ý ,

Ta giảng cho nghe !

Hạng chúng-sinh ấy ,

Đương lúc lăn-lộn ,

Phúc-đức kiếp trước ,

Bỗng-dưng tới nơi

Thì chúng nó sẽ ,

Cùng nhau ly-biệt …

Hoặc vì việc quan ,

Mà sinh ly-biệt …

Hoặc vì lệnh vua ,

Mà sinh ly-biệt !

Hoặc vì cha mẹ ,

Có việc sai-bảo ,

Mà sinh ly-biệt !

Hoặc vì giặc-giã

Gây chuyện binh-đao ,

Mà sinh ly-biệt !

Hoặc vì kẻ thù ,

Tìm phương hãm-hại ,

Mà sinh ly-biệt !

Hoặc vì kẻ mạnh ,

Ra tay bắt hiếp

Mà sinh ly-biệt !

Hoặc tự chán-ghét ,

Mà sinh ly-biệt

Hoặc nghe gièm-pha ,

Mà sinh ly-biệt ,

Có khi hoặc vì ,

Nghiệp-báo đã hết ,

Kẻ chết , người sống ,

Ly-biệt mãi mãi !

Nhà ngươi để ý :

Ly-biệt là thứ ,

Trí-thức rất hay ,

Cho bọn chúng-sinh ,

Nghĩ càn lăn lộn .

Ấy là thuốc hay ,

Chữa bệnh mê-đắm.

Ấy là dao sắc ,

Cắt giây ái-ân ,

Ấy là đường phẳng ,

Dọn sạch chông-gai .

Ấy là lệnh-xá ,

Tha tội trói-buộc .

Nhà ngươi để ý :

Hết thảy chúng-sinh ,

Rất khổ ly-biệt ,

Rất khó ly-biệt ,

Rất trọng ly-biệt ,

Rất giận ly-biệt ! …

Nhưng vì nhờ sức ,

Phúc-đức kiếp trước

Cho nên tất phải

Có lúc ly-biệt .

Một khi ly-biệt ,

Ly-biệt hết thảy!

Thẩn-thơ ngồi rồi ,

Như mơ chợt tỉnh .

Trong lòng nhẹ-nhõm

Chẳng cũng sướng sao !

Nhà ngươi để ý :

Ví phỏng chúng nó ,

Từ ngày kiếp trước

Không có phúc-đức

Thì đến kiếp này ,

Không ly-biệt nổi

Đã không ly-biệt ,

Tất lăn-lộn mãi

Sinh chán ghét nhau …v.v. “

 

[ Chú thích: Đặng Hữu Phúc ]

[1] Cõi đời vốn là, Một bể không lớn [=Thế gian hằng như, Như đại không hải ], Thường tự hoà hợp, Không phép gặp mặt, Thường tự vắng lặng, Không phép biệt ly.

[ Thường tự hoà hợp nên không có cái pháp tên là pháp hội hiệp (= phép gặp mặt )—(phép = pháp ) ]

[Thường tự vắng lặng nên không có cái pháp tên là biệt-ly (= phép biệt-ly)]

|| Không biết = vô minh

||. Nghĩ càn = vọng-tưởng = điên-đảo tưởng

|| Lăn-lộn = trao-đảo

|| Nghĩ càn lăn-lộn = trao-đảo vọng-tưởng .

-----------------------------------------------------------------------

[2] Có bốn thứ trầm-luân :

(1) Trầm-luân do dục tham ( desire )

(2) Trầm-luân do dục hữu (existence ; becoming) : mong cầu hiện hữu , mong cầu tái sinh

(3) Trầm-luân do vô-minh ( ignorance) : chấp thủ vào ngã [self grasping ] là gốc rễ của sinh-tử luân chuyển .Gồm chấp thủ vào cá-biệt ngã [self grasping of person] và pháp ngã [ self grasping of phenomena].Vô-minh là biết sai , không phải chỉ có nghĩa là không biết .

(4) Trầm-luân do tà-kiến ( wrong view) : không có chánh tín với lý duyên khởi [= lý duyên sinh, lý nhân duyên=dependent origination; relational origination; dependent arising; interdependent arising, cause and effect]; tin vào Đấng tạo lập hữu ngã thường hằng , bản ngã thường hằng ; hoặc tin vào đoạn diệt [không có nhân quả , không có đời trước đời sau , chết là hết, không có giải thoát ]

-------------------------

[3] Nhân duyên

Chúng-sinh hay sự , vật có ra hình-sắc đều do sự tạo-tác tiếp nối của 12 nhân duyên .

Mười hai tiếp-nối [= links] của một vòng duyên khởi : 1. vô-minh 2. hành 3. thức 4.danh sắc 5. sáu xứ (=lục nhập) 6. xúc 7. thọ 8. ái 9.thủ 10.hữu 11.sinh 12.lão tử .

Trong The Middle Way [2009] Đức Dalai Lama giảng –theo ngài Long Thọ

(1) vô-minh [ ignorance] , (8) ái [craving]và (9) thủ [grasping] là nguồn gốc của khổ đau dưới hình thức những phiền não [afflictions] ;

trong khi đó (2) hành [volition] và (10) hữu [becoming] là nguồn gốc của khổ đau dưới hình thức tác hành tạo nghiệp [ karmic action] .

Bảy còn lại , (3) thức [conciousness] ,(4) danh và sắc[name and form], (5) sáu xứ [sources] , (6) xúc [ contact] , (7) thọ[feeling] ,(11) sinh [ birth] và (12) lão và tử [aging and death] tạo thành chân lý về khổ [ = khổ đế]

-----------------------------

[4] Kinh Trung Bộ nói về lý tính Duyên khởi :

Cái này có, nên cái kia có; Cái này sinh, nên cái kia sinh; Cái này không có, nên cái kia không có; Cái này chấm dứt, nên cái kia chấm dứt .

[ Majjhima Nikaya II,32 : This being, that becomes; from the arising of this, that arises; this not becoming , that does not become; from the ceasing of this, that ceases.]

--------------------------------

[5] Kinh Đại-thừa nói về lý tính duyên sinh : Salistambasutra (Sanskrit)

[Xá-Lê-Sa-Đảm-Ma kinh] =Kinh Duyên-Sinh [=Phật thuyết Đại-thừa Đạo-can kinh ].

Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt [Saigon 1957; in lại trong: Chư Kinh Tập Yếu Tập I , Thích-Tâm-Châu , Toronto, Canada, 2004 , gồm 21 bản kinh ngắn]

Đạo-can nghĩa là lúa nếp. Đức Phật nhân trông thấy cánh đồng lúa nếp Ngài nói ra kinh này .

…Đại Bồ-tát Di-Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử rằng :

Nay Phật, Pháp Vương , Chánh-Biến-Tri bảo các vị Tỳ-khưu : ‘Nếu ai thấy được Nhân-duyên , tức là người ấy thấy được Pháp ; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật’ , vậy trong này thời cái gì là Nhân-duyên ? Nói là Nhân-duyên, thời : “đây có nên kia có , đây sinh nên kia sinh”.

Như : Vô-minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên cho Danh-sắc, Danh-sắc duyên cho Lục-nhập, Lục-nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thụ, Thụ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu , Hữu duyên cho Sinh, Sinh duyên cho Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh khởi được. Như thế , là chỉ sinh-khởi sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao , thuần-nhất, cùng cực vậy.

Cũng trong này,Vô-minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt nên Danh-sắc diệt, Danh-sắc diệt nên Lục-nhập diệt, Lục-nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thụ diệt, Thụ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt , Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não , cũng diệt được. Như thế là chỉ diệt sự kết-tự những khổ đau lớn-lao, thuần-nhất,cùng cực là được. Đó là Đức Thế-Tôn nói ra pháp Nhân –duyên vậy .

-------------------------------------

[6] Phật nói về lão-bệnh -tử

‘’ Các đệ tử ơi !

Ta thuở bé giàu-sang như thế . Ta sống trong cảnh huy-hoàng như thế .Mà tư-tưởng ta lại nảy ra như thế này :

người thường-tục, ngu-muội, mặc dầu biết phải có lúc già-nua, và không thoát được khỏi năng-lực của sự già-nua, lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán , khi trông thấy một kẻ khác già-nua. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.

Còn ta, ta cũng phải già, không thoát được già. Vậy , đã mà cũng phải già, không thoát được già, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác già hay không ? Không có lẽ ta như thế .

Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ tử ơi !

Bao nhiêu những cái vui của tuổi thanh-niên, không lià tuổi thanh niên, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta.

Một người thường-tục, ngu-muội , mặc dầu biết mình phải có lúc chịu bệnh , lại gớm-nhờm, chán ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị bệnh tật giày-vò . Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình .

Còn ta, ta cũng phải có lúc chịu bệnh và không thoát khỏi năng lực của tật-bệnh, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị tật-bệnh giày-vò hay không ? Không có lẽ ta như thế .

Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ-tử ơi!

Bao nhiêu những cái vui của sự mạnh-khoẻ , không rời sự mạnh-khoẻ, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .

Một người thường-tục, ngu-muội , mặc dầu biết mình phải có lúc chết và không thoát được năng-lực của sự chết , lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.

Còn ta, ta cũng phải có lúc chết, không thoát khỏi năng lực của sự chết . Vậy đã mà phải có lúc chết, không thoát được khỏi năng-lực của sự chết, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết hay không ? Không có lẽ ta như thế .

Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế , thời , các đệ-tử của ta ơi ! bao nhiêu những cái vui của đời sống, không lià đời sống, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .”

[ Phan Văn Hùm- Triết học Phật giáo trang 24-- dẫn từ kinh Anguttara nikaya -- dẫn bởi Oldenberg---dịch ra chữ pháp do Foucher ]

-------------------------------------

[7] Phật nói về ba kiến chấp nguy hại

“ Này các Tì kheo, các Bà la mônngoại đạo có ba kiến chấp nguy hại như sau :

- Phàm tất cả các cảm giáccon người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do nghiệp quá khứ [ Túc mạng luận ] .

- Phàm tất cả cảm giáccon người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do không nhân không duyên [ Ngẫu nhiên luận ]

- Phàm tất cả cảm giáccon người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do đấng tạo hoá [ Thần ý luận ]

Này các Tì kheo , ta nói với chúng như sau : Như vậy thời theo các tôn giả , do “ nghiệp quá khứ “ do “ ngẫu nhiên vô cớ “ và do “đấng tạo hoá “ mà con người trở thành sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi [ nói chia rẽ ] , nói lời phù phiếm; do những nguyên nhân trên mà con người trở thành tham lam, sân hận, si mêtà kiến .

Này các Tì kheo, với những ai dựa vào “đấng tạo hoá”, dựa vào “ nghiệp quá khứ” dựa vàotự nhiên, ngẫu nhiên” cho là lí do chân thật thì nên biết rằng họ là người tà kiến và nguy hại hơn nữa là họ sẽ không có ước muốn, không có tinh thần “đây là việc phải làm, đây là việc không nên làm ..” và họ sẽ sống thất niệm , buông lung tội ác với tâm không hộ trì .

Này các Tì kheo đó là ba chủ trương của ngoại đạo, họ vẫn chấp chặt, bảo thủ quan điểm sai lầm ấy . [ Tăng chi I ]

 

[8] Nói Duyên khởi nghĩa là nói các pháp [= phenomena; events; process] hiện hữu hiện hoạt [= actual existence ] nhưng các pháp đều không có tự tính [ empty || empty of what ? || empty of intrinsic existence; empty of inherent existence ] nghĩa là không có hiện hữu tự lập [ existence by their own rights ], không có hiện hữu độc lập [ independent existence ] đối với các pháp khác, nghĩa là lệ thuộc vào nhân duyên và do trùng trùng duyên khởi mà biến hiện .

Không nên xem tính không, tính-không –có-tự-tính này là tự-tính, hoặc một thứ tự-tính .

Nói các pháp đều không, là nói các pháp khôngtự tính, các pháp không có tính quyết-định, các pháp là pháp trở thành [=becoming], là pháp biến-dịch [=changing], là đang trên đường trở thành. Nếu các pháp có tự-tính thì sẽ không biến dịch, không trở thành.

Trung luận XXIV.16 : Nếu thấy hữu-tình hiện-hữu có tự-tính, tức là thấy hữu-tình hiện-hữu chẳng do nhân duyên .

|| Tính không là danh-từ giả-định, tên tạm-gọi [=imputational term].

Ngã, cá-biệt ngã [atman ; self] là một thực-thể hoàn toàn hư-cấu [a completely fictious entity]—là cái mà đạo phật luận giải và phủ định .

Người [pudgala ; person] là tên tạm gọi cho tổ hợp của sắc, thọ, tưởng , hành , và thức; Đạo Phật không tranh luận gì về điểm này .

Gốc rễ của luân hồi là do chấp ngã—cá-biệt ngã và pháp ngã .

Nói Duyên khởi tức là phủ-định cá-biệt ngã và pháp ngã , phủ định Đấng tạo lập và Đấng tạo lập hữu ngã thường hằng .

Nói Duyên khởi cũng là nói Tánh Không , cũng là nói Chân Không Diệu Hữu, cũng là nói Trung Đạo , cũng là nói Như Huyễn .

[Dependent Origination = Emptiness (=Openness) = Middle Way = Illusion]

[9] Hữu Vô :

Các biểu ngữ về kiến chấp : có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không ( hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt--being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).

Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.

Trung luận XV.6 :

Nếu người thấy hữu, vô

Thấy tự tính , tha tính

Như thế thì chẳng thấy

Phật pháp chân thật nghĩa .

Trung luận V.6

Nếu không có cái có,

Làm sao có cái không .

Có , không , đã không có,

Ai biết có , biết không .

Trung luận V.7.

Cho nên biết hư không

Phi hữu cũng phi vô

Phi tướng phi sở tướng

Năm giới kia cũng thế

[ năm giới kia= năm đại kia = đất , nước , gió , lửa và thức giới

|| cũng thế = cũng như hư không giới ]

Trung luận V.8.

Kẻ sơ trí thấy pháp

Hoặc hữu hoặc phi hữu

Nên đã không thể thấy

Tĩnh chỉ của kiến chấp

[10] Cái gì thay đổi , cái đó là chiêm bao.Có hai thứ chiêm bao: nhắm mắt chiêm baomở mắt chiêm bao. Cái gì không thay đổi , cái đó là chân lý.

Ta đã làm chi đời ta ,

Nhớ ôi ngọc trắng ngày chưa cát lầm

tuy thế : Ta vẫn còn nguyên một hiện tại này

Nghìn sông nghìn nước nghìn trăng hiện

Muôn dặm không mây muôn dặm trời

ta nên

ta về gặp lại tình ta

dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân

ta sống trong căn nhà hữu danh nhưng vẫn ở trong quê hương tịch lặng vô ngôn [Triệu luận - Đại sư Tăng Triệu ], quê hương bản lai diện mục, quê hương bản giác, quê hương tính bản phật phổ hiền.

–[ ta về gặp lại tình ta – dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân--thiền sư Viên-Minh] || ta về gặp lại tình ta =ta về gặp lại tính bản phật phổ hiền ||.

[Phổ Hiền= Samantabhadra =All Good One = All-around Goodness ].

------------------------------------------------

Tam quy theo Truyện Thủy Hử của Thi Nại Am

quy thứ nhất : giữ tính phật

quy thứ hai : theo chánh pháp

quy thứ ba : kính thầy mến bạn

--------------------------------------

Tất cả hãy phát huy

lành thay đức lớn

gốc tuệ sâu dày

sức nguyện trang nghiêm

ngày khác Hội Thượng Linh Sơn

nhìn hoa cùng cười

thiện tai đại đức

tuệ căn thâm hậu

nguyện lực trang nghiêm

dị nhật Linh Sơn Hội Thượng

niêm hoa tương tiếu

---------------------------------------

[11] Thẩn thơ ngồi rồi , Như mơ chợt tỉnh

Bồ-tát Long Thọ --Trung luận . VII.34

[ Nagarjuna and the Philosophyof Openness : Nancey McCagney]

As illusion , as dream , as an imaginary city in the sky ,

So have arising , endurance , and destruction been illustrated.

[ Nagarjuna : Kenneth K. Inada]

It is like an illusion , a dream , or an imaginarycity in the sky .

In such away , ( the concepts of ) origination , duration , and cessation have been described.

---------------------------

[ Thích Tuệ Sỹ ]

Như huyễn tượng , như chiêm bao , như thành phố giữa hư không ,

cũng vậy, những gì xuất hiện , tồn tại , rồi hủy hoại .

|| Trung luận : Thanh Mục (thích ) [Cưu Ma La Thập , Hán dịch -

- Thiện Siêu ,Việt dịch ]

Như huyễn cũng như mộng , như thành Càn-thát-bà ,

nói sinh , trụ , diệt, tướng nó cũng như vậy .

[12] Đức Phật Cồ Đàm thương xót hữu tình nên nói pháp nhân duyên

Trung luận XXVII. 29-30 [ Hai bài tụng cuối]

|| [ Trung luận -- Thiện Siêu dịch ]

(29) Vì tất cả pháp rốt ráo đều không , vậy thời ở chỗ nào , vào lúc nào , và ai khởi lên các kiến chấp cho rằng thế gian là thường , vô thường ,v.v…ấy.

(30) Đấng Đại Thánh Chúa Cồ Đàm , vì thương xót chúng sinh mà nói pháp duyên sinh ấy , để chấm đứt tất cả các thứ kiến chấp. Con nay xin cúi đầu kính lễ Phật .

-----------------------------------

|| [HT Thích Duy Lực dịch ]

(29) Vì nhất thiết pháp không

Những kiến chấp thế gian

Ở nơi nào , lúc nào ,

Ai khởi những kiến chấp

( hữu , vô , thường ,biên,v.v …)

(30) Đức Phật Đại thánh chủ

Thương xót ( chúng sinh ) thuyết pháp này

Đoạn tất cả kiến châp

Nay tôi đảnh lễ Phật

--------------------------------------------

[13] Một khi ly biệt , ly biệt hết thảy

kiến chấp về ly-biệt [ tỉ- dụ : người ly-biệt , người bị ly -biệt , sự ly-biệt ]

Một khi ly-biệt [thì hãy ] ly-biệt hết thảy.

Lià kiến chấp về “ly-biệt “ và cũng lià kiến chấp về “ ly-biệt hết thảy “ thì chính là : lià , lià lià [=lià cái lià] , lià lià lià ,lià lià lià lià , …lià hết thảy ; đó là đoạn tất cả kiến chấp .

---------------------------------

[14] Con đường Bồ tát :

Đoạn tất cả kiến chấp , trí chẳng trụ hữu vô , mà khởi tâm đại-bi , ngày nào hư không còn, tôi vẫn còn ở lại , tu lục-độ vạn-hạnh, với gốc tuệ sâu dày , với sức nguyện trang nghiêm ,cùng chung sức an lập , một nhân gian tịnh độ, quả hải của vạn đức , tình và cả vô tình , đều cùng thành phật đạo : bản phật phổ hiền .

--------------------------

[15] Kinh Lăng Già

Xa lià chấp đoạn thường

Pháp thế gian như mộng

Trí chẳng trụ hữu vô

khởi tâm đại bi

-------------------------------------------------------

[16] Bồ tát Long Thọ --Ca Tụng Pháp Giới

[ Tán Pháp Giới Tụng ]

Tôi kính lễ pháp giới

Trú trong mỗi hữu tình

Nhưng họ không nhận biết

Nên nhân duyên ba cõi

[cõi dục , cõi sắc , cõi vô sắc] [Tụng 1]

---------------------------------------------------------

Do tịnh hóa vô-minh

Nguyên-nhân tâm ba cõi [tâm=a-lại-da thức]

Tịnh hóa là niết-bàn

Và hơn nữa : pháp-thân [Tụng 2]

--------------------------------------------------------

‘Vô-thường’, ‘khổ’, ‘không’

Cả ba tịnh hóa tâm

Pháp tốt nhất tịnh tâm

Là pháp vô tự-tính [Tụng 26]

---------------------------------------------------------

Giác chẳng xa , chẳng gần ,

Và chẳng đến , chẳng đi

Trú : hoặc thấy, không thấy ,

Trong mù sương phiền-não [Tụng 49]

---------------------------------------------------------

Thật-chứng trí bát-nhã

Đạt vô-thượng tịch-tĩnh

Thế nên kinh tạng nói:

Trú : tuệ-tri chính mình . [Tụng 50]

[pháp giới = phật tính =…] [ĐHP dịch]

------------------------------------------------------------

Nagarjuna—In Praise of Dharmadhatu

[ Commentary by Karmapa the third ,Translated &Introduced by

Karl Brunnholzl -2007 ]

I bow to you, the dharmadhatu ,

Who resides in every sentient being ,

But if they aren’t aware of you

They circle through this triple being [Stanza 1]

------------------------------------------------------------

Due to just that being purified

What is such circling’s cause ,

This very purity is then nirvana.

Likewise, dharmakaya is just this . [Stanza 2]

--------------------------------------------------------

‘Impermanence’,’suffering’, ‘empty’,

These three, they purify the mind .

The dharma purifying mind the best

Is the lack of any nature . [Stanza 26]

--------------------------------------------------------

Enlightenment is neither far or near ,

And neither does it come nor go.

It’s whether it is seen or not

Right in the midst of afflictions. [Stanza 49]

--------------------------------------------------------

By dwelling in the lamp of prajna ,

It turns into peace supreme.

So the collection of sutras says :

‘By exploring your self, you should rest!’ [Stanza 50]

------------------------------------------------------------------------

[17] Chân không [ =emptiness] , cũng là chân không diệu hữu [= openness] , cũng là tự do tuyệt đối [=absolute freedom] không có tự tính , có thể tạm biểu tượng như hư-không mà nắng không làm cho khô , mưa không làm cho ướt [Bồ tát Long Thọ], nhưng có hiện hữu hiện hoạt [=actual existence ] , và về phương diện hoạt dụng [=activity aspect ] mở ra các biến hiện theo nhân duyên [open to manifestations upon conditions], nghĩa là chân khôngtự do tuyệt đối luôn luôn tôn trọng tác dụng của nhân duyên, tương ưng của nhân qủa, nghĩa là không bao giờ xoá bỏ trách nhiệm phổ quát [= trách nhiệm nhân quả | Có trời mà cũng có ta | Trời = Con tạo = Lý nhân duyên ].

Osho cũng giảng : mỗi hữu-tình chỉ là tâm-thức tuyệt-đối [ absolute consciousness] , tự-do tuyệt-đối [absolute freedom ]

[18] Đức Dalai Lama thứ 14, trong “The Middle Way“(2009) có dạy, nếu chỉ thực hành từ bi hỷ xả và mười nghiệp thiện thì vẫn chưa phải là thực hành phật pháp -- thực hành phật pháptu tập đi đến giải thoát.

Ngài cũng dạy-- nền tảng cuả lý tính Duyên khởi về phương diện hiển hiện [apparent aspect] giúp hữu-tình tích-tập phúc-đức [ accumulate merit] và nền tảng của lý tính duyên khởi về phương diện trống thông [=empty aspect ] giúp hữu-tình tích-tập trí-tuệ [ accumulate wisdom]

.[trống thông = rỗng thông vô tự tính = thông viên = dung thông = vô ngại = empty = open = free-- thế nên có thể tích-tập trí-tuệ ---ĐHP].

[19] Bồ tát Long Thọ cũng dạy tích-tập phúc và tuệ là tư lương cho con đường giải thoát, và Đức Phật thương xót hữu-tình nên đã giảng nhân duyên và ai thấy nhân duyên là thấy phật , thấy bốn thánh đế, thấy đạo Bồ-đề .

[ Nagarjuna-Verse XXIV,40—translated by K. K. Inada ].

“One who rightly discerns relational origination will, indeed , rightly discern universal suffering , its origination, its extinction, and the way to enlightenment “.

“ Ai quán sâu sắc đúng đắn duyên khởi sẽ , thật sự , quán sâu sắc đúng đắn sự đau khổ phổ quát [=mọi nơi , mọi thời ] , sự sinh khởi của nó, sự hoàn toàn chấm dứt của nó , và con đường đến Bồ-đề . [Bồ-đề=Giác]

[20] Trong-mù-sương-phiền-não

Cõi đời vốn là, một bể không lớn , thế gian hằng như , như đại không hải ,

Giác chẳng gần , chẳng xa, |Và , chẳng đến , chẳng đi, | Trú : được thấy , không thấy , | Trong mù sương phiền-não |.

[21] Không có niết-bàn ngoài nơi có luân-hồi ; không có luân-hồi ngoài nơi có niết-bàn . [Kinh Lăng-già]

[22] Bồ-tát Long-thọ kính lễ Đức Phật giảng pháp nhân duyên—trong mở dầu Trung-luận :

I pay homage to the Fully Awakened One,

the supreme teacher who has taught

the doctrine of relational origination,

the blissful cessation of all phenomenal thought constructions.

( Therein , every event is “marked” by):

non-origination , non-extinction ,

non-destruction , non-permanence,

non-identity , non-differentiation,

non-coming (into being) , non-going (out of being).

[Nagarjuna : Kenneth K. Inada , 1993 ]

-----------------------------------------------

Dedication

I greet the best of teachers , that Awakened One ,

who taught liberation , the quieting of phenomena ,

interdependent origination which is ;

nonceasing and nonarising, nonmomentary and nonpermanent,

nonidentical and nondifferent , noncoming and nongoing .

[Nagarjuna and the Philosophy of Openness: Nancy McCagney, 1997]

--------------------------------------------------------------------------------------

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Chẳng thường cũng chẳng đoạn

Chẳng một cũng chẳng khác

Chẳng đến cũng chẳng đi

Nói lên được pháp nhân duyên ấy

Khéo diệt trừ các thứ hý luận

Tôi cúi đầu kính lễ Phật , đã thuyết ,

Nhân duyên cao nhất trong các thuyết .

------------------------------------------------------

Ngài Thanh-Mục viết : Với hai bài kệ tán thán Phật này là đã nói tóm tắt Đệ Nhất nghĩa đế. [ Trung luận- Thanh -Mục thích ; Bản dịch Thiện Siêu

--------------------------------------------------------------------------------------------

Bài tụng tán thán Đức Phật mở đầu bản Trung-luận, có thể tạm dịch [ĐHP] từ hai bản dịch Anh ngữ [dịch từ bản Sanskrit] dẫn trên , như sau :

Tôi kính lễ Đức Phật ,

vị đạotối thượng ,

giảng lý tính duyên khởi ,

tĩnh chỉ của hiện-tượng

và cấu trúc của tưởng ,

chính là sự giải thoát ,

diệu lạc niết bàn ,

chẳng sinh cũng chẳng diệt ,

chẳng thường cũng chẳng đoạn ,

chẳng một cũng chẳng khác ,

chẳng đến cũng chẳng đi

[ ĐHP dịch ].

-----------------------------------------------------------------------------------

Nguồn: Đặc San Hiện Thực số 20/2010 năm thứ 6 , trang 89-112.

Quán Âm Buddhist Monastery. Vietnamese Buddhist Magazine.

ISBN 1176-8258 . Published in Sydney, Australia.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm