Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

 47. Bia Nghi thuc Cau an Kinh Pho Mon

 

HƯƠNG SEN PUBLISHER

Huong Sen Buddhist Temple 19865 Seaton Avenue, Perris, CA 92570, USA

Tel: 951-657-7272, Cell: 951-616-8620

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Facebook:https://www.facebook.com/huongsentemple Web: www.huongsentemple.com

TỔNG BIÊN TẬP: Thích Nữ Giới Hương Sữa chữa nội dung: Tỳ-kheo-ni Viên Tiến ISBN: 978-1-0880-8381-9

Second edition © 2023 Huong Sen Buddhist Temple

 

MỤC LỤC

Lời giới thiệu                                                 7

  1. Cúng hương 11
  2. Tán thán Đức Quan Âm 12
  3. Cầu nguyện 12
  4. Khen ngợi Phật 13
  5. Quán tưởng Phật 13
  6. Đảnh lễ 14
  7. Tán dương chi 15
  8. Chú Đại Bi 15
  9. Khai kinh kệ 17
  10. Kinh Phổ Môn 17
  11. Xưng tán Đức Quan Âm 29
  12. Mười hai nguyện lớn 29
  13. Bát Nhã Tâm Kinh 31
  14. Niệm Phật 32
  15. Sám Cầu An 33
  16. Tiêu tai cát tường thần chú 35

 

  1. Nguyện ngày đêm an lành 35
  2. Hồi hướng 36
  3. Phục nguyện 37
  4. Kính lễ bốn ân, ba cõi 38
  5. Tam quy 39
  6. Bài kệ Chư Thiên 40
  7. Mười Điều Tâm Niệm 41
  8. Nguồn tham khảo 43

Tủ Sách Bảo Anh Lạc                                 44

 

LỜI GIỚI THIỆU

Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt.

Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn 8 cuốn kinh tụng hàng ngày và sắp theo số thứ tự của Tủ sách Bảo Anh Lạc là từ số 46-53:

  1. Nghi Thức Công Phu Khuya–Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm,
  2. Nghi Thức Cầu An – Kinh Phổ Môn
  3. Nghi Thức Cầu An – Kinh Dược Sư

 

  1. Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh
  2. Nghi Thức Công Phu Chiều – Mông Sơn Thí Thực
  3. Khóa Tịnh Độ – Kinh A Di Đà
  4. Nghi Thức Cúng Linh và Cầu Siêu
  5. Nghi Lễ Hàng Ngày (tổng hợp 50 bài kinh và sám thường tụng)
  • Đây là các bài kinh mà chư Ni và Phật tử thường tu tập tụng niệm hàng ngày để nhiếp thân khẩu ý, chánh niệm tỉnh giác, sám hối tội lỗi, thâm nhập lời Phật, khai mở Phật trí.
  • Các bài kinh tụng phổ biến cảm ân đức của Chư Phật và Bồ tát, sư trưởng, cha mẹ, đất nước, đàn na tín thí để phục vụ các ngày lễ Vía Phật giáo.
  • Các nghi thức phục vụ đại đồng chúng sanh như phóng sanh, hằng thuận (đám cưới), cầu an (cầu cho bịnh nhân), cầu siêu (cầu cho người chết), cúng linh, tang lễ, an táng, hỏa táng,vv... đáp ứng nhu cầu tâm linh tôn giáo cho quần chúng.

Tài liệu biên soạn dựa vào các nghi tụng của Chùa Dược Sư – Tịnh Độ Ni Viện Hải Triều Âm (Tôn Sư Hải Triều Âm), Chùa Phật Tổ (Hòa Thượng Thích Thiện Thanh), Làng Mai (Sư Ông Nhất Hạnh) và Chùa Giác Ngộ (Thượng Tọa Thích Nhật Từ), vv...

 

Là hậu học, kiến thức và sự tu tập còn hạn hẹp, trong lúc biên soạn, sẽ có nhiều thiếu xót không thể tránh khỏi, kính mong Chư tôn thiền đức Tăng Ni và thiện hữu tri thức thương xót chỉ dạy để lần sau tái bản được hoàn chỉnh hơn. Chúng con thành kính tri ân.

Nếu có chút công đức nào, xin nguyện hồi hướng cầu siêu cho hương linh thân phụ Phạm Văn Danh (Pháp danh Chánh Đức Minh) và hương linh thân mẫu Trần Thị Sáu (Pháp danh Bổn Ẩn) cùng tất cả chúng sanh trong 10 phương thế giới sớm giải thoát giác ngộ, trở về Phật tâm vốn có.

Linh quang riêng chiếu, vượt khỏi căn trần Thể bày chân thường, chẳng kẹt văn tự Tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật. (Thiền sư Bá Trượng)

Nam Mô A Di Đà Phật.

Nắng Xuân Tân Sửu, Phật lịch 2565 (Dương lịch năm 2021)

Thành tâm kính lạy, Hậu học: Thích Nữ Giới Hương


NGHI THỨC CẦU AN

KINH PHỔ MÔN

CÚNG HƯƠNG

(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang

trán, chỉ chủ lễ niệm)

Nguyện dâng hương mầu nầy Cúng dường tất cả Phật Tôn Pháp, chư Bồ Tát Thinh Văn và Duyên Giác Cùng các bậc Thánh Hiền Duyên khởi đài sáng chói

Khắp xông mười phương cõi Tỏa ngát các chúng sanh Đều phát tâm Bồ Đề

Xa lìa các vọng nghiệp Trọn nên Đạo Vô Thượng.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (o) (1 xá)

 

TÁN THÁN ĐỨC PHẬT QUÁN THẾ ÂM

Đảnh lễ Quán Âm đại bi chủ, Nguyện lực hồng thâm tướng hảo thân,

Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì, Nghìn mắt quang minh khắp quán chiếu.

Trong lời chân thật tuyên mật ngữ, Trong tâm vô vi khởi bi tâm,

Sớm khiến mãn nguyện mọi hy cầu, Vĩnh viễn diệt trừ bao tội nghiệp. Long thiên thánh chúng đồng từ hộ, Ngàn trăm tam muội đốn huân tu, Thọ trì, thân chính quang minh tràng.

Thọ trì, tâm chính thần thông tạng. Tẩy rửa trần lao nguyện như biển, Siêu chứng Bồ- đề, phương tiện môn. Con nay xưng tụng, nguyện quy y, Tùy nguyện theo tâm ắt viên mãn.

Nam Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát. (3 lần) (o)

CẦU NGUYỆN

Hôm nay, đệ tử chúng con cung đối trước tam bảo, nguyện trì tụng Phổ Môn Kinh Chú, xưng tán Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng

 

nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia hộ …. (quý danh hay đệ tử chúng con), phiền-não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, cùng hết thảy chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. (o) (1 xá)

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh. (3 lần) (o)

KHEN NGỢI PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời, người Cha lành chung bốn loài Quy y tròn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (o) (1 xá)

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn Lưới đế châu ví đạo tràng

 

Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (o)

ĐẢNH LỄ

(Đại chúng đồng tụng)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (o) (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (o) (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (o) (1 lạy)

 

TÁN DƯƠNG CHI

(Mời ngồi xuống và khai chuông mõ) Cành dương nước tịnh nhiệm mầu Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau

Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn Cam lồ rưới khắp trần gian

Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) (o)

CHÚ ĐẠI-BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) (o)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà- la-ni.

Nam Môhắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam Môa rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam Môtất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam Môna ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát

 

bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ- đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam Môhắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam Môa rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

(3 lần) (o)

Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo.

(3 lần) (o)

 

KHAI KINH KỆ

Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu, Con nay nghe thấy chuyên trì niệm, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) (o)

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát.

(3 lần) (o)

PHẬT NÓI KINH PHÁP HOA PHẨM PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM

Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”. (o)

Phật bảo Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát! “ Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế- Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế- Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. (o)

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát nầy, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy

 

được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát nầy được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ- Tát nầy liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền bị gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi.

Nếu Quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn

 

đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc này”.

Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam mô Quán- Thế-Âm Bồ-Tát!” Vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần cao lớn như thế.

Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ Tát, liền được ly dục.

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm, liền được lìa lòng giận.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm liền được lìa ngu si.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai, phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến.

 

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế.

Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán- Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (o)

Vô-Tận-Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều”. Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. (o)

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế”.

Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?” (o)

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-

 

Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm- vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng- quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư sĩ được độ thoát,

 

liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói Pháp.

Người đáng dùng thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng- giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng- nữ mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán- Thế-Âm Bồ-Tát.

 

Quán-Thế-Âm đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà nầy đều gọi Ngài là vị Thí-vô-úy”.

Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ Tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho Ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng:” Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí nầy”. (o)

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế- Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc nầy”.

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ Tát: “ Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nầy và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn- thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma- hầu-la-già, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó. (o)

Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà.

Lúc đó Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật

 

rằng: (o)

Thế-Tôn đủ tướng tốt! Con nay lại hỏi kia Phật tử nhân duyên gì? Tên là Quán-Thế-Âm? Đấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô-Tận-Ý:

Ông nghe hạnh Quán-Âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều nghìn đức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân Tâm niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các cõi. (o) Giả sử sanh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán-Âm Hầm lửa biến thành ao. Hoặc trôi dạt biển lớn Các nạn quỉ, cá, rồng

 

Do sức niệm Quán-Âm

Sóng mòi chẳng chìm được. (o)

Hoặc ở chót Tu di

Bị người xô rớt xuống Do sức niệm Quán-Âm

Như mặt nhật treo không Hoặc bị người dữ rượt Rớt xuống núi Kim-Cang Do sức niệm Quán-Âm Chẳng tổn đến mảy lông. Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán-Âm Đều liền sanh lòng lành. Hoặc bị khổ nạn Vua Khi hành hình sắp chết Do sức niệm Quán-Âm

Dao liền gãy từng đoạn. (o) Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quán-Âm Tháo rã được giải thoát Nguyền rủa, các thuốc độc

 

Muốn hại đến thân đó Do sức niệm Quán-Âm Trở hại nơi bổn nhân. (o) Hoặc gặp La-sát-dữ Rồng độc các loài quỉ

Do sức niệm Quán-Âm Liền đều không dám hại. Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quán-Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng. Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán-Âm Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá, xối mưa lớn Do sức niệm Quán-Âm Liền được tiêu tan cả. Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán-Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian

 

Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện Các cõi nước mười phương Không cõi nào chẳng hiện. Các loài trong đường dữ:

Địa-ngục, quỉ, súc-sanh, Sanh, già, bệnh, chết khổ Lần đều khiến dứt hết.

Chơn-quán thanh-tịnh-quán Trí-huệ-quán rộng lớn

Bi-quán và từ-quán,

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhật phá các tối Hay phục tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian. Lòng bi răn như sấm Ý tứ diệu dường mây Xối mưa pháp cam lồ Dứt trừ lửa phiền não Cãi kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt Do sức niệm Quán-Âm

 

Cừu oán đều lui tan. Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm Phạm-Âm, Hải-Triều-Âm Tiếng hơn thế gian kia,

Cho nên thường phải niệm. Niệm niệm chớ sanh nghi Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy. Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh Biển phước lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ.

Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế- Âm Bồ Tát Đạo-Nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị- Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”. (o)

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn nầy, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô thượng chánh-đẳng chánh-giác. (o)

 

PHẬT NÓI KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM PHỔ MÔN

CHƠN NGÔN VIẾT

Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

Án, ma ni bát di hồng. (7 lần)

XƯNG TÁN ĐỨC QUÁN ÂM

Phổ Môn thị hiện Cứu khổ nhân sinh, Thuyền từ lướt sóng, Bốn biển điêu linh

Trùng dương vọng tiếng hồn kinh,

Quán Âm ứng hiện, chúng sinh thoát nàn. Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát Ma Ha

Tát. (3 lần) (o)

MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN

  1. Nam Mô hiệu Viên-Thông, danh Tự Tại, Quan-Âm Như Lai quảng-phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)

 

  1. Nam nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quan- Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. (1 lạy)
  2. Nam Mô trú Ta-Bà U-Minh giới Quan Âm Như-Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện. (1 lạy)
  3. Nam Mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như-Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy)
  4. Nam Môt hanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)
  5. Nam Mô Đại-Từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)
  6. Nam Mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như-Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (1 lạy)
  7. Nam Mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như-Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy)
  8. Nam tạo pháp-thuyền du khổ hải, Quan Âm Như-Lai độ tận chúng sanh nguyện. (1 lạy)
  9. Nam Mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy)
  10. Nam Mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như-Lai Di Đà thọ ký nguyện. (1 lạy)
  11. Nam đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như-Lai quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

 

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

“Này Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.

“Này Xá Lợi Phất, ‘tướng không của mọi pháp’ không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong ‘chân không’, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần

 

Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thuợng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.

Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế,

bồ đề tát bà ha”. (3 lần) (o)

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN

Nam-mô a di đa bà dạ Ða tha dà đa dạ

Ða địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ

A di rị đa tất đam bà tỳ A di rị đa tì ca lan đế

A di rị đa, tì ca lan đa Dà di nị dà dà na

Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (o)

NIỆM PHẬT

A Di Ðà Phật thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

 

Trong hào quang hóa vô số Phật Vô số Bồ tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh Chín phẩm sen vàng lên giải thoát Quy mạng lễ A Di Ðà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh Cúi xin Ðức Từ Bi tiếp độ.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (3 lần) (o)

Nam-mô Đại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Địa-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Thanh-tịnh Đại-Hải chúng Bồ-tát.

(3 lần) (ooo)

SÁM CẦU AN

Con quỳ lạy Phật chứng minh

Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền Cầu cho tín chủ hiện tiền

Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa. Thọ trường hưởng phước nhàn ca

 

Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi Quán Âm phò hộ vui chơi

Mười hai câu niệm độ đời nên danh. Thiện nam tín nữ lòng thành

Ăn chay niệm Phật làm lành vái van Quán Âm xem xét thế gian

Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm (o)

Mau mau niệm Phật Quán Âm

Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa Đương cơn lửa cháy đốt ta

Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng Gió đông đi biển chìm thuyền

Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền. Tà ma quỉ báo khùng điên

Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan. Vào rừng cọp rắn nghinh ngang

Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa. Tội tù ngục tối khảo tra

Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng. Bị trù bị ếm mê man

Quán Âm niệm niệm vái van tịnh bình Quán Âm thọ ký làm tin

 

Tùy duyên thuyết Pháp độ mình hết mê. Nương theo Bồ Tát trở về

Thấy mình ngồi gốc Bồ Đề giống in Tay cầm bầu nước tịnh bình

Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng Cam lồ rưới khắp thế gian

Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn Quán Âm cứu hết tai nàn

Độ đời an lạc mười phương thái bình Quán Âm Bồ Tát chứng minh độ                                                       đời. (o)

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)

NGUYỆN AN LÀNH

Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

 

Xin đấng Từ Bi thường gia hộ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Hộ Pháp thường ủng hộ.

 

HỒI HƯỚNG

Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu Tất cả chúng sanh trong pháp giới Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sang ngời Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than. Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

 

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta. (o)

PHỤC NGUYỆN

Nam Mô Nhĩ Căn Viên Thông Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh.

Nam Mô thị hiện ba mươi hai ứng thân, mười bốn công đức vô úy, bốn vô tác điệu đức, thuyết pháp độ sanh, lâm nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quan Âm Thế Âm Bồ Tát.

Nam Mô Tam bảo chứng minh, oai thần hộ niệm, hôm nay chúng con là… (Tỳ Kheo Ni…., Sadini…) cùng với các Phật tử chùa Hương Sen, Perris, California, một dạ chí thành vân tập tại đại hùng bảo điện Hương Sen phúng tụng kinh Phẩm Phổ Môn, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, xưng tán hồng danh cùng niệm Phật kinh hành công đức.

Nguyện đem công đức này cầu cho Phật sự phát triển chùa Hương Sen, Perris, Califronia, thành chốn tùng lâm nghiêm tu, ngày một thành tựu, được sự ủng hộ gia trì của đàn việt tín tâm, chư thiên hộ pháp, bồ tát và mười phương chư Phật, để Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, mưa thuận gió hòa, quốc thới dân an.

Nguyện đem công đức này cầu an cho Phật tử… (tên, pháp danh, tuổi) cùng với các vị gia chủ

 

và các Phật tử hiện diện tại đây: tai qua nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ, nghiệp chướng tiêu tan, gia đạo bình an, thân tâm thường an lạc, quanh năm đều được vạn sự cát tường như ý. Nguyện cho các vị tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Lại nguyện đem công đức này cầu siêu cho hương linh… (tên, pháp danh, hưởng thọ) cùng cửu huyền thất tổ, nội ngoại hai bên, phụ mẫu quá vãng nhiều đời, nhiều kiếp của chúng con và tất cả các hương linh ký tự tại Chùa Hương Sen, anh hùng chiến sĩ, vì nước hy sinh, đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn, chết sông, chết chợ, đầu đường, xó chợ, nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng tịnh độ, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân hiện Di Đà thọ ký.

Sau cùng, nguyện chúng con cùng tất cả chúng sanh đều sớm trọn thành Phật đạo.

Đại chúng đồng niệm: Nam A Di Đà Phật. (o)

KÍNH LỄ

(Đại chúng đứng lên)

Bao nhiêu tất cả nhân sư tử Mười phương ba đời cùng các cõi Con đem thân miệng ý thanh tịnh

 

Lạy khắp tất cả không còn dư. (o)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Vị Lai Tinh Tú Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

TAM QUY

Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng. (o) (1 lạy)

Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (o) (1 lạy)

Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại. (ooo) (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (ooo)

BÀI KỆ CHƯ THIÊN

Trời, A-tu-la, Dạ xoa thảy Đến nghe pháp đó nên chí tâm

Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.

Bao nhiêu người nghe đến chốn này Hoặc trên đất liền hoặc hư không Thường với người đời sanh lòng từ Ngày đêm tự mình nương pháp ở. Nguyện các thế giới thường an ổn Phước trí vô biên lợi quần sanh Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ Xa lìa các khổ về viên tịch.

Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng Thường trì định phục để giúp thân Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm Tùy theo chỗ ở thường an lạc. (o)

 

Nam mô Tam Châu Cảm Ứng

Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lần) (o)

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

  1. Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
  2. Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nỗi dậy.
  3. Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
  4. Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
  5. Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.
  6. Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
  7. Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
  8. Thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.
  9. Thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào

 

thì si mê phải động.

  1. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

Bởi vậy, Phật dạy lấy bịnh khổ làm thuốc thần, lấy hoạn nạn làm giải thoát, lấy khúc mắc làm thú vị, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm thích thú, lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy người chống đối làm nơi giao du, coi thi ân như đôi dép bỏ, lấy sự xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh. Nên chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà cầu mong thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong mọi sự trở ngại. Ương Quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi, và sự phá hoại lại làm sự tác thành, hay sao?

Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại ập đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào?

(Luận Bảo Vương Tam Muội)

 

NGUỒN THAM KHẢO

Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, Hòa thượng Thích Thiện Thanh soạn và dịch. Pl 2557. Chùa Phật Tổ California.

Kinh Tụng của Chùa Dược Sư do sư bà Hải Triều Âm biên soạn. https://chuaduocsu.org/kinh-sach/

Tổng hợp nhiều nguồn trên Google online.

 

TỦ SÁCH BẢO ANH LẠC

do Ni Sư Tiến Sĩ TN Giới Hương biên soạn

  1. SÁCH TIẾNG VIỆT
  1. Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa (Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions).
  2. Ban Mai Xứ Ấn (The Dawn in India), (3 tập).
  3. Vườn Nai – Chiếc Nôi (Phật Giáo Deer Park–The Cradle of Buddhism).
  4. Quy Y Tam Bảo và Năm Giới (Take Refuge in Three Gems and Keep the Five Precepts).
  5. Vòng Luân Hồi (The Cycle of Life).
  6. Hoa Tuyết Milwaukee (Snowflake in Milwaukee).
  7. Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm (The Rebirth

in Śūrangama Sūtra).

  1. Nghi Thức Hộ Niệm, Cầu Siêu (The Ritual for the Deceased).
  2. Quan Âm    Quảng   Trần   (The    Commentary   of Avalokiteśvara Bodhisattva).
  3. Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ (A Nun and American Inmates).
  4. Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV

(The Awakened Mind of the 14th Dalai Lama).

  1. A-Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não (Agama – A Dharma Rain transforms the Defilement), 2 tập.
  2. Góp Từng Hạt Nắng Perris (Collection of Sunlight in

 

Perris).

  1. Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang (The Key Words of Vajracchedikā-Prajñāpāramitā-Sūtra).
  2. Tập Thơ Nhạc Nắng Lăng Nghiêm (Songs and Poems of Śūraṅgama Sunlight).
  3. Nét Bút Bên Song Cửa (Reflections at the Temple Window).
  4. Máy Nghe MP3 Hương Sen (Hương Sen Digital Mp3 Radio Speaker): Các Bài Giảng, Sách, Bài viết và Thơ Nhạc của Thích Nữ Giới Hương (383/201 bài).
  5. DVD Giới Thiệu   về   Chùa   Hương   Sen,   USA

(Introduction on Huong Sen Temple).

  1. Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States).
  2. Tuyển Tập 40 Năm Tu Học & Hoằng Pháp của Ni sư Giới Hương (Forty Years in the Dharma: A Life of Study and Service—Venerable Bhikkhuni Giới Hương), Thích Nữ Viên Quang, TN Viên Nhuận, TN Viên Tiến, and TN Viên Khuông.
  3. Tập Thơ Nhạc Lối Về Sen Nở (Songs and Poems of Lotus Blooming on the Way).
  4. Nghi Thức Công Phu Khuya – Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Mantra).
  5. Nghi Thức Cầu An – Kinh Phổ Môn (The Universal Door Sūtra).
  6. Nghi Thức Cầu An – Kinh Dược Sư (The Medicine Buddha Sūtra).

 

  1. Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh (The Sūtra of Confession at many Buddha Titles).
  2. Nghi Thức Công Phu Chiều – Mông Sơn Thí Thực

(The Ritual Donating Food to Hungry Ghosts).

  1. Khóa Tịnh Độ Kinh A Di Đà (The Amitabha Buddha Sūtra).
  2. Nghi Thức Cúng Linh và Cầu Siêu (The Rite for Deceased and Funeral Home).
  3. Nghi Lễ Hàng Ngày - 50 Kinh Tụng và các Lễ Vía trong Năm (The Daily Chanting Rituals and Annual Ceremonies).
  4. Hương Đạo Trong Đời 2022 (Tuyển tập 60 Bài Thi trong Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 - A Collection of Writings on the Practicing of Buddhism in Daily Life in the Writing Contest 2022).
  5. Hương Pháp 2022 (Tuyển Tập Các Bài Thi Trúng Giải Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 - A Collection of the Winning Writings on the Practicing of Buddhism in Daily Life in the Writing Contest 2022).
  6. Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn, Nguyên Hà.
  7. Pháp Ngữ Kinh Hoa Nghiêm (2 tập). Thích Nữ Giới Hương.
  8. Tinh Hoa Kinh Hoa Nghiêm. Thích Nữ Giới Hương. NXB Hương
  9. Phật Giáo và Đại Dịch Coronavirus Covid-19. Thích

Nữ Giới Hương.

  1. Phật Giáo – Tầm Nhìn Lịch Sử Và Thực Hành. Hiệu đính: Thích Hạnh Chánh và Thích Nữ Giới Hương.

 

  1. SÁCH TIẾNG ANH
  1. Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed

Buddhist Traditions.

  1. Rebirth Views in the Śūraṅgama Sūtra.
  2. Commentary of Avalokiteśvara
  3. The Key Words in Vajracchedikā Sūtra.
  4. Sārnātha-The Cradle of Buddhism in the Archeological
  5. Take Refuge in the Three Gems and Keep the Five
  6. Cycle of Life.
  7. Forty Years in the Dharma: A Life of Study and Service—Venerable Bhikkhuni Giới Hương.
  8. Sharing the Dharma -Vietnamese Buddhist Nuns in the United States.
  9. A Vietnamese Buddhist Nun and American
  10. Daily Monastic
  11. Weekly Buddhist Discourse
  12. Practice Meditation and Pure Land.
  13. The Ceremony for
  14. The Lunch Offering
  15. The Ritual Offering Food to Hungry Ghosts.
  16. The Pureland Course of Amitabha
  17. The Medicine Buddha Sutra.
  18. The New Year
  19. The Great Parinirvana

 

  1. The Buddha’s Birthday
  2. The Ullambana Festival (Parents’ Day).
  3. The Marriage
  4. The Blessing Ceremony for The Deceased.
  5. The Ceremony Praising Ancestral
  6. The Enlightened Buddha
  7. The Uposatha Ceremony (Reciting Precepts)
  8. Buddhism: A Historical and Practical Edited by Ven. Dr. Thich Hanh Chanh and Ven. Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  9. Contribution of Buddhism For World Peace & Social Harmony. Edited by Dr. Buddha Priya Mahathero and Ven. Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  10. Global Spread of Buddhism with Special Reference to Sri Lanka. Buddhist Studies Seminar in Kandy Edited by Dr. Ven. Kahawatte Siri Sumedha Thero and Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  11. Buddhism In Sri Lanka During The Period of 19th to 21st Centuries. Buddhist Studies Seminar in Edited by Prof. Ven. Medagama Nandawansa and Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  1. SÁCH SONG NGỮ (VIETNAMESE-ENGLISH)
  1. Bản Tin Hương Sen: Xuân, Phật Đản, Vu Lan (Hương Sen Newsletter: Spring, Buddha Birthday and Vu Lan, annual/ Mỗi Năm).
  2. Danh Ngôn Nuôi Dưỡng Nhân Cách - Good Sentences Nurture a Good

 

  1. Văn Hóa Đặc Sắc của Nước Nhật Bản-Exploring the Unique Culture of Japan.
  2. Sống An Lạc dù Đời không Đẹp như Mơ - Live Peacefully though Life is not Beautiful as a Dream.
  3. Hãy Nói Lời Yêu Thương-Words of Love and
  4. Văn Hóa Cổ Kim qua Hành Hương Chiêm Bái -The

Ancient- Present Culture in Pilgrim.

  1. Nghệ Thuật Biết Sống - Art of

 

  1. SÁCH CHUYỂN NGỮ
  1. Xá Lợi Của Đức Phật (Relics of the Buddha), Tham Weng
  2. Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù (Lotus in Prison), many
  3. Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples).
  4. Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam).
  5. Hương Sen, Thơ Nhạc - (Lotus Fragrance, Poem and Music).
  6. Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống (Buddhism: One Teacher – Many Traditions), Đức Đạt Lai Lạt Ma 14th & Ni Sư Thubten
  7. Cách Chuẩn Bị Chết và Giúp Người Sắp Chết-Quan Điểm Phật Giáo (Preparing for Death and Helping the Dying – A Buddhist Perspective).

 

ALBUMS NHẠC

Từ Thơ Thích Nữ Giới Hương

  1. Đào Xuân Lộng Ý Kinh (The Buddha’s Teachings Reflected in Cherry Flowers).
  2. Niềm Tin Tam Bảo (Trust in the Three Gems).
  3. Trăng Tròn Nghìn Năm Đón Chờ Ai (Who Is the Full Moon Waiting for for Over a Thousand Years?).
  4. Ánh Trăng Phật Pháp (Moonlight of Dharma-Buddha).
  5. Bình Minh Tỉnh Thức (Awakened Mind at the Dawn) (Piano Variations for Meditation).
  6. Tiếng Hát Già Lam (Song from Temple).
  7. Cảnh Đẹp Chùa Xưa (The Magnificent, Ancient Buddhist Temple).
  8. Karaoke Hoa Ưu Đàm Đã Nở (An Udumbara Flower Is Blooming).
  9. Hương Sen Ca (Hương Sen’s Songs).
  10. Về Chùa Vui Tu (Happily Go to Temple for Spiritual Practices).
  11. Gọi Nắng Xuân Về (Call the Spring Sunlight).
  12. Đệ Tử Phật (The Buddha’s Disciples).

Mời xem đầy đủ Tủ sách Bảo Anh Lạc ở website:

http://huongsentemple.com/index.php/en/about-us/b-o- anh-l-c-bookshelf

 

 
  C:\Users\HUONGS~1\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1<body id=
Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

 47. Bia Nghi thuc Cau an Kinh Pho Mon

 

HƯƠNG SEN PUBLISHER

Huong Sen Buddhist Temple 19865 Seaton Avenue, Perris, CA 92570, USA

Tel: 951-657-7272, Cell: 951-616-8620

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Facebook:https://www.facebook.com/huongsentemple Web: www.huongsentemple.com

TỔNG BIÊN TẬP: Thích Nữ Giới Hương Sữa chữa nội dung: Tỳ-kheo-ni Viên Tiến ISBN: 978-1-0880-8381-9

Second edition © 2023 Huong Sen Buddhist Temple

 

MỤC LỤC

Lời giới thiệu                                                 7

  1. Cúng hương 11
  2. Tán thán Đức Quan Âm 12
  3. Cầu nguyện 12
  4. Khen ngợi Phật 13
  5. Quán tưởng Phật 13
  6. Đảnh lễ 14
  7. Tán dương chi 15
  8. Chú Đại Bi 15
  9. Khai kinh kệ 17
  10. Kinh Phổ Môn 17
  11. Xưng tán Đức Quan Âm 29
  12. Mười hai nguyện lớn 29
  13. Bát Nhã Tâm Kinh 31
  14. Niệm Phật 32
  15. Sám Cầu An 33
  16. Tiêu tai cát tường thần chú 35

 

  1. Nguyện ngày đêm an lành 35
  2. Hồi hướng 36
  3. Phục nguyện 37
  4. Kính lễ bốn ân, ba cõi 38
  5. Tam quy 39
  6. Bài kệ Chư Thiên 40
  7. Mười Điều Tâm Niệm 41
  8. Nguồn tham khảo 43

Tủ Sách Bảo Anh Lạc                                 44

 

LỜI GIỚI THIỆU

Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt.

Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn 8 cuốn kinh tụng hàng ngày và sắp theo số thứ tự của Tủ sách Bảo Anh Lạc là từ số 46-53:

  1. Nghi Thức Công Phu Khuya–Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm,
  2. Nghi Thức Cầu An – Kinh Phổ Môn
  3. Nghi Thức Cầu An – Kinh Dược Sư

 

  1. Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh
  2. Nghi Thức Công Phu Chiều – Mông Sơn Thí Thực
  3. Khóa Tịnh Độ – Kinh A Di Đà
  4. Nghi Thức Cúng Linh và Cầu Siêu
  5. Nghi Lễ Hàng Ngày (tổng hợp 50 bài kinh và sám thường tụng)
  • Đây là các bài kinh mà chư Ni và Phật tử thường tu tập tụng niệm hàng ngày để nhiếp thân khẩu ý, chánh niệm tỉnh giác, sám hối tội lỗi, thâm nhập lời Phật, khai mở Phật trí.
  • Các bài kinh tụng phổ biến cảm ân đức của Chư Phật và Bồ tát, sư trưởng, cha mẹ, đất nước, đàn na tín thí để phục vụ các ngày lễ Vía Phật giáo.
  • Các nghi thức phục vụ đại đồng chúng sanh như phóng sanh, hằng thuận (đám cưới), cầu an (cầu cho bịnh nhân), cầu siêu (cầu cho người chết), cúng linh, tang lễ, an táng, hỏa táng,vv... đáp ứng nhu cầu tâm linh tôn giáo cho quần chúng.

Tài liệu biên soạn dựa vào các nghi tụng của Chùa Dược Sư – Tịnh Độ Ni Viện Hải Triều Âm (Tôn Sư Hải Triều Âm), Chùa Phật Tổ (Hòa Thượng Thích Thiện Thanh), Làng Mai (Sư Ông Nhất Hạnh) và Chùa Giác Ngộ (Thượng Tọa Thích Nhật Từ), vv...

 

Là hậu học, kiến thức và sự tu tập còn hạn hẹp, trong lúc biên soạn, sẽ có nhiều thiếu xót không thể tránh khỏi, kính mong Chư tôn thiền đức Tăng Ni và thiện hữu tri thức thương xót chỉ dạy để lần sau tái bản được hoàn chỉnh hơn. Chúng con thành kính tri ân.

Nếu có chút công đức nào, xin nguyện hồi hướng cầu siêu cho hương linh thân phụ Phạm Văn Danh (Pháp danh Chánh Đức Minh) và hương linh thân mẫu Trần Thị Sáu (Pháp danh Bổn Ẩn) cùng tất cả chúng sanh trong 10 phương thế giới sớm giải thoát giác ngộ, trở về Phật tâm vốn có.

Linh quang riêng chiếu, vượt khỏi căn trần Thể bày chân thường, chẳng kẹt văn tự Tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật. (Thiền sư Bá Trượng)

Nam Mô A Di Đà Phật.

Nắng Xuân Tân Sửu, Phật lịch 2565 (Dương lịch năm 2021)

Thành tâm kính lạy, Hậu học: Thích Nữ Giới Hương


NGHI THỨC CẦU AN

KINH PHỔ MÔN

CÚNG HƯƠNG

(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang

trán, chỉ chủ lễ niệm)

Nguyện dâng hương mầu nầy Cúng dường tất cả Phật Tôn Pháp, chư Bồ Tát Thinh Văn và Duyên Giác Cùng các bậc Thánh Hiền Duyên khởi đài sáng chói

Khắp xông mười phương cõi Tỏa ngát các chúng sanh Đều phát tâm Bồ Đề

Xa lìa các vọng nghiệp Trọn nên Đạo Vô Thượng.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (o) (1 xá)

 

TÁN THÁN ĐỨC PHẬT QUÁN THẾ ÂM

Đảnh lễ Quán Âm đại bi chủ, Nguyện lực hồng thâm tướng hảo thân,

Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì, Nghìn mắt quang minh khắp quán chiếu.

Trong lời chân thật tuyên mật ngữ, Trong tâm vô vi khởi bi tâm,

Sớm khiến mãn nguyện mọi hy cầu, Vĩnh viễn diệt trừ bao tội nghiệp. Long thiên thánh chúng đồng từ hộ, Ngàn trăm tam muội đốn huân tu, Thọ trì, thân chính quang minh tràng.

Thọ trì, tâm chính thần thông tạng. Tẩy rửa trần lao nguyện như biển, Siêu chứng Bồ- đề, phương tiện môn. Con nay xưng tụng, nguyện quy y, Tùy nguyện theo tâm ắt viên mãn.

Nam Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát. (3 lần) (o)

CẦU NGUYỆN

Hôm nay, đệ tử chúng con cung đối trước tam bảo, nguyện trì tụng Phổ Môn Kinh Chú, xưng tán Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng

 

nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia hộ …. (quý danh hay đệ tử chúng con), phiền-não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, cùng hết thảy chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. (o) (1 xá)

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh. (3 lần) (o)

KHEN NGỢI PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời, người Cha lành chung bốn loài Quy y tròn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (o) (1 xá)

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn Lưới đế châu ví đạo tràng

 

Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (o)

ĐẢNH LỄ

(Đại chúng đồng tụng)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (o) (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (o) (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (o) (1 lạy)

 

TÁN DƯƠNG CHI

(Mời ngồi xuống và khai chuông mõ) Cành dương nước tịnh nhiệm mầu Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau

Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn Cam lồ rưới khắp trần gian

Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) (o)

CHÚ ĐẠI-BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) (o)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà- la-ni.

Nam Môhắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam Môa rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam Môtất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam Môna ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát

 

bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ- đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam Môhắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam Môa rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

(3 lần) (o)

Nam mô Thập phương Thường trú Tam Bảo.

(3 lần) (o)

 

KHAI KINH KỆ

Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu, Con nay nghe thấy chuyên trì niệm, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) (o)

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát.

(3 lần) (o)

PHẬT NÓI KINH PHÁP HOA PHẨM PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM

Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”. (o)

Phật bảo Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát! “ Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế- Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế- Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. (o)

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát nầy, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy

 

được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát nầy được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ- Tát nầy liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền bị gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi.

Nếu Quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn

 

đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc này”.

Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam mô Quán- Thế-Âm Bồ-Tát!” Vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần cao lớn như thế.

Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ Tát, liền được ly dục.

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm, liền được lìa lòng giận.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm liền được lìa ngu si.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai, phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến.

 

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế.

Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán- Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (o)

Vô-Tận-Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều”. Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. (o)

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế”.

Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?” (o)

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-

 

Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm- vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng- quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư sĩ được độ thoát,

 

liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói Pháp.

Người đáng dùng thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng- giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng- nữ mà vì đó nói pháp. (o)

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán- Thế-Âm Bồ-Tát.

 

Quán-Thế-Âm đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà nầy đều gọi Ngài là vị Thí-vô-úy”.

Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ Tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho Ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng:” Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí nầy”. (o)

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế- Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc nầy”.

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ Tát: “ Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nầy và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn- thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma- hầu-la-già, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó. (o)

Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà.

Lúc đó Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật

 

rằng: (o)

Thế-Tôn đủ tướng tốt! Con nay lại hỏi kia Phật tử nhân duyên gì? Tên là Quán-Thế-Âm? Đấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô-Tận-Ý:

Ông nghe hạnh Quán-Âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều nghìn đức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân Tâm niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các cõi. (o) Giả sử sanh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán-Âm Hầm lửa biến thành ao. Hoặc trôi dạt biển lớn Các nạn quỉ, cá, rồng

 

Do sức niệm Quán-Âm

Sóng mòi chẳng chìm được. (o)

Hoặc ở chót Tu di

Bị người xô rớt xuống Do sức niệm Quán-Âm

Như mặt nhật treo không Hoặc bị người dữ rượt Rớt xuống núi Kim-Cang Do sức niệm Quán-Âm Chẳng tổn đến mảy lông. Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán-Âm Đều liền sanh lòng lành. Hoặc bị khổ nạn Vua Khi hành hình sắp chết Do sức niệm Quán-Âm

Dao liền gãy từng đoạn. (o) Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quán-Âm Tháo rã được giải thoát Nguyền rủa, các thuốc độc

 

Muốn hại đến thân đó Do sức niệm Quán-Âm Trở hại nơi bổn nhân. (o) Hoặc gặp La-sát-dữ Rồng độc các loài quỉ

Do sức niệm Quán-Âm Liền đều không dám hại. Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quán-Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng. Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán-Âm Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá, xối mưa lớn Do sức niệm Quán-Âm Liền được tiêu tan cả. Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán-Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian

 

Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện Các cõi nước mười phương Không cõi nào chẳng hiện. Các loài trong đường dữ:

Địa-ngục, quỉ, súc-sanh, Sanh, già, bệnh, chết khổ Lần đều khiến dứt hết.

Chơn-quán thanh-tịnh-quán Trí-huệ-quán rộng lớn

Bi-quán và từ-quán,

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhật phá các tối Hay phục tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian. Lòng bi răn như sấm Ý tứ diệu dường mây Xối mưa pháp cam lồ Dứt trừ lửa phiền não Cãi kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt Do sức niệm Quán-Âm

 

Cừu oán đều lui tan. Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm Phạm-Âm, Hải-Triều-Âm Tiếng hơn thế gian kia,

Cho nên thường phải niệm. Niệm niệm chớ sanh nghi Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy. Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh Biển phước lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ.

Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế- Âm Bồ Tát Đạo-Nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị- Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”. (o)

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn nầy, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô thượng chánh-đẳng chánh-giác. (o)

 

PHẬT NÓI KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM PHỔ MÔN

CHƠN NGÔN VIẾT

Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

Án, ma ni bát di hồng. (7 lần)

XƯNG TÁN ĐỨC QUÁN ÂM

Phổ Môn thị hiện Cứu khổ nhân sinh, Thuyền từ lướt sóng, Bốn biển điêu linh

Trùng dương vọng tiếng hồn kinh,

Quán Âm ứng hiện, chúng sinh thoát nàn. Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát Ma Ha

Tát. (3 lần) (o)

MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN

  1. Nam Mô hiệu Viên-Thông, danh Tự Tại, Quan-Âm Như Lai quảng-phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)

 

  1. Nam nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quan- Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. (1 lạy)
  2. Nam Mô trú Ta-Bà U-Minh giới Quan Âm Như-Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện. (1 lạy)
  3. Nam Mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như-Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy)
  4. Nam Môt hanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)
  5. Nam Mô Đại-Từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)
  6. Nam Mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như-Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (1 lạy)
  7. Nam Mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như-Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy)
  8. Nam tạo pháp-thuyền du khổ hải, Quan Âm Như-Lai độ tận chúng sanh nguyện. (1 lạy)
  9. Nam Mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy)
  10. Nam Mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như-Lai Di Đà thọ ký nguyện. (1 lạy)
  11. Nam đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như-Lai quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

 

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

“Này Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.

“Này Xá Lợi Phất, ‘tướng không của mọi pháp’ không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong ‘chân không’, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần

 

Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thuợng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.

Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế,

bồ đề tát bà ha”. (3 lần) (o)

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN

Nam-mô a di đa bà dạ Ða tha dà đa dạ

Ða địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ

A di rị đa tất đam bà tỳ A di rị đa tì ca lan đế

A di rị đa, tì ca lan đa Dà di nị dà dà na

Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (o)

NIỆM PHẬT

A Di Ðà Phật thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

 

Trong hào quang hóa vô số Phật Vô số Bồ tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh Chín phẩm sen vàng lên giải thoát Quy mạng lễ A Di Ðà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh Cúi xin Ðức Từ Bi tiếp độ.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (3 lần) (o)

Nam-mô Đại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Địa-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần) (o)

Nam-mô Thanh-tịnh Đại-Hải chúng Bồ-tát.

(3 lần) (ooo)

SÁM CẦU AN

Con quỳ lạy Phật chứng minh

Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền Cầu cho tín chủ hiện tiền

Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa. Thọ trường hưởng phước nhàn ca

 

Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi Quán Âm phò hộ vui chơi

Mười hai câu niệm độ đời nên danh. Thiện nam tín nữ lòng thành

Ăn chay niệm Phật làm lành vái van Quán Âm xem xét thế gian

Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm (o)

Mau mau niệm Phật Quán Âm

Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa Đương cơn lửa cháy đốt ta

Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng Gió đông đi biển chìm thuyền

Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền. Tà ma quỉ báo khùng điên

Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan. Vào rừng cọp rắn nghinh ngang

Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa. Tội tù ngục tối khảo tra

Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng. Bị trù bị ếm mê man

Quán Âm niệm niệm vái van tịnh bình Quán Âm thọ ký làm tin

 

Tùy duyên thuyết Pháp độ mình hết mê. Nương theo Bồ Tát trở về

Thấy mình ngồi gốc Bồ Đề giống in Tay cầm bầu nước tịnh bình

Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng Cam lồ rưới khắp thế gian

Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn Quán Âm cứu hết tai nàn

Độ đời an lạc mười phương thái bình Quán Âm Bồ Tát chứng minh độ                                                       đời. (o)

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)

NGUYỆN AN LÀNH

Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

 

Xin đấng Từ Bi thường gia hộ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Hộ Pháp thường ủng hộ.

 

HỒI HƯỚNG

Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu Tất cả chúng sanh trong pháp giới Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sang ngời Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than. Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

 

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta. (o)

PHỤC NGUYỆN

Nam Mô Nhĩ Căn Viên Thông Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh.

Nam Mô thị hiện ba mươi hai ứng thân, mười bốn công đức vô úy, bốn vô tác điệu đức, thuyết pháp độ sanh, lâm nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quan Âm Thế Âm Bồ Tát.

Nam Mô Tam bảo chứng minh, oai thần hộ niệm, hôm nay chúng con là… (Tỳ Kheo Ni…., Sadini…) cùng với các Phật tử chùa Hương Sen, Perris, California, một dạ chí thành vân tập tại đại hùng bảo điện Hương Sen phúng tụng kinh Phẩm Phổ Môn, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, xưng tán hồng danh cùng niệm Phật kinh hành công đức.

Nguyện đem công đức này cầu cho Phật sự phát triển chùa Hương Sen, Perris, Califronia, thành chốn tùng lâm nghiêm tu, ngày một thành tựu, được sự ủng hộ gia trì của đàn việt tín tâm, chư thiên hộ pháp, bồ tát và mười phương chư Phật, để Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, mưa thuận gió hòa, quốc thới dân an.

Nguyện đem công đức này cầu an cho Phật tử… (tên, pháp danh, tuổi) cùng với các vị gia chủ

 

và các Phật tử hiện diện tại đây: tai qua nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ, nghiệp chướng tiêu tan, gia đạo bình an, thân tâm thường an lạc, quanh năm đều được vạn sự cát tường như ý. Nguyện cho các vị tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Lại nguyện đem công đức này cầu siêu cho hương linh… (tên, pháp danh, hưởng thọ) cùng cửu huyền thất tổ, nội ngoại hai bên, phụ mẫu quá vãng nhiều đời, nhiều kiếp của chúng con và tất cả các hương linh ký tự tại Chùa Hương Sen, anh hùng chiến sĩ, vì nước hy sinh, đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn, chết sông, chết chợ, đầu đường, xó chợ, nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng tịnh độ, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân hiện Di Đà thọ ký.

Sau cùng, nguyện chúng con cùng tất cả chúng sanh đều sớm trọn thành Phật đạo.

Đại chúng đồng niệm: Nam A Di Đà Phật. (o)

KÍNH LỄ

(Đại chúng đứng lên)

Bao nhiêu tất cả nhân sư tử Mười phương ba đời cùng các cõi Con đem thân miệng ý thanh tịnh

 

Lạy khắp tất cả không còn dư. (o)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:

Nam Mô Vị Lai Tinh Tú Kiếp Thiên Phật. (o) (1 lạy)

TAM QUY

Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng. (o) (1 lạy)

Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (o) (1 lạy)

Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại. (ooo) (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (ooo)

BÀI KỆ CHƯ THIÊN

Trời, A-tu-la, Dạ xoa thảy Đến nghe pháp đó nên chí tâm

Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.

Bao nhiêu người nghe đến chốn này Hoặc trên đất liền hoặc hư không Thường với người đời sanh lòng từ Ngày đêm tự mình nương pháp ở. Nguyện các thế giới thường an ổn Phước trí vô biên lợi quần sanh Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ Xa lìa các khổ về viên tịch.

Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng Thường trì định phục để giúp thân Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm Tùy theo chỗ ở thường an lạc. (o)

 

Nam mô Tam Châu Cảm Ứng

Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lần) (o)

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

  1. Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
  2. Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nỗi dậy.
  3. Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
  4. Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
  5. Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.
  6. Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
  7. Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
  8. Thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.
  9. Thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào

 

thì si mê phải động.

  1. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

Bởi vậy, Phật dạy lấy bịnh khổ làm thuốc thần, lấy hoạn nạn làm giải thoát, lấy khúc mắc làm thú vị, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm thích thú, lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy người chống đối làm nơi giao du, coi thi ân như đôi dép bỏ, lấy sự xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh. Nên chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà cầu mong thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong mọi sự trở ngại. Ương Quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi, và sự phá hoại lại làm sự tác thành, hay sao?

Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại ập đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào?

(Luận Bảo Vương Tam Muội)

 

NGUỒN THAM KHẢO

Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, Hòa thượng Thích Thiện Thanh soạn và dịch. Pl 2557. Chùa Phật Tổ California.

Kinh Tụng của Chùa Dược Sư do sư bà Hải Triều Âm biên soạn. https://chuaduocsu.org/kinh-sach/

Tổng hợp nhiều nguồn trên Google online.

 

TỦ SÁCH BẢO ANH LẠC

do Ni Sư Tiến Sĩ TN Giới Hương biên soạn

  1. SÁCH TIẾNG VIỆT
  1. Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa (Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions).
  2. Ban Mai Xứ Ấn (The Dawn in India), (3 tập).
  3. Vườn Nai – Chiếc Nôi (Phật Giáo Deer Park–The Cradle of Buddhism).
  4. Quy Y Tam Bảo và Năm Giới (Take Refuge in Three Gems and Keep the Five Precepts).
  5. Vòng Luân Hồi (The Cycle of Life).
  6. Hoa Tuyết Milwaukee (Snowflake in Milwaukee).
  7. Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm (The Rebirth

in Śūrangama Sūtra).

  1. Nghi Thức Hộ Niệm, Cầu Siêu (The Ritual for the Deceased).
  2. Quan Âm    Quảng   Trần   (The    Commentary   of Avalokiteśvara Bodhisattva).
  3. Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ (A Nun and American Inmates).
  4. Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV

(The Awakened Mind of the 14th Dalai Lama).

  1. A-Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não (Agama – A Dharma Rain transforms the Defilement), 2 tập.
  2. Góp Từng Hạt Nắng Perris (Collection of Sunlight in

 

Perris).

  1. Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang (The Key Words of Vajracchedikā-Prajñāpāramitā-Sūtra).
  2. Tập Thơ Nhạc Nắng Lăng Nghiêm (Songs and Poems of Śūraṅgama Sunlight).
  3. Nét Bút Bên Song Cửa (Reflections at the Temple Window).
  4. Máy Nghe MP3 Hương Sen (Hương Sen Digital Mp3 Radio Speaker): Các Bài Giảng, Sách, Bài viết và Thơ Nhạc của Thích Nữ Giới Hương (383/201 bài).
  5. DVD Giới Thiệu   về   Chùa   Hương   Sen,   USA

(Introduction on Huong Sen Temple).

  1. Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States).
  2. Tuyển Tập 40 Năm Tu Học & Hoằng Pháp của Ni sư Giới Hương (Forty Years in the Dharma: A Life of Study and Service—Venerable Bhikkhuni Giới Hương), Thích Nữ Viên Quang, TN Viên Nhuận, TN Viên Tiến, and TN Viên Khuông.
  3. Tập Thơ Nhạc Lối Về Sen Nở (Songs and Poems of Lotus Blooming on the Way).
  4. Nghi Thức Công Phu Khuya – Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Mantra).
  5. Nghi Thức Cầu An – Kinh Phổ Môn (The Universal Door Sūtra).
  6. Nghi Thức Cầu An – Kinh Dược Sư (The Medicine Buddha Sūtra).

 

  1. Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh (The Sūtra of Confession at many Buddha Titles).
  2. Nghi Thức Công Phu Chiều – Mông Sơn Thí Thực

(The Ritual Donating Food to Hungry Ghosts).

  1. Khóa Tịnh Độ Kinh A Di Đà (The Amitabha Buddha Sūtra).
  2. Nghi Thức Cúng Linh và Cầu Siêu (The Rite for Deceased and Funeral Home).
  3. Nghi Lễ Hàng Ngày - 50 Kinh Tụng và các Lễ Vía trong Năm (The Daily Chanting Rituals and Annual Ceremonies).
  4. Hương Đạo Trong Đời 2022 (Tuyển tập 60 Bài Thi trong Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 - A Collection of Writings on the Practicing of Buddhism in Daily Life in the Writing Contest 2022).
  5. Hương Pháp 2022 (Tuyển Tập Các Bài Thi Trúng Giải Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 - A Collection of the Winning Writings on the Practicing of Buddhism in Daily Life in the Writing Contest 2022).
  6. Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn, Nguyên Hà.
  7. Pháp Ngữ Kinh Hoa Nghiêm (2 tập). Thích Nữ Giới Hương.
  8. Tinh Hoa Kinh Hoa Nghiêm. Thích Nữ Giới Hương. NXB Hương
  9. Phật Giáo và Đại Dịch Coronavirus Covid-19. Thích

Nữ Giới Hương.

  1. Phật Giáo – Tầm Nhìn Lịch Sử Và Thực Hành. Hiệu đính: Thích Hạnh Chánh và Thích Nữ Giới Hương.

 

  1. SÁCH TIẾNG ANH
  1. Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed

Buddhist Traditions.

  1. Rebirth Views in the Śūraṅgama Sūtra.
  2. Commentary of Avalokiteśvara
  3. The Key Words in Vajracchedikā Sūtra.
  4. Sārnātha-The Cradle of Buddhism in the Archeological
  5. Take Refuge in the Three Gems and Keep the Five
  6. Cycle of Life.
  7. Forty Years in the Dharma: A Life of Study and Service—Venerable Bhikkhuni Giới Hương.
  8. Sharing the Dharma -Vietnamese Buddhist Nuns in the United States.
  9. A Vietnamese Buddhist Nun and American
  10. Daily Monastic
  11. Weekly Buddhist Discourse
  12. Practice Meditation and Pure Land.
  13. The Ceremony for
  14. The Lunch Offering
  15. The Ritual Offering Food to Hungry Ghosts.
  16. The Pureland Course of Amitabha
  17. The Medicine Buddha Sutra.
  18. The New Year
  19. The Great Parinirvana

 

  1. The Buddha’s Birthday
  2. The Ullambana Festival (Parents’ Day).
  3. The Marriage
  4. The Blessing Ceremony for The Deceased.
  5. The Ceremony Praising Ancestral
  6. The Enlightened Buddha
  7. The Uposatha Ceremony (Reciting Precepts)
  8. Buddhism: A Historical and Practical Edited by Ven. Dr. Thich Hanh Chanh and Ven. Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  9. Contribution of Buddhism For World Peace & Social Harmony. Edited by Dr. Buddha Priya Mahathero and Ven. Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  10. Global Spread of Buddhism with Special Reference to Sri Lanka. Buddhist Studies Seminar in Kandy Edited by Dr. Ven. Kahawatte Siri Sumedha Thero and Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  11. Buddhism In Sri Lanka During The Period of 19th to 21st Centuries. Buddhist Studies Seminar in Edited by Prof. Ven. Medagama Nandawansa and Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong.
  1. SÁCH SONG NGỮ (VIETNAMESE-ENGLISH)
  1. Bản Tin Hương Sen: Xuân, Phật Đản, Vu Lan (Hương Sen Newsletter: Spring, Buddha Birthday and Vu Lan, annual/ Mỗi Năm).
  2. Danh Ngôn Nuôi Dưỡng Nhân Cách - Good Sentences Nurture a Good

 

  1. Văn Hóa Đặc Sắc của Nước Nhật Bản-Exploring the Unique Culture of Japan.
  2. Sống An Lạc dù Đời không Đẹp như Mơ - Live Peacefully though Life is not Beautiful as a Dream.
  3. Hãy Nói Lời Yêu Thương-Words of Love and
  4. Văn Hóa Cổ Kim qua Hành Hương Chiêm Bái -The

Ancient- Present Culture in Pilgrim.

  1. Nghệ Thuật Biết Sống - Art of

 

  1. SÁCH CHUYỂN NGỮ
  1. Xá Lợi Của Đức Phật (Relics of the Buddha), Tham Weng
  2. Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù (Lotus in Prison), many
  3. Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples).
  4. Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam).
  5. Hương Sen, Thơ Nhạc - (Lotus Fragrance, Poem and Music).
  6. Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống (Buddhism: One Teacher – Many Traditions), Đức Đạt Lai Lạt Ma 14th & Ni Sư Thubten
  7. Cách Chuẩn Bị Chết và Giúp Người Sắp Chết-Quan Điểm Phật Giáo (Preparing for Death and Helping the Dying – A Buddhist Perspective).

 

ALBUMS NHẠC

Từ Thơ Thích Nữ Giới Hương

  1. Đào Xuân Lộng Ý Kinh (The Buddha’s Teachings Reflected in Cherry Flowers).
  2. Niềm Tin Tam Bảo (Trust in the Three Gems).
  3. Trăng Tròn Nghìn Năm Đón Chờ Ai (Who Is the Full Moon Waiting for for Over a Thousand Years?).
  4. Ánh Trăng Phật Pháp (Moonlight of Dharma-Buddha).
  5. Bình Minh Tỉnh Thức (Awakened Mind at the Dawn) (Piano Variations for Meditation).
  6. Tiếng Hát Già Lam (Song from Temple).
  7. Cảnh Đẹp Chùa Xưa (The Magnificent, Ancient Buddhist Temple).
  8. Karaoke Hoa Ưu Đàm Đã Nở (An Udumbara Flower Is Blooming).
  9. Hương Sen Ca (Hương Sen’s Songs).
  10. Về Chùa Vui Tu (Happily Go to Temple for Spiritual Practices).
  11. Gọi Nắng Xuân Về (Call the Spring Sunlight).
  12. Đệ Tử Phật (The Buddha’s Disciples).

Mời xem đầy đủ Tủ sách Bảo Anh Lạc ở website:

http://huongsentemple.com/index.php/en/about-us/b-o- anh-l-c-bookshelf

 

 
  C:\Users\HUONGS~1\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image006.jpg

 

 

 

 

 

 

 

NGHI THỨC CẦU AN KINH PHỔ MÔN

Tác giả: Tủ Sách Bảo Anh Lạc 47 - Huong Sen Buddhist Temple

Nhà Xuất Bản Hồng Đức

ĐT.: 024.39260024 - Fax : 024.39260031

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Trách nhiệm xuất bản Giám đốc: Bùi Việt Bắc

Trách nhiệm nội dung Tổng biên tập: Lý Bá Toàn

Biên tập: Phan Thị Ngọc Minh Trình bày: Vũ Đình Trọng Sửa bản in: Vũ Đình Trọng

Số lượng: 1,000 bản, Khổ: 14.5 x 20.5 cm In tại: Nhà in Trâm Anh,

159/57 Bạch Đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, TP.HCM ĐKXB: 3320-2023/CXBIPH/18-96/HĐ

ISBN: 978-604-482-041-3

GPXB: 339/QD-NXBHD ngày 29 tháng 9, 2023

In xong và nộp lưu chiểu trong quý 3, 2023

Mời xem toàn sách: 47.Nghi_thuc_Cau_an_-_Kinh_Pho_Mon--TN_Gioi_Huong.docx

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Thư viện

Pháp âm

\clip_image006.jpg" width="111" height="17" class="upload-placeholder" data-mce-upload-marker="1" />

 

 

 

 

 

 

 

NGHI THỨC CẦU AN KINH PHỔ MÔN

Tác giả: Tủ Sách Bảo Anh Lạc 47 - Huong Sen Buddhist Temple

Nhà Xuất Bản Hồng Đức

ĐT.: 024.39260024 - Fax : 024.39260031

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Trách nhiệm xuất bản Giám đốc: Bùi Việt Bắc

Trách nhiệm nội dung Tổng biên tập: Lý Bá Toàn

Biên tập: Phan Thị Ngọc Minh Trình bày: Vũ Đình Trọng Sửa bản in: Vũ Đình Trọng

Số lượng: 1,000 bản, Khổ: 14.5 x 20.5 cm In tại: Nhà in Trâm Anh,

159/57 Bạch Đằng, Phường 2, Quận Tân Bình, TP.HCM ĐKXB: 3320-2023/CXBIPH/18-96/HĐ

ISBN: 978-604-482-041-3

GPXB: 339/QD-NXBHD ngày 29 tháng 9, 2023

In xong và nộp lưu chiểu trong quý 3, 2023

Mời xem toàn sách: 47.Nghi_thuc_Cau_an_-_Kinh_Pho_Mon--TN_Gioi_Huong.docx

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Thư viện

Pháp âm