Rõ ràng mục tiêu của giáo dục Phật giáo mà các Học viện đang đảm trách vẫn có phần bao dung và thanh thoát so với mục tiêu giáo dục ngoài đời. Học viện tại Huế đang từng bước hướng đến mục tiêu giáo dục Phật giáo và trong nhiều năm qua đã định hình được một chương trình giảng dạy thích hợp. Hiện thời hòa chung cùng nhịp bước đăng trình cùng lấy cơ sở “dạy làm người” theo mẫu số chung “Đại học chi đạo”, cho nên các Học viện Phật giáo đảm nhận trọng trách dạy: “đạo làm người” như mong ước của giáo dục Đại học xưa nay.
Vấn đề ô nhiễm môi trường đang là một đại nạn đe dọa sự sống trên toàn cầu. Lo âu của rất nhiều quốc gia không phải chỉ liên quan đến nhiệt độ tăng dần trên địa cầu và không phải chỉ dính líu đến việc khai thác bừa bãi các khoáng sản, các nguồn nước ngầm, đã gây nên biến động khôn lường về thời tiết, đưa đến nhiều tai họa long trời lở đất. Cũng không phải chỉ tập trung vào các chất độc thải vào không khí, vào lòng đất và vào các dòng sông gây nên nhiều dịch bệnh lạ kỳ. Thật ra xã hội loài người đang còn khắc khoải lo âu về chính con người, một thành phần chính và cao cấp nhất của thiên nhiên bên cạnh cỏ cây, núi rừng sông lạch, cầm thú chim muông.
Con người hiện đang bị ô nhiễm nặng về tâm thức. Điều dễ sợ nhất hiện nay là con người trở nên hung dữ quá mức đến nỗi một chút chi không vừa ý cũng phải giải quyết bằng dao găm và mã tấu, dẫn tới cảnh chém giết lẫn nhau hằng ngày hằng buổi. Thêm vào đó là có quá nhiều trường hợp cướp của giết người, bất kể nạn nhân là bà già hay con trẻ.
Ngoài ra, một điều khác nữa cũng đáng lo âu về con người. Đó là lề thói gian tham đang gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe và sinh mạng của người khác khi sản xuất và kinh doanh các mặt hàng có chứa chất độc như đồ chơi trẻ em, áo quần hay đồ sành sứ, các loại thực phẩm quá hạn sử dụng hoặc được chế biến không hợp vệ sinh.
Đau buồn hơn cả là sự rạn nứt tột độ về tình người. Bạo lực tại học đường có cả nữ sinh tham gia, bạo hành trong gia đình thì không chừa tuổi thơ dại. Các báo hằng ngày đã đưa tin mẹ nguyền rũa đánh đập con hằng bữa, bố hành hạ con liên hồi, con đã 50 tuổi còn thường xuyên nhiếc mắng hành hung mẹ già đã ngoài tám mươi. Thật là hết hiểu nổi khi nghe chuyện mẹ đan tâm đầu độc hai con còn bé bỏng, tỉnh táo bỏ hai thi hài vào thùng giấy đem quăng ở bìa rừng; bố thì rưới xăng vào mình con rồi châm lửa đốt. Ngay tại trường học mà cũng có cảnh lạ đời chưa từng thấy: chị bảo mẫu dùng băng keo dán miệng cháu bé để khỏi nghe tiếng khóc, cô giáo thì cầm dao kề cổ học trò, bảo là để răn dạy...
Ở đây chúng ta không khảo sát con người một cách quá bao quát; đó là những nghiên cứu đã có từ nhiều thời đại và trong nhiều nước về nhân bản luận, về lý thuyết nhân tính. Để chỉ hướng tới việc góp ý về giáo dục, có lẽ chúng ta chỉ đề cập đến hai khía cạnh tốt và xấu nơi con người, cụ thể là con người Việt Nam. Cách đây mấy chục năm, nhà văn Vũ Hạnh đã tổng kết tính tốt của người Việt trong tác phẩm “Người Việt cao quí”. Cách đây không lâu cả hai mặt tốt và xấu đã được nhà xuất bản Thanh Niên – Báo Tiền Phong tập hợp trong một tác phẩm nhan đề “Người Việt, Phẩm chất & Thói hư – Tật xấu”.
Nói chung về tính người, xã hội ta không lạ gì với những lời dạy:
“Thương người như thể thương thân”
hoặc như câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà điều thứ nhất trong Ngũ giới đã ghi một cách cụ thể “làm người ai cũng tham sống sợ chết, vậy chớ giết và chớ bảo giết”.
Nếu cần đề cập tới tính tình người Việt, ta có thể chắt lọc tốt xấu từ những nhận định đã có, ví dụ từ cuốn “Việt Nam sử lược” trong đó cụ Trần Trọng Kim đã viết:
“Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm biết giữ kỷ luật. Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà thì hay làm lụng và đảm đang, khéo chân khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần kiệm. Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng, cùng giữ một kỷ niệm, thật là cái tính đẳng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối nước”.
Hoặc từ nhận xét của nhà sử học Lê Tắc về những đặc điểm của người Việt trong tác phẩm “An Nam chí lược”:
“Đàn ông lo đi làm ruộng, đi buôn; đàn bà nuôi tằm, dệt vải. Cách nói phô hiền hòa, ít lòng ham muốn. Người ở khác xứ trôi nổi đến nước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình thương của họ. Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu (từ Thanh Hóa trở ra) thì rộng rãi, có mưu trí, người châu Hoan châu Diễn (Nghệ An – Hà Tĩnh) thì tuấn tú ham học, dư nữa thì khờ dại, thật thà...”.
Nếu muốn trở về xa xưa để hy vọng nắm bắt được chút ít bản sắc dân tộc, ta có thể dùng đoạn văn trong tờ sớ do Hoài Nam Vương Lưu Ân dâng lên vua nhà Hán. Trong sách “Suy nghĩ về văn hóa giáo dục Việt Nam” (Nhà xuất bản Trẻ - năm 2000), nhà giáo dục Dương Thiệu Tống đã trích dẫn các nhận xét của Lưu Ân về bản sắc dân tộc Lạc Việt ở hai trang 79 và 80.
“ (1) Nước Việt là đất không thể xâm lăng được (đất ấy không thể ở được), dân ấy không thể sai khiến được (dân ấy không thể chăn được)
(2) Không thể đem văn hóa, pháp luật của nước lớn để áp đặt được (không thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai mà trị được), (3) Người Việt có niềm tự hào dân tộc nên từ lâu đã có thái độ khinh bạc đối với dân tộc “đội mũ mang đai” (4) Người Việt biết cân nhắc đúng đắn quan niệm dân tộc, rộng rãi với quyền lợi đất nước cho nên lúc thì họ hòa hoãn chịu nhượng bộ người Hán, lúc thì quay mũi dáo chống lại họ, vì vậy mới bị coi là tráo trở”.
Cũng liên quan đến bản sắc dân tộc khi ta để ý đến từ người với ý nghĩa rất tổng quát dùng trong ngôn ngữ Việt Nam: từ người luôn luôn đứng trước địa danh để chỉ người của một vùng hay của một nước.
Ví dụ: người Huế, người Nam bộ, người Đức
Trong lúc đó, cùng một ý định như nhau, ngôn ngữ nước khác lại ghi:
Chinese, Italian, African (tiếng Anh)
Laotien, Japonais, Suédois (tiếng Pháp)
không có âm nào tương đương với từ người trong các từ ấy.
Những tiếp vĩ ngữ ien, ais, ois ở tiếng Pháp cũng như chữ 人 ở tiếng Quan Thoại luôn luôn đứng sau tên nước trong lúc ở Việt ngữ từ người lại đứng trước. Có lẽ đó là một biểu tượng xác nhận rằng đầu tiên hết anh phải là người, sau đó mới có thể là người Việt, người Pháp hay người Đức. Đó là một nét độc đáo minh chứng cha ông ta đã có một nếp sống hiếu hòa, thương yêu đồng loại, thể hiện được tính người (và từ đó tình người).
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Ý đó đã được nhiều nước ghi vào phần mở đầu của Hiến pháp "Mọi người sinh ra đều bình đẳng" hoặc ý đó cũng chứa đựng trong lời Phật dạy «cùng là người thì sống không phân biệt vì máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn».
Những ai hành xử thiếu chất người thì tiếng Việt không dùng từ người mà lại thay vào đó những từ có ý chê bai trách móc như tên, kẻ, bè lũ... tùy theo trường hợp của cá nhân hay nhóm : kẻ trộm, tên cướp, bè lũ gian tham...
Đối chiếu tính người giữa xưa và nay, rõ ràng ta phải khiếp sợ những gì con người ngày nay đang bị ô nhiễm. Là vai chính trong quần thể môi sinh, con người phải gấp rút được tạo điều kiện để tự uốn nắn trở lại, nếu không thì sẽ là một cơ nguy trong mỗi nước để dễ lan rộng ra cả toàn cầu. Điều nầy đã gây buồn lo rất nhiều cho « tấm lòng Việt Nam » như trường hợp của tác giả CAMERA đã đau xót phân tích trong bài «Tâm địa quỷ - người» đăng ở nhật báo Thanh niên ngày 18.01.2008 :
“... một sự bất nhẫn man rợ ở mức không thể nào lý giải... sao xã hội ta lại sản sinh một thứ người như vậy? Những yếu tố đầu vào nào đã đưa đến những sản phẩm loại ấy ở đầu ra? Anh ta là chính phẩm hay phế phẩm? Một báo động cực kỳ nguy cấp”.
Để trả lời câu hỏi đó của tác giả CAMERA có lẽ nguyên do chỉ có thể tìm thấy ở thực trạng: cách đào tạo “thân người thành công cụ” đã bị làm sai lệch thành “thân người chỉ là công cụ”. Nay đất nước đã chuyển qua thời bình hơn ba chục năm rồi mà hình như trong nhiều địa phương các hội đoàn vẫn dễ dãi chìu theo sức ì của lối mòn “xưa bày nay làm”, làm cho sự sai lệch bị đẩy lên cao khiến chất người bị phai mờ dần nơi thân người, tạo nên một tình trạng xã hội vận hành ngược hướng với những gì mà nền giáo dục phải nhắm tới. Trong một xã hội như thế thì trường học khó dạy được học trò và ngành giáo dục dễ bị bó tay. Nhận xét này giúp chúng ta thông cảm với các “triều đại giáo dục” mà bao nhiêu sửa đổi được đề ra trong thời gian qua cũng chỉ có tính cách hành chánh mà thôi, chưa hề thấy hé lộ một chút ít ý tưởng gì về cải cách giáo dục.
Như thế, có lẽ mục tiêu trong nền giáo dục không thể không nhằm dạy trẻ nên người. Bởi vậy một nền giáo dục chính danh phải là một nền giáo dục vị nhân bản vì chỉ nền giáo dục như thế mới làm cho các nước xích lại gần nhau để có hòa bình thế giới cũng như mới có thể vực dậy đạo làm người đang suy đồi, tái tạo lại an sinh xã hội cho đất nước.
Các Trường Trung cấp, Cao đẳng và các Học viện Phật giáo, vì cũng là cơ sở giáo dục trong xã hội, dĩ nhiên phải cùng nhằm tới điều căn bản nhất trong sự nghiệp chung của nền giáo dục quốc dân là dạy dân nên người. Đường hướng chung của giáo dục có lẽ được gói trọn trong hai nội dung chính sau đây bên cạnh nội dung trao truyền tri thức và dạy nghề: một là phát huy ngũ giới, hai là tiêu trừ tam độc tham, sân, si. Một điều kiện thiết yếu trong nhiệm vụ dạy hai nội dung đó là vấn đề thân giáo phải được chú trọng triệt để, được vậy mới mong tái lập lại lòng tin nơi người học đối với thầy giáo.
Ngoài ra, vì là trường học Phật giáo nên ở đó nhân tính trong thân người phải được hiểu theo những điều đức Phật đã dạy. Tác phẩm “Lý thuyết về nhân tính qua Kinh tạng Pàli”, ấn bản 1996, của Hòa thượng Thích Chơn Thiện giúp ta nhận ra điều đó. Ở trang 16 Hòa thượng đã viết:
“...Thế nên con người chẳng là gì khác hơn sự vận hành của mười hai chi phần Duyên Khởi dẫn đến khổ đau, nếu tâm con người bị tư duy hữu ngã chế ngự. Nếu tư duy vô ngã, hay sự giác tĩnh Duyên Khởi, vận hành thì sự vận hành này sẽ dẫn đến sự đoạn diệt của mười hai chi phần ấy, hay sự đoạn diệt khổ đau. Bấy giờ con người xuất hiện là con người của cái nhìn vô ngã về sự vật và của hạnh phúc trong hiện tại và tại đây”.
Ở trang 59, Hòa thượng lại ghi:
“Theo duyên khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sinh, là vô ngã và rỗng không; con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể tách rời nhau. Sự thật nầy đã được đức Phật chứng tỏ trong Kinh Mahàpunnama (Trung bộ III) và trong Giới Phân Biệt (Dhàtuvibhanga, Trung bộ III) rằng: Sắc uẩn gồm có nội sắc là cơ thể vật lý của mỗi cá nhân, ngoại sắc là thế giới vật lý, điều này có nghĩa là vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con người.
Ý nghĩa đó được ghi tiếp ở trang 77:
“Hai mươi sáu thế kỷ qua đức Phật đã cho nhân loại một định nghĩa vô cùng tuyệt vời và cực kỳ kinh ngạc rằng: sắc uẩn của một người là bao gồm thân vật lý của người ấy và toàn thể thế giới vật lý. Định nghĩa ấy xác định rằng thiên nhiên hay môi sinh thực sự là cơ thể của con người, hay là một phần rất lớn của cơ thể con người”.
Trong các đoạn kế tiếp của sách đã dẫn, Hòa thượng Thích Chơn Thiện lại phân tích cặn kẽ hai nội dung “Con người là năm Uẩn”, “Tu tập Năm thủ Uẩn và giáo dục” (từ trang 105 đến trang 176); từ đó Hòa thượng đã đề ra mục tiêu cụ thể của giáo dục Phật giáo trong một đoạn văn ở trang 169:
“Sự tu tập Năm thủ uẩn là công phu giải thoát có hai việc để thực hiện:
- Chế ngự thói quen của con người nghĩ về các hiện hữu như là có một ngã tính thường hằng từ đó dục vọng dấy khởi.
- Phát triển cái nhìn sự vật là vô ngã từ đó vô dục khởi sinh.
Vì thế, công phu này là sự chấm dứt các phiền não, khổ đau vốn là giấc mơ yêu dấu của con người, và là mục tiêu cơ bản mà ngành tâm lý giáo dục hiện đại nhắm đến. Tất cả những lời dạy của đức Phật kiết tập trong kinh tạng Pàli là đặt trọng tâm vào điểm tuyệt vời nầy”.
Rõ ràng mục tiêu của giáo dục Phật giáo mà các Học viện đang đảm trách vẫn có phần bao dung và thanh thoát so với mục tiêu giáo dục ngoài đời. Học viện tại Huế đang từng bước hướng đến mục tiêu giáo dục Phật giáo và trong nhiều năm qua đã định hình được một chương trình giảng dạy thích hợp. Hiện thời hòa chung cùng nhịp bước đăng trình cùng lấy cơ sở “dạy làm người” theo mẫu số chung “Đại học chi đạo”, cho nên các Học viện Phật giáo đảm nhận trọng trách dạy: “đạo làm người” như mong ước của giáo dục Đại học xưa nay.
Hội đủ duyên lành, nắm chắc được mục tiêu lý tưởng, Học viện Phật giáo phấn chấn trên đà quảng bá truyền thừa: “Đạo giải thoát” mà hiện nay một số Đại học đã khởi sự giảng dạy cho sinh viên trong năm đầu bằng lối học tập trung khác với thời quá khứ tại chốn cửa không am mây mà Chư Tổ đã dạy đệ tử bằng thân giáo và tâm truyền./.
Châu Trọng Ngô