Hương Sen thơm ngát xứ người
Bùn đen lặn hụp trọn đời hiến dâng
Đường dài Đại sĩ dấn thân
Sá chi khó nhọc, phong trần gầy hao….
Tôi biết đến Ni Sư Giới Hương 22 năm về trước, khi tôi du học đến Delhi, Ấn Độ. Đó là lúc Hội Lưu Học Sinh Việt Nam họp bàn kế hoạch tham quan Taj Mahal và danh lam thắng cảnh ở Delhi trước khi vào khóa học mùa Thu, 08/1997. Vì NS Giới Hương đã du học Ấn Độ trước chúng tôi 2 năm và học ở Cử Nhân Phật Học, Đại Học Vạn Hạnh trước chúng tôi 1 Khóa ( NS học Khóa II, còn tôi Khóa III), nhưng những ấn tượng đầu tiên của chúng tôi lúc đó đối với Ni Sư là: Gần gũi, thân thiện, hay giúp đỡ người khác, khiêm tốn, Anh Văn khá lưu loát, trân trọng những người xung quanh, vâng giữ Bát Kỉnh Pháp (thể hiện sự tôn Kính đối với những vị Tỳ Kheo cho dù nhỏ tuổi Đời và Đạo hơn mình). Chắc hẳn nhiều Ni Sinh trong Khóa chúng tôi mơ ước và thầm hỏi: Không biết đến khi nào biết rành Anh Ngữ và Delhi như Ni Sư dạo ấy. Chuyến tham quan đó có nhiều kỷ niệm vui và diễn ra tốt đẹp.
Mới đó mà đã hơn 20 năm trôi qua, cho đến nay, tôi nhận được lời mời viết bài đóng góp cho Kỷ Yếu: “Tuyển Tập 40 Năm Tu Học và Hoằng Pháp của Ni Sư Giới Hương”, tôi góp nhặt nơi đây những kỷ niệm, thông tin và cảm nhận về vị Ni Sư đầy nhiệt huyết và năng động này.
Sau khi đến Ấn Độ, tôi sớm quyết tâm vào ở Ký Túc Xá Mansarowar Hostel sau bao nhiêu cân nhắc lựa chọn, vì lúc đó Sinh Viên tự chọn hoặc thuê nhà ở ngoài, hoặc là làm đơn xin vào ở Ký Túc Xá của Đại Học Delhi. Và tôi được biết NS Giới Hương cũng ở PG Womens Hostel suốt 10 năm (1995-2005). Ở Ký Túc Xá thì “mất tự do” hơn, vì phải tuân thủ nội quy của nó, theo giờ giấc và nhiều việc phải xin phép, không được tiện nghi, rộng rãi, thoải mái như phòng thuê bên ngoài, ăn món ăn Ấn Độ đạm bạc, nhưng những sinh viên nghiêm túc, say sưa học tập, muốn dành nhiều thời gian để học hành nghiên cứu, khỏi lo nấu nướng, thực hành nói tiếng Anh với người bản xứ và quốc tế, không tốn nhiều thời gian để tiếp khách thăm hỏi chỉ cho vui,… thì lựa chọn ở Ký Túc Xá là tốt nhất. Điều đó thể hiện quyết tâm trau dồi, học tập và nghiên cứu, hạ thủ công phu của Ni Sư.
Thời gian ở Ấn Độ đó, tôi có duyên viết bài gửi đăng ở báo Giao Điểm (Hoa Kỳ) và được Ban Biên Tập báo này cho biết NS Giới Hương cũng thường xuyên viết bài và được trả nhuận bút để giúp Ni Sư có thêm phần trả chi phí du học Ấn Độ. Đó là việc làm có ích lợi thiết thực: Vừa chia sẻ những kiến thức, hiểu biết về Phật Giáo và những vấn đề xã hội đang quan tâm, vừa có nhuận bút, phần thưởng và động lực để thấy việc tu học của mình có kết quả cụ thể và giảm gánh nặng tài chánh cho người bảo trợ. Ni Sư đã phát huy tốt sở trường và quá trình học Cử Nhân Văn Khoa của mình tại Saigon từ trước khi du học, “văn ôn võ luyện” cho ngòi bút thêm nhuần nhuyễn sắt bén, là phương tiện để chuyển tải Tình Đời, Ý Đạo… Đó là tiền đề cho sự ra đời những quyển sách như : “Ban Mai Xứ Ấn” (3 tập), “Vườn Nai – Chiếc Nôi Phật Giáo”,… sau này.
Sau 10 năm miệt mài tu học ở Ấn Độ, chiêm bái Thánh Tích và học hỏi Kinh Nghiệm Pháp Môn từ nhiều Tu Sỹ Sinh Viên Quốc Tế, năm 2005, cơ duyên chín muồi, Ni Sư đến Hoa Kỳ để bắt đầu một giai đoạn mới: Góp phần chuyển bánh xe Pháp Luân đến xứ Hoa Kỳ, nơi mà Phật giáo còn đang mới mẻ đối với dân tộc này. Tôi đến Hoa Kỳ trước Ni Sư một năm, nhưng rất sớm trong năm 2005 ấy, tôi đã nghe Ni Sư Giảng Pháp Thoại do Hội Phật Học Đuốc Tuệ Nam Cali tổ chức, thật rất khó để một vị Giảng sư Ni được Hội Phật Học uy tín này mời thuyết giảng. Và tôi đã biết về những sinh hoạt Phật Pháp của Ni Sư trong 4 năm đầu tiên ở Chùa Phước Hậu, Wisconsin, Hoa Kỳ. Khi đó tôi đang làm Chủ nhiệm Diễn Đàn Paltalk Phật Pháp Nhiệm Mầu, chia sẻ Phật Pháp Quốc Tế qua mạng Paltalk, nhiều Phật tử ca ngợi Ni Sư và mở những bài giảng của Ni Sư cho diễn đàn nghe. Tôi mỉm cười tùy hỷ và tự nghĩ: “Sao Ni Sư này có thể sớm đặt được những dấu ấn Hoằng Pháp ở Hoa Kỳ như vậy, vì Hoa Kỳ là xứ tụ hội anh tài mà?” Nhưng xét lại cũng hợp lý thôi, tất cả đâu phải là do ngẫu nhiên, may mắn hay tình cờ, Ni Sư đã xuất gia từ lúc 15 tuổi, tu học thọ giáo thấm nhuần với một vị cố Ni Trưởng Việt Nam nổi tiếng đạo hiệu Hải Triều Âm, Chùa Dược Sư, Đức Trọng, Lâm Đồng, “Danh Sư xuất cao đồ” mà Ni Sư lại được trải qua các trường lớp bài bản, Cử Nhân Văn Khoa (cả ở Việt Nam và USA) rồi Tiến Sĩ Phật Học, hành trang khá vững chắc, đầy đủ thì bước hành Đạo thong dong.
Thế rồi, tôi cũng như Ni Sư tùy duyên hành Đạo với những duyên của mình cho đến khi tôi gặp lại Ni Sư trong các Lễ Hội Phật Giáo ở Chùa Quang Thiện (Ontario) và Chùa Đại Bi Quan Âm (San Bernardino) ở tiểu bang California. Sau đó, Ni Sư mời tôi về thăm Chùa Hương Sen do Ni Sư lập ra tại Fir Avenue, Moreno Valley, sau này chuyển dời về thành phố Perris. Hôm đó, tôi được Ni Sư nhờ với một công việc đặc biệt “công tác thư viện”, sắp xếp khối lượng sách đáng kể của Ni Sư, tiếng Anh, tiếng Việt lên các dãy giá sách theo thứ tự tên sách A,B,C,D,…. để khi tra cứu dễ tìm, dễ thấy. Đây là công việc thử thách lòng kiên nhẫn, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác, nhưng vì muốn giúp cho Ni Sư ham học hỏi này vun bồi Trí Tuệ nên tôi đã cố gắng sắp xếp. Thật là công phu để có thể chuyển được những sách quý giá đó từ Ấn Độ, Việt Nam nhiều nơi đến để làm Thư Viện Chùa Hương Sen. Tôi có thể hình dung Ni Sư này ngày đêm, lúc nào có được thời gian rảnh là ngồi vào bàn làm việc, đeo kính chăm chú đọc, viết, suy tư,… làm bạn với sách vở.
Quả thật như vậy, “Duy Tuệ thị Nghiệp”, mặc dù Phật sự đa đoan, Ni Sư còn tiếp tục đi học Đại Học bên ngoài, Cử Nhân và Cao Học Văn Chương tại Riverside, Hoa Kỳ. Có nhiều người thắc mắc: Tại sao Ni Sư đã tốt nghiệp Tiến sĩ tại Ấn Độ rồi mà đến Hoa Kỳ còn học làm chi cấp Cử Nhân, Cao Học, vậy là học thụt lùi hay sao? Thực ra, không phải vậy. Ni Sư tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học nhưng khi vào lĩnh vực văn chương thì phải ôn học lại từ Cử Nhân ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn, Anh/Chị là Tiến Sĩ Cơ điện tử (toán học,…) nhưng với lĩnh vực Triết Học, Tôn Giáo, khi đi học, Anh/Chị phải cần có nền tảng căn bản (background) và phải học lại từ Cử Nhân, hoặc xem Cử Nhân thiếu những phần nào phải bổ sung phần đó. Biển học và kiến thức mênh mông, biết bao giờ đến đích, học chỉ là quá trình khám phá cái dốt của mình. Chúng ta biết được bao nhiêu văn hào, dòng văn học Anh Quốc, Hoa Kỳ? Khi đi học lại như vậy, Ni Sư trở lại thời học sinh, tâm hồn trong trắng, khiêm cung, sẵn sàng học hỏi, đón nhận những cái hay, cái đẹp; hơn nữa, đó là cơ hội để giao tiếp Thầy bạn, người bản xứ và quốc tế, để nâng cao Anh ngữ, để cho ngòi bút thêm sắc nét, để tiếp thu, thâm nhập văn hóa Hoa Kỳ và các nước. Điều này rất quan trọng trong việc Hoằng Pháp vì phải khế cơ và hợp với Xứ, Cơ, Thời, Giáo. Cũng giảng cùng một đề tài, nhưng khi giảng cho người sống và hấp thu nền văn hóa Hoa Kỳ, Giảng sư phải có cách giảng và khai triển khác với khi ở Việt Nam, nếu không muốn bị tẩy chay hoặc trở thành lạc hậu.
NS Giới Hương nỗ lực để hình thành nên Chùa Hương Sen, Perris, Cali, Hoa Kỳ. Đây thật là kỳ công và đầy dẫy những gian nan thử thách. Vì tùy duyên phương tiện, nhiều Phật tử bận rộn công việc cuộc sống Hoa Kỳ, cho nên tu sĩ đứng tên trực tiếp làm chủ nhà – đất của Chùa và chủ động lo mọi thứ: Trả các hóa đơn (bills), lo tu sửa, xây dựng trang trí, chăm sóc vườn tược,…Vì để tiết kiệm tiền công cho nên chính Ni Sư phải lái xe đến Home Depot mua sắm vật liệu xây dựng rồi cha – con cùng nhau sửa sang tự viện (có giai đoạn Phụ thân của Ni Sư qua thăm và giúp Chùa Hương Sen). Biết bao nhiêu mồ hôi đã đổ ra trên mảnh đất Già Lam Hương Sen ấy. Chắc hẳn nay nhiều người không còn tưởng tượng xứ Hoa Kỳ là thiên đường trần thế, có phước đến đó mặc sức mà hưởng hay lượm tiền. Trái lại, nơi đó tu sĩ cả tuần một thân một mình cầm búa, cầm xà beng, …. lo làm, gánh vác đủ thứ, không thị giả, không người trợ giúp, chỉ đến ngày Chủ Nhật mới có Phật tử về tu học. Cứ như vậy nhẫn nại ngày qua ngày cho đến khi nên Chùa và tiếp tục bảo trì Chùa cũng như xoay trở kinh tế làm sao gìn giữ và phát triển được Chùa. Nhiều nhà thờ các tôn giáo khác phải bán đi vì không đủ kinh tế duy trì. Chúng ta trồng cây Bồ Đề trên cây Thánh Giá thì mọi việc đâu có đơn giản. Những vị Tổ Sư hành Đạo ở nước ngoài phải nỗ lực 200 % sức lực và luôn quý thời gian từng giờ từng khắc như vậy thì mới có thể tạo dựng Đạo nghiệp nơi đó.
Là Sứ Giả Như Lai, hành Bồ Tát Đạo, Ni Sư tích cực đi thăm các trại Tù, nhà giam các phạm nhân, đặc biệt là tại thành phố Milwaukee, tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ, để làm vơi đi những nỗi khổ niềm đau cho cuộc đời. Trong 14 lời dạy của Đức Phật có câu: “Phá sản lớn nhất của đời người là Tuyệt vọng” và “Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là Vươn lên sau khi vấp ngã”. Ngài Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng: “Mỗi người trong chúng ta đều có khả năng phạm tội. Những phạm nhân bị giam vào ngục tù, thực sự, không tệ hại, thấp hèn hơn bất cứ người nào trong chúng ta. Họ bị sự vô minh, tham muốn và phẫn nộ, những căn bệnh mà chúng ta dễ bị nhiễm phải, nhưng tùy các mức độ cao thấp khác nhau. Bổn phận của chúng ta là cố gắng giúp đỡ các phạm nhân ấy”. (His Holiness, The Dalai Lama said: We are all potential criminals, and those who we have put into prison are no worse, deep down, than any one of us. They have succumbed to ignorance, desire, and anger, ailments that we all suffer from but to different degrees. Our duty is to help them). Ni Sư thường xuyên tặng quà, tặng sách, an ủi, khuyên lơn họ và sau đó thường viết thư thăm hỏi họ. Khi một người đã sa cơ ngã xuống, chúng ta hãy chìa cánh tay tiếp sức cho họ thêm động lực, thêm niềm tin, thêm sức mạnh đứng dậy và làm lại cuộc đời, quay đầu là bờ. Kỷ niệm những tương tác giúp đỡ tù nhân này được ghi chép trong sách : “Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ” (Thích Nữ Giới Hương).
Đó là những ấn tượng cảm tưởng ban đầu của tôi khi nhớ nghĩ về Ni Sư này. Thế nhưng, để đúc kết có hệ thống hơn về 40 năm tu học và hành Đạo của Ni Sư Giới Hương, chúng ta thấy những điểm nổi bật và có thể trở thành bài học cho các thế hệ sau như sau:
- Có nền tảng vững chắc trong giai đoạn đầu xuất gia:
Chúng ta thường tụng đọc bài “Sám Quy Mạng”có câu: “Sanh phùng trung quốc, trưởng ngộ Minh Sư, chánh tín xuất gia, đồng chơn nhập Đạo” (sanh ra ở nơi trung tâm của đất nước, lớn lên gặp được Minh Sư, xuất gia với niềm tin và động lực chân chánh, tuổi trẻ đã vào cửa Đạo). Điều này phản ảnh đúng trường hợp của Ni Sư: Xuất gia lúc 15 tuổi với Minh Sư là Ni Trưởng Hải Triều Âm ở Chùa Dược Sư Đại Ninh, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ni Sư đã thấm nhuần biết bao nhiêu điều hay ý đẹp trong thời gian hầu cận Cố Ni Trưởng, như trong Thi Điếu tưởng niệm khi Tôn Sư viên tịch, Ni Sư bày tỏ cảm xúc:
Sông núi dẫu mai có chuyển dời
Ân tình thâm trọng chẳng thể vơi
Con nguyện khắc ghi lời dạy bảo
Làm gói hành trang suốt cuộc đời.
(Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, Hoa Kỳ, ngày 01/08/2013)
Đạo Phong của vị Thầy đầu tiên, môn quy hun đúc nên Thiền vị của một người tu sĩ và làm hành trang hành Đạo, ảnh hưởng cả cuộc đời. Tình Thầy-Trò, Quê Hương, chiếc nôi Đạo Pháp là động lực vô biên để hành giả vượt bao chướng ngại trên hành trình trở về bảo sở. Do đó, khi xuất gia, hành giả nên chọn môi trường phù hợp với mình, có Minh Sư hướng dẫn, nền nếp tốt đẹp cho dù nơi đó không được sung túc về vật chất, tiện nghi. Hơn nữa, những vị Trụ Trì, Tăng Chúng,… hãy trang nghiêm tự thân và tự viện tạo nên một môi trường tốt cho “Thiền uyển tập Anh”, “đào tạo Tăng tài” và không vì bao nhiêu Phật sự mà lơ là bổn phận độ chúng, quan tâm giáo dưỡng đặc biệt cho những lớp trẻ, mới xuất gia.
- Chuyên lo trau dồi tu luyện:
Chúng ta đã thấy không phải ngẫu nhiên mà Ni Sư hành Đạo có nhiều thành tựu đáng kể như vậy. Đó là kết quả của một quá trình dài huấn luyện: Khi còn ở Chùa Dược Sư, Đại Học Văn Khoa, 10 năm miệt mài Kinh Sử, thời gian du học Ấn Độ, học hỏi ở Cử Nhân và Cao Học Văn Chương Hoa Kỳ và tự học qua sách vở ở các thư viện,…Đừng bao giờ tự mãn và cho rằng: “Kiến thức của tôi ngang đó là đủ rồi, dư xài”. Phải có hành trang tốt và đầy đủ mới an tâm đi xa, muốn cứu người trước hết phải biết bơi cho vững, không thể ở tình trạng “nhất manh dẫn quần manh” (một thằng mù dẫn cả đám sai đường lạc lối, rơi xuống hố). Thật đáng tiếc cho những tu sĩ nào sau khi học xong Trung Cấp hoặc Cử Nhân Phật Học rồi về chùa sau đó cả tháng không giở ra một trang Kinh nào khác, ngoài hai thời tụng niệm và cúng đám hoặc các Phật tử đi chùa chỉ chủ yếu làm “công quả”, “tụng niệm” không quan tâm việc học hỏi hoặc nghe giảng Pháp.
Chúng ta vẫn còn vô minh nên phải phát triển Trí Tuệ qua Văn - Tư - Tu, việc này chúng ta thường xuyên làm mãi mãi cho đến khi đắc Thánh Quả, Giác Ngộ, đắc Trí Tuệ Vô Thượng Viên Mãn.
- Công đức tạo dựng cơ sở tự viện:
Như trên đã mô tả, Ni Sư nhẫn nại, đảm đang, tháo vác, sáng tạo lo làm các việc dựng sửa Tự Viện, vườn chùa, trang trí tạo nên một cảnh Nhân Gian Tịnh Độ cho những ai có duyên viếng thăm tu học tại Perris, Cali. Ni Sư dấn thân nơi xa xôi hẻo lánh đó là vì nhận thấy Nam và Bắc Cali đã có nhiều Chùa Việt Nam, để tránh giẫm chân lên nhau, nhiều Chùa mà thiếu Phật tử, còn thành phố Perris và các vùng phụ cận thì không có Chùa Việt, chính Đức Phật đã dạy 60 vị Tỳ Kheo đầu tiên: Này các Ty Kheo! Không nên đi hai người chung một nẻo đường, không ngủ hai đêm dưới một gốc cây, hãy đem Chánh Pháp toàn thiện đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối đến với khắp chúng sanh, những ai có tai và muốn lắng nghe. Nếu như chúng ta làm Giảng Sư mà có ý chê bai các tu sĩ khác chỉ lo xây chùa, làm Trụ trì mà không lo việc Hoằng Pháp, vậy thử hỏi: Ai tạo cơ sở cho chúng ta, ai gầy dựng đạo tràng sẵn để cho chúng ta đến thuyết giảng? Tùy duyên phương tiện trăm ngàn nẻo, mỗi người hãy đóng góp tốt nhất cho Đạo Pháp trong sở trường của mình và Tăng đoàn hỗ tương nhau, bổ khuyết cho nhau. Ở Hoa Kỳ xứ lạnh như vậy, liệu tu sĩ có thể ở trong rừng, đi khất thực, ngủ gốc cây mùa Đông được hay không, cho nên tùy duyên phải có trú xứ thích hợp để tu học và hành Đạo lâu dài.
Có được cơ sở tự viện như vậy, Ni Sư mới dễ dàng tiếp tục đi học Cao Học, đọc sách, tu tập và tạo duyên cho hàng xuất gia và tại gia đến đạo tràng Chùa Hương Sen tu học. Ni Sư cũng lo gánh vác trách nhiệm một ngôi chùa ở Bình Chánh, quê nhà. Công việc này khiến Ni Sư hao mòn sức khỏe, lo toan và lao lực nhiều.
- Góp phần xây dựng sự hòa hợp trong Tăng Đoàn:
NS Giới Hương tranh thủ sắp xếp thời gian tham dự các Khóa An Cư, các Khóa Tu Học tổ chức tại Phật Học Viện Quốc Tế, Chùa Diệu Pháp, Chùa Bảo Quang,… ở Hoa Kỳ để tán trợ và đóng góp sự hiện diện cho Tăng đoàn thanh tịnh, Tứ chúng an hòa. Ở đất nước Hoa Kỳ, Phật Giáo Việt Nam có nhiều Giáo Hội khác nhau. Giáo Hội hay Tăng đoàn trên căn bản là Tăng Bảo là Tăng Già, hãy “tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám” (lời Giáo Huấn của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu) với nhau. Nếu như giữa Giáo đoàn Phật Giáo này với Giáo đoàn Phật Giáo kia mà không thể hòa hợp, tương trợ cho nhau thì thật là oái ăm buồn cười, làm sao có thể làm gương và hướng dẫn cho hàng Phật tử, vậy trách gì những mâu thuẫn mạ lỵ Tôn Giáo, thế giới chiến tranh, sống chất chồng với sân hận, phiền não, hơn thua và đau khổ.
Ngoài công việc Phật sự tại Hoa Kỳ, Ni Sư thường trở về Việt Nam để giảng Pháp qua nhiều Tự Viện tỉnh thành, giảng dạy tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Saigon, không phân biệt Giáo Hội trong nước, ngoài nước. Chúng ta quy y Tăng chứ đâu phải quy y Đảng phái, thể chế, lực lượng thế tục nào mà tại sao phải phân hóa, chia rẽ với nhau. Tất cả chiến tranh đều khởi lên từ Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, … phiền não bên trong chúng ta, vậy hãy lo dẹp trừ phiền não và góp phần củng cố hòa hợp Tăng đoàn.
- Vai trò tiếp Tăng độ chúng:
Tôi có duyên đến làm Chủ lễ và Chủ giảng cho Đại Lễ Vu Lan - Báo Hiếu - Chùa Hương Sen, Perris, Cali vào năm 2017 và lúc đó nhận thấy có khá nhiều đệ tử xuất gia và đến y chỉ của NS Giới Hương. Ni Sư còn có những đệ tử xuất gia ở tại Chùa Bình Chánh, Việt Nam. Ni Sư noi gương Sư Phụ của mình, tận tụy trong việc giáo dưỡng hàng đệ tử và hậu học.
Chư Tăng không thể vì công việc của Giáo Hội, xã hội, vì “việc lớn” mà lơ là việc hướng dẫn Tăng chúng nội viện tu học. Tre tàn măng mọc, ở ngoài đời, mỗi gia đình cố gắng nuôi dưỡng được 2 đứa con tốt để đóng góp cho xã hội, vậy trong Tự Viện mỗi vị Tăng phải nỗ lực dẫn dắt đàn hậu học khác, để lớp Tăng trẻ đó tiếp tục kế thừa mạng mạch của Đạo Pháp. Không có việc gì quan trọng hơn là tạo nên nguồn nhân lực, vì sức của mình luôn có giới hạn và chỉ kéo dài đến một khoảng thời gian nào đó. Đức chúng như hải, thế cho nên hãy tạo nên Tăng chúng tốt đẹp. Nếu mỗi vị Trụ trì tạo dựng nên mà không có người kế thừa hoặc không có người xứng đáng vậy chẳng phải thế hệ sau sẽ phá đổ đi những gì mà thế hệ trước xây dựng hay sao? Vị trụ trì nên có thời gian để cùng thọ trai, hành trì, tham dự cuộc họp với đại chúng, viếng thăm, nhớ tên tuổi, pháp danh, hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng từng người và biết hiện tại họ đang học gì, làm gì, ở vào giai đoạn nào để có thể hướng dẫn, giúp họ vượt khó khăn và định hướng cho họ tinh tiến nỗ lực trên đường Đạo.
Tôi thấy Ni chúng Chùa Hương Sen có đủ thành phần, đủ lứa tuổi và có những người vốn là khó phục ai, khó trị. Phải có Tâm và Tầm như NS Giới Hương mới cảm hóa được họ. Khi họ đi xuất gia là họ đã gửi cả thân mạng và tâm hồn cho mình vậy thì mình phải làm sao để cho sự nương nhờ của họ được chắc chắn, bình yên và phát triển đúng hướng.
- 6. Làm gương, tạo giềng mối cho hàng Ni giới Phật Giáo tại Hoa Kỳ:
Ở Hoa Kỳ, Phật Giáo còn non trẻ, thì số lượng Ni Trưởng và Sư Bà rất hiếm hoi. Thế hệ của Cố Ni Trưởng Đàm Lựu (Chùa Đức Viên), Ni Trưởng Nguyên Thanh (Chùa An Lạc) chẳng hạn là thế hệ thứ nhất, đến Hoa Kỳ từ trước năm 1990, bây giờ thế hệ của NS Giới Hương, đến Hoa Kỳ sau năm 2003 chẳng hạn, là thế hệ Ni Phật Giáo Việt Nam thứ hai tại Hoa Kỳ. Thế hệ Ni giới thứ nhất do hoàn cảnh Việt Nam chiến tranh và những điều kiện khắc nghiệt đã không được học hành trường lớp bài bản, không chuẩn bị hành trang kỹ trước khi đến và hành Đạo tại Hoa Kỳ, thế nhưng họ lại có thể tạo dựng nên Đạo nghiệp và đã có nhiều cống hiến, vậy thì thế hệ Ni giới thứ hai và sau này, được duyên học hành, tiếp cận, giao lưu thế giới rất nhiều, hãy tiếp tục kế thừa và phát huy những thành tựu đáng kể của Ni giới Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại. Nhu cầu được nương tựa tu học, được tư vấn, các Giới Đàn cần Giới Sư Ni truyền giới, quản chúng Ni trong sinh hoạt An cư trong Tăng đoàn…ngày càng tăng lên và những vị Ni như NS Giới Hương có mặt tại Hoa Kỳ thật đúng lúc và đáp ứng cho những nhu cầu cấp thiết đó. Không phải đợi một người đã ra đi chúng ta mới tán tụng và tôn xưng lên hàng Tổ Sư, quả nhiên, với thực tế lịch sử phát triển Phật Giáo Hải Ngoại đó, hình ảnh của những Ni Sư đầy đủ khả năng và nguyện lực như NS Giới Hương tạo nên những nét chấm phá, tô điểm cho Vườn Thiền.
- Hòa nhập với văn hóa bản xứ, dấn thân trong các hoạt động phúc lợi xã hội:
Hành đạo ở Hải Ngoại đòi hỏi sự sáng tạo, tùy duyên và phù hợp, ví dụ: Chánh điện không lớn như vậy thì nên thờ hướng nào, thờ những gì, làm Lễ vào ngày nào trong tuần, giờ nào, nên tụng Kinh gì, phong tục, nếp sống, công việc và nếp suy nghĩ của họ là như vậy thì nên thuyết giảng thế nào? Chúng ta nên biết họ đang nghĩ gì, mong muốn những gì và lo sợ, kiêng kỵ những điều gì nhất. Hoằng Pháp tuy là đúng Giáo lý nhưng mà phải hợp với căn cơ, văn hóa, phong tục, có lợi ích, họ tiếp nhận được như vậy mới có hiệu quả. Đôi khi không thể theo kiểu Việt Nam 100 % hoặc nói: “xưa bày nay làm”. Chẳng hạn, tấm gương hành Đạo của Thiền Sư Nhất Hạnh rất là phù hợp với văn hóa Âu Mỹ nên có ảnh hưởng rất lớn, đâu dễ gì có tu sĩ Việt Nam nào làm được như Ngài? Tuy không sánh bằng, nhưng chúng ta cố gắng noi gương và thích ứng, hòa nhập với nền văn hóa bản xứ. NS Giới Hương đi thăm các Trại tù giam, là kỹ sư tâm hồn, an ủi tù nhân tu sửa để trở thành người tốt cho xã hội. NS Giới Hương có nhiều cống hiến cho cộng đồng người Việt Hải Ngoại và khéo léo uyển chuyển hành Đạo ứng hợp với văn hóa bản địa.
- Tùy duyên bất biến, sử dụng nghệ thuật Nhạc - Thi Ca trong Hoằng Pháp:
Có giới cho hàng Sa Di, Sa Di Ni và cho những người thọ Bát Quan Trai là “Bất ca vũ xướng kỹ cập cố vãng quan thính” (không được ca nhạc xướng kỹ và cố đến xem nghe). Nhưng thực tế cuộc sống, hàng Phật tử họ đâu phải là Sa Di, Sa Di Ni, họ đâu phải ngày nào cũng thọ Bát Quan Trai Giới, nơ ron thần kinh của họ cần thư giãn, nếu không thì sẽ bị căng thẳng, không có nhạc này thì họ nghe nhạc khác. Vậy thì định hướng cho họ nghe nhạc, thay vì nghe nhạc “đời”, “nhạc vàng” sầu thương, bi lụy, tái tê, ru hồn vào mộng, mộng trùng mộng; họ nghe nhạc Phật Giáo để được nhắc nhở về Đạo lý và thân tâm của họ được an ổn, dễ chịu hơn. Chúng ta hãy xem dịp Xuân, Phật Đản, Vu Lan hoặc các đại lễ Phật Giáo, các Chùa Bắc Truyền nào mà không có âm nhạc Phật Giáo? Hơn nữa, Phật tử hải ngoại, thông thường mỗi ngày lái xe hơn 2 giờ ngoài đường, nhiều lúc kẹt xe nữa, nghe Thiền Ca có phải là dễ chịu và có bạn đồng hành trên hành trình vất vả mưu sinh của họ? Môn phong Làng Mai của Thiền Sư Nhất Hạnh cũng có Thiền Ca, thậm chí còn thay thế những phần tụng niệm tại Chánh Điện. Rõ ràng Thiền Ca là món ăn tinh thần cần thiết cho quần chúng Phật tử tại gia. Thế nên NS Giới Hương sáng tác, phát hành 11 DVD ca nhạc, thơ ca Phật Giáo, tôi có duyên làm người dẫn chương trình (MC) trong một dịp thực hiện và trình diễn 1 DVD âm nhạc của Ni Sư. Ni Sư là một vị Ni có cống hiến xuất sắc trên lĩnh vực khó làm này, đòi hỏi: Nghị lực, kiên nhẫn, thời gian, tỉ mỉ, cảm hứng, trình độ làm thơ, tiết tấu cung bậc âm nhạc,…
Tham khảo các DVDs âm nhạc của NS Giới Hương tại địa chỉ:
http://huongsentemple.com/index.php/am-nhac
- 9. Tấm gương Đạo Hạnh, tôn kính, vâng hành Bát Kỉnh Pháp:
Như phần đầu đề cập, NS Giới Hương là một người hài hòa, gần gũi, thân thiện, khiêm cung, chịu lắng nghe học hỏi, quan tâm đến ngươi khác, sống xây đắp cho đời, luôn tinh tấn vì Đạo pháp, chúng sanh và tôn kính Tăng Bảo, vâng hành Bát Kỉnh Pháp. Không phải vì những thành tựu Đạo nghiệp như vậy mà Ni Sư có ý tự cao, hoặc không tôn kính chư Tăng, dù họ nhỏ tuổi đời, tuổi Đạo hơn mình. Con người càng phô trương, càng biểu diễn, càng lấn lướt thì càng trống rỗng, thiếu công phu tu tập; với đàn hậu học, nếu có khoảng cách xa lạ quá thì họ “kính nhi viễn chi” (họ kính nhưng mà né tránh xa), vậy thì chúng ta không có nhiều cơ duyên để tiếp xúc, hiểu được họ, giúp cho họ.
Tất cả chúng sanh là cha mẹ, là thiện hữu tri thức, là nhân duyên quyến thuộc, hãy thân cận và mang những điều tốt đẹp đến cho mọi người, không có giai cấp, phân biệt, đó là những điều mà Ni Sư thể hiện. Tôi đã từng thấy có những nơi người tu mà còn chấp nặng về Danh và Tướng, về vai trò, “tầm” và “đẳng cấp” của mình, nếu người dẫn chương trình vô ý xếp sai chỗ ngồi, giới thiệu sai chức vụ, nếu người Phật tử chắp tay vái chào không đúng cách, nếu có ai đó sai trái hoặc làm điều gì không vừa lòng, họ nổ tung lên để thị uy. Đức Phật đã cởi bỏ hoàng bào để khoác lên mình áo bá nạp chằm vá khiếu khâu, đi khất thực nuôi sống qua ngày, chúng ta làm tu sĩ chứ đâu phải làm quan, làm ông này bà nọ. Hãy học hạnh của Thường Bất Khinh Bồ Tát, hãy sống, hãy thể hiện những điều mình nói, mình giảng, năng thuyết năng hành, hãy đem tâm Từ Bi Hỷ Xả, Bình Đẳng, Vô Ngã, Vị Tha mà ban rải đến mọi người. NS Giới Hương đã được hun đúc và thể hiện những phẩm hạnh tốt đẹp đó và có lẽ vì vậy mà đặt tên Chùa ở Perris là “Chùa Hương Sen”, chỉ có Hương Đạo Hạnh thanh khiết như Hương Sen, ngược gió khắp tung bay.
- Tận tâm tận lực với sứ mạng Hoằng Pháp độ sanh:
Với tâm nguyện của Sứ Giả Như Lai: “Hoằng Pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp” NS Giới Hương đã và đang đến nhiều đạo tràng, Niệm Phật Đường, Tự Viện, Tịnh Xá để thuyết Pháp. Ni Sư phải vượt qua cái nắng nóng và lạnh buốt khắc nghiệt của thời tiết Cali, đi khắp nhiều tiểu bang, thành phố Hoa Kỷ, cũng như trải qua nhiều Chùa ở Saigon và tỉnh thành ở Việt Nam, đáp lời cung thỉnh của các cơ sở Tự Viện, gieo duyên giảng Pháp. Ngoài ra Ni Sư gieo duyên đều đặn, chia sẻ những gì thiết yếu làm hành trang tu tập cho các Tăng Ni sinh các Khoa: Triết Học Phật Giáo, Hoằng Pháp, Anh Văn Phật Pháp tại Đại Học Vạn Hạnh. Biết được tâm nguyện và khả năng của Ni Sư cho nên mỗi lần Ni Sư về Việt Nam, tôi có mời Ni Sư đứng lớp thay tôi trong Khoa Triết Học Phật Giáo vài buổi và Ni Sư chu toàn rất tốt chức năng của giảng viên thuyết trình viên về các Đề tài: Đại cương Triết Học Phật Giáo, Tôn Giáo Học, Tư Tưởng Đại Thừa, Toát Yếu Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh nghiệm hành Đạo và hoằng Pháp,… theo khảo sát ý kiến các Tăng Ni sinh thu hoạch được thì những truyền đạt của Ni Sư dễ hiểu, mới mẻ, thiết thực, lợi lạc và tạo một nguồn cảm hứng rất lớn cho họ.
Chính vì tâm nguyện thiết tha Hoằng Pháp, với Tâm Bồ Đề, khả năng văn chương diễn đạt, ngôn từ thiện xảo, tư tưởng thâm nhập Ý Đạo, lời Kinh, đáp ứng được khát ngưỡng của quần chúng Phật tử, cho nên Ni Sư đã có một khối lượng lớn bài giảng Phật Pháp mà người học Đạo có thể tìm thấy và nghe lại tại các địa chỉ:
http://www.trangsuoitu.org/MP3-gioihuong.htm
http://huongsentemple.com/index.php/huong-sen-online/phap-am-audio
http://huongsentemple.com/index.php/huong-sen-online/phap-am-video
Ngoài việc thuyết giảng, như trên đã nói, Ni Sư say sưa đọc sách và viết sách. Đọc sách là thừa hưởng tư tưởng của người khác để làm giàu kiến thức, viết sách là đến lượt mình mang hoa thơm trái ngọt, tặng phẩm dâng đời. Ni Sư viết bài cho nhiều đặc san, Chùa Điều Ngự, Chùa Bảo Quang, Chánh Pháp, Hương Sen, Giao Điểm, đồng thời trong 14 năm hành Đạo tại Hoa Kỳ, Ni Sư đã viết và dịch được 42 cuốn sách giá trị, cứ trung bình mỗi năm 3 cuốn sách. Vào ngày 15/12/2019, NS Giới Hương được Liên Minh Kỷ Lục Thế Giới – Tổ Chức Kỷ Lục Người Việt Toàn Cầu xác nhận kỷ lục: Nữ Tiến sĩ người Mỹ gốc Việt viết và dịch nhiều ấn phẩm Phật Giáo nhất. Chúng ta nhiều năm chưa viết được một cuốn sách nào mà Ni Sư đã có 42 cuốn sách viết và dịch trong Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Chùa Hương Sen. So sánh đơn giản như vậy để chúng ta thấy mức độ chú tâm làm việc, hiệu quả, phong phú tư tưởng và thành tựu của Ni Sư là như thế nào. Dù là hoằng Pháp thông qua nói hay viết, đều là phương tiện ngôn ngữ để đi vào lòng người, cảm hóa con người và soi rọi ánh sáng chánh Pháp trong từng bước đi cuộc đời cho người đọc, người nghe.
Tóm lại: Giá trị của đời người không phải là sống bao lâu mà sống như thế nào, lợi ích cho ai và để lại được những gì? Trải qua 56 năm trần thế và 40 năm trong nếp sống Thiền Môn, Ni Sư đã hiến dâng tận tụy cho Đạo cho Đời ngần ấy sản phẩm và thành tựu mà nhiều người cả đời cũng chưa làm được như Ni Sư lúc bây giờ. Hình ảnh của Ni Sư là nguồn cảm hứng vô tận cho học sinh (đời học trò), cho những người bất hạnh ( tù nhân khốn khổ), cho giảng viên, Pháp Sư, cho Trụ Trì, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ,…. và quần chúng Phật tử, đàn hậu học. Xin tùy hỷ tán thán Ni Sư trong dịp các đệ tử đúc kết tập sách: “Tuyển Tập 40 Năm Tu Học và Hoằng Pháp của Ni sư Giới Hương”, đây không phải là lúc tự hào, tự mãn, khoe khoang mà là nhìn lại chính mình, rút thêm những bài học cho chính mình và chia sẻ kinh nghiệm cho những ai ở hoàn cảnh tương tự hoặc sắp bước qua những dặm trình như vậy. Nếu như mỗi người con Phật đều ý thức tinh tấn tu học, hành Đạo và đóng góp như Ni Sư thì kho tàng văn học Phật Giáo thêm phong phú, Thiền ca thêm nhiều hương sắc cho người nghe thưởng thức, pháp âm thêm lan tỏa, Phật Pháp xương minh, Tăng Già hòa hợp. Với tinh thần: “Người đó đã là Trượng Phu, chúng ta há chẳng phải vậy hay sao?” tôi hy vọng người đọc sẽ có nhiều lợi lạc, với cảm hứng từ sự tham khảo hành trạng Ni Sư Giới Hương để thêm tinh tiến hơn, có những khởi sắc thành tựu tốt đẹp tất cả Thiện Pháp và tu tập làm tốt Đạo, đẹp Đời. Cầu hồng ân Tam Bảo gia bị cho Ni Sư Giới Hương thân tâm an lạc, chư duyên thù thắng, Bồ Đề Tâm bất thối, Phật sự viên thành để có nhiều cống hiến khởi sắc hơn nữa trong giai đoạn sắp tới của đời mình, trong tâm nguyện: Tự độ, độ tha, tự giác, giác tha và bồi đắp cho thế giới này thêm Chân Thiện Mỹ.
Hương Sen lan tỏa khắp nơi nơi
Tâm nguyện độ sanh chẳng đổi dời
Bốn mươi năm chẵn, quay đầu lại
Từng bước hoa sen, đẹp cuộc đời….
Luân Đôn, ngày 16/12/2019
Thích Đồng Trí
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Giảng viên Khoa Triết - HVPGVN – Sài gòn Việt Nam
Giám đốc Trung Tâm Phiên dịch Phật Học Anh Việt –
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
THƯ MỤC THAM KHẢO: NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NI SƯ GIỚI HƯƠNG
Tủ Sách Bảo Anh Lạc
- Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions, Bhikkhuni Gioi Huong, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 1st print 2004, 2nd reprint 2005 & Vietnam Buddhist University: 3rd reprint.
- Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2 & 3 , NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008 & 2010.
- Ban Mai Xứ Ấn (3 tập), Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2 năm 2006; tái bản lần ba, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.
- Vườn Nai – Chiếc Nôi Phật Giáo, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2 & 3, NXB Phương Đông, 2008 & 2010.
- Xá Lợi Của Đức Phật, Tham Weng Yew, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2 tại Delhi 2006. Tái bản lần 3, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008.
- Quy Y Tam Bảo và Năm Giới, Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Wisconsin, USA, 2008. Tái bản lần 2, 2010 và lần 3 năm 2016
- Vòng Luân Hồi, Thích Nữ Giới Hương, NXB Phương Đông: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần 2, 2010; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.
- Hoa Tuyết Milwaukee, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008.
- Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần thứ 2, 2012; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.
- Nghi Thức Hộ Niệm Cầu Siêu, Thích Nữ Giới Hương biên soạn, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 2008.
- Quan Âm Quảng Trần, Thích Nữ Giới Hương, NXB Tổng Hợp: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010. Tái bản lần 2 năm 2012; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.
- Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù, Nhiều tác giả, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010. Tái bản lần 2 & 3: 2012 & 2014.
- Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hóa Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010. Tái bản lần thứ 2 năm 2011; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.
- Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV: (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012. Tái bản lần thứ 2, 2014 và lần thứ 3, 2016.
- A-Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012. Tái bản lần thứ 2, 2014 và lần thứ 3, 2016.
- Góp Từng Hạt Nắng Perris, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014.
- Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014. Tái bản lần thứ 2 & 3, 2015 & 2016.
- Tập Thơ Nhạc Nắng Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014.
- Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples), Võ Văn Tường & Từ Hiếu Côn, vol 2, Thích Nữ Giới Hương chuyển Anh ngữ. NXB: Hương Quê, 2016.
- Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam), Võ Văn Tường. Chuyển Anh ngữ: Thích Nữ Giới Hương. NXB: Phương Nam, 2016.
- Rebirth Views in the Śūraṅgama Sūtra, Dr. Bhikkhunī Giới Hương, Fifth Edition, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2018.
- Commentary of Avalokiteśvara Bodhisattva, Dr. Bhikkhunī Giới Hương, Fourth Edition, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2018.
- Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14th & Ni Sư Thubten Chodren, chuyển Việt ngữ: Ni Sư Tiến Sĩ TN Giới Hương, NXB Prajna Upadesa Foundation, 2018.
- Nét Bút Bên Song Cửa, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2018.
- Bản Tin Hương Sen (Anh-Việt): Xuân, Phật Đản, Vu Lan (Hương Sen Newsletter: Spring, Buddha Birthday and Vu Lan, annual/ Mỗi Năm), Hương Sen Press, USA, 2019.
- Máy Nghe MP3 Hương Sen: Các Bài Giảng, Sách, Bài viết và Thơ Nhạc của Thích Nữ Giới Hương (383/201 bài), Chùa Hương Sen, 2019.
- DVD Giới Thiệu về Chùa Hương Sen, USA. Xuất bản: Thích Nữ Giới Hương & Phú Tôn, 2019.
- Danh Ngôn Nuôi Dưỡng Nhân Cách-Good Sentences Nurture the Good Manner (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương collected, Hương Sen Press, USA. 2019.
- Hương Sen, Thơ và Nhạc -Lotus Fragrance, Poem and Music (Song ngữ Anh-Việt), Nguyễn Hiền Đức. Chuyển Anh Ngữ: Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức. 2019.
- Cách Chuẩn Bị Chết và Giúp Người Sắp Chết- Quan Điểm Phật Giáo (Preparing for Death and Helping the Dying – A Buddhist Perspective), Sangye Khadro, Chuyển Việt Ngữ: Thích Nữ Giới Hương. NXB Hồng Đức. 2019.
- The Key Words in Vajracchedikā Sūtra, Thích Nữ Giới Hương, Hương Sen Press, USA. 2019.
- Văn Hóa Đặc Sắc của Nước Nhật Bản-Exploring the Unique Culture of Japan (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương. NXB Hồng Đức. 2019.
- Three Jewels and Five Precepts, Thích Nữ Giới Hương, Hương Sen Press, USA. 2019.
- Sống An Lạc dù Đời không Đẹp như Mơ-Live Peacefully though Life is not Beautiful as a Dream (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương. NXB Hồng Đức. 2019.
- Sārnātha -The Cradle of Buddhism in the Archeological View, Thích Nữ Giới Hương, Hương Sen Press, USA. 2019.
- Hãy Nói Lời Yêu Thương-Words of Love and Understand (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương. NXB Hồng Đức. 2019.
37.Văn Hóa Cổ Kim qua Hành Hương Chiêm Bái -The Ancient- Present Culture in Pilgrim (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương. NXB Hồng Đức. 2019
38.Cycle of Life, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức. 2019.
39.Nghệ Thuật Biết Sống-Art of Living (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức. 2019.
- Tuyển Tập Ni Giới trong Thời Hiện Đại – The Contributions of Buddhist Nuns in Modern Times (Song ngữ Anh-Việt), Thích Nữ Giới Hương, Hương Sen Press, USA. 2020.
- Tuyển Tập 40 Năm Tu Học & Hoằng Pháp của Ni sư Giới Hương. Thích Nữ Viên Quang, TN Viên Tiến, TN Viên Nhuận & TN Viên Khuông, Xpress Print, USA. 2020.
- Forty Years in the Dharma: A Life of Study and Service - Venerable Bhikkhuni Giới Hương. Thích Nữ Viên Quang, TN Viên Tiến, TN Viên Nhuận & TN Viên Khuông, Xpress Print, USA. 2020.
ĐĨA CA NHẠC PHẬT GIÁO
CHÙA HƯƠNG SEN
- Đào Xuân Lộng Ý Kinh, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 1, năm 2013.
- Niềm Tin Tam Bảo, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Hoàng Y Vũ & Hoàng Quang Huế, volume 2, năm 2013.
- Trăng Tròn Nghìn Năm Đón Chờ Ai, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Võ Tá Hân, Hoàng Y Vũ, Khánh Hải, Khánh Hoàng, Hoàng Kim Anh, Linh Phương và Nguyễn Tuấn, volume 3, năm 2013.
- Ánh Trăng Phật Pháp, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Uy Thi Ca & Giác An, volume 4, năm 2013.
- Bình Minh Tỉnh Thức (Piano Variations for Meditation), Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Độc Tấu Dương Cầm và Hòa Tấu: Nữ Nhạc Sĩ Linh Phương, volume 5, năm 2013.
- Tiếng Hát Già Lam, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 6, năm 2015.
- Cảnh Đẹp Chùa Xưa, Nhạc: Hoàng Quang Huế, Hoàng Y Vũ, Võ Tá Hân, & Khánh Hải, volume 7, năm 2015.
- Karaoke Hoa Ưu Đàm Đã Nở, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 8, năm 2015.
- Hương Sen Ca, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 9, năm 2018.
- Về Chùa Vui Tu, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nguyên Hà & Nam Hưng, volume 10, năm 2018.
- Gọi Nắng Xuân Về, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 11, năm 2020.
Mời xem toàn bài với hình ảnh: 2.2._Gioi_Hanh_vien_dung_Huong_sen_lan_toa_-_Thich_Dong_Tri_.pdf