Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder
[01] Chương XIII – Phẩm Mười Ba Bài Kệ
474. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân (Amba)
475. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Phandana)
476. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền Thân Javana-Hamsa)
477. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền Thân Culla-Nàrada)
478. Chuyện Sứ Thần (Tiền Thân Dùta)
479. Chuyện Cây Bồ Đề Và Thánh Đế Kàlinga (Tiền Thân Kàlinga-Bodhi)
480. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền Thân Akitta)
481. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền Thân Takkàriya)
482. Chuyện Lộc Vương (Tiền Thân Ruru)
483. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền Thân Sarabha-Miga)
[02] Chương XIV – Tạp Phẩm
484. Chuyện Cánh Đồng Lúa (Tiền Thân Sàlikedàra)
485. Chuyện Đôi Ca Thần Canda (Tiền Thân Canda Kinnara)
486. Chuyện Chúa Chim Ưng (Tiền Thân Màha Ukkusa)
487. Chuyện Nam Tử Uddàlaka (Tiền Thân Uddàlaka)
488. Chuyện Củ Sen (Tiền Thân Bhisa)
489. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền Thân Suruci)
490. Chuyện Nam Vi Hành Trì Trai Giới (Tiền Thân Pancùposatha)
491. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền Thân Mahà-Mora)
492. Chuyện Lợn Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Taccha-Sùkara)
493. Chuyện Vị Đại Vương Nhân (Tiền Thân Mahà-Vànija)
494. Chuyện Đại Vương Sadhìna (Tiền Thân Sàdhìna)
495. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn (Tiền Thân Dasa-Bràhmana)
496. Chuyện Cúng Thực Phẩm Đúng Cấp Bậc (Tiền Thân Bhikkhà-Parampara)
[03] Chương XV – Phẩm Hai Mươi Bài Kệ
497. Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga (Tiền Thân Màtanga)
498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền Thân Citta-Sambhùta)
499. Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền Thân Sivi)
500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền Thân Sirimanda)
501. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền Thân Rohanta Miga)
502. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền Thân Hamsa)
503. Chuyện Anh Vũ Sattigumba (Tiền Thân Sattigumba)
504. Chuyện Ðại Vương Bhallàtiya (Tiền Thân Bhallàtiya)
505. Chuyện Vương Tử Hoan Lạc (Tiền Thân Somanassa)
506. Chuyện Long Vương Campeyya (Tiền Thân Campeyya)
507. Chuyện Sức Cám Dỗ Mạnh (Tiền Thân Mahà-Palobhana)
508. Chuyện Năm Vị Hiền Nhân (Tiền Thân Panca-Pandita)
509. Chuyện Hiền Giả Quản Tượng (Tiền Thân Hatthipàla)
510. Chuyện Vương Tử Trong Ngôi Nhà Sắt (Tiền Thân Ayoghara)
[04] Chương XVI – Phẩm Ba Mươi Bài Kệ
511. Chuyện Dục Tham Kỳ Dị (Tiền Thân Kimchanda)
512. Chuyện Bình Rượu (Tiền Thân Kumbha)
513. Chuyện Vương Tử Chiến Thắng (Tiền Thân Jayaddisa)
514. Chuyện Tượng Vương Ở Hồ Chaddanta (Tiền Thân Chaddanta)
515. Chuyện Nam Tử Sambhava (Tiền Thân Sambhava)
516. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Mahàkapi)
517. Tiền Thân Dakarakkhasa
518. Chuyện Long Vương Pandara (Tiền Thân Pandara)
519. Chuyện Hoàng Hậu Sambulà (Tiền Thân Sambulà)
520. Chuyện Vị Thần Cây Tindu (Tiền Thân Gandatindu)
[05] Chương XVII – Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ
521. Chuyện Ba Con Chim (Tiền Thân Tesakuna)
522. Chuyện Đại Nhân Thiện Xạ Sarabhanga(Tiền Thân Sarabhanga)
523. Thiên Nữ Alambusà (Tiền Thân Alambusà)
524. Chuyện Long Vương Samkhapàla (Tiền Thân Samkhapàla)
525. Chuyện Tiểu Sutasoma (Tiền Thân Sutasoma)
[06] Chương XVIII – Phẩm Năm Mươi Bài Kệ
526. Chuyện Công Chúa Nalinikà (Tiền Thân Nalinikà)
527. Chuyện Kỷ Nữ Ummadantì (Tiền Thân Ummadantì)
528. Chuyện Hiền Giả Đại Bồ Đề (Tiền Thân Mahà-Bodhi)
[07] Chương XIX – Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ
529. Chuyện Hiền Giả Sonaka (Tiền Thân Sonaka)
530. Chuyện Hiền Giả Samkicca (Tiền Thân Samkicca)
[08] Chương XX – Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
531. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền Thân Kusa)
532. Chuyện Hai Hiền Giả Sona-Nanda (Tiền Thân Sona-Nanda)

Chương XIII

Phẩm Mười ba bài kệ

  1. Chuyện trái xoài (Tiền thân Amba)

Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai..,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Ðề-bà-đạt-đa không thừa nhận bậc Ðạo Sư của mình và bảo:

– Chính ta sẽ là bậc Chánh đẳng giác và Sa-môn Gotama không phải là bậc Ðạo Sư hướng dẫn của ta.

Vì vậy, khi xuất định, ông gây chia rẽ trong Tăng chúng. Sau đó dần dà ông tiến về Xá-vệ, ở bên ngoài Tinh xá Kỳ Viên, thì mặt đất há miệng, ông rơi vào địa ngục Avìci (A-tỳ hay Vô gián địa ngục). Lúc ấy tất cả Tăng chúng đều nói chuyện ấy tại Chánh pháp đường:

– Này Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư và bị hủy diệt khủng khiếp, đó là sinh vào một đời sống khác trong địa ngục A-tỳ sâu thẳm.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì, hội chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa cũng như nay, Ðề-bà-đạt-đa đã xa rời bậc Ðạo sư của mình và bị hủy diệt khủng khiếp.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, cả gia đình của vị tế sư trong triều bị bệnh sốt rét tiêu diệt. Chỉ một người con trai duy nhất phá được tường nhà trốn thoát đi xa.

Chàng đến Takkasilà và học tập đủ các nghệ thuật kỹ năng với một vị giáo sư tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ.

Sau đó chàng từ giã sư phụ, và ra đi, với ý định chu du khắp nhiều miền; trên bước giang hồ, chàng đến một làng ở biên địa. Gần đó là một làng của giai cấp hèn hạ Chiên-đà-la (Candàla). Thời đó Bồ-tát cư ngụ trong làng này, và ngài là một bậc hiền trí. Ngài biết một thần chú làm cho quả trên cây mọc rộ lên trong lúc trái mùa.

Một buổi sáng kia, ngài mang đòn gánh đi ra khỏi làng mãi đến tận cây xoài mọc trong rừng, khiđứng cách đó bảy bước, ngài đọc thần chú và rảy một bụm nước vào cây đó. Trong chớp mắt, lớp lá khô rụng hết, lớp lá non mọc mầm, hoa nở rồi hoa tàn rụng, các trái xoài nhú ra. Song chỉ trong chốc lát chúng đã chín mọng ngọt ngào thơm ngát, xoài lớn nhanh như loại trái thần rồi rụng xuống đất! Bậc Ðại sĩ chọn ăn tùy thích, rồi chất đầy hai giỏ trên đòn gánh, đem trái đi bán và kiếm tiền nuôi vợ con.

Lúc bấy giờ, chàng trai Bà-la-môn thấy bậc Ðại Sĩ bán xoài chín trái mùa. Chàng suy nghĩ: “chắc hẳn phải nhờ công năng của một loại thần chú nào đó xoài ấy mới mọc được. Người này có thể dạy ta một thần chú vô giá”. Chàng rình ngắm kỹ cách thức bậc Ðại sĩ hóa phép ra các thứ xoài của ngài, và phát hiện việc này một cách chính xác.

Sau đó chàng đi đến nhà bậc Ðại sĩ lúc ngài chưa trở về từ khu rừng ấy, rồi làm như thể chưa biết gì cả, chàng hỏi người vợ của bậc Ðại sĩ:

– Ðại sư đâu rồi?

Bà đáp:

– Ðã vào rừng.

Chàng đợi cho đến khi ngài về, liền tiến tới phía ngoài, đỡ lấy đòn gánh và đôi thúng từ vai ngài,đem hết đồ đạc vào nhà và đặt ở đó.

Bậc Ðại sĩ nhìn chàng trai bảo vợ:

– Này hiền thê, chàng trai này đến đây để được dạy thần chú; song chẳng có thần chú nào ở lâu với gã ấy cả vì gã là người không tốt đâu.

Còn chàng trai nghĩ thầm: “Ta sẽ học được thần chú bằng cách làm tôi tớ cho thầy ta”.

Thế là từ đó chàng làm mọi công việc trong nhà như gánh củi, giã gạo, nấu nướng, mang đến thầy đủ các thức cần thiết để rửa mặt rửa chân.

Một ngày kia bậc Ðại sĩ bảo chàng:

– Này con, đem cho ta một cái ghế đẩu để gát chân.

Chàng ta chẳng còn cách nào khác, liền để hai chân của bậc Ðại sĩ lên đùi mình suốt đêm.

Vào mùa sau, bà vợ của ngài sinh hạ một con trai, chàng lại làm đủ mọi việc phục dịch trong thời bà ấy sinh sản. Một ngày nọ, bà vợ bảo bậc Ðại sĩ:

– Này phu quân, cậu trai dù là ở giai cấp quý tộc, lại hạ mình làm mọi việc tôi đòi, phục dịch cho nhà ta chỉ vì muốn có thần chú. Vậy phu quân hãy dạy thần chú cho cậu ấy đi, dù thần chú có chịu ở với cậu ấy hay không.

Ngài đồng ý việc đó. Ngài liền dạy thần chú cho cậu trai và bảo thế này:

– Con ạ, đây là thần chú vô giá, con nhờ nó sẽ được vinh quang phú quý tột bực. Nhưng hễ khi nào đức vua hoặc vị đại thần của ngài có hỏi ai là thầy dạy con thì con đừng dấu tên ta; vì nếu con hổ thẹn về chuyện người dạy con câu thần chú kia là một người hạ đẳng và con bảo rằng thầy dạy con là một vị Bà-la-môn quyền cao chức trọng thì con sẽ chẳng được kết quả gì do thần chú đem đến cả đâu.

– Tại sao con lại phải dấu tên của sư phụ kia chứ? Khi nào con được ai hỏi thì con sẽ nói chính sư phụ đây.

Sau đó chàng kính lễ thầy rồi từ giã cái thôn làng hạ đẳng kia, chàng vừa ra đi vừa suy nghĩ mãi về thần chú ấy, kịp lúc đến Ba-la-nại. Tại đó chàng bán xoài và thu được nhiều tiền bạc.

Bấy giờ, một ngày kia người giữ vườn ngự uyển dâng vua một trái xoài gã mới mua từ chàng trai ấy. Sau khi ăn xoài, vua hỏi gã kiếm được ở đâu ra trái xoài ngon ngọt như thế. Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, có một chàng trai mang xoài trái mùa tới bán. Tiểu thần đã mua được từ chàng ấy.

Vua bảo:

– Hãy dặn cậu ta từ nay mang xoài đến đây cho trẫm.

Người ấy làm y lời dặn, từ đó chàng đem xoài đến cung vua. Vua mời chàng đến phục vụ ngài, từ đó chàng trở thành bề tôi phục dịch vua, được hưởng đại phú quý, dần dần chàng được vua rất tin cậy.

Một ngày nọ vua hỏi chàng:

– Này thiếu sinh, khanh kiếm ra xoài trái mùa này ở đâu mà ngon ngọt, thơm ngạt ngào và màu sắc tươi đẹp thế? Có phải một vị Long vương, Kim sí điểu hay thần linh nào đó ban thưởng cho khanh, hoặc đây là phép tiên chăng?

– Tâu Ðại vương, chẳng ai cho tiểu sinh cả – chàng trai đáp – song tiểu sinh có một thần chú vô giá và đây là thần lực của chú ấy.

– Ðược, thế khanh có định biểu diễn cho trẫm xem thần lực của chú này một ngày nào đó chăng?

– Tâu Chúa thượng, tiểu sinh xin sẵn sàng thực hiện điều đó hầu Chúa thượng – chàng đáp.

Hôm sau vua cùng chàng ta vào vườn ngự uyển và ngài phán bảo chàng hãy biểu diễn thần chú. Chàng trai vâng dạ và đi đến gần cây xoài, đứng cách chừng bảy bước đọc thần chú và rảy nước vào cây. Trong chốc lát cây xoài sinh trái như cách đã tả trên đây: một đám xoài rụng xuống ào ào như cơn bão; đám người xem vô cùng thích thú vung vẫy khăn để hoan nghênh. Còn vua dùng xoài, xong thưởng công chàng hậu hỉ, rồi bảo:

– Này thiếu sinh, ai đã dạy khanh thần chú kỳ diệu này?

Bấy giờ chàng nghĩ thầm: “Nếu ta bảo một kẻ Chiên-đà-la hạ đẳng đã dạy ta thì ta sẽ bị làm nhục, hội chúng sẽ chế diễu khinh thị ta, nay ta đã thuộc lòng thần chú này, ta không bao giờ có thể mất nó. Ðược rồi, ta sẽ nói đó là một giáo sư lẫy lừng thiên hạ.

Vì thế, chàng nói dối và bảo:

– Tiểu thần đã học được tại Takkasilà từ một danh sư lẫy lừng thiên hạ.

Khi chàng nói những lời phủ nhận thầy dạy mình như thế, lập tức thần chú biến mất. Còn vua rất hoan hỷ, cùng chàng trở về kinh thành.

Một ngày kia, vua muốn ăn xoài, liền đi vào ngự uyển ngồi trên ghế đá, nơi thường dùng vào những dịp quốc lễ, ngài ra lệnh chàng trai đem xoài dâng ngài. Chàng trai tuân lệnh đi đến cây xoài, đứng xa bảy bước, bắt đầu đọc thần chú, song thần chú không công hiệu. Lúc ấy chàng biết mình đã mất thần chú, nên đứng im đầy hổ thẹn. Còn vua suy nghĩ: “Trước kia chàng này đã dâng xoài ào ào như mưa dông ngay giữa đám đông người, nay chàng đứng như trời trồng, vì nguyên cớ nào đây?”.

Vì thế ngài ngâm vần kệ đầu hỏi chuyện ấy:

  1. Trước kia, khi trẫm bảo chàng trai,
    Lớn nhỏ, chàng đem đủ loại xoài,
    Nay trái trên cây không xuất hiện,
    Dù chàng vẫn đọc chú kia hoài.

Khi nghe vậy, chàng trai nghĩ thầm rằng nếu chàng bảo hôm nay trái cây không thể có được thì vua sẽ tức giận, vì thế chàng nghĩ cách nói dối để lừa vua, liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thời gian không hợp: đợi khi nào,
    Kết hợp hành tinh giữa cõi cao,
    Gặp gỡ đúng thời, giây phút đến,
    Sẽ dâng xoài chín thật dồi dào!

“Cái gì thế này?” Vua tự hỏi. “Chàng trai trước kia chẳng hề nói chuyện hành tinh gặp gỡ cả”.

Ngài liền ngâm vần kệ để điều tra vấn đề này:

  1. Bữa trước, chàng không nói lúc nào,
    Hay mùa gặp gỡ các vì sao,
    Song xoài thơm ngát, ngon thanh vị,
    Màu đẹp, chàng dâng trẫm biết bao!
  2. Buổi nọ, chàng phô diễn trái cây,
    Nhờ câu thần chú, thật tài thay,
    Nay không làm được, dù chàng đọc,
    Trẫm muốn hỏi chàng ý nghĩa đây.

Nghe thế chàng trai suy nghĩ: “Không nên lừa phỉnh vua bằng lời dối trá. Nếu như khi ta nói sự thật mà ngài trừng phạt ta thì cứ để ngài trừng phạt; song ta phải nói sự thật này”. Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Một người hạ đẳng chính là thầy,
    Dạy đúng chú thần hữu hiệu đây,
    Bảo: Ðược hỏi tên thầy, chủng tộc,
    Con đừng giấu, kẻo chú thần bay!
  2. Thần được hỏi thăm bởi Ðại vương,
    Dù thần đã biết thật tinh tường,
    Vẫn mong lừa phỉnh, thần khai dối:
    “Thần chú kia là của đạo nhân”.
    Thần nói dối, nay đành mất chú,
    Ðắng cay, lòng tiếc việc si cuồng.

Nghe chàng nói điều này, vua tự nhủ: “Kẻ độc ác này không biết giữ gìn một kho báu vĩ đại dường ấy! Khi người ta có báu vật vô giá, thì nguồn gốc gia tộc có liên quan gì đến báu vật đó đâu?”. Trong cơn thịnh nộ, ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây nimb, hồng phượng hoặc thầu dầu,
    Bất cứ loại cây gỗ thế nào,
    Nơi đó thấy tầng ong mật ngọt,
    Người xem cây ấy tốt hàng đầu.
  2. Dù là Ðạo sĩ, Khat-ti-ya,
    Vệ-xá, Chiên-đà-la, Thủ-đà,
    Puk-ku-sa, người ta học tập,
    Thảy đều tối thượng với đời ta.
  3. Trừng phạt oắt con tệ bạc này,
    Hoặc lôi cổ nó giết đi ngay,
    Kho tàng đã được bao công khó,
    Lại vứt vì tâm ngã mạn đầy!

Quân sĩ của vua theo lời, bảo:

– Hãy trở lại thầy dạy anh và xin ngài tha thứ, rồi nếu anh học được thần chú lần nữa thì hãy vềđây; còn nếu không thì đừng bao giờ hòng để mắt đến xứ này nữa.

Nói thế xong, họ đuổi chàng đi.

Cậu trai hoàn toàn bơ vơ lạc lõng. Chàng nghĩ thầm: “Chẳng có nơi nào cho ta nương tựa trừ thầy ta ra. Ta quyết trở về với thầy ta, xin thầy tha tội cho, rồi xin học thần chú lại”.

Vậy là chàng vừa than khóc vừa tiến về phía làng ấy. Bậc Ðại sĩ thấy chàng đến, liền chỉ cho vợ ngài và bảo bà:

– Này hiền thê, hãy nhìn thằng khốn kia trở lại, mà thần chú đã biến mất rồi.

Chàng đến gần bậc Ðại sĩ, kính lễ ngài và ngồi xuống một bên. Ngài hỏi:

– Tại sao con đến đây?

Chàng đáp:

– Thưa sư phụ, con đã nói dối, chối bỏ về vị sư phụ của mình nên nay con hoàn toàn tiêu tan sự nghiệp.

Sau đó chàng kể lại lỗi lầm của mình trong một bài kệ và xin thần chú lần nữa:

  1. Kẻ nào nghĩ mặt đất san bằng,
    Ðang trải dài ra dưới gót chân,
    Liền ngã vào ao, hồ, vực thẳm,
    Vấp vào gốc rễ mục, long thân.
  2. Vật giống sợi dây, kẻ giẫm lên,
    Hóa ra con rắn, sắc đen huyền;
    Kẻ kia sa cẳng vào trong lửa,
    Vì mắt mù không thể xét xem.
  3. Con phạm tội, nên mất chú thần,
    Nhưng còn sư phụ, bậc Hiền nhân,
    Xin thầy tha thứ cho lần nữa,
    Nhìn tận mắt thầy, hưởng đặc ân!

Nhưng sư phụ chàng đáp:

– Sao này, con bảo gì vậy? Chỉ cần ra dấu cho kẻ mù lòa là nó tránh được ao hồ đủ thứ rồi; còn tađây đã dạy thần chú cho con một lần, con lại muốn gì nữa đây chứ?

Rồi ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Ðúng cách, ta từng dạy bảo ngươi,
    Chú kia, ngươi học đúng theo thời,
    Ta đà giảng đủ phần tinh túy,
    Ngươi khéo làm hay, chú chẳng rời.
  2. Ai đầy cực nhọc, hỡi ngu nhân,
    Học chú thần gian khổ, khó khăn,
    Ðối với loài người trên hạ giới,
    Rồi khi kẻ ngốc đã làm ăn,
    Cuối cùng nó lại đem quăng bỏ,
    Cũng chỉ vì mồm nói dối gian.
  3. Với kẻ ngu si muốn dối gian,
    Người không tự chế, kẻ vong ân,
    Cút ngay, đừng hỏi gì ta nữa,
    Ta chẳng còn cho nó chú thần!

Bị thầy dạy đuổi như vậy, chàng trai nghĩ thầm: “Ðời còn có nghĩa lý gì với ta nữa?”. Rồi chàng vào rừng sâu và chết bơ vơ một mình ở đó.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, này các Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa mới chối bỏ vị thầy dạy của mình, và phải chịu tiêu diệt thảm khốc.

Và nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ vong ân bội nghĩa kia, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là người Candàla (Chiên-đà-la) hạ đẳng.

-ooOoo-

  1. Chuyện cây hồng phượng vĩ (Tiền thân Phandana)

Người đứng cầm rìu ở dưới tay..

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trên bờ sông Rohini, về một việc tranh chấp cãi cọ trong gia đình.

Hoàn cảnh này được mô tả đầy đủ trong số 546. Tiền thân Kunàla. Vào dịp này, bậc Ðạo sư dạy bảo đám thân tộc ấy, Ngài nói:

*

Một thời kia vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, ngoài kinh thành là một làng thợ mộc. Trong làng có một người Ba-la-nại làm nghề kiếm sống bằng cách mang gỗ từ rừng về đóng xe kéo.

Vào thời ấy có một cây hồng phượng vĩ đại thọ ở vùng Tuyết Sơn. Một hắc Sư tử thường đến nằm dưới gốc cây ấy săn mồi.. Một ngày kia gió đánh mạnh cây khiến một cành cây khô rơi xuống, trúng vai Sư tử, cành đập mạnh vào khiến cho nó đau đớn vùng lên chạy trốn vì sợ hãi, sau đó quay lui nhìn trên con đường vừa mới chạy qua, khi chẳng thấy có gì cả; nó suy nghĩ: “Chẳng có sư tử, cọp, beo hay con gì nữa đuổi theo ta ở đây, thì ta chắc vị Thần cây không chịu cho ta nằm đó. Ta muốn xem có đúng vậy không?”. Suy nghĩ thế nó liền giận dữ thật vô lý, vừa đánh vào cây vừa thét lên:

– Ta chẳng ăn một ngọn lá nào bẻ trên cây của ông, cũng chẳng bẻ gãy cành nào, thế sao ông chịu cho các loài vật khác ở đây, mà ông không chịu cho ta ở? Ta có làm gì sai trái đâu, cứ đợi vài ngày nữa, ta sẽ phá nát gốc rễ cành lá ông, ta sẽ làm ông tan tác từng mảnh!

Sư tử mắng rủa vị Thần cây như vậy, rồi bỏ đi tìm một người.

Lúc ấy, người thợ mộc Bà-la-môn nói trên cùng với hai ba người khác đã dùng xe tải đến vùng lân cận ấy để kiếm gỗ đóng xe. Gã để chiếc xe một nơi, rồi cầm búa rìu trong tay đi tìm cây gỗ, gã chợt đến gần cây phượng vĩ. Con sư tử thấy gã, liền đi đến đứng dưới gốc cây vì nó nghĩ thầm: “Hôm nay ta phải trừ khử kẻ thù của ta mới được”. Người kia thấy nó và vội chạy trốn ra khỏi vùng rừng cây đó. Sư tử nghĩ thầm: “Ta phải nói chuyện với kẻ đó trước khi nó chạy đi mất”. Rồi nó ngâm vần kệ đầu:

  1. Người đứng cầm rìu ở dưới tay,
    Ði lui, đi tới chốn rừng này,
    Mau lên, nói rõ cho ta biết,
    Ông muốn cây gì ở chốn đây?

“Ô kìa! thật là kỳ diệu! – Người kia bảo khi nghe lời ấy – ta thề chưa bao giờ nghe thấy súc vật nói được như người. Chắc chắn nó sẽ biết rõ loài cây nào có gỗ tốt để đóng xe. Ta muốn hỏi nó”. Nghĩ vậy, gã liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên đồi, dưới vực, khắp đồng bằng,
    Làm chúa, ngài đi khắp núi rừng,
    Nói thật cho nghe, ta muốn hỏi,
    Cây gì tốt để bánh xe lăn?

Sư tử nghe vậy nghĩ thầm: “Bây giờ ta đã được toại nguyện rồi!”.

Nó liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Chẳng keo, tai ngựa, chẳng chiên-đàn,
    Chẳng bụi cây nào tốt gỗ hơn,
    Cây ấy, phượng hồng như vẫy gọi
    Làm xe gỗ tốt nhất trần gian.

Kẻ kia nghe vậy rất hài lòng, nghĩ thầm: “Thật là một ngày tốt lành đưa ta vào rừng. Ðây là một vị nào mang lốt thú vật chỉ bảo cho ta cây gỗ tốt để làm bánh xe. Kỳ lạ thật, song lại tuyệt quá!” Vì vậy, gã hỏi Sư tử vần kệ thứ tư:

  1. Cành lá cây kia kiểu thế nào,
    Thân cây trông thấy, loại ra sao,
    Mong ngài nói thật, ta xin hỏi,
    Ðể biết loài cây ấy ở đâu?

Sư tử ngâm hai vần kệ đáp lời:

  1. Này cây cành rũ thấy là đà,
    Cong xuống, song không gãy trước giờ,
    Cây phượng vĩ hồng này đấy bạn,
    Gốc cây thường đứng của nhà ta.
  2. Ðể làm vành trục hoặc khung càn,
    Ðôi bánh, hay bất cứ mọi phần,
    Cây giống như vầy đều ích lợi,
    Cho người khi đóng chiếc xe lăn.

Sau khi tuyên bố như vậy, Sư tử đứng xích ra một bên, lòng mừng khấp khởi. Còn người thợ mộc bắt đầu đẵn cây. Lúc ấy, vị Thần cây nghĩ thầm: “Ta không hề làm rớt cành nào trên con thú kia, mà nó lại nổi cơn thịnh nộ thật phi thời, bây giờ nó lại đang muốn phá nhà ta, và ta cũng sẽ bị hủy diệt nữa. Vậy ta phải tìm cách đập tan oai lực của nó”. Vì thế vị Thần này giả dạng tiều phu, đến gần gã thợ mộc kia bảo:

– Này người kia, anh kiếm được cây này đẹp quá! Thế anh định làm gì khi chặt nó đây?

– Làm bánh xe.

– Sao, có kẻ nào bảo anh là cây ấy làm bánh xe tốt lắm ư?

– Ðúng thế, một con hắc Sư tử.

– Tốt lắm, hắc Sư tử khéo nói lắm. Song, này ta bảo anh là lột được da cổ Sư tử màu đen rồi phủ lên quanh vành ngoài của bánh xe như một tấm chắn bằng sắt, chỉ một mảnh rộng chừng bốn lóng tay thôi thì bánh xe vững vàng lắm, anh sẽ hưởng lợi rất lớn nhờ đó.

– Nhưng làm sao ta kiếm được da Sư tử bây giờ?

– Sao anh ngu thế? Cây này đứng trong rừng, nó chạy đi đâu được. Anh cứ đi tìm sư tử kia đã chỉ bảo cho anh cây này và hỏi nó xem phải chặt phần cây nào, rồi đem nó về đây. Sau đó, nó chẳng nghi ngờ gì cả và chỉ nơi này nơi nọ, cứ chờ lúc nó nhe hàm răng ra thì lấy chiếc rìu bén nhất đập nó trong khi nó đang nói, giết nó đi mà lột da ra, ăn phần thịt ngon nhất, rồi hãy chặt cây tùy thích.

Như thế là Thần cây nổi cơn thịnh nộ.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Cây kia lập tức bảo như vầy,
    Ý nguyện ước ao được tỏ bày:
    “Ta cũng có điều này muốn nói
    Này Bhà-rad hỡi, hãy nghe đây!
  2. Từ bên vai chúa tể khu rừng,
    Anh hãy cắt ra rộng bốn phân,
    Bao phủ da quanh vành gỗ ấy,
    Rồi xe sẽ mạnh gấp đôi lần.
  3. Cây kia phút chốc nổi lôi đình,
    Trút xuống loài sư tử đã sinh,
    Cả với loài chưa xuất hiện nữa,
    Gây ra tàn sát khiến hồn kinh.

Người thợ làm xe nghe theo lời chỉ dẫn của Thần cây, kêu to:

– Ôi hôm nay thật là một ngày may mắn cho ta.

Rồi gã đi giết Sư tử, chặt cây xuống và đi về.

  1. Cây phượng vĩ tranh đấu chúa rừng,
    Chúa rừng tranh đấu với cây thần,
    Mỗi bên tranh chấp nhau như vậy,
    Ðem lại bên kia họa tử vong.
  2. Vậy giữa người, nơi có hận hiềm,
    Hoặc là cãi cọ nổi hăng lên,
    Khác nào thú dữ và cây gỗ,
    Chúng nhảy như loài Công múa men.
  3. Ðây này Ta bảo, chính điều lành,
    Là lúc các ông thuận ý tình,
    Hãy giữ đồng tâm, đừng cãi vã,
    Như cây và thú đã thi hành.
  4. Nên tập bình an với mọi người,
    Ðiều này bậc trí tán dương hoài,
    Ai mong an ổn và chân chánh,
    Tối hậu bình an sẽ đạt thôi.

Khi đám người ấy nghe lời khuyến giáo của vua, họ liền giải hòa với nhau.

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

*

– Vào thời ấy, Ta là vị Thần sống trong rừng kia và đã chứng kiến toàn thể câu chuyện này.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền thân Javana-Hamsa)

Này Thiên nga đến đậu nơi này..,

Chuyện này do bậc Ðạo sư kể tại Kỳ Viên về Kinh Dalhadhamma Suttanta hay Kinh Thí dụ các Lực sĩ.

Ðức Thế Tôn dạy:

– Này các Tỷ-kheo, giả sử có bốn thiện xạ đứng ở bốn điểm trên một vòng tròn, bốn lực sĩ khéo huấn luyện, thật tài giỏi, thiện xảo nghề cung tên, bắn ra bốn mũi tên từ bốn điểm, Tasẽ lấy bốn mũi tên vừa được bắn ra trước khi chúng chạm xuống đất; phải chăng rõ ràng các ông đều đồng ý rằng kẻ đó là một người rất nhanh nhẹn và chính là hiện thân của tốc lực tuyệt vời! Vậy mà, này các Tỷ-kheo, dù tốc lực của người kia nhanh đến đâu đi nữa, dù cho thần kỳ như tốc lực của mặt trăng, mặt trời, cũng còn cái khác nhanh hơn. Này các Tỷ-kheo, Tabảo tốc lực của người kia dù cho thần kỳ đến đâu đi nữa, dù nhiều vị Thiên bay nhanh hơn cả mặt trăng, mặt trời, vẫn còn có cái khác nhanh hơn chư Thiên ấy nữa. Này các Tỷ-kheo, tốc lực của người kia thần diệu là dường ấy (như trên). Tuy thế còn nhanh hơn cả chư Thiên biết bay là sự biến hoại của Tứ đại hợp thành sự sống. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các ông phải học tập điều này, phải tinh cần. Thật vậy, Tabảo các ông phải học tập điều này!”.

Hai ngày sau lời giáo huấn này, Tăng chúng bàn luận chuyện đó trong Chánh pháp đường:

– Này các Hiền hữu Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư trong địa vị tối thượng của một bậc Chánh Ðẳng Giác,đã chứng minh bản chất của những gì tác hợp nên sự sống, chỉ rõ đời sống thật là giả tạm và yếu ớt mỏng manh khiến cho Tăng chúng lẫn người ngoại đạo phải hết sức kinh hoàng. Ôi! Thần diệu thay uy lực của đức Phật!

Bậc Ðạo sư bước vào, hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài và Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay Tađạt Trí tuệ Viên mãn mà dùng lời khuyến giáo để báo trước cho Tăng chúng thấy rõ Tứ đại thật là giả tạm thì cũng chẳng kỳ diệu gì. Ngay cả khi Ta hóa sinh từ một chim thiên nga, Ta cũng chứng tỏ tính cách giả tạm của Tứ đại trong đời sống và bằng Giáo pháp của Ta, đã gây kinh hoàng cho cả triều đình một vị vua cùng với chín vị vua ở Ba-la-nại nữa.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời khi vua Brahmadatta lên ngôi ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh làm một chúa Thiên nga có thần tốc, sống trên núi Cittakùta, dẫn đầu một đoàn gồm chín mươi ngàn Thiên nga khác. Một ngày kia, sau khi cùng cả đoàn đi ăn lúa mọc hoang trong cái hồ ở vùng đồng bằng xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), ngài bay qua không gian (như thể một tấm thảm vàng óng ánh trải dài từ đầu nọ đến đầu kia của kinh thành Ba-la-nại) và lượn chầm chậm như đùa chơi về phía núi Cittakùta. Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại trông thấy ngài, liền bảo các triều thần:

– Con chim đằng kia ắt hẳn là chim chúa như trẫm đây.

Vua sinh lòng yêu mến chúa chim, nên đã đem vòng hoa, hương liệu và dầu thơm đi tìm bậc Ðại sĩ và bảo trình diễn đủ loại âm nhạc cho ngài nghe. Khi bậc Ðại sĩ thấy vua tôn vinh ngài như vậy, ngài hỏi các chim Thiên nga kia:

– Khi một ông vua muốn tôn vinh ta như vậy, vua ấy muốn gì chăng?

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn bầu bạn với Chúa thượng.

– Ðược rồi, thế thì ta bầu bạn với vua ấy!

Ngài bảo và ngài làm bạn với vua, rồi sau đó bay về tổ.

Một ngày kia, sau việc kết bạn này, vua vào ngự uyển và đi đến hồ Anotatta, chim chúa bay đến gần vua với một cánh mang đầy nước và cánh kia mang bột gỗ Chiên-đàn, chim rảy nước lên mình vua và rắc bột gỗ Chiên-đàn cho vua nữa, trong lúc hội chúng đang nhìn theo, ngài lại cùng với đàn chim bay về Cittakutà. Từ lúc ấy về sau, vua cứ mong ngóng bậc Ðại sĩ mãi; ngài thường nấn ná chờ đợi vừa nhìn con đường bậc Ðại sĩ đến và nghĩ thầm: “Hôm nay thân hữu ta sẽ đến”.

Lúc bấy giờ hai con thiên nga non trẻ nhất trong đàn của bậc Ðại sĩ, quyết định thi đua với mặt trời, vì vậy chúng xin phép bậc Ðại sĩ thử sức bay qua với mặt trời. Ngài bảo:

– Này các chú, tốc lực mặt trời rất thần kỳ, các chú không bao giờ có thể thi đua với mặt trời đâu. Các chú sẽ chết tiêu tan trong cuộc thi tài ấy. Vậy các chú đừng đi.

Lần thứ hai chúng xin phép, rồi lần thứ ba. Song Bồ-tát phản đối chúng đến lần thứ ba chúng xin. Tuy nhiên, chúng vẫn khăng khăng giữ ý định đó, không tự lượng sức mình, rồi cương quyết bay đua với mặt trời mà không tâu trình với chúa chim. Vì thế, trước lúc rạng đông, chúng đã đậu trên đỉnh núi Yugandhara (một trong bảy rặng núi lớn quanh núi Meru: Tu-di).

Bậc Ðại sĩ thấy vắng chúng, liền hỏi chúng đi đâu. Khi ngài nghe những việc xảy ra , ngài nghĩ thầm: “Chúng sẽ chẳng bao giờ đủ sức bay đua với mặt trời, và chúng sẽ bị tiêu diệt trong cuộc so tài ấy. Ta phải cứu mạng chúng mới được”. Vì vậy, ngài bay đến đỉnh núi Yugandhara và đậu bên cạnh chúng. Khi vầng nhật xuất hiện trên đường chân trời, đôi tiểu thiên nga vùng lên, lao tới đằng trước theo mặt trời, bậc Ðại sĩ cũng bay theo chúng. Con chim bé nhất bay tới trước giờ ngọ thì ngất xỉu. Bên trong khớp xương đôi cánh nó cảm thấy như thể đang bị lửa đốt. Rồi nó ra hiệu cho bậc Ðại sĩ:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không tiếp tục được nữa.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Ðừng sợ, ta sẽ cứu chú.

Rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài an ủi nó, đưa nó về núi Cittakùta đặt nó xuống giữa đàn thiên nga, sau đó ngài lại bay đi bắt kịp mặt trời, đến bên cạnh chim kia. Con chim ấy bay đua với mặt trời cho đến gần đúng ngọ thì ngất ngư và thấy như thể lửa đang thiêu đốt trong khớp xương ở đôi cánh của nó. Nó vừa làm dấu cho bậc Ðại sĩ vừa kêu lên:

– Thưa đại huynh, tiểu đệ không thể tiếp tục được nữa.

Ngài cũng an ủi nó như trên, rồi mang nó trên đôi cánh dang rộng của mình, ngài đưa nó về đỉnh Cittakùta. Vào lúc ấy mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ thử xem uy lực của mặt trời ra sao”. Thế là chỉ cần phóng lui một vòng, ngài đã đậu trên đỉnh Yugandhara. Sau đó vừa tung cánh lên là ngài bắt kịp mặt trời, ngài bay đi, lúc tiến về phía trước, lúc lùi lại đằng sau, ngài nghĩ thầm: “Ðối với ta thì chuyện bay đua với mặt trời thật là vô ích, chỉ do trí ngu si mà ra cả, nó có nghĩa lý gì đối với ta đâu? Ta muốn bay đến Ba-la-nại, nói cho thân hữu của ta là vua ấy một lời khuyến giáo về công bình và chân chánh”.

Rồi quay lại trước khi mặt trời dần đi xuống giữa không gian, ngài bay qua toàn cõi thế giới từđầu chí cuối xong, ngài giảm dần tốc lực, bay từ đầu nọ đến đầu kia toàn xứ Diêm-phù-đề, cuối cùng đến thành Ba-la-nại. Cả kinh thành này với chu vi chừng mười hai dặm, như thể đang nằm dưới bóng chim chúa, không có một khe hở nào lộ ra; rồi tốc lực giảm dần, những lỗ trống, kẽ hở lại xuất hiện trên bầu trời. Bậc Ðại sĩ bay chầm chậm rồi đáp xuống từ không trung, hạ cánh trước song cửa. Vua vui mừng reo lớn:

– Thân hữu của ta đang đến kìa!

Rồi đặt chiếc bảo tọa bằng vàng cho chim đậu, vua phán:

– Xin Hiền hữu vào đây, an tọa tại nơi này.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Chúa Thiên nga, đến đậu nơi đây,
    Lòng trẫm thiết tha diện kiến ngài,
    Hãy chọn thứ gì ngài thấy được,
    Nay ngài là chúa tể nơi này.

Bậc Ðại sĩ đậu trên bảo tọa bằng vàng. Vua xoa vào dưới đôi cánh của ngài những loại dầu thơm đã lọc sạch cả trăm lần, hay còn hơn thế nữa, cả ngàn lần, ban cho ngài thứ gạo mềm mại và nước đường trong cái đĩa bằng vàng, rồi nói chuyện với ngài với giọng ngọt ngào như mật:

– Này Hiền hữu, ngài đến đây một mình, vậy ngài từ đâu lại?

Chim chúa kể hết mọi việc. Sau đó vua bảo ngài:

– Này Hiền hữu, xin ngài lần nữa biểu diễn tốc lực của ngài so với mặt trời kia.

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không thể phô diễn được.

– Vậy xin ngài biểu diễn một việc tương tự như thế.

– Ðược lắm, thưa Ðại vương, ta sẽ biểu diễn một việc tương tự như vậy. Xin triệu tập các xạ thủ bắn nhanh như chớp lại đây.

Vua liền ra lệnh triệu tập họ. Bậc Ðại sĩ lựa bốn người rồi cùng họ từ cung điện đến sân chầu. Nơi đó, ngài bảo dựng một trụ đá, và buộc vào cổ ngài một cái chuông nhỏ. Sau đó, ngài đậu trên đỉnh trụ đá, đặt bốn xạ thủ quay lưng từ trụ đá hướng ra bốn phía, bảo:

– Thưa Ðại vương, xin ra lệnh cho bốn xạ thủ bắn ra cùng một lúc bốn mũi tên về bốn hướng và ta sẽ chụp lấy bốn mũi tên ấy trước khi chúng chạm mặt đất rồi đặt xuống chân các xạ thủ. Ðại vương sẽ biết khi nào ta đi nhặt các mũi tên nhờ tiếng chuông reng reng, song Ðại vương chẳng trông thấy được ta đâu.

Sau đó đồng loạt các xạ thủ bắn bốn mũi tên ra, ngài liền chụp lấy chúng và đặt dưới chân đám xạ thủ kia, còn mọi người thấy ngài đang đậu trên trụ đá.

– Thưa Ðại vương, ngài đã thấy tốc lực của ta chăng?

Rồi ngài nói tiếp:

– Thưa Ðại vương, tốc lực ấy không phải là tốc lực bậc nhất của ta đâu, cũng không phải là tốc lực bậc trung mà là tốc lực kém nhất trong các tốc lực thấp kém: thế mà nó đã chứng tỏ cho Ðại vương thấy ta nhanh nhẹn đến mức độ nào.

Sau đó, vua hỏi ngài:

– Này Hiền hữu, thế có tốc lực nào nhanh hơn tốc lực của ngài chăng?

– Thưa Hiền hữu, có chứ. Nhanh hơn tốc lực của ta đến trăm lần, à không, cả ngàn lần, là sự biến hoại của Tứ đại trong đời sống của loài hữu tình: Chúng tan rã như vậy đó, chúng bị tiêu diệt như vậy đó.

Bằng cách ấy ngài đã làm sáng tỏ cách thế giới hữu hình hoại vong như thế nào, bị hủy diệt như thế nào từng giây từng phút. Khi nghe nói vậy, vua sợ chết, không còn giữ bình tĩnh được nữa, mà ngất xỉu đi. Cả hội chúng kinh hoàng, rảy nước vào mặt vua, khiến ngài hồi tỉnh. Sau đó bậc Ðại sĩ nói với vua:

– Thưa Ðại vương, chớ sợ hãi, nhưng hãy nhớ đến thần chết. Hãy tiến lên trong đường công chính, bố thí và làm thiện sự, phải gắng tinh cần.

Lúc ấy vua đáp lại:

– Tâu Chúa thượng, nếu không có một Ðạo sư hiền trí như ngài, trẫm không thể nào sống được, vậy xin ngài đừng trở về đỉnh núi Cittakùta nữa, mà hãy ở lại đây, dạy bảo trẫm, xin hãy làm Ðạo sư để giáo hóa trẫm.

Rồi vua ngâm hai vần kệ thỉnh cầu ngài:

  1. Nhờ nghe nói đến người mình yêu mến,
    Mà tình yêu thương được dưỡng nuôi hoài,
    Lòng nhớ nhung người vắng bóng dần phai,
    Vì nghe, thấy, khiến người sinh lưu luyến,
    Xin hãy cho ta đặc ân diện kiến.
  2. Giọng nói ngài thật thân ái bên ta,
    Diện kiến ngài còn thắm thiết hơn xa,
    Vì ta thích được cùng ngài diện kiến,
    Thiên nga hỡi, ở cùng ta, xin đến!

Bồ tát đáp:

  1. Ví dù ta ở lại với Quân vương,
    Trong cảnh vinh quang dường ấy được ban,
    Song ngày kia, choáng men nồng, Chúa thượng
    Có thể truyền: “Ðem chúa chim ra nướng!”.

– Không đâu – Vua nói – Lúc có ngài ở bên cạnh, trẫm sẽ không bao giờ đụng đến men rượu nồng nữa.

Rồi vua cam kết hứa hẹn điều này qua vần kệ sau:

  1. Thức uống, ăn kia thật đáng rủa nguyền
    Nếu trẫm quý yêu hơn cả bạn hiền!
    Trẫm không nếm, dầu giọt nào hay ngụm,
    Bao lâu ngài ở lại đây cùng trẫm!

Sau vần kệ này, Bồ-tát ngâm sáu vần kệ khác:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng tối nghĩa, hỡi quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình!”.
    Song tình bằng hữu thường hay mất,
    Căm hận, oán thù lại khởi sinh.
  3. Ai được ngài thương, cũng quý ngài,
    Gần ngài, dù ở tận phương trời,
    Song người sống cận kề ngài đó,
    Lòng ngài hờ hững, cũng xa vời.
  4. Ai ở nhà ngài, dạ mến thương,
    Vẫn ân cần, dẫu cách trùng dương,
    Nhà ngài ai ở, tâm thù nghịch,
    Xa cách trùng dương, vẫn oán hờn!
  5. Những người thù nghịch, Chúa công ôi!
    Dù ở gần nhau, vẫn cách vời.
    Song hỡi Ðại vương-nuôi-quốc-độ,
    Các hiền nhân kết hợp nhau hoài!
  6. Ai ở quá lâu sẽ thấy rằng
    Thân bằng có lúc hóa cừu nhân,
    Trước khi để mất tình thân hữu,
    Ta giã biệt ngài, cất bước chân.

Sau đó vua nói với ngài:

  1. Dù trẫm chấp tay lại cố nài,
    Ngài không hề chịu để vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho bằng hữu
    Tha thiết cầu mong giúp đỡ hoài.
    Trẫm khát khao ngài ban đặc huệ:
    Trở về đây viếng trẫm nay mai.

Thế rồi Bồ tát đáp lời:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Vì thử ngài, ta, Chúa thượng ôi!
    Còn sống, hỡi Người-nuôi-đại-chúng,
    Ta bay về lại chốn đây thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến,
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Với lời nhắn nhủ vua xong, bậc Ðại sĩ lên đường về núi Cittakùta.

*

Khi bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, ngày xưa, ngay cả khi Ta được sinh vào loài súc vật, Ta đã chứng minh tính cách mong manh của Tứ đại trong cuộc sống và tuyên thuyết Chánh pháp.

Nói vậy xong, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là con chim trẻ nhất, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim non thứ hai, hội chúng của đức Phật là tất cả Thiên nga, và Ta chính là Chúa Thiên nga có thần tốc.

-ooOoo-

  1. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền thân Culla-Nàrada)

Không có củi nào được bổ ra..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các trò quyến rủ của một cô gái thô tục.

Thời ấy, Ta biết rằng có một cô gái chừng mười sáu tuổi, con của một người dân thành Xá-vệ là một cô gái có thể đem vận may đến cho đàn ông, song chẳng có nam nhân nào chọn nàng cả. Vì vậy, mẹ nàng nghĩ thầm: “Con gái ta đã đến tuổi trưởng thành. Song chẳng ai chọn nó cả. Ta muốn dùng nó như miếng mồi câu cá, khiến cho một vị xuất gia tu hành trong dòng họ Thích-ca phải hoàn tục và nó sống nương nhờ vị ấy”.

Lúc bấy giờ, có một thiện gia nam tử ở Xá-vệ, đã quyết tâm tu hành và gia nhập Tăng chúng. Nhưng từ khi chàng đã thọ Ðại giới xong, chàng lại mất cả ước vọng tu tập và cứ sống chuyên lo tô điểm bản thân chàng.

Người nữ cư sĩ này thường hay dọn sẵn cháo gạo trong nhà và nhiều thức ăn loại cứng, loại mềm, rồi đứng ở cửa trong khi Tăng chúng đi ngang qua đường phố và cố tình xem ai là người có thể bị lòng thèm ăn của ngon vật lạ lôi cuốn. Kìa lũ lượt trên đường là đám nam tử hành trì Tam Tạng Kinh, Luật, Luận, song bà không tìm được ai có thể mắc vào mồi của bà cả. Giữa các vị mang bình bát đắp y kia là những vị pháp sư thuyết giáo với giọng ngọt ngào như mật, di chuyển như đám mây bồng bềnh trước gió, bà chẳng thấy ai cả.

Song cuối cùng bà chợt thấy một nam nhân tiến tới, khóe mắt xoa dầu thơm, tóc buông xõa, mang chiếc y trong bằng thứ lụa mượt mà, chiếc y ngoài được giặt giũ sạch sẽ, bình bát có màu sắc đẹp như loại bảo châu, chiếc dù thật vừa ý, một con người buông thả các căn theo sở thích, toàn thân một màu đồng vàng bóng lộn. “Ðây chính là người mà ta có thể bắt lấy!” Bà nghĩ thầm và đảnh lễ vị kia, bà đến cầm lấy bình bát và mời ông vào nhà.

Bà dọn chỗ ngồi cho ông, đưa cháo gạo và các thức khác. Rồi sau bữa ăn, bà yêu cầu ông ghé nhà bà làm nơi nghỉ chân lui tới trong tương lai. Vì thế, ông thường viếng thăm nhà đó về sau, dần dần với thời gian trở nên thân thiết.

Một ngày kia, bà cư sĩ ấy nói cốt cho ông nghe:

– Trong nhà này, chúng ta sung sướng lắm, duy chỉ một điều là ta chẳng có con trai hay con rể để bảo tồn gia sản thôi.

Ông nghe được, tự hỏi không biết lý do gì bà lại nói vậy, chẳng mấy chốc dường như việc đó đã đâm sâu vào tim ông. Bà ta bảo con gái:

– Con hãy quyến rủ người này đi, hãy tìm cách điều khiển chàng theo ý con.

Vì thế sau đó, cô gái tô điểm đầy mình đủ loại trang sức và quyến rủ vị kia, dùng đủ mánh lới xảo quyệt của nữ nhân. (Ta phải hiểu rằng “một cô gái thô tục” đây không có nghĩa là thân hình mập mạp, nhưng dù mập hay gầy, cô ta cũng bị gọi là “thô tục” vì mãnh lực năm thứ dục tình của cô ta).

Sau đó, nam tử kia còn trẻ lại bị dục tình chi phối, nên lòng thầm nghĩ: “Nay ta không thể nào tu theo Giáo pháp của đức Phật được nữa”. Và ông đi đến Tinh xá đặt y bát xuống, nói với các vị giáo thọ của mình:

– Tâm con đang thối thất.

Rồi các Tỷ-kheo ấy dẫn ông đến bậc Ðạo sư và thưa:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ kheo này đang thối thất.

Ngài hỏi:

– Này Tỷ kheo, họ bảo rằng tâm ông đang thối thất. Có đúng vậy không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật như vậy.

– Thế việc gì khiến ông như vậy?

– Bạch Thế Tôn, một cô gái thô tục.

Ngài bảo:

– Này Tỷ kheo, ngày xưa, lâu lắm rồi, khi ông ở trong rừng, chính cô gái này đã cản trở đời thanh tịnh của ông và đã làm hại ông rất nhiều, thế thì tại sao ông lại sinh thối thất vì cô ta nữa?

Rồi theo lời thỉnh cầu của tăng chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời kia, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào một gia đình Bà-la-môn rất giàu có. Sau khi thành đạt việc học vấn, ngài về điều hành cả tài sản. Kế đó, bà vợ ngài sinh một con trai rồi qua đời. Ngài suy nghĩ: “Cũng như vợ yêu quý của ta, cái chết sẽ không chừa ta đâu, vậy gia đình có nghĩa gì với ta nữa? Ta muốn xuất gia tu hành”.

Vì thế, ngài từ bỏ mọi tham dục, cùng con trai ngài đi vào vùng Tuyết Sơn, ở đó cùng sống đời ẩn sĩ, tu tập Thiền định và Thắng trí, cư trú trong rừng, sinh sống bằng trái cây và củ rừng.

Vào thời ấy, dân chúng ở biên địa cướp phá xứ sở, sau khi tấn công một thị trấn và bắt các tù nhân, bọn chúng chất đầy chiến lợi phẩm, trở về biên địa. Trong đám ấy, có một cô gái tuyệt đẹp, song đầy mánh khóe giả dối. Cô ta nghĩ thầm: “Các đàn ông này khi mang chúng ta đi xa nhà, sẽ biến bọn ta thành nô lệ, quyết tìm cách trốn thoát”. Vì vậy, cô ta bảo:

– Thưa chủ nhân, thiếp muốn nghỉ chân, vậy cho thiếp đi nghỉ chân một lát.

Nàng đánh lừa bọn cướp như thế, rồi trốn đi.

Lúc bấy giờ, Bồ tát đã đi vào rừng tìm củ quả, để con trai ở lại am lá. Trong khi ngài đi vắng, cô gái đang lang thang trong rừng, bước đến am này vào sáng sớm, quyến rủ chàng trai bằng dục tình, phá hủy công đức của chàng và chinh phục chàng theo ý mình. Nàng bảo chàng:

– Sao chàng lại ở trong rừng, này đôi ta cùng về một làng kia làm nhà riêng cho ta ở. Tại đó đôi ta dễ dàng tận hưởng mọi lạc thú ái tình.

Chàng bằng lòng và bảo:

– Nay cha ta đang ở trong rừng kiếm trái cây, khi nào gặp lại cha ta thì sẽ cùng nhau đi xa.

Lúc ấy, cô gái thầm nghĩ: “Cậu trai khờ dại này chẳng biết gì cả, song còn cha cậu ắt hẳn đã xuất gia tu hành lúc tuổi già. Khi ông ấy về nhà, ông ấy sẽ biết ta làm gì ở đây và đánh đập ta, lôi cổ kéo cẳng ta ra, quẳng ta vào rừng sâu. Vậy ta muốn đi ngay trước khi ông ấy về”.

Rồi chỉ rõ dấu hiệu đi đường xong, nàng liền đi ngay. Sau khi nàng vừa khuất bóng, chàng trai trở nên buồn bã, không làm phận sự hàng ngày như thường lệ, mà đi trùm kín từ đầu tới chân nằm dài ra trong am lá, u sầu phiền muộn.

Khi bậc Ðại sĩ đem mớ quả rừng về nhà, ngài quan sát dấu chân cô gái: “Ðây là dấu chân một nữ nhân”, ngài nghĩ thầm: “Ắt hẳn công đức của con trai ta đã mất rồi”. Sau đó ngài bước vào am đặt mớ quả rừng xuống và ngâm vần kệ đầu hỏi con trai ngài:

  1. Không có củi nào được bổ ra,
    Và không kéo nước tự ao hồ,
    Cũng không có lửa nào con nhóm,
    Ðờ đẫn nằm sao giống kẻ rồ?

Nghe giọng của cha, chàng trai vùng dậy đảnh lễ cha và hết sức cung kính, chàng thổ lộ rằng chàng không thể nào chịu được cuộc sống trong rừng nữa, và chàng ngâm đôi vần kệ:

  1. Con không thể sống ở sơn lâm,
    Cuộc sống trong rừng thật khó khăn,
    Con quyết điều này, Ca-diếp hỡi!
    Con mong trở lại chốn phàm nhân.
  2. Này Ðại sĩ ơi, hãy dạy con,
    Khi con từ giã, bước lên đường,
    Thế nào phong tục trong toàn quốc
    Con phải biết cho thật tỏ tường.

Bậc Ðại sĩ bảo:

– Này con, được lắm, ta sẽ dạy con mọi phong tục trong nước.

Và ngài ngâm đôi vần kệ:

  1. Nếu con đã quyết chí xa rời
    Các trái cây rừng với sắn khoai,
    Về sống thị thành, nghe dạy bảo
    Làm sao phong cách hợp theo đời.
  2. Tránh nơi vách đá, chốn hang sâu,
    Thuốc độc, rời xa, dẫu loại nào,
    Bước thận trọng nơi loài rắn ở,
    Ðống bùn nhơ bẩn, chờ sa vào.

Con trai vị ẩn sĩ không hiểu được lời khuyên cốt lõi ấy, liền hỏi:

  1. Cách đá, dốc cao ấy có gì
    Liên quan đến Thánh đạo ta đi,
    Bùn nhơ, thuốc độc cùng loài rắn?
    Xin nói điều này với tiểu nhi.

Vị ấy đáp lời giải thích:

  1. Có thuốc uống kia ở cõi trần,
    Mà người ta gọi rượu, con thân,
    Thơm tho, như mật ong ngon ngọt,
    Giá rẻ, đầy hương vị dịu dàng,
    Cái ấy, Na-ra-da, bậc trí
    Bảo là thuốc độc đối hiền nhân.
  2. Và bọn nữ nhân ở cõi trần,
    Làm người ngu trí phải điên cuồng,
    Chúng lôi đám trẻ người non dạ,
    Như bão dưới đường bắt hạt bông,
    Ta nói vực sâu là đấy nhé
    Ðang nằm ngay trước mặt hiền nhân.
  3. Ðược đời trao tặng đại vinh quang,
    Ân sủng, lộc nhiều, tiếng tốt vang,
    Này đó, Nà-ra, bùn cấu uế
    Có cơ làm bẩn các hiền nhân.
  4. Ðế vương cùng với đám quần thần
    Ðang ngự trong cung chốn thế nhân,
    Này đó, Na-ra đều chức trọng,
    Mỗi vua là một chúa oai hùng.
  5. Trước chân vua chúa, các quân vương,
    Con nhớ đừng nên chọn bước đường
    Vì đó, Na-ra là rắn cả,
    Những người ta đã nói, con thương.
  6. Ngôi nhà con đến để xin ăn,
    Khi mọi người an tọa trước bàn,
    Nếu thấy tốt lành trong chỗ ấy,
    Thì con ăn uống thỏa thuê lòng.
  7. Khi người kia dọn bữa mời con,
    Thực hiện điều này lúc uống ăn:
    Ðừng uống quá chừng, ăn quá độ,
    Tranh xa nguồn dục lạc phàm trần.
  8. Rượu chè, chuyện phiếm, bạn tà gian,
    Các tiệm bán buôn của thợ vàng,
    Con hãy tránh xa như những kẻ
    Ði trên đường lộ chẳng bình an.

Trong khi người cha cứ tiếp tục nói mãi, nói mãi bên tai, chàng trai dần dần hồi tỉnh và nói:

– Thưa phụ thân, con đã chán chê cõi phàm trần rồi.

Sau đó vị cha dạy cho chàng tu tập từ tâm và các thiện pháp khác. Người con nghe theo lời cha dạy bảo, chẳng bao lâu phát khởi Thiền định trong tâm trí chàng. Và cả hai cha con không bao giờ gián đoạn Thiền định, nên được tái sinh vào cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, cô gái thô tục này là thiếu nữ kia, Tỷ-kheo thối thất là con trai vị ẩn sĩ, và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện Sứ Thần (Tiền thân Dùta)

Trầm tư trên bến nước sông Hằng..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc tán thán trí tuệ của Ngài.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang bàn luận:

– Này các Tỷ kheo Hiền hữu, tài trí của đấng Thập lực thật dồi dào phương tiện thiện xảo biết bao! Ngài đã chỉ cho vương tử Nanda (em trai của Ngài) thấy cả bầy thiên nữ xong khiến vị ấy đắc Thánh quả; Ngài lại trao chiếc y cho chàng tiểu thị giả của Ngài và giáo hóa cho chàng chứng quả Thánh quả bốn Thiền chứng. Ngài chỉ đóa hoa sen cho người thợ rèn nọ khiến người ấy đạt Thánh quả. Thật Ngài đang hóa độ chúng sinh với muôn vàn phương tiện khác nhau.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang ngồi bàn luận chuyện gì; các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên Như Lai có đủ phương tiện thiện xảo và tài trí để biết rõ việc gì sẽ đem lại kết quả như ý đâu, mà ngày xưa Như Lai cũng đã đầy đủ tài trí.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, cả nước đó không có vàng vì vua áp bức toàn dân và lấy hết kho vàng. Vào thời ấy, Bồ-tát sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng nọ trong xứ Kàsi. Khi ngài đến tuổi khôn lớn, ngài đến Takkasilà và nói:

– Ta sẽ kiếm tiền để trả học phí cho sư phụ ta sau, bằng phương pháp xin của bố thí một cách kín đáo.

Ngài đi đến thọ giáo và khi đã hoàn thành việc học tập, ngài nói:

– Thưa sư phụ, con sẽ dùng hết năng lực tinh cần của con để đem về dâng sư phụ số tiền xứng đáng với việc sư phụ dạy bảo.

Thế là xin phép từ giã thầy dạy, ngài ra đi tất cả vùng đó để cầu bố thí.

Sau khi ngài đã kiếm được vài lạng vàng theo đúng cách chơn chánh và ngay thẳng, ngài ra về định trao tận tay thầy mình, rồi trên đường đi đã dùng thuyền vượt qua sông Hằng. Khi con thuyền tròng trành trên mặt nước, số vàng ấy rơi mất. Ngài suy nghĩ: “Xứ này thật khó kiếm vàng, nếu ta lại đi lần nữa để kiếm tiền trả thầy ta thì sẽ chậm trễ lắm, vậy nếu ta cứ ngồi tuyệt thực bên bờ sông Hằng thì sao? Dần dần cũng có lúc đức vua biết được việc ta ngồi đây, và vua sẽ phái một vài cận thần đến, nhưng ta sẽ chẳng nói gì với họ. Sau đó, chính đức vua sẽ đến và nhờ đó ta sẽ kiếm được tiền học phí trả thầy ta”.

Vì vậy, ngài đắp thượng y lên mình, đặt sợi dây tế đàn ra ngoài và ngồi bên bờ sông Hằng như thể một pho tượng vàng trên vùng cát bạc. Ðám đông đi ngang qua thấy ngài ngồi đó không ăn thứ gì cả, liền hỏi tại sao ngài ngồi như vậy. Nhưng ngài không nói lời nào với dân chúng cả. Hôm sau, dân làng kế cận hay tin ngài ngồi đó, cũng đến hỏi han, nhưng ngài cũng không nói gì; dân chúng thấy ngài kiệt sức như vậy thì vừa bỏ đi vừa thương xót than vãn.

Ngày thứ ba, dân từ kinh thành kéo đến, ngày thứ tư là các bậc quyền cao chức trọng trong kinh thành, ngày thứ năm là đám triều thần quanh vua, ngày thứ sáu, vua sai các đại thần đến, nhưng ngài chẳng hề nói với ai điều gì. Ngày thứ bảy, vua lo ngại đến gặp ngài và xin ngài giải thích qua vần kệ đầu:

  1. Trầm tư bên bến nước sông Hằng,
    Và tại sao chàng chẳng nói năng,
    Ðể trả lời ta truyền nhắn hỏi,
    Hay chàng dấu chuyện khổ đau chăng?

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Chúa thượng, nỗi sầu của thần chỉ được thổ lộ cho người có thể vứt bỏ nó đi chứ không nói với ai khác được.

Rồi ngài ngâm bảy vần kệ:

  1. Hỡi Ðại vương nuôi-xứ-Kà-si!
    Số ngài ví thử gặp sầu bi,
    Nỗi sầu chớ lộ cho người khác,
    Nếu kẻ này không có ích gì.
  2. Song nếu ai san sẻ một phần
    Nỗi sầu, nhờ thế lực quyền năng,
    Thì con người ấy đang sầu muộn
    Nói rõ người kia mọi ước mong.
  3. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông
    Cũng rất dễ dàng được cảm thông,
    Tiếng nói người đời, tuy rõ thế
    Vô cùng khó hiểu, hỡi Quân vương!
  4. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc bà con, bạn chí tình”,
    Song mối tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận, lại sần sinh!
  5. Người không được hỏi gặn nhiều lần,
    Nói chẳng đúng thời nỗi khổ tâm,
    Chắc chắn làm phiền lòng bạn hữu,
    Mong mình an ổn, phải than van.
  6. Tìm kiếm cơ may để nói năng,
    Biết người hiền trí lại đồng lòng,
    Bạn hiền tỏ nỗi ưu cùng bạn,
    Ý nghĩa nằm sau tiếng dịu dàng.
  7. Song, nếu trí nhân thấy rõ ràng,
    Không gì giải được nỗi gian truân,
    Ðiều gì đem nói cho người biết,
    Cũng chẳng đạt thành quả ước mong,
    Bậc trí một mình đành nín lặng,
    E dè nhẫn nhục đến sau cùng.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết pháp như vậy qua bảy vần kệ trên để giáo hóa vua, rồi ngâm thêm bốn vần nữa để kể chuyện ngài đi kiếm tiền trả cho thầy dạy:

  1. Ðại vương! Thần đã phải lang thang,
    Nhiều nước, kinh thành, mỗi quốc vương,
    Thị trấn, thôn làng, cầu bố thí
    Bởi vì học phí, quyết lòng mang.
  2. Ðến trước thềm ai, mọi chủ nhà,
    Triều thần, đạo sĩ hoặc thương gia,
    Cầu xin một ít vàng, thần được
    Chừng một hay hai lạng ấy mà,
    Chúa thượng, số vàng nay đã mất
    Nên thần buồn bã thật sâu xa.
  3. Các sứ giả không thế lực gì
    Làm thần thoát khỏi nỗi sầu bi,
    Thần đà cân nhắc hoài cho kỹ,
    Chúa thượng! Thần không giải thích chi.
  4. Song ngài, uy lực đủ, Anh quân!
    Giải thoát cho thần nỗi khổ thân.
    Vì xét kỹ ngài nhiều đức độ,
    Thần cho ngài biết thật tinh tường.

Khi vua nghe lời cảm khái ấy, liền đáp:

– Này chàng Bà-la-môn, thôi đừng phiền muộn nữa. Vì trẫm sẽ tặng học phí cho chàng đem trả thầy giáo.

Rồi vua hoàn lại gấp đôi số vàng cũ.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðại vương nuôi dưỡng-cả-giang-san,
    Hoàn lại người kia một số vàng,
    Tròn vẹn với lòng tin tưởng nhất,
    Trước chàng đã có, gấp đôi lần.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới đầy đủ phương tiện thiện xảo, xưa kia Như Lai cũng vẫn như vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị giáo thọ, và Ta là chàng thanh niên kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Cây Bồ Đề và Thánh Đế Kalinga (Tiền thân Kalinga-Bodhi)

Kha-linh, Thánh đế Chuyển Luân Vương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Tôn giả Ànanda cử hành lễ cúng dường cây Bồ-đề.

Trong lúc đức Như Lai đi du hành vì mục đích thâu nhận những người đủ cơ duyên để thọ giáo, dân chúng thành Xá-vệ tiến đến Kỳ Viên, tay cầm đầy vòng hoa thơm ngát, thấy không có nơi nào khác để tỏ lòng ngưỡng mộ sùng kính, liền đặt hoa bên cổng vào Hương phòng của đức Phật rồi ra đi. Việc này đã gây được niềm hoan hỷ rất lớn. Song Trưởng giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) nghe được chuyện ấy; khi đức Như Lai trở về, vị trưởng giả liền đến thăm Tôn giả Ànanda và nói với ngài:

– Thưa Tôn giả, tinh xá này không được cúng dường trong lúc đức Như Lai du hóa, và không có nơi nào cho dân chúng dâng hoa thơm để tỏ lòng sùng bái. Xin Tôn giả từ bi thưa với đức Như Lai về vấn đề này để Ngài cho biết xem có thể tìm được nơi nào dùng vào mục đích này chăng?

Vị Tôn giả kia sẵn sàng làm theo, liền thưa đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu loại bảo Tháp?

– Này Ànanda, có ba loại.

– Bạch Thế Tôn, đó là các loại nào?

– Bảo tháp thờ kim thân, bảo tháp thờ các vật thường dùng hay mang trên người và bảo tháp thờ các kỷ vật (ảnh tượng).

– Trong lúc Thế Tôn còn tại thế, có thể xây một bảo tháp được chăng?

– Không được, này Ànanda, không thể xây một bảo tháp thờ kim thân, loại tháp đó chỉ được xây khi nào một đức Phật diệt độ (đắc Niết bàn vô dư y). Một bảo tháp thờ kỷ vật cũng không đúng đâu vì mối liên hệ chỉ tùy thuộc vào tâm tưởng mà thôi. Còn cây Ðại Bồ-đề đã được chư Phật sử dụng, nên rất đáng làm nơi chiêm bái, dù chư Phật còn tại thế hay diệt độ.

– Bạch Thế Tôn, trong thời gian Thế Tôn du hóa xa xôi, ngôi Ðại Tinh xá Kỳ Viên này không có nơi nương tựa, và dân chúng không có nơi nào để có thể tỏ bày lòng quy ngưỡng. Xin Thế Tôn cho phép con trồng một hạt giống từ cây Ðại Bồ-đề (ở Bồ-đề Ðạo tràng) ngay trước cổng Tinh xá này được chăng?

– Dĩ nhiên nên làm như vậy lắm, này Ànanda, và nó cũng sẽ là một nơi an trú cho Ta như trước kia.

Tôn giả này nói lại chuyện ấy với trưởng giả Cấp Cô Ðộc, bà Visàkkà và vua Pasenadi. Sau đó, tại cổng Tinh xá Kỳ Viên, Tôn giả đào một lỗ để trồng cây Bồ-đề và nói với Ðại trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên):

– Tiểu đệ muốn trồng một cây Bồ-đề trước Tinh xá Kỳ Viên, xin Tôn huynh kiếm cho tiểu đệ một quả Bồ-đề có được chăng?

Vị Trưởng lão kia rất sẵn sàng đồng ý, liền bay qua không gian đến tận vùng đất có cây Bồ-đề ấy. Ngài lấy đặt dưới tấm y một quả Bồ-đề đang rụng ra khỏi thân cây nhưng không rớt xuống đất, và mang nó về giao cho Tôn giả Ànanda. Vị Tôn giả này báo tin cho vua xứ Kosala biết là mình sắp trồng cây Bồ-đề. Vì thế, buổi chiều vua đến cùng một đám tùy tùng đông đảo, sau đó ông Cấp Cô Ðộc và bà Visàkkà cũng đến cùng một đám người mộ đạo nữa.

Ở chỗ cây Bồ-đề sắp được trồng, Tôn giả Ànanda đặt một chiếc bình vàng, dưới đáy có lỗ, đựng đầy đất tắm nước hương thơm ngát. Tôn giả bảo:

– Tâu Ðại vương, xin hãy trồng hạt giống Bồ-đề này.

Và Tôn giả trao hạt ấy cho vua. Song vua nghĩ rằng vương quốc này không ở trong tay mình mãi được, nên để cho ông Cấp Cô Ðộc trồng, liền giao hạt giống cho vị trưởng giả đại phú kia. Sau đó, ông Cấp Cô Ðộc xới đất thơm lên và thả hạt giống vào. Vừa lúc hạt rơi ra khỏi tay vị ấy, ngay trước mắt mọi người, vọt lên một cây Bồ-đề con, to cỡ bằng đầu lưỡi cày, cao chừng năm mươi cubit (1cubit = 45cm) tứ phía nảy ra năm cành lớn dài 50cubit, như thân cây ấy. Cây đứng sừng sững như thế quả là một chúa tể rừng xanh, một phép lạ hy hữu thần kỳ.

Vua tưới quanh thân cây những bình bằng vàng, bằng bạc, tất cả tám trăm bình đựng đầy nước tỏa hương thơm ngát, tươi đẹp với vô số hoa sen xanh. Bao giờ cũng vậy, vua ra lệnh tất cả một dãy dài bình bát đựng đầy thực phẩm và một sàng tọa làm bằng bảy báu vật, có lớp nhủ vàng rảy lên, rồi dựng một bức tường bao quanh vùng ấy, lại xây một nhà canh cổng làm bằng bảy báu vật. Vua bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt trọng thể như vậy đối với cây Bồ-đề.

Trưởng lão Ànanda đến gần đức Như Lai và thưa với Ngài:

– Bạch đức Thế Tôn, vì lợi lạc của chúng sinh, xin Thế Tôn thị hiện ngay dưới cây Bồ-đề con vừa mới trồng này sự chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng giác mà Thế Tôn đã thành tựu dưới gốc cây Bồ-đề trước kia.

– Này Ànanda, ông nói gì thế? Không có nơi nào khác có thể chịu đựng nổi sức mạnh của Ta nếu Ta ngồi nơi đó để chứng đắc quả vị mà Ta đã chứng đắc trong khu vực có cây đại Bồ-đề trước kia cả đâu.

Tôn giả Ànanda lại nói:

– Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lợi lạc của chúng sinh mà dùng cây Bồ-đề này làm nơi nhập đại định, bao lâu mặt đất chốn này đủ sức chịu đựng sức mạnh của Thế Tôn.

Bậc Ðạo sư liền sử dụng nơi mới trồng cây Bồ-đề ấy để nhập đại định suốt một đêm.

Tôn giả Ànanda liền thông báo với vua và mọi người khác, rồi gọi nó bằng tên “Hội Bồ-đề”. Và cây này do Tôn giả Ànanda trồng nên được đặt tên là cây Bồ-đề của Ànanda.

Vào thời ấy, Tăng chúng bắt đầu nói đến việc trên tại Chánh pháp đường:

– Này hiền hữu, ngay khi đức Như Lai còn tại thế, Tôn giả Ànanda đã xin trồng một cây Bồ-đề và cử hành đại lễ cúng dường cây ấy. Uy lực của Tôn giả thật cao cả thay!

Bậc Ðạo sư đi vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận điều gì. Các vị thưa với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda hướng dẫn hội chúng loài người trên khắp bốn châu thế giới cùng các đám tùy tùng đông đảo mang đến vô số vòng hoa thơm và mở Hội Bồ-đề trong vùng Ðạo tràng quanh cây Bồ-đề kia đâu.

Nói xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong vương quốc Kalinga tại kinh thành Dantapura, có một vị vua mệnh danh là Kalinga cai trị. Vua có hai vương tử tên là Mahà-Kalinga và Culla-Kaling. Thời ấy các nhà tiên tri đã đoán rằng vị thái tử sẽ cai trị sau khi vua cha băng hà, còn vị vương đệ sẽ trở thành nhà tu khổ hạnh, sống đời khất sĩ; tuy thế, con trai vị sau này sẽ làm một đấng Chuyển luân Thánh vương (Ràja Cakkavatti: vị vua ngự trị toàn cầu bằng Chánh pháp).

Thời gian trôi qua và khi vua cha băng hà, thái tử lên ngôi báu, còn vương đệ làm phó vương. Vị vương đệ cứ nghĩ rằng con trai mình sau này sẽ là một Chuyển luân vương, nên sinh lòng kiêu mạn về cớ đó. Vua không chịu được chuyện này, liền ra lệnh cho một vị sứ thần truy bắt Phó vương Kalinga. Vị sứ giả kia đi đến bảo:

– Tâu Ðiện hạ, Ðại vương muốn sai bắt ngài, vậy ngài hãy lo cứu mạng mình.

Vương tử này liền chỉ cho vị sứ thần được giao trọng trách này thấy chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình, một tấm thảm thật đẹp và một cây kiếm: Có ba bảo vật tất cả. Rồi vương đệ bảo:

– Khanh phải nhận ra được vương nhi ta nhờ những tín vật này và phò vương nhi lên ngôi báu.

Cùng với những lời dặn dò này, vương tử vội trốn vào rừng. Tại đó, chàng dựng một am thất ở một nơi đẹp, vừa ý và sống như người tu khổ hạnh trên một bờ sông.

Lúc bấy giờ, trong vương quốc Madda ở kinh thành Sàgala, vua Madda vừa hạ sinh một công chúa. Về phần công chúa này, cũng như vương tử kia, các nhà tiên trí đoán rằng nàng sẽ phải làm nhà tu khổ hạnh, song con trai nàng lại sẽ thành một Chuyển luân vương. Các vị vua ở Diêm-phù-đế (Ấn Ðộ) nghe tin đồn ấy, liền đồng một lúc đến bao vây kinh thành.

Vua nghĩ thầm: “Nay ta gả con gái ta cho một quốc vương nào thì các vị vua kia sẽ nổi giận. Vậy ta phải cố gắng cứu mạng con gái ta”.

Vì thế, vua cùng hoàng hậu và công chúa cải trang trốn vào rừng, và sau khi dựng một am thất hơi xa bờ sông, phía trên thảo am của vương tử Kalinga, họ cùng sống tại đó như người tu khổ hạnh, ăn toàn những thứ cây trái lượm hái được.

Hai vị cha mẹ muốn con gái được an ổn, nên để nàng ở lại trong am, rồi đi ra hái trái rừng. Trong lúc hai vị đi vắng, nàng lượm đủ các loại hoa kết thành vòng hoa. Bấy giờ, trên bờ sông Hằng có một cây xoài nở hoa đẹp, tạo thành một cái thang thiên nhiên. Nàng trèo lên đó, đùa chơi và tìm cách thả vòng hoa xuống nước.

Một ngày kia, vương tử Kalinga vừa bước ra khỏi nước sau khi tắm thì vòng hoa nọ vướng lên tóc chàng.

Chàng nhìn hoa và bảo:

– Một nữ nhân nào đã kết hoa này, song đó không phải là một người đàn bà trưởng thành mà là một cô gái còn thơ dại. Ta phải kiếm nàng mới được.

Thế là chàng đâm ra si tình, đi lên phía thượng lưu sông Hằng, cho đến khi chàng nghe nàng ca hát bằng một giọng ngọt ngào trong lúc ngồi trên cây xoài. Chàng đến gần gốc cây, vừa thấy nàng liền bảo:

– Này giai nhân, nàng là loài gì thế?

– Thưa công tử, thiếp là người – Nàng đáp.

– Thế thì hãy xuống đi – Chàng bảo.

– Thưa công tử, không được, vì thuộc dòng dõi Sát-đế-ly.

– Thưa công nương, ta cũng vậy, xin nàng bước xuống.

– Thưa công tử, không được, thiếp không xuống đâu. Lời nói không làm nên một Sát-đế-ly; nếu quả thật ngài là một vị Sát-đế-ly, xin hãy kể cho thiếp nghe những điều bí mật của nghi lễ truyền thống kia.

Sau đó, hai người nói cho nhau nghe những điều bí mật truyền kỳ trong dòng họ. Rồi công chúa bước xuống và hai bên kết giao với nhau.

Khi cha mẹ nàng trở về, nàng kể cho hai vị nghe chuyện vương tử của vua Kalinga, vì sao chàng vào rừng với đầy đủ mọi chi tiết. Hai vị bằng lòng đem gả nàng cho chàng. Trong thời gian sống chung sắc cầm hòa hợp, công chúa thụ thai và sau mười tháng, hạ sinh một nam tử đầy đủ tướng mạo tốt lành, phước đức và đặt tên là Kalinga. Cậu trai lớn lên, học tập đủ mọi nghệ thuật tài năng từ thân sinh và tổ phụ chàng.

Về sau, cha chàng nhìn theo cách kết hợp của ngôi sao và biết được vương huynh đã băng hà. Vì thế, ông gọi con trai vào và bảo:

– Này con, con không nên phí cuộc đời trong rừng già buồn tẻ, vì vương huynh ta, Ðại vương Kalinga ấy đã qua đời. Vậy con phải về Dantapura và kế vị vương quyền của dòng họ ta.

Sau đó, người cha trao cho con các vật mang theo mình: chiếc nhẫn có tín hiệu, tấm thảm và thanh kiếm rồi bảo:

– Này con, trong kinh thành Dantapura ở phía kia có một vị đại thần vốn là bề tôi thân tín của cha. Con hãy đến nhà vị ấy, đi thẳng vào phòng riêng, đưa cho ông thấy ba vật này, rồi nói cho ông biết con là con của ta. Ông sẽ đưa con lên ngai vàng.

Chàng trai giã từ cha mẹ và ông bà, và nhờ thần lực công đức của chàng, chàng bay qua không gian, xuống nhà vị đại thần nọ, đi thẳng vào phòng riêng của vị ấy.

– Công tử là ai? Vị quan hỏi.

Chàng đáp:

– Ta là con trai của Tiểu vương Kalinga

Rồi chàng rút ba tín vật ấy ra. Vị quan liền báo tin cho cả hoàng cung, các triều thần liền trang hoàng kinh thành và giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu chàng. Sau đó vị Tế sư của triều đình tên là Kàlinga – Bhàvadvàja dạy chàng Mười Pháp mà một Chuyển luân Thánh vương phải thành tựu và chàng học tất cả mười phận sự ấy.

Thế rồi vào một ngày rằm, tức là ngày Trai giới, từ Cakkadaha xuất hiện cho vua Bánh xe báu (Bảo luân), từ dòng họ Uposatha xuất hiện Voi báu, từ giống quý tộc Valàha xuất hiện Ngựa báu, từ Veppulla xuất hiện Bảo châu, kế là Nữ vương báu cùng đám tùy tùng thị nữ và vương tử báu dần dần xuất hiện.

Sau đó vua thống trị toàn cõi địa cầu.

Một ngày kia, ngài được đám tùy tùng hộ tống suốt ba mươi sáu dặm đường, ngự trên bảo tượng toàn thắng, cao như đỉnh núi Kelàsa. Trong cảnh uy nghi lộng lẫy, ngài trở về thăm song thân chốn cũ. Nhưng khi muốn vượt qua vùng đất quanh cây đại Bồ-đề, bảo tọa vinh quang của chư Phật, nơi đã trở thành trung tâm điểm của vũ trụ, thì Voi báu không thể nào qua được: vua cứ thúc Voi mãi, song Voi vẫn không thể nào vượt qua.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Kha-linh Thánh đế, Chuyển luân vương,
    Chân chánh, ngài cai trị cõi trần,
    Một thuở đến Bồ-đề đại thọ,
    Trên mình Voi báu đại oai thần.

Do đó, vị Tế sư của triều đình cùng du hành với vua thầm nghĩ: “Trên không gian chẳng có gì cản trở cả, tại sao đức vua không giục Voi qua được? Ta muốn đến xem sao”. Từ trên không hạ xuống, vị này chiêm ngưỡng bảo tọa vinh quang của chư Phật, và khu vực quanh cây đại Bồ-đề.

Thời ấy, tương truyền rằng trong khoảng chừng một dặm vuông ấy không bao giờ có một ngọn cỏ mọc, dù chỉ bằng một sợi lông nhỏ, mặt đất như thể cát mịn, bốn bề là thảo mộc, cát đằng và đại thọ chẳng khác nào chúa tể sơn lâm sừng sững như đang chiêm ngưỡng, đầu quay mặt về hướng bảo tọa Bồ-đề. Khi vị Bà-la-môn Tế sư quan sát chỗ này, lại suy nghĩ: “Ðây là nơi chư Phật đã đoạn tận mọi dục tham của trần thế nên không ai có thể vượt qua được, dù cho đó chính là Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đi nữa”.

Và tiến về phía đức vua, vị Tế sư tâu với ngài các đặc tính của địa phận quanh cây Bồ-đề, cùng thỉnh cầu Thánh vương ngự xuống Voi.

Ðể giải thích vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm các vần kệ sau:

  1. Vị Tế sư tâu với Thánh vương,
    Là con nhà khổ hạnh hiền nhơn,
    Khi ngài chuyển vận xa luân báu,
    Ðảnh lễ ngài xong, hướng dẫn đường:
  2. “Ðây các thi nhân vẫn tán dương,
    Xin ngài ngự xuống, tấu Hùng vương,
    Nơi đây chư Phật – đà vô thượng
    Chánh Giác viên thành tỏa ánh quang.
  3. Tương truyền rằng ở chốn phàm trần,
    Ðây chính là linh địa thánh thần,
    Thảo mộc, cát đằng, cùng đại thọ
    Ðứng quanh trong dáng điệu tôn sùng.
  4. Xuống đây, xin đảnh lễ trang nghiêm,
    Vì đến miền xa tận hải biên,
    Trên đại địa cầu nuôi vạn vật,
    Nơi này là đất thánh thiêng liêng.
  5. Ðại vương đầy đủ mọi loài voi
    Thuần chủng nhờ cha mẹ tốt đôi,
    Ngự giá đến đây, Voi vẫn muốn,
    Song không thể tiến bước gần nơi.
  6. Ngự trên mình Bảo tượng thuần nòi,
    Thánh ý tuy nghi, cứ thúc Voi,
    Song chẳng cách nào Voi bước nữa,
    Ðến đây, Voi phải đứng yên thôi”.
  7. Vua nghe lời nói vị tiên tri,
    Vừa phán truyền cho Bảo tượng đi,
    Vừa thúc gậy sâu vào Bảo tượng:
    “Nếu vầy, ta sẽ thấy liền khi”.
  8. Bị thúc, Voi kêu thét tựa kèn,
    Như còi lanh lảnh, hạc vang rền,
    Chuyển rung, liền ngã vì hùng lực
    Ðè nặng sườn, không thể đứng lên.

Vì cứ bị đức vua thúc mãi, Voi không thể nào chịu được cơn đau đớn, nên phải chết ngay. Song đức vua không biết là Voi đã chết, cứ điềm nhiên ngự trên lưng Voi. Một lát sau, Tế sư Kalinga-Bhàradvàja nói:

– Tâu Thánh thượng, Vương tượng đã chết rồi, xin Thánh thượng ngự qua Voi khác.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

  1. Quốc sư lo sợ lúc nhìn Voi
    Ðã chết, lòng kinh động thốt lời:
    “Xin tìm voi khác, tâu Hoàng thượng,
    Bảo tượng ngài nay bỏ mạng rồi”.

Nhờ công đức và thần lực của vị Thánh vương, một con Voi khác thuộc chủng loại Uposatha xuất hiện trước đức vua và đưa lưng ra mời. Vua ngự trên lưng nó. Lúc ấy thi thể vương tượng kia liền ngã xuống đất.

Bậc Ðại sư ngâm vần kệ để giải thích việc này:

  1. Vua hãi kinh nghe tấu việc này,
    Ngự lên Voi khác, bỗng liền ngay,
    Thi hài Bảo tượng kia nhào xuống,
    Lời thật tiên tri đã hiển bày.

Lập tức vua ngự xuống từ trên không gian, và chiêm ngưỡng vùng đất quanh cây Bồ-đề. Trước việc thần kỳ kia vừa thị hiện xong, đức vua tán thán vị tế sư Bhàradvàja qua vần kệ:

  1. Thế này, với vị Tế sư mình,
    Ðại đế Kha-linh bảo: “Thực tình
    Mọi việc khanh am tường thấu suốt,
    Hiền khanh thấy tất cả duyên sinh”.

Bấy giờ, vị Bà-la-môn kia không muốn nhận lời tán thán trên, mà vẫn giữ nguyên vị trí khiêm tốn của mình, ông tán thán công đức chư Phật và ca tụng các Ngài hết lời.

Bậc Ðạo sư lại ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Quốc sư từ chối sự tuyên dương
    Và tấu như vầy với Thánh vương:
    ” Thần chỉ biết điềm vùng tướng triệu,
    Còn chư Phật giác ngộ hoàn toàn.
  2. Phật-đà tri kiến đạt toàn chân,
    Ðiềm triệu, các Ngài chẳng chú tâm,
    Chư Phật toàn tri nhờ tuệ quán,
    Thần là học giả chẳng uyên thâm.

Vua nghe nói về công đức của chư Phật, nên lòng đầy hoan hỷ, liền ban lệnh cho mọi người trần thế đem thật nhiều vòng hoa thơm đến cúng dường vùng đất quanh linh thọ Bồ-đề suốt bảy ngày đêm liền.

Bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ để giải thích việc này:

  1. Thánh thọ Bồ-đề, chúa cúng dường,
    Với bao âm nhạc thật du dương,
    Các vòng hoa đẹp thơm ngào ngạt,
    Ngài lại xây quanh một bức tường.
  2. Thế rồi Thánh đế ngự ra về,
    Mang đến hoa đầy sáu vạn xe,
    Làm lễ cúng dường, vì Ðại đế
    Kha-linh sùng Thánh địa Bồ-đề.

Sau khi đã làm lễ cúng dường trọng thể Ðại thọ Bồ-tát như trên, đức vua thăm song thân, rồi rước hai vị về thành Dantapura sống cùng ngài. Tại đấy ngài chuyên bố thí và làm các phận sự khác, cho đến khi mạng chung ngài được tái sinh vào cõi Trời Ba mươi ba.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại trên, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda làm lễ cúng dường cây Bồ-đề, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda là vua Kalinga, và Ta chính là vị quốc sư Kalinga – Bhàradvàja.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền thân Akitta)

Sak-ka, Chúa tể giữa quần sinh..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một đại thí chủ rất rộng lượng sống ở Xá-vệ.

Chuyện kể rằng người này mời bậc Ðạo sư đến nhà và suốt bảy ngày đã cúng dường rất nhiều thí vật cho Tăng chúng đi theo Ngài. Vào ngày cuối cùng lại cúng dường Thánh chúng đủ các vật dụng cần thiết, sau đó bậc Ðại sư nói lời tùy hỷ với ông:

– Này nam cư sĩ, công đức bố thí của ông thật là rộng lớn, ông đã thực hành một việc khó lắm thay. Bố thí là tục lệ của các bậc hiền trí ngày xưa, thí vật phải được phân phát dù người còn tại gia hay xuất gia, các bậc trí giả ngày xưa, ngay khi đã rời thế tục vào ở trong rừng, khi chỉ ăn lá Kara rảy nước mà không có thứ gia vị nào cả cũng vẫn đem cho đám khất thực đi qua đó để đáp ứng nhu cầu của các vị ấy và vẫn an trú trong hỷ lạc của bản thân mình.

Gia chủ kia đáp:

– Bạch Thế Tôn, việc cúng dường mọi vật dụng cần thiết ấy cho Tăng chúng thật rõ ràng dễ hiểu. Song lời dạy của Thế Tôn chưa được rõ. Xin Thế Tôn giải thích cho chúng con.

Rồi theo lời thỉnh cầu trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh trong một gia đình đại phú Bà-la-môn, có tài sản lên tới tám trăm triệu. Ngài được đặt tên là Akitti. Khi ngài vừa biết đi, thì một bé gái lại ra đời với tên Yavasati.

Lúc mười sáu tuổi, bậc Ðại sĩ đi vào thành Ba-la-nại học tập cho đến lúc thành đạt rồi ra về. Sau đó cha mẹ ngài qua đời. Khi ngài cử hành tang lễ cho song thân đã khuất xong, ngài xem xét lại kho tàng của gia tộc. Danh mục ghi rõ: “Các vị này, vị kia đã tích trữ những tài sản lớn như vậy rồi qua đời, kế đến là các vị khác cũng tích trữ nhiều như vậy..” Nghe chuyện này, ngài phiền muộn trong trí và nghĩ thầm: “Kho báu này ai cũng thấy cả, song những vị tích trữ tài sản thì không còn nữa. Các vị đã ra đi để lại kho báu đằng sau mình, nhưng khi ta từ trần, ta muốn đem theo bảo vật”. Vì vậy, ngài cho tìm em gái đến và bảo:

– Hiền muội, hãy trông nom kho báu này.

– Ý hiền huynh là thế nào?

Ngài đáp:

– Ta muốn làm người tu khổ hạnh.

Nàng đáp:

– Này hiền huynh, tiểu muội không muốn đội lên đầu những thứ mà hiền huynh đã nhổ ra khỏi miệng, tiểu muội chẳng muốn thứ gì cả, mà cũng muốn sống đời khổ hạnh thôi.

Rồi sau khi xin phép vua, ngài bảo đánh trống vang dội khắp kinh thành, bố cáo cho mọi người rõ:

– Toàn dân lắng nghe này: “Ai muốn có tiền bạc cứ đến nhà hiền nhân kia!”.

Suốt bảy ngày, ngài phân phát những kho tài sản lớn, tuy thế kho báu vẫn chưa hết, ngài lại nghĩ thầm: “Tứ đại trong thân ta đang tan rã, ta còn muốn cái trò phân phát tài sản này nữa sao? Thôi, ai muốn lấy cứ lấy đi”.

Thế là ngài từ giã ngôi nhà đầy châu báu, giữa các gia nhân thân quyến khóc lóc xung quanh, ngài cùng em gái ra đi. Và cái cổng thành Ba-la-nại nơi các ngài đi qua được gọi là cổng Akitta, còn bến đò các ngài bước xuống bến sông cũng được đặt tên là bến đò Akitta nữa.

Các ngài băng qua ba dặm đường, đến một nơi mát mẻ dễ chịu thì dựng lên một am lá và cùng em gái ngài sống như người tu khổ hạnh. Sau thời gian từ bỏ thế tục, nhiều người khác cũng làm như vậy, dân ở thôn quê, thị trấn, hoặc ở kinh thành, đầy đủ cả. Hội chúng thật đông đảo, các vị ấy nhận được nhiều vật cúng dường cùng sự tôn trọng sùng kính chẳng khác nào thời có một đức Phật xuất hiện ở đời. Lúc ấy bậc Ðại sĩ thầm nghĩ: “Ở đây thật nhiều vinh quang trọng vọng cùng với vô số thí vật và hội chúng đông đảo, song ta phải độc cư”.

Vì thế, vào một lúc không ai ngờ được và cũng không báo trước cho cô em gái, ngài ra đi một mình, dần dần đến tận vương quốc Damila ở bờ biển bắc Tích lan sống trên một hoa viên sát trên vùng Kàvìrapattana, ngài tu tập Thiền định và Thắng trí. Tại đó ngài cũng nhận được sự ngưỡng mộ và vô số thí vật của dân. Ðiều ấy không thích hợp với ngài, ngài liền từ bỏ hết và phi hành qua không gian rồi đến tận đảo của Rắn Rồng (Nàga) gần Bắc Tích Lan. Vào thời ấy, Kàradìpa được gọi là Ahidìpa hay đảo Rắn Rồng. Tại đó, ngài xây một ẩn am cạnh một cây Kàra lớn và an trú. Song việc ngài ở đó không ai hay biết cả.

Lúc bấy giờ, em gái ngài đi tìm anh, dần dần đến tận vương quốc Damila, vẫn không gặp ngài, nàng lại ở ngay chính nơi ngài đã ở, song nàng không thể phát khởi Thiền định.

Còn bậc Ðại sĩ sống thiểu dục đến độ ngài không đi đâu cả, mà cứ vào mùa có trái cây chín, ngài chỉ sống bằng trái cây đó, còn vào mùa lá trổ bông thì ngài ăn lá đó luộc với ít nước lã. Nhờ ngọn lửa công đức của ngài mà chiếc ngai báu bằng cẩm thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ nghĩ: “Ai đã khiến ta phải bước xuống khỏi chiếc ngai ta đang ngự?” và ngài nhận xét và thấy bậc hiền nhân này, ngài nghĩ thầm: “Tại cớ gì vị tu khổ hạnh đằng kia hộ trì côngđức? Có phải vị ấy muốn lên ngôi Thiên chủ chăng? Hay vì một duyên cớ nào khác? Ta muốn thử vị ấy xem. Vị ấy sống rất khổ cực, chỉ ăn lá Kàra luộc với nước thôi: Nếu vị đó ước muốn làm Thiên chủ, vị ấy sẽ nhường cho ta mớ lá cây luộc với nước của mình, còn nếu không thì vị ấy sẽ không đưa”. Sau đó, Thiên chủ giả dạng một Bà-la-môn, đến gặp Bồ-tát.

Bồ-tát đang ngồi ở cửa thảo am, sau khi luộc lá và đem xuống, ngài nghĩ: “Khi nào nguội ta sẽ ăn”. Vào lúc ấy, Sakka Thiên chủ đứng trước mặt ngài và xin bố thí. Khi Bồ-tát nhìn thấy Thiên chủ, lòng rất hoan hỷ: “Thật là một niềm hạnh phúc cho ta – Ngài nghĩ thầm – ta thấy một vị khất thực, hôm nay ta sẽ đạt được tâm nguyện và ta sẽ bố thí”.

Lúc món ăn đã sẵn sàng, ngài liền múc vào bát ngài và vừa tiến về phía Thiên chủ, vừa nói:

– Ðây là vật cúng dường của ta, ước mong rằng đây là phương tiện để ta đạt Chánh Giác tối thượng.

Rồi chẳng để lại chút gì cho mình, ngài đặt hết thức ăn vào bình bát của Thiên chủ. Vị Bà-la-môn này cầm lấy vừa đi một khoảng ngắn thì biến mất. Còn bậc Ðại sĩ, sau khi cúng dường, cũng không nấu thêm thứ gì nữa, mà cứ ngồi an tịnh trong niềm hỷ lạc. Hôm sau, ngài cũng luộc lá và ngồi trước cửa am như cũ. Thiên chủ Sakka lại đến giả dạng một Bà-la-môn và bậc Ðại sĩ cũng bố thí rồi tiếp tục an trú vào hỷ lạc. Vào ngày thứ ba, ngài lại bố thí như trước, và bảo:

– Ngài hãy xem phần phước lạc dành cho ta nhiều biết bao! Chỉ một ít lá Kàra đã mang lại côngđức lớn cho ta rồi.

Trong niềm hỷ lạc phát xuất tận đáy lòng như vậy, ngài thấy yếu người vì thiếu ăn đã ba ngày, ngài liền ra khỏi am đúng lúc ngọ và ngồi trước cửa, suy nghĩ về tặng vật ngài đã đem cúng dường.

Còn Sakka Thiên chủ nghĩ thầm: “Vị đạo sĩ Bà-la-môn này đã nhịn ăn đã ba ngày, yếu ớt thế kia song vẫn nhường cho ta và tìm an lạc trong việc bố thí. Trong tư tưởng vị này không còn ý định nào khác. Ta không hiểu vị ấy ao ước điều gì và tại sao lại bố thí như vậy, nên ta phải hỏi để hiểu vị ấy muốn gì và biết được nguyên nhân việc bố thí trên”.

Vì thế, Thiên chủ chờ đợi đến quá giờ ngọ, và trong vẻ huy hoàng oai nghi tột bực, ngài xuất hiện trước mặt bậc Ðại sĩ, sáng chói như mặt trời ban mai; vừa đứng trước bậc Ðại sĩ, Thiên chủ hỏi:

– Này Ðạo sĩ, tại sao ngài hành trì khổ hạnh, trong rừng này, xung quanh là biển mặn bao bọc, với những cơn gió nóng hừng hực đang hắt mạnh vào người?

*

Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để giải thích vấn đề này:

  1. Sak-ka, Chúa tể của quần sinh,
    Trông thấy A-ki đáng kính danh,
    Liền hỏi: “Tại sao, này Ðại sĩ,
    Trú đây trời hực nắng vàng hanh?”

*

Khi bậc Ðại sĩ nghe vậy, và thấy vị đó chính là Sakka, ngài đáp:

– Ta không ước ao đạt đến những cảnh giới trên kia, mà chỉ ao ước chứng đắc Chánh Giác tối thượng nên ta đã sống đời khổ hạnh ở đây.

Ngài ngâm vần kệ thứ hai để làm sáng tỏ điều này:

  1. Thân hoại, tái sinh, tử biệt trần,
    Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
    Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
    Ta vẫn trú đây được vạn an.

Nghe những lời này, Sakka Thiên chủ hoan hỷ trong lòng và thầm nghĩ: “Vị ấy không ham thích bất cứ sinh loại hữu tình nào và vì muốn chứng đắc Niết bàn nên vào an trú trong rừng. Ta muốn ban cho vị ấy một điều ước”. Thế là Thiên chủ mời ngài chọn một điều ước qua lời kệ thứ ba:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ tư nói lên điều ngài ước mong:

  1. Thiên chủ Sakka của chúng sinh,
    Ban cho ta hưởng một ân lành;
    Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
    Dù có dư, ta vẫn bất bình;
    Ta ước những điều tham dục ấy
    Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình.

Lúc ấy Sakka Thiên chủ vô cùng hoan hỷ, ban cho ngài thêm nhiều đặc ân khác nữa và bậc Ðại sĩ nhận lãnh, mỗi vị lần lượt ngâm một vần kệ như sau:

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Chúa tể muôn loài chính là Sak-ka,
    Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
    Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
    Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
    Ta ước sẽ không còn giống chúng.
    Ta mong nhược điểm ấy rời ta.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ ngự trên trần,
    Ban tặng cho ta một đặc ân:
    Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
    Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
    Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
    Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn!

Thiên chủ:

  1. Kẻ ấy làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Tại sao bầu bạn người vô trí
    Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta.

Bồ-tát:

  1. Hành động người ngu thật bạo tàn,
    Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
    Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
    Nổi giận khi nghe nói thật chân,
    Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
    Nên ta không muốn kẻ ngu gần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
  2. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Ta ước nghe nhìn người có trí,
    Ước mong vị ấy ở cùng mình.
    Ta mong đàm luận cùng người trí,
    Ðược kết giao cùng bậc trí minh.
  3. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
    Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
    Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
    Người trí cùng chung sống một nhà?
  4. Hành động tốt lành, bậc trí nhân
    Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
    Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
    Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
    Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
    Lành thay bậc trí sống chung cùng.
  5. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ban tặng cho ta một phước lành:
    Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
    Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
    Mong chư Thánh giả du hành đến,
    Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình.
  2. Mong tặng nó không giảm sút dần,
    Ta không hối tiếc việc ta làm,
    Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
    Ta chọn ước kia để hưởng phần.

Thiên chủ:

  1. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
    Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
    Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
    Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.

Bồ-tát:

  1. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
    Ngài đã ban ta một phước lành:
    Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
    Ðiều này khao khát tự tim mình.

Thiên chủ:

  1. Song các nam nhân, các nữ nhân,
    Những người đang sống thật hiền lương,
    Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
    Việc này có tác hại gì chăng?

Bồ-tát:

  1. Dung mạo ngài muôn vẻ thiện toàn,
    Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
    Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
    Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!

– Thôi được rồi, thưa Tôn giả – Thiên chủ đáp – Ta quyết sẽ chẳng bao giờ viếng thăm ngài nữa.

Và vừa đảnh lễ ngài, vừa xin ngài thứ lỗi, Thiên chủ ra đi. Từ đó, bậc Ðại sĩ an trú tại nơi ấy suốt đời, tu tập Tứ Vô lượng tâm (từ,bi,hỷ,xả) và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda (A-nan) là Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) và Ta chính là Hiền giả Àkitti.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền thân Takkàriya)

Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Tỷ-kheo Kokàlika.

Trong một thời an cư về mùa mưa, hai vị Ðại đệ tử Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên) muốn rời hội chúng và sống độc cư, nên từ giã bậc Ðạo sư, đi vào vương quốc, nơi có Tỷ-kheo Kokàlika trú ngụ. Các vị đến nhà Tỷ kheo Kokàlika và nói với ông như vầy:

– Này Hiền hữu Kokàlika, vì chúng ta thích sống với Hiền hữu và Hiền hữu cũng thích sống với chúng ta, nên chúng ta muốn ở lại đây ba tháng.

Vị kia hỏi:

– Các Tôn giả hoan hỷ khi an trú với tiểu đệ theo cách nào?

Hai vị đáp:

– Nếu Hiền hữu không nói với ai rằng hai Ðại đệ tử đang ở đây, thì chúng ta sẽ rất hoan hỷ, đó là niềm an lạc của chúng ta khi sống với Hiền hữu.

– Thế còn tiểu đệ được hoan hỷ như thế nào khi sống chung với các Tôn giả?

– Chúng ta sẽ thuyết Pháp cho Hiền hữu trong ba tháng tại nhà Hiền hữu, chúng ta sẽ giảng giáo lý cho Hiền hữu và việc đó là niềm hoan lạc của Hiền hữu khi sống với chúng ta.

– Xin các Tôn giả hiền huynh hãy an trú tại đây bao lâu các Hiền huynh muốn.

Rồi ông dành một nơi cư trú an lạc cho các ngài. Các ngài an trú tại đó trong quả vị của các Thiền chứng và không ai biết về việc các ngài an trú tại nơi ấy.

Sau khi hai vị đã trải qua mùa mưa như vậy, hai vị bảo ông:

– Này Hiền hữu, nay chúng ta đã ở với Hiền hữu xong, chúng ta muốn trở lại với bậc Ðạo sư.

Và hai vị từ giã lên đường. Ông chấp thuận, cùng với hai vị trên đường đi khất thực vào một làng đối diện nơi đã ở. Sau buổi cơm, các vị Tỷ-kheo Trưởng lão rời làng ấy. Còn Tỷ-kheo Kokàlika từ giã các vị xong, trở về nói với dân chúng:

– Này các cư sĩ, các ông thật giống loài thú hoang sơ. Ðây là hai vị Ðại đệ tử của đức Phật đã an cư suốt ba tháng trong một tinh xá đối diện nơi này, thế mà các ông không hay biết gì cả, nay các ngài đã đi rồi.

– Thưa Tôn giả, tại sao ngài không nói cho chúng tôi gì cả? Dân chúng hỏi.

Rồi họ đem bơ tươi, và thuốc men, y phục đến gần các vị Trưởng lão, kính lễ các vị và nói:

– Bạch các Tôn giả, xin các Tôn giả tha thứ cho chúng con. Chúng con không biết các ngài là Ðại đệ tử, chúng con chỉ mới biết điều ấy do lời của Tôn giả Tỷ-kheo Kokàlika. Xin các ngài từ bi đối với chúng con và nhận các thuốc men, y phục này.

Kokàlika cùng dân chúng đi theo các Trưởng lão vì ông suy nghĩ: “Các Tôn giả này sống rất đạm bạc và thiểu dục; các ngài sẽ không nhận các vật dụng này và rồi sẽ đem chúng cho ta”. Nhưng hai vị Trưởng lão không nhận các vật dụng ấy cho phần mình, cũng không cho Tỷ-kheo Kokàlika, lý do là các vật ấy được cúng dường theo lời xúi giục của một Tỷ-kheo.

Lúc ấy, các cư sĩ liền nói:

– Bạch các Tôn giả, nếu các ngài không nhận các món này, xin đến đây lần nữa để ban phước cho chúng con.

Hai Trưởng lão chấp thuận hứa lời xong, rồi đi về yết kiến bậc Ðạo sư.

Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Kokàlika tức giận vì hai Trưởng lão không nhận vật cúng dường cho phần mình mà cũng không đem cho vị này. Còn hai vị Trưởng lão, sau khi ở lại một thời gian ngắn với bậc Ðạo sư, liền chọn năm trăm Tỷ-kheo làm đoàn tùy tùng cho mỗi vị, rồi cùng cả ngàn Tỷ-kheo này du hóa khất thực đến tận xứ sở của Tỷ-kheo Kokàlika.

Các cư sĩ ra đường đón Tăng chúng và dẫn họ đến tinh xá trước kia, cùng bày tỏ lòng ngưỡng mộ hàng ngày đối với các vị.

Dân chúng cúng dường Tăng chúng cả kho lớn y phục và thuốc men. Các Tỷ-kheo đi khất thực cùng hai vị Trưởng lão phân phát y phục cho tất cả các Tỷ kheo đã đến đây, song không chia cho Kokàlika cái nào cả, và hai vị Trưởng lão cũng không cho ông chút gì. Kokàlika không nhận được y phục nên bắt đầu phỉ báng mạ lỵ hai vị Trưởng lão:

– Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thật tràn đầy ác dục, trước kia đã không nhận các lễ vật cúng dường, nhưng nay lại nhận hết. Chẳng có gì làm thỏa mãn hai vị này cả. Các vị không thương tưởng đến kẻ khác.

Nhưng hai vị Trưởng lão nhận thấy ông đang nuôi ác tâm đối với mình nên các vị cùng đám đồ chúng ra đi, các vị cũng không muốn trở lại dù dân chúng van nài các vị hãy ở lại thêm vài ngày nữa. Lúc ấy, một vị Tỷ-kheo trẻ hỏi:

– Hai vị Trưởng lão sẽ không ở lại đâu, này các cư sĩ. Vị Tỷ-kheo khó tính của các ông không muốn các ngài ở lại đây.

Sau đó, dân chúng đi đến gặp Tỷ-kheo Kokàlika và hỏi:

– Thưa Tôn giả, chúng con được nghe nói Tôn giả không muốn hai vị Trưởng lão ở lại đây. Xin hãy đi ngay, hoặc là khuyên giải các ngài và đưa các ngài trở lại đây hoặc là Tôn giả cũng đi tìm chỗ khác mà ở.

Vì sợ dân chúng, vị này đi thỉnh cầu các Trưởng lão. Các vị đáp:

– Này Hiền hữu, hãy đi về! Chúng ta không trở lại đâu.

Thế là ông không thể thuyết phục hai vị, phải trở về tinh xá. Sau đó, các cư sĩ hỏi ông các Trưởng lão có trở lại nữa không. Ông đáp:

– Ta không thể thuyết phục các ngài trở lại được.

– Tại sao không, thưa Tôn giả?

Và họ bắt đầu suy nghĩ chắc hẳn không có thiện Tỷ-kheo nào muốn ở đó nữa, vì người này sống theo tà hạnh; và họ phải tống xuất ông đi. Họ liền bảo:

– Thưa Tôn giả, xin đừng lại ở đây, chúng con chẳng cung cấp gì cho Tôn giả nữa đâu.

Bị hội chúng làm ô nhục như vậy, vị ấy cầm bình bát, đắp y và đi đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, ông nói:

– Bạch Thế Tôn, các Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tràn đầy ác dục, hai vị đang có ác dục chế ngự.

Bậc Ðạo sư đáp:

– Này Kokàlika, đừng nói vậy; này Kokàlika, ông hãy có từ tâm đối với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, phải biết rằng đó là các thiện Tỷ-kheo.

Kokàlika nói:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn tin tưởng hai vị Ðại đệ tử của Thế Tôn, còn con thấy tận mắt hai vịđang có ác dục, hai vị có những việc riêng tư trong lòng, hai vị ấy là các ác nhân.

Người ấy nói như vậy ba lần (mặc dù bậc Ðạo sư đã ngăn cản), rồi đứng dậy ra đi. Ngay khi đang đi trên đường, khắp thân thể ông mọc lên các mụt nhọt bằng hạt cải, sau lớn dần bằng hạt cây vilva chín muồi, vỡ ra, máu chảy khắp người. Ông rên rỉ ngã xuống bên cổng ở tinh xá Kỳ Viên, đau đớn điên cuồng. Bỗng có tiếng kêu lớn vang dội đến cõi trời Phạm thiên:

– Kokàlika đã phỉ báng hai vị Ðại đệ tử.

Rồi một vị Phạm thiên tên là Tudu, biết được chuyện này, xuất hiện với ý định hòa giải các Tỷ-kheo, liền bảo trong lúc đứng vững trên không:

– Này Kokàlika, ông đã làm một việc ác, vậy hãy đi giảng hòa với hai vị Ðại đệ tử.

Người ấy hỏi:

– Hiền hữu là ai thế?

– Ta là Phạm thiên Tudu. Vị thần kia đáp.

Người này lại bảo:

– Ngài đã chẳng được đức Thế Tôn tuyên bố ngài là một vị Bất Lai đó sao? Chữ ấy có nghĩa là một vị không trở lại đời này nữa. Ngài sẽ trở thành một con quỷ trên đống phân đấy.

Ông lại mạ lỵ vị Ðại Phạm thiên như vậy. Vì không thể thuyết phục người ấy theo lời khuyên của mình, vị Phạm thiên đáp:

– Ông sẽ bị hành hạ theo khẩu nghiệp của ông.

Sau đó, vị Thiên thần ấy trở về cõi an lạc của ngài. Còn Kokàlika chết đi liền tái sinh vào địa ngục Hoa sen. Việc người này được tái sinh tại đó được vị Ðại Phạm thiên chủ đầy oai thần Sahampati (Ta-bà chủ) trình đức Như Lai và bậc Ðạo sư kể lại cho các Tỷ-kheo. Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng bàn luận về ác tâm của các người ấy:

– Này Hiền hữu, Kokàlika đã phỉ báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên và vì lời nói phát xuất từ chính miệng kia mà vị ấy đã đọa xuống Ðịa ngục Liên Hoa.

Bậc Ðạo sư bước vào và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi đây?

Tăng chúng trình Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính khẩu nghiệp và bởi chính do miệng mình nên phải đày đọa khổ sở, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vị Tế sư của vua có màu da ngăm ngăm đen và mất hết cả hàm răng. Bà vợ của ông thông gian với một vị Bà-la-môn khác. Vị sau này cũng giống như vị trước. Nhiều lần vị Tế sư cố tìm cách ngăn cản vợ mình, nhưng không thể được. Rồi ông suy nghĩ: “Ðấy là kẻ thù của ta, ta không thể chính tay giết được, mà ta phải lập mưu kế giết nó đi”.

Thế là ông đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, kinh thành của Ðại vương là kinh thành trọng yếu nhất trong toàn cõi Diêm-phù-đề, Ðại vương là vị vua cao trọng bậc nhất, nhưng dù Ðại vương là vị vua thủ lãnh, hoàng môn phía nam của Ðại vương lại có điềm xấu, nó được xây theo kiểu xui xẻo.

– Ðược rồi, này quốc sư, ta phải làm gì?

– Xin Ðại vương đem may mắn cho nó và chỉnh trang nó.

– Vậy phải làm gì đây?

– Ta phải hạ cổng cũ xuống, lấy loại gỗ mới có dấu hiệu may mắn, lập tế đàn cúng các vị thần canh giữ hoàng thành rồi xây hoàng môn theo cách kết hợp tốt lành của các vì sao.

– Thế khanh hãy làm như vậy.

Vào thời ấy, Bồ-tát là một trang nam tử tên là Takkàriya đang học tập với Tế sư này.

Bấy giờ, vị Tế sư ra lệnh hạ cổng thành cũ xuống làm cổng mới cho sẵn sàng, khi đã xong xuôi, ông vào tâu trình vua:

– Tâu Chúa thượng, cổng thành đã xong, ngày mai lại có sự kết hợp tốt lành của các tinh tú; vậy trước khi ngày mai trôi qua hết, ta phải làm tế lễ và dựng cổng thành mới.

– Ðược rồi, này quốc sư, phải cần tế lễ như thế nào?

– Tâu Chúa thượng, đại hoàng môn đang được các đại thần linh chiếm cứ và bảo vệ. Vậy phải giết một Bà-la-môn có da ngăm ngăm đen và không có răng, thuần chủng cả hai bên cha mẹ, lấy máu thịt vị đó đem ra tế lễ, thân thể đặt phía dưới, và cổng dựng lên trên đó. Vị ấy sẽ đem lại vận may cho Chúa thượng cùng cả kinh thành này.

– Ðược lắm, này quốc sư, hãy tìm một Bà-la-môn như vậy mà giết đi rồi dựng hoàng môn lên trênđó.

Vị Tế sư rất hoan hỷ. Ông bảo:

– Ngày mai ta sẽ trừ khử được kẻ thù của ta rồi!

Lòng đầy hăng hái, ông trở về nhà, nhưng không thể giữ yên cái lưỡi được, liền nói ngay với vợ:

– Này mụ già xấu xí kia, rồi mụ sẽ còn ai để hú hí nữa chứ? Ngày mai ta sẽ giết tình lang của mụ và đem tế lễ đấy!

– Tại sao ông muốn giết người vô tội?

– Ðức vua ra lệnh cho ta giết một người Bà-la-môn ngăm ngăm đen và dựng cổng thành lên người đó. Còn tình lang của mụ cũng ngăm ngăm đen nên ta định giết nó để tế lễ.

Bà vợ liền gởi cho tình quân một lá thư nhắn nhủ: “Chúng bảo đức vua muốn giết một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen để tế lễ; vậy nếu chàng muốn cứu lấy mạng mình xin hãy lo đào tẩu kịp thời, đem theo cả những người nào giống như chàng nữa”.

Người kia làm theo như vậy, tin đó lan khắp kinh thành, và mọi người nào có màu da đen đều tẩu thoát cả.

Vị tế sư không hề biết gì về việc kẻ thù đã chạy trốn, sáng hôm sau vào yết kiến vua thật sớm và tâu:

– Tâu Chúa thượng, trong chỗ kia có một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen, xin cho bắt nó lại.

Vua bảo vài người đến tìm kẻ đó, nhưng họ chẳng thấy ai cả, liền trở về thông báo cho vua rằng kẻ ấy đã trốn thoát rồi, vua phán:

– Vậy hãy tìm nơi khác.

Họ lục soát khắp kinh thành nhưng chẳng tìm được ai. Vua phán:

– Phải kiếm thật nhanh lên.

Họ đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngoại trừ vị quốc sư, chẳng còn ai khác nữa.

Vua phán:

– Tế sư không thể đem ra giết được.

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã phán bảo điều gì vậy? Theo lời tế sư này, nếu cổng thành không được dựng hôm nay, thì kinh thành sẽ gặp nguy hiểm. Khi vị tế sư giải thích việc này, ông ta để ngày này trôi qua, thì giờ tốt không trở lại nữa cho đến cuối năm. Kinh thành này không có cổng suốt một năm ròng là cơ hội ngàn vàng để cho kẻ thù chúng ta. Chúng ta phải giết một người nào đó, và làm tế lễ nhờ sự trợ lực của một vị Bà-la-môn hiền trí rồi dựng cổng thành.

– Nhưng có vị Bà-la-môn nào đủ tài trí như sư phụ ta chăng?

– Tâu Chúa thượng, có đồ đệ của vị ấy, một nam tử tên là Takkàriya, xin hãy phong vị ấy làm tế sư và cử hành lễ cát tường này.

Vua liền triệu vị nam tử ấy vào, ban cho chàng vinh hiển và phong chàng làm tế sư, rồi ra lệnh làm mọi sự như đã nói.

Vị nam tử ấy đi đến hoàng môn với một đám đông theo sau. Nhân danh hoàng đế, họ trói vị tế sư cũ và đem đến. Bậc Ðại sĩ bảo đào một cái hố, tại nơi hoàng môn sắp được dựng lên, che một cái lều trên đó, cùng với sư phụ bước vào lều. Vị tế sư ấy nhìn cái hố, thấy không lối nào thoát, liền bảo bậc Ðại sĩ:

– Mục đích của ta đã thành đạt, ta thật là một kẻ ngu si, ta đã không biết giữ mồm giữ miệng cho yên, mà lại hấp tấp nói với mụ đàn bà độc ác kia. Ta đã tự sát bằng chính binh khí của ta.

Rồi ông ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương
    Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
    Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
    Lời nói phi thời phải tiếc thương!

Sau đó vị nam tử đáp lời ông và ngâm vần kệ này:

  1. Người nói phi thời phải diệt vong
    Như vầy, than khóc với đau buồn,
    Xin thầy tự trách mình nay phải
    Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn.

Cùng với lời ấy, ngài nói thêm:

– Thưa sư phụ, không phải chỉ mình sư phụ, mà nhiều người khác nữa, đã phải chịu khổ đau vì không biết phải giữ lời nói cho kỹ.

Nói vậy xong, ngài kể một chuyện quá khứ để minh chứng điều đó.

*

Chuyện kỹ nữ Kàli

Chuyện kể rằng ngày xưa tại Ba-la-nại, có một cô kỹ nữ sang trọng tên là Kàli, nàng có một người anh tên là Tundila. Trong một ngày, Kàli có thể kiếm cả ngàn đồng tiền. Bấy giờ Tundila là một gã trác táng, nghiện rượu, mê cờ bạc, hễ nàng cho gã tiền và gã có được bao nhiêu tiền đều phung phí hết. Nàng cố sức ngăn cản gã nhưng không thể được.

Một hôm gã thua bài súc sắc, phải mất ngay cả áo quần đang mặc trong mình. Gã vừa mang quanh mình một tấm khố rách vừa đi đến nhà em gái. Nhưng nàng đã ra lệnh cho các tỳ nữ rằng nếu Tundila có đến thì bọn họ không được cho gã cái gì cả mà phải lôi cổ gã quẳng ra ngoài. Vì thế, họ đã làm đúng như vậy. Gã liền đứng lại bên thềm và kêu than.

Bấy giờ, có con trai một phú thương nọ, thường vẫn cho Kàli cả ngàn đồng tiền, hôm ấy tình cờ gặp gã, liền hỏi:

– Tại sao lại khóc lóc vậy, Tundila?

Gã đáp:

– Thưa công tử, tôi đã thua bài súc sắc, đến cầu xin em tôi, bọn nữ tỳ lại nắm lấy cổ tôi lôi ra ngoài.

– Ðược rồi, cứ ở lại đây, ta sẽ nói chuyện với em gái cậu.

Chàng vào nhà bảo:

– Anh của nàng đang đứng đợi kia, chỉ mặc khố rách che thân, tại sao nàng không cho anh áo quần mặc?

Nàng đáp:

– Ðúng vậy, thiếp chẳng muốn cho gì cả, nếu chàng thích anh ta thì chàng cho đi.

Bấy giờ, trong ngôi nhà mang tai tiếng xấu xa kia, có tục lệ như vầy: “Cứ mỗi một ngàn đồng tiền nhận được, thì năm trăm đồng được dùng cho bọn nữ nhân, năm trăm đồng để mua sắm xiêm y, dầu thơm và vòng hoa. Bọn khách làng chơi đến đây nhận áo quần mặc vào, ở lại đêm tại đó, rồi ngày hôm sau cởi áo quần ấy ra trả, mặc quần áo của mình và ra đi. Trong dịp ấy, con trai vị phú thương mặc áo quần mà bọn họ đưa cho chàng, và đem áo quần của chàng cho Tundila. Gã ấy mặc áo quần vào, vừa la hét vừa chạy đến tửu quán.

Nhưng nàng Kàli ra lệnh cho bọn nữ tỳ rằng khi chàng trai ra về ngày hôm sau, họ phải lấy lại áo quần. Vì vậy, khi chàng bước ra, bọn họ chạy đến từ khắp nơi như bọn cướp, lột hết áo quần trên thân của chàng đến trần như nhộng, rồi bảo:

– Này công tử, ra về đi!

Họ tống khứ chàng ta như vậy. Chàng ra đi trần truồng, bị mọi người chế diễu. Chàng ta hổ thẹn than khóc:

– Ðây chính là việc ta gây ra vì ta không giữ được mồm miệng!

Ðể làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðại sĩ ngâm kệ thứ ba:

  1. Tại sao lại hỏi chuyện Kà-li
    Cư xử thế nào với Tuấn-di?
    Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
    Áo quần ta đã biến bay đi,
    Ta đành trần trụi, như tai vạ
    Xảy với thầy, sao thật quái kỳ!

*

Chuyện chim đuôi chĩa

Một người khác lại kể chuyện này: Do sự bất cẩn của người chăn dê, hai con dê đực đánh nhau trên đồng cỏ ở Ba-la-nại. Trong lúc đang hăng máu, có một chim đuôi chĩa nghĩ thầm: “Chúng sẽ vỡ đầu ra mà chết mất, ta phải ngăn cản chúng mới được!” Thế là nó cố gắng ngăn cản bằng cách kêu la:

– Chú ơi, đừng đánh nhau nữa!

Nó chẳng nghe chúng nói gì đáp lại. Ngay giữa trận đánh, nó nhảy lên lưng trước, rồi sau nhảy lên đầu, van xin chúng dừng lại nhưng chẳng được gì. Cuối cùng, nó kêu to:

– Thế thì cứ đánh nhau đi, nhưng giết tôi trước đã!

Và nó đứng chen vào giữa hai cái đầu dê. Chúng vẫn tiếp tục húc nhau văng ra xa. Con chim bị nghiền nát như thể bởi cái chày, và chịu hủy hoại do chính hành động của nó.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Chim đuôi chĩa vội đến bên sườn
    Hai chú dê rừng lúc đả thương,
    Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
    Hai đầu dê nghiến nát như tương
    Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
    Số phận chim kỳ quái lạ thường!

*

Chuyện cây cọ dừa

Một chuyện khác nữa: Gần một cây cọ dừa kia, bọn chăn bò cất giấu nhiều của cải. Dân chúng Ba-la-nại thấy cây đó liền cho một người leo lên cây hái quả. Trong lúc gã đang ném quả xuống thì một con rắn hổ đen bò ra từ một tổ kiến, bắt đầu leo lên cây, bọn người đứng phía dưới cố xua đuổi nó bằng gậy, đá..v.v. nhưng không được, kêu la lớn gọi người kia:

– Con rắn đang bò lên cây!

Gã ấy kinh hoảng hét lớn. Những người đứng dưới lấy tấm vải thô cầm bốn góc, bảo gã kia ngã vào tấm vải. Gã gieo mình xuống, rơi vào chính lòng tấm vải giữa bốn người kia nhanh như gió, khiến bọn người ấy không giữ gã được phải đập đầu vào nhau mà chết.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Bốn người muốn cứu mạng anh chàng,
    Bốn góc cầm chung một tấm màn,
    Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
    Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng!

*

Chuyện con Dê cái

Ðám người khác lại kể chuyện này: Một bọn ăn trộm dê sống ở Ba-la-nại, một đêm kia bắt được một con dê cái, định làm một bữa chè chén trong rừng. Ðể dê khỏi kêu, chúng bịt mõm mó và cột nó vào một bụi tre. Hôm sau, khi chúng đến giết con dê, chúng quên mất con dao phay.

Chúng bảo nhau:

– Này, ta hãy giết dê rồi nấu. Hãy đem con dao phay ra đây!

Nhưng chẳng ai có dao.

– Nếu không có dao thì ta không thể nào ăn thịt nó được, dù ta có giết chết nó. Thôi thả nó ra. Việc này cũng do phước phần nào đó của con dê đây!

Vì thế, chúng thả dê ra. Bấy giờ, tình cờ có người thợ tre đến trước đó lấy một bó tre, gã để quên một con dao của người đan rổ, giấu dưới đám lá, định khi trở về sẽ lấy dùng. Nhưng con dê tưởng mình đã thoát thân, nên bắt đầu vui chơi nhảy nhót dưới bụi tre, lấy chân sau đánh đá làm sao mà con dao rớt ra! Ðám ăn trộm nghe tiếng dao rớt, chạy đến nơi thấy việc như vậy, vô cùng mừng rỡ, thế rồi chúng giết dê ăn thịt.

Như vậy để giải thích việc con dê đã tự giết mình bằng chính hành động của nó như thế nào, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Dê cái cột trong bụi trúc dày
    Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
    Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
    Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy!

Sau khi kể chuyện này, ngài giải thích:

– Song còn những kẻ dè dặt trong lời nói, biết giữ gìn ngôn ngữ, thường thoát khỏi số phận chết chóc đau thương.

Rồi ngài kể một chuyện thần tiên của loài Kinnara (Khẩn-na-la: các ca thần của Sakka Thiên chủ).

*

Chuyện Ðôi Ca thần

Chuyện kể rằng, một thợ săn sống ở Ba-la-nại, một bữa nọ vào vùng Tuyết Sơn bằng cách nào đó đã bắt được một cặp tiên núi, gồm một tiên nữ và lang quân của nàng, rồi đem về dâng vua. Vua chưa bao giờ thấy loài hữu tình này cả. Vua hỏi:

– Này thợ săn, chúng là loài gì?

– Tâu Chúa thượng, chúng có thể hát êm tai và nhảy múa rất đẹp mắt, không có con người nào có thể ca múa hay bằng chúng được.

Vua ban thưởng gã thợ săn ấy rất hậu hỉ, rồi ra lệnh cho đôi tiên ca múa. Song hai vị nghĩ: “Nếu chúng ta không diễn tả đầy đủ ý nghĩa bài ca, thì bài ca sẽ thất bại, hội chúng sẽ mạ lỵ và làm thương tổn chúng ta; và hơn nữa, người nào nói nhiều thường hay nói dối”. Vì thế, sợ phải dối trá này kia, hai vị không múa hát dù vua nài nỉ thế nào cũng mặc. Cuối cùng, vua nổi cơn thịnh nộ và bảo: – Hãy giết bọn này đem nấu và dâng cho ta dùng.

Vua ban lệnh này qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bọn này đây chẳng phải là tiên,
    Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
    Là thú do người kia dẫn đến
    Vì mong kiếm một túi đầy tiền
    Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
    Một đứa, rồi mai một đứa liền!

Lúc ấy tiên nữ nghĩ thầm: “Bây giờ vua nổi giận, chắc chắn ngài sẽ giết chúng ta. Vậy đây là lúc nên nói”, và lập tức nàng ngâm vần kệ:

  1. Mười vạn khúc ca biểu diễn lầm
    Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
    Hát tồi có tội, nên tiên chúng
    Chẳng dám làm, không bởi hận tâm.

Vua rất hoan hỷ vì tiên nữ, lập tức đáp vần kệ:

  1. Hãy để nàng đi, bởi nói rồi,
    Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
    Song bây hãy bắt chàng kia giết,
    Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai!

Trong lúc vị tiên kia suy nghĩ: “Nếu ta giữ yên mồm, chắc chắn vua sẽ giết ta, vậy đây là lúc phải nói”. Và chàng ngâm vần kệ nữa:

  1. Trâu bò trông cậy đám mây trời,
    Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
    Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
    Hiền thê này lại dựa vào tôi,
    Xin ngài đoán số phần chàng nọ
    Trước lúc chàng quay lại núi đồi!

Khi chàng đã nói lời này xong, chàng ngâm hai vần kệ nữa, để nói rõ cho vua rằng hai vị yên lặng không phải vì không muốn tuân lệnh vua, song vì hai vị nghĩ rằng nói là sai lầm:

  1. Khác người, khác cách, tấu Minh quân,
    Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
    Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
    Kẻ kia lại thấy đó sai lầm.
  2. Có người cho tất cả điên cuồng
    Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
    Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
    Ý người chẳng có luật thông thường.

Vua phán:

– Chàng ta nói đúng sự thật, đó quả là một vị tiên khôn ngoan.

Vì thế vua rất hoan hỷ, ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ðôi vợ chồng tiên giữ lặng thinh,
    Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
    Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,

Vẫn biết lời hay tạo phước lành.

Sau đó, vua đặt đôi tiên núi vào chiếc lồng vàng, truyền đưa người thợ săn vào, bảo gã thả hai vị ra ở nơi trước kia gã đã bắt.

Bậc Ðại sĩ nói thêm:

– Này sư phụ, đôi tiên núi biết phòng hộ lời nói như trên, và nhờ nói đúng thời nên được thả tự do vì nói năng khéo léo; còn thầy do nói năng sai lạc mà phải chịu đại họa.

Rồi sau khi so sánh cho vị tế sư thấy rõ như thế, ngài an ủi ông:

– Xin sư phụ đừng sợ, con sẽ cứu mạng sư phụ.

– Còn có cách nào chăng? – Vị kia hỏi: – Làm thế nào con cứu ta được nữa?

Ngài đáp:

– Vì chưa đến đúng lúc các hành tinh gặp gỡ.

Ngài để cho ngày ấy trôi qua, vào canh giữa đêm (canh ba), liền đem đến đó một con dê đã chết và nói:

– Xin thầy muốn đi đâu thì đi mà sinh sống.

Rồi ngài thả cho ông đi ngay, chẳng hề có ai hay biết gì cả. Còn ngài làm tế lễ với thịt dê ấy, xong dựng cổng thành trên đó.

*

Khi bậc Ðại sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại vì chính lời nói của mình, mà ngày xưa cũng thế nữa.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Kokàlika là người tế sư da ngăm ngăm đen, còn Ta là hiền giả Takkàriya.

-ooOoo-

  1. Chuyện lộc vương (Tiền thân Ruru)

Thần tâu Hoàng thượng biết tin nai..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Có người bảo vị ấy:

– Bậc Ðạo sư đem lại thật nhiều lợi ích cho hiền hữu, này hiền hữu Ðề-bà-đạt-đa. Hiền hữu đã thọ Ðại giới từ đức Như Lai, Hiền hữu đã học với ngài Tam Tạng Kinh điển, Hiền hữu đã nhận được nhiều lợi dưỡng và danh vọng.

Khi những điều như vậy được nói, người ta thường nghe thuật lại một cách đáng tin cậy là vị ấy sẽ trả lời:

– Không đâu hiền hữu, bậc Ðạo sư chẳng làm gì lợi lạc cho ta dù chỉ bằng một cọng cỏ. Ta đã thọ Ðại giới của chính ta, ta tự học Tam Tạng kinh điển, ta nhận được lợi dưỡng và danh vọng do từ bản thân ta chứ không nhờ ai cả.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về việc này:

– Ðề-bà-đạt-đa thật là vong ân bội nghĩa, này Hiền hữu, và lại quên cả thân tình.

Bậc Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi đó. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nay không phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa, mà trước kia kẻ ấy đã vô ơn. Thuở xưa, nó đã được Ta cứu mạng, nhưng nó không biết công đức to lớn của Ta.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một vị đại phú thương có tài sản tám trăm triệu, chỉ sinh được một con trai, đặt tên là Mahà-dhanaka hay Ðại phú ông.

Nhưng ông không dạy cho con việc gì cả, ông bảo:

– Con trai ta sẽ thấy việc học làm mệt mỏi tấm thân mà thôi.

Ngoài việc múa ca, ăn uống, tiệc tùng cậu trai chẳng biết việc gì cả. Khi cậu khôn lớn, cha mẹ cậu cưới cho cậu một cô gái xứng đôi với cậu, rồi cả hai vị qua đời. Sau khi song thân mất đi, cậu bị đám người chơi bời, phóng đãng, rượu chè, cờ bạc vây quanh nên đã tiêu hết tài sản một cách hoang phí. Lúc đó cậu phải vay tiền rồi không trả lại nổi, bị chủ nợ thúc đòi. Cuối cùng cậu nghĩ: “Ðời ta còn nghĩa lý gì với ta nữa? Ta đang bị biến đổi thành một con người khác rồi, thà chết sướng hơn”. Sau đó cậu bảo đám chủ nợ.

– Hãy đem các giấy nợ đến đây, ta có cả một gia bảo chôn ở bờ sông Hằng, các ông sẽ được phần đó.

Họ cùng đi với cậu. Cậu làm như thể chỉ chỗ đây đó là nơi chôn gia sản (song lúc đó cậu có ý định nhảy xuống sông trầm mình) và cuối cùng cậu ta nhảy xuống sông Hằng. Trong lúc nước cuốn xoáy cậu đi ra, cậu kêu to lên đầy kinh hoảng.

Lúc bấy giờ, bậc Ðại sĩ sinh làm một con Nai chúa và sau khi rời đàn, hiện đang trú ẩn tại một khúc sông, chỉ riêng mình Nai trong khóm cây Sà-la chen lẫn đám xoài trổ hoa rất đẹp. Lớp da trên mình Nai có màu vàng óng ả láng mượt, bàn chân trước và bàn chân sau đỏ như thể nhuộm son, cái đuôi giống như cái đuôi bò rừng, cặp sừng như hình xoắn ốc bằng bạc, đôi mắt Nai tựa hồ đôi hạt minh châu lóng lánh, khi Nai quay mồm về hướng nào thì trông chẳng khác quả cầu bằng vải đỏ. Vào khoảng nửa đêm, Nai nghe tiếng kêu thê thảm ấy, liền nghĩ thầm: “Ta nghe tiếng người kêu. Trong lúc ta đang sống đây, nó chẳng phải chết! Ta sẽ cứu mạng nó”.

Vừa rời khỏi chỗ ẩn nấp trong bụi cây, ngài bước xuống bờ sông và gọi to bằng giọng nói an ủi:

– Này người kia, đừng sợ, ta sẽ cứu anh sống.

Rồi Nai rẽ dòng nước, mang cậu lên bờ đến tận nơi nai trú ẩn. Suốt hai ba ngày liền, Nai săn sóc và cho cậu ăn trái cây rừng. Sau đó, Nai bảo cậu:

– Này người kia, ta sẽ mang anh ra khỏi rừng và đặt anh trên đường cái đến Ba-la-nại, anh sẽ về bình an. Song ta yêu cầu anh đừng bị lòng tham tiền bạc lôi kéo mà báo cho vua, hay một người quyền thế nào đó biết là trong chỗ kia một con Nai vàng óng cần phải bắt đấy.

Người kia hứa giữ lời và bậc Ðại sĩ, sau khi được hứa rồi, liền để cậu trên lưng và đưa ra đường cái hướng về thành Ba-la-nại rồi trở về đường cũ.

Vào ngày cậu ta đi về thành Ba-la-nại, bà hoàng hậu mệnh danh Khemà (Thái Hòa) nằm mộng về sáng thấy một con Nai màu hoàng kim thuyết pháp cho bà, nên bà suy nghĩ: “Nếu không có một Nai thần như thế này thì chắc hẳn ta đã không nằm mộng thấy ngài. Hẳn nhiên phải có một vị như vậy, nên ta muốn thông báo việc này với đức vua”.

Sau đó, bà đến yết kiến vua và thưa:

– Tâu Ðại vương, thần thiếp đang mong mỏi được nghe bài thuyết Pháp của một con Nai hoàng kim. Nếu làm được việc ấy, thiếp mới sống, nếu không, thiếp chẳng thiết sống nữa.

Vua an ủi bà và bảo:

– Nếu có một con vật như thế sống trong cõi trần gian này thì ái khanh sẽ toại nguyện.

Rồi vua triệu các Bà-la-môn vào và hỏi:

– Có loài vật nào như loài Nai hoàng kim chăng?

– Tâu Chúa thượng, có.

Vua liền đặt một túi tiền mười ngàn đồng đựng bên trong một cái hộp bằng vàng lên lưng một con voi đã được trang điểm thật lộng lẫy: “Bất kỳ ai được tin về một con Nai hoàng kim thì vua sẽ chấp thuận trao cho người đó túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng này cùng chiếc hộp bằng vàng và cả con voi ấy nữa hoặc một con khác tốt đẹp hơn”. Vua ra lệnh khắc một vần kệ trên một phiến vàng, giao cho một viên quan trong triều và bảo vị ấy nhân danh vua hát vần kệ ấy lên giữa dân chúng toàn thành. Sau đó, vua ngâm vần kệ đầu trong chuyện Tiền thân này:

  1. Ai mang tin báo trẫm về Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài?
    Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?

Viên triều thần mang phiến vàng ấy đi, công bố khắp kinh thành. Vừa lúc ấy, con trai của vị phú thương đi vào Ba-la-nại, khi nghe lời công bố ấy, cậu đến gần viên quan và nói:

– Tiểu sinh có thể đưa tin về một con nai như vậy, các ngài hãy dẫn tiểu sinh vào yết kiến đức vua.

Viên quan liền xuống voi, dẫn cậu vào yết kiến vua và tâu:

– Tâu Chúa thượng, người này có thể đưa tin tức trình Chúa thượng về con Nai kia.

Vua phán:

– Có đúng như vậy chăng, người kia?

Cậu đáp:

– Tâu Ðại vương, quả đúng như vậy, xin Ðại vương cho tiểu thần vinh dự đó.

Và cậu ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Thần tâu Hoàng thượng biết tin Nai,
    Tối thượng Lộc vương của cả loài,
    Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
    Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!

Vua rất hoan hỷ khi nghe những lời này của tên phản bạn:

– Này mau lên! – Vua phán: – Phải tìm con Nai này ở đâu thế?

Gã đáp:

– Tâu Chúa thượng, ở chỗ như vầy.

Và gã chỉ rõ đường đi. Cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vua ra lệnh tên phản bội dẫn ngài đến nơi ấy, rồi gã bảo:

– Xin ra lệnh cho đoàn quân sĩ dừng lại.

Khi quân sĩ đã được lệnh dừng, gã chỉ tay nói tiếp:

– Nơi có con Nai vàng ánh ở chốn đằng xa xa kia kìa.

Và gã ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Bụi cây xoài ở phía đàng xa,
    Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
    Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
    Nai này có thể được tìm ra.

Khi vua nghe những lời này, ngài bảo các cận thần:

– Ðừng để Nai chạy thoát, mà phải lập tức bủa vây quanh bụi cây này, còn binh sĩ cầm binh khí trong tay.

Họ làm theo lệnh ấy và đồng thanh la lớn. Vua cùng một số người khác đứng riêng ra, song gã đó cũng không đứng xa mấy. Bậc Ðại sĩ nghe tiếng kêu ấy, nghĩ thầm: “Ðây là tiếng thét của mộtđoàn người đông đảo, vậy ta phải đề phòng họ mới được”.

Ngài đứng lên và khi nhìn cả một đoàn người, ngài nhận thấy nơi vua đứng. “Nơi nào vua đứng”, ngài nghĩ thầm, “ta sẽ được bình an, vậy ta phải đến đó”. Rồi ngài chạy về phía vua. Khi vua thấy ngài chạy đến, liền bảo:

– Một con vật mạnh như voi có thể quật mọi thứ trên đường đi của nó. Ta muốn giương cung lên dọa con nai này. Nếu nó chạy, ta sẽ bắn cho nó yếu đi rồi ta mới bắt nó được.

Sau đó vua giương cung lên ngay trước mặt Bồ-tát.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ:

  1. Nai tiến lên: cung đã được giương,
    Mũi tên nằm ở sợi dây trương
    Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
    Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương:
  2. Ðại vương, Chúa tể của vương xa,
    Xin đứng yên và chớ bắn ta,
    Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
    Nơi này, Nai sẽ được tìm ra?

Vua say mê giọng ngọt như mật của ngài, liền thả cung đứng yên chiêm ngưỡng ngài. Lúc ấy bậc Ðại sĩ bước lên chỗ vua, vừa nói chuyện vui vẻ với vua và đứng một bên. Cả đám tùy tùng cũng hạ binh khí xuống, bước lên vây quanh vua. Vào lúc ấy, bậc Ðại sĩ hỏi vua với giọng êm ái như tiếng chuông vàng rung nhè nhẹ:

– Ai đem tin đến cho ngài rằng nơi đây sẽ tìm được Nai vàng?

Vừa lúc ấy, con người gian ác kia bước lại gần và đứng nghe lỏm. Vua chỉ gã và nói:

– Ðó là người báo tin cho trẫm.

Rồi vua ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
    Con người đang đứng ở đằng xa,
    Mang tin, nó đã cho ta biết
    Rằng ở đây Nai được thấy mà.

Nghe vậy, bậc Ðại sĩ trách mắng người bạn phản bội kia, và ngâm vần kệ thứ bảy nói với vua:

– 7. Nhiều người ở cõi thế gian này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
“Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!”.

Khi vua nghe lời kệ này, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Muốn trách người có thể hỏi Nai?
    Là chim, là thú hoặc là ai?
    Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
    Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người!

Ðến đây, bậc Ðại sĩ đáp lại:

– Tâu Ðại vương, ta không trách một thú vật hay chim chóc nào cả, mà ta trách một người.

Ðể giải thích việc này, ngài ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ta cứu gã kia, đã một lần
    Khi gần như gã phải chìm dần
    Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
    Vì đó, nay đành phải khổ thân;
    Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
    Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.

Khi vua nghe vậy liền nổi giận lôi đình với gã kia. Vua phán:

– Sao? Ngươi không nhìn nhận công đức của ngài sau một việc cứu vớt đầy nhân từ như vậy ư? Ta muốn bắn chết gã kia ngay.

Vua liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này
    Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
    Ác nhân này đã đầy tâm phản
    Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!

Lúc ấy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Ta không muốn nó chết vì ta”, nên ngài ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Người ngu đáng thẹn, tấu Minh quân,
    Song việc giết người, bậc thiện nhân,
    Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
    Và ban cho gã thưởng toàn phần
    Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
    Phục vụ Quân vương những lúc cần.

Vua hoan hỷ khi nghe lời này nên ngâm vần kệ tiếp để tán thán ngài:

  1. Nai này quả thật có lòng nhân,
    Không trả hận sân với hận sân,
    Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
    Làm tròn lời hứa đã từng ban
    Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
    Xin chúc ngài luôn được vạn an!

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, người ta có thể miệng nói một đường mà làm một nẻo.

Và ngài ngâm hai vần kệ để giải thích điều đó:

  1. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
    Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
    Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
    Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
  2. Con người thường nghĩ: “Bạn thân mình,
    Quyến thuộc là đây, bạn chí tình”.
    Tuy thế, tình thân thường biến mất,
    Oán thù, căm hận lại dần sinh.

Khi vua nghe lời này, ngài đáp:

– Này Lộc vương! xin đừng nghĩ rằng ta thuộc loại người như vậy. Vì ta quyết sẽ không chối từđặc ân mà ta đã ban cho ngài, dù ta có mất cả quốc độ vì chuyện đó. Hãy tin tưởng vào ta.

Rồi vua cho ngài chọn điều ước.

Bậc Ðại sĩ nhận đặc ân này và ước mong rằng tất cả các loài vật từ chính ngài trở đi đều được bình an thoát khỏi mọi tai họa. Vua thuận cho ngài điều ước ấy, rồi đem ngài về thành Ba-la-nại và sau khi trang hoàng cả kinh thành lộng lẫy, lại tô điểm luôn cả bậc Ðại sĩ nữa, vua mời ngài thuyết Pháp cho bà chánh hậu, sau đó là vua và triều đình nghe bằng thứ tiếng của loài người ngọt ngào như mật. Ngài khuyến giáo vua hành trì Thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân) và khích lệ hội chúng đông đảo ấy xong, liền trở về chốn núi rừng, nơi ngài sống chung với bầy nai.

Vua ra lệnh đánh trống khắp kinh thành cùng lời loan báo:

– Hoàng thượng bảo vệ mọi loài thú vật.

Từ đó về sau, không ai dám giơ tay giết hại thú vật hay chim muông cả.

Nhưng nhiều đàn nai phá hoại mùa màng của người và không ai đủ sức xua đuổi chúng đi. Một đám đông tụ tập trước sân chầu, kêu than với vua.

Ðể làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Dân thành thị theo với tiện dân,
    Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
    “Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
    Chúa thượng, việc này phải cản ngăn”.

Nghe vậy, vua ngâm đôi vần kệ:

  1. Dân chúng dù mong muốn hoặc không,
    Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
    Trẫm không thể hại đàn nai được,
    Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
  2. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
    Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
    Lời ước ta đà ban Lộc chúa
    Ta không hề chối bỏ đâu mà.

Dân chúng nghe lời vua phán bảo, thấy mình không thể nói gì được nữa, đành ra về. Lời vua phán lan ra khắp nơi, bậc Ðại sĩ nghe được tin ấy, liền tập hợp cả đàn nai lại, và ra lệnh cho chúng:

– Từ nay về sau, các con không được phá hoại mùa màng của loài người nữa.

Ngài đã gởi thông báo cho dân chúng hay rằng mỗi người phải dựng một tấm bảng hiệu lên vùngđất của mình.

Dân chúng làm theo, và nhờ dấu hiệu ấy, cho đến nay, loài nai không phá hoại mùa màng nữa.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-bạt-đạt-đa vong ân bội nghĩa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là con trai nhà phú thương, Ànanda (A-nan) là vua, và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền thân Sarabha-Miga)

Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên để giải thích đầy đủ một câu hỏi do Ngài nêu ra một cách tổng quát cho vị Tướng quân Chánh pháp (Sàriputta).

Vào thời ấy, bậc Ðạo sư nêu vắn tắt câu hỏi với Trưởng lão ấy. Ðây là câu chuyện đầy đủ chi tiết về nguồn gốc của một số chư Thiên. Khi Tôn giả Pindola-Bhàradvàja dùng thần thông để lấy được cái bình bát bằng gỗ Chiên-đàn trước sự hiện diện của vị Ðại phú thương ở thành Ràjagaha (Vương Xá), bậc Ðạo sư cấm các Tỷ-kheo sử dụng thần thông lực.

Lúc ấy, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội suy nghĩ: “Sa-môn Gotama đã cấm sử dụng thần thông lực. Nay chính vị ấy cũng sẽ không sử dụng thần thông lực nữa”. Ðám đệ tử của các vị ly khai Giáo hội lo lắng, nói với họ:

– Tại sao các Tôn giả không dùng thần thông lực lấy cái bát kia?

Họ đáp:

– Này Hiền hữu, việc này không khó gì đối với chúng ta. Song chúng ta nghĩ: Ai lại muốn thị hiện thần thông cao quý vi diệu của mình trước người thế tục chỉ vì cái bình bát bằng gỗ nhỏ mọn kia chứ? Do thế, chúng ta không lấy nó xuống. Các Sa-môn dòng họ Thích-ca đã lấy nó xuống và thị hiện thần thông chỉ vì tham lam ngu xuẩn mà thôi. Ðừng tưởng biến hóa thần thông là việc khó khăn gì với chúng ta đâu: giả sử ta đừng kể đến các đệ tử của Sa-môn Gotama, nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ biến hóa thần thông với chính Sa-môn Gotama nữa kia. Nếu Sa-môn Gotama thị hiện một phép thần thông, thì chúng ta sẽ thị hiện một phép khác kỳ diệu gấp hai lần.

Tăng chúng nghe chuyện này liền thưa với đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội nói họ muốn thị hiện thần thông lực.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Cứ để họ làm đi, Ta cũng sẽ làm việc ấy.

Vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) nghe vậy, đi đến hỏi đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Ngài định thị hiện thần thông lực chăng?

– Thưa Ðại vương, phải.

– Bạch Thế Tôn, chẳng phải là có lệnh cấm về vấn đề này rồi sao?

– Thưa Ðại vương, lệnh ấy dành cho các đệ tử của ta, chớ không có lệnh nào có thể ngăn cản chư Phật cả. Cũng như hoa quả trong vườn ngự uyển là của cấm đối với kẻ khác chứ không hề áp dụng luật này đối với Ðại vương.

– Bạch Thế Tôn, vậy Ngài sẽ thị hiện phép thần thông ở nơi đâu?

– Tại Xá-vệ, dưới một cây xoài có “cục u”.

– Vậy trẫm sẽ làm gì lúc đó?

– Thưa Ðại vương, chẳng cần làm gì cả.

Ngày kế đó, sau khi điểm tâm xong, bậc Ðại sư đi khất thực.

– Bậc Ðạo sư đi đâu thế? Dân chúng hỏi.

Các Tỷ-kheo đáp lại:

– Ở cổng thành Xá-vệ, dưới một gốc cây xoài có cục u, Ngài sẽ thị hiện một phép Thần thông Song hành (Yamaka Patihariya: các tia sáng xanh và đỏ phát ra từ thân Ngài) để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội.

Ðám người ấy nói:

– Phép thần thông này sẽ là tuyệt tác, nên chúng ta muốn đi xem.

Sau khi rời nhà, dân chúng đi theo bậc Ðạo sư, và vài kẻ ly khai Giáo hội cũng đi theo Ngài cùng với đám đệ tử của họ.

Họ nói:

– Chúng ta sẽ thị hiện một phép thần thông ở nơi mà Sa-môn Gotama sắp thị hiện phép thần thông của mình.

Dần dần, bậc Ðạo sư đi đến Xá-vệ. Vua hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, có đúng là Ngài sắp thị hiện thần thông lực như chúng đồn chăng?

– Quả đúng vậy. Ngài đáp.

– Khi nào? Vua hỏi.

– Ngày thứ bảy kể từ đây, vào đúng rằm tháng sáu trăng tròn.

– Bạch Thế Tôn, thế trẫm có cần dựng lên một ngôi đình chăng?

– Thưa Ðại vương, cứ an tâm, ở ngay nơi mà Ta sắp thị hiện thần thông. Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ sẽ dựng lên một ngôi đình bằng châu ngọc có chu vi mười hai dặm.

– Bạch Thế Tôn, trẫm có cần loan báo việc này khắp kinh thành chăng?

– Ðại vương cứ loan báo.

Vua liền đặt người thông tin Chánh pháp này trên một con voi được trang hoàng thật lộng lẫy, đi công bố như sau:

– Hãy nghe tin này! Bậc Ðạo sư sắp thị hiện bằng thần thông để đánh bại những kẻ ly khai Giáo hội, trước cổng thành Xá-vệ, dưới gốc cây xoài-có-cục-u trong bảy ngày nữa kể từ ngày hôm nay!

Cứ mỗi ngày họ lại báo tin này. Khi đám người ly khai nghe tin rằng phép lạ sẽ được thị hiện dưới một gốc cây xoài-có-cục-u, họ liền ra lệnh chặt hết mọi cây xoài gần thành Xá-vệ, rồi đền tiền bạc cho các chủ vườn xoài.

Vào đêm trăng tròn, người thông tin Chánh pháp ấy công bố:

– Hôm nay vào buổi sáng, phép thần kỳ sẽ xuất hiện.

Nhờ oai lực của chư Thiên, người người khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), dường như đều ra đứng ở cửa và nghe tin loan báo ấy. Bất cứ người nào trong lòng có ý muốn đi xem, đều thấy mình đến tại Xá-vệ ấy: dân chúng chiếm khoảng mười hai dặm.

Từ sáng sớm, bậc Ðạo sư đi khất thực. Viên quan giữ vườn ngự uyển, tên Ganda hay “Cục U”, sắp đem đi dâng vua một trái xoài chín trông thật đẹp, lớn bằng cái giạ đựng lúa, vừa độ chín muồi, thì ông thấy bậc Ðạo sư tại cổng thành, liền bảo:

– Trái xoài này thật xứng đáng với bậc Ðạo sư.

Rồi ông dâng xoài lên Ngài. Bậc Ðạo sư cầm lấy ngồi xuống một bên cổng, dùng trái xoài. Khi đã thọ thực xong, Ngài bảo:

– Này Ànanda, đưa cho người giữ vườn hột xoài này để trồng ngay chỗ này, nó sẽ thành cây xoài có cục u.

Tôn giả tuân lệnh. Người giữ vườn đào một lỗ dưới đất, trồng hột xoài ấy. Trong chốc lát, hạt xoài nứt ra, rễ đâm ra và nhú lên một mầm đỏ cao bằng cái chày, ngay khi đám đông đang trố mắt nhìn, nó lớn dần thành một cây xoài cao cả trăm cubit (1 cubit = 45cm) với thân cây cao năm mươi cubit, các cành lá cũng cao năm mươi cubit, cùng lúc hoa nở rộ, trái chín dần, cây vẫnđứng choáng rợp cả bầu trời có đàn ong vây quanh cành sai nặng trĩu quả vàng óng. Khi có làn gió thổi, trái ngọt rơi xuống, các Tỷ-kheo đến lượm lấy xoài, ăn xong ra về. Vào buổi chiều, Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) suy xét, nhận thấy mình có bổn phận dựng lên một ngôi đình gồm bảy báu vật, chu vi rộng mười hai dặm che kín mọi nơi bằng hoa sen xanh. Như vậy, chư Thiên của mười ngàn thế giới tụ tập lại đây.

Sau khi đã thị hiện phép thần thông vô cùng kỳ diệu trước các đệ tử của Ngài để đánh bại đám người ly khai Giáo hội, bậc Ðạo sư làm phát khởi lòng tin trong các hội chúng xong, Ngài đứng lên, ngự trên bảo tọa dành cho đức Phật và thuyết Pháp. Hàng trăm triệu chúng sinh uống được nguồn nước trường sinh; sau đó Ngài nhận định để biết rõ chư Phật quá khứ đi về đâu sau khi đã thực hiện một phép thần thông, và nhận thấy chính là về cõi trời Ba mươi ba, Ngài liền rời khỏi bảo tọa, chân phải Ngài đặt lên đỉnh Yugandhara, chân trái Ngài bước qua đỉnh Sineru (Tu-di), Ngài bắt đầu an cư vào mùa mưa dưới cây Ðại San hô, an tọa trên chiếc ngai hoàng thạch, và suốt thời gian ba tháng, Ngài thuyết Thắng pháp (Abhidhamma) siêu phàm cho chư Thiên.

Dân chúng không biết bậc Ðạo sư đi đâu, họ nhìn nhau bảo:

– Thôi ta về nhà và an trú tại nơi đó, suốt mùa mưa.

Khi mùa an cư trai giới gần chấm dứt, ngày đại lễ Tự Tứ cận kề, Ðại Trưởng lão Moggallàna (Mục-kiền-liên) đi thông báo với đức Thế Tôn.

Ngài hỏi:

– Sàriputta (Xá-lợi-phất) nay ở đâu?

– Bạch Thế Tôn, sau khi phép thần thông làm cho Tôn giả hoan hỷ, vị ấy đã ở lại cùng năm trăm vị Tỷ-kheo trong kinh thành Samkassa, và vẫn còn an trú tại đó.

– Này Moggallàna, vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, ta sẽ xuống hạ giới bằng cổng thành Samkassa. Vậy kẻ nào muốn chiêm ngưỡng Như Lai hãy tụ tập tại thành Samkassa.

Trưởng lão này đồng ý đi báo cho dân chúng hay: Tôn giả mang toàn thể hội chúng từ Xá-vệ đến Samkassa cách xa nhau cả ba mươi dặm chỉ trong chớp mắt.

Khi mùa an cư trai giới qua rồi, đại lễ Tự tứ đã được cử hành xong, bậc Ðạo sư bảo Sakka Thiên chủ rằng Ngài sắp trở về cõi nhân thế. Sau đó, Thiên chủ cho triệu Thần xây dựng Vissakamma vào và bảo:

– Hãy làm một cầu thang để đấng Thập Lực bước xuống cõi trần.

Vị này đặt cầu thang trên đỉnh Sineru, chân nằm trên cổng thành Samkassa; ở giữa, vị ấy làm ba bậc thang liền nhau, một bậc bằng ngọc, một bậc bằng bạc, và một bậc bằng vàng, còn lan can và mái làm bằng bảy báu vật.

Sau khi bậc Ðạo sư thị hiện thần thông để cứu độ cõi thế gian, Ngài bước xuống bậc thang chính giữa làm bằng ngọc. Thiên chủ Sakka cầm chiếc bình bát và chiếc y, Suỳama cầm cái quạt bằng đuôi trâu rừng (Yak), Phạm thiên chủ mang chiếc lọng và chư Thiên trong mười ngàn thế giớiđồng chiêm bái Ngài với các vòng hoa trời và các hương liệu.

Khi bậc Ðạo sư đã đứng ở chân cầu thang, vị đệ nhất trưởng lão Sàriputta đảnh lễ Ngài, sau đó là toàn thể hội chúng. Ở giữa hội chúng này, bậc Ðạo sư suy nghĩ: “Moggallàna đã chứng tỏ đầy đủ thần thông lực, Upàli là người tinh thông Giới luật của bậc Thánh, song đặc tính đại trí tuệ của Sàriputta lại chưa được dịp tỏ bày. Trừ một mình ta, chẳng ai đạt trí tuệ đầy đủ trọn vẹn như vậy, nên ta muốn tỏ bày năng lực trí tuệ của vị này cho hội chúng biết rõ”.

Trước tiên Ngài đặt câu hỏi thông thường cho đám người phàm phu không biết gì cả. Cùng cách ấy, Ngài lần lượt đặt câu hỏi vừa tầm hiểu biết của những vị Nhất Lai, Bất Lai và các vị A-la-hán, các Thánh đệ tử, trong từng trường hợp; những vị nào dưới cấp bậc ấy lần lượt không trả lời được, chỉ những vị ở trên cấp bậc ấy mới có thể trả lời. Sau đó, Ngài đặt câu hỏi trong khả năng hiểu biết của Tôn giả Sàriputta thì chỉ Trưởng lão này trả lời được, còn các vị khác không thể. Dân chúng hỏi nhau:

– Vị Trưởng lão trả lời bậc Ðạo sư là ai thế?

Họ được bảo đó là vị Tướng quân Chánh pháp tên gọi Sàriputta.

– Ôi! Trí tuệ của ngài thật cao cả thay! Họ bảo nhau.

Từ đó về sau, đặc tính đại trí tuệ của Trưởng lão này vang dội khắp loài người và chư Thiên.

Lúc ấy bậc Ðạo sư nói với vị này:

Người này thử thách phải đi qua,
Kẻ khác đạt rồi mục đích xa,
Tư cách khác nhau đều hiển lộ,
Vì ông biết rõ hết kia mà.

Như vậy, sau khi hỏi một câu thuộc phạm vi hiểu biết của một vị Phật, Ngài thêm:

– Ðây là vấn đề được đặt ra tổng quát sơ lược, còn đâu là ý nghĩa của vấn đề trong mọi phương diện?

Vị Trưởng lão xem xét vấn đề. Vị ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư hỏi về đường lối tu tập thích hợp cho Tăng chúng tinh tấn tăng trưởng, cả những người mới đạt được những quả vị thấp, lẫn những bậc Thánh A-la-hán đó chăng?” Về vấn đề tổng quát, Tôn giả này không có điều gì nghi hoặc. Nhưng rồi Tôn giả suy xét: “Ðường lối tu tập thích hợp có thể được diễn tả bằng nhiều cách nói theo ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình, khởi đầu là như vậy, song bây giờ làm sao ta có đáp đúng ý nghĩa của bậc Ðạo sư?”. Tôn giả hoài nghi về ý nghĩa ấy.

Bậc Ðạo sư nghĩ thầm: “Sàriputta không hoài nghi gì về vấn đề tổng quát, song còn nghi hoặc về khía cạnh đặc biệt gì của vấn đề mà Ta đang xem xét. Nếu Ta không đưa ra lời gợi ý hướng dẫn thì ông ấy không thể nào giải đáp được. Vậy ta phải gợi ý cho ông ấy”. Rồi Ngài đưa lời gợi ý bằng cách hỏi:

– Này Sàriputta, ông có chấp nhận điều này là đúng chăng (Ngài nói một vấn đề nào đó).

Tôn giả Sàriputta chấp nhận vấn đề ấy.

Gợi ý như vậy xong, Ngài biết Tôn giả Sàriputta đã nắm vững ý nghĩa của Ngài, và sẽ giải đáp đầy đủ bắt đầu từ ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình. Sau đó, vấn đề hiện ra rõ ràng trước mắt vị Trưởng lão như có cả trăm ngàn lời gợi ý, ồ không, cả ngàn lời nữa, và theo lời hướng dẫn củađức Phật, Tôn giả giải đáp vấn đề kia thuộc về tri kiến Phật.

Bậc Ðạo sư thuyết Pháp cho cả hội chúng khắp cả mười hai dặm: ba trăm triệu vị hữu tình uống được nguồn nước trường sinh.

Khi hội chúng ra về, bậc Ðạo sư lại du hành khất thực, dần dần đến Xá-vệ. Ngày hôm sau, khi đã khất thực tại Xá-vệ xong, Ngài trở về và dạy bảo các Tỷ-kheo giữ phận sự của mình rồi bước vào Hương phòng. Về buổi tối, các Tỷ-kheo bàn luận đến đức tính cao cả của Trưởng lão Sàriputta, trong lúc Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, Tôn giả Sàriputta thật là bậc đại trí tuệ, Tôn giả có trí tuệ quảng bác, trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ tinh xảo, trí tuệ linh lợi. Bậc Ðạo sư đặt câu hỏi tổng quát, Tôn giả đã trả lời thật đầy đủ sâu rộng.

Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì trong lúc ngồi đó, các vị trình với Ngài, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu vị ấy trả lời rộng rãi một vấn đề được nêu tổng quát, mà ngày xưa cũng đã làm như vậy.

Và Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con Nai sống trong rừng. Bấy giờ, vua thích săn bắn, và vua lại là một người đầy uy lực, ngài cho rằng không có ai xứng danh con người cả.

Một ngày kia, lúc ngài đi săn, ngài bảo đám cận thần:

– Hễ ai để thoát một con nai vì mình thì sẽ bị trừng phạt như vầy như vầy..

Bọn họ suy nghĩ: “Người ta có thể đứng trong nhà mà không tìm thấy vựa lúa. Khi một con nai bị vây bắt bằng cái móc hay gậy cong, ta phải lùa nó đến nơi đức vua đứng”.

Bọn họ liền giao ước với nhau để thực hiện điều này, và sắp đặt vua đứng ở cuối đường. Sau đó, họ vây quanh một hang lớn và bắt đầu lấy dùi cui gậy gộc đập lên mặt đất. Con vật đầu tiên bị vây bắt chính là Nai vàng. Ba lần Nai nhìn quanh bụi cây tìm cơ hội trốn thoát. Khắp nơi, Nai thấy người ta đứng chật ních chen tay, cung kề cung, chỉ có nơi vua đứng là Nai thấy may ra còn có dịp. Với đôi mắt chiếu sáng lòa, Nai vụt đến phía vua làm chói mắt vua như thể tung cát bụi vào đôi mắt ấy. Lập tức vua thấy Nai, bắn tên ngay và hụt mất.

Ta phải biết rằng loài nai rất thông minh tránh được các mũi tên. Khi các mũi tên vụt thẳng vào chúng, chúng đứng yên để tên bay đi, nếu tên vụt tới phía sau, nai sẽ vụt chạy nhanh hơn; nếu tên bay xuống từ phía trên chúng cong lưng lại, nếu từ phía suờn, nai nghiêng mình một tí; nếu tên nhắm vào bụng, nai lăn một vòng; khi tên đã lướt qua rồi thì Nai vụt nhanh như bay gió cuốn. Vì vậy, khi vua thấy Nai lăn qua, tưởng Nai đã bị thương, liền kêu lên một tiếng “ô này!”.

Nai vùng đứng dậy, vụt nhanh như gió, phá được vòng vây của đám người kia. Các triều thần ở cả hai phía nhìn thấy con nai chạy thoát, liền tụ tập lại với nhau và hỏi:

– Nai tiến về chỗ của ai thế?

– Chỗ của Chúa thượng.

– Song Chúa thượng đã la lớn: Ta bắn được nai rồi kia mà! Vậy Chúa thượng bắn được cái gì? Tôi dám chắc với quí vị, Chúa thượng bắn hụt rồi! Chúa thượng bắn mặt đất đấy!

Như vậy, hội chúng chế nhạo vua không ngớt. Vua nghĩ thầm: “Bọn này đang chế nhạo ta, chúng không biết tay ta”. Rồi khi nai nịt thắt lưng, vua đi bộ, cầm kiếm trong tay, vừa đi thật nhanh vừa la to:

– Ta sẽ đi bắt Nai!

Vua nhìn sát theo Nai và đuổi Nai chừng ba dặm. Nai tiến sâu vào rừng, vua cũng tiến theo. Lúc bấy giờ trên đường Nai đi, có một cái hố thật lớn với một cây đã mục nát, sâu chừng sáu mươi cubit, đám cỏ dại mọc che phía trên. Nai ngửi được mùi nước, thấy đó là cái hố, nên nghiêng mình qua một bên tránh đường. Song vua cứ đi thẳng lên nên ngã vào hố. Nai không còn nghe tiếng chân vua nữa, liền quay lại. Thấy không có ai, Nai biết là vua hẳn đã rơi xuống hố. Vì thế, Nai đến nhìn vào, thấy vua trong tình cảnh nguy khốn, vùng vẫy trong nước sâu. Song Nai khôngđể lòng oán hận đối với việc ác mà vua đã làm, còn thương hại nghĩ thầm: “Không được để vua này chết trước mắt ta, ta sẽ cứu vua qua khỏi cơn hoạn nạn này”.

Vừa đứng trên miệng hố, Nai vừa kêu lớn:

– Này Ðại vương đừng sợ, vì ta sẽ cứu thoát ngài khỏi cảnh hiểm nghèo này.

Rồi dùng hết sức lực, sốt sắng thiết tha như thể cứu lấy đứa con yêu quý của mình, Nai đỡ vua lên dốc đá, chính vua kia đã đuổi theo Nai để giết hại đó, Nai kéo vua ra khỏi hố sâu sáu mươi cubit, và nói lời an ủi vua rồi đặt vua lên chính lưng mình, mang vua ra khỏi rừng, để vua xuống không xa đám quân sĩ mấy. Sau đó, Nai thuyết giáo cho vua và an trú vua vào Ngũ giới. Tuy nhiên, vua không thể rời bậc Ðại sĩ được, mà bảo:

– Tâu Lộc vương Chúa thượng, xin hãy cùng ta đến Ba-la-nại, vì ta muốn nhường ngôi cho ngài tại Ba-la-nại, một kinh thành trải rộng kháp mười hai dặm để ngài ngự trị toàn quốc độ ấy.

Song ngài đáp:

– Thưa Ðại vương, ta là thú vật, ta không muốn chiếm vương quốc nào cả. Nếu ngài có lòng thương mến ta, xin hãy giữ Ngũ giới mà ta đã dạy ngài, rồi ngài dạy cho đám quần thần của ngài cũng giữ giới nữa.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về rừng. Còn vua đến gặp lại quân sĩ, và trong khi hồi tưởng những đức tính cao thượng của Nai kia, mắt vua đẫm lệ. Vừa được đám binh sĩ hộ tống, vua ngự khắp kinh thành trong hồi trống ban lệnh vua vang rền, truyền rao lời bố cáo này:

– Từ nay về sau, dân chúng toàn thành hãy giữ Ngũ giới.

Song vua không nói với ai về lòng nhân từ mà bậc Ðại sĩ đã ban cho ngài. Sau khi dùng xong các món cao lương mỹ vị về buổi chiều tối, vua an nghỉ trên vương sàn lộng lẫy và sáng sớm hôm sau, vua nhớ lại những đức tính cao thượng của bậc Ðại sĩ, ngài liền trở dậy và ngồi chéo chân trên vương tọa, tâm tràn đầy hân hoan, ngài cất tiếng ca lên nguyện vọng của ngài qua sáu vần kệ:

  1. Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
    Chính ta nay thành đạt đích hằng mong.
  2. Ta thấy rõ, người ơi, là bậc trí,
    Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
    Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ.
  3. Vượt trùng dương, ta thấy rõ, bây giờ,
    Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
    Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
    Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền.
  4. Ta thấy nay, người hỡi, gắng sức lên,
    Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
    Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
    Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương.
  5. Bậc trí nhân dù tràn ngập đau thương,
    Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
    Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
    Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
    Song lên đường cho đến lúc chết đi.
  6. Việc xảy ra, ta đều không ngờ tới,
    Việc ta tính lại thường hay thất bại,
    Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
    Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời.

Trong lúc vua đang ca khúc hát này, mặt trời cũng vừa lên. Còn vị tế sư của ngài cũng dậy sớm vào vấn an sức khỏe của ngài. Lúc đang đứng ở cửa, vị này nghe tiếng ca ấy, nghĩ thầm: “Hôm qua đức vua đi săn. Chắc ngài đã hụt mất con Nai và khi bị quần thần chế nhạo, ngài phán rằng ngài sẽ đích thân đuổi bắt con mồi và giết đi. Sau đó, hẳn ngài săn đuổi theo Nai, vì bị lòng kiêu mạn của một chiến sĩ thúc đẩy, nên bị rơi vào cái hố sâu sáu mươi cubit. Rồi Nai có từ tâm chắc hẳn đã kéo ngài lên mà không hề có chút ý nghĩ gì đến tội ác của đức vua đối với mình. Chắc vì thế nên đức vua hát lên khúc tụng ca này đây”.

Như vậy, vị Bà-la-môn này nghe hết mọi lời ca của khúc hát kia, và những việc gì đã xảy ra giữa vua với Nai đều rõ ràng như một khuôn mặt phản chiếu trong chiếc gương được lau chùi thật kỹ. Ông lấy đầu ngón tay gõ nhẹ lên cửa. Vua hỏi:

– Ai đó?

– Tâu Chúa thượng, chính hạ thần là tế sư đây.

– Này Sư trưởng, cứ vào đi.

Vua bảo rồi mở cửa. Vị ấy bước vào, tung hô vạn tuế đức vua, và đứng sang một bên. Sau đó, ông thưa:

– Tâu Ðại vương, hạ thần biết những việc đã xảy ra với Ðại vương ở trong rừng. Trong lúc đuổi theo con Nai, Ðại vương rớt vào hố và con Nai dựa vào sườn đá bên hố mà kéo Ðại vương lên. Vì vậy, Ðại vương nhớ lại đặc tính cao cả của Nai và hát một bài tụng ca.

Rồi ông ngâm hai vần kệ:

  1. Bên sườn non nọ có con Nai,
    Trước đó là con thịt của ngài,
    Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
    Vì ly tham hận hết trong đời.
  2. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử thần,
    Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
    Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
    Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân.

“Ô kìa!” Vua suy nghĩ khi nghe lời trên: “Người này không cùng đi săn với ta, tuy thế, lại biết hết mọi sự. Làm sao lại biết được thế? Ta muốn hỏi vị ấy”. Và vua ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðạo sĩ, hôm kia có mặt chăng?
    Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
    Tấm màn tham dục ngài đã vén,
    Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng!

Song vị Bà-la-môn đáp:

– Hạ thần không phải là một vị Phật toàn tri đâu, hạ thần chỉ nghe lóm khúc tụng ca của Ðại vương vừa hát đó thôi, mà không bỏ sót ý nghĩa, nên mọi việc trở nên rõ ràng trước mắt hạ thần.

Ðể giải thích điều này, ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Tâu Chúa công! Việc ấy, thần chẳng nghe,
    Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
    Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
    Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu.

Vua rất hoan hỷ nên ban thưởng ông một tặng phẩm quí giá.

Từ đó về sau, vua chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự, dân chúng cũng đem hết lòng làm thiện sự, nên khi mạng chung được sinh lên cùng Thiên chúng thật đông đảo.

Lúc bấy giờ, vua đi vào thượng uyển cùng với vị tế sư để bắn bia. Thời ấy Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đang suy gẫm xem cả đám tiên đồng ngọc nữ kia mới từ đâu đến mà ngài thấy thật đông đảo chung quanh ngài như thế. Khi xét kỹ, ngài chợt hiểu toàn câu chuyện: Vua đã được Nai cứu thoát khỏi cái hố như thế nào, vua đã được an trú vào giới đức, và nhờ uy lực của vua ra sao mà dân chúng đã làm nhiều thiện sự nên Thiên giới trở thành đông đúc như thế, và nay vua lại vào ngự uyển để bắn một cái bia.

Vì thế, Thiên chủ cũng đến nơi đó, với giọng sư tử hống, ngài tuyên thuyết tính cao thượng của Nai, và bảo cho biết chính ngài là Sakka Thiên chủ, rồi đứng vững trên không mà thuyết Pháp nêu rõ công đức của lòng từ bi và Ngũ giới, xong ngài trở về. Bấy giờ, vua dự định bắn bia, giương chiếc cung và lắp mũi tên vào dây. Ngay lúc ấy, Sakka Thiên chủ dùng thần lực hóa hiện ra con Nai đứng giữa vua và tấm bia, vua thấy vậy không bắn tên nữa. Lúc ấy, Thiên chủ nhập vào thân của vị tế sư ngâm kệ này cho vua nghe:

  1. Tên ngài giết lắm vật oai hùng,
    Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
    Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
    Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương!

Vua đáp lại qua vần kệ:

  1. Tế sư, trẫm thấu suốt hơn ngài:
    Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
    Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
    Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai.

Sau đó, Sakka Thiên chủ ngâm đôi vần kệ:

  1. Chẳng phải là Nai, tấu Ðại vương,
    Mà đây là một Tu-la-thần,
    Ngài là chúa tể nơi trần thế,
    Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng!
  2. Nếu ngài do dự, tấu Anh quân,
    Khi giết Nai vì chính bạn thân,
    Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
    Cùng vợ con ngài xuống cõi âm.

Nghe thế vua liền ngâm hai vần kệ:

  1. Cứ vậy Diêm vương với tử hà,
    Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
    Cùng thân bằng nữa, ta không thể
    Tự giết Nai bằng tay của ta.
  2. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi hùng,
    Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
    Sao ta muốn vị ban ân chết,
    Sau việc thi ân ấy đã mang?

Lúc ấy, Thiên chủ Sakka xuất ra khỏi thân của vị tế sư, mang lấy đúng hình dáng của ngài và hiệnđứng vững trên không, ngâm hai vần kệ nêu rõ đức tính cao thượng của vua:

  1. Thiện hữu muôn năm ở cõi trần!
    Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
    Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
    Ngài chính In-dra giữa các thần.
  2. Thoát dục, tâm mình mãi trú an,
    Khi nhiều người lạ đến kêu van,
    Hãy cho chúng những gì cần thiết,
    Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
    Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
    Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.

Nói vậy xong, Thiên chủ tiếp tục như sau:

– Ta đến đây để thử ngài, này Ðại vương, và ngài đã không đồng ý với ta. Ta xin ngài hãy gắng tinh cần mãi.

Cùng với lời khuyên này, ngài trở về cõi của mình.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Sàriputta hiểu đầy đủ những điều được nói tổng quát, mà ngày xưa cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị tế sư và Ta chính là Nai chúa.

-ooOoo-

Chương XIV

Tạp phẩm

  1. Chuyện cánh đồng lúa (Tiền thân Sàlikedàra)

Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Trường hợp này sẽ được giải thích trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Lúc ấy, bậc Ðạo sư cho gọi Tỷ-kheo này đến và hỏi:

– Này Tỷ kheo, Ta nghe nói ông cấp dưỡng người thế tục, có đúng vậy chăng?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

– Họ là ai thế?

– Bạch Thế Tôn, chính song thân của con.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Tỷ-kheo, tốt lành thay! Các trí nhân ngày xưa, ngay khi còn mang thân thú vật hạ liệt, dù chỉ sinh làm loài Anh vũ, nhưng khi cha mẹ già yếu, cũng đã đem cha mẹ vào tổ và nuôi nấng bằng chính thức ăn mà chúng ngậm về trong mỏ mình.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vị vua mệnh danh là Ðại vương Magadha (Ma-kiệt-đà) trị vì tại Ràjagaha (Vương Xá). Thời ấy, có một làng Bà-la-môn, tên là Sàlindiya ở phía đông bắc kinh thành này. Trong vùng đông bắc này là địa phận thuộc về nước Ma-kiệt-đà. Có một Bà-la-môn sống ở Salindiya, tên là Kosiyagotta, chiếm giữ điền sản cả ngàn mẫu đất để trồng lúa. Khi vụ mùa đến, ông làm một hàng rào vững chắc, giao đất cho các gia nhân, có người được năm mươi mẫu, người khác sáu mươi mẫu, và cứ vậy, vị địa chủ chia khoảng năm trăm mẫu điền sản cho đám gia nhân.

Còn năm trăm mẫu kia, ông chủ giao cho một người làm thuê lấy công, người ấy dựng túp lều và ở đó suốt đêm ngày. Lúc bấy giờ, về phía đông bắc vùng đồng ruộng này là một khu rừng cây bông vải rộng lớn, mọc trên một ngọn đồi bằng phẳng, trong rừng này có một đàn chim Anh vũ (két) rất đông.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sinh vào đàn chim Anh vũ này, làm vương tử của chúa Anh vũ. Ngài lớn lên tốt đẹp và khỏe mạnh, thân lớn bằng cái trục bánh xe. Bấy giờ, chúa chim đã già, bảo ngài:

– Nay ta không thể nào bay ra đồng được nữa, con hãy chăm sóc cả đàn chim này.

Và phong cho ngài chức chim chúa. Từ hôm sau, ngài không chịu để cha mẹ đi kiếm mồi nữa, mà ngài cùng cả đàn bay về vùng Tuyết Sơn, và sau khi ăn lúa no nê từ đám ruộng mọc hoang tại đó, ngài trở về mang thức ăn đầy đủ để nuôi cha mẹ.

Một ngày kia, đàn chim Anh vũ hỏi ngài một chuyện. Chúng nói:

– Trước đây, vào lúc này lúa đã chín trong nông trại Ma-kiệt-đà, bây giờ lúa có được trồng nữa chăng?

Ngài đáp:

– Cứ đi xem.

Rồi ngài bảo hai chim Anh vũ đi tìm hiểu. Ðôi chim Anh vũ bay đi, và hạ cánh xuống đồng bằng Ma-kiệt-đà ở phần đất được người làm mướn canh giữ, chúng ăn lúa rồi mang một cọng lúa về rừng, thả xuống trước đôi chân của bậc Ðại sĩ và nói:

– Lúa này mọc tại đó.

Hôm sau, ngài bay đến nông trại đó và hạ xuống cùng với cả đàn chim. Người làm công ấy cứ chạy đằng này đến chạy đằng kia, cố xua đuổi đàn chim, song không thể nào đuổi chúng được. Cả đàn Anh vũ ăn lúa xong, ra đi với những mỏ trống không, nhưng chúa Anh vũ thu lượm một số lúa mang về cho cha mẹ.

Hôm sau, bầy Anh vũ lại đến đó ăn lúa lần nữa, và hôm sau nữa cũng vậy. Lúc ấy người kia bắtđầu suy nghĩ: “Nếu những con vật này cứ tiếp tục ăn thêm vài ngày nữa, thì ta chẳng còn chút gì. Vị Bà-la-môn kia sẽ định giá cả cho cả đám lúa này và sẽ phạt tiền ta. Ta phải đi báo cho ông ấy biết”. Vừa cầm lấy một nắm lúa và một món quà kèm theo, gã đi đến gặp vị Bà-la-môn kia, kính chào vị ấy và đứng sang một bên. Ông chủ bảo:

– Nào, anh bạn, có được mùa lúa chăng?

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, được mùa lắm.

Gã đáp và ngâm hai vần kệ:

  1. Mùa lúa chiêm vàng thật đẹp thay,
    Song tôi xin nói để ngài hay
    Ðàn Anh vũ phá tan đồng lúa,
    Tôi chẳng làm sao đuổi chúng bay.
  2. Có một chim kia đẹp nhất đàn,
    Trước tiên tìm lúa chín mà ăn,
    Rồi mang một nắm vào trong mỏ,
    Ðể sẵn mai sau những lúc cần.

Khi vị Bà-la-môn nghe chuyện này lòng phát sinh mối tình thương cảm đối với chim Anh vũ chúa. Ông hỏi:

– Này chú, thế chú có biết cách đặt bẫy chăng?

– Thưa Tôn ông, tôi có biết.

Ông chủ ấy liền nói với gã qua vần kệ này:

  1. Ðặt bẫy lông đuôi ngựa thế này,
    Chim kia rồi cũng bị sa ngay,
    Bắt cho cẩn thận, chim còn sống,
    Rồi lấy chim về gặp lão đây.

Người giữ ruộng rất vui mừng vì ông chủ không định giá tiền về đám lúa kia, và không ai nhắc đến nợ nần cả. Gã đi ngay và làm một cái bẫy bằng lông đuôi ngựa. Sau đó gã tìm hiểu xem lúc nào đàn chim sắp đáp xuống ngày hôm ấy, rồi gã thấy được nơi chúa Anh vũ đậu. Hôm sau từ sáng sớm gã làm một cái lồng to cỡ bằng cái bình nước và đặt bẫy rồi ngồi trong lều đợi đàn chim đến.

Chim chúa đến giữa đàn và chim không tỏ chút gì tham ăn, vừa bước xuống đúng nơi đã đậu ngày hôm qua, thì chân đặt ngay vào chiếc thòng lọng. Khi chim thấy chân bị siết chặt, liền nghĩ thầm: “Nếu bây giờ ta thốt lên tiếng chim của con chim mắc bẫy, thì đàn chim thân thuộc của ta sẽ kinh hoàng và chạy trốn mà chưa ăn gì được. Vậy ta phải chịu đựng cho đến khi chúng ăn xong”.

Cuối cùng, khi chim chúa thấy chúng đã no nê, mới lo sợ cho tính mạng mình mà thốt lên ba lần tiếng kêu của con chim bị nạn. Cả đàn chim bay trốn mất. Lúc ấy, chúa chim Anh vũ bảo:

– Cả đàn chim bà con quyến thuộc của ta đây, chẳng con nào quay lại nhìn ta nữa! Ta đã phạm tội gì vậy?

Và chim cảm hứng ngâm vần kệ quở trách chúng:

  1. Bầy chim ăn uống thật no say,
    Rồi chúng liền tung cánh vút bay,
    Bị bắt mình ta vào chiếc bẫy,
    Ta đà gây tội lỗi gì đây?

Người giữ ruộng chợt nghe tiếng kêu của chim chúa và âm thanh của cả đàn chim kia bay qua không gian. “Cái gì đó?” Gã nghĩ thầm. Gã đứng dậy ra khỏi lều và đi về phía cái bẫy, gã thấy chim chúa ở đó.

“Ðúng là con chim mà ta muốn đặt bẫy đã bị bắt”. Gã kêu lên mừng rỡ vô cùng, gã lấy con chim ra khỏi bẫy, buộc đôi chân vào nhau và đi về phía làng Salindiya, gã giao chim cho vị Bà-la-môn. Vị này với tình cảm đậm đà dành cho bậc Ðại sĩ, ôm ngài trong đôi tay, đặt ngài trên đùi mình và nói chuyện với ngài qua hai vần kệ sau:

  1. Bụng chim lớn vượt các chim kia:
    Trước hết chim ăn bữa thỏa thuê,
    Sau đó ngậm thêm đầy mỏ nữa,
    Trước khi giương cánh rộng bay về.
    6. Chim có một kho phải đổ vào?

Và chim ghét lão đắng cay sao?
Lão đòi chim phải trình cho đúng:
Chim để kho kia ở chốn nào?

Nghe lời này, Anh vũ chúa đáp lời, ngâm vần kệ thứ tám bằng giọng người ngọt ngào như mật:

  1. Ta chẳng ghét ngài, Ko-si-ya,
    Ta không hề có vựa kho nhà,
    Khi vào rừng ở, ta hoàn nợ,
    Và cũng cho vay mượn nữa mà,
    Nơi đó ta dồn kho báu mãi,
    Ðây là câu giải đáp phần ta.

Tiếp theo vị Bà-la-môn hỏi chim chúa:

  1. Món nào chim lại muốn cho vay?
    Gì đó là công phải trả đây?
    Cho biết kho nào đang tích trữ,
    Rồi ta sẽ thả tự do bay.

Chim Anh vũ chúa vừa đáp lời Bà-la-môn yêu cầu, vừa giải thích ý định mình qua bốn vần kệ:

  1. Lũ chim non nớt ở nhà ta,
    Ðôi cánh còn chưa mọc đủ ra,
    Chúng sẽ nuôi ta mai mốt nọ,
    Nay ta cho chúng mượn vay mà.
  2. Mẹ cha già yếu cả song thân,
    Hai vị xa dần hạn tuổi xuân,
    Với lúa ta mang trong chiếc mỏ
    Ðem vê dâng trả các ân nhân.
  3. Còn lắm chim đang sống lẻ đơn,
    Bầy chim yếu đuối lại nhiều hơn,
    Ta cho bọn chúng vì từ mẫn:
    Ðây chỗ hiền nhân gọi trữ tồn.
  4. Ðây là phần nợ muốn cho vay,
    Ðấy lại là công phải trả đầy,
    Nơi nọ là kho đang tích trữ,
    Giờ ta phân giải hết lời này.

Vị Bà-la-môn rất hoan hỷ khi nghe bài thuyết giáo hợp đạo lý này của bậc Ðại sĩ, liền ngâm hai vần kệ:

  1. Ðạo lý cuộc đời tối thượng thay!
    Làm bao công đức chính chim này!
    Từ mồm nhiều kẻ trên trần thế
    Chẳng có hề nghe luật lệ vầy.
  2. Ăn cho vừa ý thật no nê,
    Và mọi chim thân cũng thỏa thuê,
    Anh vũ, rồi ta còn gặp lại,
    Ta yêu hình bóng bạn quay về.

Cùng với những lời này, ông nhìn bậc Ðại sĩ với lòng trìu mến như thể nhìn đứa con yêu quý nhất của mình; rồi thả dây khỏi chân chim, ông xoa lên đôi chân ấy một loại dầu quý đã lọc kỹ cả trăm lần, và đặt chim lên một bảo tọa rất sang trọng, đãi chim ăn món bắp ngọt trên một cái đĩa vàng và uống nước đường.

Sau đó chúa Anh vũ vừa khuyên nhủ vị Bà-la-môn tinh cần, vừa ngâm kệ này:

  1. Trong nhà ngài đấy, Ko-si-ya,
    Ta uống ăn, tình bạn thiết tha,
    Xin hãy cúng dường cho những vị
    Trong đời gánh nặng đã quăng xa,
    Và xin phụng dưỡng song thân đủ,
    Khi các ngài kia đã xế tà.

Lúc ấy vị Bà-la-môn vô cùng hân hoan trong lòng, cảm hứng ngân nga nỗi lạc thú lâng lâng của mình qua vần kệ này:

  1. Thần nữ Cát Tường hẳn đến đây
    Khi ta nhìn thấy chúa chim này,
    Ta nguyền thực hiện nhiều công đức,
    Chẳng có bao giờ muốn nghỉ tay,
    Vì giọng chim thần nay lảnh lót,
    Ta vừa nghe thật tuyệt vời thay!

Kế đó, bậc Ðại sĩ không chịu nhận cả ngàn mẫu ruộng mà vị Bà-la-môn tặng ngài, nhưng chỉ nhận tám mẫu thôi. Vị ấy cho xây tường đá làm ranh giới để dành riêng điền sản cho ngài, rồi lạiđưa tay lên đảnh lễ ngài rất cung kính và nói:

– Xin Chúa công thượng lộ bình an và mau về khuyên dỗ song thân đang than khóc.

Xong ông để ngài bay đi. Ngài rất đẹp ý, ngậm một cọng lúa đem về cho cha mẹ rồi vừa thả cây lúa trước song thân vừa bảo:

– Nào dậy đi thôi, cha mẹ thân yêu của con.

Hai vị nghe lời ngài liền vùng dậy, mắt nhòa lệ thảm. Sau đó, cả đàn Anh vũ kia lục tục kéo đến hỏi thăm:

– Tâu Chúa thượng, ngài làm sao thoát thân được?

Ngài kể cho chúng nghe toàn câu chuyện từ đầu đến cuối. Còn gia chủ Kosiya nghe lời khuyên nhủ của chim Anh vũ chúa, đem phân phát nhiều của cải, bố thí cúng dường các vị chân nhân, các ẩn sĩ khổ hạnh, cùng các Bà-la-môn nữa.

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo sư ngâm để giải thích việc này:

  1. Ko-si này với đại hân hoan
    Thực phẩm làm phong phú ngập tràn
    Ðãi uống ăn La-môn, Thánh giá,
    Bản thân vị ấy thật hiền lương.

*

Khi bậc Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, phụng dưỡng mẹ cha mình là một mỹ tục cổ truyền của các bậc trí nhân và thiện nhân.

Sau đó, Ngài thuyết giảng các Sự Thật và nhận diện Tiền thân. Bấy giờ, vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo đó đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu:

– Vào thời ấy, các đệ tử Phật là đàn Anh vũ, phụ hoàng, mẫu hậu ngày nay là cha mẹ chim chúa, Channa (Xa-nặc) là người giữ ruộng, Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là chim chúa Anh vũ kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện đôi ca thần Canda (Tiền thân Canda Kinnara)

Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn..,

Chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Bồ-đề Lâm gần Kapilapura, về thân mẫu của Ràhula (La-hầu-la) khi bà còn ở trong cung.

Tiền thân này phải được kể bắt đầu từ thời quá khứ xa xưa của Tiền thân đức Phật. Song câu chuyện về các thời kỳ này, bắt đầu từ tiếng Sư tử hống của Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) tại Latthivana (Rừng Mía gần Trúc Lâm), đã được kể trước kia trong số 1. Tiền thân Apannaka. Bắt đầu từ đó, ta sẽ đọc trong số 547. Tiền thân Vessantara phần tiếp theo chuyện cho đến khi Ngài trở về Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).

Ðang lúc Ngài ngồi trong cung phụ vương, suốt buổi ăn, bậc Ðạo sư kể Tiền thân Mahàdhammapàla (số 447) và sau khi buổi ăn đã xong, Ngài nói:

– Ta muốn tán thán những đức tính cao quý của mẹ Ràhula (La-hầu-la) ngay ở nội thất bà bằng cách kể Tiền thân Canda-Kinnara này.

Rồi vừa trao bình bát cho vua cha, Ngài cùng hai vị Ðại đệ tử bước qua cung thất của mẫu thân La-hầu-la. Thời ấy, có bốn mươi ngàn cung nữ giỏi ca múa hay đến bầu bạn với bà, trong đó có một ngàn chín mươi nàng là con gái dòng Sát-đế-ly. Khi bà nghe báo tin đức Như Lai đến viếng, bà ra lệnh tất cả đám cung nữ này đắp y vàng và hội chúng tuân lệnh.

Bậc Ðạo sư bước vào, ngồi xuống chỗ đã được dành sẵn cho Ngài. Lúc ấy, cả hội chúng nữ nhân đều kêu lên một tiếng và than khóc rền rỉ. Sau khi để mặc dòng lệ tuôn tràn, bà mẹ của La-hầu-la cố dẹp nỗi sầu riêng, đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo sư và ngồi xuống với vẻ vô cùng tôn kính dành cho một vị vua. Lúc ấy, phụ vương Ngài bắt đầu kể đức hạnh của bà:

– Bạch Thế Tôn, xin hãy nghe đây. Khi nàng hay tin Thế Tôn đã đắp y vàng, nàng cũng đắp y vàng, Thế Tôn bỏ hết các vòng hoa và đồ trang sức, nàng cũng bỏ hết mọi thứ và chỉ nằm ngồi dưới đất. Khi Thế Tôn đã xuất gia, nàng liền trở thành cô phụ và từ chối mọi tặng vật mà các vương tử khác gửi đến nàng. Lòng nàng bao giờ cũng trung thành với Thế Tôn.

Như thế, phụ vương của Ngài đã kể hết đức hạnh của nàng trong nhiều cách, bậc Ðạo sư liền bảo:

– Thưa Phụ vương, thật không lạ gì ngày nay trong đời cuối cùng của Như Lai, công chúa này đã yêu thương, gìn giữ lòng trung thành đối Như Lai và chỉ muốn được một mình Như Lai dìu dắt mà thôi. Quả vậy, ngay cả khi được sinh làm loài phi nhân, bà cũng giữ dạ thủy chung với phu quân mình mà thôi.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua cha, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, bậc Ðại sĩ được sinh trong vùng Tuyết Sơn làm một vị Tiên Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần) tên là Canda hay Nguyệt Lang, vợ ngài là Candà hay Nguyệt Nga. Cả hai vị sống cùng nhau trên một hòn núi bạc tên là Canda-pabbata hay Nguyệt Quang.

Thời ấy, vua Ba-la-nại giao phó việc triều chính cho các quan đại thần, một mình vua khoác hai chiếc hoàng bào, trang bị năm thứ vũ khí và tiến về vùng Tuyết Sơn nọ.

Trong lúc đang thưởng thức món sơn hào, vua chợt nhớ nơi có con suối nhỏ, nên bắt đầu leo lên đồi. Thời bấy giờ, đôi tiên sống trên đỉnh Nguyệt Sơn thường ở trong núi vào mùa mưa, và chỉ xuống núi vào mùa nắng. Vừa lúc ấy, tiên nam Canda cùng vợ hạ sơn và đi quanh quẩn. Ðôi tiên tầm nước hoa, ăn phấn hoa, mặc xiêm y bên trong lẫn bên ngoài đều bằng thứ lụa sa dệt từ bông hoa, vừa lắc lư trong đám cây cát đằng (dây leo), vừa vui đùa ca hát bằng một giọng ngọt ngào như mật.

Vị tiên nam tiến dần đến con suối này và tại một chỗ dừng chân bên suối, chàng bước xuống cùng vợ rắc hoa khắp mặt suối vừa vui đùa dưới nước. Khi cả hai vị đã mặc lại xiêm y bằng hoa xong, trên một khoảng cát trắng, sáng láng một tấm bạc, hai vị trải hoa làm sàng tọa và nằm xuống. Vừa lượm được một khúc cây trúc, vị tiên nam bắt đầu thổi sáo, thỉnh thoảng ca hát ngọt ngào như mật rót vào tai, trong lúc tiên nữ uốn lượn đôi tay mềm mại, vừa nhảy vừa hát ca gần đó.

Nhà vua nghe tiếng hát, liền đi rón rén để đừng ai nghe lọt bước chân, vừa đến gần ngắm nghía đôi tiên từ một nơi nấp kín đáo. Vua bỗng nhiên sinh ra si tình tiên nữ và nghĩ thầm: “Ta muốn bắn chàng kia và sống ở đây với vợ chàng”. Sau đó vua liền nhắm bắn trọng thương vị tiên nam Canda. Chàng đau đớn thốt lên bốn vần kệ:

  1. Chắc hẳn đời ta sắp sửa tàn,
    Máu ta đang chảy xiết, tuôn tràn,
    Ta gần mất hết nguồn sinh lực,
    Hơi thở đang thoi thóp, hỡi nàng!
  2. Ta đang chìm ngập với đau thương,
    Lòng dạ ta đang đốt cháy bừng,
    Song bởi chính nàng sầu, Nguyệt hỡi,
    Mà tim ta cảm xúc khôn lường.
  3. Như cỏ cây, ta cứ lụi tàn,
    Héo hon như suối cạn khô dần,
    Lòng đầy xúc cảm, Can-dà hỡi,
    Vì nỗi buồn đau của chính nàng.
  4. Dòng lệ tuôn từ cặp mắt ta,
    Như mưa chân núi chảy vào hồ,
    Bởi vì lòng dạ đầy thương cảm,
    Cho nỗi sầu nàng, hỡi Nguyệt Nga!

Bậc Ðại sĩ than khóc như vậy qua bốn vần kệ trong khi quằn quại trên sàn tọa bằng hoa, rồi bất tỉnh quay mặt đi. Nhà vua vẫn đứng ở nơi đã nấp. Còn tiên nữ không biết bậc Ðại sĩ vừa bị thương, ngay khi ngài than khóc như thế, nàng cũng không hay biết, vì nàng đang say sưa với niềm hoan lạc của mình. Nhưng khi thấy ngài quay đi và nằm bất động, nàng bắt đầu tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với vị phu quân. Vội đến gần quan sát chồng, nàng thấy máu đang chảy ra từ miệng vết thương, nên không thể nào chịu đựng nổi cơn đau đớn khủng khiếp trước tình cảnh phu quân yêu quý của mình, nàng kêu gào thất thanh.

“Vị tiên nam ắt hẳn đã chết”, vua thầm nghĩ và bước ra lộ diện. Khi tiên nữ Candà thấy vua, nàng nghĩ thầm: “Ðây hẳn là kẻ cướp đã giết chồng yêu quý của ta”, và nàng run rẩy chạy trốn. Khi đãđứng trên đỉnh đồi, nàng kết tội vua quyết liệt qua năm vần kệ:

  1. Ôi khổ thân ta, chúa bạo tàn!
    Nhà ngươi đã bắn trọng thương chàng,
    Nay chàng nằm đó, trên đất lạnh,
    Dưới một gốc cây, giữa núi ngàn.
  2. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong thái hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,
    Khi thấy chàng yêu đã chết đây.
  3. Vương tử! Sầu đau xét ruột này,
    Ta mong vương hậu phải đền thay!
    Mối sầu đang bóp tim tan nát,

Khi thấy chàng yêu đã chết đây.

  1. Mong thái hậu nay khóc phụ hoàng,
    Và sau lại phải khóc hoàng nam,
    Kẻ vì tham dục đang làm ác
    Cho chính chồng ta thật uổng oan.
  2. Ước mong vương hậu phải chờ trông
    Tình cảnh mất con lẫn mất chồng,
    Là kẻ vì tham, làm việc ác
    Cho chàng vô tội, chính phu quân.

Sau khi nàng kêu gào than khóc như vậy qua năm vần kệ trên, nhà vua vừa đứng trên đỉnh núi vừa cất tiếng an ủi nàng qua một vần kệ khác.

  1. Thôi đừng than khóc, chớ sầu thương,
    Ta chắc rừng đêm quáng mắt nàng:
    Cung điện vua ban nàng diễm phúc,
    Nàng làm hoàng hậu của quân vương!

– Ngươi vừa nói gì thế?

Tiên nữ Candà thét lên khi nghe lời này, và nàng cất giọng sư tử hống hùng hồn đáp lời:

  1. Không, ta đành kết liễu cuộc đời!
    Ta chẳng bao giờ muốn lấy ngươi,
    Ngươi giết chồng ta nào có tội,
    Tất cả vì tham ái ta thôi!

Khi nghe lời này, lòng say mê của vua đối với nàng đều tan hết, sau đó, vua liền ngâm một vần kệ khác nữa:

  1. Sống cho thỏa nguyện, hỡi tiên nương,
    Thôi hãy quay về đỉnh Tuyết Sơn,
    Ta biết có nhiều loài thú vật
    Ăn toàn cỏ hoa, mến rừng hoang.

Cùng với những lời này, vua bình thản bỏ đi. Ngay khi Candà biết vua đi rồi, nàng bước đến ôm lấy bậc Ðại sĩ đem tận đỉnh đồi và đặt ngài nằm trên một chỗ đất bằng phẳng tại đó; vừa kê đầu ngài lên lòng nàng, nàng vừa than thở qua mười hai vần kệ sau:

  1. Ðây giữa vùng đồi núi, đỉnh cao,
    Trong nhiều thung lũng, dưới hang sâu,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì bóng chàng nay thiếp thấy đâu?
  2. Thú rừng lang bạt khắp nơi nơi,
    Lá trải trên nhiều chốn đẹp tươi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng vắng bóng trên đời?
  3. Dã thú tung hoành, hoa ngát hương
    Lan tràn bao chốn đẹp hoang đường,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  4. Trong veo, nhiều suối chảy ven đồi,
    Hoa dại muôn ngàn, phủ khắp nơi,
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay chàng bỏ thiếp đơn côi?
  5. Xanh thẳm là đối núi Tuyết San,
    Khi nhìn, đồi núi đẹp vô vàn,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn đâu thấy bóng chàng?
  6. Bao đỉnh Tuyết Sơn nhuộm ánh vàng,
    Nhìn xem đồi núi đẹp huy hoàng,
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng chàng?
  7. Ðồi núi Tuyết Sơn đỏ rực lên,
    Núi đồi tuyệt diệu lúc nhìn xem!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì thiếp còn đâu thấy bóng tiên?
  8. Tuyết Sơn đỉnh nhọn vút trời cao,
    Ðồi núi nhìn xem đẹp biết bao!
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì nay thiếp chẳng thấy chàng đâu?
  9. Lấp lánh, Tuyết Sơn đỉnh trắng ngần,
    Nhìn xem đồi núi đẹp muôn phần!
    Thiếp làm gì nữa, chàng tiên hỡi,
    Vì chẳng còn trông thấy Nguyệt quân?
  10. Tuyết Sơn lại đổi sắc cầu vồng,
    Tuyệt diệu là khi đứng ngắm trông!
    Thiếp phải làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì không còn được thấy lang quân?
  11. Ðồi Hương thân thiết với yêu ma,
    Khắp chốn phủ đầy vạn cỏ hoa,
    Thiếp phải làm gì, chàng nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng Can-da?
  12. Thần tiên yêu mến ngọn đồi Hương,
    Cây cỏ bao quanh khắp nẻo đường,
    Thiếp sẽ làm gì, chàng Nguyệt hỡi,
    Vì đâu còn thấy bóng chàng thương?

Nàng cứ than thở mãi như vậy, rồi khi cầm tay bậc Ðại Sĩ đặt lên ngực nàng, nàng thấy tay ngài còn ấm. Nàng nghĩ thầm: “Can-da còn sống đây, ta quyết khiêu khích các thần linh cho đến khi chàng được sống lại!” Rồi nàng lớn tiếng quở trách các thần:

– Chẳng có vị thần nào cai trị cõi trần hay sao? Các ngài đi ngao du ở đâu cả rồi? Chắc hẳn các ngài chết hết rồi nên chẳng còn ai cứu mạng chồng yêu quý của ta đây!”.

Vì uy lực nỗi khổ đau thống thiết của nàng, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Khi xét kỹ, ngài thấy rõ nguyên nhân, liền giả dạng một vị Bà-la-môn đến gần nàng, cầm bình nước thần dược rảy lên mình bậc Ðại Sĩ. Trong chốc lát, thuốc độc mất công hiệu, sắc mặt ngài trở lại tươi tỉnh, ngài cũng không còn biết gì đến chỗ bị thương nữa. Bậc Ðại Sĩ đứng dậy hoàn toàn hồi phục.

Khi Candà thấy vị phu quân muôn vàn yêu quí của mình đã hoàn toàn bình an, nàng hân hoan quì xuống chân của Ðế Thích Thiên chủ và tán thán ngài qua vần kệ:

  1. La-môn, Thánh giả đáng tôn vinh!
    Cho phận thiếp đây kém phước lành
    Ðược thấy phu quân đầy ái kính,
    Rảy lên chàng thánh dược hồi sinh!

Sau đó, Ðế Thích Thiên chủ khuyên nhủ:

– Từ rày về sau, hai vị đừng xuống khỏi đỉnh Nguyệt Sơn ra giữa đường đi của loài người nữa, mà cứ ở chốn đây thôi.

Ngài lặp lại câu này hai lần rồi trở về cõi của ngài. Còn Candà hỏi chồng nàng:

– Này phu quân, sao ta lại ở chốn đầy nguy hiểm này? Ta hãy mau về đỉnh Nguyệt Sơn.

Rồi nàng ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Ta hãy lui về đỉnh Nguyệt San,
    Nơi khe suối diễm lệ tuôn tràn,
    Suối khe phủ ngập đầy hoa lá,
    Mãi mãi chốn kia, gió nhẹ nhàng
    Thầm thì len qua ngàn cổ thụ,
    Mải mê trò chuyện, phút bình an.

*

Khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa cũng thế, Công chúa luôn luôn tận tụy và giữ lòng trung thành với Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật-đà) là vua, mẹ của La-hầu-la (Ràhulamàtà) là tiên nữ Candà và Ta chính là vị tiên nam.

-ooOoo-

  1. Chuyện chúa chim ưng (Tiền thân Mahà-Ukkusa)

Dân chúng đang nhen lửa đảo này…

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về Mitta-gandhaka, một cư sĩ.

Tương truyền, người này là con cháu một dòng họ đã suy tàn ở Sàvatti (Xá-vệ), phải nhờ một người bạn đi cầu hôn một thiếu nữ sang trọng. Nhà kia hỏi:

– Thế cậu ấy có bạn bè thân thích nào để có thể giải quyết công việc cần lo liệu chăng?

Nhà trai đáp:

– Không, chẳng có ai cả.

Bên kia bảo:

– Thế thì trước tiên phải kiếm bạn đã.

Người ấy nghe lời khuyên này đi bầu bạn với bốn người giữ cổng thành. Sau đó chàng dần dần kết bạn với những người giữ thành, những nhà thiên văn, nhiều người quí tộc trong triều; ngay cả vị tướng lãnh và phó vương. Nhờ giao thiệp với đám người này, chàng trở thành bạn thân thiết của vua, rồi sau đó là đạo hữu của tám mươi vị Trưởng lão, và nhờ Trưởng lão Ànanda, chàng đến yết kiến chính đức Như Lai. Lúc ấy bậc Ðạo Sư an trú cả gia đình chàng vào Tam quy và Ngũ giới, vua lại phong cho một chức vụ cao và chàng được biệt danh “Mitta-gandhaka” hay “Người kết giao nhiều bằng hữu”.

Vua còn ban cho chàng một dinh cơ lớn rồi ra lệnh cử hành hôn lễ cho chàng, nên tất cả mọi người từ vua chúa trở xuống đều mang tặng vật đến nhà. Lúc ấy, vợ chàng nhận được một tặng vật của vua ban, rồi tặng vật của vị Ðại tướng quân, tặng vật của vị Phó vương, cứ thế dân chúng toàn thành đều đến nhà nàng. Vào ngày thứ bảy, đôi tân hôn ấy tổ chức đại lễ để mời đấng Thập Lực, nhiều phẩm vật cúng dường cao sang được đem dâng đức Phật và Tăng chúng lên đến năm trăm vị Tỷ-kheo. Cuối buổi lễ, đôi tân hôn nhận lời tùy hỷ công đức từ đức Phật và được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Trong Chánh pháp đường, hội chúng nói đến chuyện này:

– Này các Hiền giả, cư sĩ Mitta-gandhaka theo lời vợ khuyên nhủ, và nhờ nàng, đã trở thành bạn của mọi người, được vinh quang tột bực từ vua ban, và sau khi thành thân hữu của bậc Ðạo Sư, đôi vợ chồng đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo Sư đi vào và hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì. Các vị thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, này các Tỷ-kheo, người này nhận được vinh quang nhờ nữ nhân kia. Ngày xưa, khi còn là súc sinh, nhờ lời khuyên của nàng, nên vị ấy đã kết bạn rất nhiều và thoát khỏi sự lo âu về tính mạng bầy con trẻ.

Nói vậy xong. Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một số người ở vùng biên địa thường cư trú tại nơi nào họ có thể tìm kiếm thực phẩm nhiều nhất, như sống trong rừng và bắn giết những loài thú vật đông đúc tại đó để lấy thịt cho họ và gia đình họ. Không xa làng của họ là một cái hồ rộng, về phía nam bờ hồ đó có một chim Ưng trống, phía tây là một chim Ưng mái; phía bắc là một Sư Tử, chúa của mọi loài dã thú, phía đông là một chim Ưng biển (Ðại bàng), chúa loài chim, và ở giữa là một con Rùa sống trên một hòn đảo nhỏ.

Chim Ưng trống đến hỏi chim Ưng mái làm vợ. Chim mái bảo:

– Chàng có bạn bè nào không?

– Thưa cô nương, không. Chim trống đáp.

– Ta cần phải có vài chim bạn bảo vệ ta chống lại mọi hiểm nguy hay chuyện rắc rối có thể xảy ra, vậy chàng phải đi kiếm vài chim bạn.

– Ta phải làm bạn với ai đây?

– Ô kìa, với Ðại bàng chúa sống trên bờ phía đông chứ còn ai nữa, rồi với Sư Tử ở phía bắc và Rùa ở giữa hồ này.

Chàng theo lời khuyên của nàng và làm như vậy. Sau đó đôi chim sống với nhau trong một cái tổ do chúng xây lấy; cũng cần nói thêm rằng trên một đảo nhỏ trong hồ này có một cây Kadampa mọc, bốn phía là nước bao quanh. Sau đó chúng sinh được hai chim trống.

Một ngày kia, khi lông cánh đôi chim non còn non nớt, có vài người trai làng đi săn mồi khắp rừng suốt ngày mà chẳng kiếm được gì cả. Vì không muốn trở về làng tay không, họ đi xuống hồ bắt rùa cá, họ lên đảo, nằm dưới bóng cây Kadamba và đang lúc bị ruồi, muỗi, bọ chích đốt thật khổ sở, họ nhóm lửa lên đuổi muỗi mòng bằng cách chà sát củi khô vào nhau, và hun khói. Khói đùn lên làm khó chịu bầy chim, khiến đôi chim non kêu lên chim chiếp.

– Kìa có tiếng chim! Ðám dân làng bảo nhau.

– Nào đốt lửa nhanh lên! Ta không thể nằm nhịn đói ở đây; mà trước khi nằm ngủ, ta phải ăn một bữa thịt chim rừng chứ!

Họ nhóm lửa làm cho ngọn lửa cao dần. Song chim mẹ nghe tiếng động ấy, nghĩ thầm: “Những người này muốn ăn con ta. Ta phải kiếm bạn để cứu nhà ta khỏi hiểm họa này. Ta muốn bảo chim trống đi đến chúa chim Ưng kia”. Rồi chim mái bảo:

– Này chàng, hãy đi báo cho chim Ưng chúa biết mối nguy hiểm đang đe dọa các con ta.

Và nó ngâm vần kệ này:

  1. Dân chúng đang nhen lửa đảo này,
    Ðể ăn bầy trẻ chốc liền đây,
    Hỡi chàng! Mau bảo cùng bè bạn
    Nguy hiểm con ta cấp báo ngay.

Chim trống liền bay hết tốc lực đến chỗ kia và kêu lên để báo hiệu cho nó đến. Khi được phép, nó đến gần Ðại bàng chúa, và kính chào. Chim Ưng chúa bảo:

– Tại sao bạn đến?

Chim trống liền ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Chim chúa là ngài, hỡi chúa công!
    Nay ta tìm chốn chúa an thân,
    Dân làng săn muốn bắt bầy trẻ,
    Xin chúa ban cho bạn nỗi mừng!

– Ðừng sợ – Chim Ðại bàng bảo chim Ưng trống.

Vừa an ủi, nó vừa ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Ðúng lúc hay không, bậc trí nhân
    Kết giao cùng bảo vệ thân bằng,
    Vì chim Ưng hỡi, ta hành động,
    Bạn thiện giúp nhau những lúc cần.

Sau đó, chim Đại bàng chúa hỏi tiếp:

– Này bạn, thế dân làng đã trèo lên cây chưa?

– Họ chưa trèo lên, họ chỉ mới chất củi lên để đốt lửa.

– Vậy bạn nên trở về mau và an ủi hiền thê của bạn rồi nói ta đến ngay.

Chim Ưng làm theo lời. Chim Đại bàng chúa cũng đi, và từ một nơi gần cây Kadamba, nhìn đám người ấy leo lên, và đậu trên một ngọn cây. Ngay khi một người trèo lên đến gần tổ chim, chim Ðại bàng chúa liền nhào xuống hồ, dùng đôi cánh và mỏ rảy nước lên đám lửa đang cháy khiến chúng tắt hết. Ðám người ấy trèo xuống, nhóm ngọn lửa khác để nấu bầy chim, rồi khi chúng trèo lên, chim Ðại bàng chúa lại dập ngọn lửa lần nữa. Cứ thế, khi lửa được nhóm lên là chim dập tắtđi, cho đến nửa đêm. Chim Đại bàng chúa đã kiệt sức: lớp da dưới bụng trầy ra xơ xác dần, đôi mắt rướm máu. Thấy thế, chim mái bảo chim trống:

– Này phu quân, Ðại bàng chúa đã mệt lả rồi, hãy đi đến báo cho bạn Rùa, để chim Đại bàng chúađược nghỉ ngơi.

Khi nghe vậy, chim Ưng trống đến gần chim Ðại bàng chúa, ngâm kệ bảo bạn:

  1. Bạn thiện giúp nhau: ấy việc cần,
    Ngài làm vì xót bạn gian nan,
    Bình an con trẻ, ngài còn sống,
    Cẩn thận, đừng cho thể lực tàn.

Khi nghe lời này, chim Ðại bàng chúa cất cao giọng sư tử hống ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Khi ta canh giữ ở cây này
    Ta chẳng lo rằng nếu chẳng may
    Ta mất mạng mình vì chúng bạn,
    Thiện nhân hành động vẫn như vầy!
    Thế nên, bạn hãy làm vì bạn
    Dù chính đời mình kết liễu ngay.

*

Còn vần kệ thứ sáu này do bậc Ðạo Sư ngâm phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài, khi Ngài tán thán công đức của chim Đại bàng chúa:

  1. Vương điễu noãn sinh lượn cõi không
    Ðã làm một việc khổ vô cùng,
    Chúa Ưng, trước lúc màn đêm xuống,
    Canh giữ bầy chim nhỏ vạn an.

*

Sau đó, chim Ưng trống nói:

– Xin hiền hữu chúa chim Ðại bàng hãy nghỉ ngơi chốc lát.

Rồi nó bay đi đến con Rùa, đánh thức Rùa dậy.

– Này bạn, đến có việc gì vậy? Rùa hỏi.

– Có mối hiểm nguy như vậy xảy ra với chúng tôi, và chim Ðại bàng chúa đã chịu khổ nhọc hết sức từ canh một, nay gần kiệt lực, cho nên tôi phải đến gặp bạn.

Cùng với những lời này, nó ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Cho dầu những kẻ bị sa chân
    Qua lắm việc làm ác, bất nhân,
    Cũng có cơ vươn mình tiến được,
    Nếu xin nhờ giúp đỡ khi cần.
    Các con ta gặp khi nguy khốn,
    Ta chẳng bay ngay đến bạn vàng,
    Hỡi bạn ngâm mình trong đáy nước,
    Giúp nhà tôi, hãy vội lên đàng!

Khi nghe vậy, Rùa ngâm vần kệ khác:

  1. Thiện nhân đối với một thân bằng
    Cho cả đồ dùng lẫn bản thân,
    Vì bạn, hỡi Ưng! Ta hoạt động,
    Thiện nhân giúp đỡ bạn khi cần.

Chú Rùa con, nằm không xa đó, nghe tiếng cha nói, liền suy nghĩ: “Ta không muốn cha ta phải nhọc sức, mà ta sẽ lãnh phần của cha ta”. Vì vậy, chú ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Xin cha an dưỡng, hỡi cha thân,
    Việc của cha, con sẽ lãnh phần.
    Con phụng sự cha là tốt nhất,
    Con đi cứu cả tổ chim bằng.

Rùa cha đáp lời con qua vần kệ:

  1. Cứ làm việc thiện, hỡi Rùa con,
    Con phải giúp cha, thật chánh chơn,
    Song chúng chỉ tha bầy trẻ nhỏ,
    Vì cha, người thầy lớn khôn ngoan.

Cùng với những lời này, Rùa bảo chim Ưng bay về và thêm:

– Này bạn ơi, đừng sợ. Nhưng bạn cứ đi trước rồi ta sẽ theo sau lập tức.

Rùa lặn xuống nước, lượm một ít bùn, đến đảo dập tắt ngọn lửa và nằm im. Lúc ấy, đám dân làng kêu lên:

– Này, tại sao phải nhọc công về bầy chim Ưng con thế kia? Ta hãy lật con Rùa đáng ghét này lên mà giết nó cũng vừa đủ cho cả bọn ta mà.

Vì thế, họ hái ít cây leo, bện thành sợi dây, nhưng khi họ đã buộc chặt dây ở chỗ nầy chỗ kia rồi, và xé cả áo quần để dùng vào việc này, họ lại không thể lật con Rùa lên được. Con Rùa cứ lôi họ đi theo nó rồi nhào xuống nước sâu. Bọn người ấy nôn nóng bắt Rùa đến độ cũng nhào xuống theo, lội bì bõm, bắn nước lên tung tóe và uống nước đầy bụng. Họ bảo nhau:

– Này cứ xem đi, chim Ưng chúa cứ làm tắt ngọn lửa của ta đến nửa đêm, nay thì con Rùa làm ta rớt xuống nước và uống nước nhiều, thật quá khổ sở. Thôi, ta cố nhen ngọn lửa khác, rồi đến sáng mai sẽ ăn được bầy chim Ưng con.

Sau đó, họ lại bắt đầu nhóm lửa. Chim Ưng mái nghe tiếng ồn áo của bọn người này, liền bảo:

– Này chàng, sớm muộn gì, bọn người này cũng xé xác các con ta rồi mới chịu đi. Vậy chàng hãyđến báo cho bạn Sư tử biết chuyện.

Lập tức, chàng chim Ưng đến gặp Sư tử, Sư tử này hỏi tại sao chim Ưng đến giờ bất thường như vậy. Chim Ưng liền kể cho Sư tử nghe mọi việc từ đầu và ngâm vần kệ thứ mười một:

  1. Oai hùng bậc nhất của muôn loài,
    Loài thú vật kia lẫn mọi người,
    Chạy đến anh hùng lúc hoảng sợ:
    Chin non gặp nạn, giúp nhà tôi,
    Ngài là chúa tể muôn loài đó,
    Vì thế nên tôi phải đến nơi.

Nghe nói vậy, Sư tử ngâm vần kệ nữa:

  1. Ta giúp chim ngay, hỡi bạn Ưng!
    Mau, ta đi giết bọn cừu nhân,
    Hiển nhiên, bậc trí nhiều thông hiểu
    Cần gắng công che chở bạn thân.

Nói vậy xong, Sư tử bảo chim Ưng ra về, còn dặn thêm:

– Thôi, bây giờ hãy về đi và an ủi các con dại.

Rồi Sư tử tiến lên, đập tung tóe nước hồ trong suốt. Khi bọn dân làng thấy Sư tử đến gần, họ sợ chết khiếp cả, liền kêu lên:

– Chim Ðại bàng chúa thổi tắt củi lửa của ta, con Rùa làm ta mất quần áo đang mặc, song giờ đây ta tàn đời rồi! Con Sư tử này sẽ giết chết chúng ta lập tức.

Họ liền chạy tứ tán. Khi Sư tử đến gốc cây, chẳng còn thấy gì nữa. Sau đó chim Ưng chúa, chim Ưng trống, con Rùa đều tiến lên vây quanh Sư tử. Sư tử bảo cho chúng biết ích lợi của tình bằng hữu và nói:

– Từ rày về sau, hãy cẩn thận đừng để tan vỡ mối tình bằng hữu thân ái.

Với lời khuyên này, Sư tử ra đi. Rồi bọn kia cũng về chốn ở của riêng mình.

Chim Ưng mái nhìn con tự nghĩ: “Nhờ tình bằng hữu mà các con ta được trả lại cho ta”. Và trong lúc chim mái vui mừng, nó vừa nói với chim trống, vừa ngâm vần kệ nêu rõ hiệu lực của tình bằng hữu:

  1. Rõ ràng kết bạn hữu đầy nhà,
    Gặp bạn hiền: hoan lạc hiện ra,
    Tên bắn trên quân bào bất lợi,
    Ta mừng, an ổn các con ta.
  2. Nhờ công giúp của bạn chân tình,
    Chim bạn đến mong góp sức mình,
    Ðối đáp, chim non kêu ríu rít
    Làm say lòng mẹ với âm thanh.
  3. Người khôn nhờ bạn giúp bàn tay,
    Sống với đàn con hạnh phuc đầy,
    Ta với chồng con cùng đứng vững
    Vì thân bằng hữu mến thương lây.
  4. Dân cần bảo vệ bởi vua quan,
    Những vị tình thân hữu vẹn toàn,
    Hạnh phúc chàng mong: uy lực đủ
    Là người hưng thịnh, lắm thân bằng.
  5. Này Ưng, cần phải kiếm thân bằng
    Dù bạn nghèo hèn hoặc yếu non,
    Nay hãy xem: nhờ tình thắm thiết
    Ta và gia quyến thảy bình an.
  6. Chim Ưng tìm được bậc anh hùng
    Ðể đóng vai chim bạn thiết thân,
    Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
    Chim kia cũng hạnh phúc trong lòng.

Như vậy, chim mái nêu rõ đặc tính của tình bằng hữu qua sáu vần kệ. Từ đó đám bạn hữu sống với nhau suốt đời không làm đứt đoạn sợi dây thân ái, rồi lúc mạng chung, chúng đều đi theo nghiệp của mình.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên người này được hạnh phúc nhờ vợ mình, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, đôi vợ chồng này là đôi chim Ưng, Ràhula (La-hầu-la) là Rùa con, Moggallàna(Mục-kiền-liên) là Rùa cha, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là chim Ưng chúa và ta chính là Sư tử kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Uddalaka (Tiền thân Uddalaka)

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một người gian dối.

Người này, mặc dù đã đặt cuộc đời mình vào Giáo pháp đưa đến giải thoát, trong lúc muốn kiếm lợi dưỡng cần dùng để sống, đã hành động lừa đảo cả ba mặt. Tăng chúng đều rõ ra những ác hạnh của người này trong lúc bàn luận tại Chánh pháp đường:

– Này các Hiền giả, người đó sau khi đã đặt hết cuộc đời mình vào Chánh pháp của đức Phật đưa tới giải thoát, lại sống lừa dối kẻ khác!

Bậc Ðạo Sư bước vào, và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì tại đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, kẻ ấy trước kia cũng đã lừa dối rồi.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thưở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-Tát là một vị Tế sư rất thông thái. Một ngày kia, ngài vào vườn hoa để giải trí, chợt thấy một cô gái có sắc đẹp lẳng lơ, đâm say mê nàng và đem nàng về nhà mình chung sống.

Khi thấy mình thọ thai, nàng liền bảo ngài:

– Thưa Ðại quan, thiếp đã có thai, khi sinh con, thiếp muốn đặt tên cho nó theo danh tánh của tổ phụ nó.

Song ngài suy nghĩ: “Chẳng bao giờ tên họ của một dòng quý tộc lại đặt cho đứa con hoang của một nô tỳ”. Vì thế, ngài bảo:

– Này ái nương, cây này tên là Uddala (quế), nàng có thể đặt tên con là Uddalaka vì nó thọ thai ở gốc cây này.

Sau đó, ngài cho nàng một chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng và bảo:

– Nếu nó là con gái, hãy dùng chiếc nhẫn này mà nuôi dưỡng nó cho lớn khôn, còn nếu là con trai thì hãy đem đến cho ta lúc nó trưởng thành.

Ðến kỳ hạn, nàng sinh hạ một con trai và đặt tên là Uddalaka. Khi chàng trai lớn lên, chàng hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, cha con là ai thế?

– Là vị Tế sư đấy con ạ.

– Nếu vậy, con sẽ học các kinh thánh.

Thế là khi nhận được chiếc nhẫn từ tay mẹ và số học phí dành cho thầy giáo, chàng lên đường đi đến Takkasilà, và học ở đó với một giáo sư lừng danh thế giới.

Trong thời gian học tập, chàng thấy một đám người tu khổ hạnh. Chàng suy nghĩ: “Ðám người kia chắc chắn phải có kiến thức vẹn toàn. vậy ta muốn học hỏi ở họ”. Vì thế, chàng từ giã thế tục, và vì chàng ước mong được kiến thức, nên làm việc phục dịch các vị này, chỉ yêu cầu các vị ấy dạy lại cho chàng mọi kiến thức thông thái của họ. Thế rồi các vị ấy dạy cho chàng mọi điều hiểu biết, song giữa đám năm trăm người ấy chẳng có ai vượt chàng về kiến thức cả, chàng là người thông thái nhất.

Sau đó, đám người ấy tụ tập lại và bầu chàng làm thầy. Chàng bảo họ:

– Thưa các Tôn giả, các ngài sống suốt đời ở trong rừng ăn toàn hoa quả, củ rừng, tại sao các ngài không đi đến chỗ của người thế tục?

– Thưa Tôn giả, người đời muốn cúng dường chúng ta, nhưng lại muốn chúng ta trả ơn bằng cách thuyết Pháp, họ hay hỏi ta nhiều chuyện lắm. Vì sợ điều này nên chúng ta không muốn đến giữa người đời.

Chàng đáp:

– Thưa các Tôn giả, nếu các ngài có ta cùng đi, thì cứ để một vị Chuyển luân vương cật vấn, một mình ta sẽ giải đáp ổn thỏa, chớ sợ gì cả.

Thế là chàng cùng hội chúng đi du hành khất thực để sống và cuối cùng đến Ba-la-nại, trú ngụ trong vườn ngự uyển. Hôm sau, cùng với cả đám ấy chàng khất thực ở một làng trước cổng thành. Dân chúng bố thí rất nhiều. Ngày hôm sau nữa, các nhà tu khổ hạnh đi qua kinh thành, dân chúng lại bố thí rất nhiều. Vị khổ hạnh Uddalaka nói lời tùy hỷ công đức rồi giải đáp các lời chất vấn. Dân chúng rất hoan hỷ và lại cúng dường phong phú cho hội chúng mọi thứ cần dùng.

Toàn kinh thành vang dậy tin đồn:

– Một vị giáo sư thông thái mới đến, một vị Thánh nhân khổ hạnh.

Và vua nghe được tin đó. Nhà vua hỏi:

– Các vị ấy đang ở đâu?

Dân chúng tâu:

– Trong ngự uyển.

Nhà vua bảo:

– Tốt lắm, hôm nay ta sẽ đi thăm các vị ấy.

Một người đi báo với Uddalaka:

– Ðức vua sẽ đến viếng các Tôn giả hôm nay.

Chàng gọi hội chúng lại và bảo:

– Này các Tôn giả, đức vua sắp đến, hãy chiếm cho được ân vua trong một ngày cũng đủ cho cả đời người.

– Vậy ta phải làm gì, thưa Sư trưởng?

Chàng đáp:

– Một vài vị phải chịu khổ hình treo người lủng lẳng, vài vị ngồi xổm dưới dất, vài vị nữa nằm trên giường chông, vài vị khác chịu khổ hạnh với năm ngọn lửa, thêm vài vị ngâm mình xuống nước và vài vị tụng Thánh kinh ở chỗ này chỗ nọ.

Các vị ấy làm y lời.

Chính chàng cùng độ mười vị hiền giả ngồi trên một chỗ đã soạn sẵn có lót gối dựa, bàn luận với nhau, có một quyển sách đẹp cân xứng nằm trên một cái giá mực sang trọng bên cạnh chàng, và thính chúng vây quanh.

Lúc ấy, vua và vị Tế sư cùng với đám tùy tùng đông đảo bước vào ngự uyển, và vua khi thấy tất cả hội chúng ở đây đang chuyên chú trong dáng điệu khổ hạnh như vậy, vua rất hoan hỷ, nghĩ thầm: “Các vị này đều giải thoát khỏi nỗi lo âu về các cõi dữ ở đời sau rồi”. Khi đến gần Uddalaka, vua ân cần đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Rồi với lòng hân hoan, vua bắt đầu nói chuyện với vị Tế sư và ngâm vần kệ đầu:

  1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
    Miệng thì thầm lời thánh đạo bình an,
    Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
    Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

Nghe vậy, vị Tế sư nghĩ:

– Ðức vua hoan hỷ ở một chỗ đáng lẽ không nên hoan hỷ, vậy ta không được giữ yên lặng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
    Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
    Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

Khi Uddalaka nghe những lời này, liền nghĩ thầm:

“Vua hài lòng về những vị khổ hạnh này, song vị Tế sư lại đụng ngay vào mõm con bò khi chạy quá nhanh, làm rơi đồ dơ vào dĩa cơm đã dọn sẵn, ta phải nói chuyện với vị ấy mới được”. Vì thế, chàng đáp lời ngài qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
    Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
    Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
    Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân.

Vị tế sư nghe vậy, liền ngâm vần kệ thứ tư:

  1. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
    Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
    Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
    Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.

Bấy giờ, Uddalaka suy nghĩ: “Gây gỗ với vị này sẽ không bao giờ ích lợi đâu. Nếu ta bảo ngài: ta chính là con trai của ngài, ngài phải thương yêu ta. Vậy ta phải quyết cho ngài biết ta là con của ngài”. Thế rồi chàng ngâm vần kệ thứ năm:

  1. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
    Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
    Mẹ cha là bản thân con đó,
    Con Ud-da-la chính búp non
    Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
    Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.

– Thế con chính là Uddalaka đấy ư? Ngài hỏi. Chàng đáp:

– Thưa, chính phải.

Sau đó, ngài hỏi:

– Trước kia, ta đã cho mẹ con một vật làm tin, nay nó đâu rồi?

Chàng đáp:

– Thưa Tôn giả Bà-la-môn, chính nó đây!

Rồi chàng trao chiếc nhẫn cho ngài. Ngài nhận ra chiếc nhẫn ấy rồi bảo:

– Con là một Bà-la-môn hẳn nhiên rồi, song có biết phận sự của một Bà-la-môn chăng?

Ngài hỏi về các phận sự này qua vần kệ thứ sáu:

  1. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
    Vị ấy làm sao được thiện toàn?
    Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?

Uddalaka giải thích việc ấy qua vần kệ thứ bảy:

  1. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
    Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
    Phận sự làm xong, người tán tụng,
    La-môn như vậy được an lòng.

Vị tế sư lắng nghe chàng kể các phận sự của một vị Bà-la-môn như vậy, xong ngài ngâm vần kệ thứ tám để phê bình chuyện ấy như sau:

  1. Rảy nước không làm sạch Ðạo nhân,
    Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
    Cũng không an ổn và thân ái,
    Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn.

Nghe thế, Uddalaka lại hỏi:

– Nếu việc này không làm thành một Bà-la-môn, thế thì việc gì?

Và chàng ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn
    Vị ấy làm sao được thiện toàn,
    Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
    Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?

Vị Tế sư đáp lời qua vần kệ khác:

  1. Người không của cải, chẳng nương đồng,
    Không có họ hàng, chẳng ước mong,
    Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
    Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
    Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
    Giữ phận chánh chân, được tán đồng.

Sau đó, Uddalaka lại ngâm kệ nữa:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
    Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?

Khi đó, vị Bà-la-môn kia ngâm vần kệ nêu rõ ràng không có ai cao, ai thấp khi đã đạt Thánh quả:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người đầy trắc ẩn,
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân.

Song Uddalaka phê bình điểm này bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
    Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
    Tất cả những người này đức hạnh
    Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
    Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
    Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
    Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
    Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?

Ðến đây, vị Tế sư ngâm đôi vần kệ nữa, cùng với một ví dụ:

  1. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
    Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
    Ðỉnh tròn, rực rỡ đầy màu sắc,
    Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.
  2. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
    Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
    Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
    Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.

Bấy giờ, Uddalaka không còn nói gì được nữa, nên chàng ngồi yên lặng. Lúc ấy, vị Tế sư Bà-la-môn nói với vua:

– Tâu Ðại vương, tất cả bọn này đều là phường dối trá, toàn cõi Diêm-phù sẽ bị suy tàn vì nạn lừađảo kia. Xin Ðại vương hãy khuyến dụ Uddalaka từ bỏ việc hành trì khổ hạnh của nó và làm Tế sư theo gót hạ thần, lại cho phép đám người này khỏi phải tu tập khổ hạnh, rồi cho chúng đủ gươm, giáo, mộc để làm tùy tùng của Ðại vương.

Vua chấp nhận, làm theo lời ngài dạy và tất cả bọn ấy đều đến phụng sự vua.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên, mà kẻ này trước kia cũng đã làm một tên lừa đảo.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Tỷ-kheo gian dối này là Uddalaka, Ànanda là vua và Ta chính là vị Tế sư.

-ooOoo-

  1. Chuyện củ sen (Tiền thân Bhisa)

Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Trường hợp này cũng sẽ xuất hiện trong số 531, Tiền thân Kusa. Ở đây, một lần nữa, bậc Ðạo Sư hỏi:

– Này Tỷ-kheo, có đúng là ông đã thối thất chăng?

– Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Vì cớ gì?

– Bạch Thế Tôn, vì ác dục.

– Tại sao, này Tỷ-kheo, ông lại thối thất, sau khi đã hành trì đạo lý này trước khi đưa đến Giải thoát, và tất cả chỉ vì ác dục? Ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, những bậc trí nhân khởi đầu cuộc sống tu hành, ngay cả những vị ngoại đạo cũng đã phát hạnh nguyện và đoạn trừ ngay các tưởng khởi lên có liên hệ các dục hoặc sức cám dỗ của dục.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm con trai của một đại danh gia Bà-la-môn có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền. Gia đình đặt tên ngài là Mahà-Kancana hay Ðại chúa tể Hoàng kim. Vào lúc ngài mới biết đi chập chững, một bé trai khác lại sinh ra đời trong nhà vị Bà-la-môn ấy và được đặt tên là Upa-kancana hay Tiểu chúa tể Hoàng kim. Cứ như vậy, bảy nam nhi liên tiếp ra đời và cuối cùng là một quý nữ, được đặt tên là Kancana-devi hay Công nương Hoàng kim.

Khi Mahà-Kancana lớn lên, ngài đi học tập tại Takkasilà đầy đủ mọi môn học thuật rồi ngài trở về nhà. Lúc ấy, song thân ngài muốn lập cho ngài một gia thất riêng. Hai vị bảo:

– Cha mẹ sẽ tìm cho con một thiếu nữ nhà lành để kết bạn xứng đáng với con, rồi con sẽ yên bề gia thất.

Song ngài đáp:

– Thưa cha mẹ, con không muốn lập gia đình. Ðối với con, ba cõi sinh hữu đều như lửa đốt, bị trói buộc xiềng xích như ngục tù, đáng ghê tởm tựa đống phân. Con chẳng hề có ý nghĩ gì về việc đó, dù chỉ là trong giấc mộng. Cha mẹ có các con trai kia, xin bảo chúng làm chủ gia đình và để cho con yên thân.

Dù hai vị van nài ngài nhiều lần, nhờ bạn hữu của ngài đến năn nỉ ngài tận miệng, ngài cũng chẳng muốn gì về việc ấy cả. Sau đó, bạn bè hỏi ngài:

– Này hiền hữu, thế bạn muốn gì mà bạn chẳng thiết tha đến việc tận hưởng tình yêu và lạc thú?

Ngài bảo họ ngài đã từ bỏ thế tục. Khi song thân hiểu việc này, hai vị đề nghị việc kia với các con trai thứ, nhưng chẳng ai chịu nghe cả, ngay cả nương tử Kancana cũng không. Dần dà cha mẹ qua đời. Trí giả Mahà-kancana làm lễ an táng song thân xong, với kho tàng tám trăm triệu ấy, ngài phân phát hào phóng cho tất cả đám hành khất và du sĩ, rồi ngài đem sáu em trai cùng em gái, một gia nhân và một nữ tỳ cùng một người bạn đường, ngài làm đại sự xuất gia và sống ẩn dật trong dãy Tuyết Sơn.

Tại đó, trên một vùng đất vừa ý gần một hồ sen, các vị xây một khu am thất ẩn cư tu hành và ăn toàn trái cây, củ rừng. Khi họ vào rừng, chỉ đi từng người một, nếu có vị nào thấy trái cây hay lá rau gì liền gọi các vị kia và tại đó, vừa bảo nhau những điều gì nghe thấy được, các vị vừa thu lượm các thức ăn sẵn có, chẳng khác gì cái chợ nhỏ trong làng. Song bậc Sư trưởng, vị khổ hạnh Mahà- kancana lại nghĩ thầm:”Ta đã bỏ qua cả gia sản tám trăm triệu và sống đời tu hành, rồi để ham đi quanh quẩn kiếm trái rừng, thật chẳng hợp lý. Từ nay, ta muốn một mình ta đi lượm trái rừng thôi”. Sau đó, trở về nhà, buổi tối, ngài tập họp mọi người lại và nói cho họ biết ý định của ngài:

– Các em cứ ở đây, và tu tập đời ẩn sĩ, để ta đi hái quả cho các em.

Nghe vậy, Upa-kancana và các người kia ngắt lời:

– Chúng tiểu đệ đã theo hiền huynh đi tu hành, vậy chính hiền huynh phải ở nhà và tu tập đời ẩn sĩ, và hiền muội cũng ở nhà nữa, cùng với nữ tỳ. Tám người chúng em thay phiên nhau đi hái quả, còn ba người ở nhà khỏi làm việc ấy.

Ngài đồng ý.

Từ đó, tám người này thay phiên nhau đem trái cây về từng người một: Các người kia nhận được phần chia trong số kiếm được và mang đi về am thất của mình, rồi ở trong lều tranh riêng của mỗi người. Như vậy, các vị ấy không gặp gỡ nhau nếu không có duyên cớ. Người nào đến phiên mang thức ăn vào để ở một khu đất có rào thì đặt trên một phiến đá phẳng, chia ra mười một phần rồi đánh cồng lên, rồi lấy phần mình đi về nhà mình. Khi nghe tiếng cồng, các vị kia đến, không chen lấn nhau mà theo đúng lễ nghi trật tự, nhận phần mình đã được chia từ các thức kiếm được, rồi trở về nhà mình mới ngồi ăn, và sau đó lại tiếp tục hành thiền, tu tập khổ hạnh.

Sau một thời gian, họ lượm các củ sen để ăn và sống tại đó, tự hành xác với lửa nóng như thiêu như đốt và các loại cực hình khác, nên các giác quan đều tê liệt cả, trong khi họ cố hết sức để nhập định.

Vì công hạnh sáng chói của họ, chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ rung động lên. Ngài bảo:

– Các vị này chỉ thoát khỏi tham dục thôi, hay họ là các vị hiền nhân rồi? Họ có phải hiền nhân chăng? Nay ta muốn tìm hiểu xem sao.

Thế là nhờ thần lực của mình, suốt ba ngày, Thiên chủ làm cho phần thực phẩm của bậc Ðạo Sư biến mất.

Ngày đầu tiên, khi không thấy phần mình, ngài nghĩ: “Có lẽ phần của ta đã bị quên mất”. Vào ngày thứ hai: “Chắc hẳn ta có lỗi lầm nào. Chính là vì muốn nhắc nhở ta về điều này một cách cung kính mà người đó không chia phần cho ta”. Vào ngày thứ ba: “Tại sao họ lại không chia phần cho ta như thế được? Nếu ta có gì lỗi lầm thì ta phải hòa giải phần mình trước”.

Vì thế, buổi tối, ngài đánh cồng lên. Tất cả đều đến và hỏi ai đã đánh cồng.

– Này các hiền đệ, chính ta đánh.

– Thưa Tôn giả, tại sao vậy?

– Này các hiền đệ, trong ba ngày qua, ai đem thức ăn vào?

Một người đứng dậy nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy vẫn đứng yên rất cung kính.

– Khi hiền đệ chia phần, có để dành phần cho ta chăng?

– Có chứ, thưa Tôn sư, đó là phần của vị Sư trưởng.

– Còn ai mang về thực phẩm hôm qua?

Một người khác đứng lên và nói:

– Chính tiểu đệ.

Rồi vị ấy kính cẩn đứng chờ.

– Thế hiền đệ có nhớ phần ta chăng?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

– Thế hôm nay ai đem thực phẩm về?

Một người nữa đứng dậy và kính cẩn đứng chờ.

– Hiền đệ có nhớ chia phần cho ta không?

– Tiểu đệ đã để phần Sư trưởng cho hiền huynh đấy.

Ngài liền bảo:

– Này các hiền đệ, hôm nay là ngày thứ ba ta không có phần ăn. Ngày đầu tiên ta không thấy phần mình, ta nghĩ người nào chia phần đã quên ta. Ngày thứ hai, ta nghĩ chắc ta đã phạm lỗi lầm gì. Song hôm nay, ta quyết định rằng nếu có lỗi lầm gì, ta sẽ hòa giải và vì thế ta đánh cồng triệu tập các tiểu đệ. Các hiền đệ bảo đã để các phần củ sen cho ta mà ta chẳng có được chút gì cả. Ta phải tìm hiểu xem ai đã lấy trộm và ăn hết phần đó. Khi ta đã từ bỏ cuộc đời và mọi tham dục ở đời rồi thì lấy trộm là chuyện không đúng đắn, dù chỉ là một củ sen.

Khi các vị kia nghe thấy lời ấy, họ đồng kêu to:

– Ôi, thật là một việc ác.

Và tất cả các vị đều lo lắng vô cùng.

Lúc bấy giờ, vị Thần trú trên cây gần am thất ấy, đó là cây cổ thụ lớn nhất rừng, bước ra ngồi giữa các vị. Cũng vậy, có một con Voi, không thể nào chịu nổi sự huấn luyện mà không đau đớn, nên phá chiếc cọc ở nơi nó bị trói vào, rồi chạy trốn vào rừng. Thỉnh thoảng, Voi thường đi đến kính lễ đám hiền giả này, nên bây giờ nó cũng đến đứng một bên. Có một con Khỉ đã được huấn luyện để làm trò với bầy Rắn, cũng chạy trốn thoát khỏi tay người luyện rắn vào trong rừng; nó ở tại vùng am thất ấy, nên hôm nay nó cũng đến kính lễ các hiền giả và đứng sang một bên. Thiên chủ Ðế Thích quyết tâm thử các vị ẩn sĩ này nên cũng tàng hình đứng cạnh hội chúng.

Lúc ấy, vị em thứ hai của Bồ-tát, ẩn sĩ Upa-kancana, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngài rồi cúi chào khắp hội chúng và nói như sau:

– Bạch Tôn sư, không kể đến các người kia, tiểu đệ xin được phép thanh minh cho mình khỏi tội này chăng?

– Này hiền đệ, được lắm.

Vị ấy đứng lên giữa các hiền nhân và nói:

– Nếu đệ đã ăn các củ sen của Tôn huynh, đệ sẽ thành một người như vầy như vầy.

Và vị ấy trang nghiêm phát nguyện qua vần kệ đầu:

  1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
    Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
    Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
    Kẻ ăn phần trộm của La-môn!

Nghe thế, các vị tu khổ hạnh kia đều đặt tay lên hai tai và kêu to:

– Không, không thưa Tôn giả, lời thề nguyền ấy quả thật nặng nề lắm!

Và Bồ-tát cũng nói:

– Này hiền đệ, lời nguyền của em nặng lắm đấy! Em không ăn phần đó, thôi, ngồi xuống nệm rơm đi.

Vị ấy, sau khi thề nguyện xong, liền ngồi xuống.

Người em thứ ba đứng lên đảnh lễ bậc Ðại Sĩ và ngâm vần kệ thứ hai để thanh minh cho mình:

  1. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
    Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
    Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Khi vị ấy ngồi xuống, các vị kia lần lượt ngâm vần kệ. Vị thứ tư:

  1. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
    Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
    Nó không hiểu tháng năm dần mất,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

Vị thứ năm:

  1. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
    Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
    Thế gian bốn cõi đều phần nó,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!
  2. Mong nó trở thành một Ðạo nhân,
    Mà không chế ngự được tham sân,
    Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
    Ðược hiển vinh nhờ các đế vương
    Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Vị thứ sáu:

  1. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
    Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
    Mong nó được muôn người bái phục,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Vị thứ bảy:

  1. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
    Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
    Khi chết, dục tham không chế ngự,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!
  2. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
    Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
    Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Tiểu muội:

  1. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
    Chúa tể thế gian chọn má hồng,
    Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
    Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

Nô tỳ:

  1. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
    Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
    Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
    Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
    Người đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Thần cây:

  1. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
    Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
    Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
    Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðại nhân!

Con Voi:

  1. Mong nó bị người bắt lấy thân,
    Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
    Mang về thành, bị người vây đánh
    Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
    Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
    Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

Con Khỉ:

  1. Vòng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
    Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
    Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
    Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!

Khi cả hội cùng thề nguyện xong qua mười ba vần kệ này, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Có lẽ chúng tưởng chính ta nói dối rằng không có phần ăn để đó, trong khi nó vẫn có”, vì thế, ngài cũng thề nguyền phần mình qua vần kệ thứ mười bốn:

  1. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
    Mà nếu không mất mát, vậy thời
    Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
    Và mang kết quả việc kia hoài,
    Ước mong cái chết đầy phàm tục
    Số phận dành cho nó cuối đời,
    Ðiều ấy cũng dành cho quí vị,
    Nếu bây giờ quí vị nghi tôi!

Khi các bậc hiền nhân đã thề nguyền như thế xong, Ðế Thích Thiên chủ nghĩ thầm: “Ðừng sợ gì cả. Ta đã làm cho các củ sen kia biến mất để thử các người này và nay các vị ấy thề nguyền cả, lại đều ghê tởm hành động ấy như thể một cục đờm phải nhổ. Nay ta muốn hỏi các vị tại sao lại ghê tởm dục tham như vậy”. Thiên chủ đặt câu hỏi này để chất vấn Bồ-tát trong vần kệ tiếp, sau khi Thiên chủ đã hiện nguyên hình:

  1. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần
    Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng
    Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
    Như vậy, vì sao các Thánh nhân
    Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
    Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?

Ðể trả lời câu hỏi này, bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tham dục là tai họa chết người,
    Là dây xiềng xích trói trên đời,
    Ở trong ác dục, ta tìm thấy
    Ðau khổ và kinh hãi cả thôi.
    Khi bị dục tham nào cám dỗ,
    Vua thường phạm tội, đắm say hoài!
  2. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
    Gây tội, khi tan rã nhục thân,
    Vì biết khổ đau trong ác dục,
    Bậc hiền chê trách, chẳng đồng lòng.

Khi Ðế Thích Thiên chủ nghe bậc Ðạo Sư giải thích xong, lòng đầy xúc động nên ngài ngâm vần kệ này:

  1. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
    Ta đặt bên hồ các thức ăn,
    Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
    Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!

Nghe thế, Bồ-tát liền ngâm kệ nữa:

  1. Chúng ta không múa rối vui chơi,
    Làm các trò tiêu khiển với ngài,
    Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
    Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
    Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
    Bậc trí bày trò giải trí thôi?

Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ hai mươi để làm lành với ngài:

  1. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
    Chính ngài là một vị cha thân,
    Chở che cho trẫm đà sai phạm,
    Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm;
    Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
    Bậc hiền lại phát khởi lòng sân!

Bậc Ðạo Sĩ liền tha thứ cho Thiên chủ Ðế Thích và về phần ngài, để hòa giải với các Thánh nhân kia, ngài ngâm vần kệ nữa:

  1. An lạc một đêm với Thánh nhân,
    Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
    Chư Hiền, hãy đẹp lòng khi thấy
    Thực phẩm mất, nay được phục hoàn.

Ðế Thích Thiên chủ liền đảnh lễ hội chúng hiền nhân rồi trở về thiên giới. Còn các vị ấy đã làm cho phát khởi Thiền định và các Thắng trí trong tâm, nên về sau được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy, các bậc trí ngày xưa đã phát hạnh nguyện và từ bỏ ác dục.

Nói xong, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Vào lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và ngài ngâm ba vần kệ này để nhận diện Tiền thân:

  1. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
    Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
    Cùng với A-nan-đà thuở ấy
    Thất Hiền Huynh Ðệ chốn kia mà.
  2. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
    Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
    Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
    Cit-ta Gia chủ, chính gia nô.
  3. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
    Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
    Ðế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
    Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.

Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4) Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi

-ooOoo-

  1. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền thân Suruci)

Thiếp là chánh hậu chúa Ru-ci…,

Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú gần Xá-vệ trong tòa nhà của Lộc mẫu, về việc bà nữ cư sĩ đệ nhất Visàkhà này đã được Ngài ban Tám điều Nguyện ước như thế nào.

Một buổi nọ, bà ấy nghe thuyết Pháp ở Kỳ Viên xong, rồi trở về nhà, sau khi mời đức Phật và chúng đệ tử của Ngài đến nhà vào ngày hôm sau.

Nhưng khuya hôm ấy một cơn cuồng phong dữ dội hoành hành cả bốn châu thiên hạ, đức Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo như sau:

– Khi mưa rơi ở Kỳ Viên, này các Tỷ-kheo, thì mưa cũng rơi khắp bốn châu thế giới. Các ông hãy thấm nhuần ơn mưa móc đến tận thịt da: vì đây là cơn đại cuồng phong cuối cùng của Ta thổi khắp thế giới.

Rồi cùng với các Tỷ-kheo thân mình đã thấm ướt nước mưa, Ngài dùng thần lực biến mất khỏi Kỳ Viên và xuất hiện trong gian phòng khách của tòa nhà bà Visàkhà. Bà kêu lên:

– Thật hi hữu thay! Thật linh diệu thay là thần thông lực của đức Như Lai thị hiện! Nước ngập lụt đến tận đầu gối, nước ngập lụt đến tận thắt lưng, mà chẳng có bàn chân hay chiếc y của một Tỷ-kheo nào bị ướt cả!

Trong nỗi hân hoan tràn trề ấy, bà cùng đám tín nữ phục vụ đức Phật và Tăng chúng. Sau buổi thọ thực, bà thưa với đức Phật:

– Thật tình con ước ao nhận được nhiều thỉnh nguyện từ đức Thế Tôn.

– Này Visàkhà, các đức Như Lai có vô lượng ân lành.

– Song những điều thỉnh nguyện này xin được ban cho chúng con, những điều này không lỗi lầm!

– Này Visàkhà, cứ nói đi!

– Con ước ao rằng suốt đời con được quyền dâng áo khoác về mùa mưa cho Tăng chúng, thực phẩm cho các vị khách đến thăm nhà, thực phẩm cho Tăng chúng du hóa đường xa, thực phẩm cho các vị bị bệnh, thực phẩm cho những vị Tỷ-kheo phục vụ các bệnh nhân, thuốc men cho các bệnh nhân, thường xuyên cúng dường cháo gạo và suốt đời cúng dường y phục cho các Tỷ-kheo ni khi đi tắm.

Bậc Ðạo Sư đáp:

– Này Visàkhà, bà dự định làm công đức gì khi bà thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này?

Bà liền thưa với ngài những lợi lạc mà bà mong có được, và Ngài đáp:

– Lành thay, lành thay, này Visàkhà, thật tốt lành thay là điều lợi lạc mà bà mong sẽ được khi thỉnh cầu Như Lai Tám Nguyện ước này.

Rồi ngài bảo:

– Này Visàkhà, Ta cho bà Tám đặc ân này đó.

Sau khi ban cho bà tám Thỉnh Nguyện ấy xong và nói lời tùy hỷ công đức, Ngài ra về.

Một hôm, khi bậc Ðạo Sư đang trú tại Ðông Viên, Tăng chúng bắt đầu bàn luận việc này trong Chánh Pháp đường:

– Này hiền hữu, nữ thí chủ Visàkhà, dù là nữ nhân, đã được chính đấng Thập Lực ban cho tám Thỉnh nguyện.Công đức của bà ấy thật cao cả thay!

Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng thưa với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên nữ nhân này nhận được những Thỉnh nguyện từ Ta, vì bà ấy xưa kia cũng đã nhận được như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời, có vị vua Suruci trị vì tại Mithilà. Vua này có một vương tử đặt tên là Suruci Kumàra, hay vương tử Huy Hoàng. Khi chàng lớn lên, chàng quyết định đi du học tại Takkasilà, vì thế chàng đến đó và ngồi nghỉ ở một sảnh đường tại cổng thành. Bấy giờ vương tử của vua Ba-la-nại tên là vương tử Brahmadatta cùng đi đến đó, và ngồi nghỉ trên cùng một chiếc ghế dài mà vương từ Suruci đã ngồi. Hai người trò chuyện và kết bạn với nhau, rối cả hai cùng đi đến vị giáo thọ kia. Hai chàng trả học phí và học tập, chẳng bao lâu, việc học đã hoàn tất.

Rồi hai chàng từ giã thầy dạy và cùng nhau lên đường. Sau khi đi một đoạn ngắn, họ dừng lại ở một nơi có ngã rẽ, cả hai ôm nhau từ biệt, và để giữ mãi tình bạn thấm thiết, hai vị giao ước với nhau:

– Nếu ta có con trai và bạn có con gái hoặc bạn có con trai và ta có con gái thì chúng ta sẽ kết đôi cho chúng.

Khi hai vị lên ngôi, vua Suruci sinh hạ một vương tử và cũng đặt tên vương tử là Suruci. Còn vua Brahmadatta sinh con gái đặt tên là Sumedha hay công chúa Thiện Trí.

Vào đúng thời lớn khôn, vương tử Suruci đi đến Takkasilà để học tập và khi việc học hoàn tất, lại trở về. Sau đó vua cha muốn phong vương cho con mình bằng lễ quán đảnh, và nghĩ thầm: “Bạn ta là vua Ba-la-nại đã sinh con gái, ta nghe nói vậy. Nay ta muốn cưới nàng ấy làm vương hậu cho con ta”. Vì mục đích trên, vua phái đám sứ thần đem các sính lễ rất sang trọng ra đi.

Song trước khi sứ bộ đến nơi, vua Ba-la-nại hỏi bà chánh hậu điều này:

– Này ái hậu, điều gì là nỗi khổ đau nhất đối với một nữ nhân?

– Muôn tâu, đó là việc tranh chấp với các thê thiếp khác của chồng mình.

– Vậy thì, này ái hậu, để tránh cho con gái duy nhất của ta là công chúa Sumedha khỏi nỗi khổđau ấy, ta sẽ chẳng gả con cho một ai, ngoại trừ người nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không có thê thiếp khác.

Vì vậy khi các sứ thần đến, và nêu danh hiệu công chúa để cầu hôn, vua bảo họ:

– Này các hiền hữu, quả thực ta đã hứa gả con gái ta cho con của vị vua thân bằng của ta ngày xưa. Song chúng ta không muốn thả con gái vào giữa một đám nữ nhân. Vì vậy chúng ta muốn gả con gái cho vị vua nào chỉ cưới một mình nàng, chứ không thêm ai khác.

Các sứ giả đem thông điệp ấy về tâu với vua. Nhưng vua này phật ý, bảo:

– Nước ta là một đại vương quốc với kinh thành Mi-thi-là chiếm bảy dặm, toàn thể đất nước gồm cả ba trăm dặm. Một vị đại vương như vậy phải có cả mười sáu ngàn cung phi là ít nhất.

Còn vương tử Suruci vừa nghe danh tiếng dung sắc tuyệt mỹ của công chúa Sumedha liền đâm ra si tình công chúa dù chỉ là nghe đồn thôi, nên chàng nhờ thưa lại song thân là:

– Con quyết sẽ cưới một mình nàng chứ không thêm ai khác nữa. Con có cần gì cả đám nữ nhân kia chứ? Xin đi cưới nàng về ngay.

Hai vị không cản trở ước vọng của chàng, liền gửi sính lễ sang trọng cùng một đám sứ thần đông đảo đi rước nàng về cung. Thế là nàng được phong làm vương hậu và cả hai người đều được tôn lên ngôi bằng lễ quán đảnh (rảy nước lên đầu).

Chàng trở thành quốc vương Suruci, cai trị rất đúng pháp và sống rất hạnh phúc với hoàng hậu. Song dù nàng đã về sống ở nhà chồng đến mười ngàn năm, nàng chẳng hề sinh hạ con trai hay con gái gì cả.

Sau đó, dân chúng tụ tập lại trước sân chầu với những lời trách móc. Vua hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dân chúng tâu:

– Chúng thần chẳng thấy lỗi lầm nào ngoại trừ việc này: Ðó là Chúa thượng không có con trai để nối dõi. Chúa thượng chỉ có một chánh hậu, tuy nhiên một quốc vương phải có ít nhất là mười sáu ngàn cung tần. Xin Chúa thượng hãy tuyển một đám phi tần mỹ nữ, rồi một thứ phi xứng đáng sẽ hạ sinh cho Chúa thượng một hoàng nam.

– Này, các hiền hữu nói điều gì thế? Ta đã hứa không cưới ai khác ngoài hoàng hậu và theo những điều kiện thỏa thuận trên mà ta đã chiếm được nàng làm vợ. Ta không thể nuốt lời được, ta không cần cả một đám nữ nhân đâu.

Như thế vua từ chối lời thỉnh cầu của dân nên họ ra về. Song Sumedha nghe được câu chuyện. Bà nghĩ thầm: “Ðức vua từ chối việc tuyển chọn cung phi vì lòng trung tín của ngài, được rồi, ta sẽ tìm thê thiếp khác cho ngài”. Bà vừa đóng vai người mẹ, cùng vai người vợ đối với vua, nên bà tự nguyện tuyển một mgàn công nương thuộc dòng Sát-đế-ly, một ngàn tiểu thư của các con quan trong triều, một ngàn thiếu nữ nhà lành, một ngàn vũ nữ đủ loại, tổng cộng bốn ngàn, rồi đem dâng vua.

Các nàng ấy sống trong cung suốt mười ngàn năm cũng chẳng hề sinh con cái gì cả. Cứ theo cách ấy, ba lần nữa, bà dâng vua bốn ngàn cung nữ, song họ chẳng sinh được con cái gì. như vậy bà đã dâng vua cả mười sáu ngàn cung tần mỹ nữ. Bốn mươi ngàn năm trôi qua, nghĩa là năm mươi ngàn năm tất cả, tính luôn mười ngàn năm vua đã chỉ sống với một mình hoàng hậu thôi. Sau đó, dân chúng lại tụ tập với những lời trách móc; vua hỏi:

– Cái gì đây nữa?

– Tâu Chúa thượng, xin ngài ra lệnh cho các cung phi cầu tự.

Từ đó, để cầu tự, các nàng cúng bái đủ các loại thần linh và thề nguyền khấn khứa đủ mọi cách, tuy thế, vẫn không có vương tử nào xuất hiện. Rồi vua ra lệnh cho bà Sumedha cũng phải cầu tự, hoàng hậu thỏa thuận.

Vào dịp lễ Trai giới ngày mười lăm (rằm) trong tháng, hoàng hậu giữ hạnh nguyện Bát quan Trai giới và ngồi trầm tư về các công đức trong một cung thất lộng lẫy trên một sàng tọa êm ái. các cung nữ khác đều ở trong ngự uyển, cầu nguyện sẽ cúng tế đủ loại dê bò. Vì công đức sáng chói của hoàng hậu Sumedha nên cung điện của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động.

Ðế Thích Thiên chủ suy xét và hiểu rằng bà Sumedha đang cầu tự. “Ðược rồi, bà sẽ được một hoáng nam. Song ta không thể ban cho bà một hoàng nam này hay một hoàng nam nọ một cách thiếu quan tâm, mà ta muốn đi tìm một vị nào xứng đáng”. Rồi ngài thấy một Thiên tử còn trẻ tên là Nalakàra, Người Ðan giỏ.

Chàng có đầy đủ đức độ thiện hạnh, trong một đời trước đó sống ở Ba-la-nại, thì chuyện này xảy ra cho chàng. Vào mùa gieo hạt, khi chàng ra đồng, chàng gặp một vị Ðộc Giác Phật. Chàng bảo các tá điền gieo hạt, cúng dường một bữa ăn rồi dẫn vị ấy trở lại bờ sông Hằng. Chàng cùng con trai dựng túp lều, trụ bằng thân cây sung và đan kết lau sậy làm vách tường, gắn cửa vào và dọn một lối đi. Chàng mời vị Ðộc Giác Phật ở đó suốt ba tháng và khi hết mùa mưa, hai cha con chàng đắp lên Ngài ba chiếc y rồi để Ngài ra đi. Cùng cách ấy, hai cha con thiết đãi đồ ẩm thực bảy vị Ðộc Giác Phật trong túp lều ấy rồi cúng dường mỗi vị ba chiếc y, xong để các vị ai đi đường nấy.

Vì vậy, dân chúng vẫn kể chuyện hai cha con làm nghề đan giỏ, tìm các cây liễu trên bờ sông Hằng (để lấy gỗ đan giỏ) và hễ khi nào thấy một vị Ðộc Giác Phật thì họ cúng dường như trướcđã nói. Lúc mạng chung, họ được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba, và cứ an trú sáu tầng trời cõi Dục liên tục tới lui theo vòng luân hồi sinh tử, tận hưởng vinh quang tột đỉnh giữa chư Thiên.

Hai vị ấy sau khi mạng chung ở cõi này lại ước mong được lên các thiên giới cao hơn. Ðế Thích Thiên chủ nhận thức rằng một trong hai vị Thiên tử này sẽ thành đức Như Lai, nên Thiên chủ đến cửa cung của hai vị, đảnh lễ vị ấy khi vị ấy đứng lên chào đón Thiên chủ và bảo:

– Thưa Tôn giả, ngài nên sinh vào thế giới loài người.

Song vị Thiên tử bảo:

– Tâu Ðại vương, thế giới loài người đầy hận thù đáng kinh tởm, những người ở đó làm thiện sự và bố thí, cũng đều ước mong được lên thiên giới. Vậy thần xuống đó làm gì chứ?

– Thưa Tôn giả, ngài sẽ được hưởng trọn vẹn mọi lạc thú có thể hưởng được trong nhân giới; ngài sẽ ngự trong một cung điện làm toàn bằng bảo ngọc cao hai mươi lăm dặm. Xin ngài đồng ý cho.

Vị Thiên tử liền chấp thuận. Khi Ðế Thích Thiên chủ đã được vị ấy hứa lời rồi, liền giả dạng một hiền nhân giáng xuống ngự viên, xuất lộ nguyên hình vừa bay lượn trên đầu các cung phi này, vừa ca hát:

– Ta sẽ ban diễm phúc cho ai được một nam tử đây? Ai mong được diễm phúc có một nam tử đây?

– Thưa ngài, xin cho con, xin cho con!

Hàng ngàn cánh tay giơ lên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta sẽ ban các nam tử cho những người đức độ: vậy về công đức các nàng làm được những gì? Cuộc đời các nàng, lối sống các nàng ra sao?

Họ đều hạ tay xuống và thưa:

– Nếu ngài muốn thưởng công cho người đức hạnh thì xin ngài đi tìm chành hậu Sumedha.

Ngài liền bay qua không gian và dừng lại ở cửa sổ cung thất của bà. Khi đó đám cung nữ đến trình với bà:

– Tâu lệnh bà, một vị Thiên chủ đã bay qua không gian và đứng ngay tại cửa sổ cung thất lệnh bà để ban cho lệnh bà diễm phúc được một vương tử!

Bà liền đến đó đón ngài vô cùng trọng thể. Vừa mở cửa sổ ra, bà vừa hỏi:

– Tâu Thiên chủ, tiện thiếp trộm nghe rằng ngài sẽ ban diễm phúc cho một nữ nhân đức hạnh được một nam tử, có đúng vậy chăng?

– Ðúng vậy, ta sẽ làm như thế.

– Vậy xin ngài làm ơn ban cho tiện thiếp diễm phúc ấy.

– Hãy cho ta biết Chánh hậu đã tạo được công đức gì, rồi nếu chánh hậu làm đẹp ý ta, ta sẽ ban cho diễm phúc ấy.

Bà liền ngâm mười lăm vần kệ này nêu rõ công đức của mình:

  1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
    Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
    Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
    Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.
  2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
    Là chính kinh thành của quốc gia,
    Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,
    Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
    Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
    Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.
  3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
    Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
    Trong lúc các ngài còn tại thế,
    Vẫn thường dạy thiếp Ðạo hiền nhân.
  5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
    Quyết lòng hành động chánh chân hoài,
    Ân cần tận tụy hầu hai vị,
    Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.
  6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
    Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
    Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
    Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân.
  8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
    Với mọi cung phi, thắm thiết tình,
    Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,
    Khác nào đối với bản thân mình.
  9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
    Tất cả nơi đây ở hợp quần,
    Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
    Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.
  11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
    Hễ thấy người nào đến khẩn van,
    Thiếp đãi uống ăn đều khắp cả,
    Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.
  13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cấu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.
  14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
    Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
    Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,
    Bước theo Thánh đạo của hiền nhân.
  15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
    Cầu mong vương tử được ngài ban,
    Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
    Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

Quả thật, dù cả trăm, cả ngàn câu kệ cũng không đủ lời tán thán mọi công đức của bà; tuy thế, Ðế Thích Thiên chủ cứ để cho bà tự tán thán trong mười lăm vần kệ này. Ngài cũng không ngắt ngang câu chuyện, mặc dù ngài còn nhiều việc phải làm ở nơi khác. Sau đó ngài bảo:

– Công đức của Chánh hậu thật là kỳ diệu và sung mãn tràn trề thay!

Rồi ngài ngâm hai vần kệ ca ngợi bà:

  1. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
    Công đức này cao trọng thập toàn
    Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
    Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.
  2. Một hoàng nam chính thống cao sang,
    Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
    Ðại đế Vi-đề-ha chánh trực,
    Sắp ra đời đó chính con nàng.

Khi bà nghe những lời này, bà vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ để hỏi Thiên chủ:

  1. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
    Hình ngài lơ lửng ở trên không,
    Nói bằng một giọng đầy thân ái,
    Lám thiếp cảm rung tận cõi lòng.
  2. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,
    Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
    Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
    Cho biết là ai đó giáng trần?

Thiên chủ đáp lời bà qua sáu vần kệ:

  1. “Thiên nhãn Sak-ka” nàng thấy đây,
    Vì Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
    Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
    Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay.
  2. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,
    Tại đây được thấy giữa trần gian,
    Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
    Với mẹ chồng, như phận sự nàng.
  3. Khi chư Thiên biết một hồng nhan,
    Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
    Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
    Thiên chúng đích thân đến với nàng.
  4. Giữ đời đức hạnh, hỡi Nương nương,
    Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
    Công chúa xuất thân, đà đạt được
    Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.
  5. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng
    Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
    Công chúa, về sau trên thượng giới
    Tái sinh nàng được hóa Thiên thần.
  6. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
    Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,
    Nay lúc ta cần về thượng giới,
    Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.

– Ta còn việc phải làm trên tiên giới-Ngài bảo-Vậy ta đi đây, còn nàng hãy chuyên tâm tinh cần.

Cùng với lời khuyên nhủ này, ngài ra về.

Tảng sáng hôm ấy, Thiên thần Nalakàra được nhập mẫu thai của hoàng hậu. Khi bà biết chuyện ấy, bà liền tâu với vua. Vua làm đủ mọi việc cần thiết cho một thai phụ. Sau mười tháng, bà sinh hạ một vương tử, hai vị đặt tên là Mahà-panàda. Toàn dân của hai quốc độ đều đến kêu lên:

– Tâu Chúa thượng, chúng hạ thần xin mang tiền mua sữa tới tặng hoàng thái tử.

Rồi mỗi người thả một đồng vàng vào trong sân chầu thành một đống tiền lớn. Vua không muốn nhận tiền này, nhưng dân chúng không chịu lấy lại, và tâu với vua khi họ ra về:

– Tâu Chúa thượng, số tiền này để dành cấp dưỡng vương tử khi ngài lớn lên.

Vương nhi lớn lên giữa cảnh huy hoàng và khi chàng đến tuổi trưởng thành, không quá mười sáu, chàng đã kiện toàn tất cả mọi môn học thuật. Vua nghĩ đến tuổi trưởng thành của chàng, bảo hoàng hậu:

– Này ái hậu, khi đến thời làm lễ quán đảnh cho hoàng nhi, ta hãy xây cho con ta một cung điện tuyệt đẹp vào dịp đó.

Bà thỏa thuận hoàn toàn. Vua liền cho triệu các người có tài đoán biết nơi chốn an lành để xây cung điện và họ bảo:

– Này các hiền hữu, hãy tìm một kiến trúc sư thượng thủ và xây cho ta một cung điện không xa cung ta. Cung này dành cho hoàng tử mà chúng ta sắp phong vương để kế vị ta đó.

Họ tâu việc ấy tốt lành thay và bắt đầu đi vào khảo sát mặt đất.

Lúc áy, chiếc ngai của Ðế Thích Thiên chủ nóng rực lên. Nhận thấy điều này, Thiên chủ lập tức triệu Vissakamma-vị Thiên thần chuyên xây dựng đến và bảo:

– Này Hiền giả Vissakamma, hãy xây cho thái thái tử Mahà-panàda một cung điện dài rộng nửa dặm và cao hai mươi lăm đặm, toàn bằng bảo ngọc.

Vissakamma liền giả dạng thợ hồ đi đến gần đám thợ kia bảo:

– Hãy đi ăn sáng xong rồi trở về đây.

Sau khi họ đi khuất cả rồi, vị ấy lấy cây gậy đập xuống đất, lập tức một cung điện hiện ra cao bảy tầng đúng kích thước như trên.

Bấy giờ triều đình cử hành liên tiếp ba đại lễ cho Thái tử Mahà-panàda: Lễ khánh thành cung điện, lễ giương chiếc lọng hoàng gia trên đầu chàng (lễ phong vương) và lễ thành hôn cho chàng. Trong thời gian hành lễ, toàn dân cả hai xứ tụ tập lại tổ chức hội hè yến tiệc suốt bảy năm mà vua cũng không giải tán quần chúng: xiêm y, đồ trang sức, đồ ẩm thực và mọi thứ khác hoàng gia đều cung cấp đầy đủ cả.

Sau bảy năm ấy, dân chúng bắt đầu càu nhàu than phiền và vua Suruci hỏi tại sao, họ đáp:

– Tâu Ðại vương, trong lúc chúng hạ thần mãi vui chơi hội hè đình đám thì bảy năm đã trôi qua. Thế khi nào thì lễ hội này mới chấm dứt?

Vua đáp:

– Này các hiền hữu, suốt thời gian qua, vương nhi chưa hề một lần nào cười cả. Vậy khi nào vương nhi cười thì ta sẽ giải tán.

Sau đó dân chúng đi đánh trống và tập hợp các người làm trò múa rối nhào lộn lại với nhau. Hàng ngàn người diễn trò kéo đến và chia nhau thành bảy ban ca múa, nhưng họ không thể nào làm vương tử cười được. Rõ ràng chàng là một người đã từng xem múa hát của các vũ thần chốn thiên đình rồi thì không thể nào ham thích được các vũ công hạ giới như thế này.

Sau đó hai tên hề múa rối lanh lợi xuất hiện, đó là Bhandu Kanna và Pandu Kanna tức Tai Cụt và Tai Vàng. Chúng tâu:

– Chúng tiểu thần sẽ làm cho hoàng tử cười.

Bhandu Kanna liền hóa phép ra một cây xoài vĩ đại, mà gã gọi là “Vô song địch”, mọc lên trước cửa cung, sau đó gã ném ra một cuộn dây làm cho nó mắc vào một cành xoài rồi gã trèo lên cây xoài Vô song địch ấy.

Thời bấy giờ người ta bảo cây xoài Vô địch ấy là của Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Bọn nô lệ của thần Vessavana bắt lấy gã, như thường lệ, chặt ra từng khúc và thả xuống đất. Bọn người làm trò ảo thuật kia ghép các khúc đó lại và tưới nước lên. Gã đó liền choàng mớ xiêm y cả bên trong lẫn bên ngoài đều kết bằng hoa rồi đứng dậy bắt đầu ca múa như cũ. Ngay cái cảnh tượng kỳ dị này cũng không làm vương tử cười được.

Sau đó Pandu Kanna chất dầu củi đốt lửa lên trước sân chầu và nhảy vào lửa với đồng bọn múa rối ấy. Khi lửa tan hết, người ta tưới nước vào đó, Pandu Kanna cùng cả bọn lại vùng dậy ca múa với đủ xiêm y từ trong ra ngoài kết bằng hoa! Khi dân chúng thấy họ không thể làm cho vương tử cười được thì họ bực tức lắm.

Ðế Thích Thiên chủ nhận thấy việc này, liền phái xuống một vũ công trên trời, bảo vị ấy làm cho vương tử Mahà-panàda cười. Thế rồi vị ấy đứng lơ lửng giữa không gian trên sân chầu, và biểu diễn một điệu múa gọi là Vũ khúc Bán thân: chỉ một tay, một chân, một mắt, một răng nhảy múa rung rinh, lắc lư qua lại, còn mọi phần kia vẫn trơ như đá!

Khi Mahà-panàda thấy thế thì chàng hơi nhếch mép cười một chút thôi! Còn đám dân chúng đều cười rộ lên từng tràng dài, và không thể nào kềm chế chân tay được nữa, nên họ cứ lăn quay long lóc khắp cả sân rống. Thế là kết thúc hội hè! Phần còn lại:

Ðại đế Pa-nà, chúa đại hùng

Với cung bằng ngọc quý, vàng ròng…

Ðã được giải thích trong Thế Tôn Mahà Panàda (số 264, tập II, Chương III)

Vua Mahà Panàda chuyên tâm làm thiện sự và bố thí nên lúc mạng chung được sinh lên Thiên giới.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, Visàkhà đã nhận được điều ước Ta ban thuở trước kia.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, Bhaddaji là Mahà Panàda, Visàkhà là hoàng hậu Sumedha, Ànanda là Vissakamma và Ta chính là Ðế Thích Thiên chủ.

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị hành trì trai giới (Tiền thân Pancùposatha)

Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về năm trăm cư sĩ giữ hạnh Bồ-tát giới.

Thời đó người ta nói là bậc Ðạo Sư ngồi trên bảo tọa dành cho đức Phật trong Chánh pháp đường, giữa tứ chúng, nhìn quanh hội chúng với từ tâm, Ngài thấy rằng hôm nay bài thuyết giảng sẽ quay về đề tài chuyện các nam cư sĩ. Sau đó Ngài hỏi hội chúng:

– Các nam cư sĩ có giữ hạnh trai giới (Bồ-tát) chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Họ đáp.

– Lành thay, việc hành trì ngày trai giới là tập tục của các trí nhân tự thuở xưa: Ta bảo là các bậc trí tự ngàn xưa đã hành trì trai giới để nhiếp phục các tham dục.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một khu rừng lớn ngăn chia vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) với hai vương quốc giáp giới nó. Bồ-tát sinh ra ở Ma-kiệt-đà trong một gia đình Bà-la-môn sang trọng. Khi ngài lớn lên, ngài từ bỏ các tham dục và đi vào rừng kia dựng lên một ẩn am và sống tại đó. Bấy giờ không xa nơi am thất ấy có một con Bồ câu rừng sống cùng chim mái, trong một tổ kiến kia có con Rắn, trong bụi rậm nọ có con Chó rừng làm hang ổ và trong một bụi rậm khác lại có con Gấu. Cả bốn con vật này thường đến viếng vị hiền nhân và nghe ngài thuyết Pháp.

Một ngày kia, Bồ câu cùng vợ rời tổ đi kiếm thức ăn. Chim mái bay sau, và khi nó đang bay, một con chim ưng thình lình chụp bắt lấy nó và tha đi. Nghe tiếng kêu thét của chim mái, chim trống quay lại nhìn và thấy chim ưng đang tha vợ nó đi! Chim ưng giết chết chim mái ngay khi nó đang kêu cứu và xé xác ăn ngay. Bấy giờ lòng chim trống nóng như lửa đốt vì thương tiếc chim mái phải bị chia lìa đột ngột với nó như vậy. Rồi chim suy nghĩ: “Ái dục này xâu xé lòng ta đau đớn quá sức chịu đựng; ta không còn muốn đi tìm mồi cho đến khi nào ta thấy được cách nhiếp phục nỗi đau”. Thế là chim bỏ ngang việc kiếm ăn, bay đến tận nhà tu khổ hạnh kia, quyết tâm giữ hạnh nguyện nhiếp phục tham ái và nằm xuống một bên.

Con rắn cũng nghĩ rằng nó muốn kiếm ăn, nên bò ra khỏi lỗ và kiếm được chút gì đó trên lối nó bò đi gần một làng ở biên địa. Vừa lúc ấy, một con bò đực của người lý trưởng, một con vật tuyệt đẹp toàn màu trắng, sau khi gặm cỏ xong, quỳ mọp xuống gần một tổ kiến, lấy sừng hất tung đất lên để đùa chơi. Con Rắn kinh hoảng khi nghe tiếng móng bò sột soạt, phóng đến ẩn mình trong một tổ kiến. Con bò tình cờ giẫm lên Rắn, làm con Rắn tức giận cắn con bò và con bò chết tại chỗ. Khi dân làng khám phá ra con bò đã chết, họ đều vừa chạy vừa khóc than, đem cúng vòng hoa cho bò rất trọng thể rồi mới chôn nó xuống mồ và trở về nhà. Khi dân chúng đã đi hết, con Rắn bò ra và suy nghĩ: “Vì giận dữ, ta đã đoạt mạng sống của con vật này và đã gây bao đau buồn cho nhiều người. Ta chẳng còn muốn đi kiếm mồi bao giờ nữa, cho đến khi ta học được cách nhiếp phục sân hận”. Vì thế nó quay đi về thảo am sĩ kia, và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục sân hận, nó nằm xuống một bên.

Con Chó rừng cũng đi kiếm mồi và thấy một con voi đã chết. Nó vui mừng quá:

– Thức ăn nhiều lắm đây rồi!

Nó kêu lên và đi cắn một miếng vào thân voi, chẳng khác nào cắn vào một thân cây. Nó thấy chẳng thích thú gì cả nên cắn vào chiếc vòi cứ như thể là cắn vào hòn đá.

Nó thử cắn cái bụng – cũng như là cái thúng vậy, nên nó nhào vào đuôi voi – giống như cái bát sắt. Rồi nó chồm lên đít voi và ô kìa! Chiếc mông mềm như chiếc bánh sữa! Nó thích thú quá nên cứ ăn sâu vào trong. Rồi ở đó ăn mãi khi đói, còn khi khát thì uống máu voi. Khi nằm xuống nó trải phần trong ruột và ngực voi ra như cái giường để ngã lưng, nó suy nghĩ: “Ở đấy ta đã tìm được thức ăn uống và giường nằm rồi, vậy còn đi đâu làm gì nữa”.

Thế là nó ở lỳ đó, lòng rất thỏa mãn, trong cái bụng voi và chẳng hề chui ra ngoài lần nào cả. Dần dần xác voi khô cứng dưới sức nắng gió, cái chỗ hở phía sau mông voi khép kín lại. Con chó rừng quằn quại bên trong mất dần máu thịt, thân thể võ vàng, song không tìm được cách thoát ra ngoài.

Rồi một ngày kia, có cơn bão rớt thình lình, cái lỗ hở ấy thấm nước và mềm ra bắt đầu hé miệng. Khi thấy khe hở, Chó rừng kêu lên:

– Lâu nay ta đã bị hành hạ quá nhiều, giờ đây ta phải thoát ra bằng lỗ này.

Rối nó đi ra lỗ đó bằng cái đầu trước tiên. Bấy giờ cái lỗ còn hẹp mà nó ra mau quá nên thân thể bầm dập và lông lá rụng xuống đất. Khi ra ngoài được rồi, nó trần trụi như khúc thân dừa, không còn một sợi lông nào nữa! Nó suy nghĩ: “À, vì tham ăn mà ta ta chịu nông nỗi cực khổ này. Ta chẳng bao giờ muốn đi ra kiếm mồi nữa cho đến khi ta học được cách chế ngự dục tham trong ta”.

Sau đo, nó đi đến ẩn am kia, quyết giữ hạnh nguyện chế ngự dục tham và nằm xuống một bên.

Phần con Gấu ra khỏi rừng và vì lòng tham ăn thúc đẩy nó đi về phía làng biên địa của quốc độ Malla.

– Con Gấu đây này!

Toàn dân làng la to lên, họ bước ra trang bị đầy cung , gậy, giáo và nhiều thứ khác nữa, vây quanh bụi cây mà Gấu đang nằm. Nó thấy mình bị cả đám người vây quanh thì vụt chạy trốn đi. Vừa chạy vừa bị đám người ấy đánh cho một trận nhừ tử bằng cung gậy, về đến hang, nó bị dập đầu và chảy máu. Nó nghĩ thầm: ‘ À, chính vì lòng tham ăn thái quá đã gây cho ta mọi tai họa này. Thôi ta chẳng bao giờ muốn đi kiếm mồi cho đến khi học được cách nhiếp phục lòng tham ấy”. Vì thế nó đi đến thảo am, quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục tính tham lam, và nằm xuống một bên.

Còn vị tu khổ hạnh này không thể phát khởi Thiền định được vì ngài vốn vẫn tràn đầy kiêu mạn về dòng dõi quý tộc của ngài. Một vị Ðộc Giác Phật, nhận thấy ngài đang bị ngã mạn chi phối, tuy vậy, vị này biết rõ ngài không phải là người tầm thường. Vị ấy suy nghĩ: “Người này sẽ thành bậc Chánh Giác, và ngay trong hiện kiếp này người ấy sẽ đạt Tối thắng trí. Ta muốn giúp người ấy nhiếp phục ngã mạn và khiến người ấy tụ tập các Thiền chứng”.

Vì vậy trong khi ngài đang ngồi trong thảo am, vị Ðộc Giác Phật kia từ vùng thượng Tuyết Sơn đi xuống và an tọa trên một phiến đá của nhà tu khổ hạnh. Vị này bước ra thấy vị Phật ngồi trên sàn tọa của mình thì do lòng đầy kiêu mạn, ngài không tự chủ được nữa ngài bước lên búng ngón tay vào mặt vị kia và kêu to:

– Ðồ vô tích sự xấu xa kia, thật đáng nguyền rủa, quân giả dối trọc đầu, tại sao ngươi dám ngồi trên tọa sàng của ta?

Vị kia đáp:

– Bạch Thánh giả, tại sao ngài đầy lòng kiêu mạn thế kia? Ta đã đạt trí tuệ của một Ðộc Giác Phật, nên ta bảo cho ngài biết rằng ngay trong chính hiện kiếp này, ngài sẽ được hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã đủ cơ duyên thành Phật! Khi ngài đã thành tựu Thập hạnh Ba-la-mật và sau một thời gian dài bằng thời kỳ đó trôi qua, ngài sẽ thành bậc Chánh giác, danh hiệu là Siddhatha.

Sau đó vị ấy mới cho ngài biết về danh tánh, dòng họ, gia tộc, các đệ tử, vân vân…và thêm:

– Vậy thì bây giờ tại sao ngài quá kiêu mạn và sân hận như vậy? Việc ấy không xứng đáng với ngài.

Ðó là lời khuyên của vị Ðộc Giác Phật. Nghe những lời này, nhà khổ hạnh chẳng nói gì nữa, cũng chẳng đảnh lễ vị kia, chẳng hỏi xem nơi đâu, bao giờ, và bằng cách nào mình sẽ thành Phật. Sau đó vị khách lại bảo:

– Ngài hãy học cách đánh giá dòng dõi của ngài và thần lực của ta qua việc này, nếu làm được thì hãy bay lên không như ta đây.

Nói vậy xong, vị này bay lên không hất tung bụi bám trên đôi chân mình vào cuốn tóc trên đầu nhà khổ hạnh, rồi lại trở về vùng thượng Tuyết Sơn.

Khi vị ấy đi rồi, lòng nhà khổ hạnh tràn ngập đau buồn. Ngài bảo:

– Ðó là một bậc Thánh, với tấm thân nặng như thế kia mà có thể bay qua không gian như một hạt bông bị gió cuốn! Một vị Ðộc giác Phật như vậy, mà ta chẳng hề hôn chân Ngài, vì ta đây kiêu mạn về dòng dõi của ta, nên cũng không hỏi Ngài xem bao giờ ta sẽ thành Phật. Cái dòng dõi này có làm gì được cho ta đã chứ? Trong thế giới này, cuộc sống thuần thiện chính là một cách thể hiện uy lực, còn lòng kiêu mạn của ta chỉ đưa ta đến địa ngục thôi. Vậy ta sẽ chẳng bao giờ đi kiếm trái rừng nữa, cho đến khi nào ta học được cách nhiếp phục lòng kiêu mạn của ta”.

Sau đó ngài vào thảo am và quyết giữ hạnh nguyện nhiếp phục lòng kiêu mạn. Khi tĩnh tọa trên tấm đệm rơm. bậc trí giả quý tộc kia nhiếp phục được lòng kiêu mạn rồi làm phát khởi tâm Thiềnđịnh, tụ tập các Thắng trí và các Thiền chứng xong, liền bước ra ngồi trên phiến đá cuối mái hiên.

Lúc bấy giờ, chim Bồ câu và các con vật kia đứng lên đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên, bậc Ðạo Sư bảo Bồ câu:

– Các ngày kia chim chẳng hề đến đây vào giờ này, mà chim đi kiếm mồi. Vậy hôm nay chim giữ Trai giới đó chăng?

– Thưa Tôn giả, chính vậy.

Ngài hỏi:

– Tại sao thế?

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi,
    Nay Bồ câu chẳng muốn tìm mồi,
    Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
    Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài?

Bồ câu đáp lời qua hai vần kệ:

  1. Xin đầy tham đắm, cặp uyên ương
    Ðùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
    Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
    Chia lìa duyên kiếp đã tan hoang!
  2. Con biết niềm mất mát phủ phàng,
    Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
    Con nhìn mọi vật, lòng đau đớn;
    Vì thế con tìm đến náu nương
    Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
    Chẳng bao giờ trở lại lòng con.

Khi Bồ câu đã tán thán hành động của mình liên quan đến hạnh nguyện ấy, bậc Ðạo Sư lại hỏi câu đó với con Rắn và lần lượt các con vật kia. Mỗi con trong bọn chúng đều nêu lên sự việc như đã xảy ra:

Bồ-tát:

  1. Vật ở cây, bò sát cuộn mình,
    Ðầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
    Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
    Sao đói khát cam chịu cố tình?

Con Rắn:

  1. Con bò thôn trưởng thật oai hùng,
    Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
    Bò gầm lên, con hờn cắn nó,
    Ðau đớn, bò chết ngã lăn đùng!
  2. Dân làng mọi kẻ đổ ra đường,
    Than khóc vì trông thấy tận tường,
    Vì vậy con nương nhờ giới hạnh,
    Thề sân hận chẳng trở về con.

Bồ-tát:

  1. Xác chết, thức ăn quý sẵn đầy,
    Nằm trong nghĩa địa rã tan thây,
    Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
    Sao lại thề tuân giới hạnh này?

Chó rừng:

  1. Tìm được voi và thích thịt ngon,
    Con vào bụng nó ở lỳ luôn
    Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
    Làm héo khô khe hở chó chun!
  2. Tôn giả, con vàng võ, ốm gầy,
    Vì không lối thoát, phải nằm đây,
    Rồi cơn bão nọ bùng vang dội
    Làm ướt, mềm đi ngã hậu này.
  3. Ðể thoát ra, con chẳng chậm đâu
    Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
    Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
    Con nguyện tham tâm tránh chạy mau.

Bồ tát:

  1. Ngài có thói xưa vẫn kiếm mồi
    Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
    Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
    Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi?

Con Gấu:

  1. Bỏ nhà vì quá đói trong lòng,
    Con đến Mal-la, chạy vội vàng
    Dân chúng trong làng đều đổ đến,
    Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn.
  2. Mình con vấy máu, vỡ tan đầu,
    Con chạy về nơi trú ẩn mau,
    Vì vậy con nguyền theo giới hạnh,
    Dục tham chẳng kéo đến ngày sau.

Như vậy cả bốn con vật đều tán thán hành động của chúng trong việc quyết tâm giữ hạnh Trai giới, xong vừa đứng lên đảnh lễ bậc Ðạo Sư, chúng vừa hỏi ngài câu này:

– Thưa Tôn giả, các ngày trước ngài ra đi kiếm trái rừng vào giờ này. Tại sao hôm nay ngài khôngđi, mà lại hành trì Trai giới?

Chúng liền ngâm vần kệ này:

  1. Ðiều ấy, ngài mong muốn giải bày,
    Mọi điều con biết, đã thưa thầy,
    Song nay đến lượt mình, xin hỏi:
    Tôn giả sao theo hạnh nguyện này?

Bồ tát:

  1. Một vì Ðộc Giác Phật qua đây
    Chốc lát trong am, đã giải bày
    Mọi việc vãng lai, danh tiếng, hiệu,
    Gia đình và đạo lộ sau này.
  2. Ta không quỳ, bởi quá kiêu căng
    Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
    Vì thế, ta nương vào giới hạnh,
    Ðể kiêu căng ấy chẳng đeo gần.

Bằng cách ấy, bậc Ðạo Sư giải thích việc hành trì hạnh nguyện của mình. Sau đó ngài thuyết giáo cho chúng, bảo chúng ra đi và ngài bước vào thảo am. Các con vật kia trở về chốn ở của mình. Bậc Ðạo Sư không hề gián đoạn tâm Thiền định nên được sinh vào cõi Phạm thiên. Còn các con vật ấy tuân hành lời thuyết giáo của ngài nên đã lên cộng trú đông đảo với Thiên chúng.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy, này các cư sĩ, giữ hạnh nguyện Trai giới là một tập tục của các bậc trí ngày xưa, và nay các ông phải biết hành trì.

Rồi ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Anuruddha (A-na-luật) là chim Bồ câu, Kassapa (Ca-diếp) là con Gấu, Mục-kiền-liên là Chó rừng, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là con Rắn, và Ta chính là nhà tu khổ hạnh kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora)

Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.

Bậc Ðạo Sư bảo vị Tỷ-kheo này:

– Có đúng như Ta nghe nói là ông đã thối thất chăng?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

Ngài liền nói:

– Này Tỷ-kheo, chẳng lẽ lòng tham muốn dục lạc này lại không đánh bại một người như ông sao? Trận cuồng phong hoành hành khắp núi Sineru (Tu-di) cũng chẳng nao núng trước một ngọn lá khô đâu. Ngày xưa tham dục này đã đánh bại các bậc thanh tịnh, là những vị đã lánh xa bảy ngàn năm khỏi mọi tham dục khởi lên trong tâm mình.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh vào bụng một con Công mái ở một vùng biên địa. Khi thai kỳ đã mãn, Công mẹ sinh trứng ở một nơi nó kiếm mồi và bỏ đi xa. Lúc bấy giờ trứng chim công khỏe mạnh chẳng bị tai nạn gì nếu không có những mối hiểm nguy từ loài rắn hay các loài bọ tai hại tương tự như thế.

Vì vậy cái trứng Công này có màu vàng óng như chồi cây Kanikara; khi nó đã đủ thuần thục thì tự nó nứt ra, và một con Công xuất hiện có màu vàng óng ánh, với con mắt như trái Gunja, chiếc mỏ màu san hô, và ba sọc đỏ chạy quanh cổ xuống đến giữa lưng. Khi chim lớn lên, thân mình to bằng chiếc xe đẩy của người bán hàng, trông thật đẹp mắt, nên cả đàn Công màu đen tụ tập lại chung quanh bầu chim Công này làm chim đầu đàn.

Một hôm chim Công đang uống nước trong hồ, nhìn thấy vẻ đẹp của mình liền suy nghĩ: “Ta đẹp nhất trong đám công. Nếu ta ở chung với chúng giữa mọi nẻo đường đời, ta sẽ gặp nguy hiểm. Ta muốn đi xa đến vùng Tuyết Sơn, và ở đó một mình tại một nơi vừa ý”. Thế là về đêm, khi cả đàn công lui về nơi trú ẩn riêng biệt kín đáo, Công ra đi mà không ai biết, về phía khu vực Tuyết Sơn, sau khi băng qua ba rặng núi, Công vào ẩn thân tại rặng thứ tư. Ðây là khu rừng mà Công khám phá ra một hồ thiên nhiên rộng bát ngát phủ đầy hoa sen, không xa một cây đa cạnh một ngọn đồi, Công chúa đậu trên cành cây này. Trong lòng ngọn đồi này có một hang động kỳ thú, và vì muốn ở đó nên Công chúa đậu trên một vùng đất phẳng ngay trước miệng hang.

Lúc bấy giờ không ai có thể trèo đến chốn này được dù từ dưới lên hay trên xuống, cho nên nó tránh khỏi mọi nỗi lo sợ về chim muông, mèo rừng, rắn rít hay loài người. “Ðây là một nơi thích thú dành cho ta!” Công suy nghĩ. Hôm ấy Công ở đó và sáng hôm sau bước ra khỏi hang, Công đậu trên đỉnh đồi hướng về phía đông. Khi Công thấy mặt trời lên, Công tự vệ mình trong ngày sắp đến bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã hiện ra, đấng Toàn tri.

Sau đó Công đi kiếm mồi. Buổi chiều, Công lại trở về đậu trên đỉnh đồi hướng về phía Tây., và khi nhìn thấy mặt trời biến mất dạng, Công tự vệ mình trước màn đêm sắp buông xuống bằng cách đọc câu ca:

– Ngài đã lặn kia, đấng Toàn tri.

Bằng cách ấy cuộc đời Công cứ trôi qua (Xem lại Tiền thân số 159 tập II: Mora Jàtaka).

Song một hôm có người thợ săn ở trong rừng bất chợt thấy Công đang đậu trên đỉnh đồi ấy và trở về nhà. Khi lão sắp chết, lão bảo với con trai về chuyện ấy:

– Này con, trong rặng núi thứ tư của dãy kia, trong rừng có một con Công màu vàng ánh. Nếu nhà vua muốn có một con Công như vậy, thì con biết nơi kiếm nó rồi đấy.

Một ngày kia chánh hậu của vua Ba-la-nại tên là Khema, (Thái Hòa) nằm mộng về tảng sáng, và giấc mộng diễn ra như thế này: “Một con Công màu vàng óng đang thuyết Pháp và bà chăm chú nghe rất hoan hỷ. Khi Công đã thuyết Pháp xong liền bay lên ra đi, bà vội kêu to: “Kìa chúa Côngđang chạy thoát, hãy bắt Công lại ngay!” Và trong khi bà thốt lên các lời này, bà liền thức dậy. Khi tỉnh lại, bà biết đó chỉ là giấc mộng, và suy nghĩ: “Nếu ta trình đức vua đó là cơn mộng, thì ngài sẽ chẳng quan tâm đến, song nếu ta bảo đó là niềm mong ước của một thai phụ thì ngài sẽ lưu ý ngay”.

Thế là bà liền giả bộ làm như thể bà đang khao khát một thứ gì đó theo cách thông thường của một thai phụ, và nằm xuống. Nhà vua đến viếng bà và hỏi bà đau bệnh gì. Bà đáp:

– Thần thiếp đang có một niềm khát vọng.

– Ái khanh ao ước điều gì thế?

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp ước ao nghe lời thuyết Pháp của một con chim Công màu vàng ánh.

– Song, này ái khanh, ta tìm đâu ra được một con chim như vậy?

– Như vậy thì, tâu chúa thượng, thần thiếp sẽ chết mất.

– Này ái khanh, đừng lo buồn chuyện ấy, nếu nơi nào có con chim như vậy thì nó sẽ được bắt về cho ái khanh.

Nhà vua an ủi bà như vậy rồi đi ra ngoài ngồi xuống hỏi các triều thần:

– Này các khanh, chánh hậu ao ước nghe bài thuyết giảng của một con chim Công vàng ánh. Vậy có loại Công vàng ánh ấy chăng?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn biết chuyện đó.

Nhà vua hỏi các Bà-la-môn. Họ đáp như vậy:

– Tâu Ðại vương, theo những vần kệ nói về điềm lành của chúng thần, thì trong loài thủy tộc có cá rùa, cua, trong các loài thú rừng thì có hươu, nai, thiên nga, công, trĩ…các loài đó cùng loài người,đều có thể sinh ra với sắc vàng ánh.

Sau đó nhà vua triệu tập tất cả thợ săn trong quốc độ lại và hỏi họ có bao giờ từng thấy con Công váng ánh chưa. Bọn họ đều trả lời không, trừ người thanh niên đã được cha mách bảo cề chuyện ông ta đã thấy. Gã đáp:

– Chính hạ thần chưa thấy, song thân phụ hạ thần đã bảo cho thần biết một nơi có thể tìm ra một chúa Công vàng ánh.

Nhà vua liền bảo:

– Này hiền hữu, đây là chuyện sống chết của trẫm và chánh hậu; vậy hãy cố bắt lấy Công ấy đem về đây.

Nhà vua cho gã thật nhiều tiền bạc và bảo gã ra đi.

Gã ấy đem tiền về cho vợ con rồi đi đến nơi kia gã thấy bậc Ðạo Sư, gã đặt bẫy bắt ngài. Mỗi ngày gã tự nhủ thầm là chắc chắn sẽ bắt được chim Công; tuy nhiên gã chết đi mà chẳng bắt được Công ấy. Rồi chánh hậu cũng từ trần mà không thỏa tâm nguyện. Nhà vua nổi trận lôi đình và ngài phán:

– Ái hậu của trẫm đã qua đời vì chim Công này.

Rồi nhà vua truyền lệnh chép câu chuyện ấy vào một phiến bằng vàng kể rằng trong rặng thứ tư của khu vực Tuyết Sơn có con chim Công vàng sống ra sao, hễ ai ăn được thịt nó sẽ trường xuân bất tử. Nhà vua đặt phiến vàng ấy trong kho báu và sau đó qua đời.

Kế vị vua ấy, một vua khác lên ngôi, đọc lời lẽ câu chuyện ghi trên phiến vàng nên ước mongđược trường xuân bất tử, liền cho người thợ săn đi bắt chim Công; song nhà vua ấy cũng chết trước khi mãn nguyện giống như vua kia.

Cùng cách ấy, sáu vị vua kế tiếp qua đời và sáu người thiện xạ chết đi mà không được kết quả gì ở khu vực Tuyết Sơn cả. Song người thợ săn thứ bảy, được nhà vua thứ bảy phái đi, không thể nào bắt được chim suốt bảy năm liền mặc dù mỗi ngày gã đều mong đợi chuyện ấy, nên bắt đầu suy nghĩ không biết tại sao lại không thể bắt được đôi chân chim sa vào bẫy.

Vì thế gã ngắm nghía chim, thấy chim cầu nguyện để được phù hộ mỗi buổi sáng tối đều đặn, và gã lý luận về trường hợp này như sau: “Không có con chim Công nào khác ở vùng này, rõ ràngđây đúng là chim Công sống đời thanh tịnh. Chính uy lực đời sống thanh tịnh của chim ấy cùng uy lực của thần chú hộ mệnh đã khiến cho đôi chân chim không bao giờ sa vào bẫy của ta được”. Khi kết luận như vậy rồi, gã đi đến vùng biên địa bắt một con công mái, mà gã luyện cho nó hót tiếng gáy mỗi khi gã búng tay, và xòe cánh múa mỗi khi gã vỗ tay.

Gã đem chim mái trở về, rồi đặt bẫy trước khi Bồ-tát đọc thần chú hộ mệnh, gã búng tay và làm cho công mái gáy. Công trống nghe tiếng gáy ấy lập tức ác dục đã ngủ yên suốt bảy ngàn năm, bỗng vùng dậy như con rắn hổ mang giương mào lên khi bị đánh. Bị ác dục làm cho mê muội, chim Công không thể nào đọc thần chú hộ mệnh nữa, mà vội vàng bay về phía chim mái, từ trên không chim hạ cánh xuống đặt đặt đôi chân ngay vào bẫy: chiếc bẫy kia suốt bảy ngàn năm chẳng đủ uy lực bắt chim, nay đã kẹp chặt lấy chân chim thần.

Khi người thợ săn thấy chim nằm tòn teng ở cuối sợi dây, gã nghĩ thầm: “Sáu người thợ săn trước đã không thể bắt được chim Công chúa này và trong bảy năm liền ta cũng không bắt được nó. Nhưng hôm nay, ngay khi chim đâm si tình chim mái, thì nó không đọc thần chú được, nên sa vào bẫy và bị bắt, nó đang nằm tòn teng với cái đầu lộn ngược kia kìa. Ôi sinh vật mà ta đã làm hại kia thật là đức hạnh! Nếu ta giao một linh vật như vậy cho một người khác chỉ vì bị mua chuộc tiền bạc thì thật là không xứng đáng: Danh vọng của vua chúa có nghĩa gì đối với ta đã chứ? Ta muốn thả chim ấy bay đi”.

Nhưng rồi gã lại nghĩ: “Ðó là một thần điểu kỳ dị phi thường, nếu ta đến gần nó, nó sẽ tưởng ta đến để giết nó, nó sẽ lo sợ cho tính mạng của mình mà vùng vẫy, thì có thể gãy chân hay cánh. vậy ta không muốn đến gần nó, mà chỉ đứng ẩn mình và cắt đứt cái thòng lọng bằng một mũi tên bắn ra. Sau đó chim muốn đi đâu tùy ý”. Thế là gã đứng ẩn mình, giương cung lên, lắp một mũi tên vào dây và kéo ra sau.

Bấy giờ chim Công trống suy nghĩ: “Người thợ săn này đã làm ta mê mệt vì ái dục, và khi thấy ta bị sa bẫy rồi lại không còn quan tâm đến ta nữa. Gã ấy ở đâu kìa?” Chim Công cứ nhìn hướng này hướng nọ, và thấy người kia đứng với cây cung sẵn sàng bắn. “Chắc chắn gã muốn giết ta rồi rađi”. Chúa Công suy nghĩ và sợ chết nên ngâm vần kệ đầu xin tha mạng:

  1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng,
    Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
    Van bạn đem ta về chúa thượng,
    Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang.

Nghe vậy, người thợ săn suy nghĩ: “Ðại khổng tước này tưởng ta sắp bắn nó bằng mũi tên đây. Ta phải trấn an nó mới được”. Vì mục đích ấy, gã ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Trên cung, ta chẳng ráp tên này
    Ðể bắn chim, Công chúa, ở đây
    Ta muốn cắt dây thòng lọng ấy
    Ðể chim tùy ý, hãy xa bay!

Nghe lời này, chim Công chúa đáp qua hai vần kệ:

  1. Bảy năm theo đuổi, thợ săn này,
    Ðói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
    Bạn muốn gì, nay ta mắc bẫy,
    Vì sao muốn thả để ta bay?
  2. Hiển nhiên mọi vật được an lành,
    Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
    Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
    Muốn ta được thả để bay nhanh!

Thọ săn tiếp theo:

  1. Khi người từ bỏ sát quần sinh,
    Nhờ nó, muôn loài thoát hãi kinh,
    Phước đức nào đời sau sẽ đến,
    Việc này, Khổng tước đáp cho mình.

Công chúa:

  1. Nhờ nó muôn loài thoát hãi kinh
    Khi người thề chẳng sát quần sinh,
    Ðời này nó được nhiều ca ngợi,
    Thiên giới, đời sau hưởng phước lành.

Thợ săn:

  1. Nhiều người nói chẳng có Thiên thần,
    Cực lạc, đời này có thể mang;
    Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
    Vì nhiều bậc Thánh đã cho rằng:
    Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
    Vì thế tôi thường đánh bẫy săn
    Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
    Lời kia xứng đáng để tin chăng?

Lúc ấy bậc Ðạo Sư quyết định giảng cho người này biết quả thực có đời sau, nên trong lúc ngài đang nằm lủng lẳng ở cuối sợi dây, đầu lộn ngược xuống đất, ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðôi vầng nhật nguyệt rõ ràng ràng
    Ði khắp trời cao tỏa sáng quang;
    Người gọi là gì nơi hạ giới,
    Thuộc về cõi khác hoặc trần gian?

Người thợ săn ngâm vần kệ đáp lại:

  1. Rõ ràng nhật nguyệt thấy đôi vầng
    Ði khắp trời cao, tỏa ánh quang;
    Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
    Mà về cõi khác: miệng người trần.

Lúc ấy bậc Ðạo Sư bảo gã:

  1. Vậy chúng đều sai lạc cả bầy,
    Những người gian dối nói như vầy!
    Chẳng vì duyên cớ gì đi nữa
    Lại bảo chỉ riêng thế giới này
    Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
    Còn xem bố thí việc ngu thay!

Trong khi bậc Ðạo Sư nói, người thợ săn suy nghĩ rồi ngâm hai vần kệ:

  1. Ðiều này ngài nói quả là chân,
    Sao có người kia lại bảo rằng:
    “Bố thí không mang về kết quả?
    Rằng đây, ngay ở cõi phàm trần.
    Người ta gặt quả lành hay dữ,
    Bố thí là công việc độn đần?”
  2. Cách nào nên sống, phải làm gì?
    Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
    Công chúa, xin ngài cho lão biết,
    Pháp môn khổ hạnh phải hành trì,
    Cầu mong lão được chim Công chúa
    Cứu khỏi chim vào địa ngục kia!

Khi nghe vậy, bậc Ðạo Sư suy nghĩ: “Nếu ta giải đáp vấn đề này cho gã, thì cả thế giới này đối với gã thành ra trống rỗng và hư vọng. Lần này ta sẽ nói cho gã biết bản chất của các Thánh giả Bà-la-môn chân chính”. Với ý định trên, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Người truyền khổ hạnh ở trần gian,
    Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
    Sáng sớm đi ra đường khất thực,
    Không đi chiều tối: chính hiền nhân.
  2. Ðúng thời thăm các thiện nhân vầy,
    Bạn sẽ vui lòng, dẫu hỏi ai
    Giải vấn đề, vì chư vị biết
    Cõi trên kia với cõi đời náy.

Khi nói như vậy ngài muốn cho kẻ kia phải biết kinh sợ cảnh giới địa ngục. Còn người ấy đã đạt đến tri kiến viên mãn của một vị Ðộc Giác Phật, vì người ấy đã sống đến độ tri kiến sắp thành thục, như búp hoa sen tròn đầy sung mãn đợi chờ các tia nắng chiếu vào. Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Ðộc Giác phật. Tri kiến trên của vị này cùng với việc giải thoát bậc Ðạo Sư khỏi cái bẫy kia xảy ra cùng một lúc. Vị Ðộc giác Phật, sau khi đã đoạn diệt mọi dục tham của mình, đang đứng trên bờ sinh tử cuối cùng, liền thốt lên cảm thán nguyện trong vần kệ này:

  1. Như rắn lột quăng lớp vỏ tàn,
    Lá khô cây trút lúc xanh dần,
    Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
    Mãi mãi xa lìa nghiệp thợ săn.

Sau khi thốt lên ý nguyện cao cả của mình, vị ấy suy nghĩ: “Ta vừa được giải thoát khỏi các dây trói buộc của ác dục; song ở nhà ta còn rất nhiều chim đang bị giam cầm, vậy làm thế nào ta giải thoát cho chúng đây?” Vì thế vị ấy hỏi bậc Ðạo Sư:

– Tâu Khổng tước Ðại vương, ta còn giam cầm nhiều chim tại nhà, làm sao ta giải thoát cho chúng được?

Lúc bấy giờ Bồ-tát là bậc toàn tri, có tri kiến tinh thông mọi đường lối và phương tiện hơn cả một vị Ðộc Giác Phật, nên ngài bảo:

– Khi ngài đã phá vỡ sức chi phối của tham dục và thâm nhập tri kiến của một vị Ðộc Giác Phật, nhờ lẽ đó ngài hãy tuyên thệ điều Chân lý, thì trong toàn cõi Diêm phù-đề sẽ không còn sinh vật nào bị giam cầm nữa cả.

Sau đó, vị kia vừa đi vào bằng cánh cửa mà Bồ-tát mở ra như vậy, vừa ngâm vần kệ này tuyên thệ một hành động Chân lý:

  1. Tất cả chim nào ta đã giam
    Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
    Nay ta trả cuộc đời cho chúng
    Về tổ, bầy chim được thoát nạn.

Lúc ấy, nhờ hành động Thề nguyền Chân lý kia, dù đã muộn, tất cả bầy chim cũng được thoát cảnh giam cầm, ríu rít líu lo bay về tổ của mình. Cùng lúc ấy, khắp cõi Diêm-phù-đề tất cả mọi sinh vật đã bị bắt đều được thả tự do, không còn con vật nào sót lại trong cảnh giam cầm cả, dù chỉ là con mèo.

Vị Ðộc Giác Phật ấy giơ tay lên vừa xoa trán mình, lập tức các dấu vết của dòng họ cũ biến mất và dấu hiệu của bậc tu hành xuất hiện vào chỗ ấy. Lúc bấy giờ, vị này trông giống như một Trưởng Lão Tỳ kheo đã sáu mươi tuổi, đắp y đầy đủ, mang tám vật cần thiết (bình bát, ba y, đai lưng, dao cạo, cây kim và cái lọc nước), cung kính đảnh lễ chim Công chúa, và đi diễu quanh ngài, thân hướng về phía hữu, rồi bay vụt lên không gian đến tận một hang động trên đỉnh núi Nanda. Chúa chim Công cũng bay ra khỏi cái bẫy, kiếm mồi và trở về chốn ở của mình.

*

Vần kệ cuối cùng do bậc Ðạo Sư ngâm kể chuyện suốt trong bảy năm trời người thợ săn quanh quẩn với chiếc bẫy trong tay và sau đó được giải thoát khỏi khổ đau nhờ chim Công chúa như thế nào:

  1. Thợ săn xuyên suốt khắp rừng cây
    Tìm kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
    Ðã giải thoát đau cho Khổng tước
    Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đã đắc Thánh quả (A-la-hán).

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta là chim Công chúa kia.

-ooOoo-

  1. Chuyện lợn rừng của thợ mộc (Tiền thân Taccha-Sùkara)

Lang thang tìm kiếm khắp xa gần…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai Trưởng lão.

Người ta đồn rằng khi vua Mah Kosala (Ðai vương xứ Kiều-tát-la) gả con gái cho vua Bimbisàra (Tần-bà-sa), ngài đã chia phần nàng một ngôi làng ở Kàsi để nàng lấy tiền mua dầu thơm tắm gội. Sau khi vua Ajàtasattu (A-xà-thế) sát hại vua cha (Tần-bà-sa), thì vua Pasennadi (Ba-tư-nặc), con của vua Mahà-Kosala phá hủy ngôi làng ấy. Trong các trận chiến xảy ra giữa hai nước về chuyện này, ban đầu chiến thắng thuộc về Ajàtasattu (A-xà-thế). Còn vua Kosala thua trận liền hỏi các vị quân sư:

– Ta lập mưu gì để bắt A-xà-thế được chăng?

Các vị ấy đáp:

– Tâu Ðại vương, Tăng chúng có đại tài về thần chú. Hãy phái sứ giả đến hỏi ý kiến của Tăng chúng tại tinh xá.

Vua đồng ý việc này. Vì thế vua truyền quân hầu tới, bảo họ đi đến đó, ẩn mình ở nơi kín, để nghe lóm câu chuyện giữa Tăng chúng.

Bấy giờ tại Kỳ Viên có một số đại thần của nhiều vua chúa, đã từ giã thế tục xuất gia. Hai người trong đám ấy là hai Trưởng lão, sống trong môt thảo am ở bên ngoài tinh xá, một vị tên là Trưởng lão Dhanuggaha-tissa, vị kia là Trưởng lão Mantidatta. Hai vị đã ngủ suốt đêm, và thức dậy khi vầng đông vừa hé.

Trưởng lão Dhanuggaha-tissa bảo, trong khi nhóm lửa:

– Thưa Hiền giả Tỷ-kheo Datta.

– Thưa vâng, Hiền giả bảo gì?

– Hiền giả đang ngủ chăng?

– Thưa không, tôi không ngủ. Ta phải làm gì bây giờ?

– Này, vua Kosala thật là một kẻ ngu ngốc bẩm sinh, vua ấy chỉ biết một chuyện là ăn cả đống thức ăn tạp nhạp.

– Thưa Hiền giả muốn nói gì thế?

– Vua ấy đã để cho vua Ajàtasattu đánh bại, mà Ajàtasattu có hơn gì con giun trong bụng vua ấy đã chứ?

– Vậy thì vua ấy phải làm gì đâ?

-Này Trưởng lão Datta, Hiền giả phải biết có ba cách bày binh bố trận: bày binh hình Chiếc xe, bày binh hình Bánh xe, và bày binh hình Hoa sen. Chính là cách bày binh hình Chiếc xe ấy, vua kia phải sử dụng để bắt Ajàtasattu. Vua ấy phải bố trí các dũng sĩ hai bên cạnh mình trên đỉnh đồi, rồi dàn đạo binh chính yếu ra trước mặt trận: một khi vua kia lọt vào giữa rồi và vừa nhảy ra vừa hét lớn, thì họ bắt ngay vua kia như cá nằm trong giỏ. Ðó là cách bắt Ajàtasattu đấy.

Cả đám sứ giả này nghe hết mọi chuyện đó và trở về tâu trình với vua mình, vua lập tức đem một đạo quân lớn ra, bắt được Ajàtasattu làm tù binh và trói lại bằng các dây xích xiềng. Sau khi trừng phạt như vậy vài ngày, vua này thả vua kia ra, khuyên không nên làm chuyện như trước nữa, và để an ủi vua Ajàtasattu , vua lại đem chính con gái mình là công chúa Vajirà gả cho vua Ajàtasattu rồi tiễn đưa về nước rất trọng thể.

Giữa Tăng chúng có lời bàn tán chuyện này rất nhiều:

– Ajàtasattu đã bị vua Kosala bắt sống theo lời chỉ dẫn của Trưởng lão Dhanuggaha-tissa.

Tăng chúng cũng đàm luận việc này tại Chánh pháp đường và khi bậc Ðạo Sư đi vào, Ngài hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì. Tăng chúng trình với ngài. Sau đó ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu Dhanuggaha-tissa biểu lộ tài nghệ về chiến lược đâu.

Và ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một người thợ mộc sống trong ngôi làng gần cổng thành Ba-la-nại, đi vào rừngđốn củi. Ông tìm được một con Lợn rừng đực rớt xuống hố, liền đem về nhà nuôi nấng và đặt tên là Lợn rừng của Thợ mộc. Con Lợn rừng trở thành tên đầy tớ của ông. Nó nhổ bật cây cối lên bằng chiếc mõm và đem về nhà cho ông, nó buộc cái dây đo đạc quanh mũi nó và kéo lê đi, rồi tìm thấy cái rìu, cái đục, cái vồ ngậm trong miệng.

Khi Lợn rừng khôn lớn, nó thành một con vật lực lưỡng dị thường, người thợ mộc thương yêu nó như con ruột mình, và sợ có ai làm hại nó, nên thả nó vào rùng. Con Lợn rừng suy nghĩ: “Ta không thể sống một mình bơ vơ trong rừng này. Nếu ta kiếm bà con và ở với chúng chẳng hay lắm sao?” Vì thế nó tìm bầy lợn khắp rừng cây, cho đến khi gặp được cả đàn, nó rất vui mừng, liền ngâm ba vần kệ:

  1. Lang thang tìm kiếm khắp xa gần
    Ðồi núi chung quanh, các khóm rừng,
    Thơ thẩn ta đi tìm quyến thuộc,
    Kìa! Ta tìm thấy đám thân bằng!
  2. Ðây, củ quả rừng phong phú sao
    Với kho thực phẩm thật đồi dào!
    Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
    Sống ở đây đời đẹp biết bao!
  3. Ta sống đây toàn quyến thuộc thân,
    Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
    Cũng không lo lắng và kinh hãi,
    Dù chuyện gì do phía địch quân.

Bầy Lợn rừng kia nghe vần kệ này liền đáp lời qua vần kệ thứ tư:

  1. Cừu địch là đây! Ở chốn nào,
    Xin tìm đường lối ẩn thân vào,
    Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
    Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao!

Hỏi:

  1. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
    Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
    Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
    Dù là chưa giết trọn luôn bầy.

Ðáp:

  1. Ðó chính là vua của thú rừng!
    Với răng để cắn, sọc đen vằn,
    Ấy là mãnh thú oai hùng quá,
    Thường giết lợn uu tú nhất đàn!

Hỏi:

  1. Thân thể ta tàn hết lực chăng?
    Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
    Nếu ta chung sức thì nhờ vậy
    Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn!

Ðáp:

  1. Lời nói này nghe tuyệt diệu thay!
    Tượng công, ta thích nói như vầy,
    Ðừng cho chú lợn nào đi trốn,
    Hoặc bị giết sau trận đấu này.

Bấy giờ Lợn rừng của Thợ mộc đã làm cho cả đàn lợn đồng tâm nhất trí, liền nói:

– Khi nào Cọp sẽ đến?

– Hôm nay nó đã đến sớm và bắt mất một con lợn rồi, ngày mai nó lại sẽ đến sớm đấy.

Lợn rừng rất thiện chiến và biết lợi thế để tấn công, vì vậy có thể đạt được chiến thắng. Lợn rừng nhìn quanh tìm một nơi, bảo cả đám ăn uống khi đêm chưa đến, rồi tảng sáng hôm sau nó giải thích cho cả đàn nghe cách giàn binh gồm ba kiểu: đội hình theo Chiếc xe,v.v…

Sau đó, nó giàn binh hình Hoa sen theo cách trên. Ở giữa nó đặt bầy lợn con đang còn bú, chung quanh là mẹ chúng, kế đó là bầy lợn cái không sinh sản, kế nữa là một vòng gồm các lợn mới lớn mập mạp, tiếp đến là bầy Lợn có răng nanh mới nhú, tiếp nữa là bầy lợn có răng nanh đã lớn, cón đám lợn rừng đực già cả ở ngoài cùng. Rồi nó bố trí những tiểu đội chừng mười, hai mươi, ba mươi quân rải rác đây đó. Nó lại bảo chúng đào cho chính nó một cái hố và một hố cho con Cọp rơi vào có hình rổ sàng: giữa hai hố đó có để một dãi đất nhỏ cho nó đứng. Sau đó nó cùng đám lợn đực thiện chiến hùng dũng đi khắp nơi khích lệ cả đàn.

Trong khi nó bận rộn như thế thì mặt trời mọc. Con Cọp vừa ra khỏi vùng thảo am của một nhà khổ hạnh giả danh và xuất hiện trên đỉnh đồi. Bầy lợn rừng kêu to:

– Thưa Chúa công, kẻ thù của ta đã đến.

Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ, hễ nó làm gì, các bạn cứ làm lại hệt như thế.

Con Cọp rùng mình thật mạnh, làm như thể sắp đi, rồi tiểu tiện, bầy lợn cũng làm theo như thế. Con Cọp nhìn bầy lợn rừng và gầm một tiếng thật lớn, bọn chúng cũng làm y như vậy. Nhìn tháiđộ của chúng, con Cọp nghĩ thầm: “Chúng có vẻ thay đổi, hôm nay chúng đối diện ta như một đám kẻ thù trong hàng ngũ chỉnh tề, chắc có một tên thiện chiến nào đó đã tập hợp chúng lại đây; ta không nên đến gần chúng hôm nay”. Vì sợ chết, Cọp cụp đuôi chạy vội về nhà tu hành giả mạo kia và vị này, khi thấy con Cọp đi về tay không, liền ngâm vần kệ thứ chín:

  1. Cọp thề bỏ giết mọi loài chăng?
    Cọp đã cho muôn vật vạn toàn,
    Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
    Ðàn heo đã gặp, lại xin ăn?

Nghe thế, Cọp ngâm ba vần kệ đáp lời:

  1. Răng của ta không cắn được rồi,
    Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
    Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
    Vì thế ta phiêu bạt lẻ loi.
  2. Xưa, chúng ngược xuôi, bại tẩu nhanh,
    Tìm hang tháo chạy, phách hồn kinh,
    Nhưng nay chúng rống, vòng vây chặt,
    Vô địch, đấu tranh giáp mặt mình!
  3. Bây giờ chúng thỏa thuận đồng tâm,
    Chúng đã bầu lên một tướng quân,
    Chúng hại thân này khi hiệp lực,
    Nên ta thấy chúng, cũng không cần!

Nghe lời này, nhà tu khổ hạnh giả hiệu đáp lời qua vần kệ sau:

  1. Diều hâu đơn độc giết đàn chim,
    Chiến thắng La thần bởi Ðế thiên,
    Khi mãnh hổ nhìn bầy dã thú,
    Lựa con đẹp nhất, giết êm liền!

Sau đó Cọp ngâm kệ:

  1. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa sơn lâm,
    Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
    Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
    Họ hàng hiệp lực để tranh hùng!

Nghe vậy, vị tu hành giả hiệu lại ngâm hai vần kệ để thúc giục nó:

  1. Con chim bé bỏng phủ đầy lông,
    Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
    Tụ tập trên cao thành đám lớn,
    Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không.
  2. Một mình đáp xuống, chú diều hâu,
    Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
    Tàn sát chúng ngay như ý muốn,
    Ðó là cách Hổ phải theo mau!

Nói xong, ông còn khuyến khích Cọp thêm:

– Này Cọp chúa, ngài chưa biết oai lực của ngài đâu. Chỉ một tiếng gầm, một bước phóng mình thôi, là ta dám chắc không sống sót đến hai con lợn nữa đấy!

Con Cọp làm theo đúng như vậy.

*

Bạc đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Với con mắt ác độc thèm ăn,
    Cọp tưởng lời này quả thật chân,
    Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
    Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng!

Vậy là con Cọp quay trở lại và đứng một lát trên đồi. Bầy lợn rừng báo cho Lợn rừng của Thợ mộc biết rằng con cọp lại đến, Lợn rừng bảo:

– Ðừng sợ!

Lợn trấn an chúng và đến đứng bên bờ giữa hai cái hố. Cọp phóng nhanh về phía chú Lợn rừng. Song lợn rừng lăn quay vào hố đầu tiên. Cọp không kiềm hãm được sức phóng của nó, cũng ngã gọn vào trong cái hố có hình như cái sàn quạt lúa. Lập tức lợn rừng nhảy lên đâm sâu răng nanh vào sườn Cọp thấu tận tim nó ra, nhét nó vào hố bên kia, và kêu to:

– Ðó, cứ ăn thịt tên khốn kiếp đi!

Con lợn nào đến trước được ăn thịt cọp thỏa thê, những con đến sau cứ đi quanh mà hỏi:

– Này, thịt Cọp mùi vị ra sao đó?

Lợn rừng của Thợ mộc nhảy ra khỏi hố nhìn quanh cả bọn và hỏi:

– Nào, các bạn chẳng thích thịt đó sao?

Song bọn kia đáp:

– Tâu Chúa công, Chúa công đã trừ được Cọp, đó mới là một tên, tuy thế còn một tên nữa nguy hiểm gấp mười lần Cọp ấy!

– Xin nói rõ đó là ai thế?

– Một vị tu khổ hạnh giả hiệu thường ăn thịt mà Cọp kia vẫn đem đến.

– Vậy thì ta sẽ đi bắt nó mau lên!

Thế là cả bọn cùng ra cùng đi.

Bấy giờ vị khổ hạnh giả hiệu kia đang trông ngóng ra con đường, chờ mong Cọp đến từng phút. Song vị ấy có thấy gì ngoài bầy lợn rừng đâu!- “Chúng đã giết Cọp rồi, chắc thế, và nay chúng lại đến giết ta!” Vị ấy vội chạy trốn và leo lên một cây sung dại. Bầy lợn rừng báo cho chủ tướng:

– Nó đã leo lên cây rồi!

– Ðược lắm, chúng ta sẽ bắt nó tức thì!

Lợn rừng bảo bầy lợn con ủi đất ra khỏi rễ cây, và bầy lợn cái hút thật nhiều nước trong mõm đem về, cho đến khi đứng trơ trụi tận gốc rễ. Sau đó, lợn rừng bảo bọn kia lui ra rồi chú quỳ xuống lấy răng nanh đâm vào rễ cây, chú cắt ngang cả rễ như cái rìu vậy, cây liền ngã xuống song người kia chẳng bao giờ đặt chân xuống đất được, vì đã bị chúng xé tan từng mảnh mà ăn thịt trên đường về.

Vừa chứng kiến việc kỳ diệu hy hữu này, vị Thần cây vừa ngâm kệ:

  1. Bạn bè hiệp lực tựa cây rừng
    Ðó thật là quang cảnh đáng mừng,
    Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
    Giết ngay Cọp chúa trọn thành công.

*

Và bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa nói về cách cả hai con người và vật này bị tiêu diệt như thế nào:

  1. Bầy lợn thế là đã diệt tan
    Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
    Rồi gầm thét, chúng la vang dội
    Trong nỗi lòng vui sướng ngập tràn.

Lần nữa, lợn rừng lại hỏi:

– Thế các bạn còn kẻ thù nào nữa chăng?

– Tâu Chúa công, không.

Sau đó chúng đề nghị làm lễ phong vương quán đãnh cho lợn rừng. Chúng liền đi tìm nước. Khi thấy vỏ ốc mà vị ẩn sĩ giả hiệu ấy dùng để uống, đó là chiếc vỏ sò rất quý với hướng xoắn ốc về phía hữu, chúng liền đổ đầy nước vào vỏ sò, và làm lễ phong vương cho lợn rừng của người Thợ mộc ngay dưới gốc cây sung ấy và tại đó, nước dùng làm lễ quán đảnh được rảy lên đầu lợn rừng. Một ả Lợn cái son trẻ được chúng bầu làm vương phi. Từ đó xuất hiện một phong tục còn thịnh hành mãi cho đến nay, là khi làm lễ tấn phong cho một vị vua, quân thần đặt vua lên ngự trên một chiếc ngai bằng gỗ sung và rảy nước lên một cái vỏ ốc có đường xoắn hướng về phía hữu, đó là một vật rất hiếm và đắt giá, chỉ dùng cho lễ phong vương.

*

Bậc Ðạo Sư cũng giải thích việc này bằng cách ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Bầy heo ở dưới gốc sung rừng
    Ðổ nước thánh đầy để tấn phong
    Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
    Ðồng hô: “Chúa tể của thần dân!”

*

Khi chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không đâu, này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Trưởng lão Dhanuggaha-tissa chứng tỏ mình có tài tinh thông chiến lược, mà trước kia cũng vậy.

Cùng với những lời này, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là vị khổ hạnh giả danh, Dhanuggatta-tissa là Lợn rừng của thợ mộc và Ta chính là thần cây.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị đại thương nhân (Tiền thân Mahà-Vànija)

Từ nhiều quốc độ, các thuơng nhân…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám thương nhân sống ở Xá-vệ.

Tương truyền rằng những người này lúc đi buôn bán xa, đã đem lễ vật cúng dường bậc Ðạo Sư và an trú vào Tam quy cùng Ngũ giới. Họ nói:

– Bạch Thế Tôn, nếu chúng con trở về bình an, chúng con sẽ hôn chân đảnh lễ Thế Tôn.

Họ lên đường cùng với năm trăm cỗ xe chất đầy hàng hóa, chẳng bao lâu vào rừng hoang dã, họ chẳng thấy đường nào đi nữa. Bị lạc đường, không nước uống thức ăn, họ băng qua rừng cho đến khi thấy một cây đa khổng lồ có loài rắn ẩn náu, họ liền thả dây cương xe ngựa ra và ngồi xuốngđó. Nhìn lên đám lá, họ thấy chúng sáng loáng như thể thấm nước, còn cành cây như mọng đầy nước làm cho cả bọn suy nghĩ: “Dường như nước đang chảy trong thân cây này. Ta hãy cắt lấy một nhánh trở về hướng Ðông xem sao? Chắc là có nước để uống”.

Một người trèo lên cây chặt một cành, từ đó một dòng nước chảy ra sền sệt như nước trong thân cây thốt nốt, họ lấy nước rửa mặt và uống. Kế đó họ chặt một cành ở hướng nam, từ đó xuất hiện đủ loại cao lương mỹ vị, họ liền ăn uống. Rồi họ chặt một cành ở hướng Tây này, liền hiện ra một đám nữ nhân xinh đẹp trang sức lộng lẫy, họ vui chơi hưởng lạc với đám nữ nhân kia. Cuối cùng họ chặt một nhánh ở hướng Bắc: từ đó rớt tung tóe bảy báu vật, họ lượm lấy chất đầy năm trăm xe ngựa và trở về Xá-vệ.

Tại đó, họ cho người bảo vệ tài vật rất cẩn thận. Rồi tay mang vòng hoa, hương liệu đủ loại, họ đi đên Kỳ Viên đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cúng dường Ngài xong, liền ngồi xuống một bên. Ngày hôm ấy, họ nghe thuyết Pháp và hôm sau họ đem dâng lễ vật rất hào phóng, mà lại khước từ công đức kia. Họ thưa:

– Bạch Thế Tôn, công đức của lễ vật này chúng con xin nhường lại hồi hướng về vị Thần cây đã ban cho chúng con tất cả tài vật đó.

Khi cơm nước xong, bậc Ðạo Sư hỏi:

Các ông muốn hồi hướng công đức này cho Thần cây nào?

Các thương nhân trình đức Như Lai việc bọn họ đã được cây đa cho kho báu như thế nào , bậc Ðạo Sư bảo:

– Các ông đã nhận được kho báu vật ấy vì cách sống tiết độ của các ông và các ông không buông mình cho dục lạc chi phối; song ngày xưa, có những người không tiết dục, và bị dục tham chi phối, nên chúng mất cả tài sản lẫn tính mạng.

Rồi theo lời thỉnh cầu của bọn kia, Ngài kể cho họ nghe một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, gần bên thành Ba-la-nại cũng có chính khu rừng hoang này cùng cây đa này. Một đám thương nhân đi lạc đường và chợt thấy cây đa ấy.

Với Trí tuệ Viên mãn của ngài, bậc Ðạo Sư giải thích vấn đề qua các vần kệ sau:

  1. Từ nhiều quốc độ, các thương nhân
    Ðến họp cùng nhau cả một đoàn,
    Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
    Lên đường tìm kiếm một kho tàng.
  2. Ðoàn lữ hành kia thiếu thức ăn
    Ðến rừng khô cháy nắng oi nồng,
    Chợt nhìn thấy gốc đa hùng vĩ,
    Với bóng cây che mát dịu lòng.
  3. Thế rồi dưới tán là cây che,
    Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
    Lý luận như vầy vì ám độn,
    Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê:
  4. “Cây này đầy ẩm ướt bên trong
    Từ đó hình như nước có dòng,
    Ta hãy chặt từ cây một nhánh,
    Cành nào đã mọc hướng về Ðông”.
  5. Cành kia được chặt, nước tuôn dòng,
    Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
    Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
    Uống cho đến lúc thỏa thuê lòng.
  6. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn
    Vì sự ngu si đã cản ngăn,
    Chúng bảo: “Phía Nam còn một nhánh,
    Chúng ta hãy đến cắt nhanh chân”.
  7. Cành này vừa chặt xuống liền mang
    Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
    Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
    Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn.
  8. Bọn thương nhân uống uống ăn ăn,
    Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
    Rồi bảo với lòng đầy ám độn
    Và vì trí tuệ quá nghèo nàn:
  9. “Mau lên các bạn phú thương này,
    Ta hãy cắt cành lá phía Tây”,
    Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
    Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay!
  10. Kìa! Xiêm y có đủ muôn màu,
    Lủng lẳng vòng vàng với bảo châu,
    Trong số cả trăm người mỗi một,
    Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao!
  11. Cùng đứng bên nhau cả bọn này
    Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
    Ðám thương nhân thảy đều vào giữa,
    Ðùa giỡn bày trò thích thú thay!
  12. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn,
    Vì sự ngu si đã cản ngăn
    Chúng bảo: “Bắc phương còn một nhánh
    Chúng ta hãy chặt xuống lìa thân”.
  13. Khi cành hướng Bắc chặt vừa xong,
    Vàng bỗng tuôn ra cả một dòng,
    Bạc chảy đầy tay và thảm quý,
    Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng.
  14. Trang phục Ba-la-nại mượt mà,
    Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
    Thương nhân lúc ấy liền hành sự
    Cuộn hết thành bao lớp lụa là.
  15. Cũng vì ngu muội với si mê,
    Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
    “Ta hãy chặt cây từ gốc rễ,
    Chắc càng thâu của cải tràn trề”.
  16. Kìa vội đứng lên, vị trưởng đoàn
    Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
    “Cây đa làm hại gì chư vị,
    Mong ước trời cho hưởng phước phần!
  17. Cành hướng Ðông cho nước chảy tràn,
    Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
    Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
    Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
    Cây đó hại gì cho quý vị,
    Cầu chư vị hưởng phước trời ban!
  18. Cây này cho bóng mát an nhàn,
    Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
    Không được phá tan cành đổ hết,
    Hành vi bừa bãi thực hung tàn!”
  19. Song ngài chỉ một, chúng từng bầy,
    Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
    Chúng nện những dao rìu sắc bén
    Vào phần gốc để đốn thân cây.

Lúc ấy, Linh xà vương thấy bọn chúng đến gần gốc để đốn ngã cây, liền nghĩ thầm: “Ta đã cho bọn này nước để uống khi khát, lại cho thức ăn thần tiên, bạc chất đầy năm trăm xe, mà giờ đây chúng bảo nhau hãy chặt cây đến tận gốc rễ. Chúng thật tham lam vô độ, và trừ vị trưởng đoàn ra, chúng đều phải chết!” Thế là Rắn chúa tập hợp quân đội Rắn ngay:

– Ta truyền thật nhiều quân sĩ hãy mang giáp bào và đứng ra dàn trận, thật nhiều xạ thủ hãy mang cung, kiếm và mộc che thân sẵn sàng chiến đấu.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ giải thích việc này:

  1. Rắn mặc giáp bào đủ bách quân,
    Ðứng lên cùng giữ vững sa trường,
    Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
    Trang bị mộc khiên với kiếm thần.

*

Vần kệ sau đây do Rắn chúa ngâm:

  1. Bắn hạ bọn kia, trói chặt mau,
    Chẳng tha mạng sống một tên nào,
    Ðốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
    Như thế hoàn thành việc đã giao.

Bầy Rắn thần làm đúng như vậy. Sau đó chúng chất đầy các tấm thảm từ cành phương Bắc và mọi vật kia lên năm trăm chiếc xe, rồi di chuyển đoàn xe và vị trưởng đoàn lữ hành về Ba-la-nại, cất hết hàng hóa vào nhà ngài và trở về nơi trú ngụ của loài Rắn.

*

Khi bậc Ðạo Sư đã chứng kiến việc này, Ngài ngâm vần kệ khuyên giáo:

  1. Vậy trí nhân nên thấy thiện hành,
    Chẳng bao giờ để bản tâm thành
    Tôi đòi nô lệ lòng tham dục,
    Phá vỡ mục tiêu đối thủ mình.
  2. Bậc trí khi xem việc ác làm
    Khổ đau bắt rễ tự lòng tham,
    Ðoạn trừ tham dục và dây trói,
    Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa các thương nhân bị dục tham trấn áp, nên đã bị hủy diệt tàn khốc, vậy các ông đừng chìu theo lửa dục.

Rồi Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, các thương nhân kia đãđược an trú vào Sơ quả Dự Lưu. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Linh-Xà vương, và Ta là vị Trưởng đoàn lữ hành.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại vương Sàdhìna (Tiền thân Sàdhìna)

Việc lạ trên trần đã được xem…,

Chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một đám nam cư sĩ giữ hạnh nguyện Trai giới.

Nhân dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Này, các cư sĩ, các trí nhân ngày xưa, nhờ công đức hành trì hạnh nguyện Trai giới mà đã thân hành lên cõi trời và an trú ở đó thật lâu dài.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, vua Sàdhìna ở thành Mithilà, cai trị rất đúng pháp. Tại bốn cổng thành, giữa kinh thành cùng cửa cung thất, ngài đều ra lệnh xây sáu bố thí đường, và công đức bố thí của ngài làm chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ). Mỗi ngày, ngài bố thí sáu trăm ngàn đồng tiền: ngài giữ Ngũ giới, hành trì hạnh nguyện các ngày Bồ-tát, còn dân trong kinh thành cũng theo lời khuyến cáo của ngài bố thí và làm thiện sự, nên lúc mạng chung đều tái sinh cõi Thiên.

Các vị Thiên tử khi ngồi tụ họp tại Thiện Pháp đường của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ, đồng tán thán đời sống đạo hạnh và công đức của vua Sàdhìna. Lời đồn đại về vua này khiến các Thiên thần khác ao ước được gặp mặt ngài. Ðế Thích Thiên chủ biết được tâm tư của các vị liền nói:

– Các hiền hữu ước ao diện kiến vua Sàdhìna phải chăng?

Các vị đồng thanh đáp phải, Thiên chủ ra lệnh cho thần Màtali:

– Khanh hãy đến điện Vejayanta (Tối thắng) của trẫm, thắng ngựa vào thiên xa và đi đón vua Sàdhìna lên đây.

Vị kia tuân lệnh và đi thắng ngựa vào thiên xa để xuống vương quốc Videha.

Ðó là một ngày trăng tròn. Vào lúc dân chúng dùng cơm chiều xong, đang ngồi nhàn nhã trước cửa nhà, thần Màtali lái thiên xa song hành bên cạnh vầng trăng đỏ. Dân chúng đồng reo lớn:

– Xem kìa, có hai mặt trăng trên trời!

Nhưng khi họ thấy thiên xa vượt qua mặt trăng và tiến về phía hạ giới, họ lại kêu lên:

– Không phải mặt trăng, mà là chiếc xe, hình như có vị Thiên tử nào đó. Ngài đang đem chiếc thiên xa này với cả đoàn ngựa thuần chủng, những linh vật ở trong trí tưởng tượng , vậy xe đến đón ai đây? Há không phải là để đón đức vua của ta sao? Phải lắm, đức vua của ta thật là một minh quân chân chánh!

Trong nỗi vua mừng tột độ, họ chắp tay cung kính vái chào và đứng lên ngâm vần kệ đầu:

  1. Việc lạ trên trần đã được xem
    Làm cho dựng đứng tóc người lên:
    Vì mời Ðại đế Vi-đề quốc,
    Phái xuống thiên xa tự cõi thiên.

Thiên sứ Màtali lái thiên xa xuống dần, trong lúc dân chúng chiêm bái với vòng hoa và hương liệu, vị thần này lái ba vòng kinh thành hướng về phía hữu. Sau đó vị ấy tiến đến cung môn, dừng xe lại và đứng yên trước cửa sổ phía tây, tỏ ý muốn đi lên. Lúc bấy giờ là ngày vua đích thân quan sát các bố thí đường, và đã ra lệnh cho đám cận thần phân chia ra sao. Khi xong việc, ngài phát nguyện ngày Trai giới, và cả ngày cứ trôi qua như vậy. Ngay lúc ấy, ngài đang ngồi trên một chiếc ngai lộng lẫy, hướng ra cửa sổ phía đông, với đám triều thần vây quanh, ngài thuyết giảng về lẽ chân chánh và công bình. Chính vào thời điểm này, Màtali đến mời đức vua lên ngự thiên xa, và khi đã xong xuôi, thần cùng ra đi với ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm các vần kệ sau đây để giải thích vấn đề này:

  1. Thiên sứ Mà-ta-li đại cường,
    Vị thần điều ngự ấy vừa mang
    Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
    Ngay tại kinh thành triệu quốc vương:
  2. “Xin tấu Ðại vương, bậc Thánh quân,
    Ngự trên xa giá để theo thần,
    In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
    Chư vị giờ này đang hội họp
    Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân”.
  3. Ðại đế Sà-dhì ngước mắt lên,
    Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
    Thần xa được cả ngàn thiên mã
    Ðồng kéo ngài lên đến cõi thiên.
  4. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
    Thượng khách lên chơi, vội đón mừng:
    “Ðại đế!” đồng hô lời chúc tụng,
    “Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
    Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
    An tọa xin mời đấng thánh nhân!”
  5. Sak-ka chào đón chúa Vi-đề
    Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
    Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
    Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi:
  6. “Giữa các đế vương ở cõi trần
    Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
    Ðại vương an trú cùng Thiên chúng,
    Ðược phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
    Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
    Trên trời Ðao lợi, cảnh thiên đàng!”

Ðế Thích Thiên chủ ban tặng ngài một nửa kinh thành của chư Thiên rộng mười ngàn dặm, nửa số hai mươi lăm triệu Thiên nữ và nửa Cung điện Vejayanta. Ngài ở đó hưởng thọ cực lạc trong suốt bảy trăm năm theo ước tính của loài người.

Rồi khi phước đức của ngài đã tận, theo cách ấy ở thiên giới, nỗi bất mãn khởi lên trong lòng, ngài liền ngâm kệ nói lời này với Ðế Thích Thiên chủ:

  1. Ta hưởng, từ khi đến ngọc đường,
    Ðàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
    Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
    Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
    Hay chính là vì lòng ám độn,
    Làm ta sợ hãi, tấu Thiên hoàng?

Lúc ấy Thiên chủ Ðế Thích đáp lời ngài:

  1. Ðời ngài chưa hết, chẳng lâm chung,
    Ngài chẳng cuồng si, hỡi Ðại nhân,
    Song thiện nghiệp ngài nay đã tận,
    Giờ công đức trước hưởng xong phần.
  2. Song cứ ở đây, hỡi Ðại vương!
    Bởi quyền tối thượng của ta ban:
    Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
    Tam thập tam thiên giới trú an.

Tuy nhiên bậc Ðạo Sư chối từ và đáp lại Thiên chủ:

  1. Như lúc thiên xa đã giáng trần,
    Hoặc khi phước lộc được dành phần,
    Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
    Do bởi bàn tay khác thưởng ân.
  2. Ta chẳng cầu mong nhận phước phần
    Do bàn tay kẻ khác thi ân,
    Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
    Thiện sự riêng ta đứng vững chân.
  3. Ta sẽ ra đi tạo việc lành,
    Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
    Tuân theo giới hạnh và tu tập,
    Ðiều phục thân tâm, quyết thực hành,
    Người biết làm vầy là hạnh phúc,
    Chẳng ăn năn hối tiếc phần mình.

Nghe thế, Ðế Thích Thiên chủ liền ra lệnh cho Màtali:

– Này hiền khanh, hãy đi đưa vua Sadhìna về lại Mithilà và đặt đức vua xuống vườn ngự uyển.

Vị Thiên thần tuân lệnh.

Ðức vua đến nơi, bước đi thơ thẩn trong vườn ngự; người giữ vườn trông thấy ngài, và sau khi hỏi ngài là ai, liền mang tin ấy về tâu trình với đương kim hoàng đế Nàrada. Khi vua này biết tin tiênđế trở về trần, liền ra lệnh cho người giữ vườn:

– Ngươi cứ đi trước và sắp đặt hai chiếc ngai, một dành cho tiên đế và một dành cho trẫm.

Người ấy tuân lệnh. Sau đó đức vua Sadhìna hỏi:

– Ngươi soạn hai chiếc ngai vàng cho ai đây?

– Muôn tâu, một chiếc dành cho Hoàng thượng và một chiếc dành cho đức vua của chúng thần.

Lúc ấy Đại đế Sàdhìna bảo:

– Còn ai khác dám ngồi trước mặt ta chứ?

Rồi ngài ngự lên một chiếc ngai và đặt hai chân lên chiếc kia! Vua Nàrada đến gần, sau khi đảnh lễ dưới chân ngài, liền ngồi xuống một bên. Bấy giờ theo truyền thuyết, vua này là vị vua thứ bảy trong dòng dõi chính thống của ngài, và thời ấy, tuổi thọ của con người chỉ là một trăm năm. Còn bậc Đại sĩ đã trường thọ như thế là do công đức thiện nghiệp của ngài. Ngài cầm lấy tay vua Nàrada dạo bước quanh vườn ngự và ngâm ba vần kệ này:

  1. Lãnh thổ là đây, tổ quốc ta
    Máng tròn dẫn nước suối băng qua
    Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
    Khe nhỏ, lạch ngòi vẫn chảy ra
  2. Các hồ diễm lệ lắng nghe vang
    Khi đám hồng nga réo gọi đàn
    Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
    Cây hình đá biến mọc lan tràn
    Song người yêu cánh cùng ta trước,
    Nay ở đâu, lòng ta muốn hỏi han?
  3. Đây là điền thổ ruộng cùng nương,
    Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
    Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
    Tưởng chừng sa mạc quá thê lương!

Nghe vậy vua Nàrada đáp:

– Tâu Hoàng tổ phụ, từ khi tổ phụ thăng thiên giới đến nay đã bẩy trăm năm trôi qua, giờ đây hoàng tôn là cháu bẩy đời của tổ phụ, các vị quan cận thần của tổ phụ đều đã hóa ra người thiên cổ. Nhưng đây chính là vương quốc của tổ phụ, hoàng tôn xin tổ phụ nhận lại đất nước.

Đức vua đáp:

– Này Hoàng tôn Nàrada, ta không đến đây để rồi lên làm vua nữa đâu, mà ta đến đây để làm thiện sự và ta sẽ làm thiện sự thôi.

Rồi ngài ngâm kệ như sau:

  1. Ta đã nhìn cung điện cõi trời
    Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
    Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi
    Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi.
  2. Ta hưởng bao hoan lạc tuyệt trần,
    Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
    Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
    Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng.
  3. Ta ngắm xong và đã tái hồi
    Để thi hành thiện sự mà thôi
    Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
    Ta chẳng màng gì đến chiếc ngôi.
  4. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
    Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
    Đường đó giờ đây ta tiến bước
    Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.

Bậc đại sĩ đã nói như vậy với Trí tuệ Tối thắng của ngài và làm cô đọng tất cả ý nghĩ qua các vần kệ trên. Sau đó vua Nàrada, một lần nữa lại thưa với ngài:

– Xin Hoàng tổ phụ nhận lấy quyền cai trị vương quốc.

Và ngài đáp:

– Này Hoàng tôn yêu quý, ta không thiết gì vương vị đâu, song ta lại muốn phân phát trong vòng bẩy ngày tất cả tài vật cần được bố thí trong bảy năm qua.

Vua Nàrada lãnh ý, và làm như ngài yêu cầu, truyền chuẩn bị vô số của cải để phân phát rộng rãi.Đức tiên đế bố thí trong bẩy ngày xong xuôi, vào ngày thứ bảy ngài băng hà và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba.

*

Khi bậc Đạo sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Việc hành trì hạnh nguyện ngày Trai giới là bổn phận cần phải giữ gìn.

Và Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự Thật, một số nam cư sĩ đắc Sơ quả Dự Lưu, một số khác đắc Nhị quả Nhất Lai. Và Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy, Ànanda là vua Nàrada, Anuruñha (A Na Luật) là Sakha (Đế Thích) Thiên chủ và Ta chính là vua Sàdhina.

-ooOoo-

  1. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn ( Tiền thân Dasa-Bràhmana)

Đại Đế Yud-dhi thật chánh chân …..

Chuyện này Bậc Đại Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một lễ vật cúng dường tối thượng.

Truyện này đã được giải thích trong số 424. Tiền thân Aditta của Chương VII. Ta biết rằng nhà vua trong lúc thực hiện việc cúng dường này đã quan sát kỹ lưỡng năm trăm vị Tỳ kheo với đức Phật là vị thượng thủ và đã dâng lễ vật lên các bậc Thánh cao trọng nhất trong Tăng chúng.

Sau đó Tăng chúng ngồi trong Chánh pháp đường và nói về công đức của vua ấy như sau:

– Này Hiền hữu Tỳ kheo, vị vua này trong lúc dâng lễ vật tối thượng đã cúng dường các vị đủ đạo cao đức trọng.

Bậc Đạo Sư bước vào và hỏi các vị bàn luận gì trong lúc ngồi tại đây, các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, thật không kỳ diệu gì ngày nay vua Kosala đã là đệ tử của một Đạo Sư như ta, lại cúng dường có phân biệt rõ ràng. Ngay các bậc hiền trí xưa kia, trước khi đức Phật xuất hiện ở đời, cũng đã cúng dường có phân biệt.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện qúa khứ.

*

Một thuở nọ trong quốc vương Kuru và kinh thành Indapatta, có vua Koravya cai trị, thuộc dòng dõi Yuddhitthila. Còn quốc sư về thế sự cũng như thánh sự của vua là vị đại thần mệnh danh Vidhùra (bậc Hiền Trí). Vua thực hành đại bố thí làm chấn động khắp cõi Diêm phù đề (Ấn Độ), nhưng trong số những người thọ hưởng các thí vật này không có ai là người giữ đúng Ngũ giới, tất cả bọn chúng đều là độc ác trên phương diện làm người, nên việc bố thí của vua không làm tâm ngài thỏa mãn. Ngài suy nghĩ:” Kết quả của việc cúng dường có phân biệt thật là vĩ đại thay”. Và với lòng ước ao cúng dường các bậc có đức độ cao cả, ngài quyết định hỏi ý kiến bậc hiền nhân Vidhùra. Vì thế khi quốc sư Vidhùra vào chầu vua, ngài mời vị này ngồi xuống và đưa vấn đề ra hỏi vị này.

*

Để trả lời việc này, bậc Đạo Sư ngâm vần kệ đầu. Phần sau là phần vấn đáp giữa nhà vua và Vidhùra:

1- Chúa thượng Yu-dhi thật chánh chân
Một hôm hỏi ý bậc hiền nhân:
“Vi-dhù, tìm các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn.

2- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn.

Trí giả Vidhùra nói:

3- Thật khó tìm Hiền thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.

4- Giữa đời mười loại Bà la môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn:

5- Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.

6-Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

7- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

8- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí Giả Vidhùra nói:

9- Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang

10-Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

11- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

12- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

13- Với bình nước uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
” Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường”.

14- Họ quấy rầy các thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

15- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

16- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

17- Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.

18- Là bọn tiều phu! Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

19- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

20- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

21- Am-lạc, Vil-va, đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,
Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ còn kia, họ bán hàng.

22- Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

23- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

24- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

25- Những người làm ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng.

26- Giống bọn con lai đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

27- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

28- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

29- Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.

30- Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

31- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

32- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

33- Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành.

34- Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

35- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

36- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.

Trí giả Vi-dhù nói:

37- Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang.

38- Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

39- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

40-Chư vị đoạn tham dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Trí giả Vi-dhù nói:

41- Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn.

42- Thợ cạo khác gì? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?

Đại vương Koravya đáp:

43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.

44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.

Như vậy sau khi miêu tả các loại Bà la môn chỉ mang hư danh mà thôi, bậc Trí giả nói tiếp để miêu tả các vị Bà la môn theo đúng ý nghĩa cao cả nhất trong hai vần kệ:

45-Song các La môn , Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.

46- Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?

Khi vua nghe các lời này, liền hỏi:

– Này hiền hữu Vidhùra, các vị Bà la môn này xứng đáng cúng dường tối thượng ở đời, hiện nay các vị đang ở đâu?

– Tâu Đại vương, ở trên dãy Tuyết sơn xa xôi kia, trong hang núi Nanda.

– Vậy thì, này bậc trí giả, hãy dùng uy lực của ngài, mang các vị Bà la môn ấy đến ngay đây cho trẫm.

Rồi trong nỗi hân hoan tột độ, vua ngâm vần kệ này:

47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa? Hãy lên đường!

Bậc Đại sĩ chấp thuận làm theo lời vua yêu cầu, và nói thêm:

– Bây giờ, tâu Đại vương, hãy truyền lệnh cho đánh trống khắp kinh thành, loan báo rằng toàn thành phải trang hoàng rực rỡ, toàn dân phải bố thí, và hành trì ngày Trai giới, nguyện giữ mình đức độ, và chính Đại vương cùng cả triều đình cùng phát nguyện giữ ngày Trai giới.

Còn chính ngài ngay từ tảng sáng, sau khi điểm tâm xong, liền phát nguyện giữ ngày Trai giới,đến chiều, ngài bảo đem đến một giỏ hoa lài. Rồi cùng vua, đảnh lễ với năm phần thân thể sát đất và khi ngài vừa nhớ lại những công đức của các vị Độc Giác Phật, ngài vừa khấn vái lời này:

– Kính thỉnh năm trăm đức Độc Giác Phật đang trú trong vùng Bắc Tuyết Sơn, hang núi Nanda, ngày mai xin các Ngài hạ cố hưởng thọ thực phẩm của triều dình.

Ngài thả tám nắm tay đầy hoa lên không gian, lập tức các hoa này rơi trên năm trăm vị Độc Giác Phật, vào đúng nơi các ngài đang an trú. Các ngài ấy suy xét và thấy ngay sự việc kia, liền nhận lời mời và bảo nhau:

– Này các Tôn Giả, chúng ta được vị hiền nhân Vidhùra mời đến, vị này không phải người phàm tục đâu, ngài có hạt giống Phật trong mình, nên ngay trong kiếp này, ngài sẽ thành Phật. Chúng ta hãy tỏ lòng kính mến đặc biệt với ngài.

Bậc Đại sĩ hiểu các Ngài đã chấp thuận lời mời, bằng chứng là các hoa kia không bay trở lại. Sau đó, ngài bảo:

– Tâu Đại vương, ngày mai các vị Độc Giác Phật sẽ đến, vậy hãy lo cung thỉnh các vị trọng thể và dâng lễ cúng dường.

Ngày hôm sau đức vua đón tiếp các Ngài vô cùng trọng thể, sửa soạn các bảo tọa để các Ngài ngồi trên một cái bệ uy nghi cao cả.

Các vị Độc Giác Phật ở Hồ Anotatta, đợi cho đến lúc cảm thấy đói bụng, liền du hành qua không gian và giáng hạ, ngay sân chầu của hoàng cung. Vua cùng Bồ Tát đầy lòng thành tín, đón lấy các bình bát từ tay các Ngài và thỉnh chư vị đi lên chiếc bệ đài hoa kia, mời an tọa, rảy nước cúng dường lên tay chư vị, rồi phục vụ các Ngài các thực phẩm thượng hạng đủ loại cứng và loại mềm. Sau buổi thọ thực, vua lại mời các Ngài đến ngày hôm sau và cứ thế trong bẩy ngày liền, dâng cúng các Ngài nhiều lễ vật, và vào ngày thứ bẩy vua cúng dường đủ mọi vật thiết. Lúc ấy chư vị nói lời tùy hỷ với vua xong, liền bay qua không gian trở về nơi trú ngụ cũ, còn các vật cúng dường cũng đều bay theo các Ngài.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỳ Kheo, thật chẳng kỳ lạ gì việc vua Kosala nay là đệ tử của Ta đã cúng dường Ta lễ vật tối thượng, vì các bậc trí nhân ngày xưa ở thời chưa có đức Phật, cũng đã làm như thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là vua, và bậc Trí giả Vidhùra chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện cúng thực phẩm đúng cấp bậc (Tiền thân Bhikkhà-Parampara)

Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao…..

Chuyện này Bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một vị điền chủ.

Người ấy là một tín đồ mộ đạo, thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Như Lai và Tăng chúng. Một hôm ông suy nghĩ như sau: “Ta thường xuyên tỏ lòng cung kính trọng thể đức Phật là ngôi báu và Tăng chúng là một ngôi báu nữa, bằng cách cúng dường thực phẩm thượng vị và y phục. Nay ta muốn tỏ lòng cung kính trọng thể Pháp Bảo: Song làm cách nào để cúng dường ngôi báu ấy?”

Vì vậy ông đem nhiều vòng hoa thơm và hương liệu, đi về phía Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Đạo Sư và hỏi Ngài:

– Bạch Thế Tôn, ước nguyện của con là cúng dường Pháp Bảo, vậy làm sao một người có thể thực hiện việc ấy?

Bậc Đạo Sư đáp:

– Nếu tâm nguyện của ông là cúng dường trọng thể ngôi Pháp Bảo thì ông hãy cúng dường trọng thể cho Ànanda, vị Thủ kho Chánh Pháp (Dhamma-Bhandàgàrika):

– Lành thay! Ông đáp và xin hứa sẽ thực hiện việc ấy.

Ông đi mời Tôn giả Ànanda đến viếng nhà mình, rồi hôm sau rước Tôn giả về nhà với lễ nghi vô cùng huy hoàng trọng thể. Ông mời Tôn giả ngồi trên một bảo tọa lộng lẫy và cúng dường Tôn giả vòng hoa thơm cùng hương liệu rồi thiết đãi đủ loại cao lương mỹ vị, lại dâng loại vải vóc rất sang trọng vừa đủ cho ba y. Tôn giả liền suy nghĩ:”Vinh dự này dành cho Pháp Bảo; nó không thích hợp với ta, mà thích hợp với vị Tướng quân Chánh pháp (Dhamma-Senàpati)”.

Thế là đặt thực phẩm vào bình bát và cầm vải vóc, Tôn giả đem đến tinh xá, tặng lễ vật cho Tôn giả Sàriputta. Tôn giả này cũng nghĩ như vậy: “Vinh dự này dành cho ngôi Pháp Bảo, nó không thích hợp với ta, mà nó chỉ thích hợp duy nhất với bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đấng Pháp vương “. Và Tôn giả dâng nó lên đấng Thập lực. Bậc Đạo Sư thấy không còn ai trên Ngài nữa, nên thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải vóc để làm ba y.

Sau đó Tăng chúng bàn luận việc này trong Chánh pháp đường:

– Này các hiền giả Tỳ kheo, thế là vị điền chủ kia muốn tỏ lòng cung kính trọng vọng đối với Chánh pháp nên cúng dường Tôn giả Ànanda là vị Thủ Kho Chánh pháp. Tôn giả này nghĩ mình chưa xứng đáng với lễ vật ấy nên trao lại vị Tướng quân Chánh pháp. Tôn giả này cũng nghĩ mình không xứng đáng nên dâng lên đức Như Lai. Còn đức Như Lai, thấy không còn ai trên Ngài, biết rằng Ngài xứng đáng với lễ vật ấy ở vị trí đấng Pháp vương, nên Ngài đã thọ hưởng thực phẩm và nhận số vải để làm ba y kia. Như vậy thực phẩm cúng dường đã tìm được chủ nhân nhờ đi đến đúng người có quyền thọ hưởng.

Bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi ở đây. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm cúng dường đến đúng vào phần của người xứng đáng bằng những cấp bậc tiến lên tuần tự, mà ngày xưa, trước thời đức Phật cũng thế.

Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, vua Brahmadatta trị vì rất chân chánh tại Ba La Nại, sau khi đã đoạn trừ các ác nghiệp và hành trì Thập vương pháp. Vì thế, tòa án xử kiện của vua trở nên trống rỗng, vua muốn tìm kiếm cho ra lỗi lầm của mình, cứ hỏi han mọi người, bắt đầu với những người ở chung quanh ngài, nhưng không nơi nào, dù trong các hậu cung, trong kinh thành hay các thôn làng lân cận, ngài tìm được nguời nói một lỗi gì cho ngài cả. Sau đó, ngài quyết định đi thăm dò dân chúng vùng quê. Vì thế, sau khi giao quyền trị nước cho các triều thần, ngài đem vị Tế sư đi theo ngài. Hai vị cải trang du hành xuyên qua quốc độ Kàsi; tuy thế, ngài cũng không thấy ai nói về ngài vì một lỗi gì cả.

Cuối cùng , ngài đến một làng ở biên địa, ngồi ở một sảnh đường không có cổng vào. Thời đó, một vị điền chủ của làng ấy là một phú ông giầu có đến tám trăm triệu đồng tiền, đi cùng một đám tùy tùng đông đảo đến một bến tắm, thấy vua ngồi trong sảnh đường kia với thân tướng cao sang và sắc da vàng óng. Ông sinh lòng yêu mến ngài, liền đi vào sảnh đường và bảo:

– Hãy ngồi đây một lát.

Sau đó ông về nhà, bảo soạn sẵn đủ loại thực phẩm thượng vị, rồi trở lại với đám tùy tùng đông đảo mang theo các bình bát đựng thức ăn.

Cùng lúc ấy, một vị tu khổ hạnh từ vùng Tuyết Sơn đi xuống cũng ngồi xuống đó, vị này đã chứng được năm Thắng trí. Và một vị Độc Giác Phật, cũng từ hang núi Nanda hạ sơn đến ngồi đó. Vị điền chủ kia đưa nước cho vua rửa tay rồi dọn một đĩa thức ăn thượng hạng đủ loại gia vị thơm ngon và đặt trước mặt vua. Ngài nhận và trao cho vị Tế sư Bà la môn, vị Tế sư cầm lên trao cho nhà tu khổ hạnh. Nhà tu khổ hạnh bước đến gần vị Độc Giác Phật, tay trái cầm bình đựng thức ăn, tay phải cầm bình nước, trước tiên rót nước cúng dường (như chuyện trước), rồi đặt thức ăn vào bát vị này. Vị ấy liền ăn ngay, không mời ai cùng chia phần với mình hay xin phép gì cả.

Khi bữa xong, vị điền chủ suy nghĩ: “Ta dâng thức ăn lên đức vua, ngài trao cho vị Tế sư, vị Tế sư trao cho vị tu khổ hạnh, vị tu khổ hạnh lại trao cho vị Độc Giác Phật, và vị Độc Giác Phật đã thọ thực ngay mà không xin phép ai nữa. Việc cúng dường này có ý nghĩa gì chăng? Tại sao vị cuối cùng thọ thực và không cần xin phép ai hay nhờ ai cho phép? Ta sẽ hỏi lần lượt các vị này”.

Rồi vị ấy lần lượt đến gần mỗi người, đảnh lễ xong liền nói câu ấy và được các vị trả lời:

Phú ông hỏi:

1- Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quá thật thanh tao.

2- Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.

3- Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?

Đức vua đáp:

4- Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật tình.

Phú ông hỏi:

5- Dù vua cũng trọng Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?

6- Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Tế sư đáp:

7- Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn.

8- Vói người khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.

Phú ông hỏi:

9- Nay ta xin hỏi bậc hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.

10- Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?

Vị khổ hạnh đáp:

11- Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô dòn.

12- Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.

13- Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng.

Phú ông hỏi:

14- Xin hỏi, ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.

15- Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

Độc Giác Phật đáp

16- Không nấu, cũng không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.

17- Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.

18- Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.

Khi nghe những lời này, vị điền chủ vô cùng hoan hỷ ngâm hai vần kệ cuối cùng:

19- Thật là ta được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy.

20- Đế vương với các Bà la môn,
Trị nước mà tâm ác dục tràn,
Các trí nhân tìm cây quả dại,
Bậc tu hành giải thoát lòng tham.

Khi vị Độc Giác Phật thuyết giáo cho vị kia xong, liền trở về cõi của Ngài và vị tu khổ hạnh cũng thế. Còn nhà vua, sau vài ngày ở lại với vị điền chủ, cũng trở về Ba la nại.

*

Khi bậc Đạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên thực phẩm đến tay người xứng đáng, mà trước kia cũng vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, người điền chủ đã tôn trọng cúng dường Pháp là người điền chủ trong chuyện này, Ànanda (A -nan) là vua, Sariputta (Xá lợi phất) là Tế sư và Ta chính là vị tu khổ hạnh trên vùng Tuyết Sơn.

-ooOoo-

Chương XV

Phẩm Hai Mươi Bài Kệ

497- Chuyện bậc Hiền trí Màtanga (Tiền thân Màtanga)

Lão từ đâu đến, đắp y dơ…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về vua Udena.

Vào thời ấy, Tôn giả Pindola Bhàradvàja phi hành từ Kỳ Viên qua không gian, thường đến tránh cơn nóng ban ngày trong vườn ngự uyển của vua Udena nước Kosambi. Chuyện kể rằng Tôn giả này trong một đời trước đã làm vua, và thọ hưởng một thời gian dài cảnh vinh quang phú quý trong chính vườn ngự uyển kia cùng đám hầu cận. Nay nhờ công đức thiện nghiệp ông đã tạo được, nên ông thường đến tọa Thiền tại đây, tránh cơn nóng ban ngày và hưởng được cực lạc do chứng đắc Thánh quả.

Một hôm ông vào chỗ đó ngồi dưới một cây Sala đang trổ hoa sung mãn, thì vua Udena đi vào vườn với một đoàn tùy tùng đông đảo. Suốt bảy ngày trước vua uống rượu say nên muốn vào ngự viên giải trí. Vua nằm trên vương sàng trong cánh tay của một nàng cung nữ và được dỗ dành cho chóng ngủ thiếp đi. Sau đó đám nữ nhạc ngồi ca hát quanh vua đặt nhạc khí xuống, vừa đi quanh quẩn trong vườn ngự uyển vừa nhặt hoa trái. Dần dần họ thấy vị Trưởng lão ấy nên bước lên,đảnh lễ vị ấy và ngồi xuống. Vị Trưởng lão ngồi tại chỗ đó thuyết pháp cho họ nghe. Nàng cung nữ kia đổi cánh tay để thức vua dậy, vua hỏi:

– Bầy tiện tỳ kia đi đâu cả rồi?

Nàng đáp:

– Chúng đang ngồi vòng quanh một nhà tu khổ hạnh.

Vua nổi cơn thịnh nộ, đi đến gặp vị Trưởng lão và mạ lỵ phỉ báng:

– Đi ngay, ta muốn kẻ kia phải bị bầy kiến xé xác ra!

Thế là trong cơn thịnh nộ, vua truyền đem một thúng kiến đỏ đến rải tung trên thân thể vị Trưởng lão. Song vị này đã bay lên không gian, và thuyết giáo cho vua xong, trở về Kỳ Viên hạ xuống trước cổng Hương phòng. Đức Như Lai hỏi:

– Ông từ đâu đến?

Tôn giả ấy kể lại sự việc trên. Ngài bảo:

– Này Bhàradvàja, đây không phải là lần đầu tiên vua Udena nổi sân hận và lăng mạ một kẻ tu hành, mà trước kia cũng đã như thế.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng lão, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thời, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba La Nại; bậc Đại sĩ sinh làm con trai của một người Chiên đà la (Candàla: hạ đẳng tiện dân) ở ngoại thành, họ đặt tên ngài là chú voi Màtanga. Sau đó ngài thông đạt trí tuệ, danh tiếng lan truyền khắp nơi là bậc Hiền trí Màtanga.

Lúc bấy giờ có một nàng tên Dittha- Mangalikà (Người thấy các Điềm lành), con gái của một vị thương nhân thành Ba La Nại, cứ một hoặc hai tháng một lần, thường vào ngự viên vui đùa cùng đám bạn đồng hành đông đảo.

Một ngày kia, bậc Đại sĩ đi vào thành, liền gặp Dittha-Mangalikà, ngài bước sang một bên vàđứng im phăng phắc. Từ sau búc màn, Dittha trông thấy ngài và hỏi:

– Ai đó?

– Thưa cô nương, một kẻ Chiên đà la.

– Hừ, nàng đáp,- ta đã thấy nhằm một vật mang điềm xui xẻo.

Rồi nàng rửa mắt bằng nước hoa và quay đi. Đám người đi với nàng la lớn:

– Này tên bần cùng hèn hạ kia, mày đã làm chúng ta mất phần cơm rượu miễn phí hôm nay.

Trong cơn giận dữ, họ lấy tay chân đấm đá bậc Hiền trí Màtanga, khiến cho ngài bất tỉnh rồi bỏđi. Sau một lát ngài hồi tỉnh và nghĩ thầm: “Đám người đi theo Dittha-Mangalika đã vô cớ đánhđập ta, một kẻ vô tội. Ta quyết sẽ không nhúc nhích cho đến khi ta chiếm được nàng, chẳng chịuđi trước một chút nào cả”.

Với quyềt định này, ngài bước đi đến trước cửa nhà cha nàng. Khi đám gia nhân hỏi tại sao ngài nằm đó, ngài đáp:

– Ta chỉ muốn được nàng Dittha-Mangalikà mà thôi.

Một ngày trôi qua, rồi hai, ba, tư, năm, sáu, quyết định của chư Phật thường thường không sao lay chuyển được; vì thế vào ngày thứ bẩy họ phải đem cô gái ra trao cho ngài. Sau đó nàng bảo:

– Nào đứng lên chàng ơi, ta cùng đi về nhà chàng đi!

Song ngài đáp:

– Cô nương ôi, ta vừa bị bọn người nhà nàng đánh đập nên thân, nay ta yếu lắm, nàng hãy cõng ta trên lưng và mang đi.

Nàng làm theo lời ấy ngay trước mặt mọi người dân trong thành và nàng cứ tiến dần từ thành đô đi đến vùng tiện dân Chiên đà la cư trú.

Ở đó trong vài ngày, bậc Đại Sĩ giữ nàng lại mà không chút nào xâm phạm các luật lệ của giai cấp. Rồi ngài suy nghĩ: “Chỉ bằng cách từ bỏ thế tục, chứ không còn cách nào khác, ta mới có thể cho cô nương này thấy cảnh vinh hiển tột bậc và cho nàng hưởng những lễ vật cao sang nhất”. Vì thế ngài bảo nàng:

– Này nương tử, nếu ta không vào rừng kiếm ăn thì chúng ta không thể sống được. Vậy ta muốn vào rừng, nàng hãy đợi cho đến khi ta về; song đừng có lo âu gì cả.

Ngài ra lệnh cho gia nhân không được sao nhãng đối với nàng, rồi đi vào rừng, sống cuộc đời người tu hành, rất nhiệt tâm tinh tấn; vì vậy trong bẩy ngày, ngài tu tập và thành tựu Tám thiền chứng và Năm thắng trí. Sau đó ngài suy nghĩ: “Nay ta đã có thể bảo vệ Dittha-Mangalikà được rồi”.

Nhờ thần thông lực, ngài trở về và hạ xuống cổng làng Chiên đà la, từ đó đi vào nhà Dittha Mangalikà. Khi nghe tin ngài trở về, nàng bước ra và òa lên khóc bảo:

– Tại sao chàng bỏ thiếp và đi tu khổ hạnh?

Ngài đáp:

– Này nương tử, đừng lo gì cả. Nay ta có thể làm cho nàng vinh quang hơn trước kia nữa! Vậy nàng có chịu nói lên giữa mọi người đúng lời này: Phu quân ta không phải là Màtanga, mà là một đấng Đại Phạm thiên chăng?

– Thưa phu quân được, thiếp xin nói điều ấy.

– Tốt lành thay, khi dân chúng hỏi: Chồng nàng đâu? Nàng trả lời: Chàng đã đi lên Phạm Thiên giới. Nếu họ lại hỏi: Thế khi nào chàng về? Nàng phải đáp: Trong bảy ngày nữa, chàng sẽ về, xuyên qua mặt trăng tròn đầy của đêm rằm.

Cùng với những lời này, ngài đi vào vùng Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, Dittha Mangalikà nói nhữngđiều nàng đã được căn dặn khắp nơi ở Ba la nại giữa quần chúng đông đảo. Dân chúng tin ngay lời ấy , bảo nhau:

– Ngài là đấng Đại Phạm thiên, nên đã không đến thăm viếng Dittha, nhưng mọi việc sẽ như vầy như vầy.

Vào đêm trăng rằm, trong lúc vầng trăng đang di chuyển nửa vời, Bồ Tát hóa thành một vị Phạm thiên ở giữa luồng ánh sáng tràn ngập vương quốc Kàsi và kinh thành Ba la nại đến mười hai dặm, băng ngang qua mặt trăng và giáng trần. Ngài đi vòng quanh kinh thành Ba la nại ba lần, được dân chúng đông đảo tỏ lòng sùng bái bằng các vòng hoa thơm và hương liệu khác rồi quay mặt về hướng ngôi làng Chiên đà la.

Những người ngưỡng mộ Phạm Thiên tụ tập cùng nhau đi về phía làng Chiên đà la ấy. Họ bao phủ căn nhà của Dittha Mangalikà bằng màu vải trắng tinh, lau sàn nhà bằng bốn loại hương thơm, rải hoa khắp nơi, đốt trầm hương, trương một tấm vải làm mái che, đặt một bảo tọa rực rỡ, thắp đèn dầu thơm, rắc lớp cát mịn như phiến bạc rồi treo đèn kết hoa và cờ xí rợp trời.

Trước gian nhà được trang hoàng lộng lẫy thế kia, bậc Đại Sĩ bước vào và ngồi một lát trên bảo tọa. Lúc ấy Dittha-Mangalìka đang có kinh kỳ. Ngài lấy ngón tay trỏ rờ vào rốn nàng và nàng thụ thai. Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nàng:

– Này hiền thê, nàng đã thụ thai, nàng sẽ sinh ra một con trai, nàng và con trai nàng sẽ được phú quý tột bậc, nước rửa chân nàng sẽ được vua chúa dùng làm lễ quán đảnh (lễ rảy nước thánh phong vương) cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ), nước nàng tắm sẽ là thứ tiên dược trường sinh bất tử, người nào rảy nước đó lên đầu sẽ thoát khỏi mọi thứ bệnh tật và không gặp điềm xui xẻo, những kẻ nào được đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ nàng, sẽ dâng lên một ngàn đồng tiền vàng. Những kẻ nào được đứng gần đủ để có thể nghe nàng nói và kính lễ nàng sẽ dâng lên một trăm đồng; kẻ nào được đứng để trông thấy nàng và kính lễ nàng sẽ dâng một đồng rupee. Vậy nàng hãy tỉnh giác giữ mình cẩn thận!

Cùng với lời khuyến giáo này, trước mặt một đám đông, ngài đứng dậy và lại đi vào mặt trăng.

Những người sùng bái Phạm thiên tụ tập nhau lại và đứng đó suốt đêm, sáng hôm sau họ mời nàng lên chiếc kiệu bằng vàng và đội lên đầu nàng , rước nàng vào kinh đô. Một đám đông dân chúng chạy đến phía nàng kêu lớn:

-Kìa! Hoàng hậu của đấng Phạm thiên!

Rồi cúng bái nàng với các hoa thơm và nhiều thứ nữa, những kẻ nào được phép đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ đều dâng lên một túi tiền một ngàn đồng, người nào đứng gần nàng và kính lễ thì dâng một trăm, người nào đứng đủ nhìn thấy được nàng và kính lễ thì dâng một rupee. Cứ vậy họ tiến dần khắp thành Ba la nại, rộng mười hai dặm và thu được tổng số một trăm tám chục triệu đồng.

Sau khi đi xung quanh thành như vậy, họ rước nàng vào nội thành, dựng lên một ngôi đình lớn vây màn chung quanh, mời nàng yên nghỉ tại đó giữa cảnh huy hoàng vinh quang như thế. Tới ngôi đình, họ bắt đầu xây bảy cổng vào thật lớn và dựng một cung điện bảy tầng, họ đã tạo được nhiều công đức mới dành phần họ vậy.

Cũng trong ngôi đình ấy Dittha-Mangalikà sinh hạ con trai. Vào ngày đặt tên hài nhi, các Bà la môn tụ họp nhau và đặt tên nó là Mandavya Kumàra hay Vương tử của Ngôi Đình, vì nó được sinh ra tại đó. Độ mười tháng, lâu đài kia đã được xây xong, từ đó nàng vào ở trong lâu đài vô cùng vinh hiển và Vương tử Mandavya lớn lên giữa cảnh huy hoàng tột bực.

Khi hài nhi được bẩy tuổi, những bậc thầy danh tiếng nhất khắp toàn cõi Diêm phù đề (Ấn Độ) tụ tập lại và dạy cậu ba tập Vệ Đà. Từ mười sáu tuổi cậu trai đã cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn, và mười sáu ngàn Ba la môn được cúng dường liên tục ; tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận, các vật cúng dường được phân phát cho các vị Bà la môn.

Bấy giờ vào một ngày Đại hội, dân chúng chuẩn bị một số lớn cháo gạo, rồi mười sáu ngàn Bà la môn ngồi tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận kia, và dùng món cháo ấy cùng với món bơ tươi màu vàng óng ánh, nước đường pha mật ong đặc, và chính vị vương tử trang điểm ngọc châu sáng rực rỡ mang đôi hài vàng dưới chân, cầm chiếc gậy vàng ròng trong tay, vừa đi quanh vừa chỉ dẫn:

– Này bơ đây, mật ong đây.

Vào lúc ấy bậc hiền trí Màtanga đang ngồi trong thảo am ở vùng Tuyết Sơn, và hướng tầm tứ vào việc xem xét những gì xảy ra cho con trai của nàng Dittha-Mangalikà. Khi nhận thấy cậu con trai đang đi lạc tà đạo, ngài suy nghĩ: “Hôm nay ta sẽ đi giáo hóa cho cậu bé kia và dạy cho nó biết cúng dường như thế nào để lễ vật bố thí ấy sẽ mang lại kết quả lớn”.

Ngài liền bay qua không gian đến hồ Anotatta, rửa mặt mũi và súc miệng rồi khi đứng tại địa phận Manosila (thuộc vùng Tuyết Sơn) ngài khoác đôi tấm y vàng vào quấn thắt lưng quanh người, rồi đắp phấn tảo y (áo may bằng giẻ rách) ra ngoài, cầm bình bát đất, phi hành qua không gian đến cổng thứ tư ấy, nơi đó ngài hạ xuống ngay cạnh Bố thí đường, và đứng một bên. Đang lúc Mandavya nhìn quanh quẩn, chợt thấy ngài liền kêu to:

– Lão từ đâu đến, hỡi kẻ khổ hạnh kia, lão là kẻ hạ liệt bị bỏ rơi vô thừa nhận, một thứ yêu quỷ chứ không phải là người đó chăng?

Rồi cậu ngâm vần kệ đầu:

1- Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!

Bậc Đại Sĩ lắng nghe, rồi với lòng từ mẫn, ngài đáp lời cậu qua vần kệ thứ hai:

2- Vương tử! Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.

Tiếp theo Mandavya ngâm vần kệ thứ ba:

3- Phần các La môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!

Vì nghe thế bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ:

4- Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh đạo này đây, xin bố thí,
Sau ngài xứng đáng hưởng phần công.

Sau đó Mandavya đáp kệ:

5- Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La môn quý tộc, thông kinh thánh:
Là đất lành phong phú ruộng đồng.

Rồi bậc Đại Sĩ lại ngâm hai vần kệ:

6- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

7- Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
Tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.

Bậc Đại Sĩ cứ ngâm đi ngâm lại những lời kệ ấy mãi, song cậu trai nổi giận và kêu lớn:

– Lão này nói quàng xiêng quá nhiều rồi; những người gác cổng đi dâu cả mà không tống cổ lão ra?

Rồi cậu ngâm kệ:

8- Này Bran-da! Hỡi U-paj-jhà!
Ta bảo, đâu rồi Up-ti-ya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.

Bọn gia nhân nghe tiếng cậu gọi, liền chạy đến ngay kính lễ cậu rồi hỏi:

– Tâu Chúa công, chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Thế các người không thấy tên hạ liệt tồi tàn này sao?

– Tâu Vương tử không, chúng tiểu nô không biết lão đã tới đây lúc nào cả, chắc chắn lão là tên lừa bịp xảo trá rồi !

– Nào, vậy sao các người còn đứng đó?

– Tâu Chúa công, vậy chúng tiểu nô phải làm gì đây?

– Sao ư? Phải vả vào mồm lão! Bẻ hàm lão ra, lấy roi gậy đánh cho nát lưng, trừng phạt lão đi, tóm lấy cả tên khốn kiếp này, quăng lão xuống, tống lão ra khỏi đây ngay!

Song trước khi bọn chúng đến gần ngài, bậc Đại Sĩ đã bay lên không, vừa đứng vững ở đó vừa ngâm kệ:

9- Phỉ báng Hiền nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?

Sau khi thốt những lời này xong, bậc Đại Sĩ vụt lên cao trong khi cậu trai và đám Bà la môn ngơ ngác nhìn theo.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích việc này:

10- Nói vậy, Màtanga trí nhân,
Bậc phò chánh đạo, lý thuần chân,
Rồi ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.

*

Ngài quay mặt về hướng Đông, hạ xuống một đường phố với ý định làm cho dấu chân ngài được nhìn thấy, nên ngài khất thực gần Đông môn. Lúc ấy, sau khi đã nhận được một số thực phẩm đủ loại, ngài ngồi xuống một sảnh đường và bắt đầu ăn.

Song các thần linh trong kinh thành chợt đến, thấy rằng vua này đã nói năng như vậy làm phiền nhiễu vị Hiền nhân của các vị, là điều không thể dung thứ được, nên vị thần cao niên nhất trong bọn chụp lấy cổ Mandavya và vặn tréo, các quỷ kia lại chụp lấy cổ các Bà la môn ấy và vặn luôn. Song vì thương cảm Bồ Tát, các vị ấy không giết Mandavya, các vị bảo:

– Đó là con trai của ngài.

Và các vị chỉ hành hạ cậu ta thôi. Đầu của Mandavya bị vặn tréo ra đằng sau vai, tay chân cậu cứng đờ, mắt trợn trừng như thể chết rồi, cậu nằm rũ liệt tại đó. Các Bà la môn kia quay cuồng vật vã, mồm chảy nước miếng tràn ra. Dân chúng đến báo tin cho bà Dittha-Mangalikà:

– Tâu lệnh bà, có chuyện chẳng lành xẩy ra cho vương tử!

Bà vội chạy đến thấy cậu trai liền kêu lớn:

– Ôi sao lại thế này?

Rồi bà ngâm kệ:

11- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Khi ấy những người đứng ngoài xem liền ngâm kệ nói cho bà biết chuyện kia.

12- Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.

Nghe vậy bà suy nghĩ. “Chắc chắn đó là bậc Hiền nhân Màtanga, không ai khác có thần lực như vậy. Song một người thủy chung và đầy thiện ý đối với mọi loài, chẳng bao giờ lại bỏ đi để cho những kẻ này phải chịu sự hành hạ thế kia. Nay không biết ngài đã đi hướng nào?” Bà hỏi câu này qua vần kệ sau:

13- Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.

Các chàng trai kia đáp lời bà theo cách này:

14- Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp mặt thay, ngài sùng Chánh đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.

Khi họ đáp như thế bà liền bảo:

– Ta quyết sẽ đi tìm phu quân ta.

Rồi bà ra lệnh đem theo bà nhiều bình vàng và chén vàng, rồi được một đám tỳ nữ vây quanh, bà ra đi, tìm thấy nơi có dấu chân của ngài đã in xuống đất, bà cứ theo dấu chân này cho đến khi bà gặp ngài đang ngồi trên một chỗ kia và ăn cơm. Đi đến gần ngài, bà đảnh lễ rồi đứng im. Khi thấy bà, ngài đặt miếng cơm vào bát. Dittha-Mangalikà rót nước lên tay ngài từ chiếc bình vàng, ngài lập tức rửa tay và súc miệng. Sau đó bà hỏi:

– Ai đã làm việc tàn ác này cho con trai của thiếp?

Và bà ngâm kệ:

15- Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?

Các vần kệ sau đây là lời đối đáp xen kẽ nhau giữa hai vị:

Bậc trí:

16- Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.

Bà hoàng:

17- Chính các thần linh tạo việc trên,
Hiền nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.

Bậc trí:

18- Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh điển,
Vì đầy vọng tưởng , ngập kiêu căng.

Bà hoàng:

19- Con người có thế, hỡi hiền nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí giả,
Bậc hiền không để khởi hờn căm.

Bậc Đại Si được bà xoa dịu bằng lời lẽ như vậy, liền đáp:

– Được, ta sẽ cho nàng thứ tiên dược trường sinh bất tử để đuổi bọn quỷ ma ấy đi xa.

Rồi ngài ngâm kệ:

20- Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Man-da khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.

Khi bà nghe những lời này của bậc Đại Sĩ liền đưa chiếc bình bát vàng ra và nói:

– Xin phu quân hãy cho thiếp thuốc tiên bất tử ấy.

Bậc Đại Sĩ đổ vào đó một ít cháo còn lại và bảo:

– Hãy đổ một nửa cháo này vào mồm con nàng, còn lại thì trộn với nước rồi đổ vào mồm các Bà la môn kia, chúng sẽ được bình phục cả.

Rồi ngài đứng lên đi về phía vùng Tuyết Sơn.

Bà mang bình ấy trên đầu và kêu:

– Ta đã được thuốc tiên bất tử rồi!

Khi đến nhà, trước hết bà đổ một ít vào miệng con trai bà.

Quỷ thần liền chạy trốn, vua đứng dậy, phủi bụi bặm rồi hỏi:

– Cái gì đây mẹ?

– Con đã biết rõ những việc con làm rồi, nay hãy nhìn tình cảnh khốn khổ của đám người khất thực nhà ta kia kìa!

Khi cậu nhìn thấy bọn ấy, lòng cậu đầy ân hận. Rồi mẹ cậu bảo:

– Này Mandavya yêu quý, con thực là kẻ ngu si không biết bố thí cách nào để của bố thí ấy mang lại kết quả tốt. Bọn này không xứng đáng với lòng hào phóng của con đâu, chỉ những vị nào như bậc Hiền nhân Mantaga là xứng đáng thôi. Từ nay về sau đừng đem cái gì cho những ác nhân như bọn này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những người đức hạnh.

Rồi bà ngâm kệ:

21- Man-da, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!

22- Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!

23- Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí hiền nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.

– Vậy từ nay về sau con đừng bố thí cho hạng người ác như thế này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những kẻ nào ở trên đời này đạt Tám Thiền chứng, là những nhà tu khổ hạnh, các Sa môn, Bà la môn chân chính đã chứng Năm Thắng trí, các vị Độc Giác Phật. Này con, để mẹ đưa loại thuốc tiên bất tử này cho bọn gia nhân của ta đây và làm chúng bình phục.

Nói vậy xong, bà lấy miếng cháo thừa ấy đổ vào một bình nước và rẩy lên miệng mười sáu ngàn Bà la môn kia. Mọi người đều đứng dậy và phủi hết bụi bặm.

Sau đó, vì các Bà la môn này đã phải nếm thức ăn thừa của một kẻ Chiên đà la, nên bị các Bà la môn khác tống xuất ra khỏi giai cấp ấy. Đầy ô nhục, bọn họ rời thành Bà la nại và đi về vương quốc Mejjha, tại đây họ ở chung với vua xứ đó. Còn Mandavya vẫn ở chốn cũ.

Vào thời đó có một Bà la môn tên là Jàtimanta, là một kẻ tu hành, ở gần kinh thành Vettavati trên bờ sông có cùng tên ấy, ông là kẻ rất kiêu mạn về dòng dõi của mình. Bậc Đại Sĩ liền đến đó, quyết đập tan lòng kiêu mạn của người kia, ngài dựng am trú ngụ gần đó, sống ở phía thượng nguồn con sông.

Một hôm sau khi xỉa răng xong, ngài thả cái tăm xuống dòng nước; cố ý để cho nó vướng vào búi tóc của Jàtimanta, vì vậy, trong khi kẻ ấy đang tắm trong dòng nước sông, cái tăm ấy vướng vào búi tóc ông.

– Đồ súc sinh!

Ông nói, trong khi thấy cái tăm:

– Nó từ đâu đến đây với cái đồ phá hoại này. Ta phải tìm xem.

Ông liền đi ngược dòng, khi thấy bậc Đại Sĩ liền hỏi:

– Ông thuộc giai cấp nào?

– Ta là một Chiên đà la.

– Có phải ông đã thả cây tăm xuống sông chăng?

– Chính phải?

– Đồ súc sinh, quân tồi tàn hạ đẳng! Đồ mắc dịch, không được ở đây! Mà phải đi xuống chỗ hạ lưu kia.

Song khi ngài xuống ở vùng hạ lưu, cái tăm ngài thả trôi ngược dòng nước, vẫn vướng vào tóc Jàtimanta. Ông mắng:

– Quân đáng nguyền rủa! Nếu ngươi ở đây trong bảy ngày nữa , đầu ngươi sẽ tan thành bảy mảnh.

Bậc Đại Sĩ suy nghĩ:” Nếu ta buông mình theo cơn thịnh nộ với gã này, thì ta không giữ được công đức, song ta sẽ tìm cách phá tan lòng kiêu mạn của gã”.

Vào ngày thứ bảy, ngài ngăn cản mặt trời mọc, cả trần gian đều tối tăm nên dân chúng kéo đến vị tu khổ hạnh Jàtimanta và hỏi:

– Thưa Tôn giả, có phải chính ngài ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Gã đáp:

– Việc đó không phải do ta làm, mà có một lão Chiên đà la sống gần bờ sông, chắc lão ấy làm đấy.

Sau đó dân chúng đến gặp bậc Đại Sĩ và hỏi lại:

– Thưa Tôn giả, có phải chính Tôn giả ngăn cản mặt trời mọc chăng?

Ngài đáp:

– Này các hiền hữu, chính phải!

– Tại sao thế? Họ hỏi.

– Vị tu khổ hạnh được các hiền hữu quý mến đã phỉ báng ta, một người vô tội, vậy khi nào vị đó đến quỳ dưới chân ta để xin thương xót, thì ta mới để cho mặt trời mọc lên.

Dân chúng đi kéo lê kẻ ấy rồi thả ông xuống trước chân bậc Đại Sĩ và cố sức vỗ về ngài vừa nói:

– Thưa Tôn giả, xin cho mặt trời mọc.

Song ngài đáp:

– Ta không thể để mặt trời mọc được vì nếu ta làm như thế, đầu kẻ này sẽ vỡ thành bảy mảnh.

Họ hỏi:

– Thưa Tôn giả, vậy chúng tôi phải làm gì?

– Hãy đem cho ta một cục đất!

Họ đem lại một cục đất.

– Nào, hãy đặt cục đất lên đầu kẻ khổ hạnh này, rồi kéo gã xuống nước.

Sau khi sắp đặt mọi việc này xong, ngài để cho mặt trời mọc lên. Vừa khi mặt trời được di chuyển tự do, cục đất nứt thành bảy mảnh, còn kẻ tu khổ hạnh nhảy tùm xuống nước.

Sau khi đã hàng phục gã như vậy, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Mười sáu ngàn Bà la môn kia hiện ở đâu?” Ngài nhận ra bọn ấy đang ở với vua Mejjha, và cũng quyết định đi hàng phục họ, nên dùng thần lực, ngài hạ xuống vùng ngoại thành, cầm bình bát trong tay, đi khất thực. Khi các Bà la môn thấyđược ngài, họ bảo nhau:

– Chỉ để lão ở đây 2 ngày thôi là lão sẽ làm ta mất nơi nương tựa!

Bọn ấy vội vàng chạy đến yết kiến vua và kêu to:

– Tâu đại vương, có một lão khoác lác đại bịp đến đây, xin hãy bỏ tù lão!

Vua rất sẵn sàng. Còn bậc Đại Sĩ với bát thức ăn đủ loại đang ngồi ăn bên bức thành trên một chiếc ghế dài. Tại đó trong khi ngài đang bận ăn uống, đám thị vệ của vua tìm đến, lấy kiếm đánh ngài rồi giết đi. Sau khi mạng chung, ngài tái sanh lên cõi Phạm Thiên.

Chuyện kể rằng, trong kiếp này Bồ tát là một ” người luyện thú mongoose” (một giống chồn ở Ấn Độ) và ngài phải chịu chết vì công việc hạ tiện này. Các vị thần nổi giận liền trút xuống toàn vương quốc Mejjha một trận lửa tro nóng rực quét sạch nước ấy ra khỏi các nước kia.

Vì thế có lời lưu truyền:

  1. Người ta kể chuyện cả non sông
    Của xứ Mejjha phải diệt vong,
    Nước kia bị xóa tan bờ cõi
    Vì giết Mà-tan, bậc lẫy lừng.

*

Khi bậc Đạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên vua Udena phỉ báng các vị tu khổ hạnh, mà xưa kia cũng thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua Udena là Mandavya và Ta chính là bậc Hiền trí Màtanga.

-ooOoo-

  1. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền thân Citta-Sambhùta)

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang quả…..

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hai người bạn đồng tu của Tôn giả Mahà Kassapa (Đại Ca Diếp) sống rất hòa hợp với nhau.

Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, đã phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bình; ngay cả khi khất thực, hai vị cũng cùng đi ra và cùng trở về với nhau, hai vị không hề chịu rời nhau.

Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang ngồi tán thán tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo Sư bước vào, hỏi các vị đang bàn luận chuyện gì khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình với Ngài… Ngài đáp:

Này các Tỳ kheo, tình bạn này chỉ trong một đời sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc trí nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền suốt qua cả ba bốn đời sống.

Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Avanti, tại kinh thành Ujjeni, có vị đại vương trị vì mệnh danh là vua Avanti. Thuở ấy một làng Candàla (Chiên đà la: vô loại, hạ đẳng) ở ngoại thành Ujjeni là nơi bậcĐại Sĩ ra đời. Một người khác sinh làm con trai của bà dì Ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhùta.

Khi hai cậu bé lớn lên và đã học được nghề quét bằng chổi trong dòng họ Chiên đà la rồi, liền nghĩ rằng hai cậu sẽ đi trình diễn nghề này tại cổng thành. Vì thế một cậu biểu diễn tại Bắc môn, một cậu tại Đông môn. Bấy giờ trong kinh thành này có hai phụ nữ giỏi nghề xem tướng, một cô là con gái một thương nhân, và cô kia là con một tế sư. Hai cô gái ấy đi vui chơi trong công viên, sau khi bảo gia nhân đem theo thực phẩm đủ loại cứng, loại mềm, vòng hoa hương liệu, thì ngẫu nhiên một cô đi ra cổng Bắc, và một cô ra cổng phía Đông. Khi thấy hai thanh niên Chiên đà la đang biểu diễn tay nghề, hai cô hỏi:

– Chúng là ai đây?

Rồi hai cô được cho biết đó là hai kẻ Chiên đà la. Hai cô bảo:

– Thấy điềm này xui xẻo lắm.

Và sau khi rửa mắt bằng nước hương thơm, cả hai đều đi về. Sau đó, đám dân chúng la lớn:

– Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bay đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!

Chúng đánh đập hai anh em cùng họ ấy một trận nhừ tử, làm cả hai đau đớn ê chề. Khi hai người tỉnh dậy liền đi tìm nhau và kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình, rồi lại kêu gào và cố nghĩ cách xem phải làm gì đây. Cả hai suy nghĩ: “Tất cả việc khốn nạn này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Ta sẽ chẳng bao giời làm kẻ Chiên đà la nữa, mà ta phải dấu tung tích dòng họ để rồi đi tới Takkasilà, giả dạng các nam tử Bà la môn và học tập tại đó”.

Sau khi quyết dịnh như vậy, cả hai đến chỗ đó, theo đòi học tập với một giáo sư danh tiếng lẫy lừng. Thiên hạ đồn vang khắp cõi Diêm phù đề (Ấn độ) rằng có hai nam tử Chiên đà la đang làm thư sinh và giấu diếm tung tích gia tộc mình. Bậc Trí nhân Citta học tập thành công, song chàng Sambhùta thì không được như thế.

Một ngày kia có người dân làng mời vị giáo sư ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà la môn. Bấy giờ do ngẫu nhiên mưa suốt đêm ấy làm ngập lụt mọi hang hốc trên đường đi. Sáng sớm hôm sau, vị thầy giáo gọi Trí giả Citta vào và bảo:

– Này con , hôm nay thầy không đi được, vậy con đi cùng các nam tử kia, rồi làm lễ chúc phước lành và khi con ăn thực phẩm của mình xong, hãy mang về những món để dành cho thầy.

Do đó, ngài đem các thanh niên Bà la môn khác cùng lên đường. Trong khi các thanh niên tắm rửa và súc miệng, dân chúng dọn món cháo gạo đã chuẩn bị sẵn sàng để mời khách quý và bảo:

– Để cho nó nguội đi.

Trước khi cháo nguội, đám thanh niên đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường, rồi đặt các bát cháo trước mặt họ. Trí óc Sambhùta có hơi trì độn, nên tưởng cháo đã nguội, liền múc một hớp bỏ vào miệng, song nó làm chàng nóng bỏng như cục sắt nóng đỏ. Trong lúc đau đớn, chàng quên mất vai trò của mình, liền liếc qua bậc Hiền trí Citta và nói bằng ngôn ngữ của dân Chiên đà la:

– Cháo nóng quá phải chăng?

Chàng kia quên mất bản thân mình, nên đáp lại theo ngôn ngữ của họ:

– Nhổ ra , nhổ ra mau!

Nghe thế, đám thanh niên nhìn nhau bảo:

– Loại ngôn ngữ gì thế này?

Lúc ấy bậc Trí giả Citta nói lời chúc lành cho tất cả.

Khi các chàng trai kia về nhà, họ tụ tập thành tụm năm túm ba và ngồi bàn luận về những từ ngữ đã được dùng kia. Khi nhận ra đó là ngôn ngữ của bọn Chiên đà la, họ kêu to:

– Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Chúng bay đã lừa dối cả bọn ta lâu nay, cứ giả dạng làm Bà la môn!

Rồi họ đánh đập hai vị ấy. Có một người tốt bụng xua đuổi họ ra và nói:

– Đi ngay! Vết nhục nằm trong huyết thống kia. Phải đi ngay! Đến đâu đó mà làm ẩn sĩ khổ hạnh!

Rồi các thanh niên Bà la môn trình với thầy giáo rằng, đấy là hai kẻ Chiên đà la giả dạng.

Hai chàng đi vào rừng sống đời sống khổ hạnh tại đó, sau một thời gian chết đi, tái sanh làm hai chú Nai con bên bờ sông Nerañjarà (Ni liên thuyền). Từ lúc sinh ra, chúng luôn luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn chợt thấy chúng dưới một gốc cây đang ngồi nhai lại, âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao tới, giết trọn luôn cả hai bằng nhát lao ấy.

Sau đó chúng tái sanh làm con của chim Ưng biển trên bờ Nerbudda (Niết bút). Cũng tại đó, chúng lớn lên sau khi ăn xong lại ôm ấp đầu sát đầu, mỏ kề mỏ. Một kẻ bẫy chim trông thấy, bắt cả hai và giết đi.

Sau đó bậc Trí giả tái sanh tại Kosambi, làm con vị tế sư, còn bậc Trí Sambhùta tái sanh làm vương tử của vua Uttarapañcala. Ngay từ ngày được đặt tên, hai hài nhi ấy đã có khả năng nhớ lại các đời trước của mình. Song Sambhùta không thể nào nhớ hết tất cả mà không bị gián đoạn, và cậu chỉ nhớ đời thứ tư hoặc đời Chiên đà la thôi, còn Citta lại nhớ đủ cả bốn đời theo thứ tự.

Khi Citta được 16 tuổi, chàng xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn, tu tập làm phát khởi thắng trí do thiền định và an trú trong hỷ lạc Thiền định. Còn bậc trí giả Sambhùta, sau khi phụ vương băng hà, liền được phong chiếc lọng trắng trên đầu vào ngày phong vương kia, giữa quần thần đông đảo, ngài làm một bài ca tức vị, rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn.

Khi quần thần nghe xong, đám cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau:

– Đây là khúc đăng quang của đức Chúa thượng chúng ta!

Và dần dà với thời gian, dân chúng đều ca khúc hát ấy vì đó là Thánh đạo ca được vua yêu thích. Bậc Trí giả Citta đang an trú ở vùng Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhùta của ngài đã được giương chiếc lọng che ấy chưa. Khi nhận thấy việc đã xong, ngài suy nghĩ:” Ta chẳng bao giờ đủ sức giáo hóa một vị Tân vương còn trẻ, song khi nào em ta già rồi, ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm ẩn sĩ khổ hạnh”.

Suốt năm mươi năm ngài không hề đi thăm viếng, và trong thời gian ấy, vua có đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lực của ngài, Trí giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển đáp xuống, ngồi trên bảo tọa nghi lễ như một bức tượng bằng vàng.

Vừa lúc ấy, một chàng trai kiếm củi, vừa làm việc vừa hát khúc đạo ca ấy. Bậc Trí giả Citta gọi chàng trai lại gần, chàng tiến đến đảnh lễ cung kính rồi đứng chờ. Trí giả Citta bảo chàng:

– Từ sáng đến giờ, cậu chỉ hát mãi khúc đạo ca ấy, thế cậu không biết khúc nào nữa chăng?

– Thưa Tôn giả, có chứ, con biết nhiều khúc ca lắm, song đây là những lời ca được đức vua yêu chuộng, vì thế con không hát khúc nào khác.

– Thế không có ai biết hát một điệp khúc đáp lại khúc ca của đức vua chăng?

– Thưa Tôn giả, con biết hát nếu con được dạy khúc ca ấy.

– Thế thì được, hễ khi nào đức vua hát hai khúc trên, thì cậu hát khúc này làm khúc thứ ba đấy.

Rồi ngài ngâm một khúc và bảo:

– Bây giờ cậu hãy đi hát khúc này trước đức vua, ngài sẽ hài lòng và quý trọng cậu lắm.

Chàng trai vội vàng chạy về tìm mẹ, bảo mẹ mặc cho chàng y phục thật tề chỉnh rồi đến cửa cung vua, nhờ người tâu lên rằng có một chàng trai xin được yết kiến để hát một khúc ca đáp lời đức vua. Vua bảo:

– Cho nó vào.

Khi chàng trai tiến lên, đảnh lễ ngài xong, vua phán:

– Chúng tâu rằng cậu muốn hát một khúc đáp lời trẫm có phải chăng?

Chàng trai đáp:

– Tâu Chúa thượng, đúng vậy, xin ngài triệu tập quần thần để cùng nghe.

Ngay khi triều đình tụ họp xong, chàng tâu:

– Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng ca khúc hát của ngài trước, rồi thần sẽ xin hát lời đối lại.

Vua liền ngâm đôi vần kệ:

1- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả sinh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Sam-bhù, ta thấy, lớn lên thành
Hùng cường, vĩ đại và như thế
Công đức ngài đem đến quả lành

2- Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
Không nghiệp gì không có quả mang,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Cit-ta ai biết, có vinh quang
Giống như phần trẫm, tâm hiền hữu
Có được an vui lợi lạc chăng?

Khúc đạo ca trên vua chấm dứt, chàng trai liền đáp vần thứ ba:

3-Thiện nghiệp chóng chầy đều đạt quả
Nghiệp nào mà chẳng quả lai sinh,
Không gì vô ích tâu Hoàng thượng,
Xin ngắm Cit-ta tại cổng thành,
Chẳng khác quân vương, tâm vị ấy
Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nghe lời này vua lại ngâm vần kệ thứ tư:

4- Vậy có phải chăng chính Cit-ta,
Hay chàng nghe được chuyện ngày xưa
Từ ngài, hay một người nào khác?
Ôi ngọt ngào thay khúc Thánh ca!
Ta chẳng sợ gì, ta sẽ thưởng
Ngôi làng hay tặng vật làm quà.

Tiếp theo chàng trai ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hạ thần nào có phải Cit-ta,
Song chuyện ấy thần được biết qua,
Chính một hiền nhân vừa dạy bảo:
“Đi ngâm lời hát đối dâng vua,
Rồi chàng sẽ được ngài ban thưởng,
Tay của ngài ân nghĩa đậm đà”.

Nghe lời này, vua suy nghĩ: “Chắc hẳn đó là hiền huynh Citta của ta rồi, ta muốn đi tìm ngài ngay”. Thế là vua ra lệnh cho quần thần qua hai vần kệ sau:

6- Các vương xa hãy thắng yên cương,
Chạm trổ tinh vi, đẹp tuyệt trần,
Đem buộc cân đai vào bảo tượng,
Điểm trang vòng cổ sáng huy hoàng.

7- Quần thần hãy đánh trống liên hoan,
Bảo thổi tù và ốc dậy vang,
Chuẩn bị vương xa nhanh bậc nhất
Bởi vì trẫm muốn sớm lên đàng
Hôm nay tìm thảo am cô tịch,
Yết kiến hiền nhân trước tọa sàng.

Vua nói vậy xong, liền ngự lên vương xa lộng lẫy và vội vàng đến ngay cổng ngự viên. Tại đó ngài dừng xa giá và đến gần Hiền giả Citta, đảnh lễ rất cung kính rồi ngồi xuống một bên, lòng tràn ngập hân hoan, ngài ngâm vần kệ thứ tám:

8- Thật quý thay là Thánh khúc xưa,
Trẫm từng ca hát thật say sưa,
Trong khi dân chúng đông dồn dập,
Quần tụ chung quanh chật cả nhà;
Nay đến đây xin chào Thánh giả,
Hân hoan, hạnh phúc ngập tâm ta.

Từ lúc tái ngộ Hiền giả Citta, vua hoan hỷ ra lệnh làm mọi sự cần thiết và truyền chuẩn bị bảo tọa dành cho vị hiền huynh, rồi ngài ngâm vần kệ thứ chín:

9- Tọa sàng, nước mát rửa bàn chân,
Đúng pháp là đem lễ cúng dâng,
Thực phẩm dành cho nhiều khách quý,
Xin hiền huynh nhận, trẫm ân cần.

Sau lời mời ngọt ngào này, vua ngâm vần kệ khác để tặng bạn hiền một nửa giang san của mình:

10- Bảo làm cho nhộn nhịp tưng bừng,
Nơi chốn hiền huynh sẽ trú thân,
Truyền đem nữ tỳ theo phục vụ,
Ôi, ta muốn tỏ với hiền nhân
Lòng ta yêu quý ngài tha thiết,
Xin hãy cùng ta ngự trị dân.

Khi nghe những lời này, bậc Trí giả Citta thuyết giáo cho vua qua sáu vần kệ:

11- Hỡi Đại vương, nhìn quả ác hành,
Thấy bao lợi lạc thiện hành sinh,
Ta mong điều ngự thân tu tập,
Con, của không lôi cuốn trí mình.

12- Trăm năm tròn cuộc sống người đời,
Năm tháng theo nhau kế tiếp trôi,
Khi đến hạn kỳ, người héo úa,
Tựa hồ lau sậy nát tan thôi.

13- Thế nghĩa gì hoan lạc, ái ân,
Nghĩa gì săn đuổi cảnh giàu sang?
Nhiều con, nghĩa lý gì? Nên biết,
Hỡi Đại vương, ta thoát buộc ràng.

14- Ta biết, vì đây chính thật chân,
Ta không qua khỏi tử ma thần,
Nghĩa gì vàng bạc và ân ái,
Khi bạn đến thời phải mạng vong?

15- Giòng giống hạ đẳng bước hai chân,
Hạ liệt Chiên đà nhất thế nhân,
Khi nghiệp chín làm phần thưởng quý,
Hai ta cùng có một tiền thân:

16- Tại A-van, bạn trẻ Chiên đà,
Là cặp Nai vàng bến nước xưa,
Đôi chú chim Ưng bờ Niết bút,
Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.

Sau khi đã nói rõ các tiền thân hạ liệt của mình trong quá khứ như vậy, tại đây trong đời hiện tại này, ngài tuyên thuyết tính Vô thường của mọi pháp hữu hình và ngâm bốn vần kệ làm phát khởi tinh tấn lực.

17- Đời người ngắn ngủi chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Pañcala, thực hiện,
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác,
Đưa đẩy vào đau khổ đoạn trường.

18- Đời người ngắn ngủi, chết sau cùng,
Già cả không nơi chốn trú thân;
Này hỡi Pañcala, thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ quân vương:
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đưa đẩy vào trong hạ ngục tầng.

19- Nhân thế ngắn sao, chết cuối cùng,
Người già không chốn để nương thân,
Pañcala hỡi, xin thành tựu
Những việc ta khuyên nhủ Đại vương:
Xin hãy xa lìa bao vọng nghiệp,
Nhiễm ô toàn ác dục tham sân..

20- Đời người ngắn ngủi, chết vong thân,
Bệnh, lão làm suy thế lực dần,
Ta chẳng làm sao ra thoát được;
Pañcala thực hiện lời răn:
Tránh xa tất cả hành không thiện
Đưa đẩy vào trong ngục hạ tầng.

Vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại Sĩ khuyến giáo, liền đáp lời qua ba vần kệ:

21- Lời kia, Tôn giả, quá toàn chân,
Ngài dạy lời như bậc Thánh nhân,
Song dục tham ta đều khó bỏ,
Với người như trẫm, chúng vô cùng.

22- Như voi chìm xuống vũng bùn nhơ,
Không thể bò lên, dẫu thấy bờ,
Trẫm cũng lún sâu bùn dục lạc,
Nên không theo nổi Đạo Thầy tu!

23- Như mẹ như cha dạy bảo con,
Thành người sống hạnh phúc, hiền lương,
Dạy ta hạnh phúc làm sao đạt,
Xin chỉ cho ta bước đúng đường.

Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nhà vua:

24- Ngài không thể bỏ, hỡi Quân vương,
Các dục tham đây cũng thế thường:
Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng,
Trị sao dân chúng thấy công bằng

25- Gửi sứ thần đi khắp bốn phương,
Mời người khổ hạnh, Bà la môn,
Cúng dường thực phẩm, nhà an nghỉ,
Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

26- Đem thức ăn uống để đãi đằng
Bà la môn, Thánh giả, Hiền nhân,
Tâm đầy thành tín, ai ban phát,
Và trị dân tài đức hết lòng,
Người ấy sẽ đi lên thượng giới,
Lỗi lầm không có, lúc vong thân.

27- Song nếu vây quanh bởi má hồng,
Dục tham, ngài thấy, quá say nồng,
Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,
Và hát hò lên giữa đám đông.

28- “Dưới trời không mái để che thân,
Bầy chó xưa cùng nó ngủ lăn,
Mẹ nó cho ăn lúc bước vội,
Mà nay làm một vị vương quân.

Đó là lời khuyến giáo của bậc Đại Sĩ. Rồi ngài lại bảo:

– Ta đã khuyên nhủ Đại vương rồi. Bây giờ Đại vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại vương, song ta sẽ tiếp tục theo đúng nghiệp quả của chính ta làm.

Sau đó ngài bay vụt lên không, phủi bụi bặm trên đôi chân ngài, giã từ vua trong dáng điệu khinh thường, rồi đi về vùng Tuyết Sơn.

Còn phần vua trông thấy cảnh này, lòng vô cùng xúc động, liền giao quốc độ cho thái tử, triệu tập quân sĩ thẳng hướng tiến về vùng Tuyết Sơn. Khi bậc Đại Sĩ nghe vua đến, liền bước ra cùng đám hiền nhân đồ đệ của ngài đón tiếp vua, và truyền giới cho vua sống đời Phạm Hạnh rồi dạy vua phương tiện làm phát khởi Thiền định. Vua tu tập chứng đắc Thắng trí do Thiền định, vì vậy cả hai vị đều cùng được sinh lên cõi Phạm Thiên.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba bốn đời sống.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là trí giả Sambhùta và Ta chính là Trí giả Citta.

-ooOoo-

499- Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền thân Sivi)

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân….

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về lễ vật cúng dường tối thượng.

Trường hợp này đã được kể đầy đủ trong Chương VIII ở số 424. Tiền thân Savìra. Song tại đây vào ngày thứ bẩy, vua dâng đủ tất cả vật cúng dường và thỉnh cầu lời tùy hỷ; tuy nhiên, bậc Đạo Sư ra đi mà không tán thán công đức của vua. Sau buổi điểm tâm, vua đi đến tịnh xá và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, vì cớ gì Thế Tôn không đáp lời tùy hỷ hôm ấy?

Bậc Đạo Sư nói:

– Thưa Đại vương, hội chúng kia không thanh tịnh.

Ngài lại tiếp tục thuyết Pháp, ngâm vần kệ bắt đầu bằng câu:” Người hạ tiện sẽ không lên Thiên giới (Pháp cú 177)”.

Vua đầy hoan hỷ bày tỏ lòng tôn kính đối với đức Như Lai bằng cách dâng chiếc thượng y của xứ Sivi trị giá một ngàn đồng tiền; sau đó vua trở về thành.

Ngày hôm sau trong Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về chuyện ấy:

– Này các Hiền giả, vua Kosala đã cúng dường lễ vật tối thượng, và chưa hài lòng với việc ấy, nên sau khi đấng Thập Lực thuyết giáo cho vua ấy, vua liền dâng chiếc y của xứ Sivi trị giá cả một ngàn đồng tiền vàng! Quả thật vua không hề thỏa mãn với việc cúng dường!

Bậc Đạo Sư bước vào, và hỏi các vị đang bàn việc gì khi ngồi đó. Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, bố thí ngoại tài quả thật là điều có thể thỏa đáng được, song các bậc trí nhân ngày xưa đã bố thí cho đến khi khắp cả Diêm phù đề đều vang danh lừng lẫy, mỗi ngày bố thí cả sáu trăm ngàn đồng tiền, vẫn chưa thỏa mãn với việc bố thí ngoại tài, và nhớ lại câu phương ngôn: “Hãy đem cho cái gì ta yêu quý nhất và từ tâm sẽ sinh khởi”, cho nên các vị ấy đã móc đôi mắt mình ra tặng những kẻ nào đòi xin chúng.

Cùng với những lời này; Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi đại đế Sivi cai trị tại kinh thành Aritthapura trong quốc độ Sivi. Bậc Đại Sĩ sinh ra làm vương tử. Triều thần đặt tên ngài là Vương tử Sivi. Khi ngài lớn lên, ngài đi đến Takkasikà học tập tại đó, xong trở về chứng tỏ tài năng kiến thức của ngài trước vua cha nên được phong làm phó vương.

Lúc phụ vương băng hà, ngài lên ngôi vua và từ bỏ các ác đạo, ngài hành trì Thập vương pháp và trị dân rất chân chánh. Ngài truyền xây sáu bố thí đường tại bốn cổng thành, giữa kinh thành và ngay cửa cung của ngài. Ngài bố thí rất hào phóng mỗi ngày sáu trăm ngàn đồng tiền vào các ngày mồng tám, mười bốn và ngày rằm, ngài chẳng hề quên thăm viếng các bố thí đường để xem xét bố thí được thực hành ra sao.

Vào một ngày trăng tròn kia , chiếc lọng hoàng gia đã được giương lên từ sáng sớm và ngài ngự trên ngai vàng suy ngẫm về các thí vật ngài đã ban phát. Ngài tự nghĩ: “Trong tất cả các tài vật bên ngoài, chẳng có món gì ta không đem cho hết, song cách bố thí này chưa làm ta hài lòng. Ta muốn bố thí vật gì thuộc về bản thân ta. Ðược rồi hôm nay ta đến bố thí đường phát nguyện rằng nếu có người nào không xin một vật gì đó ngoài thân ta, lại nói rõ tên một phần thân thể ta, nếu người ấy muốn nói đến chính quả tim ta, ta sẽ quyết lấy dao xẻ phăng lồng ngực ta và chẳng khác nào ta nhổ lên một cộng sen từ hồ nước phẳng lặng, ta sẽ móc lấy quả tim ta đang chảy máu từng cục đem cho người ấy.

Nếu người ấy muốn xin thịt ta, ta sẽ xẻ thịt ra từ thân thể và cho nó, như thế ta dùng cái dao mà khắc chạm tấm thân này. Người đó cứ nói đến máu của ta, ta sẽ lấy máu ta nhỏ từng giọt vào miệng người đó, hoặc đổ đầy một chén rồi đem cho, hoặc nữa, giả sử có ai bảo: “Hạ thần không làm nổi việc nhà, xin hãy đến làm gia nô tại nhà hạ thần”, ta nhận mình là nô lệ và ta sẽ làm hết các việc nô dịch. Hoặc giả có ai đó xin đôi mắt ta, ta sẽ móc mắt ra cho nó như người ta lấy lõi của cây dừa nước”. Ngài nghĩ thầm như vậy:

Nếu thí tài gì thuộc thế nhân,
Dẫu là đôi mắt, chẳng hề ban,
Giờ đây ta sẽ đem ban bố,
Lòng chẳng hãi kinh, thật vững vàng.

Thế rồi ngài tắm mình với mười sáu bình nước hoa thơm và trang sức cực kỳ lộng lẫy và sau một buổi cơm đầy cao lương mỹ vị, ngài ngự lên một con voi được tô điểm cân đai rất rực rỡ đưa ngài đến đại bố thí đường.

Khi Sakka ( Ðế Thích) Thiên chủ nhận thấy quyết tâm của ngài liền suy nghĩ: “Vua Sivi đã cương quyết đem đôi mắt ngài bố thí cho kẻ nào ngẫu nhiên đến xin ngài. Thế ngài có đủ hùng lực để thực hiện việc đó hay chăng?

Thiên chủ quyết định đi thử thách ngài, nên giả dạng một Bà la môn già mù mắt, Thiên chủ đứng trên một chỗ cao, khi đức vua bước vào bố thí đường, Thiên chủ đưa tay ra, kêu lớn:

– Vạn tuế Ðại vương!

Lúc ấy vua lái vương tượng về phía Thiên chủ, phán bảo:

– Này Bà la môn ông nói gì vậy?

Thiên chủ đáp:

– Tâu Ðại vương, trên cõi thế gian này không nơi nào không vang dậy phương danh về từ tâm hào phóng bố thí của Ðại Vương. Nay lão đã mù lòa, còn Ðại vương có đủ hai mắt.

Rồi Thiên chủ ngâm vần kệ đầu để xin một con mắt;

1- Chẳng có mắt, nên chính lão già,
Ðến xin con mắt, tự phương xa,
Lão cầu Chúa thượng ban con mắt
Một mắt cùng nhau mỗi chúng ta.

Khi bậc Ðại Sĩ nghe lời này, ngài suy nghĩ:” Chính đó là chuyện mà ta suy nghĩ ở hậu cung trước khi ta đến đây kia! Ồ cơ duyên đến mới tuyệt diệu làm sao chứ! Tâm nguyện của ta hôm nay sẽ được thành tựu, ta sẽ bố thí một tài vật mà chưa một người thế tục nào từng ban phát”, và ngài ngâm vần kệ thứ hai:

2- Ai đã dạy ông bước đến đây,
Ðể xin một mắt , lão ăn mày?
Ðây phần thân thể người cao trọng,
Chúng bảo xa lìa khó lắm thay!

Các vần kệ sau là do hai vị ngâm để đối đáp với nhau:

Lão Bà la môn:

3- Su-ja Phu tướng, chính nơi đây,
Người gọi Ma-gha cũng hiệu này,
Ngài dạy lão về đây yết kiến,
Van nài cho được một mắt ngay.

4- Thí tài tối trọng đại, mong cầu
Chúa thượng ban già một bảo châu,
Xin chớ chối từ già một mắt,
Thí tài tối trọng, đứng hàng đầu,
Như lời thế tục thường hay nói:
“Thật khó cho người dứt bỏ sao!”

Vua Sivi:

5- Ước nguyện làm ông đến tận đây
Trong lòng ông khởi ước như vầy,
Cầu mong nguyện ước kia thành tựu,
Ðạo sĩ, cầm đôi mắt trẫm này!

6- Ông chỉ xin ta một mắt thôi,
Nhìn xem! Ta bố thí tròn đôi!
Hãy đi với nhãn quang hoàn hảo
Trước mắt nhìn theo của mọi người,
Vậy ước nguyện ông mong thực hiện
Giờ đây hẳn đã đạt thành rồi!

Ðức vua đã nói nhiều như thế. Song nghĩ rằng nếu ngài tự móc mắt của mình ra mà tặng ngay tạiđó, vào lúc ấy, thì không thích hợp, nên ngài đem vị Ba la môn cùng vào nội cung với ngài, và khi ngự lên ngai vàng, ngài truyền lệnh triệu một vị phẫu thuật sư tên là Sivaka vào chầu. Rồi ngài phán:

– Khanh hãy lấy mắt trẫm ra.

Lúc bấy giờ cả kinh thành vang dậy nguồn tin rằng đức vua muốn cắt đôi mắt ngài ra để bố thí cho một lão Bà la môn. Sau đó vị đại tướng quân cùng với các viên quan khác và mọi người thân thuộc của vua, từ trong kinh thành lẫn hậu cung đều tề tựu cùng nhau và ngâm ba vần kệ để xin vua từ bỏ ý định trên:

7- Xin đừng cho mắt, tấu Minh quân!
Chúa thượng ôi, đừng bỏ chúng thần!
Bố thí san hồ, tiền, bảo ngọc,
Và nhiều vật khác quý vô ngần.

8- Cho bầy tuấn mã đủ yên cương,
Bảo kéo đoàn xa giá xuống đường,
Chúa thượng truyền xua đoàn bảo tượng
Cân đai tuyệt mỹ rặt toàn vàng.

9- Các vật này xin Chúa thượng ban,
Chúng thần mong hộ chúa bình an,
Toàn dân trung tín cùng xa pháp,
Tề tựu quanh vương vị xếp hàng.

Vua lập tức đáp lời, ngâm ba vần kệ:

10- Tâm kẻ muốn ban bố, phát nguyền,
Về sau lại thấy chẳng trung kiên,
Cổ mình tự đặt vào thòng lọng
Che dấu nằm sâu dưới đất liền.

11- Tâm nào đã thệ nguyện thi ân,
Sau lại thấy lòng chẳng thuỷ chung,
Thật lỗi lầm hơn là tội ác,
Phải đày đọa ngục Dạ ma cung.

12- Ðừng cho gì nếu chẳng ai xin,
Cũng chớ cho ai thứ chẳng thèm,
Vậy vật này đây hành khất muốn
Cầu xin, trẫm bố thí ngay liền.

Lúc ấy triều thần vừa hỏi:

– Vậy Chúa thượng ước nguyện điều gì khi bố thí cặp mắt của Chúa thượng?

Họ vừa ngâm vần kệ:

13- Thọ mạng, sắc, quyền lực, lạc hoan,
Ðâu là phần thưởng, tấu Minh quân?
Lực nào thúc dục Ngài hành động,
Chúa thượng Sivi của quốc dân,
Sao lợi gì cho đời kế vậy,
Ngài đành bỏ cặp mắt mình vàng?

Vua đáp hội chúng qua vần kệ:

14- Như vậy, trong khi muốn cúng dường,
Ðích ta chẳng nhắm đạt vinh quang,
Nhiều con, nhiều của, nhiều vương quốc,
Ðể nắm quyền cai trị thế gian.
Ðây chính là con đường Thánh thiện,
Từ xưa của các bậc Hiền nhân;
Tâm ta nồng nhiệt hằng mong ước
Ðem mọi thí tài để phát ban.

Trước lời lẽ của bậc Ðại sĩ, quần thần không đáp được nữa, vì thế bậc Ðại sĩ ngâm kệ bảo Sivaka, vị phẫu thuật sư:

15- Bạn hiền, chí thiết, Sivaka,
Xin hãy làm theo lệnh của ta,
Bạn có đầy tài năng kỹ xảo,
Xin đem liền cặp mắt ta ra,
Vì đây là chính điều tâm nguyện,
Và tặng vào tay khất sĩ già.

Song Sivaka đáp:

– Tâu Chúa thượng , xin Chúa thượng suy nghĩ lại. Ðem cho cặp mắt không phải là chuyện tầm thường đâu!

– Này Sivaka, trẫm đã suy xét kỹ rồi. Xin đừng trì hoãn hay nói chuyện gì nhiều trước mặt trẫm nữa.

Lúc ấy Sivaka suy nghĩ: “Một phẫu thuật sư như ta lại lấy lưỡi dao đâm thủng cặp mắt một bậc quân vương thật chẳng hợp lý tí nào”. Vì vậy vị ấy giã một ít cây thuốc, chà xát một đóa sen xanh với thứ bột ấy rồi xoa khắp lên mắt phải của vua; con mắt liền đảo lộn tròng, hết sức đau đớn.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ kỹ, hạ thần có thể làm cho mắt bình phục được ngay.

– Này hiền hữu, cứ làm tiếp đi, xin đừng trì hoãn nữa.

Vị ấy lại xát thứ bột kia vào mắt và xoa bóp cho thuốc thấm: con mắt bật ra khỏi lỗ, nỗi đau đớn lại càng khốc liệt hơn trước nữa.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lại, ha thần vẫn có khả năng phục hồi con mắt ngài như cũ.

– Khanh hãy làm việc nhanh lên!

Lần thứ ba, vị phẫu thuật sư xoa một thứ bột mạnh hơn nữa và xát vào; nhờ công hiệu của thuốc này, con mắt đảo lộn và lăn ra ngoài lỗ mắt, dính lủng lẳng ở đầu sợi dây gân.

– Tâu Ðại vương, xin ngài hãy suy nghĩ lần nữa, nay hạ thần vẫn có thể phục hồi con mắt lại như trước.

– Thôi nhanh lên.

Nỗi đau đớn đến tột độ, máu chảy từng giọt, hoàng bào của vua vấy toàn máu đỏ. Ðám cung tần cùng triều thần quỳ xuống kêu van:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng hy sinh đôi mắt của Chúa thượng.

Cả đám người kêu gào thắm thiết. Vua cố chịu đựng đau đớn và bảo:

– Này hiền hữu, hãy nhanh lên.

– Xin vâng, tâu Chúa thượng.

Phẫu thuật sư đáp, tay trái cầm lấy tròng mắt, tay phải cầm dao cắt đứt sợi gân và đặt con mắt vào bậc Ðại Sĩ.

Ngài nhìn con mắt phải ấy bằng mắt trái vừa cố chịu đau vừa phán:

– Này Bà la môn hãy đến đây.

Khi vị Bà la môn đến gần, ngài nói tiếp:

– Nhãn quang Chánh giác còn thân thiết hơn nhãn quang này cả trăm lần, à không, cả ngàn lần kia. Ðấy, các người đã hiểu lý do trẫm hành động như vậy.

Rồi ngài trao mắt cho vị Bà la môn, lão liền đưa tay ra đón lấy mắt đặt ngay vào chỗ mắt mình. Nhờ thần lực của vị ấy, con mắt dính chặt vào đó chẳng khác nào đóa sen xanh nở ra.

Khi bậc Ðại Sĩ dùng mắt trái nhìn thấy con mắt kia trên mặt của vị Bà la môn, ngài kêu lớn:

– Ôi tốt lành thay là việc bố thí con mắt này của ta.

Rồi nỗi hân hoan sinh khởi trong tâm ngài làm rung động toàn thân ngay giây phút ấy, ngài lại bố thí luôn con mắt kia. Ðế Thích Thiên chủ cũng đặt con mắt này vào lỗ mắt của mình và từ cung vua, Thiên chủ ra đi, sau đó rời kinh thành trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người nhìn theo, rồi trở về Thiên giới.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm một vần kệ rưỡi:

16- Si vi chúa tể giục Si va
Hoàn tất tâm nguyện của đức vua,
Trao tặng Bà la môn tài thí vật,
Y sư lấy cặp mắt ngài ra,
Bà la môn có liền đôi mắt,
Chúa thượng giờ đây phải tối lòa.

*

Chẳng bao lâu, đôi mắt vua bắt đầu mọc lại, trong lúc chúng xuất hiện từ từ, và trước khi lên đến đỉnh cao của hai lỗ mắt, một cục thịt lớn dần bên trong lỗ như thể trái cầu bằng lông thú, tựa hồđôi mắt trên hình đứa trẻ nhồi bông, song nỗi đau đớn đã chấm dứt. Bậc Ðại Sĩ an nghỉ trong cung thất ít ngày.

Sau đó ngài suy nghĩ:” Một kẻ mù lòa còn dính líu gì đến việc trị nước nữa. Ta muốn giao quốc độ cho các triều thần, rồi vào ngự viên thành kẻ khổ hạnh, sống đời thanh tịnh”.

Ngài liền triệu tập quần thần, nói cho hội chúng nghe những việc ngài dự định làm. Ngài phán:

– Một người sẽ ở bên ta để rửa mặt, chăm sóc ta làm những gì cần thiết và phải buộc một sợi dâyđể dắt ta đi về nơi ẩn dật.

Sau đó ngài truyền gọi viên quan lái xe của ngài đến và ra lệnh cho người ấy chuẩn bị vương xa. Song triều thần không muốn ngài ra đi bằng xe ngựa, họ đưa ngài lên đường trong chiếc kiệu bằng vàng và đặt ngài xuống bên cạnh bờ hồ, đứng vây quanh ngài, canh phòng cẩn thận xong lại ra về. Còn vua ngồi trong kiệu suy nghĩ đến việc bố thí của mình.

Lúc ấy chiếc ngai của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ xem xét và nhận thấy lý do kia: “Ta sẽ ban thưởng vua một điều ước”, ngài suy nghĩ, “và làm đôi mắt của vua bình phục trở lại”.

Vì thế Thiên chủ đến chỗ ấy. Khi không còn cách xa bậc Ðại Sĩ mấy, Thiên chủ cất bước đi đi lại lại quanh đó.

*

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm các vần kệ sau:

17- Vài ngày qua cặp mắt vừa lành,
Bình phục dần nên lại hiện hình,
Ðại đế Sivi nuôi quốc độ
Triệu quan điều ngự của riêng mình;

18- “Ngự quan, chuẩn bị chiếc vương xa,
Rồi đến đây trình báo với ta,
Ta muốn vào khu rừng, thượng uyển,
Ðầy hồ sen súng mọc chen hoa”.

19- Quan đặt vua vào chiếc kiệu hoa,
Và đây, dừng kiệu ở bên bờ,
Su-ja Phu tướng, ngài Thiên chủ,
Xuất hiện, chính là Ðại Sakka.

– Ai đó?

Bậc Đại Sĩ kêu lên khi ngài nghe tiếng bước chân kia. Ðế Thích Thiên chủ liền ngâm vần kệ:

20- Chính ta là Thượng đế Sakka,
Ta đến đây tham kiến nhà vua,
Hãy chọn hồng ân, này Thánh chúa,
Điều gì ngài ước, nói cùng ta.

Vua đáp lời qua vần kệ khác:

21-Sinh lực, kho vô tận, bảo châu,
Ta đều bỏ lại hết đằng sau,
Thiên hoàng, ta chẳng mong gì nữa
Trừ chết, vì ta có mắt đâu!

Sau đó Thiên chủ hỏi:

– Này Ðại vương Sivi, ngài cầu mong cái chết vì ngài muốn chết hay vì ngài mù lòa?

– Tâu Thiên chủ, vìỉ ta mù lòa.

– Này Ðại vương, tài vật bố thí tự nó không phải là hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa, mà nó phải được bố thí với một cái nhìn hướng về đời sau. Tuy thế, vẫn còn có duyen cớ liên quan đến cuộc đời hiện tại này. Trước đây, người kia xin ngài chỉ một mắt, ngài lại cho cả hai, vậy ngài hãy phát nguyện nói lời Chân thật về việc đó.

Rồi Thiên chủ ngâm kệ:

22- Chúa tể của loài lưỡng túc nhân,
Hãy nguyền nói đúng lẽ toàn chân,
Nếu ngài tuyên bố lời chân thật,
Ðôi mắt ngài nay sẽ phục hoàn.

Nghe lời này, bậc Ðại sĩ đáp:

– Tâu Thiên chủ, nếu ngài muốn ban cho trẫm con mắt thì xin đừng cố tìm phương tiện gì khác nữa, mà hãy làm cho mắt trẫm phục hồi như là kết quả hạnh bố thí của trẫm thôi.

Thiên chủ bảo:

– Này Ðại Vương, dù ta được chúng gọi là Ðế Thích, Chúa tể chư Thiên, ta cũng không thể đem con mắt cho ai được cả; tuy thế, nhờ thiện quả từ hạnh bố thí của Ðại vương, chứ chẳng phải do việc gì khác, mà mắt của Ðại vương sẽ được phục hồi đó thôi.

Tiếp theo, vua ngâm kệ xác nhận việc bố thí của mình đã được thực hiện tốt đẹp chân chánh:

23- Loài nào bất kể, muốn cầu ân,
Hễ có ai nài nỉ lại gần,
Ai đến bất kỳ, xin bố thí,
Lòng ta cũng thấy thật thương thân:
Nếu lời Ðại nguyện này chân thật,
Cầu mắt ta nay sẽ hiện dần.

Ngay khi ngài vừa thốt những lời này, một con mắt của ngài xuất hiện ra trong lỗ mắt. Sau đó ngài ngâm đôi vần kệ để xin phục hồi con mắt kia:

24-Một đạo sĩ kia đến viếng ta,
Chỉ cần xin một mắt thôi mà,
Ta đà đem trọn đôi con mắt,
Bố thí La môn khất sĩ già.

25- Hoan hỉ càng nhiều, lạc thọ tăng,
Chính hành động ấy đã ban phần,
Nếu lời Nguyện ước này Chân thật,
Mong được mắt kia cũng phục hoàn.

Lập tức con mắt thứ hai xuất hiện, song đôi mắt này không phải là tự nhiên hay của thần linh nào. Con mắt do Ðế Thích Thiên chủ giả dạng Ba la môn ban cho, không thể là con mắt tự nhiên mà có được, ta phải hiểu như vậy; còn về phương diện khác, thì một con mắt thần linh không thể hóa hiện ra bất cứ sinh vật nào đã bị thương tật. Nhưng thật sự cặp mắt này được gọi là Nhãn quang Toàn chân và Tối thắng.

Vào lúc chúng xuất hiện, toàn thể triều thần tề tựu lại nhờ thần lực của Ðế Thích Thiên chủ; và Ðế Thích Thiên chủ đứng giữa hội chúng, cảm hứng ngâm đôi vần kệ tán thán đức vua:

26- Ðại đế Sivi bảo dưỡng dân!
Bài ca thánh thiện của Minh quân
Cho ngài được hưởng phần ân huệ
Vô giá này, đây cặp mắt thần.

27- Xuyên qua tường, núi, đá, đồng bằng,
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn,
Ðôi mắt ngài đây đều thấy suốt
Khoảng chừng trăm dặm ở mười phương.

Khi ngâm kệ xong, ngài vụt đứng trên không trước hội chúng này cùng với lời khuyến giáo bậc Ðại Sĩ phải tỉnh giác tu tập, rồi Thiên chủ trở về Thiên giới.

Còn bậc Ðại Sĩ được đám tùy tùng vây quanh, ngự xa giá về kinh thành trong cảnh uy nghi trọng thể và ngài bước vào cung điện mệnh danh Candaka hay Khổng tước Nhãn (Con mắt chim công)

Nguồn tin đức vua đã được phục hồi cặp mắt vang dậy khắp vương quốc Sivi. Toàn dân tập họp lại để yết kiến ngài cùng với các cống vật trong tay. Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Giờ đây hội chúng nàyđã tụ họp đông đủ, ta sẽ tán thán việc bố thí vừa rồi đã làm”. Ngài truyền lệnh dựng lên một ngôi đình ngay cổng thành, nơi đó ngài ngự trên môt vương toạ với chiếc lọng trắng hoàng gia che trên đầu ngài, triệu tập các hội đoàn, dân chúng, quân sĩ lại; rồi ngài phán:

– Này dân chúng Sivi, nay các người đã nhìn thấy cặp thiên nhãn này thì đừng có bao giờ ăn thứ gì mà không đem bố thí đi một ít!

Rồi ngài ngâm bốn vần kệ tuyên thuyết Pháp lành:

  1. Nếu mình được gợi ý thi ân,
    Nào ai có từ chối được chăng,
    Dù đó là phần cao quý nhất,
    Của mình, bảo vật giá vô ngần

29- Dân chúng Sivi hội họp đoàn,
Ðến đây, nhìn cặp mắt trời ban!
Xuyên qua tường đá , đồi, thung lũng
Bất cứ vật gì đứng cản ngăn
Ðôi mắt ta đều trông thấy suốt
Một trăm dặm trải khắp mười phương

30- Từ bỏ thân mình giữa thế nhân
Là điều cao quý nhất trên trần,
Ta đem bố thí mắt phàm tục,
Nên được trời cho cặp mắt thần.

31- Dân chúng này xem, hãy phát ban,
Nhường phần cho kẻ khác khi ăn,
Nếu làm việc ấy đầy tâm thiện,
Người sẽ sinh thiên chẳng lỗi lầm.

Ðức vua thuyết Pháp qua bốn vần kệ này, và về sau cứ mỗi nửa tháng, vào ngày Trai giới, và mỗi ngày rằm ngài lại thuyết Pháp qua các vần kệ trên liên tục trước đám dân chúng đông đảo quây quần. Nghe lời ấy, dân chúng bố thí và làm nhiều thiện sự, cho nên đã đi lên gia nhập hội chúng cõi trời thật đông đúc.

*

Sau khi bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này Ngài bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, các bậc trí nhân ngày xưa không thỏa mãn việc bố thí ngoại tài, nên đã bố thí cho bất cứ người nào ngẫu nhiên đến xin chính cả đôi mắt của mình lấy từ đầu ra nữa.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

-Vào thời ấy Ànanda là phẫu thuật sư Sivaka, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Thiên chủ Ðế Thích, hội chúng của đức Phật là toàn dân và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền thân Sirimanda)

Chuyện Thần nữ Cát Tường này sẽ được kể đầy đủ trong chuyện Ðường Hầm Lớn (Mahà-Ummagga) số 546.

-ooOoo-

  1. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền thân Rohanta Miga)

Hãi kinh thần chết hỡi Citta…..

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm ( Veluvana) về Tôn giả Ànanda (A-nan)đã hy sinh tính mạng mình.

Sự hy sinh này được miêu tả trong chương XXI, số 553. Tiền thân Culla-Hansa, tập V. ChuyệnĐiều phục con voi Dhanapàla (Tài hộ). Sau khi Tôn giả đã hy sinh tính mạng mình vì bậc Đạo Sư, Tăng chúng bàn tán việc ấy trong Chánh pháp đường.

– Này Hiền giả, Tôn giả Ànanda, sau khi đạt tri kiến đầy đủ về con đường tu tập Giáo pháp, đã hy sinh tính mạng mình vì đấng Thập lực (Dasabala: danh hiệu của đức Phật).

Bậc Đạo Sư bước vào, hỏi Tăng chúng nói chuyện gì trong khi ngồi tại đó. Tăng chúng trình bày với Ngài. Ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên vị ấy hy sinh tánh mạng vì Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho hội chúng nghe một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì Ba la nại, chánh hậu của vua tên là Khemà (Thái Hòa). Thời ấy Bồ Tát được sinh làm con Hươu ở vùng Tuyết Sơn có màu da vàng óng ả tuyệt đẹp, và em trai của Ngài là Citta Miga hay Hươu sao, và em gái ngài là Sutanà cũng có màu da như thế. Bấy giờ bậc Đại Sĩ có tên Rohanta làm chúa tể đàn hươu lớn. Vượt băng ngang qua hai rặng núi, vào đến rặng thứ ba, ngài sống ở bên hồ Rohanta và được cả bầy hươu nai tám mươi ngàn con vây quanh hầu hạ. Thời ấy ngài phải phụng dưỡng song thân ngài già cả mù lòa.

Bấy giờ một người thợ săn ở trong một làng săn gần Ba la nại đến vùng Tuyết Sơn và chợt thấy bậc Đại Sĩ. Lão trở về làng mình và vào lúc lâm chung, lão dặn con trai:

– Này con, ở một nơi nọ trong vùng đất cha săn bắn, có một con hươu màu vàng ròng, nếu bao giờđức vua chợt phán hỏi thì con hãy xin phép tâu trình với ngài về chuyện đó.

Một ngày kia hoàng hậu Khemà, trong một giấc mộng về sáng, nằm mơ thấy cảnh như vầy: Một con hươu màu vàng ròng ngồi trên một chiếc kim đôn thuyết pháp cho hoàng hậu nghe bằng giọng nói ngọt ngào như mật, chẳng khác gì tiếng chuông ngân vang. Song trước khi bài giảng chấm dứt, con hươu đứng lên và chạy mất, bà giật mình tỉnh dậy và kêu to:

– Bắt lấy con hươu!

Đám nữ tỳ nghe tiếng bà kêu, bật cười ròn rã:

– Đây là cung thất đóng kín mọi cửa lớn lẫn cửa sổ, ngay cả một mảy gió cũng không lọt vào được, giữa lúc này mà lệnh bà gọi lớn bảo bắt con hươu kia!

Đến khi ấy bà mới biết đó chỉ là giấc mộng. Song bà tự nhủ: “Nếu ta bảo đó là giấc mộng thì đức vua sẽ không để ý. Nhưng nếu ta bảo đó là nỗi ước ao của một thai phụ thì ngài sẽ quan tâm lo lắng ngay. Vậy ta quyết phải nghe cho được lời thuyết Pháp của chính con hươu màu hoàng kim ấy!”

Sau đó bà liền nằm xuống giả vờ ngã bệnh. Vua bước vào:

– Này ái khanh có việc gì thế? Ngài hỏi.

– Ôi tâu Chúa thượng, đó chỉ là nỗi ao ước tự nhiên của thần thiếp.

– Thế ái khanh muốn điều gì?

– Thần thiếp ước ao được nghe lời thuyết Pháp của một con hươu màu hoàng kim chân chánh.

– Kìa ái khanh, điều ái khanh ao ước không hề có: chẳng bao giờ có con vật nào là loài hươu hoàng kim cả.

Bà đáp:

– Nếu thần thiếp không được như ý, thần thiếp sẽ phải chết ngay lập tức.

Bà liền quay lưng lại về phía vua và nằm im. Vua bảo:

– Nếu có một con vật như thế trên đời này thì nó sẽ được bắt về ngay.

Sau đó vua hỏi các triều thần và các Bà la môn như trong chuyện Tiền thân “Khổng tước” (số 129, tập I) để xem thử có loài vật nào là hươu hoàng kim chăng. Khi được biết là hiện có, ngài triệu tập các thợ săn vào và hỏi:

– Trong các người, ai đã từng thấy hoặc nghe nói về một con vật như thế chăng?

Con trai của lão thợ săn mà ta đã nói trên đây liền kể lại câu chuyện gã nghe được. Vua phán:

– Này ngươi, khi nào ngươi đem về cho trẫm con hươu kia thì trẫm sẽ ban thưởng ngươi rất trọng hậu, vậy ngươi hãy đi tìm kiếm nó và đem về đây.

Ngài bảo đưa tiền lộ phí cho gã và bảo gã lui ra. Người thợ săn tâu:

– Xin Chúa thượng đừng lo, nếu như tiểu thần không đem được con hươu ấy về thì tiểu thần cũngđem được bộ da nó về, nếu không đem được da thì cũng đem được lông nó về đây.

Sau đó người ấy trở lại nhà, đưa số tiền vua ban cho gia đình mình rồi ra đi vào rừng và trông thấy Lộc vương. Gã suy nghĩ: “Ta phải đặt bẫy ở đâu để bắt hươu đây?” Gã thấy ngay cơ hội tốt ở chỗ hươu nai uống nước. Gã kết một sợi dây bằng da thật chặt và đặt sợi dây vào một cái sào ở nơi mà bậc Đại Sĩ thường xuống để uống nước.

Hôm sau bậc Đại Sĩ cùng với tám mươi ngàn con hươu trong lúc tìm kiếm thức ăn, đi đến đó để uống nước tại bến sông thường lệ. Ngài vừa đặt chân xuống liền bị kẹt ngay vào dây thòng lọng. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta rống lên tiếng kêu bị nạn thì cả đàn hươu sẽ kinh hoàng chạy trốn mà không được ăn uống gì cả”. Vì thế, mặc dầu ngài bị siết chặt ở đầu cây sào, ngài vẫn đứng giả vờ uống nước, như thể đang còn được tự do.

Khi tám mươu ngàn con hươu đã uống xong và bấy giờ chúng đã bước ra khỏi nước, ngài liền lắc mạnh cái thòng lọng ấy ba lần cố làm nó đứt ra. Lần đầu ngài làm rách da, lần thứ hai nó đâm sâu vào thịt và lần thứ ba làm giãn gân ra, vì thế cái thòng lọng siết tới tận xương tủy. Sau đó vẫn không thể nào phá đứt thòng lọng, ngài rống lên kêu bị nạn: cả bầy hươu kinh hoàng chạy thoát thân thành ba đàn lớn.

Citta Miga không tìm được bậc Đại Sĩ trong ba đàn ấy liền suy nghĩ: “Mối hiểm họa này vừa xảy ra cho bọn ta đã gieo xuống đại huynh của ta”. Khi quay về, chú hươu em thấy ngài đã bị mắc bẫy thật chặt. Bậc Đại Sĩ chợt thấy em mình, liền kêu lên:

– Này hiền đệ, đừng đứng đây nữa, ở đây nguy hiểm lắm.

Rồi ngài ngâm kệ, thúc giục em chạy trốn:

1- Hãi kinh thần chết, hỡi Citta,
Cả đám hươu kia chạy thoát xa
Hiền đệ hãy đi, vì bọn chúng
Cùng em sẽ sống, chớ chần chờ.

Ba vần kệ sau do anh em đối đáp nhau:

Citta:

2- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng lìa anh tại nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

3- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta.

Citta:

4- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rồi Citta đứng vững làm chỗ dựa cho Bồ Tát ở bên phải và cố làm vui vẻ để ngài phấn khởi tinh thần.

Còn Sutanà, là bé Hươu còn non tơ, cứ chạy quanh quẩn giữa bầy hươu, song không tìm thấy hai anh đâu cả, cô bé Hươu non suy nghĩ: “Chắc tai họa đã xẩy ra cho hai anh của ta rồi”. Bé Hươu quay lại, đến chỗ hai anh và khi bậc Đại Sĩ thấy em gái tới, liền ngâm vần kệ thứ năm:

5- Hươu nhút nhát, mau chạy trốn xa,
Bạo tàn thòng lọng siết chân ta,
Hãy đi theo chúng đừng lưu luyến,
Em phải sống cùng với mẹ cha.

Ba vần kệ sau lại được hai anh em đối đáp như trên:

Sutanà:

6- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Chẳng rời anh ở nơi này nữa,
Em sẵn sàng từ bỏ tấm thân.

Rohanta:

7- Chẳng ai bảo dưỡng lại mù lòa,
Phải chết song thân, mẹ lẫn cha,
Em hãy về ngay cùng phụ mẫu,
Hỡi em đừng nấn ná gần ta

Sutanà:

8- Em chẳng đi đâu, hỡi Lỗ hân,
Tim em đã kéo bước em gần,
Em liều mất mạng, song không thể
Bỏ mặc anh sa bẫy buộc chân.

Như vậy nàng Hươu non cũng không chịu nghe lời ngài, nên cứ đứng bên cạnh ngài mà an ủi vỗ về.

Bấy giờ người thợ săn thấy bầy hươu đã chạy trốn mất và nghe tiếng kêu của con vật mắc cạn:” Ắt hản là Hươu chúa đã bị lọt bẫy rồi!”. Gã nói xong, nai nịt dây đai thật kỹ và chạy vội đi.

Bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ chín, ngài vừa thấy gã đến:

9- Thợ săn hung dữ, dáo trong tay
Nhìn gã, kìa đang bước đến đây!
Rồi với mũi tên hay ngọn giáo,
Chúng mình, gã giết nội, ngày nay!

Citta không chạy trốn, dù chú hươu này cũng trông thấy gã thợ săn. Còn bé Sutanà không đủ mạnh dạn để đứng yên, cứ vẫn chạy loanh quanh vì sợ chết. Rồi nàng Hươu bé bỏng kia suy nghĩ: “Ta sẽ chạy thoát đi đâu nếu ta bỏ mặc các anh của ta?” Thế là cô nàng quay lại, dành chịu hy sinh tánh mạng, mặc cho tử thần ghi dấu trên đôi mày và đứng yên phía bên trái anh mình.

*

Bậc Đạo Sư ngâm vần kệ thứ mười để giải thích việc này:

10- Hươu non mềm yếu quá kinh hoàng,
Sợ hãi chạy quanh cố kiếm đường,
Rồi có hành vi đầy quyết liệt:
Vì nàng đành chịu phận đau thương.

*

Khi người thợ săn đến nơi, gã thấy cả ba sinh vật này đứng bên nhau. Một ý tưởng từ mẫn thương xót nổi lên trong lòng, vì gã đoán chúng là anh em cùng một mẹ. Gã suy nghĩ: “Chỉ một mình Hươu chúa đàn bị mắc bẫy, còn hai Hươu kia thì bị ràng buộc bởi những mối liên hệ thương yêu tôn trọng mà thôi. Thế chúng có họ hàng gì với Hươu chúa chăng?” Gã hỏi câu ấy như vầy:

11- Đôi lộc dù không bị buộc chân,
Là ai, chầu chực cạnh tù nhân,
Không đành bỏ mặc chàng Hươu chúa,
Và chạy trốn đi để thoát thân?

Bồ tát liền đáp:

12- Em gái, em trai ấy thật là,
Cùng chung một mẹ đã sinh ra,
Không đành phận được riêng mình sống,
Bỏ mặc ta trơ trọi đấy mà.

Những lời này lại làm cho tim gã mềm dịu xúc cảm tột độ. Lộc vương đệ Citta nhận thấy lòng gã thợ săn đã trở thành thân ái nhu hòa, liền nói:

– Này Hiền hữu thợ săn, hiền hữu đừng tưởng rằng đây là một con hươu tầm thường chứ không có gì khác, ngài đây chính là Lộc vương của tám mươi ngàn con hươu. Ngài đã sống đời đạo hạnh, có từ tâm đối với muôn loài và trí tuệ cao minh, ngài đã phụng dưỡng song thân nay đã già cả mù lòa. Nếu hiền hữu giết một bậc chân chánh như vậy, tức là giết chết song thân ta, em gái ta và ta nữa, luôn năm mạng tất cả. Còn nếu hiền hữu tha mạng ngài, là hiền hữu đem cuộc sống lại cho cả năm mạng ta đó.

Rồi Hươu này ngâm kệ:

13- Chẳng ai chăm sóc lại mù lòa,
Đành phải chết luôn cả mẹ cha,
Thiện hữu hãy tha năm mạng ấy,
Và xin thiện hữu thả anh ta.

Khi người thợ săn nghe lời thuyết giáo đầy hiếu thảo này, lòng gã vô cùng hoan hỷ, gã đáp:

– Xin Chúa công đừng sợ.

Rồi gã ngâm kệ tiếp đáp lời:

14- Thôi được, này xem ta thả ra,
Chúa Hươu hiếu dưỡng mẹ cùng cha,
Khi nhìn con bảo toàn thân mạng,
Cha mẹ vui mừng sẽ múa ca.

Trong khi nói thế, gã suy nghĩ: “Nay ta còn thiết gì đến đức vua cùng các danh vọng ngài ban cho nữa? Nếu ta làm hại Hươu chúa này, thì hoặc là mặt đất sẽ há miệng ra nuốt chửng ta, hoặc là Thiên lôi sẽ giáng xuống đánh tan xác ta. Vậy ta quyết thả Hươu này thôi”. Vì thế gã đến gần bậc Đại Sĩ, hạ cây sào xuống và cắt sợi dây da. Sau đó gã ôm lấy Hươu chúa vào lòng, đặt Hươu xuống gần mặt nước, nhẹ nhàng êm ái tháo gỡ nút dây thòng lọng ra khỏi chân Hươu, nối các đầu dây gân lại với nhau, làm kín vết thương trên da thịt cùng các mép da bị sây sát, lấy nước rửa sạch máu, rồi cứ thoa bóp Hươu khắp mình mẩy một cách đầy thương xót.

Nhờ uy lực của lòng thân ái kia cùng với công hạnh viên mãn của bậc Đại sĩ, nên toàn thân ngài bình phục như trước, đủ gân cổ, da, thịt, lông tơ và da non bao phủ cẳng chân, nên không ai đoán biết được chỗ nào Hươu đã bị trọng thương cả. Bậc Đại Sĩ đứng tại đó và tràn ngập hạnh phúc trong lòng, Citta nhìn ngài vô cùng hoan hỷ nên ngỏ lời cảm tạ người thợ săn qua vần kệ này:

15- Chú thợ, cầu mong phước lộc tràn,
Ước ao hạnh phúc cả thân bằng,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Đại lộc vương nay được thoát nàn.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Phải chăng vì tự ý mà người thợ săn đánh bẫy ta, hay do lệnh của một ai khác?”. Và ngài hỏi nguyên nhân bắt hươu này. Người thợ săn đáp:

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này không có liên can gì đến Chúa công cả, chính vương hậu Khemà của đức vua ước mong nghe ngài thuyết giảng Chánh pháp, cho nên kẻ hèn này đã đánh bẫy ngài theo lệnh vua truyền.

– Hiền hữu, bạn đã dám cả gan thả ta ra ư? Mau lên, đưa ta vào yết kiến đức vua, rồi ta sẽ thuyết giáo trước mặt hoàng hậu.

– Quả thật, tâu Chúa công, các vua chúa thường ác độc lắm. Làm sao ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Kẻ hèn này chẳng màng thứ công danh gì mà đức vua có thể ban cho mình đâu; vậy ngài hãy ra đi nơi nào như ý.

Nhưng bậc Đại Sĩ lại suy nghĩ rằng gã thả ngài ra là một việc qúa liều lĩnh, nên ngài phải tìm cơ hội cho gã đạt vinh quang danh vọng đã được vua hứa hẹn trước ấy. Vì thế ngài bảo:

– Này hiền hữu, hãy lấy tay xát mạnh vào lưng ta.

Gã làm y lời, bàn tay gã liền dính dầy lông tơ vàng óng.

– Tâu Chúa công, kẻ hèn này sẽ làm gì với đám lông tơ này đây?

– Này hiền hữu, hãy đem chúng về trình lên đức vua cùng hoàng hậu, tâu các ngài rằng đây là đám lông tơ của Hoàng kim Lộc vương kia, rồi hãy thay mặt ta thuyết giáo cho hai vị ấy nghe các lời kệ mà ta sắp ngâm đây. Khi hoàng hậu nghe lời hiền hữu như thế là cũng đủ làm thỏa mãn niềm khát khao của hoàng hậu rồi.

– Tâu Lộc vương, xin ngài hãy thuyết Pháp.

Người thợ săn nói và Hươu chúa dạy cho gã mười vần kệ về đời sống Thánh hạnh, trình bày Ngũ giới đức và bảo gã ra đi với lời dặn dò khuyên nhủ gã phải tỉnh giác hộ phòng.

Người thợ săn cư xử với bậc Đại Sĩ như cách người ta đồn đãi tôn trọng một bậc thầy vậy. Gã đi diễu quanh ngài ba lần hướng về phía hữu, đảnh lễ bốn lần rất cung kính và gói ghém đám lông tơ vàng ấy trong ngọn lá sen rồi ra đi.

Ba anh em chúa Hươu tiễn đưa gã đi một đoạn đường . Sau khi ăn uống xong, ba vị liền trở về với cha mẹ.

Song thân vội hỏi ngài:

– Này con yêu Rohanta, cha mẹ đã nghe con bị bắt, làm sao con trở về được tự do đây?

Hai vị hỏi qua vần kệ:

16- Làm thế nào con được tự do,
Khi đời con suýt dứt đường tơ?
Sao người săn nọ cho con thoát,
Chiếc bẫy giăng kia đã phỉnh lừa?

Bồ tát ngâm ba vần kệ đáp lời:

17- Citta đã giải thoát cho con
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

18- Suta đã giải thoát cho con,
Bằng những lời rung động tâm hồn,
Mê mẩn đôi tai, xuyên thấu dạ,
Lời đưa trong sáng thật du dương.

19- Chú thợ kia đã giải thoát con,
Khi nghe lời nói thật mê hồn,
Thấm sâu tâm trí, xuyên vào dạ,
Lời lẽ thanh tao dịu ngọt tuôn.

Song thân của ngài bày tỏ lòng cảm ơn bằng một vần kệ:

20- Ta chúc người, gia quyến, vợ con,
Cầu mong các vị phước duyên tròn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Nay chúa Lỗ hân được thoát nàn.

Bấy giờ người thợ săn ra khỏi rừng đi về yết kiến vua, gã đảnh lễ ngài và đứng chầu một bên. Khi vua trông thấy gã liền bảo:

21- Lạp hộ, mau lên , nói trẫm hay,
Nhà ngươi có phải muốn thưa vầy
“Tâu hoàng thượng, tấm da hươu chúa,
Nay tiểu thần dâng ngự lãm ngay”.
Hoặc giả da hươu ngươi chẳng có
Để dâng, vì cớ sự gì đây?

Thợ săn:

22- Chúa Hươu đã đến tận tay rồi
Vào bẫy nằm sâu kín của tôi.
Bị bắt liền, song đôi lộc khác
Thong dong chầu chực một bên ngài.

23- Xót thương, thần rợn cả làn da
Từ mẫn lạ thường mới khởi ra:
“Nếu giết Hươu này (thần nghĩ ngợi),
Đời thần ắt cũng hóa ra ma!”

Nhà vua:

24- Lạp hộ, bầy hươu ấy thế nào,
Phong tư, cốt cách chúng ra sao,
Màu lông, đặc tính gì trong chúng
Xứng đáng lời kia tán tụng cao?

Vua cứ hỏi đi hỏi lại câu này mãi như thể một người tràn đầy kinh ngạc. Gã thợ săn đáp lời qua vần kệ:

25- Đôi sừng như bạc, dáng cao sang,
Với bộ lông da sáng rỡ ràng,
Chân đỏ, mắt ngời sao chói lọi,
Toàn thân tuyệt mỹ giữa trần gian.

Trong lúc ngâm kệ, gã vừa đem đặt vào lòng bàn tay vua một nắm lông tơ vàng ánh của bậc Đại Sĩ và qua một vần kệ khác, gã trình bày sơ lược đặc tính của các Hươu này:

26- Phong tư, cốt cách chúng như vầy,
Tâu Chúa công, là đám lộc này,
Chúng vẫn tìm mồi nuôi phụ mẫu,
Thần không đem được chúng về đây.

Qua những lời này, gã miêu tả các đức tính của bậc Đại Sĩ, của chú Hươu em Citta và cô bé Hươu non Sutanà, rồi nói thêm điều này:

– Tâu Đại vương, Hươu chúa cho tiểu thần một nắm lông, lại bảo thần thay thế địa vị ngài mà thuyết Pháp trước Hoàng hậu qua mười vần kệ về đời sống theo Thánh hạnh.

Trong lúc gã thợ săn vừa ngồi trên bảo tọa bằng vàng, gã thuyết Pháp lành qua mu+o+fi vần kệ này:

(Theo bản kinh Miến Điện, vua đặt gã thợ săn lên chiếc vương tọa được chạm cẩn với bảy loại châu báu; còn chính vua cùng hoàng hậu ngồi trên một bảo tọa thấp hơn, đặt ở một bên, rồi cung kính đảnh lễ, thỉnh cầu gã thuyết giảng. Người thợ săn thuyết giảng pháp lành như vầy:)

27- Tâu Hoàng thượng, đối với song thân,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

28- Với đàn thê tử, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

29- Đại vương với thân hữu quần thần
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

30- Trong bước lãng du, hoặc chiến trường,
Thực hành đường lối sống thuần lương,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh,
Thiên giới sẽ về, tấu Đại vương

31- Trong làng, thị trấn, tấu quân vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

32- Mọi miền quốc độ, tấu Quân vương
Xin thực hành đường lối chánh chân,
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường

33- Với các Sa môn, Bà la môn,
Thực hành đường lối sống hiền nhơn,
Vì nhờ sống cuộc đời chân chánh
Thiên giới sẽ về , tấu Đại vương!

34- Với loài cầm thú, tấu Quân Vương,
Xin thực hành đường lối chánh chân
Nhờ vậy sống theo đời đức hạnh,
Đại vương sẽ đến cõi Thiên đường.

35- Xin thực hành chân chánh Đại vương
Từ đây nguồn hạnh phúc tuôn tràn,
Nhờ đi theo cuộc đời chân chánh
Chúa thượng sẽ lên cõi ngọc đường

36- Hộ phòng tỉnh giác, tấu Quân vương
Tiến bước trên đường lối thiện lương,
Thiên chủ, chư Thiên cùng giáo sĩ,
Từ lâu đã đạt cõi Thiên đường.

37- Ngàn xưa đây chính các phương ngôn,
Đi đúng theo đường lối trí nhân,
Thiên nữ được tràn đầy hạnh phúc,
Tự mình thăng tiến cõi Thiên đường.

Người thợ săn đã thuyết Pháp như trên, theo cách bậc Đại Sĩ đã giảng bày cho gã với tài năng của một bậc Giác Ngộ, chẳng khác nào người đem từ bầu trời xuống trần thế cả giải Thiên hà kia. Hội chúng gồm đủ ngàn giọng nói đồng reo hò tán thán. Lòng khát khao của Hoàng hậu đã được thỏa mãn lúc bà nghe lời thuyết Pháp ấy.

Vua đầy hoan hỷ liền ngâm các vần kệ này, khi ngài ban thưởng người thợ săn đại vinh hoa phú quý:

38- Nạm ngọc vòng tai, trẫm muốn ban,
Tặng khanh cùng với sáu cân vàng,
Xinh tươi, bảo tọa như hoa tấm
Với nệm nằm chen cả bốn hàng.

39- Hai vợ cùng giai cấp xứng đôi,
Trâu bò thường đúng một trăm rồi
Trẫm nguyền sẽ trị dân công chính
Mãi mãi, ân nhân của trẫm ôi!

40- Cho vay, cày ruộng hoặc kinh doanh,
Hễ đó là nghề nghiệp của khanh,
Trẫm thấy khanh không làm việc ác,
Song nhờ đó cấp dưỡng gia đình.

Khi nghe vua nói những lời này, người ấy đáp:

– Tiểu thần không có nhà cửa hay gia đình gì nữa, xin Chúa thượng cho phép tiểu thần được làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Sau khi được vua chấp thuận, người ấy đem mọi vật vua ban thưởng trọng hậu ấy về cho vợ con, gia đình, xong rồi lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn, nơi đây người ấy sống theo đời khổ hạnh, tu tập tám Thiền chứng và được sinh lên cõi Phạm Thiên.

Còn vua vẫn tuân hành lời giáo huấn của bậc Đại Sĩ, nên về sau lên cộng trú với hội chúng chư Thiên dục giới. Lời giáo huấn ấy tồn tại cả ngàn năm sau nữa.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư bảo:

– Như vậy, này các Tỳ kheo, xưa kia cũng như bây giờ, Ànanda hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Channa (Xa nặc) là người thợ săn, Sàriputta ( Xá Lợi Phất) là vua, một Tỳ kheo ni là hoàng hậu Khemà, hai người trong hoàng tộc là mẹ cha của chúa Hươu, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là Sutanà, Ànanda la Citta, dòng họ Sàkya ( Thích Ca) này là đàn hươu tám mươi ngàn con, và Ta chính là Lộc vương Rohanta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền thân Hamsa)

Kìa đám hằng nga cất cánh bay….

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Tôn giả Ànanda hy sinh tính mạng.

Lúc ấy Tăng chúng đang bàn luận trong Chánh pháp đường về các đức tính của Tôn giả này thì bậc Đạo Sư bước vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì tại đó. Rồi ngài bảo:

– Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ànanda từ bỏ tánh mạng vì ta, mà xưa kia cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ có một vị vua ngự trị tại thành Ba la nại mệnh danh là Bahuputtaka hay là Thân phụ của nhiều Vương tử và chánh cung hoàng hậu của ngài là Khemà (Thái Hòa).

Thuở ấy, bậc Đại Sĩ sống trên đỉnh núi Cittakuta, ngài là chúa tể của chín mươi ngàn Thiên nga, sau khi được sinh làm chim Thiên nga với màun lông vàng ánh.

Thuở ấy như đã thuật trước đây, chánh hậu nằm mộng và tâu vua rằng bà đã mang nỗi khát khao của một thai phụ muốn nghe một chim Kim nga thuyết Pháp. Khi vua hỏi xem có loài vật nào như chim Kim nga chăng, và ngài được báo tin là hiện có loài ấy trên núi Cittakùta. Sau đó ngài bảo xây cái hồ đặt tên là Khemà, lại truyền lệnh trồng đủ loại ngũ cốc làm thực phẩm, hằng ngày rao truyền khắp tứ phương ban bố lệnh bảo vệ hồ ấy, rồi phái một thợ săn đến bắt Thiên nga.

Người này được phái đi cách nào, người ấy canh chừng chim muông ra sao, tin tức được tâu trình vua khi bầy Thiên nga được xuất hiện như thế nào, cái bẫy được giăng theo kiểu gì và bậc Đại Sĩ bị mắc vào bẫy, rồi Đại tướng Thiên nga Sumukha (Sư mục kha) không thấy Ngài trong ba đàn chim kia, liền trở về tìm ngài ra sao, tất cả chi tiết này sẽ xuất hiện trong Tiền thân Mahàhamsa (Đại Thiên nga) số 534, tập VI, trong đó Chúa Thiên nga có tên Dhatarattha.

Bấy giờ ngay lúc bậc Đại Sĩ bị bắt vào thòng lọng và cây sáo, dù cho ngài đang treo lủng lẳng trong chiếc thòng lọng ở đầu cây sào, ngài cũng cố vươn cổ ra nhìn theo hướng bầy chim đã bay trốn mất và chợt thấy tướng Sumukha quay trở lại, ngài suy nghĩ: “Khi chim tướng đến đây, ta sẽ thử lòng chim tướng ấy xem sao”. Vì thế khi chim kia đến, bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ:

1- Kìa đám hồng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,
Đi ngay, Sư mục lông vàng óng,
Khanh muốn gì chăng ở chốn này.

2- Họ hàng ta đã bỏ rơi ta!
Bọn chúng đều cao chạy vút xa,
Đào tẩu ngay, không hề nghĩ lại,
Sao khanh đơn độc ở đây mà?

3- Thiên nga cao thượng hãy bay về,
Tù tội, thân không có bạn bè,
Lúc được tự do, Sư mục hỡi,
Bay đi! Đừng bỏ dịp may kề.

Nghe vậy, Tướng quân Sumukkha đáp lời lúc đang đậu trên vũng bùn:

4- Không, thần sẽ chẳng bỏ Nga vương,
Khi đến gần tai họa thảm thương,
Song ở lại đây, thần đã quyết
Bên ngài, dù sống chết không màng.

Như thế Sumukkha đã cất giọng sư tử hống và chúa chim Dhataratha đáp kệ này:

5- Những lời khanh nói thật anh hùng,
Đại tướng ôi, cao cả tấm lòng!
Vì muốn thử lòng hiền hữu đó,
Trẫm đà bảo bạn hãy phi thân!

Trong lúc hai vị đang trò chuyện với nhau như vậy, người thợ săn vừa tới nơi, cầm gậy trong tay, gã chạy như bay hết tốc lực. Sumukkha khuyến khích chúa chim Dhatarattha cho phấn khởi tinh thần, rồi bay ra đón người thợ săn, kính cẩn đề cao đức hạnh của chim chúa đàn. Lập tức tâm hồn người thợ săn trở nên nhu hòa. Sumukkha nhận thấy ngay điều này, liền quay lại, đứng cạnh chúa Thiên nga để khích lệ ngài phấn khởi tinh thần. Còn người thợ săn tiến đến gần chim chúa và ngâm vần kệ thứ sáu:

6- Bọn chúng đều co cẳng vút bay,
Bầy chim tung cánh giữa trời mây,
Thiên nga vương giả, sao chim chẳng
Trông thấy từ xa chiếc bẫy này?

Bậc Đại Sĩ đáp lại:

7- Khi đời sắp sửa phút lâm chung,
Giờ tử thần đang tiến lại gần,
Dù bạn đứng kề bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt, dây giăng!

Người thợ săn hài lòng với lời nhận xét của chim chúa, liền ngâm thêm ba vần kệ hỏi Sumukha:

8- Kìa đám hằng nga cất cánh bay,
Cả bầy hốt hoảng hãi kinh thay,
Còn Thiên nga có sắc vàng óng,
Bị bỏ rơi, còn nán đợi đây.

9- Cả đám hồng nga đã uống ăn,
Rồi bay về hết, chẳng quan tâm,
Qua không gian chúng lao vùn vụt,
Và bỏ mặc chim chỉ một thân!

10- Có gì quan hệ với chim này,
Khi cả đàn ruồng rẫy vụt bay,
Dù được tự do, chim ở lại,
Một mình kết bạn với kẻ tù đây?

Sumukha đáp lời:

11- Chim chúa là đây, bạn chí tình,
Thiết thân như chính cuộc đời mình,
Bỏ ngài ư?- Chẳng bao giờ có,
Dù lúc tử thần gọi đích danh!

Nghe thế, người thợ săn vô cùng hoan hỷ và nghĩ thầm: “Ví thử ta làm hại các sinh vật đức hạnh như thế này, chắc chắn mặt đất sẽ há miệng ra và nuốt chửng ta đi mất. Ta còn thiết gì đến ân thưởng vua ban nữa? Ta quyết thả chúng ra thôi”.

Rồi gã ngâm kệ:

12- Thấy rằng vì trọng nghĩa thân bằng,
Chim sẵn sàng từ bỏ tấm thân,
Ta thả chúa chim đồng mệnh ấy
Để cùng nhau khắp chốn đằng vân.

Vừa nói lời này xong, gã kéo Nga vương Dhataratha xuống khỏi cây sào, nới lỏng dây thòng lọng ra và đem Thiên nga tới bờ hồ, rửa sạch máu trên thân chim với lòng đầy xót thương, rồi thoa bóp các bắp thịt cùng gân cốt bị trặc khớp lại cho đúng chỗ. Nhờ tâm từ ái của người thợ săn cùng uy lực các Công hạnh Viên mãn của bậc Đại Sĩ (Thập hạnh Ba la mật), nên lập tức chân ngài lành mạnh như trước, chẳng còn một dấu vết nào chứng tỏ ngài đã bị mắc bẫy cả. Tướng quân Sumukha chiêm ngưỡng bậc Đại Sĩ với lòng hân hoan và cảm tạ qua những lời này:

13- Lạp hộ, cùng thân hữu, họ hàng,
Cầu mong các vị phước ân tràn,
Như ta hạnh phúc khi nhìn ngắm
Chúa chim giờ đây thoát buộc ràng.

Khi người thợ săn nghe lời này, gã nói:

– Này hiền hữu, Ngài có thể bay đi rồi đấy.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ bảo gã:

– Thưa Hiền giả, thế ngài đã bắt ta theo ý riêng của ngài hay do lệnh một người khác?

Gã liền kể cho ngài nghe mọi sự. Chim chúa tự hỏi nên trở về núi Cittakuta chăng hay đi vào kinh thành kia. Ngài suy nghĩ: “Nếu ta vào thành, thì người thợ săn sẽ được vua ban thưởng, nỗi khao khát của hoàng hậu sẽ được thỏa mãn, tình bằng hữu của Sumukha sẽ được mọi người biết rõ, rồi cũng nhờ công đức trí tuệ của ta, ta sẽ được vua ban thưởng hồ Khemà như một đặc ân. Vậy ta vào thành thì hơn”.

Quyết định xong ngài nói:

– Này thợ săn, bạn hãy mang chúng ta lên đòn gánh của bạn đưa vào yết kiến đức vua, và nếu ngài muốn, ngài sẽ thả ta ra.

-Này chúa chim ơi, tính vua chúa bạo tàn lắm, vậy các ngài cứ lên đường các ngài cho yên thân!

– Sao thế? Ta đã làm mềm lòng một thợ săn như Hiền giả, mà ta lại không chiếm được ân sủng của vua chúa kia ư? Cứ để việc ấy cho ta lo liệu, này bạn hữu, phần của ông bạn là mang chúng ta đến yết kiến đức vua.

Người ấy đành tuân lời.

Khi vua nhìn thấy đôi thiên nga, ngài rất đẹp ý. Ngài đặt đôi chim lên một cành đậu bằng vàng, bảo đem mật ong và hạt mễ cốc rang chín cùng nước đường lên mời đôi chim; sau đó ngài đưa đôi tay lên thỉnh cầu đôi chim thuyết Pháp. Nga vương thấy vua tha thiết nghe Pháp như thế, nên trước tiên ngài nói với vua bằng những lời lẽ nhu hòa êm ái.

Sau đây là các vần kệ trình bày câu chuyện giữa vua và Thiên nga chúa:

Thiên nga:

14- Đại vương, ngọc thể có khang an,
Quý quốc giờ đây có hưởng tràn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Và ngài trị nước thật công bằng!

Đức vua

15- Thiên nga, đây trẫm được khang an,
Và bổn quốc đây được vẹn toàn
Hạnh phúc, giàu sang cùng thịnh vượng,
Với nền cai trị thật công bằng.

Thiên nga:

16- Triều đình ngài chẳng phạm sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn biệt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối hướng Nam chăng?

Đức vua:

17- Triều thần trẫm chẳng thấy sai lầm,
Và đám quốc thù vẫn bặt tăm,
Bọn chúng chẳng bao giờ xuất hiện,
Khác nào bóng tối ở phương Nam!

Thiên nga:

18- Phải chăng chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi Thánh ý chờ mong?

Đức vua

19- Thưa vâng, chánh hậu cũng chung dòng,
Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,
Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,
Vâng chiều mọi ý trẫm hằng mong!

Thiên nga:

20- Đại đế nuôi dân! Ngài có đông
Hoàng nam được dưỡng dục oai phong,
Thông minh ứng đối, người nhu thuận,
Bất cứ việc gì cũng gắng công?

Đức vua:

21- Nga vương, trẫm có đủ hoàng nam,
Nổi tiếng một trăm lẻ một chàng,
Dạy bảo chúng làm tròn phận sự,
Chúng không bỏ dở các lời vàng.

Nghe điều này bậc Đại Sĩ khuyến giáo hội chúng qua năm vần kệ:

22- Kẻ hoãn trì cho quá muộn màng
Thiện hành mà chẳng gắng công làm,
Dù nhiều đức tính, dòng cao quý,
Cũng vẫn chìm sâu xuống dưới dòng.

23- Người kia tri kiến cứ tàn dần
Tổn hại lớn lao, nó lãnh phần
Như kẻ quáng gà vì bóng tối,
Khi nhìn mọi vật hóa phồng căng,
Gấp đôi tầm cỡ thường nơi chúng,
Vì có nhãn quang chẳng vẹn toàn.

  1. Ai nhìn hư vọng thấy toàn chân,
    Chẳng đạt chút nào trí tuệ thông,
    Như thể trên đường đèo lởm chởm,
    Bầy hươu nai vẫn té nhào lăn.
  2. Nếu người nào dũng cảm can cường,
    Ðức hạnh mến yêu, giữ đúng đường,
    Dù chỉ là người dòng hạ liệt,
    Cũng bừng lên tựa lửa đêm trường.
  3. Cứ dùng ngay ví dụ trên này
    Chân lý hiền nhân, hãy giải bày,
    Dưỡng dục hoàng nam thành bậc trí,
    Như mầm non gặp lúc mưa đầy.

Bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy cho vua suốt đêm ròng. Lòng khao khát của hoàng hậu đã được thỏa mãn. Trước buổi bình minh, ngài an trú vào Thập vương pháp và khuyên nhủ vua tinh cần cảnh giác, sau đó, ngài cùng tướng quân Sumukha bay ra khỏi khung cửa sổ hướng Bắc về miền núi Cittakùta.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, trước kia người này cũng đã hy sinh tính mạng vì Ta.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Channa (Xa-nặc) là người thợ săn, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua, một Tỷ-kheo-ni là hoàng hậu Khemà, bộ tộc Thích-ca (Sàkya) là đàn thiên nga, Ànanda là Sumukha và Ta chính là Thiên nga vương.

-ooOoo-

  1. Chuyện anh vũ Sattigumba (Tiền thân Sattigumba)

Vua xứ Pãn-ca với đạo quân..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Lộc-uyển Maddakucchi về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Khi Ðề-bà-đạt-đa xô tảng đá lớn và một mảnh đâm vào chân của đức Thế Tôn khiến chân ngài rất nhức nhối, nhiều nhóm Tăng chúng họp lại đến viếng đức Như Lai. Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn thấy quần chúng tụ họp đầy đủ, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, nơi đây đông đảo lắm. Dân chúng sẽ tụ tập nhiều nữa. Vị nào hãy dùng cái cáng khiêng ta đến Maddakucchi.

Các Tỷ-kheo liền làm theo đúng như vậy. Còn Tôn giả Jìvaka chữa cho chân đức Như Lai bình phục. Khi ngồi trước bậc Ðạo sư, Tăng chúng nói về chuyện này:

– Ðề-bà-đạt-đa là một kẻ ác và toàn thể hội chúng của ông đều là bọn người ác, kẻ gây ác nghiệp thường thân cận với lũ ác nhân.

Bậc Ðạo sư hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông nói chuyện gì vậy?

Tăng chúng trình với Ngài. Ngài bảo:

– Ðây không phải là lần đầu tiên, ác nhân Ðề-bà-đạt-đa thân cận với bọn ác, mà xưa kia cũng vậy.

Sau đó Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua mệnh danh là Pancàla ngự trị trong kinh thành Uttarapancàla. Còn bậc Ðại sĩ được sinh làm vương tử của Anh vũ vương trong khóm cây bông vải mọc trên cao nguyên giữa lòng một khu rừng rậm: nhà có tất cả hai anh em trai. Ngược chiều gió với vùng đồi núi này là một làng trộm cướp, có năm trăm tên cướp trú ngụ. Thuận chiều gió núi rừng lại là một vùng ẩn am với năm trăm vị hiền nhân.

Vào thời kỳ loài chim Anh vũ thay lông, một cơn lốc cuốn đi mất một chim Anh vũ và rớt vào làng trộm cướp kia, nằm giữa đống vũ khí của bọn cướp, và do chim rớt vào đó nên bọn chúng gọi nó là Sattigumba hay “Gươm giáo tua tủa”. Còn con chim kia rơi vào am ẩn sĩ, giữa đám hoa mọc trên chỗ đất cát, vì lý do đó nó được đặt tên là Pupphaka hay Hoa điểu. Thế là chim Sattigumba lớn lên giữa bọn cướp, còn Pupphaka sống với các hiền nhân.

Một ngày kia, vua phục sức oai nghi sang trọng cầm đầu một đám tùy tùng đông đảo ngự trên vương xa lộng lẫy để đi săn hươu nai. Không xa kinh thành mấy, vua vào rừng cây xinh tươi tràn đầy hoa quả. Vua phán:

– Nếu kẻ nào để cho một con nai thoát đi do lỗi mình thì phải lãnh trách nhiệm ấy!

Sau đó vua xuống xa giá tìm nơi ẩn mình, đứng yên với cung trong tay, dưới túp lều dành cho ngài.

Bọn người xua dã thú, đập vào các bụi rậm để đuổi con mồi. Một con hươu liền vùng dậy tìm đường thoát thân, nó thấy một kẽ hở ở cạnh vua, liền chui lọt qua đó biến mất. Mọi người hỏi nhau:

– Ai đã để con hươu chạy thoát? Chính là đức vua rồi!

Nghe vậy cả bọn cười nhạo vua, và vì lòng tự kiêu ngài không chịu được trò đùa này:

– Nay ta phải bắt cho được con hươu!

Vua kêu lớn và nhảy lên xe.

– Nhanh lên!

Ngài bảo người quản xa và ngài vụt biến mất theo con hươu.

Vua đi nhanh quá khiến bọn kia không theo kịp ngài, chỉ có vua và viên quản xa, hai người này cứ tiến lên đến giữa trưa, song chẳng gặp hươu đâu cả. Sau đó vua trở lại và khi thấy cạnh làng bọn cướp có một thung lũng đẹp mắt, ngài đi xuống tắm rửa, uống nước rồi đi lên khỏi con suối.

Sau đó người quản xa lấy tấm thảm từ trong vương xa ra trải dưới bóng cây, vua nằm trên đó, người quản xa ngồi dưới chân vua xoa bóp: vua cứ thức ngủ chập chờn. Dân chúng trong làng bọn cướp và cả bọn cướp nữa, đều đã vào rừng để chầu vua, vì thế trong làng không còn ai ngoài Sattigumba và người đầu bếp tên là Patikolamba.

Vào lúc ấy, Sattigumba bước ra khỏi làng và khi thấy vua, nó liền suy nghĩ: “Giá ta giết chết người kia đang nằm ngủ và lấy hết đồ trang sức ấy nhỉ?”. Vì thế nó trở lại gọi Patikolamba và kể cho gã nghe mọi sự việc.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm năm vần kệ:

  1. Vua xứ Pãn-ca với đạo quân
    Lên đường săn bắn lũ nai rừng,
    Trong rừng sâu thẳm vua đi lạc,
    Chẳng có một ai ở kế gần. 
  2. Kìa, ngài trông thấy ở trong rừng
    Bọn cướp đã làm chốn ẩn thân,
    Anh vũ, một chim đang tiến bước,
    Tức thì lời ác nó kêu vang:
  3. “Ngồi trên xe nọ, một nam trang,
    Châu báu nhiều sao, lắm ngọc vàng,
    Vương miện trên đầu vàng óng ánh
    Chiếu hồng như thể ánh trời quang!
  4. Ngự quan cùng chúa ngủ say sưa,
    Nằm đó lúc trời nắng giữa trưa,
    Ta hãy cướp ngay đồ báu vật,
    Nhanh lên, cất dấu hết bây giờ!
  5. Cảnh lặng yên như lúc nửa đêm,
    Ngự quan cùng chúa ngủ nằm yên,
    Bạc vàng châu báu, nào ta lấy,
    Giết họ, rồi ta chất củi lên!”.

Nghe nói vậy, người kia bước ra khỏi nhà, khi nhìn thấy đó chính là vua, gã kinh hãi và ngâm kệ này:

  1. Này Sat-ti, có phát điên khùng?
    Lời lẽ nào nghe mới nói chăng?
    Vua chúa giống như vầng lửa cháy,
    Vô cùng nguy hiểm, nếu ta gần.

Chim đáp lại qua kệ khác:

  1. Ngu dại Pa-ti nói chuyện này
    Và ông điên, chẳng phải ta đây,
    Mẹ ta trần trụi, sao khinh bỉ
    Nghề nghiệp nhà ta sống thuở rày?

Bây giờ vua thức dậy, và khi nghe chúng nói chuyện với nhau bằng tiếng người, nhận thấy nguy hiểm, ngài ngâm kệ sau để đánh thức người lái xe:

  1. Dậy mau, hiền hữu quản xa này,
    Vào cỗ xe, nào thắng ngựa ngay,
    Chỗ khác, ta tìm nơi ẩn náu,
    Vì ta chẳng thích chú chim đây.

Gã liền vùng dậy, thắng đôi ngựa vào xe, rồi ngâm kệ nữa:

  1. Xa mã thắng rồi, tâu Ðại vương!
    Sẵn sàng đã buộc đủ dây cương,
    Ðại vương, xin ngự vào xa giá,
    Nơi khác, ta tìm để náu nương.

Vua vừa ngự vào trong xe thì đôi tuấn mã thuần chủng đã lao vút nhanh như gió. Khi chim Sattigumba thấy xe vua đi xa rồi, lòng dao động nôn nao, nó liền ngâm hai vần kệ:

  1. Này đi đâu cả đám râu mày,
    Họ vẫn thường lai vãng chốn đây?
    Vua nước Pãn-cà vừa chạy mất,
    Chúng không thấy nữa, hãy đi ngay!
  2. Vua ấy thoát thân có được chăng?
    Hãy cầm lao, dáo với tên, cung;
    Kìa Pãn-ca chúa vừa bay mất,
    Này, chớ cho vua ấy thoát thân!

Con chim nói huyên thiên như thế, đạp cánh xào xạc bay lui bay tới đầy vẻ bồn chồn. Trong lúc ấy, vua vừa thì giờ đến am ẩn sĩ của các hiền nhân. Vào lúc này, các vị ấy đã ra đi kiếm củ quả rừng, chỉ còn một mình chim Anh vũ Pupphaka ở trong am. Khi chim thấy vua, liền ra chào đón ngài và nói chuyện với ngài rất cung kính tao nhã.

Lúc ấy bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Chim Anh vũ với mỏ tươi hồng
    Cung cách ân cần đã nói năng:
    “Vạn tuế Ðại vương! Duyên hạnh ngộ
    Ðưa đường ngài ngự đến đây chăng!
    Vinh quang Ðại đế đầy uy lực,
    Chúa thượng cần gì phải giáng lâm?
  2. Tin-dook, Pi-yal, các lá cây,
    Cùng Ka-su quả ngọt ngào thay,
    Dù còn ít ỏi, tâu Hoàng thượng,
    Chọn thức tối ưu, đó sẵn bày.
  3. Nước mát từ hang núi thật sâu
    Ẩn mình bên dưới ngọn đồi cao,
    Oai hùng Ðại đế, tâu ngài ngự,
    Ẩm thức tùy nghi thỏa khát khao.
  4. Mọi người đang lượm trái trong rừng,
    Các vị nơi này vẫn trú thân,
    Xin Chúa đích thân cầm ngự thiện,
    Tay thần chẳng có để cung dâng!”

Vua rất đẹp ý khi nghe lời nói tao nhã lịch thiệp này, liền đáp qua lời đôi vần kệ:

  1. Chưa có chim nào ưu tú hơn,
    Trên đời, Anh vũ quả thuần chơn,
    Còn chim Anh vũ đằng kia ấy
    Ðã nói bao điều thật ác ngôn:
  2. “Ðừng để nhà vua chạy thoát thân,
    Ðến mau! Trói giết!” nó kêu vang,
    Trẫm đi tìm đến am tu sĩ
    Và thấy nơi này chốn vạn an.

Khi được vua bảo như thế, Hoa Ðiểu Pupphaka ngâm đôi vần kệ:

  1. Ðại đế! Chúng thần chính đệ huynh,
    Cùng chung một mẹ đã khai sinh,
    Cưu mang đôi trẻ trên cây nọ,
    Song chốn khác nhau đã trưởng thành.
  2. Vì Sat-ti đến bọn cường gian,
    Còn tiểu thần đi đến trí nhân,
    Ác nọ, thiện đây, từ chỗ đó
    Phát sinh lề thói chẳng cùng đàng.

Sau đó, Anh vũ giải thích đầy đủ chi tiết những sự khác nhau bằng cách ngâm vần kệ:

  1. Ðâm chém, xích xiềng, kế bất lương,
    Những hành vi bịp bợm, tồi tàn,
    Bao nhiêu bạo động và xung kích,
    Chính đó là môn nó sở trường.
  2. Còn đây tiết độ, tự điều thân,
    Nhân ái, công bằng với chánh chân,
    Lữ khách uống ăn cùng trú ẩn,
    Quây quần thần lớn giữa hiền nhân.

Tiếp theo chim lại thuyết Pháp cho vua qua các vần kệ sau:

  1. Ðối với ác nhân hoặc thiện nhân
    Mà người ta kính trọng tôn sùng,
    Cho dù ác độc hay hiền đức,
    Cũng khiến kẻ kia phải phục tùng.
  2. Khi ta ngưỡng mộ bạn tâm đồng,
    Như một người tri kỷ, bạn lòng,
    Người ấy sẽ đồng hành, kế cận
    Bên mình ta đến phút sau cùng.
  3. Tình bạn kết giao thấm nhiễm dần,
    Chuyện này ngài thấy quả là chân:
    Cứ ngâm thuốc độc vào tên bắn,
    Vỏ bọc cũng thành nhiễm độc luôn.
  4. Người trí tránh bầu bạn ác nhân,
    Vì e ô nhiễm chạm vào thân:
    Cá ươn, cứ gói trong chùm cỏ,
    Sẽ thấy cỏ kia cũng thối nồng,
    Những kẻ kết giao phường trí độn
    Chính mình cũng sẽ hóa ngu đần.
  5. Lá kia đem gói gỗ trầm hương,
    Ngọn là liền thơm ngát dịu dàng,
    Cũng vậy, nhiều người thành có trí,
    Khi ngồi chầu các bậc hiền nhân.
  6. Nhờ ví dụ này bậc trí nhân
    Phải am tường lợi lạc riêng phần:
    Tránh xa bầu bạn phường gian ác,
    Và sánh vai cùng bậc chánh chân,
    Thiên giới đợi chờ người chánh hạnh.
    Đọa vào ngục tối bọn tà gian.

Vua rất hoan hỷ với bài thuyết giảng này. Kế đó các bậc trí giả từ rừng trở về. Vua đảnh lễ các vị và nói:

– Cầu mong các Tôn giả tỏ lòng từ bi hạ cố đến an trú trong ngự viên của trẫm.

Và ngài đã thuyết phục được các vị nhận lời mời. Khi hồi cung vua liền ban bố lệnh thả hết mọi Anh vũ. Còn các bậc trí nhân vẫn đến yết kiến vua. Ngài tặng các vị khu vườn thượng uyển để trú ngụ và chăm nom các vị rất chu đáo trong thời gian ngài còn tại thế. Sau khi mạng chung ngài lên cộng trú với hội chúng chư Thiên, hoàng thái tử của ngài được quần thần giương chiếc lọng hoàng gia lên đầu làm lễ phong vương, và vị tân vương này cũng chăm sóc các hiền nhân và cứ thế cha truyền con nối suốt bảy đời vua đều bố thí cúng dường rất rộng rãi. Còn bậc Ðại sĩ an trú trong rừng cho đến khi mạng chung liền đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông thấy xưa kia Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) cũng thân cận bạn ác như bây giờ.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Ðề-bà-đạt-đa là Sattigumba, đám tùy tùng của kẻ ấy là bọn cướp, Ànanda là vua, hội chúng của đức Phật là các trí giả, và Ta là Anh vũ Pupphaka.

-ooOoo-

  1. Chuyện Ðại vương Bhallàtiya (Tiền thân Bhallàtiya)

Ngày xưa có đại đế Bhal-là..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi) tức Nương tử Vũ Quý Hoa.

Một buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa hoàng hậu và vua về quyền lợi trong đời sống nội cung, vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà. Bà suy nghĩ: “Ta chắc đức Như Lai không biết đức vua đang giận hờn ta”.

Khi bậc Ðạo sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Ba-la-nại có Tăng chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón ngài và cầm lấy bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng chúng ngồi theo thứ tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi cơm, vua ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo sư hỏi:

– Tại sao hoàng hậu Mallikà không đến?

Vua đáp: – Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.

Bậc Ðạo sư bảo:

– Này Ðại vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi Ðại vương còn là một tiên nam, Ðại vương rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi thương tiếc cả bảy trăm năm đó.

Rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có một vị vua tên là Bhallatiya trị vì tại Ba-la-nại. Do nỗi say mê món thịt nai rừng bốc khói trên hỏa lò lôi cuốn, ngài giao phó vương quốc cho các đại thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng một bầy chó săn thông minh tinh luyện, ngài lên xa giá rời kinh tiến về vùng Tuyết Sơn. Ngài cứ du hành dọc theo sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng thức món thịt nướng kia, cho đến khi ngài trèo tận một đỉnh cao.

Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối. Lúc ấy các đàn cá rùa, đủ loại tung tăng, dải cát dưới nước sáng loáng như bạc, cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái, chim chóc, ong bướm say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát, nơi đây từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn. Bấy giờ trên bờ suối xinh đẹp này có đôi tiên đang ôm chặt nhau, âu yếm vuốt ve nhau rồi bỗng tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.

Trong lúc vua trèo lên đỉnh Gandhamàdana (Hương Sơn) men theo dòng suối này, ngài chợt nhận thấy đôi tiên kia. “Tại sao họ cứ khóc than rền rĩ như thế này?”, ngài suy nghĩ, “Ta muốn hỏi xem sao”. Ngài chỉ cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất. Vừa khi ngài đã thấy chúng đã khuất dạng, ngài đặt cung tên cùng các vũ khi kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi ngài cất tiếng hỏi:

– Tại sao các ngươi than khóc?

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm ba vần kệ:

  1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
    Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
    Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
    Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
  2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
    Ðặt các cung tên xuống đất liền,
    Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
    Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
  3. “Ðông đã qua, sao lại trở về
    Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
    Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
    Người gọi loài gì, nói trẫm nghe”.

Nghe vua hỏi, vị tiên nam không nói gì, nhưng tiên nữ đáp lại như sau:

  1. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
    Chúng thần men suối mát, băng qua,
    Thú rừng cứ tưởng là người thật,
    Song bọn đi săn gọi quỷ ma.

Kế đó vua ngâm ba vần kệ:

  1. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
    Song lại khóc than thật não nùng,
    Tiên chúng giống như người thế tục,
    Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
  2. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
    Song khóc đầy ai oán thảm thương,
    Ðôi lứa khác nào người thế tục,
    Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
  3. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
    Song lời than khóc thật lê thê,
    Các ngươi trông giống người trần tục,
    Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!

Các vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:

Tiên nữ:

  1. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
    Không tình ân ái, nặng u sầu,
    Tương tư, song chẳng bao giờ có
    Ðêm ấy trở về được nữa đâu.

Quân vương:

  1. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
    Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
    Ðôi trẻ giống như người thế tục
    Mất tiền, hay lão phụ từ trần?

Tiên nữ:

  1. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
    Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
    Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
    Nên tình quân đã lội qua bờ.
  2. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
    Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
    Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
    Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
  3. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
    Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
    Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
    Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
  4. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
    Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
    Ðể kết liền cho chàng với thiếp
    Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
  5. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
    Về trải đầy trên mặt đất mềm
    Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
    Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
  6. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
    Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
    Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
    Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
  7. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
    Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
    Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
    Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
  8. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
    Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
    Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
    Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
  9. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
    Khi nhìn con suối cạn khô mau,
    Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
    Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
  10. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
    Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
    Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
    Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!

Quân vương:

  1. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
    Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
    Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
    Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.

Tiên nữ:

  1. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
    Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
    Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
    Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!

Khi vua nghe vậy, ngài suy nghĩ: “Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một quốc độ rộng ba trăm dặm, lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một sai lầm nghiêm trọng”.

Ngài liền quay về lập tức. Khi đến thành Ba-la-nại, triều thần hỏi ngài có thấy việc gì hi hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, ngài kể cho hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh vinh hoa của mình.

Ðể giải thích việc này bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:

  1. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
    Ðại vương trở lại bước đường ngay,
    Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
    An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.

Và Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:

  1. Rút ra bài học của tiên kia,
    Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
    Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
  2. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
    Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
    Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
    Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.

Bấy giờ hoàng hậu Mallikà đứng dậy từ bảo tọa khi bà nghe đức Như Lai thuyết giáo, rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
    Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
    Con nghe được các lời vàng,
    Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
    Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
    Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!

Từ đó về sau, vua xứ Kosala chung sống sắt cầm hòa hợp với hoàng hậu mãi mãi.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vua xứ Kosala là vị tiên nam, hoàng hậu Mallikà là tiên nữ và Ta chính là vua Bhallàtiya.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử hoan lạc (Tiền thân Somanassa)

Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về cách Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) dự định sát hại Ngài. Sau đó bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-ba-đạt-đa tìm cách sát hại Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể cho Tăng chúng nghe một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, trong quốc độ Câu-lâu (Kuru) và kinh thành Uttarapãncàla, có vị vua ngự trị với danh hiệu Renu. Lúc ấy có một ẩn sĩ khổ hạnh tên là Mahàrakkhita, sống ở vùng Tuyết Sơn cùng hội chúng năm trăm vị tu khổ hạnh khác. Trong lúc xuống vùng đồng bằng để xin muối và gia vị, vị tu khổ hạnh ấy đến xứ Uttarapancàla và cư trú trong ngự viên.

Cùng với hội chúng mình đi khất thực, vị ấy đến tận cung môn, và khi vua chiêm ngưỡng các hiền nhân, ngài rất đẹp lòng về cung cách của các vị, nên mời ngồi trên bảo tọa lộng lẫy, rồi cúng dường cao lương mỹ vị các vị dùng. Vua lại mời các vị an cư trong ngự viên suốt mùa mưa. Ngài rước các vị vào trong vườn ngự, cung cấp đủ nơi chốn để an trú, cùng các vật cần dùng cho đời sống tu hành, xong rồi từ giã. Sau đó các vị đều ăn uống trong cung vua. Bấy giờ vua không có con và đang ước mong sinh được hoàng nam, song chẳng có vương tử nào ra đời cho ngài cả.

Khi mùa mưa qua rồi, vị ẩn sĩ Mahàrakkhita nói:

– Nay vùng Tuyết Sơn xinh tươi dễ chịu lắm, ta hãy trở về đó.

Rồi vị ấy tạ từ vua, ngài liền tỏ bày đủ mọi cách tôn vinh trọng vọng rất hào phóng đối với các hiền nhân, xong hội chúng ra đi. Trên bước du hành, vào đúng ngọ, vị ấy rời đường cái cùng hội chúng của mình ngồi xuống trên thảm cỏ êm ái dưới bóng cây râm mát.

Các vị khổ hạnh kia bắt đầu đàm đạo. Họ nói:

– Nay không có hoàng nam trong cung để nối nghiệp hoàng gia. Nếu vua có được một vương tử thì thật là điều vạn phúc để kế tục vương nghiệp.

Mahàrakkhita nghe lời hội chúng nói chuyện, liền suy nghĩ: “Vua này có sinh được hoàng nam hay chăng?”. Rồi vị này nhận xét thấy rằng vua sẽ có một hoàng nam, vội bảo:

– Này các Hiền giả, các bạn đừng lo lắng gì, đêm nay lúc rạng đông một đấng thiên tử sẽ giáng trần, và sẽ nhập mẫu thai của chánh hậu.

Một vị tu khổ hạnh giả danh nghe được chuyện ấy, nghĩ thầm: “Nay ta muốn trở thành người tâm phúc của hoàng gia”.

Khi đến thời hội chúng khổ hạnh phải lên đường, vị ấy liền nằm xuống giả vờ lâm bệnh.

– Mau lên, ta cùng đi.

Hội chúng bảo nhau.

Người kia đáp:

– Ðệ không đi nổi.

Sau đó Hiền giả Mahàrakkhita biết được tin vì sao người ấy phải nằm yên tại chỗ.

– Hễ khi hiền hữu đi được thì hãy theo chúng ta ngay. Ngài bảo.

Rồi ngài cùng các hiền nhân kia tiến về Tuyết Sơn.

Bấy giờ kẻ lừa dối ấy liền ra sức chạy thật nhanh đến đứng tại cửa cung, dâng sớ tâu rằng có một người tùy tùng của Hiền giả Mahàrakkhita đến chầu. Kẻ ấy được vua triệu vào ngay lập tức và bước lên thượng lầu ngồi xuống sàn tọa đã được mời. Vua chào mừng kẻ ấy rồi ngồi xuống một bên, hỏi thăm sức khỏe của chư hiền. Ngài bảo:

– Tôn giả trở lại quá sớm. Thế vì nguyên cớ gì Tôn giả vội vàng quay lại đây?

– Tâu Ðại vương – kẻ ấy đáp – trong lúc chư hiền đang ngồi thong dong cùng nhau, hội chúng bắtđầu nói chuyện nếu đức vua sinh được hoàng nam để kế nghiệp thì thật là điều đại phúc. Khi tiểu thần nghe thế, liền suy ngẫm xem Ðại vương có sinh được hoàng nam không, thì nhờ thiên nhãn, thần thấy được một vị thiên tử vĩ đại sắp giáng trần và vị ấy sẽ nhập vào mẫu thai của chánh hậu Sudhamma. Rồi thần suy nghĩ: “Nếu họ không biết, họ có thể vô tình phá hoại bào thai ấy, vậy thì ta phải thông báo cho họ biết”. Và thế là vì để trình Ðại vương về tin ấy, nên hạ thần đến đây, tâuÐại vương. Nay hạ thần đã tâu trình xong, xin cho hạ thần lên đường.

– Không, không, này hiền hữu, không thể như vậy được.

Vua vô cùng hơn hỷ đem kẻ lừa gạt kia vào ngự viên ban cho ông một nơi an trú. Từ đó về sau ông sống trong cung vua, được dâng món ngự thiện tại đó và được mệnh danh là Dibbacakkuka hay là Thiên nhãn Ðạo nhân.

Sau đó, Bồ-tát từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần, nhập mẫu thai của chánh hậu và khi ngài ra đời, triều thần đặt tên ngài là Somanassa Kumara hay là Vương tử Hoan Lạc, rồi ngài được nuôi nấng theo cung cách của vua chúa.

Bấy giờ vị tu khổ hạnh giả hiệu ở trong góc vươn ngự thường trồng rau đậu, củ, quả; rồi đem bán cho người trồng rau ở chợ nên kiếm được nhiều tiền bạc. Khi Bồ-tát lên bảy, ở biên thùy có xảy ra bạo loạn. Vua ra đi dẹp giặc, giao phó vị tu khổ hạnh Dibbacakkhuka ấy cho thái tử chăm sóc và dặn không được xao nhãng vị ấy.

Một ngày kia, thái tử đến thăm vị ẩn sĩ. Ngài thấy ông mang cả hai chiếc y vàng, buộc chặt thượng y lẫn hạ y, hai tay cầm hai bình nước tưới cây, ngài nghĩ thầm: “Lão tu hành giả hiệu này lo làm vườn chứ chẳng lo làm phận sự tu hành”. Ngài liền hỏi:

– Ông đang làm gì thế, này kẻ làm vườn phàm tục kia?

Ngài làm nhục ông như vậy và bỏ về chẳng chào hỏi gì ông cả. Ông suy nghĩ: “Nay ta đã khiến thằng bé này thành kẻ thù của ta rồi, ai biết được nó sẽ làm gì cơ chứ? Ta phải tiêu diệt nó ngay lập tức”.

Vào lúc vua sắp hồi cung, ông ta ném chiếc trường kỷ bằng đá sang một bên, đập bể vụn bình bát, rải cỏ rác khắp am thất, lấy dầu bôi khắp người, rồi vào am nằm trên nệm rơi kia, trùm kín mít từ đầu đến chân, làm ra vẻ đau đớn lắm.

Vua đã hồi loan, xa giá diễu quanh kinh thành theo hướng bên hữu, song trước khi vào nội cung, ngài đến thăm vị thần hữu Dibbacakkhuka ấy. Vừa đứng bên cửa am, ngài đã thấy cảnh bừa bãi kia, liền bước vào mà không biết việc gì xảy ra. Còn kẻ đó đang nằm dưới đất. Vua xoa bóp chân ông và ngâm vần kệ đầu:

  1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
    Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
    Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
    Ðất này ai lại xuống nằm lê?

Nghe lời này, kẻ bịp bợm kia liền vùng dậy rên rỉ, đáp vần kệ thứ hai:

  1. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
    Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
    Thái tử vừa đi thăm lão đó,
    Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!

Các vần kệ sau đây theo mạch lạc rõ ràng, được sắp đặt đúng với diễn biến của câu chuyện:

  1. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
    Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
    Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
    Ðem đầu cao quý đến đây giao!
  2. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
    Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
    “Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
    Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!”.
  3. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
    Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
    “Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
    Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?”
  4. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
    Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
    Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
    Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
  5. “Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
    Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
    Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
    Con đã làm nên tội lỗi nào?”.

Vua cha đáp:

– Hoàng triều đang suy sụp điêu tàn: tội của con làm trọng đại lắm.

Rồi vua giải thích qua vần kệ:

  1. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
    Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
    Hãy trả lời ta, sao lại dám
    Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?

Vương tử đáp:

– Tâu Chúa thượng, nếu thần nhi gọi một kẻ phàm tục là một kẻ phàm tục thì có hại gì đâu?

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Lão có nhiều cây với trái đầy,
    Phụ vương xem đủ sắn khoai này
    Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
    Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.

Hoàng tử nói tiếp:

– Và đó là lý do con gọi lão là người phàm tục. Nếu phụ vương không tin con, xin cứ hỏi thăm những người trồng rau ở bốn cổng thành thì rõ.

Vua cha truyền đi điều tra việc ấy. Dân chúng đáp:

– Thưa vâng, chúng thần đã mua của vị ấy đủ loại rau quả.

Khi vua khám phá ra việc buôn bán rau quả này, ngài công bố cho mọi người biết. Gia nhân của hoàng tử vào am lão và lục soát được một bó đồng tiền và đồng xu nhỏ, là số tiền bán rau quả kia, họ liền trình vua.

Lúc ấy, vua biết bậc Ðạo sĩ vô tội, liền ngâm kệ:

  1. Ðúng là lão có thật nhiều cây
    Với các loại rau, củ trái đầy,
    Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
    Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.

Sau đó, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: “Trong khi có một kẻ ngu si ám động như thế này ở hoàng cung, thì thượng sách là đi vào vùng Tuyết Sơn và sống đời tu tập. Vậy trước tiên ta công bố tội trạng lão với quần chúng tại đây, sau đó, ngay hôm nay, ta xuất gia thành ẩn sĩ”.

Thế là ngài cúi chào hội chúng và nói lớn:

  1. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
    Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
    Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
    Khiến người vô tội phải vong thân.

Nói xong, ngài xin phép thực hiện ước nguyền trên qua vần kệ tiếp theo:

  1. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
    Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
    Con cúi mình đây xin phép được
    Giã từ thế tục để lên đường.

Các vần kệ sau đây thuật lại cuộc trò chuyện giữa vua cha và vương tử:

Phụ vương:

  1. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
    Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
    Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
    Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!

Vương tử:

  1. Trần thế này đem lạc thú nào?
    Khi xưa con đã ở trời cao,
    Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
    Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
  2. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
    Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
    Với phụ vương là vua yếu kém,
    Con không muốn ở nữa bây giờ.

Phụ vương:

  1. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
    Tha thứ cha nay việc đã làm,
    Giả sử cha còn làm việc ấy,
    Cha tùy con định, chẳng kêu than.

Sau đó bậc Ðại sĩ ngâm tám vần kệ khuyến giáo vua cha:

  1. Hành động không suy nghĩ trước sau,
    Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
    Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
    Hậu quả ắt là phải khổ đau.
  2. Hành động nào suy tính thật lâu,
    Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
    Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
    Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
  3. Con chán ghét người ở thế gian
    Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
    Người tu khổ hạnh hư danh đó
    Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
    Một vị hôn quân thường xử án
    Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
    Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
    Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
  4. Một vị vua xem xét kỹ càng
    Rồi ban lời phán xử công bằng,
    Khi vua cân nhắc lời phân xử,
    Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
  5. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
    Phải được đắn đo thật kỹ càng
    Những việc làm trong lúc vội vã
    Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
    Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
    Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
  6. Những người có việc phải thi hành,
    Muốn chẳng gây ân hận với mình
    Thường đắn đo bao điều thận trọng,
    Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
    Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
    Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
  7. Cha thét: “Kìa đao phủ, hãy mau!
    Ði tìm vương tử của ta nào,
    Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!”
    Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
    Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
    Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
  8. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
    Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
    Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
    Con rời thế, chẳng sống nơi đây.

Khi bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy xong, vua phán bảo hoàng hậu:

  1. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
    Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
    Quí tử So-ma bao khả ái;
    Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
    Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
    Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.

Song hoàng hậu thúc giục vương tử rời bỏ thế tục:

  1. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
    Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
    Ai giữa quần sinh không độc ác
    Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.

Vua ngâm kệ tiếp theo:

  1. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
    Sầu đang chất ngất ở trong mình,
    Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
    Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.

Hoàng hậu lại ngâm kệ nữa:

  1. Có hạng người không đắm dục tham,
    Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
    Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
    Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
    Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
    Thì hoài công cản bước hoàng nam.

Vua ngâm vần kệ cuối cùng để đáp lời:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
    Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
    Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
    Ái hậu từng nghe các diệu âm,
    Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
    Nên không còn khổ não, tham lam.

Sau đó, bậc Ðại sĩ đảnh lễ song thân, xin hai vị tha thứ cho ngài nếu có lỗi lầm gì, rồi vào cung kính vái chào toàn thể hội chúng, ngài quay mặt về hướng Tuyết Sơn. Khi dân chúng đã về, ngài cùng với các Thiên thần vừa đến đó giả dạng người trần, vượt băng qua bảy ngọn đồi cao lên tận Tuyết Sơn. Trong chiếc am tranh do vị Thiên thần Vissakamma giáng thế xây dựng cho ngài, ngài sống đời tu hành, tại đó ngài được các Thiên thần ấy giả dạng làm tùy tùng của vị hoàng tử, hầu hạ ngài đến năm lên mười sáu tuổi. Còn kẻ tu hành lừa bịp kia bị dân chúng bao vây đánh chết.

Về sau, bậc Ðại sĩ tu tập làm phát khởi năng lực Thiền định, và được sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như bây giờ, kẻ ấy đã dự mưu sát hại Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ lừa đảo, mẫu hậu Mayà là vương hậu kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Hiền giả Rakkhita và Ta chính là vương tử Somanassa

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Campeyya (Tiền thân Campeyya)

Ai đó như tia chớp sáng bừng..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các hạnh nguyện ngày trai giới. Bậc Ðạo sư bảo:

– Lành thay, này các thiện nam tử, các ông đã phát nguyện giữ trai giới. Nhưng bậc trí xưa kia cũng đã từ bỏ ngay cả vinh quang của một Long vương và sống theo các giới hạnh này.

Sau đó theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Anga (Ưng-già) trị vì ở quốc độ Anga (Ưng-già) mà vua Ma-kiệt-đà trị vì ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà); giữa hai quốc độ Ưng-già và Ma-kiệt-đà là con sông Campà (Chiêm-bà), nơi có loài Rồng rắn (Nàga) sinh sống, được chúa Rồng Campeyya cầm quyền thống lãnh.

Ðôi khi vua Ma-kiệt-đà chiếm nước Ưng-già và có khi vua Ưng-già chiếm Ma-kiệt-đà. Một ngày kia, vua Ma-kiệt-đà, sau khi lâm chiến với Ưng-già và thất bại, liền leo lên chiến mã đào tẩu, và bị quân sĩ Ưng-già đuổi theo gấp. Khi vua đến sông Campà lại đang mùa lũ lụt, nhưng vua nói:

– Thà chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù của ta!

Rồi cả người và ngựa đều nhào xuống dòng sông ấy.

Thời bấy giờ Long vương đã xây dựng cho mình ở dưới nước một ngôi nhà thủy tạ bằng châu ngọc, ngay lúc ấy đang ở giữa triều đãi tiệc say sưa. Nhưng vua trên kia cùng chiến mã nhảy xuống sông ngay chính trước mặt chúa Rồng. Rồng chúa ngắm vị vua lộng lẫy cao sang này, sinh lòng yêu mến, liền đứng lên từ bảo tọa, Rồng chúa mời vua ngự lên chính ngai vàng của mình, bảo vua đừng sợ gì cả, rồi hỏi tại sao vua lại nhảy xuống sông. Vua kể hết mọi sự xảy ra cho Rồng chúa nghe. Rồng chúa liền bảo:

– Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả! Trẫm sẽ làm cho Ðại vương trở thành bá chủ hai vương quốc ấy.

Rồng chúa an ủi vua như vậy và suốt bảy ngày liền tiếp đãi vua vô cùng trọng thể. Vào ngày thứ bảy, chúa Rồng cùng vua Ma-kiệt-đà rời Long cung. Sau đó nhờ thần lực của Long vương, vua Ma-kiệt-đà chiếm lấy quốc độ Ưng-già, giết vua Ưng-già rồi thống trị cả hai lãnh thổ ấy. Từ đó trở đi, có mối giao hảo mật thiết giữa vua và Rồng chúa.

Dần dần vua truyền lệnh xây một ngôi đình bằng châu báu trên bờ sông Campà, triều cống Rồng chúa đủ lễ vật rất cao sang. Rồng chúa cùng đám tùy tùng đông đảo xuất hiện từ Long cung lên tiếp nhận lễ triều cống và mọi người được dịp chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của Rồng chúa.

Thời ấy, Bồ-tát sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, ngài thường đi cùng đám thần dân ấy đến bờ sông. Tại đó khi trông thấy cảnh vinh quang của Rồng chúa, ngài sinh lòng thèm muốn và ngài chết đi trong nỗi khát vọng này. Rồi bảy ngày sau khi Rồng chúa Campeyya ấy từ trần, phần Bồ-tát vì suốt một đời đã sống đầy đức hạnh và chuyên bố thí, nên được tái sinh vào cung điện của Rồng chúa ấy trên long sàng kia, thân thể ngài như một chuỗi vũ quý hoa (hoa lài) vĩ đại.

Khi thấy vậy, lòng ngài tràn ngập niềm hối hận. Ngài bảo: “Ta đã có quyền lực để dành trên sáu cảnh trời dục giới là do kết quả các thiện nghiệp của ta, như hạt thóc tích trữ trong vựa. Song nay hãy xem đây, ta lại sinh làm thân rồng rắn, vậy ta còn thiết gì đời sống nữa?” Và vì thế ngài có ý định kết liễu cuộc đời mình. Nhưng có một Long nữ tên là Sumanà, trông thấy ngài liền báo tin cho cả loài biết:

– Vị này ắt hẳn là Ðế Thích Thiên chủ đầy uy lực vừa ra đời tại đây với chúng ta!

Sau đó, Long chúng cùng đi đến dâng lễ vật cho ngài với đủ loại đàn ca múa hát. Long cung của ngài chẳng khác nào cung của Thiên chủ, nên ngài không còn nghĩ đến chuyện chết nữa, ngài trút bỏ hình tướng Rồng và ngự lên bảo tọa, lộng lẫy xiêm y cùng ngọc vàng trang điểm. Từ đó về sau, cảnh vinh quang của ngài thật vĩ đại, ngài thấy hối tiếc ăn năn thầm nghĩ: “Ta còn ham thích gì cái thân rồng rắn này nữa? Ta muốn sống theo các hạnh nguyện trai giới, ta muốn thoát thân khỏi nơi này, ta sẽ ra đi đến giữa loài người, học hỏi các chân lý và chấm dứt khổ đau”.

Nhưng sau đó ngài vẫn ở lại trong cung điện ấy, và thành tựu các hạnh nguyện trai giới, rồi khi các Long nữ trang điểm rực rỡ đến vây quanh ngài, ngài lại thường vi phạm giới đức. Về sau, ngài rời bỏ cung điện đi vào ngự viên, nhưng bọn chúng theo ngài đến đó, và hạnh nguyện của ngài cũng bị phá bỏ như trước kia. Ngài liền suy nghĩ: “Ta phải rời cung này, đi vào thế giới loài người, và tại đó, ta phải sống theo đúng hạnh nguyện của trai giới”.

Vì thế vào ngày trai giới, ngài rời cung điện ra đi, vào nằm trên nóc tổ kiến cạnh đường cái, không xa một thôn làng biên địa. Ngài nói:

– Ai muốn lấy da thịt ta, thì cứ lấy, hoặc có ai muốn bắt ta làm trò con rồng nhảy múa thì cứ bắt ta đi.

Như vậy ngài đã chịu xả thân ra bố thí, nên vừa thu gọn chiếc mồng lại, ngài vừa nằm đó hành trì hạnh nguyện trai giới.

Nhiều người qua lại trên đường cái trông thấy ngài, liền cúng dường ngài đủ hương hoa thơm ngát. Và dân chúng trong thôn làng biên địa kia xem ngài là Rồng chúa đại oai lực, nên dựng một ngôi đình trên chỗ ngài nằm, rải cát trước đó và cúng dường chiêm bái đủ thứ hương liệu, nước hoa.

Bấy giờ, dân chúng bắt đầu cầu tự nhờ ngài giúp sức, nên có lòng tín ngưỡng bậc Ðại sĩ và sùng kính tôn thờ ngài. Tại đó bậc Ðại sĩ giữ hạnh nguyện vào các ngày mười bốn, rằm giữa tháng, an tọa trên tổ kiến, rồi đến ngày mồng một âm lịch, ngài lại về long cung, và cứ như vậy ngài giữ tròn hạnh nguyện theo thời gian.

Một hôm vương phi Sumanà thưa với ngài:

– Tâu Chúa thượng, ngài ra đi đến cõi nhân gian để giữ hạnh nguyện trai giới, song nhân thế đầy nguy hiểm kinh hoàng. Giả sử có mối nguy cơ nào xảy ra cho Chúa thượng, thì nay ngài hãy bảo cho thần thiếp biết nhờ dấu hiệu gì để nhận ra việc ấy.

Sau đó ngài dẫn vương phi đến bên một hồ nước an toàn và bảo:

– Nếu có ai đánh ta hay làm ta bị thương, thì nước hồ sẽ vẩn đục lên. Còn nếu có con chim đại bàng nào tha ta đi, thì nước hồ sẽ biến mất, nếu có kẻ bỏ bùa bắt rắn nào tóm được ta thì hồ sẽ đổi thành màu máu.

Sau khi giải thích ba dấu hiệu này cho vương phi, ngài rời cung điện ra đi, giữ hạnh nguyện trai giới trong ngày mười bốn, đến nằm trên tổ kiến, ánh sáng trên thân ngài tỏa rực rỡ khắp chỗ đó. Toàn thân ngài trắng ngần, như một cuộn dây toàn bạc, đầu ngài như một cuộn len đỏ. Trong Tiền thân này, thân thể Bồ-tát to bằng cái đầu lưỡi cày, còn trong Tiền thân Bhuridatta (số 543, tập VII) ngài lớn bằng bắp đùi, và trong Tiền thân Sankhapàla (số 524, tập VI) thân ngài tròn trịa như chiếc xuồng dài có móc chèo.

Thời ấy có một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đến Takkasilà học tập dưới sự dạy bảo của một vị giáo sĩ lừng danh thế giới, nhờ vị này chàng ta học được bùa chú sai khiến mọi loài hữu tình. Khi về nhà theo đường cái ấy, chàng chẳng thấy gì ngoài bậc Ðạo sĩ. Chàng suy nghĩ: “Ta sẽ bắt con Rồng này và sẽ du hành khắp thôn làng thị trấn, kinh thành, bắt nó nhảy múa và tha hồ kiếm lợi lớn”.

Sau đó chàng lấy thứ cỏ thuốc linh dược, đọc thần chú và đến gần Rồng chúa. Vừa nghe tiếng niệm chú này, tức thì bậc Ðại sĩ cảm thấy hai lỗ tai như bị củi đốt cháy đâm thủng, đầu ngài như thể vỡ ra vì bị kiếm đâm vào. Ngài suy nghĩ: “Ta gặp chuyện gì đây?”. Rồi ló đầu ra khỏi chiếc mồng, ngài trông thấy người bỏ bùa bắt rắn ấy. Ngài liền suy nghĩ: “Nọc độc của ta cực kỳ mãnh liệt, nếu ta nổi giận và phì hơi độc từ lỗ mũi ra thì thân nó sẽ tan nát ra như một nắm trấu vậy, và thế là công đức của ta sẽ bị tiêu diệt hết, nên ta không muốn nhìn nó”. Ngài vừa nhắm mắt lại vừa thụt đầu vào trong chiếc mồng.

Người Bà-la-môn bỏ bùa rắn kia nhai một cây cỏ thuốc, niệm chú rồi nhỏ lên mình ngài: nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú nên nơi nào có nước miếng của người đó dính vào thì các mụn mủ nổi lên. Sau đó chàng ta nắm lấy được ngài ra. Chàng ta lấy chiếc gậy hình chân dê thúc ép ngài cho đến lúc ngài yếu sức, rồi nắm chặt phần đầu ngài mà chà xuống. Bậc Ðại sĩ há mồm ra, chàng nhỏ nước miếng vào, nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú, răng ngài gãy tan hết, chiếc mồm đầy cả máu. Song bậc Ðại sĩ sợ phải phá hủy công đức của ngài, nên ngài chịu mọi khổ hình này và không hề mở mắt ra đủ để liếc nhìn gã.

Sau đó chàng nói:

– Ta sẽ làm Rồng chúa này yếu đi!

Chàng ép chặt thân Rồng chúa từ đầu chí đuôi như thể chàng muốn chà nát xương ngài thành bột! Rồi chàng gói ngài trong thứ thường được gọi là mảnh vải cuộn, thắt thêm một vật gọi là dây thừng rồi nắm đuôi ngài và đấm đá. Thân thể của bậc Ðại sĩ bê bết máu, và ngài đau đớn vô cùng. Khi thấy chúa Rồng này đã yếu sức, chàng làm cái thúng bằng cây liễu gai để đặt Rồng chúa vào.

Sau đó chàng đem ngài vào làng xóm, bắt ngài làm trò cho dân chúng. Dù phải hóa thành màu xanh, đen hay màu gì khác nữa, biến ra hình tròn vuông lớn nhỏ ra sao, hễ chàng Bà-la-môn muốn gì , bậc Ðại sĩ đều làm cả, vừa nhảy múa, giương mồng quay tít thành thiên hình vạn trạng. Dân chúng quá thích thú nên cho thật nhiều tiền. Trong một ngày chàng đã kiếm được cả ngàn đồng ru-pi và nhiều trò đáng giá cả ngàn đồng khác nữa.

Lúc đầu chàng dự định thả ngài ra khi đã kiếm được một ngàn đồng, nhưng khi được rồi, chàng lại nghĩ: “Trong một làng biên địa mà ta đã kiếm được chừng này, nếu gặp vua quan thì ta còn mong được biết bao nhiêu của cải nữa”.

Thế là chàng mua một chiếc xe bò và một chiếc xe du ngoạn, trong xe bò, chàng chất đầy hàng hóa, còn chàng ngồi xe kia. Như vậy cùng với một đoàn tùy tùng hầu cận, chàng đi qua thôn làng thị trấn, bắt bậc Ðại sĩ làm trò, và tiếp tục du hành với ý định trình diện ngài trước vua Uggasena ở Ba-la-nại rồi mới thả ngài đi.

Chàng ta thường giết ếch nhái và đem cho Rồng chúa nhưng Rồng từ chối mỗi khi chàng ta đưa vậy, để không một sinh vật nào bị chàng ta giết vì ngài nữa. Sau đó chàng ta đem mật và bắp rang cho ngài. Nhưng ngài cũng không chịu ăn, vì ngài nghĩ: “Nếu ta ăn gì thì ta sẽ ở trong giỏ này cho đến chết”.

Suốt một tháng, người Bà-la-môn đến ở Ba-la-nại. Tại đó chàng kiếm được nhiều tiền nhờ bảo Rồng chúa diễn trò trong các thôn làng ngoài cổng thành. Vua cho triệu chàng vào và ra lệnh diễn trò. Chàng hứa sẽ làm vào ngày hôm sau, là ngày cuối trong mỗi nửa tháng. Sau đó vua bảo đánh trống khắp kinh thành, bố cáo ngày mai sẽ có một Rồng chúa nhảy múa trong sân chầu, vậy dân chúng được phép tụ tập để xem thật đông. Hôm sau sân chầu được trang hoàng, và người Bà-la-môn được triệu vào. Chàng mang bậc Ðại sĩ trong cái thúng và có dát ngọc vàng, trên một tấm thảm rực rỡ, chàng đặt thúng xuống và vua an tọa trên ngai vàng giữa thần dân chật ních vây quanh.

Người Bà-la-môn bắt bậc Ðại sĩ ra và bảo nhảy múa. Dân chúng không thể nào ngồi yên được: hàng ngàn chiếc khăn quăng tung vẫy giữa không gian; bảy loại châu báu rớt xuống như mưa quanh Bồ-tát.

Từ khi Long vương bị bắt đến nay đã một tháng tròn và suốt thời gian ấy ngài chẳng ăn uống gì cả. Bây giờ vương phi Sumanà bắt đầu suy nghĩ: “Phu quân yêu quý của ta đã ở nán lại trên đó lâu rồi. Cả tháng này ngài chưa trở về chắc có việc gì chăng?

Vì thế nàng bước ra xem mặt nước hồ: Kìa, nước đỏ như máu! Thế là nàng biết chắc hẳn ngài đã bị hành hạ, và nàng khóc than.

Sau đó nàng vào ngôi làng biên địa kia để hỏi thăm và khi biết hết mọi sự, nàng đi thẳng đến Ba-la-nại và ngay giữa quần chúng trên khoảng không của chính sân chầu, nàng cứ đứng than khóc mãi.

Trong lúc bậc Ðại sĩ nhảy múa, ngài chợt nhìn lên không và thấy nàng, ngài hổ thẹn, bò ngay vào thúng nằm yên. Khi ngài bò vào thúng, vua kêu lớn:

– Sao có gì thế này?

Nhìn quanh quẩn đâu đó, ngài thấy Long nữ đứng ở trên không liền ngâm vần kệ:

  1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
    Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
    Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
    Ta chắc nàng không phải thế nhân?

Sau đây câu chuyện giữa hai vị qua các vần kệ:

Long nữ:

  1. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
    Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
    Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
    Ðến đây vì có việc cầu ân.

Ðức vua:

  1. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
    Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
    Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
    Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!

Long nữ:

  1. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
    Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
    Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
    Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!

Ðức vua:

  1. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
    Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
    Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
    Làm sao đánh giá đúng Rồng này?

Long nữ:

  1. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
    Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
    Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
    Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.

Sau đó vua hỏi bằng cách nào chàng kia bắt được ngài, nàng đáp qua vần kệ sau:

  1. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
    Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
    Gã múa rối kia tìm bắt được,
    Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!

Sau những lời trên, nàng lại ngâm hai vần kệ khác xin giải thoát cho ngài:

  1. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
    Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
    Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
    Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
  2. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
    Xin chuộc Long vương được thoát thân
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.

Ðức vua liền ngâm tiếp ba vần kệ:

  1. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
    Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
    Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
    Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
  2. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
    Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
    Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
    Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
  3. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
    Và hai người vợ cũng chung dòng,
    Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
    Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.

Nghe vậy, người bắt rắn đáp lời:

  1. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
    Mà để chúa Rồng được thoát thân,
    Như vậy, nay thần xin giải phóng:
    Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.

Sau lời này, chàng ta đem bậc Ðại sĩ ra khỏi thúng. Long vương từ từ bò ra, tiến vào trong một cái hoa, tại đó ngài trút bỏ xác cũ và hiện hình một nam tử phục sức cực kỳ lộng lẫy: Ngài đứng sừng sững, chẳng khác nào ngài vừa rẽ mặt đất ra và bước lên. Còn nàng Long nữ Sumanà từ trên trời giáng xuống đứng cạnh ngài. Vị Rồng chúa đứng chấp tay tỏ vẻ tôn trọng vua lắm.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ:

  1. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
    Liền nói như vầy với đức vua:
    “Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
    Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
    Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
    Trước lúc trở về viếng cố gia!”.

Ðức vua:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
    Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!

Nhưng bậc Ðại sĩ muốn vua tin tưởng, liền thề nguyền như sau qua hai vần kệ:

  1. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
    Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
    Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
    Chúa thượng, thần không thể dối lời!
  2. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
    Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
    Dù núi Tu-di rung bật gốc,
    Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!

Dù có lời cam đoan như vậy, vua vẫn chưa tin bậc Ðại sĩ và bảo:

  1. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
    Khó được lòng tin ở thế gian,
    Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
    Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!

Một lần nữa vua ngâm vần kệ trên và thêm:

– Ngài phải biết ơn ta về các hành động tốt ta đã làm cho ngài đấy. Tuy nhiên ta có tin ngài chân chánh hay không, thì việc ấy tùy ta định đoạt.

Vua nói rõ điều này qua vần kệ:

  1. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
    Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
    Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
    Quyền ta là phải được tri ân!

Bậc Ðại sĩ liền thề nguyền như vầy để vua tin tưởng:

  1. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
    Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
    Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
    Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!

Bấy giờ vua mới tin ngài và cảm ơn ngài như vầy:

  1. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
    Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
    Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
    Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!

Phần ngài, bậc Ðại sĩ cũng ngâm kệ nữa để cảm tạ vua:

  1. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
    Cho con độc nhất quý vô ngần,
    Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
    Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.

Bấy giờ vua ước ao đi viếng cảnh giới loài Rồng, nên truyền lệnh cho quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng lên đường qua vần kệ:

  1. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
    Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
    Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
    Ta cùng đi viếng xứ Long vương.

Sau đây là vần kệ phát xuất từ trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
    Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
    Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
    Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.

Vào lúc vua rời kinh thành, bậc Ðại sĩ dùng thần lực khiến cảnh giới Long vương xuất hiện với một bức tường thành bao quanh làm bằng bảy loại châu báu, cùng các tháp canh tại cổng thành, ngài hóa phép cho các con đường dẫn đến Long cung đều được trang hoàng rực rỡ. Theo đường này, vua cùng đám tùy tùng bước vào cung và trông thấy một khung cảnh đầy kỳ thú với nhiều lâu đài nguy nga lộng lẫy cao sang.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
    Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
    Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
    Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
  2. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
    Ngự vào đại sảnh của Long thần
    Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
    Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
  3. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
    Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
    Ngàn cây đổ bóng che im mát,
    Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
  4. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
    Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
    Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
    Yêu kiều Long nữ múa như bay!
  5. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
    Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
    Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
    Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.

Vừa khi vua an tọa tại đó, quân hầu đã dâng lên đủ thức cao lương mỹ vị thần tiên, họ cũng đem các thứ này mời mười sáu ngàn Long nữ kia và toàn thể hội chúng ấy. Suốt bảy ngày, vua cùngđám tùy tùng thọ hưởng các thực phẩm thần tiên cùng mọi lạc thú khác. Vừa ngự trên bảo tọa, vua vừa ca ngợi cảnh vinh quang của bậc Ðại sĩ:

– Này Long vương – vua hỏi – tại sao ngài bỏ mọi cảnh huy hoàng này để đi nằm trên tổ kiến giữa cảnh trần thế của con người và hành trì ngày trai giới vậy?

Bậc Ðại sĩ liền đáp lại vua.

Ðể giải thích sự việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:

  1. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
    Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
    “Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
    Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
    Trên trần không chốn nào như vậy,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  2. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
    Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
    Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
    Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
    Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
    Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
  3. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
    Ðều có bến xây bậc vững vàng
    Trên trần chẳng chốn nào như thế,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
  4. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
    Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
    Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
    Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
  5. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
    Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
    Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
    Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
  6. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
    Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
    Cảnh này không thấy trên trần giới,
    Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?

Long vương:

  1. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
    Ta phấn đấu vầy với bản thân,
    Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
    Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.

Vua lại nói:

  1. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
    Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
    Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
    Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
  2. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
    Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
    Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
    Vì sao địa giới vượt Long đài?

Câu hỏi này được Rồng chúa đáp lại như sau:

  1. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
    Khi người ta sống giữa quần sinh,
    Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
    Ta thấy tử sinh đến với mình.

Vua lắng nghe và đáp kệ này:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.

Long vương bảo ngài:

  1. Quả thật là chân chánh thiện tâm
    Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
    Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
    Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
    Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
    Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.

Sau buổi đàm đạo ấy, vua Uggasena muốn ra đi, liền tạ từ ngài và bảo:

– Này Long vương, trẫm ở lại đây đã lâu rồi, nay trẫm cần phải ra về.

Bậc Ðại sĩ liền chỉ các kho báu cho vua xem, vừa tặng bất cứ thứ gì vua muốn lấy, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
    Bạc chất như cây cả mấy tầng,
    Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
    Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
  2. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
    San hô chen giữa ửng hồng tươi,
    Lấy đi để trải đầy cung điện
    Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
  3. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
    Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
    Tại đó xin ngài lên ngự trị,
    Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
    Mong ngài cai trị dân hiền đức,
    Và trị nước nhà thật xứng danh.

Vua chấp thuận lời đề nghị này. Sau đó bậc Ðại sĩ ban lời bố cáo khắp kinh thành bằng tiếng trống lệnh:

– Hãy để cho đám tùy tùng của đức vua từ nhân giới lấy đem về bất cứ món gì trong các kho báu của ta, cả vàng ròng nữa như ý muốn.

Rồi ngài truyền đưa bảo vật đến tặng vua chất đầy hàng trăm cỗ xe.

Xong xuôi, vua giã từ cảnh giới Long vương trong muôn vẻ huy hoàng trọng thể và trở về thành Ba-la-nại. Từ đó về sau, tục truyền rằng đất được lát vàng khắp cả xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy các bậc trí ngày xưa đã từ giã cảnh vinh quang trong thế giới loài Rồng để hành trì ngày trai giới.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là người nhử rắn, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là nàng Sumanà, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua Uggasena và Ta chính là Long vương Campeyya.

-ooOoo-

  1. Chuyện sức cám dỗ mạnh (Tiền thân Mahà-Palobhana)

Từ cõi Phạm thiên một vị thần..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự ô nhiễm lậu hoặc của các vị bậc thanh tịnh.

Các hoàn cảnh đã được nêu trước kia. Tại đây, một lần nữa, bậc Ðạo sư bảo:

– Nữ nhân thường gây cấu uế cho cả những người đã đạt tâm thanh tịnh.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại.. câu chuyện đời xưa này cũng diễn tiến như trong Tiền thân Cullapalobhana. Bấy giờ một lần nữa, bậc Ðại sĩ từ Phạm thiên giới giáng trần làm vương tử của vua Kàsi và ngài có tên là Anitthi gandha: Người ghét nữ nhân. Vương tử hài nhi không muốn ở trong tay bất cứ một nữ nhân nào, nên bọn chúng phải mặc áo quần đàn ông khi cho vương tử bú sữa và chàng cứ ở riêng trong một thiền thất, không hề thấy bóng một nữ nhân nào cả.

Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:

  1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
    Ðến đây là thế giới phàm nhân
    Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
    Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
  2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
    Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
    Giờ sinh dục giới này, vương tử
    Nghe chữ “tình” thôi, chán ngấy liền!
  3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
    Một am thất nhỏ của riêng tây,
    Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
    Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
  4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
    Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
    “Trẫm chí sinh ra mình thái tử
    Mà bao dục lạc, trẻ không màng!”

Vần kệ thứ năm diễn tả lời than vãn của vua cha:

  1. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
    Ôi, lẽ nào không có cách chi?
    Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
    Có ai làm thái tử mê ly?

Vần kệ rưỡi này là vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:

  1. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
    Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
    Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
    Và uốn người quay tít thật đều.
    Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
    Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.

Nửa vần kệ này do cô gái ngâm:

  1. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
    Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.

Vua đáp lời cô gái, và phán như vầy như vầy:

Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!

Bấy giờ vua truyền lệnh tạo ra mọi cơ hội thuận tiện cho nàng và triệu nàng vào chầu chực bên mình vương tử.

Buổi sáng kia, nàng đem cây đàn đến đứng ngay bên ngoài tịnh thất của vương tử và chạm nhẹ các đầu ngón tay vào đàn, cố ra sức quyến rủ chàng bằng giọng ca êm ái dịu ngọt làm sao.

Bậc Ðạo sư ngâm kệ để giải thích việc này:

  1. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
    Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
    Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
    Xuyên vào tim của bạn chung tình.
  2. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
    Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
    Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
    Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
  3. “Âm thanh nào đó thật du dương
    Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
    Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
    Bên tai kỳ thú thật khôn lường!”
  4. “- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
    Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
    Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
    Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!”.
  5. “- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
    Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
    Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
    Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!”
  6. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
    Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
    Nàng vây chàng chặt như voi nọ
    Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
  7. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
    Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
    “Không ai được phép yêu nàng cả!
    Chỉ một mình ta được luyến thương!”
  8. Một mình ta, chẳng được người nào!
    Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
    Cầm kiếm lồng lên như khát máu
    Ði tàn sát hết bọn mày râu!
  9. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
    Toàn thể phi thân đến hậu cung:
    “Vương tử giết người bất kể số,
    Chẳng ai khiêu khích!” Họ kêu rần.
  10. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
    Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
    “Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
    Trong vùng biên địa nước ta này!”.
  11. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
    Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
    Tại đó chàng xây lều lợp lá,
    Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
  12. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
    Bay qua biển cả, giữa không gian,
    Ði vào lều lá sao vừa lúc
    Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
  13. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
    Xem việc làm sao hạ liệt thay!
    Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
    Mọi thần thông lực thảy xa bay!
  14. Chiều đến, khi vương tử trở về,
    Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
    Quả rau, một đống trên đòn gánh,
    Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
  15. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
    Ngài ra bờ biển vội rời chân,
    Ngỡ là hành cước qua không khí,
    Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
  16. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
    Vào trong biển cả cứ chìm thân,
    Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
    Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
  17. Ngài phi hành đến bởi thần thông
    Trên biển không buồm để ruổi dong,
    Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
    Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
  18. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
    Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết hồng quần phải tránh xa!
  19. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
    Cũng như khó đổ nước đầy sông,
    Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
    Ai biết, nên xa lánh má hồng!
  20. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
    Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
    Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
    Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
  21. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
    Chán chê trần thế quả hư huyền,
    Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
    Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
  22. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
    Cách ngài bay bổng giữa hư không,
    Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
    Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
  23. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
    Dục tham và khát vọng nồng nàn,
    Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
    “Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng”.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:

– Như vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ vì nữ nhân mà ngay những người có tâm thanh tịnh cũng vẫn gây ác nghiệp.

Rồi ngài thuyết giảng các Sự thật, bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự thật, vị Tỷ-kheo thối thất kia đãđắc Thánh quả A-la-hán.

Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ta chính là Vương tử Anitthigandha

-ooOoo-

  1. Chuyện năm vị Hiền nhân (Tiền thân Panca-Pandita)

Chuyện Tiền thân về năm vị Hiền nhân sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga (Ðường Hầm lớn) số 546, tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hiền giả quản tượng (Tiền thân Hatthipàla)

Cuối cùng thấy một Bà-la-môn..,

Câu chuyện này, bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của Ngài.

Rồi cùng với các lời sau đây:

– Này các Tỷ-kheo, không phải đây là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự xuất thế, mà xưa kia cũng vậy.

Bậc Ðạo sư kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thời tại Ba-la-nại, có một vị vua cai trị mệnh danh là Esukàri. Vị tế sư của ngài vốn là bạn đồng môn được ngài yêu chuộng từ thuở niên thiếu. Cả hai đều không có con. Một ngày kia trong lúc hai vị đang ngồi chuyện trò thân thiết cùng nhau, hai vị nghĩ thầm: “Chúng ta cùng hưởng cảnh đại vinh quang, song chẳng hề có con trai con gái gì cả, vậy phải làm sao bây giờ?” Vua liền bảo vị tế sư:

– Này hiền hữu, nếu nhà hiền hữu sinh được một công tử thì hài nhi đó sau trở thành chúa tể trong quốc độ ta, song nếu ta sinh được một hoàng nam thì đó sẽ là chủ nhân tài sản nhà hiền hữu vậy.

Cả hai vị giao ước với nhau về các chuyện tiếp theo các điều lệ này.

Một hôm, vị tế sư đi đến ngôi làng có hoa lợi của mình, và vào làng bằng cổng phía nam, vị này thấy ngoài cổng làng một người đàn bà cùng khổ lại sinh nhiều con trai quá: có đến bảy đứa, tất cả đều cường tráng khỏe mạnh, đứa cầm nồi đem chảo đi nấu bếp, đứa thì lấy chiếu trải giường, thằng này đi trước thằng nọ theo sau, thằng khác nắm tay mẹ, thằng kia ngồi trong lòng mẹ, một thằng nữa trèo trên vai bà. Vị tế sư hỏi:

– Thế cha bầy trẻ này đâu?

Bà ấy đáp:

– Thưa ngài, chắc chắn là đám trẻ chẳng có cha nào cả.

Vị này hỏi:

– Vậy thì làm sao bà có được bảy thằng con xinh tốt như thế này?

Người đàn bà không để ý đến cả khu rừng rậm, mà chỉ tay vào cây đa đứng cạnh cổng thành và nói:

– Thưa ngài, tiện thiếp cầu khẩn vị thần sống ở cây này, vị thần ấy đáp lại lời cầu xin của thiếp bằng cách ban cho bảy thằng bé ấy.

Vị tế sư liền bảo:

– Thôi được, bà đi đi.

Rồi vị này xuống xe bước lên cây ấy, cầm một cành mà lắc mạnh, bảo nó:

– Này thần linh, đức vua có thiếu món gì cúng ông, suốt năm này qua năm khác, ngài cúng ông cả ngàn đồng tiền, mà ngược lại ông chẳng ban cho ngài vị vương tử nào cả. Còn mụ ăn mày kia đã làm gì mà ông cho mụ cả bảy đứa con trai hử? Ông phải cho đức vua một đứa con trai này trong vòng bảy ngày, nếu không ta sẽ bảo chặt đốn thân ông xuống và xẻ ra từng khúc đấy.

Khi trách mắng vị thần cây đa như thế xong, vị tế sư ra đi.

Suốt sáu ngày vị tế sư cứ làm như vậy và vào ngày thứ sáu, vừa nắm một cành cây vừa bảo:

– Này thần cây, chỉ còn một đêm nữa thôi đấy, nếu ông không cho đức vua một con trai thì thân ông phải ngã xuống ngay.

Vị nữ thần trên cây suy nghĩ mãi cho đến khi nàng thấy sự việc ấy rõ ràng như thế nào. Nàng nghĩ thầm: “Vị Bà-la-môn kia sẽ phá tan nhà của ta nếu vị ấy không được đứa con trai. Vậy ta biết cho ngài một con trai bằng cách nào đây đã chứ? Sau đó nàng yết kiến Tứ đại Thiên vương, và tâu trình với các ngài. Các ngài phán:

– Này, chúng ta không thể ban cho người ấy một đứa con trai được!

Kế đó, nàng đến gặp hai mươi tám vị thần Dạ-xoa (Yakkha), các thần kia cũng trả lời nàng như vậy, nàng liền đến yết kiến Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ và tâu trình ngài.

Thiên chủ suy nghĩ trong lòng: “Nhà vua nay có sinh được hoàng nam xứng đáng với mình hay chăng?” Rồi ngài nhìn quanh và chợt thấy bốn vị Thiên tử đức độ. Truyện kể rằng các vị này nguyên là thợ dệt ở Ba-na-lại, trong một đời trước, tất cả mọi tiền của kiếm được nhờ buôn bán, các vị ấy chia làm năm phần, bốn phần làm của riêng mỗi người, còn phần thứ năm là của chung được đem ra bố thí hết. Từ thành ấy chư vị tái sanh lên cõi trời (Ba-mươi-ba) sau đó lại tái sinh vào cõi Yama thiên (Dạ-ma), từ đấy cứ tái sinh liên tục lên xuống qua về sáu tầng trời cõi dục và hưởng thọ vô số vinh quang.

Ngay thời bấy giờ là lúc chư vị phải đi từ cõi trời Ba-mươi-ba đến cõi Yama (Dạ-ma). Thiên chủ Sakka liền đi tìm kiếm, đi đến cõi nhân gian và nhập mẫu thai của chánh hậu Ðại vương Esukàri.

– Lành thay, tâu Thiên chủ.

Và các vị cùng nói những lời này:

– Chúng thần sẽ đi, song chúng thần không muốn liên quan gì đến hoàng gia cả: chúng thần sẽ tái sinh vào gia đình vị tế sư và ngay khi còn thanh niên, chúng thần sẽ từ giã thế tục.

Thế là Thiên chủ tán thành các vị ngay về lời cam kết kia, xong ngài trở về, kể lại mọi chuyện cho nữ thần sống trên cây đa ấy. Nữ thần rất vui mừng, tạ từ Thiên chủ Sakka và lui về nơi cư ngụ của mình.

Còn vị tế sư ngày hôm sau lại đến cùng với một đám người lực lưỡng mà vị này đã tập họp lại, mỗi người cầm một cây rìu thật bén hay một vật tương tự. Vị tế sư bước gần cây nắm một cành và kêu to:

– Này thần cây! Ðây là ngày thứ bảy. Kể từ khi ta cầu khẩn ông một đặc ân: nay đã đến phá hoại cây rồi đó!

Vị thần cây dùng đại lực của nàng làm nứt nẻ thân cây và xuất hiện với giọng ngọt ngào, bảo vị ấy như vầy:

– Này vị Bà-la-môn, ngài muốn có một nam tử chăng? Chà! Ta sẽ ban cho ngài cả bốn đứa kia!

Vị tế sư bảo:

– Ta không muốn có con, xin nàng có một đứa con trai cho đức vua của ta thôi.

Nàng đáp:

– Không được đâu, ta chỉ muốn ban cho ngài thôi.

Vậy thì nàng hãy ban cho đức vua hai đứa và ta hai đứa đi.

– Không được, đức vua chẳng thể nào có con đâu, phần ngài phải có cả bốn đứa, mà chúng chỉđược phép ban cho riêng ngài thôi, là vì chúng sẽ không muốn sống cuộc đời thế tục tại gia, nên ngay lúc tuổi còn thanh xuân, chúng sẽ từ giã thế tục này.

– Vậy nàng cứ cho ta các đứa con trai ấy đi, ta quyết chăm sóc để bọn chúng khỏi từ giã thế tục. Vị ấy đáp.

Như vậy là nữ thần đã chấp thuận lợi cầu tự của vị tế sư này và trở về chỗ cư ngụ của nàng. Từ đó về sau, nữ thần kia được trọng vọng tôn vinh lắm.

Bấy giờ vị Thiên tử lớn nhất giáng trần, nhập mẫu thai của phu nhân vị quốc sư kia. Vào ngày đặt tên, gia đình ấy gọi hài nhi là Hatthipala hay Người Quản Tượng, và để ngăn cản con trai rời khỏi thế tục này, họ giao hài nhi cho vài người giữ voi chăm sóc, nên hài nhi lớn lên giữa đám người ấy.

Khi hài nhi mới lớn vừa biết đi chập chững thì hài nhi thứ hai ra đời cũng từ phu nhân ấy. Vào ngày sanh, họ đặt tên hài nhi là Assapàla hay Người Giữ Ngựa, và hài nhi lớn lên giữa bọn người giữ ngựa. Hài nhi thứ ba lúc ra đời được đặt tên là Gopàla hay Người Chăn Trâu và hài nhi lớn lên giữa bầy mục tử. Còn Ajapàla hay Người Chăn Dê, là tên hài nhi thứ tư được gọi lúc ra đời và hài nhi này lớn lên giữa đám người chăn dê. Khi bầy trẻ lớn lên, chúng là những nam tử có đầy đủ tướng mạo tốt lành.

Lúc bấy giờ, vì lo sợ bầy con trai từ bỏ thế tục nên các người tu khổ hạnh xuất gia đều bị đuổi ra khỏi quốc độ này: trong toàn xứ sở Kàsi không còn sót tu sĩ nào cả. Riêng bầy nam tử này tính tình thô bạo lắm: hễ chúng đi trên con đường nào là chúng cướp đoạt những lễ vật cúng cấp đây đó trong vùng.

Khi Hathipàla lên mười sáu tuổi, vua và vị tế sư thấy dung mạo hoàn mỹ của chàng, liền nghĩ thầm: “Các con nay đã khôn lớn mạnh mẽ. Khi đã giương lên chiếc lọng hoàng gia rồi thì ta sẽ làm gì chúng được nữa? Ngay khi làm lễ quán đảnh cho chúng xong, chúng sẽ thống trị tất cả: Các vị tu khổ hạnh sẽ đến, bọn chúng sẽ thấy các vị đó và cũng sẽ trở thành các vị tu khổ hạnh luôn; một khi chúng hành động như thế thì cả nước sẽ loạn lên mất. Vậy trước tiên ta phải thử lòng chúng rồi sau đó mới làm lễ quán đảnh”.

Thế là hai vị này cải trang làm các nhà tu khổ hạnh và đi khất thực cho đến khi vào tận cửa nhà của Hatthipàla đang ở. Chàng trai này vui vẻ thích thú ngay khi gặp hai vị, liền bước đến gần đảnh lễ hai vị rất cung kính, và ngâm vần kệ:

  1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
    Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
    Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
    Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
  2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
    Vui thú theo đường lối chánh chân
    Với vỏ cây làm y phủ kín,
    Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
  3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
    Thật là chân chánh lúc đem dâng,
    Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
    Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.

Chàng trai lần lượt nói như vậy với hai vị. Rồi vị tế sư bảo:

– Này Hatthipàla con hỡi, con nói điều này vì con không biết chúng ta. Con tưởng chúng ta là các bậc hiền nhân từ vùng Tuyết Sơn xuống đây ư, song thật chúng ta không phải như vậy đâu, con ạ. Ðây là Ðại vương Esukàri và ta là thân phụ của con, vị quốc sư đó.

Chàng trai nói:

– Thế thì tại sao Ðại vương và thân phụ đắp y như các bậc hiền giả?

Vị ấy đáp:

– Ðể thử lòng các con đó mà!

Chàng hỏi:

– Tại sao lại thử con chứ?

– Bởi vì, nếu con gặp chúng ta mà không muốn từ giã thế tục thì chúng ta sẵn sàng làm lễ quán đảnh phong vương cho con ngay.

– Ồ thưa phụ vương, chàng đáp, con chẳng ham vương vị, con muốn rời bỏ thế tục.

Thân phụ chàng liền đáp:

– Này con Hatthipàla, đây chưa phải thời để rời bỏ thế tục đâu.

Rồi vị này giải thích ý định của mình qua vần kệ thứ tư:

  1. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
    Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
    Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
    Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
    Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
    Thế là người trí xứng danh hiền.

Hatthipàla đáp lại với vần kệ:

  1. Chân lý không sao lại đạt thành
    Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
    Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
    Có lối thoát ra mọi dục tình,
    Như các trí nhân đều thấu suốt:
    Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.

Bấy giờ vua ngâm kệ đáp lời chàng trai:

  1. Lời tự mồm con quả thật chân:
    Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
    Hai thân con đó, nay già yếu
    Song các người mong muốn thấy rằng
    Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
    An khang cho trẻ hưởng riêng phần.

– Tâu Chúa thượng, ngài muốn ám chỉ việc gì thế?

Vương tử hỏi và ngâm hai vần kệ:

  1. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
    Có thể tìm ra một bạn thân,
    Ðã ký với tuổi già thỏa ước
    Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
    Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
    Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
  2. Cũng giống như người lái vượt dòng,
    Con thuyền sang bến nọ bên sông,
    Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
    Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.

Bằng cách trên, chàng trai đã chỉ cho các vị này thấy cuộc sống thế nhân giả tạm phù du ra sao, rồi thêm lời khuyên nhủ:

– Tâu Ðại vương, ngài đứng đó và ngay khi tiểu sinh đang đàm đạo với ngài, ngay bây giờ đây, bệnh tật, tuổi già và thần chết đang tiến gần ta. Vậy xin Ðại vương hãy tỉnh giác!

Sau khi vái chào vua và phụ thân, chàng đem theo đám hầu cận muốn đi cùng chàng, bỏ lại vương quốc Ba-la-nại đằng sau và lên đường với ý định theo sống đời khổ hạnh. Cả một hội chúng đông đảo cùng đi với chàng thanh niên Hatthipàla vì hội chúng bảo:

– Cuộc sống tu hành này chắc hẳn phải cao thượng lắm.

Hội chúng ấy trải dài suốt một dặm đường, chàng nam tử cùng hội chúng tiến lên cho đến tận bờ sông Hằng. Tại đó chàng làm phát khởi Thiền định bằng cách quán sát dòng nước sông Hằng.

Chàng nghĩ thầm: “Tại đây rồi sẽ có hội chúng đông lắm!.. Ba vị hiền đệ của ta sẽ đến, kế là song thân, đức vua và hoàng hậu, tất cả cùng với đám tùy tùng sẽ sống theo đời tu tập. Thành Ba-la-nại sẽ trống vắng. Ta sẽ ở đây cho đến khi các vị đến đủ”. Thế là chàng ngồi tại đó, khích lệ cả đám đông dân chúng đang tụ tập.

Hôm sau, vua và vị tế sư suy nghĩ: “Như vậy vương tử Hatthipàla đã thực sự rời bỏ quyền làm vua và hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng, từ đó chàng sẽ đi theo cuộc sống tu hành cùng với một hội chúng đông đảo ở bên chàng. Song ta hãy đi thử Assapàla xem sao, rồi làm lễ quán đảnh phong vương cho chàng”. Vì thế cũng như trước kia vừa khoác bộ y phục của nhà tu khổ hạnh, hai vị cùng đi đến cửa nhà chàng. Chàng rất hoan hỷ khi thấy hai vị, liền bước tới gần hai vị ngâm câu kệ “Cuối cùng..” ấy giống như anh cả của chàng đã ngâm. Hai vị này cùng làm như trước, và báo cho chàng biết nguyên nhân hai vị đến đây. Chàng đáp:

– Tại sao chiếc lọng trắng hoàng gia lại dành ưu tiên cho phần con, khi con có một hoàng huynh như Hatthipàla?

Hai vị đáp:

– Này con, hoàng huynh con đã ra đi để sống đời tu tập, anh con chẳng muốn liên hệ gì với hoàng gia nữa.

– Thế bây giờ anh con đâu rồi? – Chàng hỏi.

– Hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng.

– Tâu Chúa thượng và thân phụ, con cũng chẳng đến cái thứ mà anh con đã nhổ khỏi mồm. Chỉ có những kẻ ngu si và thiếu trí mới không đủ năng lực vứt bỏ ác dục này, còn con quyết sẽ vứt bỏ nó.

Sau đó chàng thuyết pháp cho thân phụ và đức vua qua hai vần kệ được chàng ngâm lên:

  1. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
    Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
    Ai chìm trong đám bùn vô trí
    Không thể bước sang đến bến bờ.
  2. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
    Nó bị bắt giam trước đến giờ,
    Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
    Ðể không làm những chuyện như xưa
    Từ nay con quyết lòng xây dựng
    Những bức tường không thể lọt vô.

– Tiểu sinh xin thưa: Chúa thượng cùng thân phụ hiện đứng chỗ kia và ngay khi tiểu sinh đang trình với hai vị, thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết cũng đang tiến đến gần ta hơn.

Cùng với lối khuyến giáo này, vừa được một đám đông hộ tống kéo dài cả dặm đường, chàng ra đi tìm gặp vương tử Hatthipàla, vị vương huynh chàng liền đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng rồi nói:

– Này hiền đệ, sau sẽ có một đám đông dân chúng đến đây, vậy hai ta hãy cùng ở lại chốn này.

Chàng đồng ý ở lại đó ngay.

Hôm sau, vua và vị tế sư cũng theo cách trên đến nhà vương tử Gopala. Khi được chàng hoan hỷ chào đón theo như cách hai vị vương tử trước, hai vị giải thích duyên cớ đến đây. Cũng như Hatthipàla, chàng từ chối lời đề nghị của hai ngài.

– Từ lâu con đã ước mong sống đời tu tập như một bò cái bị lạc trong rừng, còn vẫn đi lang thang tìm lối sống. Nay con nhìn thấy con đường mà hai vương huynh của con đã đi qua, giống như dấu chân kia của con bò bị lạc, nên con cũng theo đường ấy mà ra đi.

Sau đó chàng ngâm kệ:

  1. Như tìm bò cái lạc trên đường,
    Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
    Cũng vậy, an vui con đã mất,
    Sao còn do dự với phân vân,
    Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
    Khi bước đi tìm theo dấu chân?

Hai vị đáp:

– Nhưng này Gopàlaka thân yêu, con hãy đến ở cùng chúng ta một ngày, hoặc đến với chúng ta hai ba ngày, để nhà chúng ta được hạnh phúc hân hoan, rồi sau đó con hãy rời thế tục.

Chàng đáp:

– Tâu Ðại vương, xin đừng bao giờ hoãn lại đến ngày hôm sau chuyện gì đáng làm hôm nay, nếu Ðại vương muốn an lành xin hãy hành động ngay hôm nay, đừng trì hoãn nữa.

Sau đó chàng ngâm kệ khác:

  1. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
    Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
    “Thời vị lai không còn sự nghiệp!”
    Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
    Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
    Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.

Gopala vừa nói như vậy, vừa thuyết Pháp qua hai vần kệ trên, xong rồi nói thêm:

– Ngay nơi Ðại vương đứng đó, và ngay lúc con thưa trình với Ðại vương thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết nữa cũng đang tiến tới dần.

Sau đó được dân chúng hộ tống cả một dặm đường, chàng ra đi tìm kiếm hai vị hiền huynh. Rồi Tôn giả Hattipàla vừa đứng ở trên không vừa thuyết Pháp cho chàng như trước.

Ngày kế đó, vua và vị tế sư cũng theo cách trên và đi đến nhà vương tử Ajapàla; chàng hoan hỷ đón chào hai vị giống như các vương huynh chàng đã làm. Hai vị nói rõ duyên cớ đến đây và đề nghị giương cho chàng chiếc lọng hoàng gia. Vương tử bảo:

– Thế hai vương huynh con đâu rồi? Hai vị đáp:

– Hai vương huynh của con không muốn liên hệ với giang sơn quốc độ này nữa; cả hai đã khước từ chiếc lọng trắng và cùng với một hội chúng trải rộng cả ba dặm đường đang ngồi trên bờ sông Hằng.

– Thế thì con cũng không muốn đặt lên đầu cái vật mà hai vương huynh nhả ra khỏi mồm và đi theo sống đời tu hành như thế, nhưng con muốn hành trì đời sống xuất gia thôi.

Hai vị bảo:

– Này con, con còn trẻ lắm, hạnh phúc của con là mối quan tâm lo lắng của hai ta, vậy để lúc già hơn rồi con hãy sống theo đời tu tập.

Song chàng trai đáp:

– Ðại vương và thân phụ bảo con điều gì thế kia? Hiển nhiên cái chết vẫn đến với tuổi trẻ cũng như với tuổi già! Không ai có dấu hiệu gì trong bàn tay hay không biết được lúc nào con chết cả, vì vậy con muốn rời thế tục ngay bây giờ đấy.

Rồi chàng ngâm hai vần kệ:

  1. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
    Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
    Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
    Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
  2. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
    Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
    Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
    Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
    Con giã biệt đời người thế tục
    Cùng bao dục lạc của trần gian,
    Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
    Và hãy trở về chốn cố hương.

Sau đó chàng nói tiếp:

– Nay Ðại vương đứng chỗ kia và ngay lúc tiểu sinh đang tâu trình với Ðại vương cùng thân phụ, thì bệnh tật, tuổi già và thần chết cũng đang tiến tới gần tiểu sinh.

Rồi chàng đảnh lễ cả hai vị, dẫn đầu một hội chúng dài cả dặm đường, chàng ra đi đến bờ sông Hằng. Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng, rồi ngồi xuống, đợi đám đại chúng mà ngài mong gặp.

Hôm sau, vị tế sư bắt đầu suy tư trầm ngâm trong lúc ngồi trên bảo tọa. Ông nghĩ thầm: “Các con ta đã sống đời tu tập, nay chỉ còn lại một mình ta là lão già như gốc cây đã cằn cỗi tàn rụi, ta cũng muốn theo cuộc sống tu hành.

Rồi ông ngâm kệ với phu nhân mình:

  1. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
    Người ta gọi đó một cây xanh,
    Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
    Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
    Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
    Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
    Ðây là thời điểm dành cho lão
    Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.

Nói lời này xong, vị tế sư triệu tập các Bà-la-môn vào diện kiến mình: sáu mươi ngàn vị đến nơi. Sau đó ông hỏi cả hội chúng muốn làm gì. Họ đồng đáp:

– Ngài là sư phụ của chúng thần.

Ông bảo:

– Ðược lắm, thế thì ta sẽ đi tìm con trai ta và theo đời sống tu hành.

Hội chúng đáp:

– Không chỉ riêng ngài mới thấy địa ngục nóng rực lửa; chúng tiểu thần cũng sẽ làm y như ngài vậy.

Vị tế sư liền giao hết kho tàng châu báu, cả tám trăm triệu đồng tiền cho bà phu nhân, rồi dẫn đầu cả một đoàn Bà-la-môn trải dài suốt một dặm đường, ra đi đến vùng đất hai vị vương tử đang cư trú. Với hội chúng này cũng như trước kia, Tôn giả Hatthipàla đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Ngày hôm sau, bà phu nhân nghĩ thầm: “Bốn nam tử của ta đã từ chối chiếc lọng trắng của hoàng gia để theo đời tu tập; trượng phu của ta cũng đã để lại kho tài sản và vứt bỏ luôn chức vụ tế sư của triều đình nữa, rồi đi theo các con, thế ta còn làm gì một thân trơ trọi nữa? Theo cách các con ta đã đi, ta cũng đi luôn”.

Rồi bà ngâm kệ nói lên ước vọng qua câu tục ngữ:

  1. Tháng ngày mưa gió đã qua,
    Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
    Tự do bay lượn giữa trời,
    Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
    Vậy ta theo đúng đường thiêng
    Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.

Bà nhủ thầm: “Vì ta biết rõ điều này, sao ta lại không rời bỏ thế tục?”. Với dự định trên, bà triệu tập các phu nhân Bà-la-môn lại và bảo:

– Các phu nhân định làm gì giờ đây?

Họ bảo bà:

– Thế lệnh bà muốn làm gì?

– Về phần ta, ta sẽ từ giã thế tục.

– Vậy chúng thần thiếp cũng làm việc ấy.

Như thế, bà từ giã mọi cảnh huy hoàng này, ra đi tìm các con mình, đem theo cả một đám nữ nhân trải dài trên một dặm đường. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

Hôm sau, vua hỏi:

– Vị tế sư của trẫm đâu rồi?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, ngài tế sư và phu nhân đã vứt bỏ hết cảnh phú quý lại đằng sau, rồi ra đi theo các công tử cùng với một hội chúng dài đến hai ba dặm đường.

Vua phán:

– Tiền bạc vô chủ đến tay ta rồi!

Vua truyền lệnh đem tiền bạc từ nhà vị tế sư về cung. Lúc bấy giờ chánh hậu muốn biết nhà vuađang làm gì, bà được trình báo:

– Hoàng thượng đang truyền đem về cả kho báu từ nhà vị tế sư.

Bà hỏi:

– Thế vị tế sư đâu?

– Tâu lệnh bà, ngài đã xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh, cùng với cả vợ con và gia quyến.

Hoàng hậu nghĩ: “Thế tại sao chúa thượng đây lại truyền theo đem vào nhà mình thứ phân uế và nước bọt mà vị Bà-la-môn này cùng gia quyến vợ con đã nhổ ra thế kia? Thật là một kẻ ngu si mê mờ tham đắm làm sao! Ta sẽ khuyên bảo ngài qua ví dụ này”.

Bà truyền lấy một mớ thịt dành cho chó, chất thành một đống giữa sân hoàng cung, rồi bà đặt một cái bẫy quanh đó, để cho lối ra vào bẫy mở rộng thẳng lên trời. Bầy kên kên thấy thịt, từ xa vội sà xuống. Song những con chim khôn ngoan trong đàn ấy nhận ra cái bẫy đã được giăng quanh đó, và tự biết thân mình quá nặng nề nên không thể bay vụt thẳng được, liền nôn ra hết mọi thứ chúng đã ăn và không để cho mình bị mắc bẫy, chúng lại vút lên không và bay biến mất.

Còn những con chim khác vì ngu si mà giáng xuống, ngốn ngấu hết các thức mửa ra của đàn trước, nên quá nặng nề không thể nào bay thoát được và bị mắc vào bẫy. Quân hầu mang một con chim mắc bẫy vào dâng lên hoàng hậu và bà tự mang đến chỗ vua:

– Tâu Chúa thượng hãy nhìn xuống, bà nói. Trong sân chầu có một cảnh lạ mắt cho ta nhìn đấy!

Rồi bà vừa mở cánh cửa sổ vừa nói:

– Tâu Chúa thượng, hãy nhìn đám kên kên kia kìa!

Sau đó bà ngâm hai vần kệ:

  1. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
    Tự do bay lượn giữa bầu trời:
    Ðám kia ăn nán và lưu lại,
    Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
  2. Vị tế sư nôn hết dục tham,
    Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
    Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
    Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!

Nghe những lời này, vua tràn đầy ăn năn hối hận, ba cõi sinh hữu đều chẳng khác nào đám lửa đang cháy bừng bừng, nên vua bảo:

– Ngay chính hôn nay, trẫm phải từ giã vương vị này và sống theo đời ẩn dật tu hành.

Lòng nặng trĩu ưu phiền, ngài tán thán chánh hậu qua vần kệ:

19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!

Vua vừa nói như thế xong, liền lập tức triệu hồi đám quần thần, lòng nôn nóng theo đuổi cuộc sống tu hành, ngài bảo:

– Còn các khanh sẽ ý sao? – Ngài phán – Trẫm sẽ đi tìm Hatthipàla và trở thành người tu hành.

Quần thần đáp:

– Tâu chúa thượng, vậy chúng thần cũng xin làm việc ấy.

Nhà vua rời bỏ vương quyền khắp Ba-la-nại hình thành vĩ đại rộng cả mười hai dặm và bảo:

– Ai muốn thì cứ giương lên chiếc lọng trắng vương quyền.

Sau đó được đám triều thần vây quanh, ngài dẫn đầu một dòng người dài cả ba dặm, đi đến trình diện vị nam tử kia. Với đám người này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm kệ kể chuyện vua này lại xuất hiện thế ra sao:

  1. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
    Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
    Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
    Như thể voi vùng đứt bộ cương .

*

Ngày hôm sau dân chúng còn lại trong kinh thành tụ tập lại trước cung môn, xin trình báo với chánh hậu, rồi họ đi và đảnh lễ chánh hậu xong, liền ngồi sang một bên và ngâm kệ:

  1. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
    Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
    Vào ngự trong ngôi vị đế vương
    Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
    Ðược tay phò trợ của quần thần.

Bà lắng nghe những lời hội chúng thỉnh nguyện, xong bà liền ngâm các vần kệ còn lại:

  1. An lạc thay là đấng Thánh Quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
    Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
  2. An lạc thay là đấng Thánh quân
    Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
    Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
    Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
    Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
    Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
  3. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
    Dung sắc thanh xuân phải úa dần
    Nay hãy biết rằng ta đã quyết
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Giã từ khát vọng và tham ái
    Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
  4. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
    Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
    Nay hãy biết rằng ta quyết chí
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Nơi nào bất kể còn tham dục
    Ta cũng rời xa chúng mọi phần
  5. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
    Hương sắc thanh tân phải úa dần,
    Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
    Bước đi đơn độc giữa phàm trần
    Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
    Cũng chẳng còn uy lực dục tâm

Qua các vần kệ trên, bà thuyết Pháp cho hội chúng đông đảo ấy xong, bà triệu tập các vị phu nhân của đám triều thần và bảo:

– Nay các phu nhân muốn làm gì?

– Tâu nương nương , thánh ý định thế nào?

– Ta muốn sống đời tu tập.

– Thế thì chúng thần thiếp cũng làm theo lệnh bà.

Vậy là chánh hậu mở rộng cửa kho vàng trong cung, bà ra lệnh khắc một phiến đá vàng ghi câu: “Nơi ấy là cả một đại kho tàng, bất cứ ai muốn, đều có thể lấy về”. Phiến vàng ấy được bà cho buộc vào một cái trụ trên một đài cao. Sau đó, từ giã bao cảnh vinh quang tráng lệ của hoàng cung, bà ra khỏi kinh thành. Tiếp theo toàn thành nhốn nháo lên với tiếng la hét:

– Ðại vương và chánh hậu đã rời thành đi theo hội chúng tu khổ hạnh, vậy bây giờ ta phải làm gì?

Từ đó về sau dân chúng rời bỏ nhà cửa cùng các đồ vật trong đó, và ra đi, đem theo con cái, các tiệm buôn bán mở rộng cửa hàng, song chẳng ai buồn quay lại nhìn chúng nữa, cả kinh thành trống vắng không một bóng người.

Và chánh hậu cùng với đoàn người hộ tống dài cả ba trăm dặm đường đi đến cùng nơi chốn ấy như các vị trước đây. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết pháp; rồi sau đó cùng toàn thể dân chúng dài hơn mười dặm khởi hành về hướng Tuyết Sơn.

Toàn quốc độ Kàsi náo loạn, la hét vang lừng câu chuyện nam tử Hatthipàla đã làm cho kinh thành Ba-la-nại trống vắng bằng cách nào, với hội chúng dài hơn cả nười hai dặm đường chàng rađi về vùng Tuyết Sơn ra sao, để theo sống đời tu khổ hạnh, dân chúng bảo nhau:

– Thế thì hiển nhiên chúng ta càng nên làm việc ấy!

Cuối cùng hội chúng này cứ tăng dần đến độ chiếm cả ba mươi dặm đường, rồi vương tử cùng cảđại chúng ấy đi đến Tuyết Sơn.

Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ trong luc xét suy, đã nhận biết mọi việc đang xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Vương tử Hatthipàla đã làm Ðại sự Xuất thế; quần chúng đông đúc lắm, như thế chúng phải có nơi cư trú”. Ngài liền ra lệnh cho Thiên sứ Vissakamma (Thần xây dựng):

– Này hiền hữu, hãy ra đi xây dựng vùng am tu dài ba mươi sáu dặm và rộng mười lăm dặm, rồi thâu góp về đó tất cả mọi thứ cần dùng cho các vị tu hành.

Vị này tuân lệnh, và dựng bên bờ sông Hằng ở một nơi mát mẻ dễ chịu cả một vùng am thất theo đúng tầm cỡ cần dùng, chuẩn bị trong các am đầy đủ nệm rơm lót bằng cánh lá cây, lại để sẵn sàng mọi vật dụng cần thiết cho các người tu hành. Mỗi am đều có các cửa ra vào, một chốn đi dạo mát, có chỗ ở riêng biệt dùng cho ban ngày và ban đêm, tất cả đều được quét vôi trắng sạch sẽ sáng sủa, lại có thêm các trường kỷ để nghỉ ngơi. Ðó đây rải rác đủ loại trái cây trổ hoa chi chít trên cành khoe đủ sắc hương ngào ngạt; cuối mỗi chốn dạo chơi là một cái giếng để kéo nước, cạnh đó có cây ăn trái, mỗi cây đều mọc đủ mọi thứ. Tất cả những thứ này đều nhờ thần lực hóa ra cả.

Khi Thiên sứ Vissakamma đã xây xong khu ẩn cư này và cung cấp cho các thảo am đủ mọi vật cần thiết, vị ấy ghi các hàng chữ bằng son đỏ trên bức tường: “Ai muốn sống đời tu tập xin mời đến chỗ các vật dụng này”. Sau đó vị ấy lại dùng thần lực xua đuổi ra khỏi vùng ấy mọi thứ tiếng kêu kỳ quái, mọi ác điểu và mãnh thú, những loại phi nhân rồi trở về cõi của mình.

Tôn giả Hatthipàla chợt thấy vùng ẩn am này là tặng vật của Ðế Thích Thiên chủ, ngài đi theo con đường mòn và thấy phiến đá ghi chữ kia. Ngài nghĩ thầm: “Ðế Thích Thiên chủ hẳn đã nhận thấy ta vừa làm Ðại sự Xuất Thế”. Ngài mở một cánh và bước vào am, cầm lên những vật dụng dành cho người tu khổ hạnh, ngài lại bước ra đi dọc theo chốn dạo chơi, và quanh quẩn đó đây vài lần. Sau đó ngài thâu nhận cả hội chúng vào nếp sống tu hành, và đi quan sát cả vùng ẩn cư ấy. Ngài để dành phần giữa là cho phụ nữ có con thơ, phần kế đó cho các bà già, phần kế nữa cho đám phụ nữ không có con cái gì, còn các am thất khác ở chung quanh đều dành cho nam giới.

Thế rồi một hôm vị vua kia nghe tin đồn là không có vua cai trị vì Ba-la-nại liền đi xem và thấy cả kinh thành được trang hoàng rực rỡ với nhiều báu vật. Bước vào cung điện vua ấy thấy vàng bạc nằm ngổn ngang từng đống.

– Kìa! Vị ấy bảo. Rời bỏ kinh thành như thế này để trở thành người tu hành ngay khi cơ duyên tốt lành vừa đến, thật là một việc cao cả thay!

Vị vua ấy vừa hỏi đường một anh chàng say rượu nào đó, liền đi tìm Tôn giả Hatthipàla. Khi Hatthipàla nhận biết vị vua ấy đã đến ven rừng, liền bước ra đón mừng, vừa trên không vừa thuyết Pháp cho toàn hội chúng mới. Sau đó ngài dẫn đám người ấy vào rừng ẩn cư, tiếp nhận cả đoàn vào hội chúng tu tập. Cùng cách trên, sáu vị vua khác gia nhập vào đây. Bảy vị vua này đều từ bỏ mọi phú quí vinh quang. Chốn ẩn cư này rộng cả ba mươi sáu dặm cứ đông đúc dần dần. Mỗi khi có một vị đạo nhân nào khởi tư tưởng tham dục hay các tưởng tượng như thế, ngài thường thuyết Pháp cho vị đó và giảng dạy hội chúng tư duy về các Công hạnh Viên mãn (Các hạnh Ba-la-mật) và thiền định, nên dần dần các vị này tu tập pháp môn nhập định; hai ba phần hội chúng được tái sanh vào cảnh giới Phạm Thiên, còn một phần ba lại được chia ra thành ba nhóm: một nhóm được sanh lên cõi Phạm thiên giới, một nhóm được sanh vào sáu tầng trời dục giới và một nhóm, sau khi hoàn thành sứ mạng của vị kiến giả, được sinh vào thế giới loài người. Như vậy mỗi người trong ba nhóm đều được thọ hưởng công đức của mình. Thế là việc giáo hóa của hiền giả Hatthipàla đã cứu độ mọi người khỏi đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và khỏi trở thành một Asura (A-tu-la: một loại ác thần hay sân hận, từng gây chiến với chư Thiên dục giới).

*

Trên đảo Tích Lan (Ceylon) này, các vị đã làm Ðại sự Xuất thế là Trưởng lão Dhammagutta, vị này đã làm cho địa cầu chấn động; Trưởng lão Phussa-deva, một thị dân của thành Katakandhakara, Trưởng lão Mahàsamgharakkhita từ vùng Uparimandalakamalay, Trưởng lão Malimahàdeva từ vùng Bhaggiri; Trưởng lão Mahàsìva, từ vùng Vàmantapabbhàra; Trưởng lão Mahànàga từ vùng Kàlavallimandapa; các vị trong hội chúng của ngài Kuddàla, Mùgapakkha, Cùlusutasoma, của Hiền giả Ayohara, và cuối cùng của tất cả hội chúng Hatthipàla.

Do vậy bậc Thế Tôn bảo:

– Hãy vội làm việc lành, các vị sẽ được an lạc! Nghĩa là an lạc chỉ đến với ta nếu ta vận dụng hết công sức mình.

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, ngày xưa, Như Lai làm Ðại sự Xuất thế cũng như bây giờ

Nói xong Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn) là vua Eusari, mẫu hậu Mahàmayà là vị chánh hậu kia; Kassapa (Ca-diếp) là vị tế sư, Bhaddakapilàni là vị phu nhân, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Ajapàla, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Gopàla, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Assapala, hội chúng của đức Phật là toàn thể đám người kia, và Ta chính là Hiền giả Hatthipàla.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử trong ngôi nhà sắt (Tiền thân Ayoghara)

Mầm sống một khi nhập tử cung…

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về Ðại sự Xuất thế của Ngài. Tại đây một lần nữa, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, vì trước kia Như Lai cũng đã làm như thế.

Và Ngài kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, khi vua Bramadatta trị vì Ba-la-nại, bà chánh hậu thọ thai, đến thời mãn nguyệt khai hoa, bà sinh một vương tử ngay sau buổi rạng đông. Bấy giờ trong một đời trước có một phụ nữ khác cũng lấy chồng chung với bà, đã thốt lời thề rằng nàng sẽ tìm cách ăn thịt hài nhi của bà đời sau. Chuyện kể lại, vì nàng không sinh sản gì nên đem lòng tức giận cả hai mẹ con bà thuở ấy, mới thốt lên lời nguyền như trên. Bởi duyên cớ đó, nàng tái sinh thành một thứ quỷ cái. Còn người mẹ kia, nay trở thành chánh hậu và sinh hạ hoàng nam này. Con quỷ cái ấy tìm cơ hội hiện hình khủng khiếp chụp lấy hài nhi ngay trước mặt người mẹ và mang đi mất. Hoàng hậu thét lên vang lừng:

– Một con quỷ đã bắt hoàng nam của ta rồi!

Con quỷ kia nhai ngấu nghiến trệu trạo đứa hài nhi như ăn một củ hành sống rồi nuốt trửng hết! Sau đó nó lại biến hóa tay chân ra đủ hình dạng để đe dọa cho hoàng hậu kinh hoảng lên, rồi biến đi. Khi vua hay tin dữ ấy, ngài câm lặng không nói gì được, ngài suy nghĩ: “Còn biết làm sao chống chọi lại con quỷ cái kia chứ?”

Lần kế tiếp hoàng hậu lâm bồn, vua sắp đặt quân canh phòng bên mình bà. Bà hạ sinh một vương tử nữa, con quỷ ấy lại đến vồ lấy đứa bé ăn thịt rồi biến mất.

Làn thứ ba chính là bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai của chánh hậu. Vua triệu tập một số người lại phán:

– Hễ hoàng nhi nào do chánh hậu của trẫm sinh ra đều bị một con quỷ cái đến vồ lấy ăn thịt. Vậy phải làm sao bây giờ?

Sau đó có người tâu:

– Bọn quỷ rất sợ lá thốt nốt, chúa thượng nên cho buộc một ngọn lá ấy vào tay chân hoàng hậu.

Một kẻ khác lại tâu:

– Bọn quỷ cũng sợ cái nhà bằng sắt. Vậy phải dựng lên một cái.

Nhà vua chấp thuận. Ngài triệu tập tất cả thợ rèn trong quốc độ ngài và ra lệnh dựng cho ngài một cái nhà bằng sắt, và cho người giám sát công việc của họ. Ngay trong kinh thành, tại một địa điểm khả ái, họ xây lên một ngôi nhà có cột trụ và mọi bộ phận trong nhà không gì khác ngoài sắt; trong chín tháng ngôi nhà được hoàn tất, thật là một lâu đài vững chắc kiên cố, được đèn chiếu sáng suốt ngày đêm không bao giờ ngưng cả.

Khi vua biết rằng hoàng hậu sắp mãn nguyệt khai hoa, ngài truyền lệnh sắp đặt tiện nghi đầy đủ cho tòa nhà sắt rồi rước bà vào trong đó. Bà hạ sinh một hoàng nam có đầy đủ mọi quý tướng tốt lành, và hai vị đặt tên con là Ayoghara Kumàra hay Vương tử Thiết Thất (Vương tử ở trong ngôi nhà sắt)

Vua giao hài nhi cho các nhũ mẫu trông nom lại sắp đặt một đôi vệ sĩ hùng hậu giữ quanh lâu đài ấy, trong khi ngài cùng chánh hậu đi diễu quanh kinh thành hướng về phía hữu, rồi ngự lên thượng lầu nguy nga lộng lẫy của hoàng cung. Ðồng thời con quỷ cái, vì cần uống nước đã đi tìm thứ nước của Thiên Vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) nên bị giết.

Trong ngôi nhà sắt kia, bậc Ðại Sĩ lớn lên cùng với trí khôn phát triển dần, ngài được dạy đủ mọi môn học thuật cũng tại nơi đó cả.

Vua hỏi các triều thần:

– Nay vương nhi đã mấy tuổi rồi?

Hội chúng đáp:

– Tâu chúa thượng, vương tử vừa lên mười sáu: thật là một trang anh hùng đầy dũng lực cường tráng, đủ để chế ngự cả ngàn con quỷ kia!

Vua liền quyết định giao vương quyền vào tay vương tử. Ngài ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, truyền bảo rước vương tử ra khỏi ngôi nhà sắt đến triều kiến ngài. Quần thần tuân lệnh: Toàn thành Ba-la-nại được trang hoàng rực rỡ, kinh đô vĩ đại ấy trải khắp mười hai dặm; họ lại tô điểm cho vương tượng bằng tấm khăn phủ lưng thật lộng lẫy, phục sức cho vương tử cực kỳ sang trọng rồi đặt ngài lên lưng vương tượng và tâu:

– Tâu Ðiện hạ, xin Ðiện hạ ngự du một vòng theo phía hữu quanh kinh thành đang nô nức mở hội này, đây chính là giang sơn sự nghiệp của Ðiện hạ, sau đó sẽ đến đảnh lễ đấng Hoàng thượng là Ðại vương quốc độ Kàsi, vì hôm nay chính là ngày Ðiện hạ đón nhận chiếc Lọng trắng.

Bậc Ðại Sĩ ngự đám rước ngài diễu quanh kinh thành theo về phía bên hữu, ngài thấy các hoa viên tuyệt mỹ, đủ màu sắc xinh tươi với hồ nước, các thửa ruộng, vườn cây, nhà cửa phố xá, khắp nơi đều đẹp mắt, ngài tự nhủ thầm: “Tất cả cảnh sắc thế này mà trong bao lâu vương phụ lại giam giữ ta rất cẩn mật, chẳng hề cho ta thấy kinh thành được trang hoàng rực rỡ thể kia. Ta đã có lỗi gì vậy?” Ngài liền đem câu ấy hỏi các triều thần. Hội chúng đáp:

– Tậu Ðiện hạ, ngài chẳng có lỗi gì. Song có một con quỷ cái đã xé xác ăn hai vương huynh của ngài mất đi nên đức Thượng hoàng cho ngài ở trong ngôi nhà sắt và chính ngôi nhà sắt ấy đã cứu mạng ngài.

Những lời này lại làm ngài suy nghĩ: “Suốt mười tháng ta đã ở trong bụng mẹ, chắc hẳn có khác gì cái địa ngục hình Chảo Sắt (Thiết Oa địa ngục) hay Ðịa ngục phân dơ (Phẩn Ni địa ngục) đâu, rồi khi ta ra khỏi bụng mẹ, cả mười sáu năm trời nay ta sống trong ngục thất kia, không bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Mặc dù ta đã thoát được đôi bàn tay của con quỷ kia, ta vẫn không sao thoát được tuổi già và thần chết; vậy ta sẽ xin phép phụ vương đi theo đời sống tu hành, và ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn để thực hiện ước nguyện.”

Như vậy sau khi ngài dự đám lễ hội rước ngài ngự quanh kinh thành xong, ngài vào hoàng cung, đảnh lễ phụ vương và đứng chờ lệnh. Vua ngắm dung sắc tuyệt mỹ của ngài, lại nhìn đến đám quần thần với tấm lòng yêu thương mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt. Quần thần hỏi:

– Tâu Chúa thượng, Chúa thượng muốn truyền cho chúng thần làm gì?

– Các hiền khanh hãy đưa vương nhi ngự lên đám trân châu báu ngọc, làm lễ quán đảnh cho vương nhi với nước từ ba vỏ ốc xà cừ, xong rồi giương chiếc Lọng trắng viền tua vàng lên che cho vương nhi.

Song Bậc Ðại Sĩ đảnh lễ phụ vương và thưa trình:

– Tâu phụ vương, con không muốn liên hệ gì với vương triều nữa. Con ước ao sống đời tu tập và con tha thiết cầu mong phụ vương cho phép con làm việc ấy.

– Này vương nhi, tại sao con lại muốn rời bỏ vương vị và sống theo đời tu khổ hạnh.

– Tâu phụ vương, suốt mười tháng con nằm trong bụng mẹ chẳng khác nào Ðịa ngục phân dơ, khi đã sinh ra đời, vì sợ con quỷ dữ mà con phải sống trong cảnh giam cầm, chẳng bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Con thấy giống như bị nhốt vào ngục Ussada (Ngục có thành sắt bao bọc), nay đã thoát nạn quỷ cái ấy, song con chẳng bao giờ thoát được tưổi già và cái chết, vì không ai có thể chiến thắng thần chết cả. Con nhàm chán sự sinh ra đời rồi. Vậy trước khi già, bệnh, chết kéo đến với con, con quyết theo đời người tu hành, tiến bước trong chánh hạnh. Con không muốn ngai vàng dành cho con. Tâu phụ vương, xin phụ vương ban ơn chấp thuận cho con đi.

Rồi ngài thuyết Pháp cho thân phụ như vầy:

  1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
    Mới vừa khởi sự bước đầu xong
    Nó liền tiến mãi hoài liên tục
    Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
  2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
    Giúp người tránh lão tử sau cùng,
    Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
    Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
  3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
    Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
    Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
    Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
  4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
    Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
    Song không ai thoát tay thần chết
    Con quyết đời thanh tịnh để phần.
  5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
    Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
    Song không thấy có người nào đủ
    Sức mạnh phá tan được tử hình;
    Vì thế lòng con nay đã quyết
    Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
  6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
    Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
    Song chẳng thấy người đầy thế lực
    Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
    Cho nên con quyết lòng tu tập
    Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
  7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
    Bắn như tia chớp tự xa bay,
    Song con không thấy người thừa sức
    Làm tổn thương được thần chết này
    Vì thế lòng con giờ quyết định
    Theo đời thanh tịnh để phần đây.
  8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
    Không lâu để sụp đổ điêu tàn
    Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
    Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
  9. Giống như cây ở mé bờ sông
    Bán áo, người say đổi rượu nồng
    Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
    Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
    Ngã như trái rụng vì cây đổ;
    Con quyết đời thanh tịnh bản thân
  11. Xuân của thế gian khác nữ thần
    Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
    Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
    Ðối với lão niên kiệt quệ dần
    Lạc thú ái ân nào có được?
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
  12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
    Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
    Song làn khí độc thần linh ấy
    Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
    Vì vậy lòng con giờ đã quyết
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
  13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
    Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
    Do người cúng bái; song không thể
    Làm tử thần tan hết bất bình
    Vì vậy giờ con đây quyết định
    Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
  14. Những người gây tội ác, hung tàn
    Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
    Song với tử thần, không thể phạt
    Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
  15. Những người gây tội ác đau thương
    Tìm cách cản tay các đế vương
    Song với tử thần tay lưỡi hái
    Việc này xem quả thật vô phương.
    Cho nên con quyết giờ đây chọn
    Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
  16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
    Những kẻ mang danh vị tối tôn,
    Những đại phú gia, người thế lực
    Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
    Cho nên con quyết từ đây sống
    Phạm hạnh đời con đã chọn đường
  17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
    Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
    Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
    Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
    Cho nên con trẻ từ đây quyết
    Phạm hạnh riêng con sống cả đời
  18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
    Diễn trò lừa bịp mắt người trông
    Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
    Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
  19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
    Tấn công, giết lập tức người trần;
    Nọc kia, thần chết không hề sợ;
    Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
  20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
    Vị lương y có đủ tài năng
    Làm tiêu tan hết xà công lực
    Song chữa vết thương của Tử thần
    Không một anh hùng nào đủ sức
    Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
  21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
    Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
    Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
    Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
  22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
    Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
    Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
    Mà tử thần trông thấy vẫn gần
    Vì vậy lòng con nay quyết định:
    Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
  23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
    Ðều là người được hưởng bình an,
    Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
    Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
    Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
    Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
  24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
    Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
    Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
    Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.

Khi bậc Ðại Sĩ đã thuyết pháp như vậy qua hai mươi bốn vần kệ xong, ngài tiếp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương giữ quốc độ cho mình, phần con không màng đến nó chút nào. Ngay khi con đang tâu trình với phụ vương thì bệnh tật, tuổi già và thần chết nữa đều tiến đến gần con hơn. Xin phụ vương ở lại vương vị cũ.

Sau đó, chẳng khác nào con voi điên cuồng bật tung xiềng xích bằng sắt, hoặc như chú sư tử nhỏ bé phá vỡ chiếc lồng vàng, ngài đập tan mọi dục vọng phàm tục trong lòng và đảnh lễ song thân rồi ra đi.

Tiếp theo đó phụ vương của ngài phán:

– Ta cũng không thiết ngai vàng quốc độ nữa!

Rồi vua cha từ giã thế sự, ra đi cùng ngài. Khi các ngài đi rồi, chánh hậu, đám triều thần Bà-la-môn, các gia chủ cùng mọi người khác trong kinh thành đều bỏ nhà cửa ra đi hết.

Thế là một đoàn đại chúng trải dài cả mười hai dặm đường. Cùng với đám đông này, ngài tiến về phía Tuyết Sơn.

Khi Sakka Thiên chủ (Ðế Thích) biết rằng ngài đã xuất gia, liền sai Thiên sứ đi xây dựng một vùng am thất trải dài cả mười hai dặm, bề rộng bảy dặm và truyền bảo vị ấy đem vào đó mọi thứ cần thiết cho cuộc đời tu tập khổ hạnh. Cách thức bậc Ðại Sĩ tiếp tục thâu nhận đám người này vào hội chúng xuất gia của ngài và thuyết giáo cho hội chúng, sau đó hội chúng được sinh lên Phạm thiên giới hay chứng đắc quả Tam quả bất Lai như thế nào, tất cả đều diễn ra giống như trước kia

*

Khi Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:

– Như vậy này các Tỷ-kheo, trước kia Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, song thân của vương tử kia là phụ hoàng và mẫu hậu ngày nay, hội chúng của đức Phật là đám thần dân và Ta chính là Hiền giả Ayoghara (Thiết Thất)

-ooOoo-

Chương XVI

Phẩm Ba mươi bài kệ

  1. Chuyện dục tham kỳ dị (Tiền thân Kimchanda)

Vì cớ sao ngài ở bến sông…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên hay Thắng Lâm) về việc hành trì ngày trai giới (uposatha: Bố-tát giới hay bát quan trai giới)

Một ngày nọ, một số nam nữ cư sĩ đang hành trì ngày trai giới, đến nghe Pháp và ngồi tại Chánh pháp đường. Bậc Ðạo Sư hỏi xem hội chúng có hành trì ngày trai giới không, và khi họ đáp là có, Ngài nói thêm:

– Các ông hành trì ngày trai giới thật tốt lành thay; ngày xưa, có những người chỉ nhờ hành trì nửa ngày trai giới mà đạt được vinh quang tột bực.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta cai trị quốc độ rất đúng pháp và là một người sùng đạo, ngài nhiệt tình hành trì mọi thiện sự trong ngày trai giới, giữ đúng giới luật và bố thí. Ngài cũng khuyên các cận thần cùng nhiều người khác giữ hạnh nguyện bố thí, làm phước đức, nhưng vị quốc sư của ngài là một kẻ xấu miệng, ưa gièm pha, tham của hối lộ, nên xử án bất công.

Vào một ngày trai giới kia, vua triệu các quân sư lại và bảo họ giữ giới. Vị quốc sư này không thi hành phận sự của ngày trai giới. Vì vậy trong ngày ấy, lão nhận hối lộ và xử án bất công rồi sau đó đến chầu vua. Sau khi hỏi mỗi vị cận thần xem có giữ giới không, vua hỏi vị quốc sư:

– Này Tôn giả, người có giữ giới không?

Lão nói dối là có, rồi rời cung vua. Lúc ấy một vị cận thần khác quở trách lão:

– Chắc chắn ngài chẳng giữ giới.

Lão đáp:

– Ta đã ăn từ sáng sớm, nhưng khi ta về nhà sẽ súc miệng và giữ giới luật, ta sẽ không ăn gì buổi chiều và suốt đêm ta sẽ giữ giới luật, như thế ta cũng giữ được nửa ngày trai giới.

Họ đáp:

– Thưa Tôn giả, thế thì tốt lắm.

Lão đi về nhà và làm đúng như vậy.

Một ngày kia, khi lão đang ngồi xử kiện, một người đàn bà vốn là kẻ giữ đúng giới luật, đang gặp chuyện thưa kiện, và vì không thể về nhà được, bà ấy nghĩ thầm: “Ta không thể vi phạm hành trì ngày trai giới.”

Nên lúc đến gần giờ trì giới, bá ấy bắt đầu súc miệng. Và lúc ấy có người mang vào một mâm xoài chín biếu tế sư Bà-la-môn. Lão thấy bà ta đang giữ giới liền bảo:

– Bà ăn đi rồi giữ giới.

Bà ấy vâng theo. Hạnh nghiệp của vị Bà-la-môn kia đã tạo được nhiều phước lớn.

Về sau đó, lão chết đi và tái sinh vào vùng núi Tuyết Sơn, trong một nơi phong cảnh tươi đẹp bên bờ sông Kosiki, chi nhánh của sông Hằng, trong một khu rừng xoài rộng ba dặm trên một vương sàn nguy nga của một cung điện bằng vàng. Lão tái sinh như thể một người vừa thức giấc, liềnđược phục sức xiêm y, điểm trang lộng lẫy, với dung mạo tuyệt vời, lại được mười sáu ngàn tiên nữ chầu hầu chung quanh. Suốt đêm trường lão thọ hưởng vinh quang này vì đã được sinh làm vị Thần trong Ma cung, phước lộc của lão cũng tương xứng với hạnh nghiệp xưa của lão.

Vì thế khi bình minh đến, lão vào rừng xoài, ngay lúc vừa bước chân vào, thân thể thần tiên của lão biến mất, lão hóa hình thù to lớn như một cây thốt nốt cao tám mươi cubit (acubit = 45cm), toàn thân rực sáng như một cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm. Lão chỉ có một ngón tay trên mỗi bàn tay, nhưng móng lại to như bàn cuốc, với các móng tay này, lão móc thịt sau lưng, xé thịt mình ra mà ăn, rồi đau đớn điên cuồng lên, lão cứ khóc rống thật to. Mãi vào lúc mặt trời lặn, thân hình này biến mất và phong cách thần tiên của lão hiện ra. Bầy tiên nữ nhảy múa, cầm nhiều nhạc cụ trong tay, hầu hạ quanh lão, trong lúc hưởng đại vinh hiển như vậy, lão bước lên tiên cung trong khu rừng xoài diễm lệ.

Như vậy là do kết quả việc tặng trái xoài cho người đàn bà đang trì giới, lão được hưởng một khu rừng xoài rộng ba dặm, nhưng vì phải thọ lãnh nghiệp quả về việc nhận hối lộ và xử án sai lầm, lão phải xé thịt trên lưng ra mà ăn, đồng thời nhờ việc hành trì nửa ngày trai giới, lão tận hưởng vinh quang mỗi đêm cùng với mười sáu ngàn tiên nữ múa hát hầu hạ quanh mình.

Vào thời ấy, vua xứ Ba-la-nại hiểu rõ tội lỗi do tham dục gây ra, nên xuất gia tu hành, ẩn cư trong một thảo am nọ trên một vùng phong cảnh xinh đẹp miền hạ lưu sông Hằng, sống khổ hạnh với những vật ngài kiếm được.

Một ngày kia, có quả xoài chín trong rừng ấy bằng cái bát, rơi xuống sông Hằng theo dòng sông đến nơi đối diện với chỗ định cư của vị khổ hạnh này. Trong khi ngài đang súc miệng, chợt thấy trái xoài trôi giữa dòng, ngài liền lội qua lấy nó mang về am, cất vào nội thất, nơi ngài đốt ngọn lửa thiêng. Sau đó khi xẻ xoài ra, ngài chỉ ăn vừa đủ sống, rồi gói phần còn lại bằng lá chuối. Ngài cứ ăn dần dần trái xoài như vậy cho đến hết.

Khi đã ăn hết xoài, ngài không thể ăn trái cây nào khác nữa, nhưng bị thói tham ăn của ngon trói buộc, ngài thốt lời thề từ nay chỉ ăn xoài chín mà thôi, liền đến bờ sông nhìn xuống dòng nước, quyết không bao giờ đứng dậy cho đến khi tìm được một trái xoài! Thế là ngài nhịn ăn sáu ngày liền, cứ ngồi đó chờ mong tìm xoài, cho đến khi ngài khô héo vì nắng gió.

Ðến ngày thứ bảy, một vị nữ thần xem xét sự việc ấy, thấy rõ lý do hành động của ngài và suy nghĩ: “Vị tu khổ hạnh này bị thói tham ăn câu thúc, cứ ngồi đó nhịn đói bảy ngày nhìn xuống sông Hằng. Việc ta chối từ ngài một quả xoài là điều sai lầm, vì nếu không có xoài , ngài sẽ chết, vậy ta sẽ cho ngài một trái.”

Thế là nữ thần liền hiện lên giữa không gian trên sông Hằng và nói với ngài vần kệ đầu tiên

  1. Vì cớ sao ngài ở bến sông
    Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng
    Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện
    Chủ đích gì ngài vẫn ước mong

Nhà tu khổ hạnh nghe thế liền đáp lại chín vần kệ:

  1. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng
    Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần
    Vươn cánh tay dài ta lấy quả
    Ðem về nhà cất ở gian trong
  2. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
    Ta nghĩ của trời quí giá sao!
    Hình dáng đẹp tươi này sánh với
    Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!
  3. Ta dấu xoài trong lá chuối cây
    Cắt ra từng lát với dao này
    Ít oi thực phẩm, phần ăn uống
    Hợp với đời người đạm bạc đây
  4. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng
    Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:
    Trong các trái nào ta kiếm được
    Ta đều không thấy vị thơm ngon!
  5. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông
    Xoài ngon ta lượm ở bên dòng
    Sẽ làm ta chết, ta lo sợ
    Chẳng trái cây nào ta ước mong!
  6. Vì sao giữ giới đã trình nàng
    Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng
    Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá
    Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng
  7. Nay ta cầu khẩn nói cho ta
    Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
    Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?
    Tại sao nàng lại đến đây mà?
  8. Thị nữ chư Thiên đẹp tuyệt vời
    Khác nào vàng óng ánh ngời soi!
    Xinh như bầy hổ còn thơ dại
    Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi
  9. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
    Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan
    Song không ai giữa nhân Thiên ấy
    Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!
    Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ
    Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang
    Xin cho ta biết phương danh tánh
    Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng

Nữ thần liền đáp tám dòng kệ

  1. Trên dòng sông nước thật xinh tươi
    Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi
    Bá chủ ngôi cao ta ngự trị
    Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi
  2. Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh
    Che phủ rừng cây rậm lá xanh
    Từ đó bao dòng tràn ngập chảy
    Hòa theo với sóng nước sông mình
  3. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây
    Ðưa đến Long cung lắm suối đầy
    Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc
    Ngập dòng bát ngát của ta này
  4. Lệ thường trên các phụ lưu này
    Nhiều trái sinh từ đủ loại cây
    Ðào đỏ, chà là, sung mít vả
    Với xoài, người thấy rõ ràng ngay
  5. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ
    Rơi xuống vừa tầm với của ta
    Ta bảo của trời cho chánh đáng
    Danh ta, ai có thể gièm pha?
  6. Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây
    Hỡi đại vương thông tuệ, trí tài
    Chớ đắm tham vào tâm dục vọng
    Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai
  7. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn
    Nay việc ngài, ta chẳng tán dương
    Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ
    Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng
  8. Giáo sĩ, chư thần, quý hiển linh
    Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh
    Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh
    Dưới thế đã thành tựu hiển vinh
    Quả thấy việc ngài làm trái đạo
    Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh!

Tiếp theo đó vị tu hành ngâm bốn vần kệ:

  1. Ai biết đời người thật mỏng manh
    Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh
    Không hề nghĩ đến điều sinh sát
    Mà trú an trong mọi hạnh lành
  2. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh
    Là bậc làm công đức sáng danh
    Nay lại giao du nhiều kẻ ác
    Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!
  3. Ví ta chết cạnh bến sông nàng
    Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn
    Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả
    Khác nào mây phủ giữa không gian!
  4. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng
    Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng
    Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc
    Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!

Nghe nói vậy , nữ thần đáp lại:

  1. Ta biết ngài thầm kín ước mong
    Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm
    Ta cam đành phận làm tỳ nữ
    Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân
    Kìa ác dục từ bao thưở trước
    Khó thay bỏ lạc thú phàm trần
    Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh
    Và trí bình an, phải giữ luôn.
  2. Người nào đã thoát buộc ràng xưa
    Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa
    Phóng dật bước vào phi thánh đạo
    Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.
  3. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
    Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
    Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
    Ngài sống đời an lạc biết bao!
  4. Mây-na, cu-gáy, hạc, hồng nga,
    Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
    Từng đám thiên nga cao vút lượn
    Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa
    Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái
    Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!
  5. Hoa nghệ, Ka-dam-ba rộ bông
    Khác nào rơm rạ ở trên đồng
    Chà là, thốt nót, nồng nàn chín
    Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm
    Và giữa cây cành đầy trĩu trái
    Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!

Vừa ca tụng thắng cảnh kia, tiên nữ vừa mang nhà tu hành đến đó, và mời ngài ăn xoài trong rừng này cho đến khi thỏa thích, rồi nàng lại ra đi. Nhà ẩn sĩ ăn xoài mãi đến lúc đã hết cơn thèm, xong nghỉ ngơi chốc lát. Sau đó loanh quanh thơ thẩn trong rừng, ngài thấy vị Thần kia đang lúc chịu khổ sở đau đớn, ngài không còn lòng dạ nào thốt ra lời hỏi han vị ấy, nhưng hoàng hôn đến, ngài thấy vị Thần kia được bầy tiên nữ hầu hạ và thọ hưởng vinh quang của tiên giới, ngài liền ngâm ba vần kệ:

  1. Suốt đêm, quán đảnh tiệc liên hoan
    Vương miện trên mày lại được mang
    Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí
    Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng
  2. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài
    Thần lực ngài kia thật đại tài!
    Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi
    Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!
  3. Ngài đã làm sao phải đọa đày?
    Tội gì ngài hối tiếc ngày nay?
    Sao từ lưng nọ nay ngài phải
    Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?

Vị Thần kia nhận ra ngài, liền bảo:

– Ðại vương không nhận ra tiểu thần, nhưng ngày xưa tiểu thần là tế sư của Ðại vương. Hạnh phúc này thần được hưởng hằng đêm là nhờ ơn Ðại vương, đó là kết quả hành trì nửa ngày trai giới của thần, còn nỗi thống khổ thần phải chịu ban ngày là kết quả nghiệp ác mà thần đã làm. Vì khi thần được Ðại vương cho ngồi ghế phán quan, thần đã ăn hối lộ, và phán xét sai trái, thần lại là kẻ xấu miệng, ưa phỉ báng sau lưng người khác, nên kết quả việc ác thần đã tạo những ngày đó, nay thần phải chịu khổ đau này.

Nói xong vị Thần ngâm hai vần kệ:

  1. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh
    Song ác nghiệp giam hãm đắm mình
    Việc ác đã làm cho bạn hữu
    Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh
  2. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân
    Cứ thích rình mò phá tiếng thơm
    Phải móc thịt mình ăn lại mãi
    Như ta việc ấy hiện đang làm!

Nói xong vị thần hỏi nhà tu khổ hạnh tại sao đã đến đây. Vị này liền kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình. Vị Thần lại hỏi:

– Vậy xin thưa Thánh giả, ngài định ở đấy hay lại ra đi?

– Ta không muốn ở lại, ta muốn trở về am.

Vị Thần đáp:

– Thưa Thánh giả, lành thay, thần sẽ dâng cúng ngài trái xoài chín thường xuyên đầy đủ.

Rồi vị ấy dùng thần lực đưa vị vua ẩn sĩ trở về vùng thảo am, khuyên ngài sống thiểu dục ở đó, yêu cầu ngài phải giữ tròn lời nguyền, rồi ra đi. Từ đó vị Thần kia thường xuyên cung cấp xoài cho nhà tu khổ hạnh. Ngài thọ hưởng thứ trái cây ấy, hành trì những pháp môn tu tập để làm phát khởi thiền định và về sau được thọ sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư, sau khi chấm dứt Pháp thoại với các cư sĩ, liền thuyết các Thánh Ðế và nhận diện Tiền thân:

– Vào đoạn kết thúc các Thánh Ðế, một số người đạt Sơ quả Dự Lưu, một số người đạt Nhị quả Nhất Lai, lại có một số người khác đạt Tam quả Bất Lai.

– Vào thời ấy nữ thần ấy là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) và ẩn sĩ khổ hạnh chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện bình rượu (Tiền thân Kumbha)

Ngài là Ðại Sĩ ở trên không…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về việc năm trăm nữ nhân, các vị thân hữu của bà Visàkhà (Tỳ-xà-khư), là những kẻ uống rượu nặng.

Lúc bấy giờ truyện kể rằng có một tửu hội được tổ chức tại Savathi (Xá-vệ) và năm trăm nữ nhân này, sau khi đem rượu nồng cho các vị phu quân xong, vào cuối đám hội lại suy nghĩ: “Chúng ta cũng muốn dự tửu hội”.

Họ liền tìm đến bà Visàkhà và bảo:

– Này hiền hữu, chúng ta cũng muốn dự hội.

Bà đáp:

– Ðây là một tửu hội, còn ta không muốn uống rượu nồng.

Họ bảo:

– Thế hiền hữu hãy cúng dường đức Phật tối thượng, còn chúng tôi muốn dự hội này.

Nàng chấp thuận ngay và để họ đi. Sau khi đã cúng dường bậc Ðạo Sư một phẩm vật long trọng, buổi chiều bà đi đến Kỳ Viên, cầm nhiều tràng hoa thơm cùng các nữ nhân kia để nghe thuyết pháp.

Bấy giờ đám nữ nhân kia thèm uống rượu cùng khởi hành với bà, nên lúc họ đứng trong căn phòng có nóc nhọn kia, họ uống rượu mạnh rồi cùng bà Visakhà đến yết kiến bậc Ðạo Sư.

Bà Visàkhà đảnh lễ bậc Ðạo Sư và cung kính ngồi qua một bên. Vài người đàn bà trong bọn ấy dám múa ca ngay trước mặt bậc Ðạo Sư, có người lại lấy tay, chân làm những cử chỉ thô lỗ có người còn cãi nhau nữa. Bậc Ðạo Sư muốn gây chấn động cho bọn này, liền phóng ra một tia hào quang từ chân mày của Ngài.

Tiếp theo đó bầu trời tối đen kịt. Bọn nữ nhân kinh hoàng sợ chết, vì thế tỉnh rượu ngay.

Bậc Ðạo Sư biến mất khỏi bảo tọa Ngài đang ngồi, xuất hiện trên đỉnh núi Tu-di và phóng ra một tia hào quang từ giữa chân mày rực rỡ, khác nào ngàn vầng trăng hiện.

Trong lúc đứng đó, Bậc Ðạo Sư nói lên kệ này để gây kinh động cho đám nữ nhân kia:

Ở đây không phải chốn vui cười
Lửa dục đốt tan mọi cảnh đời
Sao mãi chìm thân trong bóng tối
Không tìm ngọn đưốc, nẻo đường soi

Câu kệ vừa chấm dứt, cả đám năm trăm nữ nhân đều đắc quả Dự Lưu. Bậc Ðạo Sư lại xuất hiện trên bảo tọa dành cho đức Phật dưới bóng mát của Hương phòng. Lúc ấy, bà Visàkhà đảnh lễ Ngài và hỏi:

– Bạch Thế Tôn, việc uống rượu mạnh phát xuất từ đâu đã xâm phạm đến thanh danh và lương tâm con người?

Ðể trả lời bà, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta đang trị vì quốc độ Ba-la-nại có người thợ rừng tên gọi Sura, sống ở quốc độ Kàsi, đến vùng Tuyết Sơn đi tìm hàng buôn bán. Ở đó có một cây mọc lên cao vừa tầm vóc người giơ hai tay lên đầu, và chia làm ba nhánh giữa cái chĩa ba này là một lỗ lớn bằng bình rượu, khi trời mưa lỗ này đầy nước. Chung quanh cây này có hai cây myrobalan (am-ma-lạc) và một bụi tiêu, khi trái chín được cắt xuống lại rơi vào lỗ này. Không xa cây này lại có một ruộng lúa tự mọc lên. Chim sẻ mổ lúa ăn đến đậu trên cây này. Trong lúc chim ăn, lúa và gạo sạch trấu rơi xuống đó, chỗ ấy nước lên men dưới ánh nắng mặt trời, nên có màu đỏ như máu. Mùa nắng, từng đàn chim khát nước, uống nước ấy và say sưa, ngã xuống dưới gốc cây, sau khi ngủ một lát, lại bay đi, kêu chiêm chiếp rất vui tai. Việc này cũng diễn ra với các loài chó hoang, khỉ và nhiều dã thú khác nữa. Người thợ rừng thấy vậy nghĩ thầm: “Nếu đây là thuốc độc thì chúng chết hết rồi, nhưng còn đây sau một giấc ngủ ngắn, chúng bay đi như ý muốn, vậy không phải là thuốc độc.”

Gã uống thứ nước ấy và lúc say rượu, gã thấy thèm ăn thịt, liền nhóm lửa lên, giết chim trĩ và gà gô vừa ngã gục dưới gốc cây, gã nướng con thịt trên đám lửa hồng, rồi một tay gã múa may, tay kia cầm thịt ăn, gã ở lại chỗ đó một hai ngày.

Bấy giờ không xa nơi ấy, có một vị ẩn sĩ tên gọi Varuna, nhiều lúc gã thợ rừng đến viếng ẩn sĩ, gã nghĩ thầm” Ta sẽ uống thứ rượu này với vị ẩn sĩ ấy”

Gã đổ đầy nước vào một ống sậy, cùng một ít thịt nướng, rồi gã đi đến am tranh và bảo:

– Thưa Thánh giả, xin ngài thử nếm rượu này.

Hai người cùng uống rượu và ăn thịt. Vì thứ rượu này do Sura và Varuna phát hiện, nên được đặt tên theo đó: Rượu Surà và Varuni. Cả hai suy nghĩ: “Ðây là cách sử dụng rượu này”

Họ đổ đầy nước vào ống sậy, gánh đi đến làng lân cận, dâng sớ tâu vua rằng có vài người lái buôn rượu đã đến. Nhà vua cho triệu họ vào, và họ dâng rượu lên. Nhà vua uống rượu hai ba lần là say mèm. Rượu này chỉ đủ dùng chừng hai ba ngày, sau đó vua hỏi còn rượu không. Họ bảo:

– Tâu Ðại vương còn.

– Ở đâu thế?

– Tâu Ðại Vương trong vùng Tuyết Sơn..

– Thế đem rượu về đây.

Họ đi tìm rượu kia chừng hai ba lần rồi suy nghĩ: “Ta không thể đến đó mãi.”

Họ nghiên cứu các thành phần chế tạo rượu ấy và bắt đầu dùng thứ vỏ cây kia, họ đổ thêm các thứ kia vào, và làm rượu ngay tại kinh thành. Dân trong thành uống rượu say trở thành những kẻ khốn cùng lười biếng. Vùng ấy trở nên một kinh thành hoang vắng.

Các lái buôn rượu bỏ đi đến Ba-la-nại dâng sớ tâu nhà vua xin trình báo họ đến thành. Nhà vua triệu họ vào, trả tiền cho họ và họ lại làm rượu tại đó. Thành ấy cũng hoang tàn như kiểu trên.

Sau đó họ đến Sàketa, từ Sàketa họ đến Xá Vệ, lúc bấy giờ có vị vua mệnh danh Sabbamitta ngự tại Xá-Vệ. Nhà vua tỏ ra ưu ái họ và hỏi họ muốn gì. Khi họ bảo:

– Chúng tiểu thần muốn có các vật liệu chính cùng gạo xay và năm trăm chiếc bình.

Nhà vua ban đủ mọi thứ họ xin.

Thế là họ cất rượu trong năm trăm bình kia, và họ cột một con mèo vào một bình rượu để canh giữ. Khi rượu lên men và bắt đầu phun ra, bầy mèo uống rượu mạnh chảy ra từ trong bình, khi say mèm, chúng nằm xuống ngủ, bọn chuột đến gặm tai, mũi, răng và đuôi mèo. Quân cận thần đến tâu vua:

– Bầy mèo đã chết vì uống rượu.

Nhà vua phán:

– Chắc chắn hai gã kia đã làm thuốc độc.

Rồi vua ban lệnh chém đầu họ và khi phải chết, họ còn la lớn:

– Xin cho chúng thần rượu mạnh, xin cho chúng thần rượu mật!

Nhà vua, sau khi xử tử bọn kia rồi, ra lệnh mở các bình ra. Còn bầy mèo, khi tác dụng rượu đã hết, tỉnh dậy đi lại chơi đùa. Các cận thần thấy vậy liền tâu vua. Vua bảo:

– Nếu đó là thuốc độc thì chúng đã chết hết rồi, chắc đây là rượu mật ta phải uống mới được.

Thế là vua ra lệnh trang trí kinh thành, dựng ngôi đình trong sân chầu và ngự vào đình nguy nga trên ngai vàng có lọng trắng che đầu, với các cận thần chầu quanh, nhà vua nhập tiệc uống rượu.

Lúc ấy Ðế Thích Thiên chủ bảo:

– Có ai dưới trần là những kẻ phụng dưỡng mẹ cha lại tinh cần giữ trọn ba chánh hạnh chăng?

Rồi nhìn xuống thế gian, ngài thấy nhà vua đang ngồi uống rượu nồng, ngài nghĩ: “Nếu vua ấy cứ uống rượu nồng mãi thì toàn cõi Diêm-phù-đề sẽ bị hủy diệt, ta muốn thấy chắc chắn vua không được uống rượu nữa”.

Thế là đặt bình rượu vào lòng bàn tay, ngài giả dạng một Bà-la-môn, đứng trên không ngay trước mặt vua kêu lớn:

– Mua bình này đi, mua bình này đi.

Vua Sabbamitta thấy ngài đứng trên không và nói như vậy, liền hỏi:

– Bà-la-môn này từ đâu đến đây?

Và nhà vua ngâm vần kệ trò chuyện với ngài:

  1. Ngài là đại sĩ hiện trên không
    Mình phóng hào quang rực ánh hồng
    Như chớp ngang trời đang lóe sáng
    Ðêm đen kịt chiếu ánh trắng trong.
  2. Giữa chốn bao la, lượt nhẹ mình,
    Ði đứng trong khoảng chẳng âm thanh.
    Lực thần ngài đạt, ôi vi diệu,
    Chứng tỏ ngài thần thánh hiển linh
  3. Ðạo Sĩ, xin cho biết bậc nào
    Vật gì trong ấy, chiếc bình cao
    Giữa không trung giáng trần như vậy
    Chắc muốn bán hàng cho trẫm sao?

Lúc ấy Thiên chủ đáp lại:

– Này nhà vua hãy nghe đây

Rồi vừa thuyết giảng mọi đặc điểm xấu xa của rượu nồng, ngài vừa ngâm vần kệ.

  1. Bình không đựng lạc, chẳng dầu hương,
    Chẳng phải mật ong, chẳng mía đường
    Song chuyện xấu xa không kể xiết
    Chứa đây trong bụng quả cầu tròn
  2. Ai uống, tội thay kẻ dại khờ
    Sẽ chìm trong hố thẳm đen dơ
    Ðâm đầu trong vũng bùn ghê tởm,
    Ăn phải vật xưa đã nguyện chừa,
    Ðại đế, xin mua bình rượu nặng
    Ðầy lên tận miệng của nhà ta.

6.Rượu vào trí đảo lộn quay cuồng
Như chú bò ăn cỏ lạc đường
Tâm trí phiêu diêu, người lảo đảo.
Múa men ca hát suốt ngày trường.
Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
Cực mạnh, mua ngay, hỡi Ðại vương!

  1. Người uống rượu trơ trẽn chạy rong
    Khắp thành, như ẩn sĩ trần truồng
    Ðến khuya nằm nghỉ , liền đâm hoảng
    Quên cả thì giờ phải ngã lưng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy hỡi Quân vương!
  2. Bợm rượu , như người hoảng múa men,
    Ngã nghiêng, dường chẳng đứng ngồi yên
    Tay chân run rẩy, đầu co giật
    Như nộm gỗ nhờ tay kéo lên
    Ðại đế, mua đi bình rượu đó
    Ðầy lên tận miệng, rượu cay men.
  3. Bợm rượu bị thiêu đốt ruột gan,
    Hoặc làm mồi lũ chó rừng hoang,
    Dấn thân tù ngục hay thần chết
    Còn phải chịu hao tốn bạc vàng
    Bình rượu ta đầy lên tận miệng
    Cực nồng, mua lấy, hỡi Vương quân!
  4. Túy ông mất hết vẻ thanh tao
    Trò chuyện những điều bẩn thỉu sao!
    Ngồi đứng trần truồng cùng đám bạn
    Mọi đàng ô trọc , bệnh lao đao
    Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
    Cực mạnh, quân vương hãy lấy vào!
  5. Kẻ uống thường hay thói tự cao,
    Nhãn quang chẳng sáng suốt đâu nào,
    “Thế gian của tớ”, lòng thầm nghĩ,
    Chẳng có vua nào sánh kịp đâu!
  6. Rượu nồng là thứ đại kiêu căng
    Ác quỷ nhát gan tựa nhộng trần,
    Kết hợp đánh nhau và phỉ báng
    Ấy nhà cho trộm, điếm dung thân.
  7. Dù gia đình có thật giàu sang
    Hưởng thọ kho vô số bảo tàng
    Giữ của trời cho phong phú nhất
    Rượu này cũng sẽ phá tan hoang
  8. Bạc vàng, đồ đạc ở trong nhà
    Ðồng ruộng, trâu bò, thóc vựa kho
    Ta sợ tiêu vong vì rượu mạnh
    Là mầm suy sụp của toàn gia
  9. Túy ông đầy nặng tính kiêu căng
    Phỉ báng cả hai bậc lão thân,
    Thách đố bà con cùng máu huyết
    Dám làm ô uế mối hôn nhân
  10. Nữ nhân uống rượu cũng kiêu căng
    Phỉ báng chồng mình lẫn phụ thân
    Bất chấp thanh danh nhà quý tộc
    Biến thành nô lệ tính điên khùng
  11. Bợm rượu, gan liều dám sát nhân
    Sa môn chân chính Bà-la-môn,
    Rồi cùng mọi cõi đời đau khổ
    Hối tiếc hành vi quá bạo tàn
  12. Rượu vào, phạm ác nghiệp ba phần:
    Lời nói, việc làm với ý tâm
    Địa ngục chìm sâu đầy khổ não
    Vì hành động ác tạo sai lầm
  13. Có kẻ, người năn nỉ uổng công
    Dù đem dâng mấy đống vàng, song
    Khi say, chúng dụ theo đường chúng
    Lời dối tuôn ra cũng sẵn lòng
  14. Vì người say giữ việc thông tin
    Gặp cảnh gian nguy đến đột nhiên
    Hãy ngắm! Kẻ này thề thốt nặng:
    “Việc này tâm trí chợt quên liền!”
  15. Ngay người thanh lịch nhất, khi say
    Cũng hóa ra phường tục tử ngay
    Ðệ nhất trí nhân mà túy lúy
    Cũng huyên thuyên nói xuẩn ngu đầy!
  16. Uống nhiều, nhịn đói, ngã chơi vơi
    Ðất cứng trần là chỗ nghỉ ngơi
    Lúc nhúc trẽn trơ như lũ lợn
    Chịu bao nhục nhã nhất trên đời
  17. Như bò, bị đánh ngã trên trên sàn
    La liệt nằm từng đống hỗn mang
    Ngọn lửa chứa trong men rượu nặng
    Sức người không thể sánh ngang bằng
  18. Mọi người kinh hoảng vội lùi ra.
    Tránh độc dược kia tựa độc xà
    Dũng sĩ to gan nào giải khát
    Cho mình bằng rượu giết người ta?
  19. Ta chắc sau khi uống rượu nồng
    And-ha tộc, với Vrish-ni cùng
    Lang thang bờ biển rồi nhào xuống
    Vì chiếc chùy kia của họ hàng
  20. Tiên say bị đọa khỏi cung trời
    Thần lực mất liền, Ðại đế ơi!
    Ai muốn nếm mùi ghê tởm ấy,
    Mua đi bình rượu của nhà tôi!
  21. Chẳng phải sữa chua, mật ngọt đây
    Song ngài luôn nhớ mãi từ nay
    Cái gì chứa đựng trong bầu ấy
    Ðại đế xin mua lấy rượu này!

Khi nghe xong bài thuyết giảng trên, vua nhận thấy thống khổ do rượu nồng gây ra, nên lòng hoan hỷ, tán thán Thiên đế qua hai vần kệ sau:

  1. Chẳng song thân dạy khéo như ngài
    Ngài thật nhân tử, thiện hảo thay,
    Chân lý ngài tìm ra tối thượng
    Trẫm vâng lời dạy bảo hôm nay
  2. Năm đệ nhất thôn của trẫm ban
    Bảy trăm bò, thị nữ trăm nàng
    Mười xe tuấn mã thuần cao quý.
    Vì lợi ích ngài đã dạy răn

Ðế Thích nghe vậy liền xuất đầu lộ diện, vừa trụ trên không vừa ngâm hai vần kệ:

  1. Một trăm thị nữ vẫn nhà ngài
    Làng mạc, đàn bò, cũng mặc ai
    Chẳng ngựa xe, đòi thuần chủng quý
    Sak-ka Thiên chủ chính danh này
  2. Hưởng đủ bơ tươi, thịt ướp, cơm
    Vui lòng ăn bánh mật men thơm
    Thích nhiều chân lý ta vừa dạy
    Trong sạch cõi Thiên đến đúng đường.

Ðế Thích Thiên chủ thuyết giáo cho ngài xong lại trở về Thiên giới. Nhà vua liền chừa rượu mạnh và ra lệnh đập vỡ các bình rượu kia. Sau đó ngài kiên tâm giữ Ngũ giới và bố thí, về sau được sinh vào cõi Thiên.

Nhưng việc uống rượu mạnh dần dần phát triển khắp cõi Diêm-phù-đề.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, Ànanda là nhà vua kia, còn Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vương tử chiến thắng (Tiền thân Jayaddisa)

Kìa, đã nhịn ăn bảy buổi sáng…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Phần mở đầu cũng giống như chuyện kể trong số 540 Tiền thân Sàma. Nhưng vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa từ bỏ chiếc lọng trắng có các vòng kim hoa để phụng dưỡng song thân.

Nói xong, Ngài liền kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa có một vị vua ở kinh thành phía Bắc Pãncàla, trong quốc độ Kampila, mệnh danh là Pãncàla. Hoàng hậu của ngài có thai, sinh được một hoàng nam. Trong suốt tiền kiếp xưa, bà có một tình địch trong hậu cung đang cơn nóng giận đã thề:

– Một ngày kia ta sẽ ăn thịt con bà.

Và để lời nguyền kia có công hiệu, nàng biến thành một con quỷ cái. Sau đó, ác quỷ tìm cơ hội chụp lấy hài nhi ngay trước mặt hoàng hậu, nhai ngấu nghiến như miếng thịt tươi rồi biến đi. Lần thứ hai cũng làm y hệt như thế, nhưng đến lần thứ ba, khi hoàng hậu đã vào phòng sinh, đám vệ binh liền canh gác quanh hoàng cung rất chặt chẽ.

Vào ngày bà sinh con, quỷ cái lại xuất hiện và chụp lấy hài nhi. Hoàng hậu thét lên:

– Quỷ cái!

Lập tức binh lính cầm khí giới chạy đuổi theo con quỷ cái khi nghe báo động. Vì không kịp ăn thịt hài nhi, quỷ cái chạy trốn, ẩn mình dưới cống. Hài nhi nhận quỷ cái ấy làm mẹ, ngậm vú đòi bú, và quỷ cái kia bỗng sinh lòng thương hài nhi như mẹ thương con, liền đi đến nghĩa địa dấu hài nhi trong hang đá và chăm sóc kỹ lưỡng.

Hài nhi lớn dần, quỷ cái đem thịt người về cho nó ăn, và cả hai đều sống bằng thức ăn này. Ðứa trẻ không biết mình là người, song dù tưởng mình là con của quỷ, cậu bé cũng không thể biến hóa khỏi hình người hay dấu mình được. Ðể thực hiện việc này, con quỷ đưa cho cậu bé cất một loại rễ cây – Nhờ công lực của thứ rễ này, cậu biến hình được và tiếp tục sống bằng thịt người. Lúc bấy giờ quỷ cái có việc đi xa để chầu đại lực quỷ vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) rồi chết luôn tại đó. Còn phần hoàng hậu, lần thứ tư sinh được một hoàng nam bình yên vì quỷ cái đã chết, và do sự kiện hoàng nam sinh ra chiến thắng kẻ thù là quỷ cái kia, nên được đặt tên Jayaddisa (Hoàng tử Chiến Thắng)

Khi hoàng tử khôn lớn, học hành tinh thông mọi mặt, chàng lên nắm quyền theo nghi lễ giương chiếc lọng trắng và trị vì quốc độ. Vào thời ấy, hoàng hậu của vua sinh hạ Bồ-tát được đặt tên là Alinasattu. Khi hoàng tử lớn khôn tinh thông mọi môn học thuật, liền được phong làm phó vương. Còn cậu bé làm con của quỷ cái vì bất cẩn làm hư hỏng rễ cây kia nên không thể dấu mình được nữa, phải sống trong nghĩa địa ăn thịt người nhưng vẫn xuất lộ nguyên hình.

Dân chúng thấy vậy sợ hãi, đến kêu than với nhà vua:

– Tâu Ðại vương, một con quỷ có hình dạng rõ ràng đang ăn thịt người trên nghĩa địa. Dần dần nó sẽ tìm đường vào kinh thành ăn thịt dân. Xin Ðại vương ra lệnh bắt nó đi.

Nhà vua chấp thuận ngay và ra lệnh bắt quỷ nọ. Một đạo binh cầm khí giới đứng quanh thành. Con quỷ ấy trần truồng nom thật khủng khiếp, nhưng lại sợ chết nên thét to và nhảy vào giữa ba quân. Quân sĩ la lên:

– Quỷ đây rồi!

Và họ cũng lo sợ cho mạng sống của họ, nên tan rã thành hai nhóm và bỏ chạy. Con quỷ thoát được và chạy ẩn mình trong rừng, từ đó không dám lai vãng chỗ có người ở.

Nó sống dưới gốc cây đa gần con đường lớn xuyên qua rừng, khi dân chúng qua lại đường đó, nó bắt lấy từng người một đem vào rừng giết ăn thịt. Lúc bấy giờ có một Bà-la-môn dẫn đầu đám, bộ hành, đưa một ngàn đồng tiền cho đám kiểm lâm rồi đi ngang qua đường ấy với năm trăm cỗ xe. Con quỷ có hình người liền rống lên nhảy vào đám người ấy. Họ hốt hoảng chạy trốn ngã lăn lóc dưới đất. Quỷ chụp lấy gã Bà-la-môn nhưng vì bị mảnh gỗ gây thương tích trong lúc đang chạy trốn, lại bị đám kiểm lâm đuổi theo rất gắt, nên nó thả gã Bà-la-môn và đi đến nằm dưới gốc cây thường trú ẩn.

Ðến ngày thứ bảy, vua Jayaddisa truyền lệnh đi săn và khởi hành từ kinh thành. Ngay lúc nhà vua lên đường, một người dân vùng Takkasilà, là một Bà-la-môn tên gọi Nanda, đang phụng dưỡng cha mẹ, đến yết kiến đức vua, mang theo bốn bài kệ, mỗi bài trị giá bốn trăm đồng tiền.

Nhà vua dừng lại để nghe kệ, và ra lệnh làm chỗ nghỉ ngơi cho ngài. Trong lúc đi săn người bảo:

– Người nào để con hươu chạy thoát từ phía mình thì phải trả tiền cho vị Bà-la-môn về các bài kệ ấy.

Sau đó một con hươu sao xuất hiện, chạy thẳng về phía nhà vua để thoát thân. Các cận thần cười rộ lên. Nhà vua chụp lấy kiếm, đuổi theo con hươu chừng ba dặm bắt được nó, liền lấy kiếm xẻ đôi và gánh lên đòn.

Lúc trở về, ngài đi đến chỗ quỷ nhân đang ngồi, nghỉ ngơi một lát trên bãi cỏ kusa rồi định tiếp tục đi, lúc đó quỷ nhân xuất hiện thốt lên:

– Dừng lại, ngươi định đi đâu, ngươi là mồi ngon của ta!

Rồi chụp lấy tay ngài, quỷ ngâm vần kệ:

  1. Kìa! Bảy ngày qua chịu đói lòng
    Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng
    Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy?
    Ta muốn biết tên họ, giống dòng

Nhà vua kinh hoảng khi thấy quỷ nhân, nên đứng sửng như trời trồng, không thể chạy trốn được, song rồi tỉnh trí dần, ngài đáp vần kệ thứ hai:

  1. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua
    Của xứ Pãn-ca, quốc độ ta!
    Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
    Xin dùng hươu nọ thả ta ra.

Con quỷ nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng
    Mồi kia ngon thật đấy Quân vương
    Ta xơi ngài trước và không bỏ
    Thú nếm thịt hươu: chớ nói quàng!

Khi nhà vua nghe vậy liền nhớ đến Bà-la-môn Nanda, và ngâm vần kệ thứ tư

  1. Vì ta chẳng thuộc mạng an toàn
    Ðược thả như ta khẩn thiết van
    Thì hãy cho ta tròn hứa cũ
    Ta đà giao ước Bà-la-môn
    Sáng mai cứu được lời danh dự
    Rồi sẽ trở về với quỷ nhân

Quỷ nhân nghe vậy , lại ngâm vần kệ thứ năm

  1. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng
    Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương
    Nói thật cho ta rồi có thể
    Ta bằng lòng thả một ngày ròng

Nhà vua ngâm vần kệ thứ sáu để giải thích sự việc ấy

  1. Ta hứa lời cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa cho xong
    Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứ
    Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông

Nghe vậy, quỷ nhân đáp vần kệ thứ bảy:

  1. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân
    Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong
    Mong tròn nguyện ước thanh danh cứu
    Rồi trở về đây buổi rạng đông

Nói xong con quỷ để cho vua đi, Vua được tha về liền bảo:

– Xin đừng bận tâm vì ta, sáng sớm mai ta sẽ trở lại.

Rồi ghi nhận một số dấu đường xong, ngài trở lại với đám binh sĩ và chúng hộ tống ngài về thành. Sau đó ngài triệu vị Bà-la-môn vào, ngài ban tặng bốn ngàn đồng tiền. Rồi ngài lại truyền đưa vị Bà-la-môn lên ngồi một cỗ xe, ra lệnh cho đám tùy tùng rước vị này thẳng đến Takkasilà. Ngày hôm sau, nôn nóng đến gặp quỷ nhân, ngài gọi hoàng thái tử đến dặn dò.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm hai vần kệ giải thích việc này:

  1. Thoát ác quỷ kia, lại trở về
    Nhà yêu, mộng nước đẹp tràn trề
    Với La-môn bạn, không sai hứa
    Song dặn A-lin quý tử kia
  2. Vương nhi nay nhận chức Quân vương
    Cai trị bạn thù thật chính chân
    Ðừng để bất công làm hại nước
    Cha đành nộp mạng chốn hung thần

Thái tử nghe vậy liền ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân
    Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng
    Cha phải đưa con lên kế vị
    Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng

Nhà vua nghe vậy, ngâm vần kệ tiếp theo:

  1. Này con, cha chẳng thể tìm ra
    Một ác ngôn hay một nghiệp tà
    Song nợ thanh danh, giờ trả trọn
    Còn lời nguyền giữ với yêu ma.

Thái tử nghe thế liền ngâm vần kệ:

  1. Cha ở lại, đây con sẽ đi
    Trở về an ổn, có gì mong
    Nếu cha đi nữa, con theo gót
    Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi!

Nghe lời này, nhà vua đáp kệ:

  1. Vương tử , con theo đúng đạo trời
    Song cha mất hết thú yêu đời
    Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ
    Nướng thịt con ăn trọn cả đời

Nghe vậy thái tử lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh
    Vì phụ vương, con nguyện bỏ mình
    Hơn nữa con tràn trề hỷ lạc
    Ðược đem đời hiến sinh thành

Nghe vậy vua nhận thấy đức hiếu thảo của con, liền nhận lời cầu mong của con và bảo:

– Tốt lành thay, vương nhi, hãy ra đi.

Thế là thái tử giả từ song thân và rời kinh thành.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt
    Cúi đầu ngài đảnh lễ song thân.

Lúc ấy, song thân ngài, em gái ngài, vương phi cùng triều thần tiễn ngài đi ra khỏi kinh thành; ngài hỏi vua cha lối đi và sau khi xếp mọi việc cẩn thận cùng dặn dò khuyên nhủ các người thân, ngài lên đường tiến về hang quỷ, oai hùng như con sư tử có bờm. Mẹ ngài thấy ngài ra đi, không thể kềm chế được, liền ngất lịm. Vua cha giơ hai tay khóc lớn.

*

Bậc Ðạo Sư làm sáng tỏ việc này qua nửa vần kệ:

  1. Phụ vương khóc lớn, giơ tay cản,
    Hiền mẫu buồn thương, ngã lịm dần

Như vậy, muốn nêu rõ lời nguyện cầu của vua cha và lời Thề Chân thực của mẹ ngài, em ngài, cùng vương phi, bậc Ðạo Sư lại ngâm thêm bốn vần kệ:

  1. Khi hình thái tử khuất mờ dần
    Trước mắt thảm sầu của phụ thân
    Cầu nguyện chư thần , tay chắp khấn
    Va-rù-na với So-ma vương
    Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
    Bảo vệ hoàng nhi được vạn an
    Nhờ các thần linh này, thái tử
    Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng

Mẫu hậu:

  1. Như mẹ Ra-ma đẹp dáng người
    Cứu con nàng đã bặt tăm hơi
    Khi vào rừng rậm Dam-da ấy
    Con trẻ ta mong giải thoát thôi
    Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện
    Chư thần cho trở lại an vui

Vương muội:

  1. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì
    Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che
    Chứng thực lời này, con nguyện ước
    Chư thần mang thái tử quay về

Vương phi:

20 Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân
Chứng thực lời này xin ước nguyện
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân

*

Về phần thái tử, ra đi theo lời hướng dẫn của vua cha , lên đường đến nơi quỷ nhân ở. Song quỷ nhân nghĩ thầm: “Các vua Sát-dế-ly nhiều mưu mẹo lắm, ai biết được việc gì sẽ xảy ra?” Rồi nó trèo lên cây đợi nhà vua đến.

Khi thấy thái tử, nó nghĩ “Người con đã ngăn cản vua cha và tự dẫn thân đến. Không có gì phải sợ người ấy cả.”

Và quỷ trèo xuống ngồi quay lưng về phía thái tử. Khi đến nơi thái tử đứng trước quỷ nhân, vừa lúc quỷ nhân này ngâm vần kệ:

  1. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam
    Có biết rừng này của quỷ chăng?
    Ai đến thật xem thường tính mạng
    Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang

Nghe vậy, thái tử bèn đáp kệ:

  1. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn
    Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang
    Ta là đích tử Ja-ya đế,
    Ăn thịt rồi , thả phụ vương

Quỷ nhân lại ngâm vần kệ:

  1. Ta biết con trai chúa Ja-ya
    Dáng chàng để lộ việc kia mà
    Thật là gian khổ cho chàng quá
    Phải chết vì thay mạng của cha

Thái tử liền đáp kệ nữa:

  1. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng
    Ðược chết vì ân phước phụ thân
    Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng
    Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung

Nghe vậy, quỷ liền nói

– Này thái tử, không có kẻ nào không sợ chết. Thế tại sao chàng lại không sợ?

Ngài liền nói lý do cho quỷ nghe qua hai vần kệ:

  1. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì
    Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che
    Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ
    Dù đây, hay các cõi sau về
  2. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân
    Phải làm công việc ấy cho xong
    Ta buông mình xuống trên cao chết
    Người cứ ăn ta, thỏa nguyện lòng

Qủy kia nghe vậy kinh hoảng liền bảo:

– Ta không thể ăn thịt người này được.

Rồi nghĩ mưu kế cho ngài chạy trốn, quỷ liền bảo:

  1. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân
    Thái tử, đem đời cứu phụ vương
    Ta bảo chàng rời ngay bước vội
    Tìm gom củi đốt lửa than hừng

*

Bậc Ðạo Sư ngâm một vần kệ nữa làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng
    Và chất cao lên một cái giàn
    Và thét vừa châm: “Bày tiệc sẵn!
    Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!”

*

Khi thấy thái tử trở về và nhóm lửa, quỷ nhân nói:

– Người này thật gan dạ không sợ chết. Xưa nay ta chưa từng thấy ai can đảm như vậy.

Nó ngồi sửng sờ, thỉnh thoảng lại nhìn thái tử. Ngài thấy thái độ quỷ nhân như thế, liền ngâm vần kệ:

  1. Ðừng đứng nhìn ta , dáng sửng sờ
    Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta
    Khi đang còn sống ta trù tính
    Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ

Quỷ nhân nghe vậy, liền ngâm kệ:

  1. Một hiền nhân, chánh trực, công bằng
    Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn
    Hoặc kẻ nào ăn người, ắt hẳn
    Ðầu kia tan nát bảy phần chăng

Thái tử nghe vậy hỏi:

– Nếu ngươi không muốn ăn ta, tại sao ngươi bảo ta bẻ cành về nhóm lửa?

Quỷ nhân nói:

– Ta muốn thử chàng đó thôi, vì ta chắc chàng sẽ bỏ chạy trốn.

Thái tử đáp:

– Bây giờ làm sao ngươi thử ta được, bởi vì lúc còn là súc sinh, ta đã để cho Thiên chủ thử đức hạnh của ta rồi.

Cùng với lời này ngài ngâm vần kệ:

  1. Ðế Thiên giả dạng một La-môn
    Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng
    Từ đó mặt trăng in dáng thỏ
    Ta chào nguyệt diện: “Dạ xoa thần!”

Quỷ nhân nghe vậy thả cho thái tử đi về và bảo:

  1. Như trăng thoát vuốt La thần
    Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang
    Ngài, chúa Kam-pi anh dũng đã
    Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng
    Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy
    Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang
    Phụ mẫu thân yêu , ngài cống hiến
    Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan

Rồi nó nói thêm:

– Hỡi đấng anh hùng, hãy đi đi!

Và nó để Bậc Đại Sĩ lên đường. Sau khi đã hàng phục quỷ nhân xong, ngài còn dạy nó ngũ giới và muốn thử xem nó phải quỷ không, ngài nghĩ thầm: “Mắt bọn quỷ thường đỏ và không chớp. Chúng không đổ bóng xuống đường và không hề biết sợ gì cả. Còn đây không phải quỷ. Ðây là người. Nghe nói cha ta có ba vương huynh bị quỷ dữ tha đi, hai người ắt hẳn đã bị ăn thịt rồi, còn một người được quỷ cái thương yêu với tình mẹ con. Chắc là đây thôi. Ta phải đem vị này về tâu với vua cha để đưa lên ngôi báu mới được.

Nghĩ vậy ngài kêu lên:

– Này Tôn ông, Tôn ông chẳng phải là quỷ đâu, mà là bào huynh của cha ta. Xin mời Tôn ông đi về cùng ta giương chiếc lọng trắng biểu hiện vương quyền trong giang sơn của tổ tiên mình.

Khi quỷ nhân đáp:

– Ta không phải là người.

Thái tử nói:

– Tôn ông chẳng tin ta ư? Vậy kẻ nào cho Tôn ông tin được?

Quỷ đáp:

– Có chứ, có một nơi nọ có một ẩn sĩ đã thành tự thiên nhãn thông.

Thế là ngài dẫn quỷ đến nơi ấy. Vừa trông thấy hai người xuất hiện, vị ẩn sĩ hỏi ngay:

– Hai vị có cùng dòng họ tổ tiên, cần gì mà đến đây?

Nói xong vị ẩn sĩ lại nói rõ về liên hệ dòng họ giữa hai người. Con quỷ ăn thịt người liền tin ngay và bảo:

– Này hiền hữu cứ về triều đi, phần ta, ta sinh ra với hai bản chất trong một hình hài. Ta không muốn làm vua. Ta sẽ đi tu làm ẩn sĩ.

Thế là quỷ thọ giới tu hành với vị ẩn sĩ ấy.

Sau đó thái tử đảnh lễ hai vị và trở về triều.

*

Bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ thêm vấn đề này:

  1. A-lin thái tử anh hùng
    Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn
    Thêm lần thoát nạn lên đàng
    Về Kam-pi xứ, an toàn tấm thân.

Khi thái tử về thành, bậc Ðạo Sư giải thích cho dân trong thành cùng toàn thể hội chúng nghe những chuyện thái tử đã làm và ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Từ thành thị đến thôn trang
    Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân
    Kìa! Ðồng nô nức hô vang
    Uy danh thái tử can tràng hùng anh
    Tượng, xa ngất nghểu đăng trình
    Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn

Vua nghe thái tử đã trở về liền đi ra ngoài đón ngài. Thái tử được đám đông hộ tống bước đến đảnh lễ vua cha. Vua cha hỏi:

– Này vương nhi, làm thế nào con thoát được ác quỷ kia?

Ngài đáp:

– Tâu phụ vương, vị đó chẳng phải quỷ đâu. Chính là bào huynh của phụ vương, là bá phụ của conđấy.

Ngài liền kể mọi chuyện cho vua cha nghe và nói:

– Vương phụ nên đi thăm bá phụ ngay.

Vua lập tức ban lệnh khua trống lên rồi cùng đoàn tùy tùng lên đường đi thăm hai vị ẩn sĩ, vị ẩn sĩ trưởng kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện: hài nhi bị quỷ bắt đi ra sao. Thay vì ăn thịt, quỷ cái đem hài nhi về nuôi thành quỷ nhân. Vua và quỷ liên hệ máu huyết như thế nào. Vua liền bảo:

– Này hoàng huynh, hãy về làm vua trị nước.

– Xin cảm tạ Ðại vương. Không được đâu.

Vua lại nói:

– Thế thì hoàng huynh đến ở trong vườn thượng uyển, ta sẽ cung cấp đủ bốn thứ vật dụng.

Nhà ẩn sĩ lại từ chối.

Sau đó vua cho lập ngôi làng trên một ngọn núi, không xa nơi ẩn cư kia, xây hồ, trồng trọt, đất đai và đem một ngàn gia đình cùng nhiều của cải đến lập một ngôi làng lớn cùng ban bố thí cúng dường cho hai vị ẩn sĩ. Ngôi làng lớn dần thành thị trấn Cullakammàsadamma. Vùng có quỷ nhân được bậc Ðại sĩ Sutasoma điều phục mệnh danh là thị trấn Mahàkammàsadamma.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong liền tuyên thuyết các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình đã đắc quả Dự Lưu-

– Thời ấy , phụ vương và mẫu hậu là hai thân trong hoàng tộc ngày nay, ẩn sĩ là Sàriputta (Xá-lợi-phất), quỷ nhân là Angulimàla; vương muội là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), hoàng hậu là mẹ của La-hầu-la và thái tử Alinasattu chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta (Tiền thân Chaddanta)

Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ-viên) về một Sa-di-ni.

Một thiện gia tín nữ ở Xá vệ nhận thấy nỗi khổ đau của cuộc đời thế tục, đã xuất gia tu hành. Một ngày kia, nàng cùng các Tỷ-kheo-ni khác đi đến nghe Pháp.

Trong lúc đức Phật ngồi thuyết giảng trên bảo tọa uy nghi, nàng chiêm ngưỡng kim thân của Ngài đầy đủ vẻ tối thắng mỹ diệu phát xuất từ công đức vô lượng của Ngài, nàng nghĩ thầm: “Ta không biết trong một đời trước nào ta từng phụng sự là thê thiếp của bậc vĩ nhân này chăng?”

Ngay lúc ấy, nàng chợt nhớ lại các đời trước của nàng. “Vào thời thượng tượng vương Chaddanta, ta đã từng làm vợ vĩ nhân này “. Tâm nàng tràn ngập hân hoan hạnh phúc khi nhớ lại việc ấy. Trong niềm xúc động sung sướng kia, nàng bật cười lớn và nghĩ thầm: “Ít phụ nữ có thiện ý đối với chồng mình, đa số đều có ác ý cả. Ta không biết xưa kia ta có thiện ý hay ác ý đối với vị này.”

Rồi hồi tưởng lại quá khứ, nàng nhận ra là vì cảm thấy bị đối xử thờ ơ lãnh đạm nên nàng đã sinh lòng oán hận Ðại tượng vương Chaddanta có chiều dài một trăm hai muơi cubit ( gần năm mươi mét), và nàng đã nhờ tay thiện xạ Sonuttara dùng tên tẩm thuốc độc bắn trọng thương để giết ngài. Lúc ấy niềm đau khổ khởi lên, lòng nàng bồn chồn nóng rang, rồi không thể kềm chế xúc động kia, nàng bật tiếng khóc nức nở.

Thấy thế, bậc Ðạo Sư nở một nụ cười và khi được hội chúng tỷ-kheo hỏi:

– Bạch Thế Tôn, duyên cớ gì khiến Thế Tôn mỉm cười?

Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, Sa-di-ni này vừa khóc, khi nhớ lại một tội ác đã từng phạm để hại Ta trong một đời trước.

Nói vậy xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, có tám ngàn vương tượng nhờ tu luyện thần thông, du hành qua không gian đến an trú gần bên hồ Chaddanta ở vùng Tuyết Sơn. Vào thời ấy Bồ tát tái sinh làm con của Voi chúa. Thân ngài thuần trắng, bàn chân đỏ, da mặt đỏ hồng. Dần dần lớn khôn, ngài cao đến tám mươi tám cubit, và dài một trăm hai mươi cubit. Ngài có cái vòi như cuộn dây thừng bằng bạc dài năm mươi tám cubit, bộ ngà có chu vi mười lăm cubit, dài ba mươi cubit, tỏa ánh sáng lục sắc. Ngài là chúa đàn voi lớn gồm tám ngàn con, thường tôn kính cúng dường các vị Ðộc Giác Phật và Mahàsubhaddà (Tiểu Hiền Phi và Ðại Hiền Phu) Tượng cương với quân thần tám ngàn voi ngự trong Kim động.

Lúc bấy giờ hồ Chaddanta dài năm mươi dặm và rộng năm mươi dặm. Ở giữa hồ khoảng mười hai dặm, chẳng hề có cây Sevàla hoặc Panaka nào mọc, nên nước trong như khối ngọc thần. Bao quanh vùng nước này gần đó là một dải toàn hoa súng trắng tinh khiết rộng chừng một dặm. Tiếp theo đó là loại sen trắng, sen hồng, đến súng trắng, súng hồng và loại súng trắng ăn được, đám súng trắng chen lẫn các loại súng khác, rộng chừng một dặm cứ mỗi lớp bao quanh các lớp trước.

Kế tiếp bảy lớp cây này là một đám súng trắng xen lẫn các loại súng khác cũng rộng chừng một dặm, bao quanh tất cả các lớp trước.

Kế đó trong vùng nước sau vừa cho voi đứng, là một đám lúa đỏ. Tiếp theo trong vùng nước bao quanh là những khu rừng cây nhỏ đầy hoa thơm dịu dàng đủ mầu vàng, xanh, trắng, đỏ. Như vậy mười rừng hoa này rộng chừng một dặm mỗi thứ. Kế đó là rừng đậu đủ loại. Kế nữa là rừng chen lẫn bìm bìm, dưa, bí bầu và nhiều cây leo khác. Tiếp theo là một rừng mía cao bằng cây cau. Rồi đến một rừng chuối có quả lớn bằng chiếc ngà voi. Kế đó là một ruộng lúa. Rồi đến một vườn mít, trái bằng bình nước lớn. Tiếp theo là một vườn me đầy quả ngon ngọt. Sau đó là vườn táo voi. Rồi đến một rừng cây lớn đủ loại. Kế tiếp là một rừng tre. Vào thời ấy, phong cảnh vùng này tráng lệ như thế. Vẻ kỳ vĩ đương thời miêu tả trong bộ Luận Samyatta (Luận giải Bộ Kinh Tương Ưng)

Song vùng bao quanh rừng tre lại là bảy ngọn núi. Từ phía ngoài cùng là ngọn Tiểu Hắc Sơn. Kế đó là Ðại Hắc Sơn, Thủy Sơn, Nguyệt Sơn, Nhật Sơn, Ngọc sơn và núi thứ bảy theo thứ tự là Kim Sơn. Núi này cao bảy dặm, vươn cao lên quan hồ Chaddanta, như đường viền cái chén; vách núi bên trong màu vàng chói. Do ánh sáng tỏa ra từ đó, hồ Chaddanta rực rỡ như mặt trời mới mọc.

Trong số các núi phía ngoài, có một ngọn cao sáu dặm, một ngọn cao năm dặm, ngọn cao bốn dặm, ngọn cao ba dặm, ngọn cao hai dặm và ngọn chỉ cao một dặm. Lúc bấy giờ về phía góc hồ đông, được bao bọc bằng Thất Sơn như vậy, ở một nơi gió thường thổi trên mặt nước, có một cây đa lớn mọc lên.

Thân cây có chu vi năm dặm, cao bảy dặm. Bốn cành vươn ra bốn phía dài sáu dặm. Như vậy từ rễ đến ngọn cao mười ba dặm, từ đầu ngọn cành cây phía này sang đầu ngọn cành cây phía kia rộng mười hai dặm. Cây này sinh ra tám ngàn chồi mọc thẳng tuyệt đẹp, chẳng khác nào Ngọc Sơn lồ lộ kia.

Song về phía Tây hồ Chaddanta trong Kim Sơn, có Kim Ðộng chừng mười hai dặm. Tượng vương Chaddanta cùng đoàn tùy tùng tám ngàn voi, về mùa mưa thường sống ở Kim Ðộng này, về mùa nóng lại đứng dưới gốc đa lớn kia, giữa các nhánh cây để đón gió nhẹ hiu hiu thổi từ mặt hồ nước.

Một ngày kia, đám quần thần tâu với ngài:

Ðại Thọ Sàla vương đang độ nở hoa.

Thế là đám tùy tùng hộ tống, ngài có ý định đi du ngoạn trong vườn Sàla, và khi vừa đến nơi ấy, trán ngài đụng vào một cây Sàla đang nở rộ hoa.

Lúc bấy giờ nàng Cullasubhaddà đứng theo chiều gió, nên một đám cành lá khô cùng kiến đỏ rớt xuống thân nàng. Còn nàng Mahàsubhaddà đứng chỗ khuất gió nên các hoa tươi cùng phấn hoa và cành lá xanh rơi trên thân nàng.

Cullasubhaddà nghĩ thầm:”Ngài để rơi trên mình nàng ái phi của ngài đầy hoa tươi, phấn hoa cùng cành lá xanh, còn trên mình ta, ngài lại làm rớt cả một mớ cành lá khô cùng bầy kiến đỏ lẫn lộn! Ðược lắm, rồi đây ta sẽ biết cách làm gì!”

Và nàng sinh lòng oán hận bậc Ðại Sĩ từ đó.

Một ngày kia, Tượng vương cùng đám tùy tùng xuống hồ Chaddanta để tắm. Lúc ấy, hai chú voi dùng vòi cầm các bó rễ cây usìra để hầu tắm ngài, chà xát cả thân ngài cao như thể núi Kelàsa. Khi ngài bước ra khỏi nước, lên đứng trước mặt bậc Ðại Sĩ.

Sau đó tám ngàn voi kia xuống hồ vui đùa thỏa thích trong nước, hái đủ loại hoa dưới hồ, trang điểm bậc Ðại Sĩ khác nào một ngôi đền bằng bạc; sau đó, chúng trang điểm cả hai hoàng hậu của chúa voi. Lúc ấy có một con voi kia bơi quanh hồ, hái một đóa sen lớn bảy chồi dâng bậc Ðại Sĩ. Ngài dùng vòi cầm hoa sen rảy phấn lên trán mình xong đưa tặng hoa cho chánh hậu Mahàsubhaddà. Thấy việc này, nàng tình địch của chánh hậu lại nghĩ: “Hoa sen bảy chồi này ngài cũng tặng cho ái hậu của ngài, chứ không phải tặng ta!.”

Nàng lại càng sinh lòng căm hờn ngài thêm nữa.

Một ngày kia, khi Bồ-tát đã ướp hoa quả ngon cùng ngó sen và củ sen với mật ong xong, ngàiđem cúng dường năm trăm vị Ðộc Giác Phật thọ thực, nàng Cullàsubhaddà cũng đem các thứ quả rừng nàng đã hái dâng cúng các vị Ðộc Giác Phật ấy, và nàng cầu nguyện như vầy:

– Từ nay, sau khi con lìa trần, ước mong rằng con được tái sinh làm công chúa Subhaddà trong hoàng tộc của vua Madda, và khi đến tuổi trưởng thành, mong rằng con được vinh dự làm hoàng hậu của vua Ba-lai-nại. Lúc ấy con sẽ đầy vẻ diễm lệ trước mắt ngài và được ngài sủng ái. và sẽ có đầy đủ quyền lực thực hiện điều gì con ước muốn. Thế là con sẽ tâu đức vua cho người thợ săn dùng tên độc bắn tử thương Voi chúa này. Và như vậy con ước mong có thể bảo chúng đem về dâng con một cặp ngà tỏa hòa quang lục sắc kia.

Từ đó nàng bỏ ăn uống, nên héo mòn dần, chẳng bao lâu nàng từ trần rồi tái sinh làm con chánh hậu vua Madda và được đặt tên là Subhaddà. Khi nàng đến tuổi dậy thì, song thân nàng liền xe duyên nàng với vua Ba-lai-nại. Nàng làm đẹp lòng vua và được sủng ái, nên được phong làm chánh hậu giữa đám mười sáu ngàn phi tần.

Khi nhớ lại các đời trước của mình, nàng nghĩ thầm: “Lời nguyện cầu của ta đã thành tựu, nay ta phải truyền đem bộ ngà voi ấy dâng ta mới được”.

Thế là nàng xoa dầu khắp người, mặc áo dơ bẩn, nằm lên giường, giả vờ bệnh. Nhà vua hỏi:

– Ái hậu Subhaddà của trẫm đâu rồi?

Khi nghe tin nàng bị bệnh, ngài vội vào hậu cung ngồi bên vương sàng, vuốt nhẹ lưng nàng và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần,
    Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
    Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
    Vì cớ sao nàng héo úa dần?

Nghe lời này, nàng liền đáp vần kệ thứ hai:

  1. Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
    Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
    Mộng ước hão huyền e khó đạt,
    Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.

Vua nghe thế, lại ngâm vần kệ nữa:

  1. Những lạc thú nào ở thế gian,
    Con người khao khát tận tâm can,
    Ðiều gì mong trẫm đem ban tặng,
    Hãy nói trẫm nghe, ước nguyện nàng.

Nghe vậy, hoàng hậu bảo:

– Tâu Ðại vương, ước nguyện của thiếp thật khó đạt thành, thiếp chưa thể nói được ngay bây giờ ước nguyện ấy, xin cho tất cả các thiện xạ trong nước tụ tập về đây, lúc ấy thiếp sẽ nói ra giữa đám thiện xạ ấy.

Và nàng ngâm vần kệ để giải thích ý nàng muốn nói:

  1. Truyền đám thợ săn phụng mệnh ngay,
    Những người cư ngụ nước non này,
    Ðiều thần thiếp muốn nhờ tay họ,
    Khi diện kiến, xin sẽ giải bày.

Vua chấp thuận và từ hậu cung, ngài ban lệnh cho các đại thần:

– Hãy cho đánh trống ban lệnh rằng tất cả các thợ săn trong quốc độ Kàsi trải dài ba trăm dặm này, phải đến tụ tập tại đây.

Họ tuân lệnh, chẳng bao lâu các thợ săn trong quốc độ Kàsi mang tặng vật tùy theo phương tiện của họ, nhờ tâu trình vua họ xin bệ kiến. Lúc ấy họ đến chừng sáu mươi ngàn người. Vua nghe tin ấy, liền đứng trước cửa sổ mở rộng giơ tay chỉ cho hoàng hậu thấy họ đã trình diện, ngài bảo:

  1. Nhìn đám thợ săn dũng cảm đây!
    Nghề săn mồi lão luyện cao tay,
    Với tài chém giết bầy hoang thú,
    Vì trẫm, sẵn sàng bỏ mạng ngay.

Hoàng hậu nghe thế liền ngâm vần kệ bảo họ:

  1. Lạp hộ can trường tụ tập đây,
    Những lời ta nói, lắng nghe vầy:
    Dường như ta thấy trong cơn mộng
    Bạch tượng sáu ngà tuyệt mỹ thay,
    Ta ước bộ ngà, lòng khắc khoải,
    Chẳng còn gì đáng giá đời này!

Ðám thợ săn nghe nàng nói, đáp lời:

  1. Các bậc tổ tiên thuở đã qua,
    Sáu ngà voi trắng, thấy bao giờ?
    Loài gì thú ấy, xin cho biết,
    Ðã hiện trong mơ của lệnh bà.

Sau đó họ lại còn ngâm thêm vần kệ nữa:

  1. Bốn phương Nam, Bắc, với Tây, Ðông,
    Chính giữa bốn miền cũng họp chung,
    Thiên đỉnh thêm vào thiên đế nữa,
    Nơi nào trong thập hướng không trung,
    Tượng vương này ở, xin cho biết,
    Xuất hiện trong mơ của chánh cung.

Nghe nói thế hoàng hậu Subhaddà nhìn toàn thể đám thợ săn, thấy trong đó có một người chân lớn, bắp chân phồng to như một cái thúng đựng đầy lễ vật, xương sườn, đầu gối đều vạm vỡ, bộ râu rậm, hàm răng vàng khè, mặt mũi méo mó đầy sẹo, là người thật xấu xí, đồ sộ, nổi bật lên giữa đám thợ săn, tên là Sonuttara, trong một đời trước đã từng là kẻ cừu thù của bậc Ðại sĩ. Nàng liền nghĩ: “Người này có thể làm theo lời ta được”.

Và xin phép vua đem gã kia đi lên thượng lầu của cung điện bảy tầng, nàng mở cửa sổ hướng Bắc, chỉ tay thẳng về phía dãy Bắc Tuyết Sơn, rồi ngâm bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc bên kia dãy Thất San,
    Cuối cùng ta đến Vách non Vàng,
    Ðỉnh cao thường có loài ma quỷ,
    Hoa tự chân lên ngọn rỡ ràng.
  2. Dưới núi ma kia lại thấy ngay
    Xanh um cả khối, dáng như mây,
    Một cây đa chúa, từ nhiều gốc
    Sinh tám ngàn cành, tráng kiện thay.
  3. Trú đây, Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Thở phì, Voi đứng, mắt trừng trừng,
    Hơi gió nhẹ đưa cũng nổi sân,
    Nếu chợt thấy người gây mảy gió,
    Ðùng đùng, chúng dẫm nát tan thân!

Sonuttara nghe tả thế, hồn vía bay lên mây, vội đáp vần kệ:

  1. Lam ngọc sáng ngời hoặc bảo trân,
    Biết bao trang sức với kim ngân,
    Việc gì hoàng hậu cần ngà ấy,
    Hay lệnh bà mong giết thợ săn?

Hoàng hậu lại ngâm vần kệ:

  1. Nung nấu lòng ta rẫy giận hờn,
    Mỗi lần nhớ lại vết đau thương,
    Cho ta, lạp hộ, điều ta ước,
    Làng đẹp năm ngôi, sẽ hưởng ơn!

Nói xong nàng thêm:

– Này hiền hữu thiện xạ, ngày trước, khi ta cúng dường các vị Ðộc Giác Phật, ta dâng lời cầu nguyện rằng ta muốn có đủ thần lực giết con voi sáu ngà kia để chiếm một đôi ngà. Ðiều này ta không phải chỉ thấy trong giấc mộng mà thôi đâu, đó còn là lời nguyện ta phải thành đạt. Hiền hữu hãy ra đi, đừng lo sợ gì cả.

Nàng nói vậy để trấn an gã. Gã chấp thuận lời nàng và đáp:

– Xin tuân lệnh hoàng hậu, nhưng trước hết xin lệnh bà chỉ rõ cho thần biết voi ấy hiện ở đâu.

Và gã hỏi qua vần kệ:

  1. Voi ở đâu? Tìm kiếm chốn nào?
    Ðường Voi đi tắm, hướng ra sao?
    Nơi nào Vương tượng thường bơi lội?
    Xin chỉ con đường để bắt mau.

Lúc ấy nàng hồi tưởng lại đời trước của mình và nhớ rõ địa điểm ấy, nên chỉ đường cho gã qua hai vần kệ:

  1. Không xa nơi tắm ấy là bao,
    Thăm thẳm hồ sâu diễm lệ sao,
    Hoa rộ nở, đầy ong bướm lượn,
    Ðấy nơi Vương tượng dễ tìm cầu.
  2. Tắm mát, cài sen, chiếc miện hoa,
    Hân hoan Voi rảo bước về nhà,
    Như cành sen trắng cao vòi vọi,
    Theo gót bà hoàng yêu thiết tha!

Sonuttara nghe vậy chấp thuận ngay và thưa:

– Tâu lệnh bà, tiểu thần xin đi giết Voi này và đem về dâng cặp ngà.

Nàng hoan hỷ ban thưởng gã một ngàn đồng tiền vàng và bảo:

– Hiền khanh cứ trở về nhà đã, sau bảy ngày nữa hãy khởi hành đến đó.

Nàng cho gã lui về và triệu tập đám thợ rèn lại, truyền lệnh:

– Này các khanh, ta cần một cái rìu, một cái xẻng, một cái khoan, một cái búa, dụng cụ để chặt tre, cái liềm cắt cỏ, một gậy sắt, một cái cọc, một cái chĩa ba bằng sắt, hãy làm mọi thứ thật gấp rồi đem đến đây ngay.

Nàng lại cho triệu tập đám thợ đồ da, bảo họ:

– Này các khanh, hãy làm cho ta một cái túi da đủ đựng đồ vật nặng cỡ một đầu heo lớn, ta lại cần các dây da, các lưới da, đôi giày lớn vừa cho voi mang và một cái dù da để nhảy xuống. Hãy làm mọi thứ thật cấp bách rồi đem lại đây ngay.

Cả hai đám thợ rèn và thợ da kia làm gấp mọi vật rồi mang lại cho nàng. Sau khi có đủ mọi vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình, cùng lửa củi đủ loại, nàng đặt mọi món trang bị cần thiết như bánh nướng, lương khô.. vào túi da. Tất cả nặng cỡ chiếc đầu heo. Còn Sonuttara, sau khi sắp đặt xong xuôi, đến ngày thứ bảy, cung kính diện kiến hoàng hậu. Nàng bảo:

– Này hiền hữu, tất cả mọi hành trang đã hoàn thành, hãy cầm túi da này đi.

Gã này là một tên hạ đẳng lực lưỡng gan dạ, mạnh bằng năm con voi, nên cầm chiếc túi kia như thể túi đựng bánh đặt lên sườn, rồi đứng lên như thể hai tay không! Nàng Cullasubhaddà trao lương thực cho đám tùy tùng của gã, và tâu trình vua rồi truyền gã lui ra. Gã đảnh lễ vua cùng hoàng hậu xong, xuống thềm cung điện đặt các vật dụng lên một cỗ xe, khởi hành khỏi kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo rầm rộ vượt qua vô số thôn làng, tới vùng biên địa.

Lúc ấy gã bảo dân chúng lui và tiếp tục đi cùng đám dân cư ngụ trên biên giới cho đến khu rừng, qua khỏi những nơi có người ở, gã lại cho dân biên giới lui về và một mình gã tiến lên một khoảng ba mươi dặm đường, băng qua rừng cỏ kusa và nhiều cỏ khác rậm rạp, những đám dàyđặc rau quế, lau sậy, cây đậu, những khóm gai, mía, và cây đủ loại, rồi các rừng rậm toàn lau, mía dày, rậm đến độ rắn cũng không thể bò qua được, rồi các rừng cây lớn, tre nứa, những bãi nước lầy, những dải núi; gã lần lượt đi qua mười tám vùng tất cả.

Qua rừng cỏ, gã cắt bằng lưỡi liềm, qua các đám rau, gai, tre, nứa, gã mở đường bằng dụng cụ đẵn tre, gã chặt các cây lớn bằng cái rìu, còn các cây cổ thụ quá lớn, gã phải đục bằng cái khoan trước tiên.

Sau đó tiếp tục cuộc hành trình, gã làm một cái thang trong rừng tre và trèo lên ngọn cây, gã đặt một cây tre vừa chặt lên trên bụi tre kế đó, cứ thế gã bò dần qua các đọt tre đến một bãi lầy.

Gã lại trải một tấm ván khô trên bùn, bước qua rồi ném một tấm ván khác ra phía trước và cứ như thế đi băng qua bãi lầy. Sau đó gã lại đóng thuyền để vượt qua một vùng ngập nước, cuối cùng đến đứng dưới chân các ngọn núi.

Gã buộc cái móc sắt có chĩa ba vào sợi dây, ném lên cao cho nó dính chặt vào sườn núi. Leo lên sợi dây, gã khoan núi bằng đầu gậy có gắn kim cương, đóng cọc vào lỗ rồi đứng lên đó. Sau gã lại kéo cái móc sắt có chĩa ba ra đóng vào sườn núi cao hơn trước, từ nơi này gã để dây da thòng xuống, xong gã cầm dây trèo xuống, buộc dây vào cọc phía dưới. Rồi tay trái cầm dây, tay phải cầm búa, gã đánh vào sợi dây để kéo cái cọc ra và trèo lên lần nữa.

Bằng cách này gã trèo lên đỉnh núi đầu tiên, rồi bắt đầu đi xuống phía bên kia, sau khi đóng cọc vào đỉnh núi đầu tiên như trước đây, xong buộc dây vào túi da và bao quanh cái cọc, gã ngồi vào trong túi da và thả mình xuống bằng cách buông dần cuộn dây như thể nhện nhả tơ vậy. Gã để cho cái dù da bắt gió và hạ xuống nhanh như chim. Tương truyền ít nhất là thế đấy.

Như vậy bậc Ðạo sư kể chuyện gã thợ săn tuân lệnh nàng Subhaddà, xông pha từ kinh thành băng qua mười bảy địa giới khác nhau cho đến khi vào tận miền núi rừng, những cách gã băng rừng vượt qua sáu vùng nước non như thế nào để leo lên đỉnh Kim Sơn:

  1. Thợ săn nghe lệnh, vững can tràng,
    Nai nịt cung tên, tiến bước đàng,
    Băng vượt bảy tầng non bát ngát,
    Cuối cùng đến thượng đỉnh Kim San.
  2. Ðến núi cao đầy quỷ ẩn thân,
    Khối gì trước mắt, dáng như vân?
    Chính cây đa chúa, thân to lớn
    Ðỡ tám ngàn cành tán trải giăng.
  3. Trú đây Bạch tượng mạnh vô song
    Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
    Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
    Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
  4. Gần đó, hồ kia nước tận bờ,
    Xứng nơi vương tượng lội bơi qua,
    Ðôi bờ khả ái muôn hoa đẹp,
    Ong lượn quanh đầy tiếng nhỏ to.
  5. Ðánh dấu đường đi của Tượng vương
    Những khi bơi lội, chí kiên cường
    Gã đào hố, việc làm hèn hạ
    Xúi giục cho vương hậu giận hờn!

Tiếp theo đây là câu chuyện từ đầu đến cuối: chuyện kể rằng, sau bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, khi đến tận nơi cư trú của bậc Ðại sĩ theo cách kể trên, gã thợ săn ghi dấu kỹ nơi ấy, và đào một cái hố ở đó, gã bảo:

– Ta sẽ đứng đây và đâm chết Voi chúa.

Gã sắp đặt công việc như vậy xong, vào rừng chặt cây làm cột trụ, cùng chuẩn bị một số vật dụng khác.

Khi đàn voi đến tắm ở nơi Voi chúa thường đứng, gã lại đào một hố vuông bằng một cái cuốc lớn, và đám đất gã đào lên gã rải khắp mặt nước, như thể gieo hạt, và trên đầu các tảng đá hình khối xay, gã trồng một trụ, chôn thêm các vật nặng cùng dây da và trải nhiều ván lên trên. Kế đó gãđào lỗ vừa cỡ một mũi tên rồi ném đất đá, rác rến lên nữa, còn một bên gã làm lối ra vào cho gã.

Thế là khi hố đã xong xuôi, vào lúc tảng sáng gã buộc một chùm tóc giả trên chỏm, mặc hoàng y vào, cầm cung và mũi tên độc, gã bước xuống đứng dưới hố kia.

Bậc Ðạo sư giải thích mọi việc như sau:

  1. Che hố trước tiên đậy ván dày,
    Bước vào, cung nắm ở trong tay,
    Vừa khi Bạch tượng đi qua đó,
    Kẻ ác cho tên dữ vút bay.
  2. Voi bị thương gầm rống thảm thương,
    Cả đoàn đáp lại cũng gầm vang,
    Ngàn cây nghiêng ngã giày tan cỏ,
    Tán loạn đàn voi chạy thẳng đường.
  3. Voi chúa đã gần giết địch nhân
    Vì chứng đau đớn hóa điên cuồng,
    Nhưng kìa! Ðôi mắt ngài vừa gặp
    Biểu tượng thanh cao, chiếc áo vàng,
    Bộ áo tu hành bất khả phạm,
    Ấy điều suy nghĩ của hiền nhân.

Bậc Ðạo sư, trong lúc nói chuyện với thợ săn, ngâm hai vần kệ này:

  1. Người nào vấy phải tội đầy thân,
    Chẳng chế ngự mình, thiếu thật chân,
    Dù chiếc hoàng y, mình nó mặc,
    Chẳng hòng mong đạt tịnh thanh tâm.
  2. Còn kẻ thoát ra mọi lỗi lầm
    Ðầy lòng chân thật, tự điều tâm,
    Vững lòng cương quyết theo công chánh,
    Xứng đáng y vàng khoác tấm thân.

Nói xong, bậc Ðại sĩ dập tắt mọi nỗi hận sân đối với gã kia và hỏi:

– Tại sao ông bắn ta bị thương? Có phải vì lợi ích riêng hay vì bị kẻ nào mua chuộc?

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Voi trúng tên tàn bạo quỵ chân,
    Trong lòng bình thản, hỏi cừu nhân:
    “Ðích gì khi giết nhằm ta thế,
    Cho biết ai xúi giục, bạn thân?”.

Kế tiếp gã thợ săn đáp kệ này:

  1. Ái hậu Kà-si bậc đại quân,
    Su-bhad-dà, bảo đã từng trông
    Dáng ngài trong mộng, và vì thế:
    “Ta muốn ngà kia, hãy kiếm dâng!”.

Nghe gã nói điều này, ngài nhận ra đây là việc làm của nàng Cullasubhaddà, nên ngài nhẫn nhục chịu đau đớn và suy nghĩ: “Nàng chẳng cần gì đôi ngà của ta đâu, nàng bảo gã đi đến đây chỉ vì muốn giết ta đấy thôi”.

Và để làm sáng tỏ việc, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Kho báu ta mang ở bộ ngà,
    Hình hài di tích của ông cha,
    Ðiều này ác phụ am tường quá,
    Nên kẻ khốn nhằm đoạt mạng ta.
  2. Trước khi ta chết, thợ săn ôi,
    Cưa lấy bộ ngà của chúa Voi,
    Bảo ác phụ kia mừng mãn nguyện,
    “Ðây ngà, Bạch tượng đã lìa đời!”.

Nghe ngài bảo vậy, gã thợ săn đứng dậy từ nơi gã đang ngồi, cầm cưa trong tay đi đến gần ngài để cắt đôi ngà. Lúc bấy giờ Vương tượng cao như một ngọn núi tám mươi tám cubit (gần bốn mươi mét) nên không thể cưa được như ý muốn, vì gã này không thể lên tới tận đôi ngà. Thấy thế bậc Ðại sĩ phải cúi mình trước gã, nằm xuống kê đầu dưới đất.

Lúc ấy gã mới trèo lên chiếc vòi của bậc Ðại sĩ, dẫm chân lên đó như thể sợi dây thừng bạc, rồi đứng trên trán ngài như thể đỉnh núi Kesàla. Sau đó gã nhét chân gã vào miệng ngài, đầu gối gã đập vào da thịt trong miệng ngài, gã bò xuống từ trán ngài và thọc cây cưa vào miệng ngài. Bậc Ðại sĩ chịu đựng nỗi thống khổ hành hạ và miệng ngài ứa đầy máu.

Còn gã thợ săn đi loanh quanh chỗ này chỗ kia vẫn không thể nào dùng cái cưa cắt được đôi ngà. Vì thế bậc Ðại sĩ để máu rơi ra từ miệng ngài, chịu đựng nỗi đau đớn cực độ, hỏi gã:

– Này tôn ông không cưa được sao?

Và khi nghe gã bảo:

– Không.

Ngài liền lấy lại sự bình tĩnh trong tâm, bảo:

– Vậy thì được rồi, vì ta không còn đủ sức đưa chiếc vòi lên, ông hãy nhắc nó lên cho ta và nó sẽ cầm một đầu cưa.

Gã thợ săn làm theo.

Bậc Ðại sĩ dùng vòi cầm phía đầu cưa, đưa lui đưa tới và đôi ngà được cắt rời ra ngay như đọt cây. Sau đó ngài bảo gã cầm lấy đôi ngà và nói:

– Này hiền hữu lạp hộ, không phải ta cho ông đôi ngà này vì ta không quý trọng chúng, cũng không phải giống như một người mong ước địa vị của Ðế Thích Thiên chủ, Ma vương hay Phạm thiên đâu, nhưng đôi ngà Chánh Ðẳng Chánh Giác còn đáng quý đối với ta gấp cả trăm ngàn lần hơn đôi ngà này, và ta ước mong công đức thiện hành này sẽ làm nhân duyên cho ta chứng đắc quả Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Vừa khi cho gã đôi ngà, ngài hỏi:

– Ông đến đây phải đi mất bao lâu?

– Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày.

– Vậy nhờ thần lực của đôi ngà này, ông sẽ về đến Ba-la-nại trong bảy ngày thôi.

Sau khi ngài bảo gã ra đi và trước khi đàn voi kia cùng hoàng hậu Subhaddà đến nơi, ngài đã qua đời.

Bậc Ðạo sư giải thích sự việc qua vần kệ:

  1. Rồi thợ săn cưa lấy bộ ngà
    Từ hàm Bạch tượng tối cao ra,
    Sáng ngời, bảo vật vô song ấy,
    Gã bước nhanh chân trở lại nhà.

Khi gã đi rồi, đàn voi không còn thấy bóng kẻ thù trở lại nữa.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Kinh hãi nhìn Vương tượng bỏ thân,
    Ðàn voi vùng tán loạn, hoang mang,
    Chẳng tìm thấy vết cừu nhân ác,
    Trở lại nhìn vua ngã xuống đàng.

Vương hậu Subhaddà cùng đến với đàn voi, tất cả đều đau đớn than và từ đó đi yết kiến các vị Ðộc Giác Phật trước kia thường rất thân thiết với bậc Ðại sĩ, và thưa:

– Bạch các Tôn giả, đức vua thường vẫn cúng dường các Tôn giả mọi vật dụng cần thiết, đã từ trần vì trúng một mũi tên độc. Xin các Tôn giả đến viếng thi hài của ngài đang được quàng tại nơi kia.

Năm trăm vị Ðộc Giác Phật liền bay qua không trung hạ mình xuống vùng đất thiêng ấy. Vào lúc hai chú voi con lấy ngà nâng thi hài của Voi chúa lên để thi hài tỏ dấu hiệu sùng kính các vị Ðộc Giác Phật, rồi nâng thi hài cao đến tận dàn hỏa thiêu và làm lễ hỏa táng. Suốt đêm ấy các vị Ðộc Giác Phật tụng kinh trong thánh địa này. Tám ngàn voi ấy, sau khi dập tắt các ngọn lửa, liền tắm rửa rồi cùng theo hoàng hậu Subhaddà dẫn đầu, trở lại nơi cư ngụ như cũ.

Bậc Ðạo sư giải thích vấn đề như sau:

  1. Ðàn voi khóc lóc lẫn kêu gào,
    Tất cả chất tro đội đỉnh đầu,
    Chầm chậm trở về nơi cư trú,
    Theo sau hoàng hậu mãi thanh cao.

Còn gã Sonuttara trong bảy ngày đã về tới Ba-la-nại cùng với bộ ngà voi.

Bậc Ðạo sư giải thích việc này như sau:

  1. Thẳng đến Kà-si, gã thợ săn,
    Vô song tặng vật, gã vừa mang:
    Bộ ngà của chúa Voi ngời chiếu
    Làm mọi tâm hoan với ánh vàng;

Ðến trước bà hoàng kia, gã nói:

“Ðây ngà; Vương tượng đã từ trần!”.

Bấy giờ khi mang đôi ngà đến dâng hoàng hậu, gã thưa:

– Tâu hoàng hậu, chúa Voi mà hoàng hậu mang mối thù hận trong lòng chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt ấy đã bị tiểu thần giết chết rồi!.

– Ngươi bảo rằng ngài đã chết rồi ư? Nàng kêu lớn.

Gã dâng đôi ngà lên và tâu:

– Hoàng hậu cứ tin chắc rằng ngài đã chết, đây là đôi ngà của ngài.

Nàng nhận lấy đôi ngà có sáu sắc hào quang ấy để lên chiếc quạt nạm ngọc của nàng rồi đặt vào lòng, nàng nhìn đôi ngà của Voi chúa ngày trước trong một đời trước đã là vị quân vương ái kính của nàng, nàng nghĩ thầm: “Gã thợ săn này trở về với đôi ngà gã cưa được từ Bảo tượng mà gã đã giết bằng mũi tên độc”.

Rồi nhớ lại bậc Ðại sĩ, lòng nàng bỗng tràn ngập đau thương đến độ nàng không thể chịu đựng được nữa, tim nàng tan nát ra và nàng từ trần ngay hôm ấy.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ câu chuyện:

  1. Bà hoàng vừa chợt thấy đôi ngà,
    Chúa thượng dấu yêu thuở đã qua,
    Lòng quá đau thương liền vỡ nát,
    Vì ngài, kẻ ngốc hóa ra ma.
  2. Khi Ðại trí nhân đủ lực thần,
    Mỉm cười trước mắt các hiền Tăng,
    Tức thì Thánh chúng liền suy nghĩ:
    “Chư Phật chẳng cười chuyện bỗng dưng!”.
  3. Ngài bảo: “Các ông thấy nữ nhi
    Làm Sa-di ấy, khoác hoàng y,
    Xưa là hoàng hậu, và Ta nữa,
    Ngài tiếp, “là Voi chúa mất đi”.
  4. Kẻ ác cưa ngà báu trắng tinh,
    Vô song dưới thế, ánh quang minh,
    Ðem về thành phố Ba-la-nại
    Nay chính Ðề-bà-đạt đích danh”.
  5. Phật-đà với trí tuệ riêng Ngài
    Kể lại chuyện xưa ấy thật dài,
    Đủ mọi nỗi buồn đau thống thiết,
    Dù Ngài đã thoát hết bi ai.
  6. “Ngày xưa Bạch tượng chính Ta đây,
    Làm chúa Voi đông đảo cả bầy,
    Như vậy, chư Tăng, ta muốn bảo
    Các ông hiểu rõ Tiền thân này”.

Các vần kệ trên được các Tỷ-kheo ghi nhớ khi Tăng chúng tán dương Ðạo pháp và ca ngợi đấng Thế Tôn đầy đủ mọi thần lực.

*

Khi nghe Pháp thoại này xong, một số trong đại chúng chứng quả Dự Lưu, còn vị Sa-di-ni ấy về sau nhờ tu tập Thiền định đã chứng đắc quả A-la-hán.

-ooOoo-

  1. Chuyện nam tử Sambhava (Tiền thân Sambhava)

Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương..,

Trong lúc trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư kể lại câu chuyện này liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Các chi tiết đưa đến phần mở đầu câu chuyện sẽ được nêu ra trong Tiền thân Mahà Ummagga Ðường Hầm lớn, Chương XXII, tập VII.

*

Ngày xưa có vị vua danh hiệu Dhananjaya Korabya trị vì tại kinh đô Indapatta ở quốc độ Kuru (Câu-lâu). Một Bà-la-môn tên Sucìrata là tế sư cùng là quốc sư của ngài trong mọi vấn đề thánh sự. Nhà vua cai trị rất đúng pháp, thực hành bố thí cùng nhiều thiện sự khác. Một ngày kia ngài chuẩn bị một câu hỏi liên quan việc phụng sự Chân lý, nên sau khi mời Bà-la-môn Sucìrata an tọa xong, và cung kính đảnh lễ vị ấy, ngài đưa vấn đề ra hỏi bằng cách ngâm bốn vần kệ:

  1. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,
    Su-cì, và thống trị giang sơn,
    Vì mong trẫm đạt thành cao cả,
    Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.
  2. Bằng Chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,
    Bởi vì tất cả đấng quân vương,
    Ở trên trần thế cần theo đúng
    Bất cứ điều Chân chánh Thiện lương.
  3. Do đó ta xa lánh lỗi lầm
    Ðời này và mãi mãi ngàn năm
    Ta cầu mong được danh vinh hiển
    Ở giữa chư Thiên lẫn thế nhân.
  4. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng
    Những gì Chân thiện, trẫm mong làm,
    Vậy khi được hỏi, xin cho biết
    Những việc làm nào đúng Thiện Chân.

Lúc bấy giờ, đó là cả vấn đề cao siêu thuộc phạm vi tri kiến của một vị Phật. Ðó là vấn đề ta phải đem ra thưa trình lên đức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc nếu không có Ngài, thì ta phải trình với một vị Bồ-tát đang mong cầu quả vị Chánh Ðẳng Chánh Giác kia. Còn Sucìrata không phải là một vị Bồ-tát nên không lý giải được vấn đề; vì thế ông chẳng hề làm ra vẻ thông thái, mà đành thú nhận sự bất tài của mình qua vần kệ sau:

  1. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai
    Ngoài Vi-dhu ấy đủ thiên tài,
    Nói điều kỳ diệu là Chân thiện,
    Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.

Nhà vua nghe lời này, liền phán:

– Vậy Tôn giả hãy đi ngay.

Và vua ban một tặng vật để vị tế sư đem theo và trong niềm mong mỏi ông lên đường, ngài ngâm vần kệ:

  1. Hiền hữu, đi ngay lấy phiến vàng
    Ðến Vi-dhu ấy, trẫm nhờ mang
    Tặng phần xứng trí nhân ưu tú
    Dạy trẫm điều Chân thiện tỏ tường.

Nói xong ngài cho ông một phiến vàng đáng giá một trăm ngàn đồng tiền dùng để viết lời giải đáp vấn đề lên trên đó, một xe ngựa để đi đường, một đạo binh hộ tống, một tặng vật và bảo ông đi ngay.

Khởi hành từ thành Indapatta, ông không đi thẳng Ba-la-nại, trước tiên đến thăm nhiều nơi chốn các bậc hiền nhân cư ngụ, vẫn không thấy ai có thể giải đáp vấn đề được, ông đi dần đến Ba-la-nại. Trong khi nghỉ tại đó, cùng vài người tùy tùng đến nhà Vidhura vào giờ ăn sáng, sau khi nhờ thông báo việc đến yết kiến, ông được mời vào và thấy tế sư Vidhura đang dùng điểm tâm tại nhà riêng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ bảy để giải thích sự việc này:

  1. Bhà-rad vội vã tiến lên đàng
    Ðến gặp Vi-dhu, thấy bạn vàng
    Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự
    Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.

Lúc bấy giờ Vidhura là bạn thiếu thời của Sucìrata, đã học chung tại nhà một vị giáo sư, nên sau khi cùng ăn điểm tâm với nhau, tế sư Sucìrata an tọa, và được tế sư Vidhura hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì?

Tế sư Sucìrata nêu rõ lý do đến đây và ngâm vần kệ thứ tám:

  1. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền hữu, Vi-dhu, cho đệ biết
    Thiện lương, Chân chánh phải là đâu.

Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn này đang đeo đuổi công việc sưu tập các dòng tư tưởng của một số người, việc ấy cứ chồng chất lên cao như thể nước lụt sông Hằng dâng tràn, cho nên chẳng có thì giờ giải đáp vấn đề này được nữa. Vì thế, ông ngâm vần kệ thứ chín nêu rõ trường hợp mình:

  1. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao
    Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,
    Ta không thể nói đâu là lẽ
    Chân Thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.

Nói vậy xong, ông lại thêm:

– Ta có một con trai rất thông minh, cháu ấy còn mẫn tuệ hơn ta nhiều. Cháu sẽ giải thích rõ cho hiền hữu. Vậy hãy đến gặp tiểu điệt.

Và ông ngâm vần kệ thứ mười:

  1. Hiện giờ đệ có một con trai
    Tên gọi Bhà-dra ở giữa đời,
    Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói
    Thiện lương, Chân lý rõ cho ngài.

Nghe điều này, tế sư Sucìrata liền rời nhà vị tế sư Vidhura, đến tư thất của Bhadrakàra, và thấy chàng đang ngồi ăn điểm tâm giữa đám thân nhân của chàng.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ thứ mười một làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Bha-dra gấp tại gia đường,
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.

Khi đến nơi, vị tế sư được chàng thanh niên Bhadrakàra tiếp đãi nồng hậu, mời lên tọa sàng cùng nhiều tặng vật. Vừa khi an tọa, và được hỏi nguyên cớ đến thăm, ông ngâm vần kệ thứ mười hai:

  1. Ðến vì thánh chỉ Câu-lâu
    Dòng họ Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt Bhà-dra, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Lúc ấy Bhadrakàra đáp lại:

– Thưa Tôn giả, ngay bây giờ, tiểu điệt đang có dự mưu dan díu với vợ một người khác. Cho nên trí óc của tiểu điệt không được thư thái để giải đáp vấn đề. Song em trai cháu tên là Sanjaya còn thông thái hơn cháu nhiều. Xin Tôn giả đi hỏi chàng, chàng sẽ giải đáp vấn đề của Tôn giả.

Chàng ngâm vần kệ để bảo ông đến đó:

  1. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,
    Và đang theo đuổi tắc kè con,
    Làm sao có thể nào thông hiểu
    Ðâu lẽ Thiện lương với Thật chơn?
  2. Song có em trai, ngài phải biết,
    San-ja tên gọi, hãy lên đường
    Kiếm chàng cho được, chàng tuyên thuyết
    Chân Thiện ngài nghe thật tỏ tường.

Ông liền đi đến nhà Sanjaya ngay và được chàng tiếp niềm nở, khi được hỏi lý do đến đấy, ông nói rõ ra.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad phải vội vàng
    Ðến San-jay gấp tại gia đường
    Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
    An tọa thong dong được thấy chàng.
  2. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
    Hiền điệt San-jay, cho chú biết
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

Nhưng Sanjaya cũng đang bận bày mưu tính kế, chàng liền thưa với ông:

– Thưa Tôn giả, tiểu điệt đang theo đuổi vợ người khác, và lại sắp đi xuống sông Hằng để qua sông. Sáng tối trong lúc tiểu điệt qua sông thường phải gặp nanh vuốt tử thần, cho nên tâm trí tiểu điệt đang rối ren, tiểu điệt không thể giải đáp vấn đề của Tôn giả được, song em trai tiểu điệt là Sambhava, mới lên bảy tuổi đã thông minh tài trí hơn tiểu điệt gấp cả trăm ngàn lần đấy. Em cháu sẽ nói chuyện với Tôn giả, xin hãy đi tìm để hỏi em cháu ngay.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để giải thích sự việc:

  1. Tử thần há miệng rộng đầy chông
    Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông
    Làm thế nào con thưa với chú
    Ðâu là Chân lý với Hiền lương?
  2. Song có em thơ, chú biết chăng,
    Sam-bha tên gọi, hãy lên đường,
    Tìm em, thưa chú, em nêu rõ
    Chân lý, Thiện lương thật tỏ tường!

Nghe vậy, tế sư Sucirata nghĩ thầm: “Vấn đề này ắt là điều kỳ bí nhất trên đời. Ta chắc không ai đủ sức giải đáp cả”.

Nghĩ vậy ông ngâm hai vần kệ:

19 – 20. Việc lạ lùng này phật ý ta,
Chẳng hai con lớn, chẳng ông cha,
Biết phương giải đáp điều mầu nhiệm
Vậy nếu như chàng cũng chịu thua,
Thì phải chăng đây là cậu bé
Biết gì về lý Thiện Chân ư!

Nghe vậy, Sanjaya đáp:

– Thưa Tôn giả, xn ngài đừng tưởng Sambhava chỉ là đứa trẻ thơ dại. Nếu chẳng ai giải đáp được vấn đề của Tôn giả, thì cứ đi hỏi em cháu.

Rồi chàng ngâm mười hai vần kệ nêu lên những đức tính của cậu bé này qua các ví dụ chứng minh trường hợp trên:

  1. Xin ngài đi hỏi Sam-bha,
    Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,
    Em đầy thông thái tài ba
    Nói ngay ngài biết đâu là Thiện Chân.
  2. Khác nào ánh nguyệt trong ngần
    Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,
    Ánh sao le lói mờ soi
    Chim dần trong ánh rạng ngời Hằng nga,
  3. Cũng như chú bé Sam-bha
    Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, biết tỏ tường,
    Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.
  4. Em đầy thông thái tài ba
    Nói rành Chân Thiện đâu là lẽ ngay.
    Tháng tư quyến rủ đắm say,
    Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.
  5. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,
    Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,
    Bé Sam-bha cũng thế này,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.
  6. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn
    Rừng cây bao phủ, có thần điểm trang
    Tỏa ra ánh sáng huy hoàng,
    Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền,
  7. Dành cho vô số thần tiên
    Tìm nơi ẩn náu bình yên chốn này.
    Bé Sam-bha cũng như vầy,
    Vượt xa tuổi trẻ, trí đầy khôn ngoan.
  8. Khác nào ngọn lửa huy hoàng
    Cháy tràn lan khắp đồng hoang tung hoành,
    Với cây cột lửa cuộn nhanh,
    Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.
  9. Ðể trơ một lối đen ngòm,
    Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt qua.
    Cũng vầy chú bé Sam-bha,
    Trí tài kiệt xuất vượt đà ấu niên,
  10. Khác nào một ngọn lửa thiêng
    Ðốt bằng bỏ sống trong đêm tối trời,
    Gặp cây gỗ quý nhất đời,
    Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.
  11. Cũng vầy chú bé Sam-bha
    Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông hiểu, nói tận tường Thiện Chơn.
  12. Trâu nhờ sức lực tráng cường
    Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,
    Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,
    Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.
  13. Sam-bha cũng vậy, mầm non,
    Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,
    Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
    Em thông thái, nó tận tường Thiện Chân.

Trong khi Sanjaya ca ngợi Sambhava như vậy, tế sư Sucìrata nghĩ thầm: “Ta sẽ đặt vấn đề với cậu bé này là biết ngay”.

Ngài hỏi:

– Thế tiểu hiền điệt ở đâu rồi?

Chàng liền mở cửa sổ giơ tay chỉ và nói:

– Ngài nhìn cậu bé đằng kia, da óng như vàng ròng, đang chơi cùng các trẻ khác bên đường trước cửa, chính đó là tiểu đệ của cháu. Xin cứ đến hỏi, tiểu hiền đệ sẽ giải đáp vấn đề của ngài với mọi lý lẽ huyền diệu của một vị Phật.

Sucìrata nghe thế, liền bước xuống khỏi dinh, đến gần cậu bé vừa đúng lúc cậu bé đang đứng, áo quần xốc xếch vắt qua vai, hai tay đang bốc đất.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ giải thích sự việc này:

  1. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
    Ðến Sam-bha gấp tại gia đường
    Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó
    Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.

Bậc Ðại sĩ vừa khi thấy vị Bà-la-môn kia đến đứng trước ngài, liền hỏi:

– Hiền hữu đến đây có việc gì chăng?

Vị tế sư đáp:

– Này tiểu hiền điệt, ta đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề mà không tìm ra người nào đủ tài trí giải đáp vấn đề ta đặt ra, nên nay ta đến đây tìm cháu.

Cậu bé nghĩ thầm: “Họ bảo đây là vấn đề khắp cả cõi Diêm-phù-đề chưa giải đáp được, nên vị này đến tìm ta. Còn ta đã am hiểu thông thạo rồi”.

Lúc ấy cậu thấy hổ thẹn, liền vứt cục đất đang cầm trong tay, sửa sang áo quần lại đàng hoàng và bảo:

– Này Tôn giả Bà-la-môn, cứ hỏi đi, ta sẽ giải đáp cho ngài với mức tinh thông lưu loát của một vị Phật.

Rồi với trí tuệ Tối thắng, ngài mời vị kia lựa chọn đề tài để hỏi. Vị Bà-la-môn liền hỏi vấn đề qua các câu kệ:

  1. Ðến vi thánh chỉ chúa Câu-lâu,
    Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
    Hiền điệt Sam-bha, cho chú biết,
    Thiện lương, Chân lý phải là đâu?

Vấn đề được hỏi kia quá rõ ràng đối với Sambhava như thể vầng trăng tròn giữa bầu trời cao. Ngài bảo:

– Này hãy nghe lời ta.

Và ngài giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý qua các vần kệ:

  1. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,
    Ðúng như bậc trí phải trình bày,
    Vua cần biết rõ điều Chân Thiện,
    Song việc vua làm, ai có hay?

Trong khi ngài đứng giữa đường phố thuyết giảng Chân lý với giọng ngọt như mật, âm thanh vang dội khắp thành Ba-la-nại, mỗi phía vang đến mười hai dặm đường. Nhà vua cùng các phó vương và nhiều vua khác tụ tập lại, bậc Ðại sĩ liền đứng giữa đám đông ấy, tuyên thuyết Chân lý. Sau khi đã hứa giải đáp vấn đề qua vần kệ này, giờ đây ngài nêu lời giải đáp vấn đề Phụng sự Chân lý:

  1. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:
    “Ngày nay không hẳn giống ngày mai,
    Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt
    Nắm lấy thời cơ kịp đến tay”.
  2. Ta ước mong hiền hữu tế sư
    Gợi cho vua biết cách suy tư,
    Nhờ đây tâm trí ngài an lạc:
    Vua phải tránh xa mọi oán thù,
    Cũng chớ đi theo đường ác độc
    Như là người độn trí mê mờ.
  3. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,
    Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,
    Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,
    Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.
  4. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân
    Những điều này, giống nguyệt tròn dần,
    Như vua danh tiếng tăng lên mãi,
    Làm ánh sáng soi đám bạn thân,
    Yêu mến họ hàng, khi tận mạng
    Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.

Như vậy chẳng khác nào đem vầng trăng soi rọi khắp bầu trời, bậc Ðại sĩ giải đáp vấn đề của vị Bà-la-môn này với mọi vẻ tinh thông của một bậc Giác Ngộ. Dân chúng reo hò vỗ tay vang dậy. Hàng ngàn tiếng reo tán thưởng cùng vô số khăn vẫy lên không và tiếng búng tay lách tách. Họ thả luôn cả đồ trang sức trên tay. Vua Ba-la-nại hoan hỷ tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ ngài. Còn vị tế sư Sucìrata, sau khi tặng thưởng ngài một ngàn cân vàng, liền viết câu giải đáp vấn đề trên bằng son đỏ vào phiến vàng ấy và khi đến kinh thành Indapatta, ông tâu trình vua về câu giải đáp Phụng sự Chân lý như trên.

Phần vua nhờ kiên tâm hành trì các pháp chân chánh, về sau được lên thiên giới.

*

Khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngay từ xa xưa, Như Lai đã dùng đại trí để giải đáp mọi vấn đề.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ Ànanda (A-nan) là vua Dhananjaya, Anuruddha (A-na-luật-đà) là Sucìrata, Kassapa (Ca-diếp) là Vidhura, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Bhadrakàra, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là thiếu sinh Sanjaya, và Trí giả Sambhava chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện khỉ chúa (Tiền thân Mahàkapi)

Tương truyền đại đế xứ Kà-si..,

Câu chuyện này được bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm, về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) ném đá vào Ngài.

Vì vậy khi Tỷ-kheo quở trách Ðề-bà-đạt-đa về việc xúi giục các thợ săn bắn cung vào đức Phật và sau đó lại ném đá vào Ngài, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã ném đá vào Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa, khi vua Bradhmadatta trị vì xứ Ba-la-nại có một nông dân dòng họ Bà-la-môn trong một làng Kàsi, sau khi cày ruộng xong, thả trâu ra và bắt đầu cuốc đất. Ðàn trâu trong khi gặm lá ở bụi cây dần dần tẩu thoát vào trong rừng. Người ấy nhận thấy trời tối liền đặt cuốc xuống đi tìmđám trâu nhưng chẳng thấy đâu, gã quá buồn khổ đi lang thang vào trong rừng tìm chúng, dần dần đến tận vùng Tuyết Sơn. Vì lạc mất phương hướng, gã lang thang bảy ngày nhịn đói, nhưng khi nhìn thấy cây Tinduka, gã trèo lên hái trái ăn. Rồi tuột khỏi cây này gã rơi xuống một vực thẳm như địa ngục sâu 60 cubit (1 cubit = 45cm) và ở đó cả mười ngày.

Thời bấy giờ Bồ-tát sinh làm thân Khỉ, đang lúc ăn trái rừng, ngài thấy gã kia, liền dùng một hònđá lôi gã ra khỏi vực. Trong lúc Khỉ đang ngủ, gã kia đập đầu Khỉ bằng một cục đá, bậc Ðại Sĩ biết được việc này, liền vùng dậy nhảy lên cành cây, đứng lại và kêu to:

– Này tôn ông, ngài đang ngồi trên đất bằng, ta sẽ chỉ đường cho ngài từ trên ngọn cây này rồi ta sẽ đi ngay.

Thế là ngài cứu gã kia ra khỏi rừng, chỉ đúng đường cho gã rồi biến mất trong rừng núi ấy. Còn gã kia vì đã gây tội ác với bậc Ðại sĩ, nên hóa thành tên hủi, chẳng khác nào ngạ quỷ đội lốt người trên trần thế. Trong bảy năm liền, gã đau đớn chất chồng, lang thang hết nơi này sang nơi khác, gã đến ngự viên Migàcira (Lộc Uyển) tại thành Ba-la-nại, trải ngọn lá chuối trên một góc, gã nằm xuống, lòng đau khổ điên cuồng.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại đến ngự viên và trong khi dạo chơi, tìm thấy người kia, liền hỏi:

– Ngươi là ai và ngươi đã làm gì đến nỗi phải khổ như vậy?

Gã trình vua toàn thể câu chuyện với đầy đủ chi tiết.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Tương truyền đại đế xứ Kà-si,
    Một thuở Ba-la-nại trị vì,
    Cùng với hiền thần trên đại lộ
    Vào đến Vườn Nai một bữa kia.
  2. Ðằng kia vua thấy gã La-môn,
    Một bộ xương khô bước chập chờn,
    Da trắng vì mang dòng máu hủi,
    Xù xì xương xẩu tựa cây mun.
  3. Ngạc nhiên trước cảnh tượng đau thương
    Của kẻ không may, nặng khổ buồn:
    “Thật tội nghiệp ngươi”, ngài phán hỏi,
    Tên gì, ác quỷ phận đành mang?
  4. Giống như tuyết trắng cả tay chân,
    Ta chắc đầu ngươi lại trắng hơn,
    Thân thể ngươi tràn đầy vết hủi,
    Bệnh kia ghi dấu ấn riêng phần.
  5. Lưng ngươi như suốt chỉ giăng hàng,
    Lồi lõm, dài ngoằn lại uốn quăn,
    Xương khớp đen điu như mẩu gỗ,
    Chẳng hề ai thấy kẻ ngang bằng!
  6. Ngươi từ đâu đến, kẻ lang thang,
    Khốn khổ bơ vơ, da bọc xương,
    Ðầu đội nắng trời nung bức lửa,
    Chịu bao đói khát quá đau thương?
  7. Hình hài tàn phá thật kinh hoàng,
    Chẳng xứng nhìn lên ánh nhật quang,
    Ngay chính mẹ ngươi chắc cũng chẳng
    Còn mong nhìn trẻ quá tồi tàn!
  8. Ác nghiệp gì xưa ngươi đã gây
    Hay là ngộ sát kẻ nào đây,
    Tội gì người phạm, ta mong biết,
    Xui khiến ngươi mang nỗi khổ này?

Gà Ba-la-môn đáp lại:

  1. Thần xin thưa thật với Tôn quân
    Hành động đúng như một thiện nhân,
    Vì kẻ không bao giờ dối trá,
    Người hiền khen ngợi giữa phàm trần.
  2. Xưa kia thần đến một rừng hoang,
    Tìm kiếm đàn trâu tối lạc đàng,
    Băng mãi lối mòn rừng rậm rạp,
    Nơi loài voi ở, bước lang thang.
  3. Lạc trong rừng rậm quá hoang sơ,
    Chịu đói khát đau khổ xót xa,
    Suốt bảy ngày ròng thần lẩn quẩn,
    Chốn loài hổ dữ mớm con thơ.
  4. Trái độc tối kinh, cũng cứ thèm
    Ô kìa, đôi mắt bỗng bừng lên:
    Cây xinh lắt lẻo ngang bờ vực,
    Lơ lửng trái thơm trĩu nhánh mềm.
  5. Những trái rơi theo gió lạnh rung
    Thần nhai ngấu nghiến nuốt thơm lừng,
    Vẫn còn khao khát, thần leo vội:
    “Cách ấy no nê được vẹn toàn”.
  6. Chưa từng ăn quả chín ngon sao!
    Thần vội giơ tay hái thật nhiều,
    Cành lá, dựa thân vào gãy đứt
    Như là chặt bởi búa ông tiều.
  7. Cành gãy làm cho ngã lộn thân,
    Không gì chặn lại, rớt nhanh dần
    Trên bờ vực thẳm, đầy tường đá,
    Không thoát khỏi hang vực thẳm cùng.
  8. Nước sâu nằm dưới bờ vực kia,
    Cứu mạng không tan nát thảm thê,
    Rồi bất hạnh thay, thần tuyệt vọng,
    Mười đêm nằm đợi thật dài ghê!
  9. Cuối cùng một chú Khỉ dài đuôi
    Trú ẩn trong hang đá, đến nơi,
    Nhảy nhót cành này sang bụi nọ,
    Hái ăn trái chín thật xinh tươi.
  10. Chợt thấy thần vàng vọt héo khô,
    Ðộng lòng trắc ẩn, Khỉ kêu to:
    “Khốn thay! Ta thấy ai nằm đó
    Tuyệt vọng đau thương ngập tận bờ
    Như vậy, ví như người hoặc quỷ,
    Ông là ai đó, nói nguyên do”.
  11. Thần đầy cung kính, vội thưa ngay:
    “Một kẻ khốn cùng chính lão đây,
    Song phước đức dành cho Khỉ hết,
    Nếu tìm được cách cứu thân này”.
  12. Chúa Khỉ chuyển cành ở núi cao,
    Mang hòn đá nặng lực anh hào,
    Ấy nhờ tu luyện tròn công hạnh,
    Mục đích tỏ bày trọng đại sao:
  13. “Tôn ông, trèo đến chỗ lưng này,
    Quanh cổ ta, ghì chặt cánh tay,
    Tức tốc ta đem ông thoát khỏi
    Vách tường đá, chính cảnh tù đày”.
  14. Hoan hỷ, thần ghi nhớ rõ ràng
    Lời khuyên của chúa Khỉ vinh quang,
    Trèo lên lưng nọ, đôi tay bám,
    Quanh cổ trí nhân thật vững vàng.
  15. Chúa Khí lúc này thật mạnh thay,
    Kiên cường can đảm đến như vầy
    Dẫu rằng mệt lả vì hao sức,
    Chốc lát đưa lên vách đá dày.
  16. Kéo thần xong, cất tiếng anh hùng:
    “Ta mệt nhoài: xin đứng hộ phòng,
    Bên cạnh mình ta, tôn giả hỡi,
    Trong khi ta ngủ giấc say nồng.
  17. Các thứ như beo, gấu, hổ, sư,
    Nếu nhìn ta, thấy quá thờ ơ,
    Chúng liền giết hại ta ngay đấy,
    Tôn giả canh phòng, chớ phải lo”.
  18. Trong lúc thần đang đứng hộ phòng
    Hầu vương đánh một giấc an thân,
    Một tư tưởng xấu xa nhen nhúm
    Tiềm ẩn lan dần ở nội tâm:
  19. “Khỉ, vượn, hươu, nai thật ngọt ngon
    Vậy sao ta chẳng giết hầu vương
    Ðỡ cơn đói khát và con thịt
    Cung cấp cho ta món tuyệt trần?
  20. Khi no dạ, chẳng muốn chần chờ,
    Song kiếm thật đầy thực phẩm khô,
    Tích trữ cho nhiều ngày vất vả,
    Từ rừng ta sẽ kiếm đường ra”.
  21. Cầm viên đá suýt đánh tan tành
    Chiếc sọ kia, song bởi phận mình
    Tay vụng về đưa lên loạng quạng,
    Vung ra yếu ớt chẳng nên hình.
  22. Chúa Khỉ nhanh chân nhảy ngọn cây
    Toàn thân bê bết máu tuôn đầy,
    Từ xa trách móc nhìn thần mãi
    Với cặp mắt tuôn lệ chảy dài:
  23. “Cầu trời ban phước lộc tôn ông,
    Ðừng làm như vậy, chỉ cầu mong
    Kẻo sau số phận ngài, ta chắc
    Gặp phải người hành động bất nhân.
  24. Than ôi nhục nhã đến như vầy!
    Sao trả ơn ta cách thế này?
    Vì đã cứu ông ra thoát khỏi
    Vực kia sâu thẳm hãi kinh đầy!
    |
    33-34. Cứu tử, chơi trò phản bội ta
    Âm mưu việc ác với tâm ma,
    Coi chừng, kẻ ác, e đày đọa,
    Khốc liệt xuất từ ác nghiệp kia
    Ðem họa tử vong cho chủ nó,
    Khác nào trái giết gốc tre già.
  25. Ta chẳng còn tin tưởng ở ngươi,
    Vì ngươi làm ác với ta rồi,
    Hãy đi tới trước kia cho khéo,
    Còn để ta nhìn thấy bóng thôi.
  26. Thoát bầy dã thú đói tìm mồi,
    Ngươi trở về nơi sống đời
    Thẳng tắp con đường dài trước mặt,
    Ði theo như ý muốn nhà ngươi”.
  27. Ðến đây, dòng lệ Khỉ lau khô,
    Vội vã nhanh chân nhảy xuống hồ
    Rửa sạch chiếc đầu bê bết máu
    Ôi, vì thần, đã chảy tuôn ra!
  28. Từ đấy, đầy đau khổ đoạn trường,
    Ðốt thiêu, vò xé bởi Hầu vương,
    Lê bước thân tàn, thần thất thểu,
    Tìm nơi giải khát cho mình luôn.
  29. Nhưng khi thần đến vũng hồ kia,
    Mặt nước đều loang lổ máu me,
    Một dòng đỏ sẫm dần dần hiện
    Thành một đám như lửa lập lòe.
  30. Mỗi giọt nước kia dính đến thân,
    Hóa thành mụt nhọt lớn lên dần,
    Như Vil-va trái khô rồi nứt
    Giống hệt sắc da lẫn cỡ tầm.
  31. Máu mủ tràn ra thật đáng nhờm,
    Nơi nào thần muốn được an thân,
    Dù là thành thị hay thôn dã,
    Dân chúng chạy bay hỗn loạn luôn.
  32. Lảng tránh vì mùi quá thối tha,
    Trong khi gậy, đá cứ tung ra:
    “Này tên khốn nạn! Ðừng đi đến
    Gần chúng ta!” Toàn thể hét la.
  33. Như vậy khổ đau thật đáng thương,
    Thần mang theo suốt bảy năm trường,
    Tùy theo hạnh nghiệp mình gây tạo,
    Mỗi người đi đến một con đường.
  34. Thần ước mong chư vị vạn an,
    Mọi người, thần gặp gỡ trên đàng,
    Xin đừng phản bạn, ôi hèn hạ,
    Kẻ phạm tội mưu chống bạn vàng!
  35. Tất cả những ai với bạn mình
    Tỏ ra là kẻ thiếu chân thành,
    Như bầy hủi phải ăn năn tội,
    Thân hoại, vào trong ngục tái sinh.

Và trong lúc kẻ kia đang tâu trình vua, ngay chính thời điểm ấy, mặt đất há miệng rộng ra làm gã mất dạng và được tái sinh vào Ðịa ngục. Khi gã bị trái đất nuốt xong, vua ra khỏi ngự viên và trở về thành.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã némđá vào Ta.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, kẻ phản bạn kia là Ðề-bà-đạt-đa và Ta chính là Khỉ chúa.

-ooOoo-

  1. Tiền thân Dakarakkhasa

Chuyện này sẽ được trình bày trong Tiền thân số 546, Mahà Ummagga (Ðường hầm lớn), tập VII.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Pandara (Tiền thân Pandara)

Người nào chuyện bí mật đem phơi..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) nói dối và quả đất đã há miệng nuốt sống ông như thế nào.

Thời đó là lúc Ðề-bà-đạt-đa bị chúng Tỷ-kheo quở trách, bậc Ðạo sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã nói dối và đã bị quả đất nuốt chửng.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có năm trăm thương nhân lên tàu ra khơi. Vào ngày thứ bảy, khi họ đã khuất dạng khỏi đất liền, họ bị đắm tàu giữa biển và tất cả làm mồi cho cá chỉ trừ một người. Người này nhờ gió đẩy đến bờ Karambiya, lên bờ, mình trần trụi, vô cùng khốn khổ, gã lang thang khắp nơi khất thực. Dân chúng nghĩ: “Ðây là bậc tu hành khổ hạnh thiểu dục tri túc”.

Và họ tiếp đãi gã rất ân cần. Song gã bảo:

– Ta đã có đủ sống rồi.

Và khi họ cúng dường y trong y ngoài, gã đều không nhận thứ gì cả. Họ bảo nhau:

– Chẳng có bậc khổ hạnh nào vượt quá vị này về phương diện thiểu dục tri túc.

Và lại càng hân hoan vô cùng vì gã, họ xây am ẩn sĩ cho gã trú ẩn và gã lấy danh hiệu Karambiya đạo sĩ.

Trong khi gã ở đó, gã được nhiều lợi dưỡng vinh quang, cả Long vương lẫn Kim sí Ðiểu vương đều đến bày tỏ lòng tôn kính gã, vị Long vương này có danh hiệu là Pandara. Một ngày kia Kim sí Ðiểu vương đến gặp đạo sĩ, và sau khi đảnh lễ vị này, ngồi xuống một bên và bảo:

– Thưa Tôn giả, dân chúng của ta, khi tấn công loài Rồng rắn, thường hay bị chết đuối. Ta không biết cách nào bắt Rồng rắn cho đúng. Nghe nói có điều bí ẩn chi đây. Ngài có thể dỗ dành chúng nói ra điều bí ẩn ấy chăng?

– Ðược rồi – đạo sĩ nói.

Khi Ðiểu vương từ giã ra về, vừa đúng lúc Long Vương đến tôn kính đảnh lễ xong ngồi xuống, gã hỏi:

– Này Long vương, loài Kim sí Ðiểu nói rằng khi bắt loài Rồng, chúng bị giết chết rất nhiều. Thế lúc đánh bắt Rồng rắn, làm sao cho chúng được an toàn?

Long vương đáp:

– Thưa Tôn giả, đây là điều bí mật của loài ta, nếu ta nói ra, ta sẽ gây tai họa tàn sát cả chủng tộc của ta.

– Sao thế, ngài nghĩ rằng ta nói với kẻ nào chăng? Ta chẳng nói với ai đâu, ta chỉ hỏi cho thỏa thích hiếu kỳ thôi. Ngài cứ tin ta và nói cho ta biết, đừng e sợ gì cả.

Long vương hứa sẽ nói và từ giã.

Ngày hôm sau ẩn sĩ lại gạn hỏi, Long vương cũng không nói ra. Song vào ngày thứ ba, lúc Long vương đến và ngồi xuống, ẩn sĩ bảo ngay:

– Hôm nay là ngày thứ ba ta hỏi ngài rồi. Tại sao ngài không nói?

– Thưa Tôn giả, ta sợ ngài kể lại cho kẻ khác.

– Ta sẽ không hé môi với ai cả, nói đi, đừng sợ gì.

Thế là Long vương bảo ẩn sĩ hứa sẽ không kể lại với ai rồi nói:

– Thưa Tôn giả, loài Rồng rắn chúng ta nuốt đá lớn cho nặng mình và nằm sát xuống, rồi loài Kim sí Ðiểu đến, chúng ta há miệng ra, nhe răng nhào đến chúng. Chúng chụp lấy đầu bọn ta, và trong khi chúng cố nhấc lên mà chúng ta lại nặng và nằm sát đất, nước tràn lên chúng khiến chúng chết chìm giữa biển. Một số Kim sí điểu chết như vậy. Trong lúc bắt bọn ta, tại sao chúng lại chụp lấy đầu? Nếu bọn ngu xuẩn kia chụp lấy đuôi chúng ta và dốc ngược đầu xuống, chúng sẽ bắt bọn ta phải nhả ra những hòn đá đã nuốt ấy, thế là làm cho bọn ta nhẹ đi và tha bọn ta về tổ chúng.

Long vương đã tiết lộ bí mật như vậy với ác nhân này.

Sau đó khi Long vương ra về, Ðiểu vương lại đến đảnh lễ đạo sĩ Karambiya xong, liền hỏi:

– Thưa Tôn giả, thế Tôn giả đã biết điều bí mật của Long vương chưa?

– Thưa ngài, đã.

Và gã kể mọi điều vừa được kể trên cho gã.

Nghe xong, Ðiểu vương bảo:

– Long vương đã sai lầm nặng nề, đáng lẽ không nên nói cho ai biết cách tàn sát chủng tộc mình như vậy.

Thế là vừa nổi gió lên, Ðiểu vương liền chụp lấy đuôi Long vương Pandara và dốc ngược đầu xuống, làm chúa Rồng nay phải nhả những hòn đá đã nuốt vào cổ, rồi Ðiểu vương mang Long vương bay lên không. Rồng Pandara, trong lúc bị treo ngược đầu lên không như vậy, liền than khóc thê thảm:

– Ta tự gây khổ cho ta rồi!

Và chúa Rồng ngâm các vần kệ:

  1. Người nào chuyện bí mật đem phơi
    Bất cẩn, lòng không muốn giữ lời,
    Kẻ ngốc bị kinh hoàng trấn áp,
    Như ta, Rồng chúa ngã nhào thôi!
  2. Người nào ngu xuẩn lộ ra ngoài
    Tư tưởng cần che dấu mặt trời,
    Kinh hoảng ngập tràn vì lẻo mép,
    Như ta, Rồng chúa gặp chim mồi!
  3. Không nên để bạn hữu tham gia
    Ý tưởng thâm trầm nhất của ta,
    Bạn tốt có khi đầy xuẩn ngốc,
    Kẻ khôn lừa dối, phải phòng xa!
  4. Tin tưởng gã, ôi! Có phải chăng?
    Chuyên trì khổ hạnh bậc hiền nhân?
    Phơi bày bí mật, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây nỗi đoạn trường!
  5. Chuyện riêng tư, gã khốn len vào,
    Bí mật ta không giữ được nào,
    Ta sợ mối nguy từ gã đến,
    Giờ ta khóc chính nỗi thương đau.
  6. Tưởng bạn trung thành tận tủy xương
    Sinh lòng kính sợ, nặng tình thương
    Ân tình tiết lộ cho người khác
    Ngã gục, người ngu chẳng thể vươn!
  7. Ai nói lên cùng đám ác nhân
    Ðiều thầm kín phải giữ trong tâm
    Ðược xem rắn độc nơi trần giới,
    “Kẻ ấy, tránh xa!” Chúng thét rần!
  8. Cẩm y, mỹ nữ, gỗ chiên-đàn
    Hương liệu, vòng hoa, thực phẩm ngon,
    Mọi dục ác kia, ta tránh cả,
    Ðiểu vương, nếu đến giúp Long vương!

Rồng chúa Pandara đã khóc than như vậy qua tám vần kệ trong khi bị dốc ngược trên không. Ðiểu vương nghe tiếng than khóc liền khiển trách Long vương và bảo:

– Này Long vương, tại sao lại than khóc sau khi đã tiết lộ bí mật cho đạo sĩ kia?

Và Ðiểu vương ngâm vần kệ:

  1. Trong chúng ta, ba kẻ sống đây,
    Nói tên ai kẻ đáng trách này?
    Chẳng sư, chẳng điểu, nhưng ngài ngốc,
    Mang họa Long vương nhục nhã đầy!

Nghe vậy, Rồng Pandara liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ðạo sĩ, theo ta, một bạn vàng,
    Chuyên trì khổ hạnh, bậc hiền nhân,
    Ẩn tình ta lộ, ta lầm lỗi,
    Ta khóc, giờ đây, chính khổ thân!

Kế đó Ðiểu vương lại ngâm bốn vần kệ khác nữa:

  1. Nhân sinh trần thế phải lìa đời,
    Thánh đạo cho con cháu phải soi,
    Bằng tự điều thân, chân chánh hạnh,
    Con người thành đạt đích cao vời.
  2. Chẳng ai thân thiết vượt song thân,
    Không kẻ thứ ba ái luyến bằng,
    Song ẩn tình, người đừng tỏ lộ,
    E rằng phản bội thật không tưởng!
  3. Mẹ cha, quyến thuộc khắp xa gần,
    Bạn hữu đồng minh, dẫu thiết thân!
    Ẩn ý ngươi đừng nên tỏ lộ,
    Về sau phản bội, phải ăn năn.
  4. Vợ hiền xinh đẹp, tuổi còn xuân,
    Chia xẻ bầy con, đám bạn thân,
    Song chớ tỏ bày điều bí ẩn,
    E nàng phản bội, phải đề phòng.

Tiếp theo là các vần kệ sau:

  1. Ðừng ai đem chuyện kín phơi ra,
    Phải giữ như kho báu của nhà,
    Việc tiết lộ ra điều bí mật,
    Hiền nhân chẳng muốn ngợi khen mà.
  2. Bậc trí không nên lộ tấc lòng,
    Với cừu nhân hoặc với hồng quần,
    Những người nô lệ lòng tham dục,
    Bọn chúng tỏ ra lũ bốc đồng.
  3. Ai hé lộ ra một ẩn tình
    Cho người không có trí thông minh,
    Sợ lòng tin bị người làm phản,
    Phải chịu người kia khống chế mình.
  4. Những người biết được chuyện riêng tư
    Mà bạn chẳng nên để lộ ra,
    Sẽ khiến bất an tâm trí bạn,
    Vậy đừng tiết lộ chuyện riêng mà!
  5. Ban ngày chỉ có một mình ta,
    Cứ bạo gan nêu chuyện kín ra,
    Song giữa đêm khuya trời vắng vẻ,
    Ðừng liều lĩnh lộ chuyện riêng mà.
  6. Bởi vì chắc chắn ở bên lưng,
    Cỏ kẻ phản ta đứng sẵn sàng,
    Lời thoáng đưa đều nghe lọt cả:
    Vậy đừng tin chúng: đệ cầu mong!

Ðây là năm vần kệ sẽ xuất hiện trong vấn đề Năm vị Hiền nhân của Tiền thân Ummagga, số 546, tập VII.

Tiếp theo là các vần kệ này:

  1. Như cổ thành vây bọc tứ phương,
    Với hào, cọc sắt, đã coi thường
    Quân thù xâm nhập vào Tiên giới,
    Bí mật người khôn giữ kín luôn.
  2. Những người dù vội vã nhanh lời,
    Chuyện kín vẫn không hé hở môi,
    Mà quyết giữ mình luôn vững chắc,
    Thật lòng chân chánh, đấy là người
    Cừu nhân phải tránh, như đi trốn
    Lúc rắn độc đang đuổi chạy dài!

Khi Chân lý đã được Ðiểu vương tuyên thuyết như vậy, Long vương Pandara liền ngâm vần kệ:

  1. Lõa thể, cạo đầu, gã xuất gia,
    Lang thang khất thực khắp quê nhà,
    Ôi! Ðem bí mật khai cùng gã,
    Phúc đức tan tành, số phận ta!
  2. Giới hạnh nào, tu sĩ phải trì,
    Phát nguyền nào, tránh lỗi lầm chi?
    Làm sao thoát ác hành vây hãm,
    Ðể đạt thiên cung cuối hạn kỳ?

Ðiểu vương đáp:

  1. Bền lòng, kham nhẫn, tự điều thân,
    Vứt bỏ vọng ngôn, với hận sân,
    Tu sĩ đoạn trừ bao tội lỗi,
    Sau cùng đạt đến cảnh thiên cung.

Long vương Pandara nghe Ðiểu vương thuyết Pháp như vậy liền xin tha mạng và ngâm vần kệ này:

  1. Như trẻ sơ sinh, mẹ ngắm nhìn,
    Khắp người rung động, thú thần tiên,
    Ðiểu vương cũng vậy, xin ban bố,
    Từ ái đàn con, đấng mẹ hiền!

Sau đó Ðiểu vương tha mạng cho Long vương và ngâm vần kệ nữa:

  1. Chúa Rồng, ta thả bạn bây giờ
    Thoát chết, cho ngài được tự do
    Trong các bầy con này, chỉ có:
    Con nuôi, con ruột, học trò ta,
    Là ba trẻ hưởng nhiều sung sướng,
    Quả thật ngài là một giữa ba!

Nói vậy xong, Ðiểu vương hạ cánh từ trên không và đặt Long vương xuống mặt đất liền.

Bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói vậy xong, Chim chúa thả ngay
    Kẻ thù, đáp nhẹ địa cầu này:
    Nay ta giải phóng, mau đi kiếm
    An trú xa nơi hiểm họa đầy,
    Dù bạn lên bờ hay dưới nước,
    Ta nguyền phòng hộ kỹ từ rày.
  2. Như lương y có đủ tài năng,
    Con bệnh hiểm nghèo đã chữa xong,
    Như nước mát trong hồ giải khát
    Cho bao người được thỏa thuê lòng,
    Như nhà trú ẩn trời băng giá
    Ta, chốn bạn nhờ, lúc bại vong.

Ðiểu vương lại bảo:

– Xin hãy đi ngay.

Rồi Chim thần thả Long vương ra. Long vương liền biến mất vào cảnh giới của loài Rồng rắn.

Còn Ðiểu vương trở về nơi cư ngụ của loài Kim sí Ðiểu, tự nhủ:

– Long vương Pandara đã được ta tin tưởng nhờ lời thề nguyền nên được ta thả ra. Bây giờ ta phải thử thách xem tình cảm của vị này đối với ta ra sao.

Rồi đi đến cảnh giới Long vương, Chim thần này nổi cơn thần phong của loài Kim sí Ðiểu lên thật mạnh.

Thấy vậy, Long vương tưởng Kim sí Ðiểu vương đến bắt mình, liền hóa hình dài cả ngàn sải (1 sải: 1m 82) và nuốt cát sỏi cho nặng rồi nằm sâu xuống, vừa dấu đuôi dưới mình xong, vừa vội giương cao mồng lên như thể sẵn sàng cắn Ðiểu vương.

Thấy vậy, Ðiểu vương liền ngâm vần kệ:

  1. Kìa, Long vương trước đã làm lành,
    Nay bỗng dưng ngài há bộ nanh,
    Với địch thủ ngài trong thuở trước,
    Vì đâu ngài phách lạc hồn kinh?

Nghe lời này Long vương ngâm ba vần kệ:

  1. Phải luôn nghi ngại kẻ thù mình,
    Chớ quá tin ngay bạn chí tình,
    Lòng cả tin sinh niềm sợ hãi,
    Giết ngươi từ gốc đến đầu cành.
  2. Sao đặt lòng tin tưởng một người
    Trước kia ta đã cãi tranh rồi?
    Hãy lo phòng hộ mình cho kỹ,
    Yêu kẻ địch à? – Chẳng có ai!
  3. Hãy gây tin tưởng khắp nơi nơi,
    Song chớ tin vào bất cứ ai,
    Ðừng để người nghi ngờ chính bạn,
    Song tâm hướng đến mối nghi hoài;
    Người nào thực sự là người trí,
    Cần phải hết lòng gắng sức thôi,
    Bản tính mình không hề để lộ,
    Phơi bày ra trước mặt người đời!

Hai vị đã trò chuyện với nhau như vậy xong liền hòa giải với nhau và cùng nhau thân thiết đi đến am của ẩn sĩ khổ hạnh kia.

Bậc Ðạo sư ngâm vần kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Này thấy xứng đôi bạn thánh thần,
    Toát ra dáng điệu tịnh tham tâm,
    Như đôi tuấn mã cùng cương chạy,
    Ðến chốn nhàn cư của Thánh nhân.

Về vấn đề này, bậc Ðạo sư ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Long vương đi thẳng đến thầy tu,
    Rồng chúa báo ngay với kẻ thù:
    “Phải biết hôm nay ta thoát nạn,
    Không nhờ tình Thánh giả dành cho!”.

Tiếp theo, vị khổ hạnh liền ngâm vần kệ khác:

  1. Trịnh trọng ta thề trước Ðiểu vương,
    Với ngài, ta nặng trĩu tình thương,
    Hơn bao giờ cả, song rung cảm
    Vì mối tình thân với đại bàng,
    Ta đã sai lầm vì cố ý,
    Chớ không do bởi tính ngông cuồng!

Nghe vậy, Long vương liền ngâm ba vần kệ:

  1. Người thấy đời này lẫn kiếp sau
    Chẳng hề thương ghét nhọc lòng đâu,
    Tu hành đội lốt, ngài mong dấu
    Hành động phi nhân, ngược thánh bào.
  2. Nhuốm đầy ty tiện, dáng cao siêu,
    Khoác áo tu, lòng chẳng tự điều,
    Bản tính chứa tầm tư hạ liệt,
    Ngài chuyên tạo ác nghiệp bao nhiêu!

Rồi để khiển trách gã, vị này lại ngâm vần kệ nhiếc mắng:

  1. Chỉ điểm, dối lừa, muốn giết oan
    Bạn lành vô tội, vậy ta mong
    Nhờ đây Thề nguyện điều Chân thật:
    Bảy mảnh, đầu ngài phải vỡ tan.

Thế là ngay trước mắt Long vương, đầu kẻ tu khổ hạnh kia bị vỡ nát thành bảy mảnh và mặt đất nứt ra ngay ở nơi gã đang ngồi. Gã biến mất vào lòng đất và tái sinh vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Còn Long vương và Ðiểu vương đều trở về cảnh giới của riêng mình.

*

Bậc Ðạo sư làm sáng tỏ sự kiện vị ấy đã bị nuốt trửng vào lòng đất bằng vần kệ sau cùng:

  1. Vì thế ta nay nhắn nhủ rằng
    Chớ bao giờ phản bội thân bằng
    Còn gì tồi tệ hơn nhìn thấy
    Một thứ bạn bè giả dối chăng?
    Bị nuốt trôi vào lòng đất lạnh,
    Kẻ mồm độc ấy ngã nhào lăn,
    Và người khổ hạnh nay đành chết
    Vì chính lời kia của chúa Rồng

*

Ðến đây bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả xưa kia nữa, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) đã nói dối và bị nuốt trửng vào lòng đất.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, ẩn sĩ là Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), Long vương là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và Kim sí Ðiểu vương chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện Hoàng hậu Sambulà (Tiền thân Sambulà)

Run rẩy nép mình dáng hãi kinh..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc Ngài trú tại Kỳ Viên, về Hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi)

Phần khởi đầu được kể đầy đủ trong Tiền thân Kammàsapinda (số 415, tập IV). Lúc bấy giờ nhờ công đức cúng dường ba phần cháo dâng đức Như Lai, ngay hôm ấy bà được sắc phong địa vị chánh hậu, cai quản đám cung tần trung tín, bà đầy đủ năm vẻ nữ sắc yêu kiều, tài trí tột bực, lại là đệ tử của đức Phật, bà tỏ ra là một vợ hiền tận tụy. Lòng nhiệt tình của bà sáng chói tỏa khắp cả kinh thành.

Vì vậy một ngày kia, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn luận trong Chánh pháp đường việc hoàng hậu Mallikà là một hiền phụ trung kiên, tận tụy như thế nào. Bậc Ðạo sư, lúc đến đó, liền hỏi các Tỷ-kheo đang bàn luận đề tài gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngay xưa nữa, bà ấy đã là một vợ hiền tận tụy.

Nói vậy xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, Brahmadatta có một hoàng nam mệnh danh là Sotthisena, và lúc đến tuổi trưởng thành, chàng được phong làm phó vương. Chánh phi của chàng là Sambulà cực kỳ diễm lệ, dung sắc rực rỡ chói lọi như thể ánh đèn chiếu sáng trong chốn tối tăm.

Song dần dần chứng bệnh phong cùi xuất hiện trên mình phó vương Sotthisena và mọi lương y đành bó tay chữa trị. Khi các vết lở loét chảy mủ ra, thật hôi tanh khủng khiếp đến độ phó vương tuyệt vọng kêu lên:

– Ngai vàng có ích gì cho ta đâu? Thôi ta vào rừng sâu này chết một mình không cần bạn bè cho xong.

Khi đã cho trình vua cha, chàng rời hậu cung ra đi.

Mặc dù chàng cố sức ngăn cản, Sambulà vẫn không chịu trở về, mà bảo:

– Thiếp xin nguyện chăm sóc Chúa công trong rừng thẳm.

Rồi nàng cùng chàng ra đi, từ bỏ kinh thành. Khi vào rừng, chàng xây một lều cỏ để trú thân ở một nơi có bóng cây và nước suối, trái rừng đầy đủ. Còn vương phi săn sóc chàng ra sao?

Nàng dậy thật sớm, quét dọn lều sân mang nước đến cho chàng súc miệng. Khi chàng súc miệng xong, nàng nghiền nát nhiều loại cỏ thuốc thoa vào các vết lở loét của chàng rồi đưa trái cây ngon ngọt cho chàng ăn. Khi chàng đã súc miệng, rửa tay, nàng chào chàng và bảo:

– Xin Chúa công hãy chuyên tâm làm việc thiện.

Rồi nàng cầm cái thúng, cái xẻng, và cái móc đi vào rừng hái trái cây cho chàng. Khi chàng ăn hết, nàng đem nước thơm cho chàng uống rồi mới ăn trái cây phần mình.

Nàng lại sắp đặt một tọa sàng có khăn phủ lên, và trong lúc chàng nằm trên đó, nàng rửa chân cho chàng, thay áo quần, tắm gội đầu cho chàng xong, nàng đến nằm xuống cạnh tọa sàng. Nàng chăm sóc Chúa công của nàng như vậy đó.

Một ngày kia, trong lúc đem trái cây về nhà, nàng thấy một hang có con suối, nàng liền đặt thúng trên đầu xuống, đứng bên bờ hang, rồi bước xuống tắm, nàng xoa khắp người với thuốc nhuộm vàng rồi tắm rửa. Xong xuôi nàng trèo lên mặc áo quần bằng vỏ cây và đứng trên bờ suối. Cả khu rừng sáng rực lên vì dung sắc rực rỡ tỏa ra từ thân thể nàng. Lúc ấy có một con ác quỷ Dạ-xoa đi tìm mồi, thoạt trông thấy nàng, liền mê mẩn ngâm đôi vần kệ sau:

  1. Run rẩy nép mình dáng hãi kinh,
    Ai đây đang đứng cạnh hang ghềnh,
    Nói đi, thục nữ thân bồ liễu,
    Quyến thuộc là ai, với quý danh?
  2. Nương tử là ai, đẹp rỡ ràng,
    Ðâu là dòng giống của nhà nàng,
    Khiến nàng chiếu rực khu rừng sáng,
    Chốn lạc cư muôn loại thú hoang?
    Yêu quỷ là ta đầy kính cẩn
    Nghiêng mình, bái phục trước tôn nhan!

Nghe ác quỷ nói thế, nàng đáp lời qua ba vần kệ:

  1. Thái tử Sot-thi kế vị ngai,
    Xứ Kà-si, hãy biết như vầy,
    Ta là vương hậu hoàng nam ấy,
    Thường gọi Sam-bu chính hiệu này.
  2. Vương tử Vi-đề đang ốm đau,
    Khổ thân mê loạn ở rừng sâu,
    Mình ta chăm sóc chàng nằm liệt,
    Không thế, chắc chàng phải chết mau!
  3. Ðây miếng thịt nai thật ngọt ngon,
    Ta vừa kiếm được chốn rừng hoang,
    Ðem về dâng chúa công ta đó,
    Giờ bởi thiếu ăn đã mỏi mòn!

Ác quỷ:

  1. Chúa công bệnh hoạn ích gì chăng?
    Ngài chẳng cần vương hậu, hỡi nàng,
    Mà chỉ cần người nuôi bảo hộ,
    Ta mong chiếm địa vị ông hoàng!

Vương phi:

  1. Lòng ta mòn mỏi với ưu sầu,
    Khốn khổ bơ vơ, đẹp chẳng cầu,
    Nếu quỷ vương tìm nương tử mới,
    Hãy cầu nàng khác đẹp dường nào!

Ác quỷ:

  1. Thê thiếp bốn trăm sẵn của ta
    Tôn vinh lầu các ở đồi xa,
    Xin nàng chiếu cố, ngôi cao ngự,
    Cho thỏa bao nguyền ước thiết tha.
  2. Hỡi mỹ nhân tươi sáng ánh vàng,
    Những gì nàng quý chuộng cho nàng,
    Ta đều ban tặng, xin mời đến,
    Cùng ta tận hưởng thú trần gian.
  3. Nếu chối từ làm vợ quỷ vương,
    Hiển nhiên nàng hóa miếng mồi ngon
    Cho ta thọ dụng hôm nay đấy,
    Ðể lót lòng ta đã nhịn cơm.

Bậc Ðạo sư:

  1. Ác quỷ mày râu rậm bảy chòm,
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thấy nàng lạc lỏng bơ vơ bước,
    Liền nắm chặt tay ấy của nàng.
  2. Bị cầm giam bởi quỷ hung tàn,
    Cừu địch nàng kia, ác dục tràn,
    Nàng chỉ khóc thương chàng vắng mặt,
    Chẳng hề quên nỗi khó riêng chàng.

Vương phi:

  1. Ta chẳng buồn vì số phận ta,
    Làm mồi cho quỷ ác căm thù,
    Song vì tình trượng phu tôn quý,
    Ly biệt ta, đành phải héo khô.
  2. Chư thần đi vắng cả rồi chăng?
    Chẳng vị nào cai quản thế gian
    Ðể trấn áp hành vi sỉ nhục,
    Cản ngăn điều phóng đãng dâm loàn!

Lúc ấy cung đình của Ðế Thích Thiên chủ rung động vì công năng đức hạnh của nàng, chiếc ngai bằng hoàng thạch của ngài trông có vẻ nóng lên; ngài suy nghĩ, tìm ra duyên cớ, liềm cầm kim cang chùy phi nhanh đến trước con quỷ và ngâm vần kệ:

  1. Giữa đám quần đệ nhất danh,
    Chính nàng toàn hảo, trí thông minh,
    Khác nào ngọn lửa đang bừng sáng,
    Ví thử ngươi ăn thịt gái lành,
    Ác quỷ, đầu ngươi liền vỡ nát,
    Thành ra bảy mảnh phải tan tành.
    Vậy đừng làm hại nàng, nên thả,
    Nàng, vợ hiền dâng hiến trọn mình.

Nghe vậy, con quỷ liền thả Sambulà. Thiên chủ nghĩ thầm: “Con quỷ này sẽ còn tái phạm một lần nữa”.

Vì thế ngài lấy dây trói, giam lỏng nó trên ngọn núi thứ ba cách xa chỗ ấy, để nó không trở lại đấy được, rồi nồng nhiệt ngợi khen vương phi xong, ngài trở về thiên đình của ngài. Còn vương phi, sau khi mặt trời lặn, phải nhờ ánh trăng trở về lều cỏ.

Bậc Ðạo sư ngâm tám vần kệ giải thích sự việc:

  1. Thoát quỷ kia, nàng vội lại nhà,
    Như chim về thấy chết con thơ,
    Hay bò bị cướp bê con dại,
    Than khóc nhìn hang ổ trống trơ.
  2. Cũng vậy, Sam-bu tiếng tốt vang,
    Hoàng phi liền cất giọng kêu than,
    Thất thần, hoảng hốt, bơ vơ quá,
    Ðơn độc, vô phương giữa núi ngàn:
  3. “Tiện thiếp xin quỳ lạy Ðạo sư,
    La-môn, hiền thánh trí nhân từ,
    Bơ vơ, lạc lỏng thay, thân thiếp
    Chạy đến thần nhân để trú nhờ.

19-20. Cọp beo, sư tử, chúa sơn lâm,
Cùng các loài hoang thú ở giữa rừng,
Tiện thiếp xin chào mừng tất cả,
Cỏ cây, hoa lá mọc um tùm,
Xin chào rừng rậm màu xanh ngắt
Cùng núi cao dốc đứng chập chùng.

  1. Tiện thiếp xin thi lễ Dạ thần,
    Trên cao tinh tú điểm huy hoàng,
    Ðêm dày tựa đóa sen xanh thẳm,
    Nhuốm vẻ đậm đà nhất thế gian!
  2. Thiếp xin thi lễ cả sông Hằng,
    Là mẹ hiền chung của suối sông,
    Ở giữa loài người trên hạ giới,
    Bha-gi-ra mỹ hiệu vang lừng.
  3. Tiện thiếp xin chào đỉnh Tuyết Sơn,
    Là vua ngự trị mọi sơn lâm,
    Ðà chồng chất nhất cao hùng vĩ,
    Vượt hẳn lên toàn cảnh thế gian.

Nhìn thấy nàng đang than khóc như thế, Sotthisena nghĩ thầm: “Nàng than khóc quá lời. Ta không biết có ý gì đây, nếu nàng làm thế vì yêu thương ta, thì tim nàng sẽ tan nát. Thôi ta phải thử nàng xem sao”.

Chàng liền đi đến ngồi ở cửa lều. Nàng đến cửa vẫn còn than khóc, đảnh lễ chàng xong, nàng hỏi:

– Nãy giờ chúa công ở đâu?

Chàng đáp:

– Này vương phi, ngày thường nàng chưa hề về nhà giờ này, hôm nay nàng về quá trễ.

Rồi chàng ngâm vần kệ hỏi nàng:

  1. Này quý phi danh tiếng vọng vang,
    Sao nàng về muộn quá chiều tàn?
    Tình lang yêu dấu nào đâu hẳn
    Ðã giữ nàng lâu hóa trễ tràng?

Nàng đáp lại:

– Tâu chúa công, thiếp đang mang trái cây về nhà thì gặp một con quỷ si tình thiếp, nắm tay thiếp và bảo: “Nếu nàng không nghe lời ta, ta sẽ ăn thịt nàng ngay”.

Và nàng ngâm vần kệ:

  1. Bị cừu địch bắt, nặng sầu tư,
    Thiếp nói lời cùng quỷ Dạ-xoa:
    “Ta chẳng buồn đau vì số phận
    Làm mồi cho ác quỷ tinh ma,
    Song vì tình trượng phu tôn quý
    Ly biệt ta, đành phải héo khô”.

Rồi nàng kể hết mọi chuyện cho chàng nghe và nói:

– Khi thiếp đang bị quỷ bắt giữ như vậy không thể nào thoát thân được, thiếp liền xin sự phò hộ của chư thần, nên Ðế Thích Thiên chủ hiện ra, cầm chùy kim cang trong tay, ở trên không hăm dọa ác quỷ thả thiếp ra. Rồi ngài lại lấy dây thần trói quỷ trên ngọn núi thứ ba xa chỗ ấy, xong biến mất. Thế là thiếp đã được Ðế Thích Thiên chủ cứu mạng.

Thái tử Sotthisena nghe xong liền bảo:

– Này vương phi, chuyện có thể là như vậy. Với nữ nhân thật khó biết được sự thật. Trong vùng Tuyết Sơn có nhiều sơn nhân, ẩn sĩ, và pháp sư. Ai sẽ tin nàng đây?

Nói vậy xong chàng ngâm vần kệ:

  1. Các nàng ngọc nữ quá tinh khôn,
    Thật hiếm khi tìm được thật chơn,
    Cung cách nữ nhân làm rối trí,
    Như đường cá lội giữa trùng dương!

Nghe vậy, nàng đáp:

– Tâu Chúa công, dù chàng không tin thiếp, thiếp vẫn nói nhân danh chân lý và thiếp sẽ chữa bệnh cho chàng.

Thế là khi đã rót đầy một bình nước để thực hiện một lời Ước nguyện Chân lý, nàng đổ nước từ trên đầu chàng và ngâm vần kệ:

  1. Ước mong Chân lý, chốn nương thân,
    Thiếp chẳng yêu ai khác Chúa công,
    Thiếp nguyện cầu xin nhờ Nói Thật
    Bệnh chàng nay được chữa lành chăng?

Khi nàng thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý ấy xong, nước vừa được rảy lên đầu Sotthisena thì bệnh hủi liền biến mất như thể rỉ đồng gặp cường toan vậy. Sau khi ở lại đó vài ngày, hai vị rời khu rừng, đi đến Ba-la-nại và vào ngự viên.

Phụ vương biết chuyện hai con đã về, liền vào ngự viên, ngay tại đó, ngài bảo đem chiếc lọng hoàng gia đến che lên đầu Sotthisena, làm lễ quán đảnh sắc phong Sambulà lên ngôi chánh hậu. Sau đó ngài đưa hai con về thành, và chính ngài xuất gia tu hành, lập am trong ngự viên, nhưng vẫn thường dùng ngự thiện trong cung.

Còn vua Sotthisena chỉ phong Sambulà lên ngôi chánh hậu, song chẳng ban huệ gì cho nàng, chàng chẳng quan tâm ngay cả đến đời sống của nàng, mà chỉ ham hưởng lạc thú với những nữ nhân khác. Sambulà hờn ghen với đám tình địch kia nên gầy mòn bạc nhược, cả thân hình nổi gân xanh xao ra dáng bệnh hoạn.

Một ngày kia, phụ hoàng của vua, vi ẩn sĩ đã xuất gia ấy, đến dùng ngự thiện, nàng liền yết kiến ngài cho khuây khỏa nổi buồn. Sau khi ngài dùng bữa xong, nàng đảnh lễ ngài và ngồi xuống một bên. Trông thấy tình trạng suy nhược của nàng, ngài ngâm vần kệ hỏi:

  1. Bảy trăm vương tượng trực bên mình,
    Phòng hộ sẵn sàng khởi chiến binh,
    Thiện xạ hàng trăm ngừa hiểm họa,
    Ðâu cừu nhân đến khiến hồn kinh?

Nghe vậy, nàng đáp lại:

– Tâu phụ vương, chúa thượng không còn như xưa đối với thần thiếp nữa.

Rồi nàng ngâm năm vần kệ:

  1. Chàng yêu mỹ nữ tựa liên hoa,
    Giọng điệu thiên nga cất tiếng thưa,
    Rung động lòng chàng say đắm đuối,
    Khi chàng nghe chúng nhịp nhàng ca,
    Thiếp không còn ngự trong tâm tưởng,
    Tình cảm chàng, như một thuở xưa!
  2. Nữ nhân dáng đẹp tựa thiên nga,
    Trang điểm toàn châu báu sáng lòa,
    Tuyệt sắc cung tần nằm yểu điệu,
    Mê hồn quyến rủ mắt vương gia!
  3. Mong lần nữa lạc bước rừng hoang,
    Kiếm mỗi bữa ăn đỡ dạ chàng,
    Thiếp sẽ được chàng yêu quý lại,
    Rừng xanh ngự trị bỏ ngai vàng!
  4. Gấm vóc lụa là khoác nữ nhi,
    Cao lương mỹ vị đủ tràn trề,
    Diễm kiều, song nếu chàng không chuộng,
    Thà kết lụa đào để chết đi!
  5. Gái nghèo khốn khổ ngủ giường rơm,
    Nếu được yêu thương dưới mắt chồng,
    Cũng hưởng một đôi niềm hạnh phúc,
    Mà người chỉ thiếu tấm tình nồng
    Không hề biết đến, dù đầy đủ
    Tất cả mọi điều, tấu phụ vương!

Khi nàng giải thích cho vị vua ẩn sĩ hiểu nguyên nhân vì đâu nàng héo mòn như vậy, ngài liền triệu vua tới và bảo:

– Này vương nhi Sotthisena, khi vương nhi bị bệnh hủi giày vò khốn khổ phải chốn vào rừng sâu, nàng đã cùng vương nhi vào rừng, săn sóc hầu hạ đủ mọi nhu cầu cho vương nhi, lại nhờ thần lực Chân lý chữa bệnh cho vương nhi nữa; bây giờ sau khi nàng đã làm phương tiện cho vương nhi ngự chiếc ngai vàng, vương nhi không biết đến địa vị của nàng, thật là lỗi đạo lắm. Một hànhđộng phản bội bạn hiền như vậy là một tội lớn.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Khó tìm được vợ chung tình,
    Nam nhi tốt với vợ mình, khó sao,
    Vương nhi đức hạnh dường nào,
    Với chồng, nàng lại dạt dào tình thương.
    Vậy giờ đây, hỡi quân vương,
    Với Sambu, phải trọn đường thủy chung.

Sau khi khiển trách vương nhi xong, ngài đứng dậy bỏ ra về ngay. Khi vương phụ đi rồi, vua triệu Sambulà đến và bảo:

– Này ái hậu, xin hãy tha thứ lỗi lầm của trẫm bấy lâu nay. Từ nay về sau trẫm giao hết quyền hành cho ái hậu.

Và nhà vua ngâm vần kệ cuối cùng:

  1. Hưởng đầy phúc lộc dồi dào,
    Ái khanh vẫn cứ xanh xao héo mòn,
    Vì lòng nặng trĩu ghen hờn,
    Từ nay trẫm với phi tần cung nga,
    Là người dưới trướng Sam-là,
    Sẵn sàng tuân phục lệnh bà phán sai!

Từ đó nhà vua cùng hoàng hậu sống hạnh phúc bên nhau, thực hành bố thí, và các thiện pháp.

Ðến khi từ trần, hai vị đi theo đúng hạnh nghiệp của mình. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh tu tập phát khởi Thiền định, về sau tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại xong lại bảo:

– Không chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Mallikà đã là người vợ thủy chung.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ Sambulà là Mallikà, Sotthisena là vua xứ Kosala, vị ẩn sĩ kia chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện vị thần cây Tindu (Tiền thân Gandatindu)

Lòng nhiệt thành là hướng Niết bàn..,

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một ông vua.

Việc giáo hóa này được kể đầy đủ trong Tiền thân số 334 Tiền thân Ràjovàda tập III và số 521, Tiền thân Tesakuna, tập V.

*

Ngày xưa tại quốc độ Kampila, trong kinh thành phía Bắc xứ Pancala, có vị vua danh hiệu Pancala, cai trị bất công vì theo ác đạo và phóng dật buông lung, bởi thế các quần thần cũng trở nên bất công như nhà vua. Dân chúng bị thuế má nặng nề áp bức liền đem vợ con lang thang vào rừng như bầy dã thú.

Những vùng trước kia là làng mạc, nay hoang vắng cả, dân chúng ban ngày thì sợ quân sĩ của nhà vua nên không dám ở trong nhà, và lấy hàng rào gai bao bọc lại, khi trời mới tảng sáng, họ đã biến dạng vào rừng. Ban ngày họ bị quân lính của vua tước đoạt của cải còn ban đêm lại bị bọn cướp hoành hành.

Vào thời ấy, Bồ-tát xuất hiện trong thân hình một vị Thần cây Tinduka ở ngoại thành, hằng năm nhận được phẩm vật cúng dường của nhà vua trị giá một ngàn đồng tiền, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua thật buông lung phóng dật, quốc độ đang suy tàn, ngoài ta ra, không ai có thể đưa vua trở về chánh đạo. Vua này là kẻ ban ơn cho ta, hằng năm lại dâng tặng ta phẩm vật một ngàn đồng tiền. Vậy ta sẽ giáo hóa cho vị vua này”.

Thế là đang đêm tối, ngài vào hậu cung đứng trên không, ngay phía đầu vương sàng, phóng ra một luồng hào quang. Vua thấy ngài sáng chói như mặt trời mọc, liền hỏi ngài là ai và từ đâu đến. Nghe vua hỏi, ngài đáp:

– Này Ðại vương, ta là thần Tinduka đến đây khuyên nhủ ngài.

Vua hỏi:

– Ngài muốn khuyên trẫm điều gì?

Bậc Ðại sĩ đáp:

– Ðại vương buông lung việc trị nước, cả quốc độ đang điêu tàn như thể làm mồi cho bọn quần thần tay sai. Vua chúa buông lơi việc trị nước không thể nào làm chủ vận mệnh quốc gia được, ngay trong đời này chính họ sẽ bị suy tàn và đời sau phải tái sinh vào địa ngục, một khi vua chúa buông lơi việc cai trị, quần thần bên ngoài lẫn bên trong quốc độ buông lơi theo cả, vì thế nhà vua phải hết sức lo trị nước.

Nói xong, ngài ngâm các vần kệ ghi lại một bài học đạo đức:

  1. Lòng nhiệt tình là hướng Niết-bàn,
    Buông lung thường dẫn đến vong thân,
    Những người tỉnh giác không hề chết,
    Phóng dật khác nào đã mạng vong.
  2. Buông lung có gốc tự kiêu căng,
    Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,
    Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,
    Ðoạn trừ phóng dật, hỡi Anh quân!
  3. Người hùng phóng dật biết bao phen,
    Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,
    Ðiền chủ trở thành người thất lạc
    Không nhà, trôi giạt, khổ triền miên.
  4. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,
    Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,
    Ví thử bạc vàng đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với ông hoàng!
  5. Phi thời phóng dật, hỡi quân vương,
    Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,
    Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy
    Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.
  6. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,
    Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,
    Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,
    Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.
  7. Ông hoàng bị tước đoạt giang san
    Với các kho châu báu, bạc vàng
    Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,
    Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.
  8. Xe ngựa, quản xa, với vệ binh,
    Lục quân lúc trước thật hùng anh,
    Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,
    Cũng chẳng còn vì nể, kính danh.
  9. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,
    Bị lời tà dụ dỗ, sai đường,
    Người ngu chóng mất vinh quang cũ
    Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.
  10. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,
    Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,
    Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,
    Tài sản người kia lớn mãi hoài.
  11. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,
    Lắng nghe dân chúng nói bao lời:
    Nhờ nghe, nhìn được điều Chân lý,
    Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.

Như vậy, bậc Ðại sĩ đã giáo hóa vua mười một vần kệ, rồi bảo:

– Ðại vương hãy đi nuôi dưỡng quốc độ, đừng chậm trễ, chớ để đất nước suy tàn.

Nói xong ngài trở lại cõi của ngài.

Vua nghe các lời khuyên ấy, vô cùng cảm kích, ngay hôm sau, ngài liền giao việc nước cho các vị đại thần và cùng với vị tế sư của hoàng gia, rời kinh thành bằng đông môn và đi được một khoảng chừng vài trăm thước. Nhằm lúc ấy, có một ông lão vốn là dân làng lấy những cành cây gai trong rừng về đặt quanh nhà, sát cửa lớn, rồi cùng vợ con vào rừng. Buổi chiều, khi quân lính vua đã bỏ đi, người ấy trở về nhà đến gần cửa bị đầu gai nhọn đâm vào chân, lão ngồi vắt chân lên, vừa rút gai ra, vừa nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Mong tên trúng ở chiến trường
    Cho Pan-ca bạo chúa thương khóc đời,
    Như ta có cớ kêu trời,
    Thế này vì bị gai dài đâm da!

Lời nguyền rủa vua này phát ra nhờ thần lực của Bồ-tát, lão già nguyền rủa vua như thể một người được Bồ-tát nhập vào, hành động này của lão phải được hiểu như vậy. Vào lúc đó, vua cùng vị tế sư của ngài đang cải trang đứng trước mặt lão.

Vị tế sư nghe như vậy liền đáp kệ:

  1. Tôn ông nay tuổi đã già,
    Và đôi mắt đã mù lòa, cho nên,
    Chẳng công bằng để xét xem,
    Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?
    Chúa Brah-ma biết thế nào,
    Khi chân ông bị gai cào đâm da?

Nghe lời này, ông lão ngâm ba vần kệ:

  1. Hiển nhiên vì chúa Brah-ma
    Cho nên mới khổ thân ta thế này!
    Như dân cô thế thường hay
    Bị đem chém giết vì bầy hại dân.
  2. Ban đêm bị trộm ăn phần,
    Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền;
    Ác nhân đầy rẫy toàn miền,
    Khi bầy bạo chúa nắm quyền trong tay.
  3. Khổ đau vì sợ nỗi này,
    Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,
    Chung quanh nhà rải lung tung
    Ðám gai để được yên phận mình!

Nghe nói vậy vua bảo vị Sư trưởng:

– Này Sư trưởng, lão già này nói đúng lắm, đó là lỗi của ta. Vậy ta hãy trở về cai trị nước chođúng pháp.

Lúc ấy, Bồ-tát nhập vào thân của vị Sư trưởng, đứng trước mặt vua bảo:

– Tâu Ðại vương, ta hãy xem xét vấn đề này cho kỹ.

Rồi từ làng ấy qua một làng khác, hai vị lại nghe lời của một bà già. Nghe nói bà này nghèo khổ có hai con gái đã lớn mà bà không muốn cho hai con vào rừng. Nhưng chính bà phải tìm củi, lá khô về cung cấp cho hai con. Một ngày kia, bà lão trèo lên cây lượm lá, bị té lăn tròn xuống đất, liền nguyền rủa vua phải chết đi và ngâm vần kệ này:

  1. Khi nào vua ấy chết đi?
    Chao ôi, còn chúa trị vì non sông,
    Các con lẻ bóng phòng không,
    Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi!

Vị tế sư ngâm vần kệ ngăn lời bà lão:

  1. Xấu mồm vô ích, bà ơi!
    Những lời bà mới kêu trời gào la,
    Làm sao vua kiếm đâu ra
    Trong làng cho mỗi gái tơ một chồng?

Bà già nghe nói đáp lại hai vần kệ:

  1. Lời ta chẳng phải ác ngôn,
    Cũng không phải nói hoài công hão huyền;
    Khi còn thất thế dân đen
    Chịu đàn áp bởi lắm tên giết người:
  2. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài
    Thời suy, bần nữ lắm người
    Buồn tình chẳng kiếm được ai làm chồng!

Nghe bà lão nói, cả hai vị đều nghĩ: “Bà lão này nói đúng vấn đề đây”.

Rồi hai vị đi xa hơn một khoảng đường lại nghe một gã nông dân nói chuyện. Trong lúc gã cày ruộng, con bò của gã tên gọi Saliya ngã lăn ra vì bị lưỡi cày đụng phải, gã chủ bò liền nguyền rủa vua qua vần kệ:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,
    Như Sa-li ngã xuống đường,
    Thương thay! Cày đụng bị thương nằm đờ!

Vị Sư trưởng liền ngâm vần kệ chận gã lại:

  1. Ngươi hờn giận chúa Brah-ma
    Song ai có thấy đâu là nguyên do?
    Vì ngươi phỉ báng đức vua,
    Tội kia tất cả đều là của ngươi!

Nghe thế, gã nông phu đáp ba vần kệ:

23-24. Vì vua, ta cứ giận sôi,
Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay;
Dân đen thất thế như vầy,
Bị tàn sát bởi lắm tay giết người:
Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Gia nô phải nấu hai lần
    Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,
    Lúc đang há họng chờ nhà,
    Bò ta bị đụng ắt là mạng toi!

Đi xa hơn một đoạn nữa, hai vị vào một làng kia. Sáng sớm hôm sau, một con bò trở chứng đá người vắt sữa ngã nhào, sữa đổ tung tóe. Người này liền ngâm vần kệ nguyền rủa vua Brahmadatta:

  1. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
    Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,
    Như ta, bò đá lăn chiêng,
    Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay!

Vị tế sư ngâm vần kệ đáp:

  1. Này, bò đá gậy thúc dai,
    Hay là thùng sữa của người đổ ra,
    Việc gì đến chúa Brah-ma,
    Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?

Nghe vậy người vắt sữa bò ngâm ba vần kệ đáp:

28-29. Pan-ca chúa đáng trách thay
Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,
Dân lành cô thế thấy luôn
Bị tàn hại bởi những quân giết người:
Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!..

  1. Hung hăng là thứ bò rừng,
    Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,
    Ta đành vắt sữa hôm nay,
    Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng!

Hai vị bảo nhau:

– Gã này nói đúng đấy.

Rồi từ làng ấy hai vị đi ra đường cái tiến về kinh thành. Trong một làng nọ, có gã thu thuế giết một con bê con có đốm rồi lột da để làm bao da bọc kiếm, khiến bò mẹ nó quá buồn khổ vì mất con thơ, bỏ cả ăn cỏ uống nước, chỉ lang thang kêu khóc. Thấy vậy trẻ con trong làng nguyền rủa vua:

  1. Cầu Pan-ca chúa héo mòn,
    Hoài công than khóc mất con như vầy,
    Bò kia quẩn trí thương thay,
    Ði tìm bê nhỏ, người nay giết càn!

Vị tế sư liền ngâm vần kệ khác:

  1. Khi bò trâu phải lạc đàn,
    Muốn vơi nỗi khổ, khóc vang kêu gào.
    Vậy thì duyên cớ làm sao
    Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?

Lũ trẻ đáp lại hai vần kệ sau:

  1. Tội tình của chúa Bra-hma,
    Việc này con thấy rõ ra rành rành:
    Bơ vơ khốn đốn dân lành,
    Vẫn thường bị bọn bạo hành giết tươi:
  2. Ban đêm bị trộm rình mồi,
    Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
    Ác nhân đầy rẫy non sông,
    Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,
    Cớ sao bê hãy còn non,
    Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?

– Các ngươi nói đúng đấy.

Hai vị nói xong liền ra đi. Trên đường, họ thấy trong một hồ nước khô cạn, bầy quạ đang lấy mỏ bắt ếch nhái ăn thịt. Khi hai vị đến nơi, Bồ-tát vận dụng thần lực nguyền rủa vua qua miệng con nhái:

  1. Cầu Brah-ma chúa chết chùm,
    Cùng bầy con cháu ở trong chiến trường,
    Như ta nhái bén rừng hoang,
    Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay!

Nghe vậy vị tế sư ngâm vần kệ, nói chuyện với con nhái:

  1. Nhái cần biết rõ, nhái này,
    Ðại vương không thể giữ bầy nhái ranh!
    Việc này vua chẳng tội tình,
    Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày!

Nghe vậy, nhái đáp lại hai vần kệ:

  1. Tế sư lời nịnh khéo thay,
    Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,
    Mặc cho dân bị sát tàn,
    Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư
    Quả là đệ nhất tài ba;
    Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.
  2. Nước này an lạc, thái bình,
    Quạ kia được hưởng phần mình cực sang
    Có đâu cần phải giết càn
    Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?

Nghe vậy vua và vị Sư trưởng đều nghĩ thầm: “Tất cả mọi loài, ngay cả nhái rừng, đều nguyền rủa ta”.

Vì thế, khi về thành, hai vị lo cai trị nước thật đúng pháp và hành trì theo lời thuyết giảng của bậc Ðại sĩ, hai vị chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác.

*

Ðến đây, bậc Ðạo sư chấm dứt Pháp thoại với vua Kosala bằng các lời này:

– Này đại vương, một vị vua phải dứt bỏ các ác đạo và cai trị đúng pháp.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời ấy, vị Thần cây Tinduka chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVII

Phẩm Bốn Mười Bài Kệ

  1. Chuyện ba con chim (Tiền thân Tesakuna)

Điều này cha muốn hỏi Ves-san …,

Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc giáo giới vua Kosala.

Bấy giờ vị vua này đến nghe thuyết pháp và bậc Đạo Sư bảo vua như sau:

– Thưa Đại vương, một vị vua phải cai trị vương quốc chân chánh, vì bất cứ khi nào các quân vương bất chánh thì quần thần cũng bất chánh theo.

Và khi giáo giới vua theo Chánh đạo như đã kể trong Chương Bốn, Ngài nêu ra những khổ đau liên hệ đến việc theo ác đạo, hoặc hạnh phúc liên hệ đến việc từ bỏ ác đạo và trình bày đầy đủ chi tiết nỗi bất hạnh phát sinh từ dục lạc, vừa so sánh dục lạc với cơn mộng hoặc đại loại như thế, Ngài vừa bảo:

– Trong trường hợp những người ở đời này:

Không bạc tiền mua chuộc được Tử thần,

Không từ tâm làm lắng dịu Ma quân,

Không ai thắng trong chiến trường Thần chết,

Vì tất cả đều có ngày tiêu diệt.

Và khi bước sang thế giới bên kia, trừ các thiện nghiệp công đức của riêng mình, con người không có một nương tựa vững chắc nào khác, vì vậy con người cần phải từ bỏ các mối quan hệ hạ liệt, và vì thanh danh của mình, con người không được buông lung phóng dật, mà phải tinh cần thực hành giới luật chân chánh, giống như các vị vua ngày xưa, trước khi Đức Phật ra đời, đã an trú vào lời dạy của các bậc trí, cai trị đúng pháp và lúc từ trần đạt đến cõi thiên.

Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại không có con kế vị, và lời vua cầu xin vương tử hoặc công chúa đều không được đáp ứng. Bấy giờ một hôm vua cùng đám quần thần hộ tống đông đảo đến ngự viên, và sau khi du hí nữa ngày trong vùng ấy, ngài bảo trải sàng tọa cho ngài nằm dưới gốc cây Sàla vương giả. Sau một giấc ngủ trưa ngắn, ngài thức dậy và nhìn lên cây Sàla, ngài thấy một tổ chim trên đó. Vừa chợt thấy nó, một ước muốn chiếm tổ chim kia nảy sinh trong lòng, ngài truyền gọi một vị hầu cận đến bảo:

– Hãy trèo lên cây xem thử có gì trong tổ không?

Người ấy trèo lên, thấy có ba quả trứng trong đó, liền trình vua. Ngài phán:

– Vậy khanh hãy cẩn thận đừng thổi hơi vào chúng. Ngài bảo.

Rồi trãi một ít vải trong một cái hộp, ngài dặn người ấy đi xuống nhẹ nhàng, và đặt trứng vào trong đó.

Khi trứng đã được đưa xuống xong, ngài cầm hộp đến hỏi đám cận thần xem các trứng này thuộc giống chim gì. Họ đáp:

– Chúng thần không biết, song đám thợ săn sẽ biết.

Vua truyền gọi các thợ săn đến hỏi. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, một trứng chim cú, một trứng khác là chim may nha và trứng thứ ba là chim anh vũ hét.

– Có ba loại trứng khác nhau trong một tổ chim ư?

– Tâu Đại vương, phải, khi không có gì đáng lo ngại thì vật gì được khéo sắp đặt sẽ không hư hoại được.

Vua đẹp ý bảo:

– Chúng nhất định sẽ là các con trẫm.

Rồi giao ba quả trứng cho ba vị quan trong triều chăm sóc, ngài bảo:

– Đây sẽ là các con trẫm. Các khanh hãy cẩn thận chăm nom chúng và khi nào chim non nở ra khỏi vỏ, hãy báo tin cho trẫm.

Ba vị chăm sóc trứng rất chu đáo. Trước tiên trứng chim cú được ấp nở và vị quan đầu đi tìm một người thợ săn bảo:

– Hãy xem chim non này thuộc giống gì, nó là chim trống hay mái.

Khi kẻ ấy xem xét xong, tuyên bố đó là chim trống, vị quan đến trình vua:

– Tâu Đại vương, một vương nhi đã ra đời.

Vua hài lòng, ban thưởng ông nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm sóc các con trẫm cẩn thận và đặt tên nó là Vessantara.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm những việc được giao.

Sau đó vài hôm, trứng chim Maynah được ấp nở, vị quan thứ hai cũng vậy, sau khi bảo một thợ săn xem xét nó và nghe đó là chim mái, liền đi tâu trình vua một công chúa ra đời. Vua đẹp ý ban thưởng nhiều vàng bạc và bảo:

– Hãy chăm nom con gái trẫm thật cẩn thận và đặt tên nó là Kundalini.

Ngài lại bảo ông ra về. Ông cũng làm những việc được dặn.

Sau đó vài hôm nữa, trứng chim anh vũ được ấp nở và vị quan thứ ba, sau khi được người thợ săn xem xét kỹ, nói đó là chim trống, liền đi tâu vua một vương tử mới ra đời. Vua hoan hỷ ban thưởng rộng rãi và bảo:

– Hãy làm lễ tôn vinh vương tử của trẫm thật long trọng và đặt tên nó là Jambuka.

Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm theo lời dặn.

Ba con chim này lớn lên trong nhà ba vị quan ấy giữa mọi lễ nghi thích hợp với hoàng gia. Vua thường gọi chúng là “con trai trẫm”, “con gái trẫm”.

Các triều thần thường nói đùa với nhau:

– Hãy xem chúa thượng làm kia: ngài cứ đi quanh nói chuyện về bầy chim như các con của ngài vậy.

Vua suy nghĩ: “Quần thần nầy không biết mức độ trí tuệ của các con ta. Ta muốn chứng tỏ việc nầy cho họ thấy.”

Vì thế ngài truyền một vị cận thần đến bảo Vessantara:

– Phụ vương muốn hỏi vương tử một câu. Vậy khi nào ngài có thể đến hỏi được?

Vị ấy đến chào Vessantara và đưa lời vua truyền. Vessatanra mời vị quan chăm sóc mình đến và nói:

– Họ bảo phụ vương ta muốn hỏi ta một câu. Khi ngài đến, chúng ta phải bày tỏ tất cả lòng tôn kính đối với ngài.

Và chim hỏi thêm:

– Vậy khi nào phụ vương có thể đến?

Vị quan đáp:

– Xin mời Đại vương đến vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay.

Vessatara nghe vậy liền bảo:

– Xin mời phụ vương đến vào ngày thứ bảy kể từ nay.

Cùng với những lời này, chim bảo ông ra về. Ông đi đến trình vua. Vào ngày thứ bảy, vua truyền đánh trống khắp kinh thành và đi đến nhà vương nhi của ngài đang cư ngụ.

Vessatara tiếp đãi phụ vương vô cùng cung kính và tỏ ra hết lòng quý trọng ngài cả đám nô tỳ và gia nhân. Sau khi vua ngự yến tiệc tại nhà Vessatara và thọ hưởng mọi sự chiêu đãi trọng thể, ngài ra về cung thất của ngài.

Sau đó ngài truyền dựng một cái đình lớn trong sân chầu và truyền đánh trống khắp kinh thành báo tin xong, ngài ngự vào cái đình nguy nga lộng lẫy được quần thần đông đảo vây quanh, rồi bảo một vị quan đưa Vessatara đến yết kiến ngài. Vị ấy đặt Vessantara lên một kim đôn. Con chim đậu lên lòng phụ vương và chơi với ngài, xong bay qua đậu lên kim đôn ấy.

Rồi giữa đám quần thần, vua ngâm vần kệ đầu hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Điều nầy cha muốn hỏi Ves-san,
    Cầu chúc cho con yêu được lạc an:
    Với một vị vua mong trị nước,
    Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?

Vessantara không trả lời trực tiếp câu hỏi trên, mà khiển trách vua cha về tính buông lung phóng dật, và ngâm vần kệ thứ hai:

  1. Kam-sa, chúa tể xứ Kà-si,
    Phóng dật buông lung đã lắm khi,
    Thúc dục con, dù đầy nhiệt huyết,
    Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.

Chim khiển trách vua qua vần kệ này và bảo:

– Tâu Đại vương, một vị vua phải cai trị đất nước đúng Chánh pháp và tuân thủ ba chân lý này.

Rồi chim ngâm các vần kệ nói về phận sự quân vương:

  1. Trước hết vị vua phải vứt đi,
    Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
    Phải làm những việc cần hành động,
    Nếu chẳng làm xong, sẽ lỗi thề.
  2. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
    Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
    Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
    Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.
  3. Khi vua trị nước quá buông lung,
    Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
    Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  4. Thần nữ Cát tường với Vận may,
    Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
    “Chúng ta thích hạng người can đảm,
    Nghị lực, thoát ly tật đố này”.
  5. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
    Thích những người làm các ác hành,
    Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
    Trong tâm ganh tỵ cứ dần sinh.
  6. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
    Để cho mọi sự được an toàn,
    Tránh xa Vận rủi, song làm chỗ,
    An trú Vận may thật vững vàng.
  7. Con người tốt số lại can trường,
    Ngự trị Kà-si, chính phụ vương,
    Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
    Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.
  8. Thiên chủ Ska-ka mãi ngắm trông,
    Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
    Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
    Nhận thức đó là chính thiện lương.
  9. Thác-bà, Thiên chúng lẫn loài người.
    Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
    Các bậc thần linh đều ủng hộ
    Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.
  10. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
    Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
    Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
    Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.
  11. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Đủ đạt phước phần cho thiện hữu
    Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.

Như thế chim Vessantara đã khiển trách vua phóng dật trong một vần kệ, rồi ngâm mười một vần kệ nữa để trả lời câu hỏi của vua với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Tâm quần chúng tràn đầy thích thú lẫn kinh ngạc chưa từng có và vô số tiếng reo tán thán vang dậy.

Vua xúc động với niềm hân hoan liền hỏi quần thần phải làm gì cho vương tử vì đã nói như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, vương tử phải được phong chức đại tướng quân.

– Tốt lắm, trẫm ban cho vương tử chức đại tướng. Ngài phán.

Và Ngài bổ nhiệm Vessantara vào chức vụ còn trống ấy.

Từ đó về sau, ở địa vị, vương tử thực hành mọi ước của phụ vương. Đến đây chấm chuyện về câu hỏi chim Vessantara.

*

Sau vài ngày nữa, cũng như trước kia, vua gởi thông điệp đến Kundalinì, và vào ngày thứ bảy, ngài ngự đến thăm chim con rồi trở về cung, ngự giữa ngôi đình và truyền đưa Kundalinì đến yết kiến ngài. Khi chim này đã đậu trên kim đôn, ngài ngâm vần kệ hỏi chim về phận sự quân vương:

  1. Kun-da-li, ái điểu hoàng gia,
    Con hãy đáp câu hỏi của cha:
    Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
    Sống sao tốt nhất cõi người ta?

Khi vua cha hỏi chim về phận sự của một quốc vương như thế, chim con đáp.

– Tâu phụ vương, con chắc phụ vương muốn thử con vì nghĩ rằng: “Nữ nhi có thể bảo ta việc gì nào?”. Vậy con xin đáp lời phụ vương bằng cách đặt mọi phận sự quân vương vào đúng hai phương châm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

  1. Vấn đề được đặt, hỡi thân bằng,
    Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
    Gìn giữ những gì ta phải đạt,
    Tránh xa những việc chẳng nên làm.
  2. Quốc sư hãy chọn các hiền nhân,
    Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
    Không phóng đãng và không phí phạm,
    Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.
  3. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
    Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
    Như người điều ngự vương xa ấy,
    Lèo lái giang sơn đến phú cường.
  4. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
    Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
    Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
    Phải tự mình làm đúng kỷ cương.
  5. Những ích lợi hay việc hại mình,
    Đại vương phải biết thật phân minh,
    Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
    Khen thưởng những người thật xứng danh.
  6. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
    Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
    Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
    Phải hóa mồi quan lại ác gian.
  7. Canh phòng hành động của vua quan,
    Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
    Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
    Về sau chắc chắn sống ăn năn.
  8. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
    Vì chưng sân hận vỡ tràn lan,
    Liền đem nguy hại cho vua chúa,
    Đánh bại người kiêu mạn nhất trần.
  9. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
    Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
    E rằng tất cả người nam nữ,
    Sa đọa vào trong biển khổ buồn.
  10. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
    Dục lạc là nguồn sống bản thân,
    Tài sản, kho tàng đều mất hết,
    Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
  11. Đây là nhiệm vụ của quân vương
    Chỉ dạy phụ vương bước đúng đường,
    Thực hiện chuyên tâm toàn thiện nghiệp,
    Chống điều quá độ, thói hoang toàng,
    Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi
    Luôn dẫn đến đau khổ đoạn trường.

Như vậy Kundalinì cũng dạy phận sự quân vương trong mười một vần kệ. Vua thích thú hỏi quần thần:

– Phải ban thưởng gì cho ái nữ của trẫm vì đã nói như vậy?

– Tâu Đại vương, ban chức thủ ngân khố.

Và ngài chỉ định Kundalinì vào địa vị còn trống ấy. Từ đó chim này giữ chức vụ trên và làm việc cho vua.

Đến đây chấm dứt chuyện về câu hỏi chim Kundalinì.

*

Sau chừng vài ngày, cũng như trước kia, vua truyền sứ giả đến gặp bậc trí điểu Jambuka, rồi khi ngài đến viếng nhà con vào ngày thứ bảy và đã được chiêu đãi trọng thể tại đó, ngài trở về cung và cũng như trên, ngài ngự vào bảo tọa giữa đình. Một vị triều thần đặt bậc trí điểu Jambuka trên một kim đôn rồi đến mang kim đôn lên đầu mình.

Chim anh vũ thông thái ngồi trong lòng phụ vương, chơi với ngài rồi sau cùng đậu trên kimđôn ấy. Khi đó vua ngâm vần kệ hỏi chim:

  1. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,
    Công chúa Kun-da-li đẹp xinh,
    Đến lượt Jam-bu-ka hãy nói,
    Cho cha biết lực tối cao minh.

Như vậy vua, trong lúc đặt vấn đề với bậc Đại Sĩ, đã không hỏi theo cách vua đã hỏi hai chim kia, mà hỏi theo một cách đặc biệt. Lúc ấy con chim thông thái bảo ngài:

– Tốt lắm, tâu phụ vương, xin hãy lắng nghe kỹ, con sẽ trình phụ vương tất cả.

Rồi giống như một người đặt chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền vào một bàn tay mở rộng, chim bắt đầu thuyết giảng phận sự của quân vương:

  1. Giữa bao người vĩ đại trên trần,
    Năm lực này, ta thấy rõ ràng:
    Sức mạnh tứ chi là thấp nhất,
    Kế là quyền lực của kim ngân.
  2. Thứ ba là lực của lời khuyên,
    Giai cấp hiển nhiên đệ tứ quyền,
    Tất cả điều này, người có trí,
    Sẽ đều công bố thật đương nhiên.
  3. Lực tối ưu trong các lực này,
    Khả năng trí tuệ chính là đây,
    Nhờ vào uy lực này, người trí,
    Thành tựu phần mình tốt đẹp thay.
  4. Ví thử quốc gia đại phú cường,
    Rơi vào tay của một ngu nhân,
    Một người khác sẽ dùng cường bạo,
    Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.
  5. Dù quân vương quý tộc cao sang,
    Phận sự chính là ngự trị dân,
    Vua ấy quả là rất khó sống,
    Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.
  6. Trí tuệ xét xem các việc làm,
    Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
    Người nào trí tuệ đầy thông thái,
    Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.
  7. Không ai sống phóng dật buông lung,
    Lại có thể nào đạt trí thông,
    Nhưng phải theo lời khuyên bậc trí,
    Nếu không, sẽ mãi mãi ngu đần.
  8. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
    Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
    Làm bao phận sự đang mời gọi,
    Chắc chắn thành công ở giữa đời.
  9. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
    Hoặc hành động với trí buông lung,
    Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
    Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.
  10. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
    Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
    Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
    Bất kỳ công việc họ đang làm.

37-38. Hộ phòng bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng;
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống như nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.

Như vậy qua các vấn đề này, Bồ-tát ca ngợi năm uy lực, vừa tán dương uy lực của trí tuệ, như người dùng lời nói gõ vào mặt trăng, ngài khuyến giáo vua trong mười một vần kệ.

  1. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
    Phận sự thi hành thật chánh chân,
    Như vậy, sống theo đời chánh trực,
    Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.

Sau khi ngâm các vần kệ về nếp sống chân chánh, Bồ-tát lại ngâm vần kệ kết thúc để khuyến giáo vua thêm nữa:

  1. Đây là phận sự của quân vương,
    Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
    Theo trí tuệ và luôn hạnh phúc,
    Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.

Như vậy bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp với tất cả vẻ kỳ diệu của một vị Phật, chẳng khác nào đem dải Thiên hà từ trời xuống. Quần thần tỏ ra vô cùng kính trọng ngài và vô số tiếng hò reo tán thán vang dậy. Vua hân hoan hỏi đám quốc sư:

– Làm sao để vương tử của trẫm, bậc trí điểu Jambuka với chiếc mỏ như quả hồng đào tươi mát, được phần thưởng vì đã nói như thế?

– Tâu Đại vương, xin ban chức thống soái.

– Thế thì trẫm sẽ ban cho con trẫm chức vụ ấy.

Vua phán rồi chỉ định vương nhi vào chức vụ còn trống ấy. Từ đó về sau, ở địa vị thống soái, ngài thi hành các mệnh lệnh của phụ vương.

Cả ba chim con đều được tôn vinh trọng thể và cả ba đã khuyến giáo các vấn đề thế sự cũng như thánh sự. Vua an trú vào lời giáo giới của bậc Đại Sĩ, chuyên bố thí làm các thiện sự khác, nên được sinh làm thiên giới.

Sau khi cử hành tang lễ của vua, quần thần nói với ba con chim con:

– Tâu Chúa công Jambu, tiên vương đã ra lệnh giương chiếc lọng hoàng gia lên che Chúa công.

Bậc Đại Sĩ đáp:

– Ta không cần vương quốc, các vị hãy chuyên tâm tỉnh giác lo việc trị nước.

Sau khi an trú quốc dân vào giới đức, ngài bảo:

– Hãy thực hành công lý.

Rồi ngài truyền đem cách xử án công bằng khắc vào một tấm bảng vàng, và biến mất vào rừng.

Lời giáo huấn của ngài đã tiếp tục có hiệu lực trong bốn mươi ngàn năm.

*

Bậc Đạo Sư giảng Pháp thoại này làm phương tiện giáo giới vua và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), Kundalinì là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Vessantara là Sàriputta (Xá Lợi Phất) và chim Jambuka chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện đại nhân thiện xạ Sarabhanga (Tiền thân Sarabhanga)

Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang …,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư trong lúc trú tại Trúc Lâm về sự diệt độ của Tôn giả Trưởng lão Mahàmoggallàna (Đại Mục Kiền Liên).

Còn về phần Tôn giả Sàriputta (Xá Lợi Phất), sau khi được Đức Như Lai chấp thuận trong thời Ngài trú tại tịnh xá Kỳ Viên, Tôn giả liền đi đến làng Nàla và nhập diệt tại đó, ngay chính trong phòng xưa kia Tôn giả sinh ra đời. Bậc Đạo Sư nghe tin Tôn giả này nhập diệt liền đến thành Ràjagaha (Vương Xá), trú tại Veluvana (Trúc Lâm). Lúc ấy có một Trưởng lão trú ở đó, ngay trên sườn núi Isigili (chư Thánh sơn) tại Hắc Thạch động. Tôn giả này khi đắc Thánh quả, nhờ thần thông có thể lên trời hay xuống địa ngục.

Trên thiên giới, Tôn giả này thấy một vị đệ tử của đức Phật thọ hưởng đại quyền lực; còn trong hạ giới, Tôn giả lại thấy đệ tử của đám ngoại đạo tà giáo chịu đau khổ kinh hồn, nên khi trở về cõi nhân gian, Tôn giả kể cho mọi người nghe chuyện trên một cõi thiên kia, có một Tỷ kheo này hay Tỷ kheo ni nọ được tái sinh thọ hưởng vinh quang cao trọng, còn trong những kẻ theo ngoại đạo tà giáo lại có người thác sinh vào địa ngục hay các đọa xứ đầy đau khổ khác.

Dân chúng hoan hỷ lời dạy của Tôn giả này, bác bỏ lời tà thuyết ngoại đạo. Họ bày tỏ sự tôn kính trọng đại đối với các đệ tử của đức Phật, còn lòng kính trọng đối với các ngoại đạo sư giảm dần. Bọn ấy sinh lòng căm hận vị Trưởng lão này, bảo nhau:

– Bao lâu lão này còn sống, là còn nhiều chia rẽ giữa đám tín đồ của ta. Lòng tôn trọng đối với ta mất dần. Vậy ta phải giết lão đi mới được.

Họ liền đưa một ngàn đồng tiền cho tên cướp thường canh giữ các ẩn sĩ để giết vị này đi, gã liền quyết tâm giết vị Trưởng lão, nên đi đến Hắc Thạch Sơn cùng với đồng bọn đông đảo, vị Trưởng lão khi thấy gã đến liền dùng thần lực bay lên không biến mất. Tên cướp không thấy vị Trưởng lão hôm ấy, đành trở về nhà rồi lại đến trong sáu ngày liền, song vị Trưởng lão vẫn dùng thần thông biến mất dạng như trước.

Vào ngày thứ bảy, một tiền nghiệp do Tôn giả gây ra trong một đời trước, mang theo hậu quả lâu dài ở đời sau, giờ đây đang có cơ duyên xuất hiện để gây tai họa.

Chuyện kể rằng, một thưở xa xưa, vì nghe theo lời vợ mình xúi giục, vị này tìm cách làm cho cha mẹ mình chết đi, đã đem xe chở cha mẹ mình vào rừng, giả vờ như bị bọn cướp tấn công rồi đánh đập song thân. Do tuổi già mắt kém không thấy mọi vật rõ ràng, hai vị không nhận ra chính con mình, cứ tưởng có bọn cướp thật, liền kêu lên:

– Con ơi, bọn cướp đang giết mẹ cha, vậy con hãy trốn đi.

Rồi họ chỉ than khóc vì con mình thôi.

Vị này liền nghĩ: “Dù cha mẹ ta bị ta đánh đập, hai vị chỉ vì ta mà than khóc đó thôi. Ta thật đã làm một việc đáng sĩ nhục”. Vì thế ông an ủi mẹ cha, giả vờ bảo bọn cướp đã bị đánh đuổi đi rồi, và vỗ về tay chân cha mẹ, bảo:

– Xin song thân chớ sợ, bọn cướp trốn cả rồi.

Sau đó ông đem cha mẹ về nhà.

Hạnh nghiệp này mãi từ lâu không tìm được cơ duyên, nhưng vẫn đợi thời, như lòng ngọn lửa ấp ủ dưới tro tàn, bùng dậy bắt lấy Tôn giả này khi tái sinh lần cuối, nên vị Trưởng lão mang nghiệp quá đã chín muồi ấy không thể nào bay lên không được nữa. Thần thông của Tôn giả này ngày xưa đã có lần nhiếp phục Nanda cùng Upananda hai Long vương và làm rung chuyển cả tối thắng điện Vejayanta ở Thiên cung, giờ đây vì chịu nghiệp quả phải suy yếu đi. Thế là tên cướp đập nát xương Tôn giả ra, bắt chịu thứ cực hình gọi là “rơm và bột”, rồi tưởng vị này đã chết, nên cùng đồng bọn bỏ đi.

Nhưng khi Trưởng lão này tỉnh lại liền dùng định lực bao phủ thân mình như đắp y bay lên không trở về yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ Ngài và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của con đã tận, con sắp tịch diệt.

Rồi được bậc Đạo Sư chấp thuận. Tôn giả nhập diệt ngay tại chỗ. Vào lúc ấy, sáu cõi thiên giới cùng nổi lên chấn động, chư thiên đồng nhau khóc:

– Đạo Sư của chúng ta đã tịch diệt!

Thiên chúng liền đem hương liệu, tràng hoa ngát mùi hương thiên giới cũng gỗ đủ loại đến và dàn hỏa táng được dựng lên bằng gỗ chiên đàn cùng chín mươi chín bảo vật.

Bậc Đạo Sư bảo Tăng chúng đặt kim thân Tôn giả này vào địa điểm hành lễ, trong lúc Ngài đứng ngay cạnh đó, và suốt trong khoảng một dặm đường quanh dàn hỏa táng, hoa trời rơi xuống như mưa sa, chư Thiên và loài người cũng đứng chen lấn nhau, dự Thánh lễ suốt bảy ngày. Bậc Đạo Sư bảo lượm xá lợi đầy đủ, và dựng đền thờ trong ngôi nhà có gác nhọn tại Trúc Lâm.

Vào lúc ấy trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đưa đề tài chuyện ấy ra, bảo nhau:

– Thưa các Hiền hữu, Tôn giả Xá lợi phất vì không diệt độ trong khi yết kiến Như Lai, nên không được hưởng lễ nghi trọng thể từ bàn tay đức Phật, còn Tôn giả Mục Kiền Liên, vì diệt độ cạnh bậc Đạo Sư nên đã được vinh dự cao cả như thế.

Bậc Đạo Sư đến nơi, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi đàm luận vấn đề gì, và khi được biết, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa Mục Kiền Liên cũng nhận được đủ vinh dự từ bàn tay Ta.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai phu nhân, vị quốc sư của hoàng gia. Sau mười tháng, Ngài sinh ra đời một sáng sớm kia. Lúc ấy một loạt đủ loại binh khí ở kinh thành Ba-la-nại sáng rực trong khoảng mười hai dặm đường. Vị quốc sư ấy, vào hôm hài nhi ra đời, bước ra khỏi cửa nhìn lên trời để tiên đoán số mạng của con và biết rằng hài nhi sinh ra theo một sự kết hợp các vì sao ở thiên giới, về sau chắc chắn sẽ làm thủ lạnh thiện xạ toàn cõi Diêm-phủ -đề.

Vì thế ông vội đi thật sớm đến hoàng cung vấn an vua. Khi vua phán:

– Này Đạo sư, làm sao trẫm an khang được, hôm nay một loạt vũ khí sáng rực lên trong cung.

Ông tâu:

– Xin Đại vương chớ sợ, không những chỉ trong cung mà khắp kinh thành đều thấy ánh sáng của binh khí. Đó là do một hài nhi ra đời trong nhà chúng thần.

– Này Đạo sư, việc ra đời của một hài nhi trong những cơ duyên như thế sẽ đem lại hậu quả gì?

– Tâu Đại vương, không hề gì cả, nhưng sau này hài nhi ấy là thủ lĩnh các thiện xạ trong cõi Diêm-phủ-đề.

– Tốt lành thay, này Đạo sư, hãy khéo chăm sóc hài nhi và khi nó lớn lên, hãy đem nó đến trình diện trẫm.

Nói xong, vua ra lệnh ban một ngàn đồng tiền để nuôi dưỡng hài nhi. Vị quốc sư nhận lãnhđem về nhà.

Vào ngày đặt tên hài nhi, ông gọi hài nhi là Jotipàla (Hộ Minh) vì có ánh sáng của đám binh khí trong lúc hài nhi ra đời.

Hài nhi được nuôi dưỡng rất sang trọng và đến năm mười sáu tuổi, chàng có dung sắc tuyệt hảo. Thân phụ chàng thấy tướng mạo khác thường như vậy liền bảo:

– Này con, con hãy đi đến thành Takkàsilà, và thọ giáo mọi môn học từ một vị danh sư tiếng tăm lẫy lừng thế giới.

Chàng tuân lệnh, đem theo học phí, giã từ song thân rồi lên đường đến đó. Chàng dâng lên một ngàn đồng tiền, làm lễ nhập học rồi bắt đầu thọ giáo, chỉ trong vòng bảy ngày đã đạt đến tuyệt đích.

Vị tôn sư kia hoan hỷ tặng chàng một bảo kiếm của mình, một chiếc cung sừng dê, và một bao đựng tên, cả hai được buộc vào nhau thật khéo, một áo giáp của ông cùng một chiếc mão, rồi bảo chàng:

– Này con Jotipàla yêu quí, ta đã già, vậy con hãy tập luyện đám môn đồ này.

Vị này lại trao cho chàng năm trăm môn đồ.

Bồ-tát nhận lãnh mọi vật xong, tạ từ sư phụ, trở về Ba-la-nại để thăm viếng song thân. Thân phụ nhìn thấy chàng cung kính đứng trước mặt liền hỏi:

– Này con đã học xong chưa?

– Thưa cha, đã.

Nghe chàng trả lời thế, người cha liền vào cung, và trình vua:

– Tâu Đại vương, con trai của tiểu thần đã học hành xong, bây giờ phải làm gì nữa?

– Đạo sư hãy đem chàng vào chầu Thiên tử.

– Tâu Đại vương, xin ban bổng lộc thế nào?

– Cứ ban cho chàng mỗi ngày một ngàn đồng tiền.

Vị quốc sư tuân lệnh ngay trở về nhà gọi con trai ra bảo:

– Này con, con phải vào chầu đức vua.

Từ đó mỗi ngày chàng hưởng một ngàn đồng tiền, và lo phụng sự nhà vua.

Các quan cận thần lộ vẻ bất mãn:

– Chúng ta không thấy Jotipàla làm gì cả, thế mà hưởng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, ta muốn xem chàng có biệt tài gì.

Vua nghe họ nói thế liền nói với quốc sư. Ông tâu:

– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh.

Rồi ông trở về nhà nói chuyện với con trai.

– Thưa thân phụ, thế thì tốt quá, vào ngày thứ bảy kể từ nay, con sẽ xin trình diễn tài nghệ, xin đức vua triệu tập tất cả xạ thủ trong nước về đây.

Vị quốc sư đi vào cung, tâu vua mọi chuyện chàng nói. Vua truyền lệnh đánh trống khắc kinh thành triệu tập các xạ thủ, khi họ đến đông đủ tính được tất cả là sáu mươi ngàn người. Vua nghe họ đã tề tựu, liền phán:

– Dân chúng khắp kinh thành hãy đến chứng kiến tài nghệ của Jotipàla.

Sau khi cho trống truyền tin ra, ngài ban lệnh chuẩn bị sân chầu, rồi được đám tùy tùng đông đảo theo hầu, ngài ngự lên bảo tọa nguy nga; vừa khi triệu tập mọi xạ thủ xong, ngài cho vời Jotipàla. Dưới lớp y trong, chàng mang cung, bao tên, áo giáp và mão, những vật đã được vị sư phụ tặng chàng trước kia. Chàng lại bảo mang thanh kiếm cho chàng và đến yết kiến vua trong bộ thường phục của chàng, rồi cung kính đứng sang một bên.

Các xạ thủ kia suy nghĩ: “Người ta đồn Jotipàla đến đây cho chúng ta thấy biệt tài của chàng, nhưng chàng đến mà không mang kiếm chứng tỏ chàng muốn nhận kiếm từ tay ta”. Thế rồi họ lại thỏa thuận với nhau sẽ không trao kiếm cho chàng. Vua bảo Jotipàla:

– Hãy cho ta thấy tài nghệ của khanh.

Thế là chàng tung ra một tấm màn giống túp lều quanh chàng, rồi đứng vào trong đó, cởi áo khoác ra, nịt áo giáp trong, xong mang áo giáp ngoài và buộc mão lên đầu. Sau đó, chàng lại giương sợi dây màn san hô trên chiếc cung sừng dê, buộc bao tên sau lưng và thanh kiếm bên sườn trái, chàng xoay tít mũi tên có đầu nhọn đính kim cương trên móng tay chàng, tung bức màn ra và xuất hiện như một vị Long vương vọt lên từ lòng đất với trang phục huy hoàng rực rỡ và đứng đãnh lễ vua.

Quần chúng thầy chàng liền nhảy lên reo hò vỗ tay vang dội. Vua bảo:

– Này Jotipàla, hãy trình diễn tài nghệ của khanh.

Chàng đáp:

– Tâu Đại vương, trong đám xạ thủ này có những người bắn nhanh như chớp, chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào một tiếng động mà không cần nhìn thấy, hoặc làm gãy một mũi tên đang rơi. Xin triệu bốn vị đó đến đây.

Vua liền triệu họ ngay.

Bậc Đại Sĩ dựng rạp trên một khoảng đất vuông trong sân chầu bốn góc chàng để bốn xạ thủ ấy đứng, mỗi vị được phát cho ba mươi ngàn mũi tên, bảo người đưa tận tay mỗi vị, còn chính chàng cầm mũi tên có gắn đầu kim cương ấy, đứng giữa rạp nói lớn:

– Tâu Đại vương, xin cho bốn xạ thủ này bắn tên đâm vào tiểu thần. Tiểu thần sẽ gạt hết tên bắn ấy ra ngoài.

Vua ra lệnh cho họ làm như vậy. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, chúng thần bắn tên nhanh như chớp, lại chẻ được cả sợi tóc hay bắn vào tiếng nói mà không cần nhìn thấy, hoặc bắn gãy mũi tên đang rơi, còn Jotipàla chỉ là chàng trai mới lớn, chúng thần không muốn bắn chàng.

Bậc Đại Sĩ bảo:

– Nếu các Ngài bắn được ta thì cứ bắn.

-Đồng ý.

Họ bảo và đồng loạt bắn tên.

Bậc Đại Sĩ gạt chúng tới tấp bằng mũi tên sắt của chàng, bằng đủ cách làm chúng rớt xuống đất, rồi xoay một vòng quanh chúng, chàng chất chúng lên thành một kho đầy tên xếp ăn khớp với nhau, cán khớp với cán, chuôi với chuôi, lông chim với lông chim, cho đến mọi mũi tên của đám xạ thủ được dùng hết cả, chàng thấy vậy mà không muốn đụng vào kho tên kia, chàng liền nhảy lên không đến trước vua.

Dân chúng reo hò vang dậy, la hét nhảy múa vỗ tay, ném cả áo quần đồ trang sức thành mộtđống của cải châu báu có một trăm mười tám triệu đồng. Lúc ấy vua hỏi:

-Này Jotibàla, khanh gọi xảo thuật này là gì?

-Tâu Đại vương, đó là cách đỡ tên.

-Có nhiều người biết cách ấy chăng?

-Tâu Đại vương, không có ai ngoài tiểu thần trong toàn cõi Diêm-phù-đề.

-Khanh hãy biểu diễn xảo thuật khác đi.

-Tâu Đại vương, bốn xạ thủ kia đứng bốn góc không đâm trúng tiểu thần được. Song nếu họ cứ đứng bốn góc ấy, thần sẽ đâm trúng cả bọn họ chỉ bằng một mũi tên thôi.

Bốn xạ thủ kia không dám đứng đó nữa, vì thế bậc Đại Sĩ dụng bốn cây chuối ở bốn góc, buộc mỗi sợi chỉ đó tía trên phần gắn lông chim của mũi tên rồi chàng bắn mũi tên, nhắm vào một cây chuối. Mủi tên đâm vào cây chuối xong qua đến cây thứ hai, cây thứ ba, thứ tư rồi trở lại cây đầu tiên mà nó đã xuyên thủng lần trước xong, trở về trong tay vị xạ thủ; đồng thời các cây chuối đứng vòng quanh theo sợi chỉ đỏ. Dân chúng lại vang hò reo dậy.

Vua hỏi:

-Xảo thuật này gọi là gì, Jotibàta hiền hữu?

-Tâu Đại vương, đó vòng tròn bị xuyên thủng.

-Thế khanh trổ thêm tài nghệ nữa đi.

Bậc Đại Sĩ liền trình diễn các kiểu bắn tên hình gậy, hình dây thừng, hình bện tóc, và biểu diễn các xảo thuật khác gọi là: bắn tên hình cái đài cao, tên hình ngôi đình, tên hình bức tường, tên hình cầu thang, tên hình hồ nước, và bắn tên hình hoa sen nở khiến chúng rơi rào rào như mưa sa.

Như vậy, chàng biểu diễn mười hai tài nghệ vô song và làm gãy bảy vật lớn vô địch. Chàngđâm thủng một tấm ván gỗ sung dày hai tấc, một tấm gỗ asana dày một tấc, một dĩa đồng dày năm phân, một dĩa sắt dày hai phân, và sau khi đâm thủng một trăm tấm ván ghép vào nhau, lần lượt chàng bắn mũi tên vào phía trước vào các toa xe đựng đầy rơm, cát và ván gỗ, rồi làm cho tên xuyên qua ngã sau; rồi lại bắn phía sau các toa xe, và làm cho tên xuyên qua phía trước.

Chàng bắn mũi tên xuyên qua một khoảng độ hai trăm mét dưới nước và hơn bốn trăm mét trên đất liền, chàng lại chẽ sợi tóc ở cách khoảng một trăm mét, ngay dấu hiệu đầu tiên nó vừa lay động theo gió. Khi chàng biểu diễn mọi kỳ công về tài nghệ này xong, mặt trời vừa lặn.

Lúc ấy, vua hứa ban cho chàng chức tổng lãnh binh và bảo:

– Này Jotipàla, nay đã tối rồi, ngày mai khanh sẽ nhận vinh dự làm đại tướng quân. Hãy đi trang điểm râu ria lại và tắm gội.

Cùng ngày ấy, vua ban cho chàng một trăm ngàn đồng tiền để chi tiêu. Bậc Đại Sĩ đáp:

– Tâu Đại vương, tiểu thần không cần tiền.

Rồi chàng ban một trăm tám mươi triệu đồng tiền ấy cho các vị lãnh chúa và các tùy tùng đi tắm, sau khi đã tô điểm râu tóc, và mặc xiêm y với đủ loại trang sức, chàng thưởng thức cao lương mỹ vị xong, chàng đến nằm nghỉ trên vương tọa, ngủ được hai canh, đến canh cuối cùng chàng thức giấc ngối xếp bằng trên vương tọa, suy nghĩ đến phần khởi đầu, phần giữa và phần cuối việc phô diễn kỳ công về tài nghệ của chàng.

Chàng nghĩ thầm: “Tài nghệ của ta hiển nhiên khởi đầu là chết chóc, phần giữa là thọ hưởng ái dục và cuối cùng là tái sinh vào địa ngục; vì hủy diệt mạng sống và buông lung phóng dật trong việc thọ hưởng dục lạc tội lỗi sẽ đưa đến tái sinh vào địa ngục. Vua ban ta chức đại tướng quân, và uy quyền cao trọng sẽ về tay ta. Ta sẽ có vợ con; nhưng nếu các dục lạc cứ tăng mãi thì thật khó thoát được dục tham. Ta muốn một mình xuất thế đi vào rừng, ta sống đời tu hành khổ hạnh là đúng lắm rồi”.

Bậc Đại Sĩ đứng lên khỏi vương tọa, và không cho ai biết cả, ngài bước xuống từ thượng lầu, ra đường bằng cửa hậu vào rừng một mình, đến một nơi trên bờ sông Godhàvari, gần rừng Kavittha, rộng chừng ba dặm.

Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nghe tin ngài xuất gia liền triệu sứ thần Vissakamma đến và bảo:

– Này Hiền hữu, Jotipàla đã xuất gia, và một hội chúng đông đảo sẽ hầu ngài. Vậy hãy dựng am ẩn sĩ bên bờ sông Godhàvari, trong rừng Kavittha và cung cấp đủ vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành.

Thiên sứ Vissa kamma tuân lệnh.

Còn bậc Đại Sĩ khi đến nơi, thấy con đường vừa cho một người đi bộ, nghĩ thầm: “Chắc đây là nơi dành cho các vị khổ hạnh trú thân”, rồi đi theo con đường đó, ngài không gặp ai, liền bước vào lều cỏ, chợt thấy vật dụng dành cho đời ẩn sĩ, ngài tự bảo: “Chắc Đế Thích Thiên chủ biết ta đã xuất gia”, rồi cỡi áo khoác, ngài đắp thượng y và hạ y bằng vỏ dà, khoác tấm da hươu lên một bên vai. Ngài buộc các cuộn tóc, khoác lên vai ba giạ thóc, cầm gậy khất sĩ, bước ra khỏi am, leo lên thềm đi đi lại lại.

Như vậy, ngài đã làm vinh quang ngôi rừng bằng vẻ cao đẹp của đời khổ hạnh và sau khi thực hành pháp môn thiền định Kàsina xong, vào ngày thứ bảy kể từ khi xuất gia, ngài chuyên tâm tu tập tám Thiền chứng và năm Thắng trí theo hạnh độc cư, chỉ dùng các thức ăn gì ngài kiếmđược và củ quả rừng.

Cha mẹ, thân bằng, bà con quyến thuộc ngài không thấy ngài đâu, đi tìm khắp nơi, lòng buồn phiền thất vọng. Sau đó một sơn nhân đã từng gặp và nhận ra bậc Đại Sĩ trong vùng am thất Kavittha kia, liền đi báo với song thân ngài và họ tâu trình vua. Vua phán:

– Này ta đi thăm chàng ngay.

Rồi cùng với song thân chàng và một đám tùy tùng theo hầu, vua đến bờ sông Goghàvarì theo con đường mà sơn nhân ấy đã chỉ dẫn.

Bồ-tát đến bờ sông, ngồi trên không thuyết Pháp cho hội chúng nghe, sau đó dẫn hội chúng về am, ngài cũng ngồi trên không, giảng rõ cho họ nỗi đau khổ vì tham đắm dục lạc, rồi dạy họ Chánh pháp. Tất cả cùng với vua xuất gia tu hành.

Bồ-tát vẫn tiếp tục sống ở đó cùng hội chúng tu hành chung quanh ngài. Tin ngài ẩn cư tại đó lan rộng khắp cõi Diêm-phù-đề. Vua chúa cùng đám quần thần đến đó sẵn sàng theo lệnh ngài và hội chúng dần dần lên đến hàng người. Hễ ai nghĩ đến tham dục, hay muốn hại người khác, bậc Đại Sĩ liền đi đến, ngồi trên không và thuyết pháp cho người ấy cùng dạy Pháp môn thiền Kàsina.

Bảy đại đệ tử của ngài là Sàlissara, Mendissara, Pabbata, Kàladevala, Kisavaccha, Anusissa va Nàrada. Các vị này nhờ tuân hành lời thuyết giáo của ngài, đều đạt Thiền chứng và đắc Thắng trí viên mãn. Dần dần vùng thảo am Kavittha trở nên đông đúc, không còn chỗ cho các vị ẩn sĩ sống nữa. Bậc Đạo Sĩ liền bảo Sàlissara:

– Này Sàlissara, nơi này không đủ cho các ẩn sĩ ở. Vậy hiền hữu đi cùng hội chúng này đến ẩn cư gần thị trấn Lambacùlaka thuộc thành trì của vua Candapajjota.

Vị này tuân lệnh ấy, đem theo hội chúng hàng ngàn người đến cư trú ở đó. Nhưng nhiều người vẫn đến gia nhập hội chúng khổ hạnh kia, nên thảo am lại đông dần như trước. Bồ-tát nói với Mendissara:

– Trên biên giới xứ Suratha có dòng sông Satodikà, bạn hãy đem chúng ẩn sĩ này đến cư trú trên bờ sông ấy.

Và ngài bảo vị ấy ra đi. Cũng cách ấy, lần thứ ba, ngài gọi Pabbata đến bảo:

– Trong đại lâm có núi Anjana, bạn hãy đến an trú tại đó.

Lần thứ tư, ngài gọi Kàladevala đến bảo:

– Phía nam quốc độ Avanti là núi Ghanasela, bạn hãy đến an trú gần đó.

Dần dần thảo am tại Kavittha lại đông đảo dù đã có năm hội chúng ẩn sĩ đi đến cư trú năm vùng khác nhau, tính được mấy ngàn người. Rồi Kisavaccha xin phép bậc Đại Sĩ đến cư trú trong ngự viên gần vị tổng tướng quân, tại kinh thành Kimbhavatì, trong quốc độ của vua Dandaki, ẩn sĩ Narada cư trú trong địa phận chính của dãy núi Aranjara, còn Anusissa ở lại cùng bậc Đạo Sĩ.

Vào thời ấy, vua Dandaki thất sủng một cung phi mà trước kia vua rất quý trọng, nên trong lúc buồn phiền, nàng đi ngao du đến ngự viên kia, khi thấy ẩn sĩ Kisavaccha, nàng liền nghĩ: “Chắc hẳn đây là kẻ mang vận xui. Ta phải vứt bỏ tội lỗi của ta trên người của kẻ này rồi đi tắm rửa”. Trước hết nàng cầm chiếc tăm xỉa răng rồi nhổ ra một đống nước bọt ngay trên nắm tóc bện lại của vị ẩn sĩ kia, nàng còn ném que tăm trên đầu vị này, rồi đi tắm.

Còn vua nhớ đến nàng, lại cho nàng phục chức như củ. Trong lúc lòng say sưa cuồng nhiệt, nàng kết luận rằng nàng phục hồi vinh dự ấy là do vứt bỏ được tội lỗi của mình trên con người xui xẻo kia. Không lâu sau đó, vua lại cách chức của vị tế sư hoàng gia, lão này cũng đi hỏi nàng cung phi kia, nhờ cách gì nàng được phục chức. Nàng kể lại đó là nhờ nàng vứt bỏ tội lỗi trên con người xui xẻo ở trong ngự viên.

Lão quốc sư cũng đi vứt bỏ tội lỗi của mình theo cách ấy, và cũng được vua phục chức như củ. Thời ấy dần dần có loạn ở biên giới, lão quốc sư đem một đoàn quân đi đánh trận. Lão quốc sưđang cuồng nhiệt hân hoan kia tâu vua:

– Tâu Đại vương, Đại vương muốn thắng hay bại?

Vua bảo:

– Thắng.

Lão liền nói:

– Thế thì có người xui xẻo đang trú ngụ trong ngự viên, xin Đại vương đem tội lỗi đến vứt lên đầu gã ấy.

Vua tán thành ý kiến ấy, phán:

– Đám binh sĩ cùng đi với trẫm đến ngự viên vứt bỏ tội lỗi lên con người xui xẻo kia.

Khi đến nơi, trước tiên vua ngậm chiếc tăm rồi nhổ nước bọt và thả chiếc tăm rơi trên đám tóc bện chặt của vị ẩn sĩ, sau đó còn làm được ướt đầu ngài, cả đám quân lính cũng làm theo như vậy.

Khi vua đi rồi, vị tổng tướng quân đến, thấy vị ẩn sĩ, liền lấy que tăm ra khỏi đám tóc và tắm gội vị này thật sạch sẽ, xong lại hỏi:

– Đức vua sau này sẽ ra sao?

– Thưa ngài, tâm ta không sân hận gì, nhưng chư Thần phẩn nộ nên vào ngày thứ bảy kể từ ngày nay, quốc độ của ngài sẽ tan tành, ngài nên nhanh chân tẩu thoát đi nơi khác.

Vị tướng quân vô cùng kinh hãi, về tâu ūa. Vua không tin, vì thế vị tướng quân đem vợ con trốn sang quốc độ khác. Bậc Đạo sư Sarabhanga (tức Bồ-tát Jotipàla ở đầu câu chuyện) nghe tin ấy, liền báo hai ẩn sĩ trẽ tuối đến mang Kisavaccha trên chiếc cáng bay về trên không. Còn vua đánh trận xong, đem đám phản loạn làm tù binh trở về thành.

Vào lúc vua trở về, trước hết chư thần làm mưa xuống, khi các xác chết được cơn mưa lũ cuốn trôi đi hết, lại có trận mưa hoa trời trên đỉnh cát trắng tinh khiết, trên hoa trời có mưa tiền nhỏ rơi xuống, sau đó có mưa tiền lớn, tiếp theo là trận mưa đầy châu báu cõi trời.

Dân chúng hân hoan lượm báu vật bằng vàng ròng. Sau đó rơi xuống trên người trần một trận mưa đủ loại binh khí, dân chúng bị phân thây tan tành. Kế đến là trận mưa than hồng nóng bỏng trên người họ, và trên các đám lửa cao như núi ấy rơi xuống một trận mưa cát mịn tràn ngập một khoảng rộng chừng sáu mươi cubit (01 cubit = 45cm). Một phần quốc độ rộng sáu mươi dặm bị tàn phá tan tành và tin trận hủy diệt này loan ra khắp toàn cõi Diêm-phù-đề.

Các lãnh chúa trong các xứ chư hầu, ba vị vua Kalinga, Atthaka và Bhìmaratha nghĩ thầm: “Ngày xưa, ở Ba-la-nại, vua xứ Kàsi là Kalàbu đã phạm tội với ẩn sĩ Khantivàdì, truyện kể rằng vua ấy bị nuốt vào lòng đất; cũng vậy vua Nàlikìra đem các ẩn sĩ cho chó ăn thịt; vua Ajjuna có ngàn cánh tay đã phạm tội với trị giá Angìrasa nên cũng chết cách như trên; nay vua Dandaki phạm tội với trí giả Kisavaccha, nên tương truyền cũng bị tan tành quốc độ, hủy diệt hết thảy. Chúng ta không biết các vị vua ấy tái sinh cõi nào; không ai trừ ngài Sarabhanga. Đạo sư của chúng ta có thể nói về điều này. Vậy chúng ta hãy đi hỏi ngài”.

Rồi cả hai ba vị vua theo lễ nghi trọng thể ngự đi hỏi chuyện này. Nhưng dù cả ba vị vua đã nghe tin đồn như vậy như kia, cũng không biết thực hư ra sao, mỗi vị cứ tưởng rằng chỉ riêng mình lên đường, nên khi không còn cách xa Goghàvari mấy, cả ba vị vua gặp nhau, cũng bước xuống các vương xa và ngự lên một chiếc vương xa duy nhất để cùng lên đường đến bờ sông Godhàvari.

Vào lúc ấy, Đế Thích Thiên chủ ngự trên ngai hoàng cẩm thạch, xem xét bảy vấn đề và tự nhủ thầm: “Ngoại trừ ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư, không có ai trên trần thế hay thiên giới có thể giải đáp các vấn đề trên. Vậy ta hãy đi hỏi ngài. Ba vị vua kia đã đi đến bờ sông Godhàvari để hỏi ngài Sarabhanga, bậc Đạo sư. Ta cũng sẽ đến hỏi ngài vấn đề ba vị kia hỏi.

Sau đó được chư thiên của hai thiên giới hộ tống, ngài giáng trần. Ngay hôm ấy, ẩn sĩ Kisavaccha từ trần, nên lúc cử hành tang lễ, vô số hội chúng ẩn sĩ cư trú nhiều nơi khác nhau,đến dựng dàn hỏa táng bằng gỗ thiên đàn để hỏa thiêu ngài, và quanh chỗ hỏa thiêu khoảng chừng năm dặm, hoa trời rơi xuống như mưa.

Bậc Đại Sĩ, sau khi xem xét việc cất giữ phần di cốt của vị đệ tử xong, liền vào am cùng các ẩn sĩ theo hầu, và ngồi xuống. Khi các vua đến bờ sông, có tiếng nhạc quân hành trổi. Bậc Đại Sĩ nghe vậy, bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Ông hãy ra xem nhạc ấy có ý nghĩa gì?

Rồi cầm bình nước uống, ẩn sĩ đến đó, khi thấy ba vị vua, ngài ngâm vần kệ đầu để thăm hỏi:

  1. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
    Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
    Trân trọng kính chào chư đại tướng
    Danh gì, cho biết, giữa trần gian?

Nghe lời ngài, ba vị vua liền xuống xe đảnh lễ ngài. Trong ba vị, có vua Atthaka lên tiếng đáp lời ngài qua vần kệ thứ hai:

  1. Bhi-ma, danh đế Ka-lin-ga,
    Cùng trẫm, At-tha, chính hiệu ta,
    Yết kiến chư hiền nhân khổ hạnh,
    Đến đây tham vấn, đủ ba vua.

Nhà ẩn sĩ bảo ba vị vua:

– Thế thì tâu Đại vương, các ngài đã đến tận nơi các ngài muốn, sau khi tắm rửa, nghỉ ngơi, các ngài vào am, đảnh lễ hội chúng ẩn sĩ rồi đem vấn đề ra hỏi bậc Đạo sư.

Như vậy ngài chuyện trò thân mật cùng ba vị vua, rồi tung lên bình nước và lau hết những giọt nước rớt ra ngoài, ngài nhìn lên thấy Đế Thích Thiên chủ, được chư thiên hộ tống đông đảo, đang giáng trần ngự trên lưng Thiên tượng Eravana, nhà ẩn sĩ liền đối thoại với Thiên chủ qua vần kệ thứ ba:

  1. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
    Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
    Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
    Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.

Nghe thế, Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ thứ tư:

  1. Su-ja, danh tiếng ở trên trời
    Tên gọi Ma-gha ở cõi đời,
    Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế
    Thăm hiền nhân khổ hạnh bao người.

Lúc ấy ẩn sĩ Anusissa nói với ngài:

– Tâu Thiên chủ, xin ngài hãy theo chúng thần.

Rồi cầm bình nước, vị ẩn sĩ vào am, cất bình nước xong, liền đến báo tin cho bậc Đại Sĩ biết có ba vị vua cùng Thiên chủ giang lâm để hỏi ngài một số vấn đề. Lúc ấy hội chúng ẩn sĩ vây quanh Đạo sư Sarabhanga đang tọa giữa một khoảng rộng có rào che. Ba vị vua đến đảnh lễ chúng ẩn sĩ, rồi ngài ngồi xuống một bên. Còn Đế Thích Thiên chủ giáng hạ đến gần hội chúng chắp tay vái chào và tán thán hội chúng này qua vần kệ thứ năm:

  1. Chư hiền danh vọng đã lừng vang
    Uy lực thần cao cả sẵn sàng,
    Hoan hỷ ta chào mừng Thánh chúng
    Trí tài siêu việt đám người phàm.

Đế Thích Thiên chủ chào hội chúng như vậy xong liền ngồi riêng ra để tránh khỏi sáu cố tật lúc ngồi. Sau đó ẩn sĩ thấy ngài ngồi phía dưới hội chúng liền ngâm vần kệ thứ sáu:

  1. Thân thể của ngài lão Thánh nhân
    Bốc mùi hôi hám khắp không gian,
    Sak-ka Thiên chủ liền lùi bước
    Tránh các mùi chư Thánh nực nồng.

Nghe nói vậy Đế Thích Thiên chủ đáp vần kệ khác:

  1. Dù các Thánh nhân tuổi đã già
    Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
    Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
    Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra
    Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ;
    Chư Thiên chẳng ghét chuyện kia mà.

Nói vậy xong, ngài thêm:

– Này Tôn giả Anusissa, ta gắng công đến đây để hỏi một số vấn đề, xin hãy cho phép ta làm việc ấy.

Nghe lời Đế Thích Thiên chủ, ẩn sĩ Anusissa liền đứng dậy cho phép ngài xong, vị ẩn sĩ này liền ngâm hai vần kệ với hội chúng ẩn sĩ:

  1. Su-ja phu tướng. Ma-gha-va, (*)
    Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
    Dẹp lủ yêu tinh, Thiên đế ấy,
    Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.
  2. Ai đây trong các bậc hiền nhân
    Giải đáp vấn đề thật khó khăn
    Cho cả ba vua đang trị nước
    Và Sak-ka, chúa tể Thiên thần?

(*) Sujampati và Maghava: danh hiệu của Sakka – Thiên chủ.

Nghe vậy cả hội chúng ẩn sĩ đều bảo:

– Này Hiền giả Anusissa, bạn nói chẳng khác nào bạn không thấy quả đất bạn đang ở; ngòai trừ bậc Đạo sư Sarabhanga của chúng ta, còn ai xứng đáng để trả lời các vấn đề kia nữa?

Nói xong, các vị ấy liền ngâm vần kệ khác:

  1. Sa-ra-bha Thánh giả, chân hiền
    Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
    Pháp tử, tinh thông trì giới luật,
    Giải trừ nghi hoặc của nhân thiên.

Nói xong hội chúng bảo ẩn sĩ Anusissa:

– Thưa Hiền giả, xin Hiền giả nhân danh Thánh chúng đến đảnh lễ bậc Đạo sư và tìm cơ hội thưa với ngài về vấn đề Đế Thích Thiên chủ đặt ra.

Vị này chấp thuận ngay rồi tìm được cơ hội, liền ngâm vần kệ khác nữa:

  1. Thánh chúng mong cầu bậc Đạo sư
    Kon-dan-na, xóa sạch nghi ngờ:
    Chủ đề này được nhiều người bảo
    Đè nặng các hiền trí lão gia.

Bậc Đại Sĩ liền chấp thuận và ngâm vần kệ sau:

  1. Cho phép người đem hỏi chuyện gì
    Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
    Đời này, đời kế, ta đều biết,
    Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.

Sau khi được bậc Đại Sĩ cho phép, Thiên chủ ra vấn đề ngài chuẩn bị hỏi.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ sự việc này:

  1. Thiên chủ tìm Chân lý pháp trần,
    Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
    Để ngài học những điều mong biết,
    Và bắt đầu tham vấn mọi phần.
  2. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn
    Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
    Và cái gì ta cần vứt bỏ
    Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
    Lời ai ta phải cần kham nhẫn
    Cho dẫu là thô lỗ tận cùng,
    Đây chính là điều ta ước muốn
    Kon-na Thánh giả nói cho thông.

*

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ giải thích vấn đề:

  1. Sân hận là tâm phải diệt trừ
    Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
    Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
    Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
    Ta phải nhịn lời từ mọi phía
    Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
    Lòng kham nhẫn ấy, hiền nhân bảo,
    Đệ nhất ngôi cao quả thật là.

Thiên chủ:

  1. Những lời thô ác của hai người
    Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài:
    Là bậc trên, người cùng đẳng cấp;
    Song làm sao nhẫn nhịn bao lời
    Của người thấp kém hơn ta nữa,
    Là việc ta mong học hỏi ngài.

Bậc Đại Sĩ:

  1. Lời ác thô từ các bậc trên,
    Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
    Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng;
    Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn
    Là chính viên lòng thành nhẫn nhục,
    Như lời hiền Thánh vẫn thường khuyên.

Các vần kệ trên đây là những lời đối đáp giữa hai vị. Khi ngài nói xong, Đế Thích Thiên chủ bảo bậc Đại Sĩ:

– Thưa Thánh giả, trong phần đầu ngài bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của mọi người, đó là lòng kiên nhẫn tối thượng”, song nay ngài lại bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của kẻ dưới, người ta nói, đây mới là lòng kiên nhẫn tối thượng”; lời nói sau không ăn khớp với lời nói đầu tiên của ngài.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói với Thiên chủ:

– Thưa Thiên chủ, lời sau cùng này của ta dành cho một người nhẫn nhịn lối nói thô lỗ của một kẻ mà người ấy biết là thấp kém hơn mình, còn lời nói đầu tiên của ta là do khi chỉ nhìn bề ngoài, ta không thể biết chắc hoàn cảnh của người khác có thấp kém hơn ta hay không.

Rồi để nêu rõ thật khó khăn khi chỉ nhìn bề ngoài mà phân biệt người thấp kém hay cao sang, trừ phi là phải qua tiếp xúc thân mật, ngài liền ngâm kệ:

  1. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài
    Mà đoán hơn, thường hay giả dạng
    Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
    Vậy thì, bạn hỡi, ta khuyên nhủ
    Hãy nhịn lời thô của mọi người.

Khi nghe điều này, Đế Thích Thiên chủ đầy lòng tín thành, cầu xin ngài:

– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả thuyết giảng cho chúng ta biết lợi lạc của lòng nhẫn nhục này.

Bậc Đại Sĩ liền ngâm kệ:

  1. Sức mạnh quân vương đến bực nào
    Cũng không thắng lợi chốn binh đao
    Bằng hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn:
    Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.

Khi bậc Đại Sĩ đã thuyết giảng các công đức do nhẫn nhục tạo nên như vậy xong, các vị vua suy nghĩ: Đế Thích Thiên chủ hỏi vấn đề của riêng ngài, mà lại không để cho chúng ta có cơ hội hỏi vấn đề của chúng ta”.

Biết được ước vọng của các vua ấy, Thiên chủ để riêng bốn vấn đề ngài đã chuẩn bị trước đây qua một bên, và khi đưa ra mối hoài nghi của các vị vua kia, Thiên chủ ngâm kệ này:

  1. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Xin hỏi phận Dan-da chúa tể
    Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
    Cõi nào phải tái sinh đày đọa,
    Vì phá Thánh hiền thế giới đây.

Bậc Đại Sĩ ngâm năm vần kệ giải đáp các vấn đề trên:

  1. Thưở nọ tan tành cả quốc gia,
    Vì làm ô nhục Thánh Ki-sa
    Dan-da ngã xuống Ku-ku địa
    Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.
  2. Nà-li đầy hoảng hốt rơi vào
    Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
    Vì nhạo báng hiền nhân, đạo sĩ,
    Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.
  3. Cũng vậy Aj-ju-na giết ngay
    Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày,
    An-gi, nên bị xô đầu xuống
    Hành hạ thân trong chốn đọa đày.
  4. Ka-là-bu cháy tại Diêm cung
    Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
    Vì đã hại hiền nhân đức hạnh
    “Bậc thầy nhẫn nhục” tiếng vang lừng.
  5. Người trí nghe xong các chuyện trên
    Về miền địa ngục khổ triền miên,
    Chẳng hề hại Đạo Sư hiền trí,
    Nhờ Chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.

Khi bậc Đại Sĩ đã nêu rõ các cõi mà bốn vị vua kia phải thác sinh về, ba vị vua này giải tỏađược hết mối nghi ngờ. Rồi Đế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ để nêu lên bốn vấn đề của ngài:

  1. Lời ngài đáng quý trọng êm tai
    Song muốn nghe thêm một chuyện này:
    Ai được người đời xem “đức độ”?
    Thế nhân gọi “trí giả” là ai?
    Người trần xem kẻ nào “thành tín”,
    Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?

Bậc Đại Sĩ liền ngâm bốn vần kệ trả lời:

  1. Khẩu, hành chứng tỏ tự điều thân,
    Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
    Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
    Được xem “đức độ” giữa nhân quần.
  2. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
    Không làm điều ác độc, vô lương,
    Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
    Được mọi người xem đúng “trí nhân”.
  3. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
    Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
    Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
    Mọi người ca ngợi “kẻ tâm thành”.
  4. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
    Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
    Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
    Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.

Bậc Đại Sĩ trả lời bốn vấn đề trên như vậy, chẳng khác nào làm vầng trăng hiện lên bầu trời. Sau đó là những câu hỏi đáp khác nữa:

Thiên chủ:

  1. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
    Ao ước nghe thêm một chuyện này
    Đức hạnh, vận may, hiền trí thiện,
    Cái nào tối thắng giữa trần ai?
  2. Người thiện xem hiền trí tối cao,
    Như trăng che khuất các vì sao,
    Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
    Rõ ràng bậc trí phải theo mau.
  3. Lời người thân ái thật êm tai,
    Mong ước nghe thêm một chuyện này:
    Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
    Đường nào hành động phải theo hoài?
    Đâu là trí đạo xin cho biết
    Nhờ việc nào người có trí ngay?

Bậc Đại Sĩ:

  1. Kết bạn người uyên bác lão thành,
    Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
    Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
    Vì vậy con người trí tuệ sinh!
  2. Bậc trí nhìn tham dục giác quan
    Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
    Giữa tham, ưu não gây kinh hãi,
    An tịnh, hiền nhân dạ chẳng màng.
  3. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
    Tu tập từ bi vô lượng tâm,
    Với mọi hữu tình đều quý mến,
    Tâm thanh tịnh, đến Phạm thiên cung.

Trong khi bậc Đại Sĩ thuyết giảng như vậy về các tội lỗi do tham dục gây ra, ba vị vua cùng với đám quân sĩ đều đoạn trừ tham dục nhờ lấy đức tính từ bi để đối trị. Bậc Đại Sĩ biết được việc này, liền ngâm kệ tán thán cả ba vị vua:

  1. Nhờ thần lực nên chúa Bhi-ma
    Cùng với ngài, này chúa At-tha,
    Đại đế Ka-lin-ga hiển hách,
    Đến đây các vị đủ luôn ba,
    Xưa làm nô lệ cho tham dục,
    Nay được tự do giải thoát ra.

Nghe vậy cả ba vị Đại vương ngâm kệ tán thán bậc Đại Sĩ :

  1. Chính ngài là bậc tha tâm thông,
    Nhờ vậy, từ vua đến đạo quân
    Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
    Xin ngài ban bố một hồng ân
    Chúng ta quả thật đều mong ước
    Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.

Sau đó bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ khác để ban cho các vị đặc ân này:

39 Ta ban điều các vị mong cầu
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.

Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:
40. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ
Đạt đến lạc an dạ ước hoài.

Sau đó bậc Đại Sĩ ban lệnh truyền đại giới cho đám quân sĩ của ba vị vua và bảo hội chúng khổ hạnh ra về qua vần kệ này:

  1. Vinh dự thay Đã viếng Ki-sa,
    Giờ đây chư vị hãy về nhà,
    Hỡi chư hiền Thánh danh lừng lẫy,
    Hãy trú an trong tịnh lạc kia,
    Niềm hỷ lạc trong đời Thánh hạnh
    Chính là Cực lạc tối cao xa.

Các Thánh nhân này tán đồng ý kiến của ngài bằng cách cung kính đảnh lễ ngài, rồi bay lên hư không trở về cư trú của mình. Còn Đế Thích Thiên chủ từ chổ ngồi chắp tay đảnh lễ bậc Đại Sĩ chẳng khác nào tôn kính vầng nhật, rồi cùng hội chúng ra về.

*

Thấy vậy, bậc Đại Sĩ ngâm các vần kệ sau:

  1. Nghe thuyết toàn Chân lý tối cao
    Bởi hiền nhân giọng điệu thanh tao,
    Chư Thiên trở lại miền thiên giới,
    An lạc, ân tình thắm thiết sao!
  2. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
    Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
    Ai tinh cần tập trung tâm trí
    Tầm tứ chuyên đề, sẽ thấy ngay:
    Đường nhập tịnh theo từng cấp bực,
    Thoát ly Thần Chết độc quyền oai.

Bậc Đạo Sư đã thuyết giáo như vậy đưa đến quả A-la-hán tối thượng và bảo:

– Không phải chỉ ngày nay, mà ngay cả ngày xưa nữa, cũng có trận mưa hoa trời nhân dịp lễ hỏa táng Thánh thể của Mục-kiền-liên.

Rồi Ngài giảng bày các Thánh đế và nhận diện Tiền thân:

– Thời ấy Salissara là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mendissara là kassapa (Ca-diếp), Pabbata là Anuruddha (A-na-luật-đà), Devala là Kaccàyana (Ca-chiên-diên),Anussisa là ànanda, Kisavaccha là Kolita (tức Mục-kiền-liên), Sarabhanga là Bồ-tát, các ông phải hiểu Tiền thân này như vậy.

-ooOoo-

  1. Chuyện thiên nữ Alambusà (Tiền thân Alambusà)

Thiên chủ In-dra, đấng vạn năng…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc một Tỷ-kheo bị mê hoặc bởi người của thời kỳ phóng dật trước kia.

Toàn thể đề tài câu chuyện được kể lại đầy đủ trong Tiền thân Indriya số 432. Lúc ấy giờ bậc Đại

Sư hỏi vị Tỷ-kheo:

– Này Tỷ-kheo, có thật ông sinh tâm bất mãn chăng?

– Thưa vâng. Bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.

– Do ai gây nên?

– Bạch Thế Tôn, do người vợ cũ của con ngày trước.

-Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đã làm hại ông, chính vì kẻ đó mà trước kia ông đã mất Thiền lực, và phải nằm liệt suốt ba năm ròng trong trạng thái tán loạn tâm trí, đến khi hồi tỉnh, ông đã than khóc thảm thiết. Nói xong Ngài kể cho vị này câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa dưới triều vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở quốc độ Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông thạo mọi môn học thuật và sau đó ngài xuất gia vào rừng sống bằng củ quả rừng. Lúc bấy giờ, một con nai cái sống trong vùng thảo am của vị Bà La Môn này, ăn cỏ và uống nước suối có hòa lẫn tinh dịch của ngài, rồi lại sinh lòng say mê ngài đến độ nó mang thai và từ đó đến trú luôn ở nơi gần nhà của ẩn sĩ.

Bậc Đại Sĩ xem xét kỹ vấn đề và biết được sự thật của trường hợp trên. Về sau, nai cái sinh một nam nhi, và bậc Đại Sĩ chăm sóc hài nhi ấy với tình phụ tử. Hài nhi được đặt tên là Isisinga.

Khi chàng trai đến tuổi trưởng thành, ngài cho chàng thọ giới tu hành và khi ngài đã già, ngài dẫn chàng đến rừng Nàri và căn dặn :

– Này con yêu quý, ngay trong vùng Tuyết Sơn này có nhiều nữ nhân tươi đẹp như hoa, chúng thường đem tai họa tàn khốc cho những ai rơi vào uy lực của chúng; vậy con đừng để cho chúng chinh phục.

Chẳng bao lâu sau đó, ngài tử trần và sinh lên Phạm thiên giới. Còn ẩn sĩ Isisinga trong lúc tham thiền nhập định, an trú tại vùng Tuyết Sơn kia làm một nhà đại khổ hạnh khắc nghiệt, hành hạ xác thân đủ mặt.Vì uy lực công đức của ẩn sĩ này, cung của Đế Thích Thiên chủ xem xét tìm ra nguyên nhân và suy nghĩ: “Người này sẽ hạ ta xuống khỏi ngôi vị Thiên chủ, vậy ta quyết sai một Thiên nữ đi phá hoại công đức của vị này”.

Sau khi quan sát toàn thế giới chư Thiên, giữa đám hai mươi lăm triệu nàng thị nữ cõi trời, ngài thấy ngoại trừ Thiên nữ Alambusà, không có ai xứng hợp với công việc này hơn cả. Ngài liền triệu nàng đến, và ban lệnh cho nàng phải đi phá hoại công đức của Thánh nhân thanh tịnh kia.

*

Để giải thích vấn đề này, bác Đạo Sư ngâm vần kệ đầu:

  1. Thiên chủ In-dra (*), đấng vạn năng,
    Xưa kia đã giết Va-tra thần,
    Triệu nàng Thiên nữ vào cung điện
    Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
  2. “Thiên nữ A-lam”, Đế Thích truyền:
    “Ở trên hội chúng của chư Thiên
    Bảo nàng đến gặp I-si nọ
    Quyến rũ chàng say đắm mối duyên”.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Đế Thích chủ phán bảo Alambusà:

– Nàng hãy tìm gặp Isisinga, dùng uy lực của nàng chinh phục chàng và phá hủy công đức của chàng.

Rồi ngài ngâm vần kệ:

  1. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng
    Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
    Trong lúc đi tìm nguồn Cực lạc,
    Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.

Nghe nói vậy, nàng Alambusà đáp hai vần kệ:

  1. Giữa bao Thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
    Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
    Và bảo phận hèn đi quyến rũ
    Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?
  2. Vườn Nan-da, cực lạc thần tiên,
    Có biết bao Thiên nữ diệu huyền,
    Đến lượt một nàng trong đám ấy,
    Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.

Tiếp theo Đế Thích Thiên chủ ngâm ba vần kệ:

  1. Nàng nói đúng thay, ở Lạc viên
    Nan-da-na, trẫm biết vườn tiên
    Nhiều Thiên nữ diễm kều dung sắc
    Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.
  2. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
    Chẳng có ai dùng kế mỹ nhơn
    Điêu luyện như nàng, hàng quyến rũ
    Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.
  3. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
    Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
    Dùng lực thần kia là mỹ sắc
    Buộc hiền nhân nọ phục oai trời.

Nghe lời này, nàng Alambusà ngâm hai vần kệ:

  1. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
    Tiến bước lên đường phụng mệnh ban
    Song vẫn lo âu phần thiếp dám
    Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.
  2. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
    (Thiếp sợ run vì ý nghĩ này:)
    Làm hại Thánh hiền, nên phải đọa,
    Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.
  3. Thiên nữ A-lam nói vậy xong,
    Khởi hành, nàng lướt tóc như phong,
    Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy
    Vào các hạnh vi bất tịnh nhân.
  4. Đến cánh rừng kia nữa dặm sâu,
    Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
    I-si trú ẩn trong rừng ấy,
    Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.
  5. Tảng sáng tinh mơm chớm nắng đào,
    Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
    Nàng Thiên nữ đến gần hiền giả,
    Đang quét thảo am sạch biết bao!

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối thắng.

Lúc ấy, vị khổ hạnh ngâm kệ hỏi nàng:

  1. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
    Rõ ràng như thể ánh sao mai,
    Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
    Lấp lánh từ xa rực cả trời?
  2. Như phấn chiên-đàn, tỏa ngát hương,
    Huy hoàng chẳng khác ánh chiêu dương,
    Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng.
    Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng,
  3. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
    Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
    Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
    Làm ta say đắm cả tâm hồn!
  4. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
    Dài thẳng thon dần thật mảnh mai,
    Mông của nàng êm đềm xúc cảm
    Tròn như mặt gỗ để chơi bài.
  5. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
    Ta tưởng chừng tơ các ngó sen
    Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
    Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền!
  6. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
    Căng phồng, khoe cả cặp hình cầu,
    Săn dòn, cho dẫu không cây chống,
    Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu!
  7. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi
    Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
    Cổ dài như thể linh dương núi,
    Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi!
  8. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi.
    Trong sạch, luôn luôn giữ sáng ngời,
    Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới
    Chiếu đầy tia sáng, trắng tinh khôi!
  9. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình
    Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
    Khác nào đôi trái dâu đen láy,
    Tô điểm màu đo đỏ mép vành.
  10. Bím tóc mướt trơn, chẳng quá dài,
    Kết thành từng cuốn, gọn nhất đời,
    Điểm vàng đầu mút, mùi thơm ngát
    Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời!
  11. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
    Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
    Giữa bao hiền thánh đầy uy lực,
    Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.
  12. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
    Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
    Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
    Ta mong nàng thổ lộ cho tường.

Trong lúc vị ẩn sĩ tán tụng nàng Alambusa từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, không sót đường tơ kẻ tóc nào, nàng vẫn giữ lời yên lặng và khi nghe chàng nói lời lẽ dài dòng như vậy, nàng nhận thấy tâm trạng của chàng dao động biết dường nào, liền ngâm kệ này:

  1. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
    Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
    Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
    Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?
  2. Hãy vào am thất, chốn tu hành,
    Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh
    Ngàn thú giao hoan này khét tiếng
    Giữa người sùng báo đạo si tình.

Nói vậy xong, Thiên nữ Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta cứ đứng yên, chàng sẽ không đến gần cho ta được dịp quyển rũ chàng, vậy ta phải làm như thế sắp bỏ chạy”.

Rồi dùng mỹ nhân kế để làm dao động quyết tâm của vị ẩn sĩ, nàng bỏ chạy về hướng ban nãy nàng đã xuất hiện để đến gần chàng.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Nói xong Thiên nữ Lam-bu-sà
    Vội vã tạ từ cất bước xa
    Danh sĩ I-si, hòng quyến rũ
    Thánh nhân vướng phải nghiệp dâm tà.

*

Vị ẩn sĩ thấy nàng bỏ đi, liền kêu lên:

– Nàng đã đi rồi.

Và chàng nhanh nhẹn chận lối nàng, trong khi nàng đang chầm chậm bước ra, rồi lấy tay nắm tóc nàng lại.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Như gió, Thánh nhân lướt vội vàng
    Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
    Hăng say đeo đuổi theo Thiên nữ,
    Chụp lấy đầu, lôi mái tóc nàng.
  2. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
    Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
    Tức thì công hạnh chàng tiêu hết
    Trước lực thần mê hoặc đảo điên!
  3. Tư niệm nàng bay đến Ngọc cung
    Tại Nan-da Thượng uyển muôn trùng,
    Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,
    Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.
  4. Trang hoàng giăng trải đủ yên cương,
    Tô điểm cân đai phủ mấy tầng,
    Tại đó, Thánh nhân nằm khuất phục
    Trong tay Thiên nữ lắm ngày trường!
  5. Ba năm ròng rã lướt qua đầu
    Chẳng khác nào, giây lát bóng câu,
    Cho đến phút sau cùng, Thánh giả
    Trở mình thức khỏi cánh tay mầu!
  6. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
    Và chiếc bệ thờ cạnh đó thôi,
    Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi
    Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.
  7. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
    Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:
    “Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật
    Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.

36.Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng?
Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đấy báu vật
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?”

Nghe vậy, Alambusà nghĩ thầm: “Nếu ta không nói rõ, ắt chàng sẽ nguyền rủa ta, vậy ta phải nói cho chàng hay”. Rồi nàng hiện hình ra đứng bên cạnh chàng ngâm kệ:

  1. Thiên chủ Sak-ka phải đến đây,
    Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài;
    Dù vô tình thiếp không hay biết,
    Đã hại người trong cực lạc này.

Nghe nàng nói vậy, chàng liền nhớ lại lời cha dạy, rồi than khóc về việc chàng đã bị phá tan hết công hạnh chỉ vì bất tuân lời cha, và ngâm kệ:

  1. Thân phụ ta, Ca-diếp Đại nhân,
    Trí hiền khuyên nhủ trẻ buông lung:
    “Nữ nhân cũng giống hoa sen đẹp,
    Thận trọng, thiện nam, trước lực thần!”
  2. Đề phòng nữ sắc mê hồn,
    Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
    Do vậy, lòng nhân từ thúc đẩy
    Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.
  3. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua
    Những lời thông tuệ của cha già,
    Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
    Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!
  4. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
    Vâng lời cha dạy kể từ đây,
    Thà đành vong mạng còn hơn phải
    Trở lại đường xưa lối cũ này.

Sau đó, chàng từ bỏ dục lạc, và tham thiền nhập định. Còn Alambusà thấy rõ công đức tu tập của chàng biết rằng chàng đã đạt Thiền chứng, liền hoảng sợ cầu xin chàng tha tội.

*

Bậc Đạo Sư ngâm hai vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Bỗng chốc A-lam hiểu rõ ràng
    Lực chàng kiên định, thật can tràng,
    Vội quỳ đảnh lễ hiền nhân ấy,
    Lập tức nàng ôm lấy gót chàng.
  2. “Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
    Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
    Khi chư Thiên cõi trời vinh hiển
    Rúng động kinh hoàng nghe đại danh”.

*

Sau đó, chàng để Thiên nữ ra đi và bảo:

– Này Thiên nữ, ta tha tội cho nàng, thôi nàng hãy đi nơi nào tùy ý.

Rồi chàng ngâm kệ:

  1. Tam thập tam Thiên, hưởng phước lành
    Cùng Và-sa (*), chúa tể quần sinh,
    Và nàng Thiên nữ, xin từ giã,
    Nàng được tự do thỏa nguyện mình.

(*) Indra và Vàsava: danh hiệu của Sakka

Từ tạ chàng xong, nàng trở về thiên giới trong chiếc xe vàng ấy.

*

Bậc Đạo Sư ngâm ba vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Ôm lấy đôi chân bậc trí nhân
    Đi về phía hữu, diễu quanh vòng,
    Chắp tay, dáng điệu cầu tha tội,
    Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.
  2. Nàng Thiên nữ lại cỡi xe vàng,
    Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
    Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
    Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.
  3. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
    Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
    Sak-ka Thiên chủ hân hoan phán:
    “Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban”.

Khi nhận được điều ước do ngài ban, nàng ngâm vần kệ kết thúc:

  1. Ví dầu Đế Thích, chúa chư Thiên
    Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
    “Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ
    Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền”.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thọai dành cho vị Tỷ kheo kia và giảng giải cho các Thánh Đế cùng nhận diện Tiền thân: – Khi cac Thánh Đế kết thúc, vị Tỷ kheo ấy đắc Sơ quả Dự lưu:

– Lúc bấy giờ Alambusà chính là người vợ trong những ngày phóng dật cũ, Isisinga là vị Tỷ kheo thối thất này và bậc đại Thánh, cha chàng, chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện long vương Samkhapàla (Tiền thân Samkhapàla)

Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh…,

Câu chuyện này được bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên quan đến các phận sự trong những ngày trai giới (Bố-tát giới).

Lúc bấy giờ, nhân dịp này bậc Đạo Sư tán thán một số cư sĩ hành trì trai giới và bảo:

– Các hiền nhân ngày xưa đã từ bỏ cảnh giới huy hoàng của Long vương (Nàga) và hành trì trai giới.

Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ kheo, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa một vị vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị thành Ràjagaha (Vương Xá). Thời bấy giờ, Bồ-tát sinh làm vương tử của Chánh hậu, được đặt tên là Duyyodhana. khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông đạt các môn học thuật tại Takkasilà và trở về triều thăm vua cha, phụ vương liền truyền ngôi cho ngài và xuất gia tu hành tại ngự viên.

Cứ ba lần trong ngày, Bồ-tát đến yến kiến phụ vương thời bấy giờ được tôn kính và cung phụng trọng thể. Việc này gây trở ngại khiến vua cha không thể thực hành ngay cả những pháp môn làm phát khởi Thiền định, nên ngài suy nghĩ: “Ta đang hưởng đầy lợi dưỡng cùng với sự tôn sùng tột bực, nếu ta còn ở đây thì không thể nào đoạn trừ tham dục được. Vậy ta đừng nói gì với hoàng nhi cả, cứ việc bỏ đi nơi khác”.

Thế là không nói gì với một ai, ngài rời ngự viên và vượt qua biên giới của quốc độ Ma-kiệt-đà, ngài dựng một lều lá trong quốc độ Mahimsaka, gần núi Candaka, bên dòng sông Kannapenà uốn khúc, là nơi nó bắt nguồn từ hồ Samkhapàla. Ngài an trú tại nơi đó đến khi thành tựu các pháp môn làm phát khởi Thiền định, ngài tu tập các Thắng trí, và chỉ thọ thực những gì ngài kiếm được. Một vị Long vương loài Rồng Nàga, có danh hiệu Samkhapàla, sinh trưởng từ dòng sông Kannapennà cùng hội chúng đông đảo loài Rồng, thỉnh thoảng đến yết kiến vị ẩn sĩ này, nên ngài thuyết pháp cho Long vương.

Lúc bấy giờ vương tử nóng lòng gặp cha mà không biết hiện ngài ở đâu, nên thân hành đi tìm. Khi biết được nơi ngài đang cư ngụ như thế, vua cùng đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến ngài.

Sau khi dừng lại ở một đoạn đường ngăn cách nơi ấy, vua cùng một số cận thần đi về phía lều ẩn sĩ. Lúc ấy Long vương Samkhapàla đang cùng đám tùy tùng nghe thuyết pháp, nhưng khi thấy vua đến gần, liền đứng dậy vái chào bậc trí giả rồi từ tạ ra về.

Vua vái chào phụ vương và sau các nghi lễ thông thường của đôi bên trao đổi xong, vua hỏi:

– Bạch Tôn giả, vị vua nào vừa yết kiến Tôn giả?

– Này vương nhi, đó là Long vương Samkhapàla.

Vương tử liền mong ước viếng thăm cảnh giới Nàga vì vẻ huy hoàng vĩ đại ở đó. Khi ở lại cùng cha vài ngày, ngài cung cấp phụ vương đủ thực phẩm như thường lệ rồi trở về thành.

Nơi đó, ngài đã cho xây Bố thí đường tại bốn cổng thành, nhờ công đức bố thí ấy, ngài đã gây chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề. Vì ước nguyện lên cảnh giới Rồng Nàga, ngài luôn hành trì giới luật và giữ các phận sự trong ngày trai giới nên khi mạng chung, ngài tái sinh vào cảnh giới Rồng Nàga làm Long vương Samkhapàla.

Dần dần qua thời gian, ngài đâm chán cảnh huy hoàng này, nên từ khi ước nguyện tái sinh làm người, ngài lại hành trì các ngày trai giới; nhưng ở trong cảnh giới Rồng Nàga, việc hành trì giới luật không có kết quả gì, giới đức của ngài lại bị hao tổn.

Từ đó, ngài lìa bỏ cảnh giới Nàga và đến một nơi không xa dòng sông Kannapennà ấy, cuộn mình quanh tổ kiến giữa đường cái và đường mòn, ngài quyết tâm giữa ngày trai giới và thực hành giới đức. Và ngài bảo:

– Kẻ nào cần da thịt ta thì cứ lấy hết đi.

Và như vậy theo hạnh bố thí, ngài hy sinh thân mình, nằm trên tổ kiến, an nghỉ tại đó trong các ngày mười bốn và rằm giữa tháng, cứ hai tuần ngài trở về cảnh giới Nàga.

Một ngày kia, khi ngài đang nằm đó, thực hành giới luật xong, có một đám mười sáu nam nhân từ làng bên cạnh, thèm ăn thịt nên lang thang vào rừng, cầm vũ khí trong tay. Khi trở về chẳng kiếm được thú vật gì, chúng thấy ngài nằm trên tổ kiến liền nghĩ: “Hôm nay ta chẳng bắt được một con tắc kè nhỏ nào nữa, vậy ta phải giết rắn chúa này mà ăn thịt”.

Nhưng vì sợ thân mình ngài quá to lớn, dù chúng có bắt được ngài, ngài cũng sẽ thoát ra, nên chúng nghĩ rằng phải đâm ngài bằng các cây cọc ngay khi ngài đang nằm cuộn mình ở đó và sau khi gây thương tích cho ngài như vậy, chúng sẽ bắt ngài đi. Thế là chúng cầm cọc tiến đến gần ngài.

Lúc bấy giờ Bồ-tát biến hình to lớn như chiếc thuyền rộng cực kỳ xinh đẹp tựa vòng hoa làiđặt trên mặt đất, đôi mắt như quả Gunja, chiếc đầu như đóa hoa Jayasumana.

Khi nghe tiếng chân của mười sáu người kia, ngài ngẩng đầu lên từ thân thể cuộn tròn, mở tođôi mắt rực lửa nhìn cả bọn đi đến cầm cả cọc trong tay. Ngài suy nghĩ: “Hôm nay ước nguyện của ta sẽ thành tựu trong lúc ta nằm ở đây, vậy ta phải nhất tâm cao độ và hy sinh thân mạng ta cho bọn chúng, khi chúng lấy dao đâm ta, gây thương tích đầy mình mẩy ta, ta cũng không được mở mắt ra căm hận nhìn chúng”. Rồi để giữ vững quyết tâm này vì sợ phạm giới luật, ngài dấu đầu vào giữa đám mào và nằm yên. Bọn người kia đến gần ngài nắm ấy đuôi kéo lê đi trên mặt đất. Sau đó lại thả ngài xuống, chúng dùng cọc nhọn đâm vào tám chỗ trên thân ngài rồi lấy gậy tre màu đen, gai nhọn đủ thứ đâm vào các vết thương đang nứt nẻ, xong lại tiến bước, lôi ngài theo bằng dây thừng buộc vào tám chỗ ấy.

Bậc Đại Sĩ từ lúc bị thương tích bởi cọc nhọn kia, chẳng hề mở mắt hay căm hận nhìn chúng, song khi ngài bị kéo lê đi bằng tám sợi dây ấy, đầu ngài chúc xuống, đập vào đất. Vì thế khi chúng thấy đầu ngài rủ xuống, chúng đặt ngài trên con đường dốc cao, đâm qua mũi ngài một chiếc cọc mỏng, nhấc đầu ngài lên, luồn sợi dây vào mũi, và sau khi buộc đầu dây xong, chúng lại nhấc đầu ngài tiếp tục kéo đi.

Vừa lúc ấy một vị điền chủ tên gọi là Alàra ở trong thành Mithila thuộc quốc độ Videha, đang ngồi trong một cỗ xe sang trọng du hành cùng năm trăm cỗ xe nữa, trông thấy bọn ác nhân đang cố lôi Bồ-tát trên đường, liền cho cả mười sáu người trong bọn chúng mỗi người một con bò, một nắm tiền vàng, đầy đủ y phục bên trong lẫn bên ngoài, lại cho vợ con chúng đồ kim hoàn để đeo, xong bảo chúng thả ngài ra.

Bồ-tát liền trở về cung điện Nàga, lập tức đem theo đám tùy tùng đông đảo, đến gặp Alàra, và sau khi tán dương cảnh đẹp của Long cung Nàga, ngài đem ông về đó.

Ngài ban tặng đại vinh hoa phú quý cho ông, cùng với ba trăm Long nữ và mời thọ hưởng đủ lạc thú thiên giới. Alàra sống một năm tròn tại cung thất Nàga hưởng mọi thiên lạc xong, liền bảo Long vương:

– Này hiền hữu, ta muốn trở thành ẩn sĩ tu hành.

Rồi đem theo đủ mọi thứ cần dùng cho đời ẩn sĩ, ông rời Long cung Nàga đi đến vùng Tuyết Sơn tu hành, an trú tại đó một thời gian dài. Dần dần, ngài tiếp tục ra đi đến gần thành Ba-la-nại và an trú trong ngự viên.

Hôm sau ngài vào thành đi khất thực, tiến vào cung. Vua Ba-la-nại thấy diện mạo ngài quả thật uy nghi liền cho gọi ngài vào yết kiến, đặt ngài lên chiếc bảo tọa đặc biệt và ban đủ cao lương mỹ vị. Còn vua ngồi trên chiếc bảo tọa thắp hơn, đảnh lễ ngài xong, lại đàm đạo với ngài, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh,
    Chắc con dòng thế phiệt trâm anh,
    Niềm vui thế tục sao rời bỏ,
    Khoác áo tu, theo luật Thánh hành?

Các vần kệ sau đây là những lời đối đáp xen kẽ giữa vị ẩn sĩ khổ hạnh và vua:

Ẩn sĩ Alàra:

2.Tâu Chúa công, ta nhớ rõ rành
Cung Long vương nọ, dáng oai linh,
Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,
Nên nguyện khoác áo Thánh hành.

Đức vua:

  1. Chẳng mối hãi kinh hoặc dục, sân
    Khiến hiền nhân phải bỏ lời chân:
    Nói cho ta rõ điều mong biết,
    Tịnh tín tâm ta phát triển dần.

Ẩn sĩ Alàra:

  1. Tâu Đại vương, trong bước hải hồ,
    Trên đường ta thấy lũ côn đồ
    Đang lôi Rồng lớn, dây xiềng trói,
    Chiến thắng
    cười vui trở lại nhà.
  2. Chúa thượng, ta liền đến hét to:
    – Kinh hoàng, ta sửng sốt không ngờ
    “Các ngài, lôi quái long đâu đó,
    Ác đàng, làm gì nó nữa được?”

Ác đảng:

  1. Rồng lớn ngài đang thấy trói vầy
    Dị hình, cho thực phẩm ta đây
    A-là-ra, chẳng còn mơ ước
    Hưởng món ngon hơn mỹ vị này.
  2. Từ đây ta vụt thẳng về nhà
    Mỗi đứa dùng dao xẻ thịt ra,
    Thưởng thức thịt ngon, vì phải biết,
    Từ thủ rồng rắn chính nhà ta.

Alàra:

  1. Vì Rồng này mới bắt trong rừng
    Đang bị kéo về nấu món ăn,
    Ta tặng mỗi bò cho một vị,
    Các ngài thả nó khỏi dây chăng?

Ác đảng:

  1. Thịt bò nghe quả thật bùi tai,
    Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,
    Lời ấy, A-là, ta chấp thuận,
    Từ đây, tình bạn sẽ lâu dài.

Alàra:

10 Chúng thả ngài ra khỏi sợi dây
Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,
Chúa Rồng thoát được vòng tù tội
Hướng mặt về đông, nghỉ lát giây.

  1. Vẫn nhìn đông, đã sẵn sàng bay,
    Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,
    Trong lúc ta nhìn theo hướng ấy,
    Như người cầu nguyện chắp đôi tay:
  2. “Nhanh chân chạy trốn, hỡi thân bằng,
    E lại sa vào lũ địch nhân,
    Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,
    Nếu không, ắt phải họa vào thân”.
  3. Ngài vội đến hồ nước đẹp trong,
    Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,
    Trong lòng hoan hỷ, không còn sợ,
    Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng.
  4. Vừa khi biến mất, vị Long vương
    Hiển lộ thần thông thực rõ ràng,
    Thái độ ân cần, đầy tin cẩn,
    Lời tri ân cảm động can tràng.

Long vương:

  1. Ngài thân thiết vượt đấng sinh thành,
    Đã cứu đời ta, bạn chí tình
    Đến tận tay xương, nhờ chính bạn
    Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,
    A-là, ngài viếng nơi ta ngự,
    Cung điện đầy kho thực phẩm lành.
    Chẳng khác In-dra thành thượng giới,
    Ma-sak-ka, xứ sở lừng danh.

– Tâu Đại vương, sau khi nói xong những lời này, Long vương còn ca tụng thêm cảnh giới của ngài qua các vần kệ:

Long vương:

  1. Quốc độ ta bao cảnh tuyệt vời
    Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi
    chẳng vươn cát bụi trên đường lộ,
    chốn ấy, ly sầu, hưởng lạc thôi.
  2. Sân bằng, tường ngọc bích bao quanh,
    Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,
    Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,
    Bốn mùa thay đổi suốt năm lành.
  3. Giữa rừng xoài ấy, điện bằng vàng
    Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,
    Rực rỡ cung đình kia nổi bật
    Hơn làn chớp lóe giữa không gian.
  4. Tô điểm bảo châu, đẹp dị thường
    Biết bao tranh vẽ quý trang hoàng,
    Bầy tiên phục sức xa hoa quá,
    Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng.

Alàra:

  1. Sam-kha đại đế ngự lên mau
    Lầu thượng, quyền uy thật tối cao
    Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,
    Ấy cung hoàng hậu được ngài giao.
  2. Nhanh nhẹn một tiên nữ giữa bầy,
    Cầm viên ngọc báu ở trong tay
    Ngọc lam quý hóa đầy thần lực,
    Tự ý mời ta một chiếc ngai.
  3. Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi
    Sừng sững cao sang, một chiếc ngai:
    “Xin ngài an tọa, ta ngồi cạnh
    Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!”.
  4. Thêm một nàng theo kịp lệnh ngài
    Đến cùng bình nước ở trong tay,
    Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo
    Như chánh hậu chầu Long đế đây.
  5. Thêm nàng tiên nữa thật nhanh chân
    Dâng chén vàng cơm thập cẩm ngon
    Gia vị thơm nồng càng cám dỗ
    Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương.
  6. Trỗi nhạc lên- vì chàng hiểu rằng
    Đó là ý chúa – Chúng hằng mong
    Chiếm lòng ta, cũng như Long đề
    Đem thù thần tiên để tấn công.

Rồi vị chúa rồng đến gần ta ngăm thêm vần kệ:

  1. Ba trăm tỷ thiếp, hỡi A-là,
    Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,
    Tất cả đều lưng thon yểu điệu,
    Yêu kiều dung sắc vượt liên hoa,
    Kìa xem! Chúng chỉ chiều tôn ý,
    Xin nhận lời ban tặng của ta.

Alàra nói tiếp:

  1. Một năm thiên lạc hưởng tràn đầy,
    Ta hỏi Long vương một chuyện này:
    “Sao được tiên cung làm nội thất,
    Làm sao cung điện đến phần ngài?
  2. Tiên cảnh này thành tựu ngẫu nhiên,
    Được ngài xây? Tặng vật chư Thiên?
    Long vương xin nói điều chân thật,
    Sao đến an nhàn ở cảnh tiên?

Sau đây là các vấn kệ đối đáp nhau giữa đôi bên:

Long vương:

  1. Chẳng phải tình cờ, chẳng tự nhiên,
    Chẳng do ta tạo, hoặc chư Thiên,
    Chính nhờ thiện nghiệp ta, ngài biết,
    Nhờ đức hạnh, ta hưởng cảnh tiên.

Alàra:

  1. Hạnh nguyện gì, đâu Thánh đạo cao,
    Đức gì tích trữ phước ngày sau?
    Long vương, xin nói, ta mong biết
    Ngài huởng tiên cung bởi cách nào?

Long vương:

  1. Ta nguyện lời kia, sống trọn đời
    Tu nhân tích đức góp gom hoài,
    Cung này, nhờ đó, sau cùng hưởng,
    Thực phẩm tràn đầy chứa khắp nơi.

Alàra:

  1. Cuộc đời dù sáng rực bao ngày,
    Vũ khúc, hoan ca chẳng kéo dài,
    Kẻ yếu hại ngài vì đại lực,
    Lũ hèn làm dũng sĩ xa bay:
    Răng thần sao đấu không cân sức,
    Ngài chịu thua bầy hạ tiện vầy?
  2. Ngài chịu đau vì quá hãi hùng?
    Do đâu nọc độc đã tiêu vong?
    Sao ngài thần lực đầy răng ấy,
    Mà phải chịu đau bởi ác nhân?

Long vương:

  1. Ta chẳng thua vì quá hãi hùng,
    Chẳng ai làm đại lực tiêu vong,
    Mọi người thừa nhận bao công đức
    Như biển bờ cao, chẳng ngập tràn.
  2. Ngày trai mỗi tháng giữ hai lần,
    Chính buổi kia ngăn chặn bước đàng,
    Mười sáu chàng trai, tay nắm đủ
    Dây thừng, thòng lọng cực kỳ sang.
  3. Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta
    Xuyên dây thừng ấy, kéo ta qua,
    Đớn đau, ta chịu, ôi đành phận,
    Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà.

Alàra:

  1. Thấy trên đường vắng, trải giăng dài
    Hình đẹp, khổng lồ, đại lực oai:
    “Bậc trí hiển vinh”, ta thét lớn,
    “Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa ngài?”

Long vương:

  1. Ta chẳng cầu con, chẳng ước giàu,
    Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,
    Song trên nhân thế ta mong sống
    Nỗ lực anh hùng đạt đích cao.

Alàra:

  1. Tóc râu chải chuốt, dáng oai hùng,
    Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,
    Đỏ thắm chiên-đàn, ngài rực rỡ
    Xa xa, nào khác Nhạc thiên thần.
  2. Hưởng bao ân huệ lộc trời cho,
    Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,
    Ta hỏi Long vương, xin nói thật,
    Cõi người sao lại muốn an cư?

Long vương:

  1. Không đâu trừ thế giới người đời
    Thanh tịnh, điều thân được thấy rồi,
    Chỉ sống giữa đời người thế tục
    Đọan trừ sinh tử kiếp sau thôi.

Alàra:

  1. Dù hưởng đầy hoan lạc dị thường,
    Cùng Long vương sống suốt năm trường,
    Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mãu,
    Không ở nữa, vì xa cố hương.

Long vương:

  1. Thê nhi trẫm với lũ cung nhân
    Được luyện hầu ngài, lệnh phục tuân,
    Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,
    Vì ngài, trẫm thấy rất thương thân.

Alàra:

  1. Đủ mặt mẹ cha thắm thiết tình,
    Hân hoan tràn ngập cả gia đình,
    Còn nhiều người quý yêu con trẻ,
    Song lạc tối cao giữa chúng sinh
    Ta được thấy đây, Long đế hỡi,
    Vì ngài đầy thắm thiết bên mình.

Long vương:

  1. Bảo châu trẫm có điểm hồng vân
    Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,
    Nhận lấy về nhà, khi phú quý,
    Xin đưa trả ngọc lại Long quân.

Ẩn sĩ sau khi nói xong những lời này, liền tiếp tục như sau:

– Tâu Đại vương, sau đó ta đáp lời Long vương: “Tâu Đại đế, ta không mang giàu sang, ta chỉ muốn xuất gia tu hành”.

Sau khi xin ban đủ mọi vật cần thiết cho đời sống tu hành ẩn sĩ, ta từ giã cảnh giới Nàga cùng với Long vương, và khi đã mời ngài trở lui về, phần ta vào vùng Tuyết Sơn tu tập.

Nói xong, ẩn sĩ này lại thuyết giáo cho vua Ba-la-nại và ngâm thêm hai vần kệ :

  1. Dục tham trần thế thoáng qua nhanh
    Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,
    Thấy khổ phát sinh từ ái dục,
    Tín tâm dẫn bước đến tu hành.
  2. Người tàn như trái rụng, tiêu vong,
    Già trẻ, muôn loài rã mục thân,
    Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,
    Tối ưu là Thực thể thuần chân.

Nghe lời này, vua ngâm kệ đáp lời:

  1. Bậc hiền có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu Thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ngài dạy, cùng Long đế,
    Trẫm thực hành toàn nghiệp thiện chân.

Vị ẩn sĩ muốn khuyến khích tinh tấn lực của vua, liền ngâm kệ kết thúc:

  1. Bậc hīền, có trí tuệ uyên thâm,
    Chư vị tu thiền định chú tâm
    Đề mục tối cao, mà tất cả
    Chúng ta phải luyện tập tinh cần;
    Nghe lời ta dạy, cùng Long đế,
    Chúa thượng thực hành nghiệp thiện chân.

Vị này thuyết giáo như vậy với vua và sau khi ở lại đó bốn tháng mùa mưa, liền trở về Tuyết Sơn sống và tu tập Tứ Vô lượng tâm đến khi mạng chung, được tái sinh Phạm thiên giới.

Còn vua Samkhapàla. trong suốt quãng đời còn lại, chuyên tâm hành trì các ngày trai giới, bố thí, cùng nhiều thiện sự khác, nên sau khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.

*

Khi Pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo Sư nhận diện tiền thân:

Thời bấy giờ, vị vua cha trở thành ẩn sĩ khổ hạnh chính là Kassapa (Ca-diếp), vua Ba-la-nại là Ànanda (A-nan), ẩn sĩ Alàra là Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Long vương Samkhapàla chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện tiểu Sutasoma (Tiền thân Culla-Sutasoma)

Hiền hữu, thần dân thụ họp đây..,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự tu tập viên mãn hạnh xuất gia của Ngài.

Phần đầu câu chuyện tương ưng với phần đầu của Tiền thân Mahànàrada Kassapa số 544, tập VII.

*

Ngày xưa tại thành Bà-la-nại, ngày nay là kinh thành Sudassana, có vua Brahmadatta trị vì. Chánh hậu của ngài sinh ra Bồ-tát. Khuôn mặt ngài sáng rực như trăng rằm, vì thế ngài được đặt tên Somakumàra (Nguyệt Cung Vương tử). Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vì ngài thích uống nước trái cây Soma và hay có thói quen tưới rượu lễ vào đó nên ngài được mệnh danh Sutasoma (người làm rượu Soma).

Đến tuổi khôn lớn, ngài được truyền dạy các môn học thuật tại Takkasilà và khi trở về nhà, ngài được vua cha ban chiếc lọng trắng. Ngài trị vì quốc độ rất đúng pháp, cai quản cả một lãnh thổ rộng lớn cùng mười sáu ngàn cung tần, với nàng Candadevi làm chánh hậu. Dần dần hoàng gia càng thêm đông đúc, ngài đâm nhàm chán với cuộc sống gia đình nên lui vào rừng, mong ước thọ trì giới luật tu hành. Một ngày kia, ngài triệu người hớt tóc vào phán bảo:

– Khi nào khanh thấy sợi tóc bạc trên đầu trẫm, khanh phải nói cho trẫm biết.

Người hớt tóc tuân lệnh, sau đó thấy một sợi tóc bạc, liền tâu với ngài ngay. Vua bảo:

– Vậy khanh hãy nhổ ra và đưa cho trẫm.

Ngừơi hớt tóc lấy cái nhíp vàng nhổ ra và đặt vào tay ngài. Bậc Đại Sĩ thấy sợi tóc bạc, kêu to:

– Thân ta sắp bị tuổi già tàn phá.

Rồi ngài kinh hoảng cầm sợi tóc bạc bước xuống lầu, ngự lên ngai đặt trước thần dân.

Sau đó, ngài triệu tám mươi ngàn triều thần do vị đại tướng cầm đầu và sáu mươi ngàn Bà-la-môn do vị tế sư của triều đình lãnh đạo, cùng nhiều cận thần và dân chúng đến bảo:

– Tóc bạc đã xuất hiện trên đầu trẫm, trẫm đã già rồi, các khanh phải biết rằng trẫm muốn thành ẩn sĩ.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Hiền hữu, thần dân tụ tập đây,
    Quân sư tin cẩn, hãy nghe vầy:
    Giờ đầu tóc bạc ta dần hiện,
    Ta muốn trở thành ẩn sĩ ngay.

Nghe vậy, mỗi người trong đám kia đều thất vọng ngâm vần kệ này:

  1. Bất xứng lời kia đã thốt ra,
    Mũi tên Hoàng thượng thấu tim ta:
    Bảy trăm cung nữ, tâu Hoàng thượng,
    Sẽ thế nào khi chúa xuất gia?

Tiếp theo, bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ thứ ba:

  1. Kẻ khác sẽ khuyên chúng hết buồn,
    Chúng đều kiều diễm, tuổi thanh xuân,
    Còn ta hướng đích lên thiên giới,
    Nên muốn làm tu sĩ ẩn thân.

Các vị quân sư không thể nào đáp lời vua được liền đi yết kiến Thái hậu và trình câu chuyện với bà. Thái hậu liền vội vã đi đến hỏi vua:

– Này vương nhi, quần thần bảo rằng vương nhi muốn làm ẩn sĩ, có đúng chăng?

Bà lại ngâm hai vần kệ:

Than ôi! Ngày bất hạnh như vầy,
Ngày được vương nhi gọi mẹ đây:
Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
Con đành làm ẩn sĩ từ nay.

  1. Bạc phận, than ôi, quả đúng thời
    Sơ-ma yêu quí đã chào đời!
    Vô tình trước lệ sầu cay đắng
    Con quyết tu hành, vương tử ôi!

Trong khi Thái hậu than khóc như vậy, Bồ-tát không thốt lên lời nào. Thái hậu vẫn ngồi một mình khóc lóc mãi. Sau đó quần thần tâu với phụ hoàng. Ngài đi đến ngâm kệ sau:

  1. Pháp nào đây hướng dẫn vương nhi
    Mong ước rời vương quốv biệt ly,
    Bỏ mặc lão thân đời quạnh quẻ,
    Ẩn am tìm đến để tu trì?

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ liền trấn an ngài. Phụ vương lại bảo:

– Này vương nhi Sutasoma, cho dù con không thương tiếc gì đến song thân nữa, con vẫn còn nhiều vương tử, công chúa lắm. Chúng không thể nào sống thiều con được. Vậy đợi đến khi chúng trưởng thành rồi vương nhi hãy xuất gia tu hành có được chăng?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

  1. Vương nhi nhiều ấu tử, e rằng:
    Hết thảy còn đang độ búp măng,
    Đến lúc vương nhi vừa vắng bóng
    Nỗi buồn nào sánh chúng hay chăng?

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Quả thật, thần nhi có lắm con,
    Chúng còn đang độ tuổi măng non,
    Dù bao năm sống gần bên chúng,
    Con phải giờ đây vĩnh biệt luôn.

Thế là bậc Đại Sĩ thuyết Pháp cho phụ vương và khi nghe ngài thuyết Pháp, vua cha bình tâm lại, rồi quần thần thông báo cho bảy trăm cung phi. Họ từ trên thượng lầu bước xuống yết kiến ngài, ôm lấy chân ngài và ngâm vần kệ:

Lòng ngài chắc phải vỡ vì buồn,
Hoặc giả ngài không biết xót thương,
Nên ước nguyện theo đời ẩn sĩ,
Để cung tần khóc nỗi cô đơn!

Bậc Đại Sĩ nghe họ khóc than như vậy trong lúc họ ngã mình dưới chân ngài và gào thét, liền ngâm thêm một vần kệ:

  1. Lòng ta không thể vỡ vì buồn
    Dẫn thấy đau vầy, cũng xót thương,
    Song việc tu hành ta đã quyết
    Để ta hưởng cực lạc thiên đường.

Sau khi, quần thần trình lên chánh cung hoàng hậu. Bà đang mang thai nặng nhọc vì ngày sinh cận kề, bà liền đến gần bậc Đại Sĩ, đảnh lễ ngài và kính cẩn đứng qua một bên rồi ngâm ba vần kệ:

  1. Than ôi! bất hạnh chính là ngày
    Thiếp được xe duyên Chúa thượng đây,
    Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,
    Đại vương quyết chí xuất gia ngay.
  2. Bạc phận, than ôi, đó chính ngày
    Cùng So-ma kết tóc xe dây,
    Vì chàng để mặc ai sầu chết,
    Quyết chí theo đời ẩn sĩ đây.
  3. Mãn nguyệt khai hoa đã kế gần,
    Mong chàng ở lại, hỡi vương quân,
    Khi con sinh hạ, ngày sầu thảm
    Thiếp biết từ đây mất Chúa công.

Đến lượt bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ đáp:

  1. Mãn nguyệt khai hoa đã tới hồi,
    Ta chờ đến lúc trẻ ra đời,
    Rồi ta từ giả ngay vương tử,
    Xuất thế, ta thành ẩn sĩ thôi!

Nghe ngài nói vậy, bà không thể nào kiềm chế nỗi sầu thảm được nữa, liền lấy hai tay ôm ngực, bảo ngài:

– Tâu Chúa thượng, từ nay cảnh vinh quang của đôi ta không còn nữa.

Rồi lau dòng lệ xong, bà lại than khóc thảm thiết.

Bậc Đại Sĩ ngâm kệ an ủi bà:

  1. Vương hậu mắt huyền hoa mượt mà,
    Xin nàng đừng khóc nữa vì ta,
    Nguyệt Nga, lên thượng lầu an nghỉ,
    Ta sẽ đi, lòng chẳng thiết tha!

Không thể nào chịu đựng nổi lời nói của ngài được nữa, bà vội bước lên thượng lầu ngồi khóc một mình. Lúc ấy vị thái tử của Bồ-tát thấy vậy, hỏi bà:

– Tại sao mẫu hậu ngồi khóc ở đây?

Và chàng ngâm kệ này hỏi mẹ:

  1. Mẫu hậu có ai khiến mẹ buồn,
    Cớ sao mẹ khóc, lại nhìn con?
    Ai trong hoàng tộc lòng vô đạo,
    Vì mẹ, con đành giết sạch luôn.

Hoàng hậu liền ngâm vần kệ đáp:

  1. Không ai dám hại đến người kia,
    Người khiến ta sầu khổ não nề,
    Vì chính phụ vương con đã nói:
    “Ta không đoái tưởng, sẽ ra đi”.

Nghe lời mẹ, thái tử nói:

– Tâu mẫu hậu, sao mẫu hậu lại nói thế? Nếu quả vậy thì chúng con thật bơ bơ.

Chàng liền than khóc và ngâm kệ:

  1. Có lần ta dạo khắp hoa viên
    Nhìn lũ voi giao đấu trận tiền,
    Vì thử phụ vương thành ẩn sĩ
    Ta làm gì, hỡi kẻ vô duyên?

Sau đó, một vị vương tử vừa lên bảy, thấy anh và mẹ đang khóc, liền đến gần mẹ hỏi:

– Mẫu hậu và hoàng huynh ơi, cớ sao lại than khóc?

Và khi nghe duyên cớ, cậu bé bảo:

– Thôi được, đừng khóc nữa, con sẽ không để phụ vương xuất gia đâu.

Rồi vương tử an ủi hai vị, xong cùng nhũ mẫu bước xuống khỏi thượng lầu, đến yết kiến phụ vương và thưa:

– Tâu phụ vương, thần nhi nghe nói phụ vương sắp rời bỏ chúng con mà xuất gia, mặc dù chúng con không muốn, vậy con không chịu để phụ vương đi tu đâu.

Rồi ôm chặt lấy cổ vua cha, vương tử ngâm vần kệ:

  1. Mẫu hậu đang ngồi khóc nỉ non,
    Vương huynh cũng muốn giữ cha thương,
    Con ôm vương phụ bằng tay vậy,
    Chẳng để cha đi trái ý con.

Bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Thằng bé này thật là mối nguy hiểm cho ta, ta làm thế nào để thoát được nó đây?”. Rồi nhìn người nhũ mẫu, ngài bảo:

– Này hiền nhũ mẫu, hãy nhìn viên ngọc trang sức này, ta cho ngươi đấy, chỉ việc đem đứa bé này đi nơi khác, đừng để nó cản trở ta.

Vì ngài không thể tránh được cậu bé đang nắm chặt lấy tay ngài, ngài hứa ban thưởng cho nhũ mẫu ấy và ngâm kệ:

  1. Gắng nuôi vương tử lớn lên dần,
    Đem trẻ vui đùa chốn khác hơn,
    E trẻ phá tan niềm hỷ lạc,
    Cản chân ta vội đến thiên đường.

Nhủ mẫu nhận món quà thưởng và dỗ dành cậu bé rồi dẫn đi nơi khác, bà vừa than khóc vừa ngâm kệ:

  1. Vì ta từ khước hạt minh châu,
    Ta chẳng màng chi – sẽ thế nào?
    Vì Chúa thượng ta làm ẩn sĩ
    Bảo châu còn có nghĩa gì đâu?

Lúc ấy vị đại tướng của ngài suy nghĩ: “Chắc đức vua tưởng ngài chỉ có rất ít bảo vật trong cung thôi. Vậy ta sẽ cho ngài biết có vô số kể”. Vì thế vị này đứng lên đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương đầy ắp mọi kho tàng,
    Chúa thượng tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Chớ làm ẩn sĩ, sống thư nhàn.

Nghe vậy, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Kho tàng đầy ắp các kim ngân,
    Ta đã tạo nên đại phú cường,
    Toàn cõi thế gian đều khuất phục,
    Nay làm ẩn sĩ, bỏ phàm trần!

Khi ấy một vị đại phú thương vừa đi đến, có tên là Kulavaddhana, nghe lời liền đứng lại, đảnh lễ vua và ngâm kệ:

  1. Đại vương, thần tột đỉnh giàu sang,
    Chẳng đếm làm sao xiết bạc vàng,
    Xin ngắm hạ thần dâng tất cả,
    đứng làm ẩn sĩ, sống thư nhàn!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ đáp vần kệ:

  1. Này hỡi Ku-la, vẫn biết rằng
    Khanh mong dâng hiến cả kho tàng
    Song ta hướng dịch về thiên giới
    Nên khước từ nhân giới dục tham.

Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp như vậy cho dân chúng rồi bước lên thượng lầu của Cung Vạn Hoa, ngài đứng trên tầng thứ bảy, cắt búi tóc và bảo:

– Bây giờ ta không là gì nữa đối với các ngươi, vậy các ngươi hãy chọn một vị vua khácđi.Cùng với những lời này, ngài ném búi tóc của ngài, khăn đội đầu, cùng các bảo vật khác xuống giữa đám quân thần dân chúng. Quần thần cầm lấy búi tóc, lăn lóc trên mặt đất, kêu gào thảm thiết, rồi một đám bụi từ nơi ấy tung lên cao, dân chúng đứng lùi lại nhìn theo bảo nhau:

– Có lẽ đức vua đã cắt búi tóc và ném xuống cùng khăn đội đầu đủ cả vào đám dân chúng, cho nên mới có đám bụi tung lên gần cung điện.

Rồi họ khóc than ngâm kệ:

  1. Nhìn đám bụi kia chợt tỏa cao
    Gần hoàng cung đại Vạn Hoa Lầu,
    Chắc rằng Minh đế lừng danh vọng
    Đã cắt tóc ngài với bảo đao!

Còn bậc Đại Sĩ truyền gọi một quân hầu tìm đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ đem đến cho ngài, lại bảo người thợ hớt tóc cạo sạch râu tóc ngài, ném chiếc hòang bào rực rỡ xuống bảo tọa, ngài cắt bỏ mọi dải lụa màu, đắp lên người những miếng vải nối lại màu vàng, buộc cái chén đất lên đầu vai trái, rồi cầm chiếc gậy hành khất trong tay, ngài đi lui đi đi tới trên thượng lầu, sau đó bước xuống lầu đi ra đường, song không ai nhận ra ngài khi ngài đi xuông cả.

Còn bảy trăm cung tần bước lên thượng lầu không tìm thấy ngài, mà chỉ thấy đống xiêm y của ngài; liền bước xuống bảo mười sáu ngàn cung phi khác:

– Đại đế Sutasoma, Chúa thượng tôn quý của ta đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Và họ than khóc bước ra. Vừa lúc ấy dân chúng hay tin ngài đã làm ẩn sĩ, cả kinh thành chấnđộng hẳn lên, dân chúng bảo nhau:

– Người ta bảo đức vua đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Họ đều tụ tập tại cung môn, kêu lên:

– Chúa thượng chắc đang ở một nơi nào đó.

Rồi họ đổ xô ra khắp nơi ngài thường lui tới, song không tìm được ngài, họ đi lang thang đây đó vừa than khóc, vừa ngâm kệ:

  1. Này đây, cung điện, tháp lầu vàng,
    Lủng lẳng vòng hoa tỏa ngát hương,
    Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự du thường.
  2. Giăng mắc vòng hoa, dát ngọc vàng,
    Ta nhìn cung điện nóc cao sang
    là nơi hoàng tộc chầu bên cạnh,
    Đại đế kiêu hùng bước dọc ngang.
  3. Đây vườn thương uyển rực muôn hoa,
    Thay đổi quanh năm với các mùa,
    Rộn rịp bao cung tần mũ nữ,
    Ngày xưa Chúa thượng ngự loan xa.
  4. Hồ kia phủ khắp đám sen xanh.
    Nơi chốn chim muông đến lượn quanh,
    Tất cả hoàng gia chầu cạnh đó,
    Ngày xưa Chúa thượng vẫn du hành.

Cứ thế dân chúng vừa đi khắp nơi vừa than khóc rồi trở lại sân chầu, họ ngâm kệ:

  1. Thật buồn thay Chúa thượng So-ma
    Đã bỏ ngai vàng để xuất gia,
    Mặc chiếc hoàng y, ngài rảo bước
    Như voi đơn độc lạc đường xa.

Rồi họ ra đi, bỏ hết nhà cửa đồ đạc, dắt theo con cái đi tìm Bồ-tát và cha mẹ, cháu chắt họ cùng đi theo với mười sáu ngàn cung phi ca múa. Cả kinh thành như bãi sa mạc vì dân chúngđi theo nhau cả. Bồ-tát và dân chúng chiếm cứ một vùng mười hai dặm về núi Tuyết Sơn.

Lúc ấy Đế Thích Thiên chủ, chú tâm đến Đại sự Xuất thế của ngài, liền bảo Vissakamma:

– Này hiền hữu Vissakamma, vua Sutasoma đã từ bỏ thế tục. Ngài phải có nơi ẩn cư, vì dân chúng tụ tập quanh ngài đông lắm.

Ngài lại triệu vị này đến bảo:

– Hãy đi dựng am thất ẩn sĩ dài mười ba dặm, rộng năm dặm trên bờ sông Hằng ở vùng núi Tuyết Sơn.

Vị này tuân lệnh, cung cấp các lều ẩn sĩ đầy đủ mọi vật dụng cần thiết và lại làm một conđường dẫn đến đó, rồi trở về thiên giới.

Bậc ĐạI sĩ theo đường này đến vùng am tranh, sau khi ngài thọ đại giới, ngài lại truyền giới cho đám dân chúng, dần dần đa số được thọ giới nên khu vực mười ba dặm này đông đảo người tu. Lúc bấy gờ, việc Vissakamma xây am ẩn sĩ ra sao, đại chúng được truyền giới như thế nào, vùng am thất của Bồ-tát được sắp đặt ra sao, đều được hiểu theo như kiểu trong Tiền thân Hatthipàla số 509, Tập V. Ở đây, nếu có một dục tưởng hay tà kiến nào khởi lên trong tâm bất cứ người nào, bậc Đại Sĩ liền đến gần người đó ở trên không, ngồi kiết già giữa không gian và thuyết pháp qua hai vần kệ :

  1. Quên đi chuyện ái dục ngày xưa
    Khi vẻ mặt người vẫn cợt đùa,
    Kẻo sợ kinh thành hoan lạc ấy
    Làm bừng dục vọng, phải tiêu ma.
  2. Thoát người tham đắm, tự điều thân,
    Thiện ý ngày, đêm với thế nhân,
    Ngươi sẽ hưởng ngôi nhà thượng giới,
    Nơi người hành thiện đến chung phần.

Hội chúng Thánh nhân này hành trì lời giáo huấn của ngài, nên được tái sinh lên Phạm thiên giới, câu chuyện được kể giống hệt như trong Tiền thân Hatthipàla.

*

Sau khi bậc Đạo Sư chấm dứt thời Pháp thọai, Ngài bảo:

– Này các Tỷ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã làm Đại sự Xuất thế.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Lúc bấy giờ, song thân là vương phụ và mẫu hậu trong triều đình, Candà là mẹ Ràhula (La-hầu-la), Thái tử là Sàriputta (Xá-lợi-phất), tiểu vương tử là Ràhula, nhũ mẫu là Khujjutarà, vị phú thương Kulavaddhana là Kassapa (Ca-diếp), vị đại tướng là Moggallàna (Mục-kiền-liên), hoàng đệ Somadatta là Ànanda (A-nan) và vua Surasoma chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XVIII

Phẩm Năm Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện công chúa Nalinikà (Tiền thân Nalinikà)

Nhìn kia! Mặt đất cháy khô cằn…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về việc một Tỳ kheo bị người vợ của thời kỳ phóng dật cũ cám dỗ.

Khi kể chuyện này, Ngài hỏi vị Tỳ kheo vì ai ông đã lạc đường. Ông đáp:

– Vì người vợ cũ.

Bậc Đại Sư bảo:

– Quả vậy, này Tỳ kheo, nữ nhân ấy đã làm hại ông. Ngày xưa chính vì nàng ấy mà ông đã sa đọa mất hết Thiền lực và bị sụp đổ hoàn toàn.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Khi ngài khôn lớn, và đã được huấn luyện đủ môn học thuật, ngài xuất gia làm ẩn sĩ. Sau khi đạt được thần lực nhờ tu tập Thiền định, ngài vào trú ẩn tại Tuyết Sơn.

Giống như câu chuyện được kể trong Tiền thân Alambusà (số 523), một con nai cái đã thụ thai vì ngài và hạ sinh một nam tử được đặt tên là Isisinga. Khi cậu bé lớn khôn, cha cậu truyền giới cho cậu và dạy cậu đủ mọi pháp môn dẫn đến Thiền định.

Nhờ pháp môn này chẳng bao lâu chàng đạt được thần lực và hưởng thú cực lạc trong miền Tuyết Sơn, rồi nhờ pháp khổ hạnh, chàng trở thành một bậc Hiền trí chuyên tu khổ hạnh đến độ cung của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ bị rúng động vì đức độ của chàng.

Thiên chủ suy xét, tìm ra nguyên nhân liền suy nghĩ: “Ta phải tìm cách phá tan công hạnh vị này”. Trong khoảng ba năm liền, trời ngưng đổ mưa xuống quốc độ Kàsi, xứ sở này thành khô cằn nứt nẻ, không một vụ mùa nào kết quả cả. Dân chúng bị nạn đói bức bách liền tụ tập trước sân chầu và oán trách vua.

Đứng trước cửa sổ mở rộng vua hỏi họ có việc gì. Dân chúng tâu:

– Tâu Thánh thượng, trong ba năm liền, mưa trên trời không rơi xuống, cả nước bị khô cháy, dân chúng vô cùng khổ sở, xin Thánh thượng hãy cầu trời mưa.

Vua thề nguyền giữ đức độ, hành trì ngày trai giới, nhưng vẫn không có mưa xuống.

Rồi chính vào lúc nữa đêm, Thiên chủ Đế Thích giáng hạ tại hoàng cung, chiều sáng lòa khắp vùng vừa đứng trên không. Vua thấy ngài liền hỏi:

– Ngài là ai?

Ngài đáp:

– Ta là Đế Thích Thiên chủ.

– Tại sao ngài giáng thế?

– Này Đại vương, mưa có rơi trên quốc độ của ngài chăng?

– Không có mưa rơi.

– Thế ngài có biết tại sao chăng?

– Trẫm không biết.

– Trên vùng Tuyết Sơn, này Đại vương, có một ẩn sĩ tên là Isisinga, Vị này hành trì khổ hạnh hết sức khắc nghiệt, khi trời sắp mưa, ông giận dữ nhìn lên trời khiến mưa ngưng lại.

– Vậy phải làm sao đây?

– Nếu công hạnh vị này sụp đổ thì mưa sẽ rơi xuống.

– Nhưng ai có thể chiến thắng đức độ của vị ấy?

– Này Đại vương, công chúa Nalinikà của ngài có thể làm được việc này. Xin hãy triệu nàng đến đây và bảo nàng đến nơi đó phá tan công hạnh của vị ẩn sĩ kia.

Sau khi khuyên bảo vua như thế xong, Đế Thích Thiên chủ trở về cõi của ngài. Ngày hôm sau, vua hội ý với quần thần và triệu công chúa đến bảo nàng qua vần kệ đầu:

  1. Nhìn kia mặt đất cháy khô cằn,
    Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,
    Con hỡi, Na-li, đi đến đó,
    Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

Nghe lời này, nàng đáp vần kệ thứ hai:

  1. Làm sao con chịu được gian nan,
    Khi giữa bầy voi lạc bước đàng
    Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,
    Làm sao cất bước được bình an?

Vua cha lại ngâm hai vần kệ:

  1. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,
    Rồi từ đấy phải vội rời chân
    Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,
    Ngự giá công nương tiến thẳng đường.
  2. Chiến mã tượng, cùng với bộ binh
    Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,
    Với mê hồn sắc con cần kíp
    Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

Như vậy, vì muốn bảo vể quốc độ, vua đã nói với công chúa những việc không nên nói bằng lời như trên. Còn nàng sẵn sàng tuân theo lệnh cha. Thế là sau khi cung cấp cho nàng đủ mọi thứ cần thiết, bảo nàng lên đường cùng đám cận thần kia.

Họ đi đến gần biên giới và sau khi đóng trại ở đó, họ truyền đưa công chúa đi theo con đường do các sơn nhân chỉ dẫn. Rạng ngày hôm sau, họ vào đến vùng Tuyết Sơn, tiến sát vùng ẩn am ấy. Ngay lúc bấy giờ, Bồ-tát để con trai ở lại thảo am, còn ngài đã vào rừng hái quả dại. Các sơn nhân đến gần vùng thảo am, đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ, vừa chỉ lều cho Nalinikà vừa ngâm kệ:

  1. Nổi bật với hàng chuỗi lá xanh,
    Giữa Bhur-ja khóm lắm cây cành,
    Nhìn xem, lều của I-si đấy,
    Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.
  2. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia
    Phát xuất từ trong lửa tỏa ra
    Được ấp ủ nhờ tay bậc trí
    Nổi danh thần lực thật cao xa.

Đúng lúc Bồ-tát đã đi vào rừng, đám cận thần của vua đã vào bay vây vùng ẩn cư ấy và canh chừng kỹ, họ cho công chúa giả dạng một ẩn sĩ khỗ hạnh, khoát lên mình nàng đủ y trong y ngoài bằng võ cây đẹp có tô điểm mọi thứ trang sức, rồi bảo nàng cầm một quả cầu được vẽ màu, buột vào một sợi dây và đưa nàng vào vùng am tranh kia, còn chính họ đứng canh bên ngoài. Thế là vừa chơi quả cầu, nàng vừa tiến vao am thất ấy.

Lúc bấy giờ, Isisinga đang ngồi trên trường kỷ đặt tại cửa lều, thoạt trông thấy nàng tiến đến, chàng kinh hoảng đứng dậy chạy trốn vào trong. Nàng cứ tiến gần cửa lều và tiếp tục chơi quả cầu.

Bậc Đại Sĩ ngâm ba vần kệ đễ làm sáng tỏ việt này:

  1. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,
    Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,
    I-si tội nghiệp liền kinh hoảng
    Vội bước vào am, chốn ẩn thân.
  2. Lúc đứng trước thềm của đạo quân,
    Công nương đùa với quả cầu tròn,
    Thân hình diễm lệ nàng phô diển
    Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.
  3. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,
    Tứ trong, chàng vội phóng ra ngay,
    Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy
    Chàng thốt ra lời lẽ thế này:
  4. “Quả cây gì đó,dám thưa ngài?
    Dù có tung xa tít tận trời,
    Cũng sẽ quay về ngài như vậy,
    Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?

Nàng đáp vần kệ này, tả cho chàng biết về cây kia:

  1. Đỉnh Hương sơn nọ, chính quê nhà,
    Vốn tự hào khoe chốn tệ gia
    Có thật nhiều cây sinh quả ấy,
    Dù tung cao vút tận trời xa
    Vẫn còn trở lại tay lần nữa,
    Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

Nàng nối dối như vậy, nhưng chàng tin nàng ngay, Và cứ tưởng đấy là một vị tu khổ hạnh, nên chàng ân cần chào đón nàng và nhâm vần kệ này:

  1. Xin vào an tọa, hỡi hiền nhân,
    Nhận thức ăn và nước rửa chân,
    An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng
    Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

Chàng trai trẻ thanh tân này chưa từng thấy nữ nhân bao giờ cả, nên chàng bị lung lạc liền tin ngay câu chuyện lạ thường nàng vừa kể cho chàng nghe; rồi công hạnh của chàng bị đánh bại vì các trò quyến rũ của nàng và Thiền lực của chàng tiêu tan cả. Sau khi chơi đùa với nàng đến độ mệt mỏi, cuối cùng chàng đứng xuống hồ tắm rửa và khi đã hết cơn mệt, chàng trở vế ngồi trong lều, vẫn còn tưởng là một ẩn sĩ, một lần nữa chàng hỏi nàng ở nơi đâu và ngâm kệ này:

  1. Ngài đã đến đây bởi lối nào?
    Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao?
    Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,
    Song thú săn mồi tránh được sao?

Tiếp theo, Nalinikà đáp bốn vần kệ:

  1. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa
    Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,
    Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,
    Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.
  2. Đây xoài, Ti-lak với sà la,
    Nở rộ hoa kèn với quế hoa,
    Khúc hát yên tỉnh văng vẳng lại,
    Thưa ngài nơi ấy thấy nhà ta.
  3. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,
    Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,
    Một nơi vui, đẹp và thơm ngát,
    Đã lọt phần ta chiếm hết rồi!
  4. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn ,
    Ngọt ngào tươi đẹp ngát hương lan,
    Song ta sợ lũ cường gian đến
    Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

Chàng ẩn sĩ nghe nói vậy, muốn cầm chân nàng lại cho tới khi thân phụ chàng về, liền ngâm kệ này:

  1. Thân phụ đi tìm quả thật xa,
    Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,
    Khi người trở lại từ rừng ấy,
    Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

Lúc ấy nàng suy nghĩ: “Chàng trai này sinh trưởng trong rừng nên không biết ta là nữ nhân, chứ cha chàng sẽ biết ngay điều đó khi vừa thấy ta, và sẽ hỏi ta có việc gì mà đến đây, ngài sẽđánh vỡ đầu ta với cái đòn gánh của ngài. Thôi, chắc ta phải chạy trốn trước khi ngài trở về, vì mục đích ta đến đây đã hoàn thành”. Rồi dặn chàng cách tìm đường đi đến nhà nàng, nàng ngâm thêm một vần kệ nữa:

  1. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,
    Song tại nơi này, lắm Thánh nhân,
    Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,
    Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

Khi nàng nghĩ ra một kế để thoát thân như vậy, nàng liền rời vùng thảo am, và bảo chàng cứ ở lại nơi này, trong lúc chàng khao khát nhìn theo, nàng trở về gặp các triều thần theo đúng con đường nàng đã đến trước kia, rồi họ đưa nàng về trại và vượt quan nhiều trạm đường, họ đãđến thành Bà-la-nại.

Ngay hôm ấy, Đế Thích Thiên chủ đẹp ý đến độ ngài làm mưa rơi xuống trên khắp quốc độ này.

Nhưng cũng ngay khi nàng từ giã ẩn sĩ Isisinga, chàng bỗng dưng nổi cơn sốt khắp toàn thân và chàng run rẩy bước vào trong lều đắp thêm y ngoài bằng vỏ cây, rồi nằm xuống rên rĩ.

Buổi chiều thân phụ chàng về, không thấy chàng, liền tự hỏi: “Con ta đi đâu rồi?”. ngài vội đặt đòn gánh, bước vào trong am và khi thấy chàng nằm đó liền hỏi:

– Này con thân, con đau gì vậy?

Và vừa xoa bóp lưng con, ngài vừa ngâm các vần kệ:

  1. Bổ củi không, nước chẳng gánh về,
    Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,
    Này con sao trẻ người non dạ,
    Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?
  2. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,
    Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,
    Sắp sẵn tọa sàng rồi lấy nước,
    Con làm bổn phận thật vui vầy.
  3. Nay củi không, mà nước cũng không,
    Lửa không; thức nấu kiếm hoài công,
    Sao con chẳng đón mừng cha nữa,
    Con mất gì? Sao phải nhọc lòng?

Nghe cha hỏi, chàng liền ngâm các vần kệ giải đáp việc này:

  1. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,
    Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,
    Chàng không thấp quá, không cao quá,
    Làn tóc đen sao tựa hạt huyền!
  2. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,
    Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,
    Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm
    Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.
  3. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai
    Có một vành khuyên lủng lẳng cài,
    Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng
    Hào quang, khi chuyển nhẹ đôi hài.
  4. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn
    Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,
    Chàng đi mỗi buớc đều rung nhạc,
    Ríu rít như chim gặp nước tràn.
  5. Chẳng áo vỏ cây, dáng đạo nhân,
    Chẳng dây đai cỏ, thắt vào thân,
    Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,
    Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.
  6. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai
    Mềm mại, không nhành, chẳng có gai
    Bên áo kết vào, buông lủng lẳng
    Chạm vào nhau lách tách rung hoài.
  7. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường
    Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,
    Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,
    Tóc con cũng ước chải như chàng!
  8. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,
    Bao vẻ yêu kiều giữ gió bay,
    Sực nức lều ta miền thảo dã
    Như mùi sen thoảng gió lung lay!
  9. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,
    Thân chàng cao thật khác thân con,
    Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn
    Như khóm hoa hè nở ngát hương.
  10. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,
    Trên đất, dù chàng ném thật cao,
    Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,
    Trái gì, con muốn hỏi cha nào.
  11. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,
    Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,
    Chàng hé đôi môi: ôi quyến rũ!
    Thức chàng ăn khác củ, rau rừng!
  12. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,
    Vào tai âm, hưởng tận trong lòng
    Xuyên vào tim, thật du dương điệu,
    Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng!
  13. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,
    Con chắc dành ngâm tụng chú thần,
    Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,
    Cùng chàng, con ước kết thân bằng.
  14. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân
    Như chớp bao lần cuộn lấy thân,
    Được phủ lông tơ mềm, các ngón
    Như san hô đỏ ửng, tròn dần.
  15. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,
    Các móng tay tô đỏ, thật dài,
    Với cánh tay mềm ôm siết chặt,
    Trai xinh tạo khoái lạc cho đời!
  16. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang
    Như tấm gương vàng phản ánh dương,
    Chạm nhẹ làm con bừng rúng động
    Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.
  17. Tọa sàng bằng lá kết, giày vò
    Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,
    Rồi đến hồ kia con tắm mát,
    Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.
  18. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,
    Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,
    Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,
    Đến khi con gặp lại chàng trai!
  19. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,
    Nơi chốn đạo nhân ỡ cõi trần,
    Con muốn phi thân ngay đến đó,
    Bằng không, con chết tại tiền đường!
  20. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,
    Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,
    Con muốn phi thân nhanh đến đó,
    Bằng không, con chết ngay tại đây mà!

Bậc Đại Sĩ nghe chàng trai nói lảm nhảm như vậy, thì hiểu ngay chàng đã đánh mất công hạnh vì một nữ nhân nào đó, nên ngài ngâm sáu vần kệ để giáo huấn con mình:

  1. Ngôi nhà xưa của các hiền nhân
    Ở giữa rừng này ngập ánh quang,
    Nơi ẩn của chư Thần, Thánh nữ,
    Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.
  2. Tình bạn phát sinh, sẽ diệt vong;
    Mọi người yêu mến đám thân nhân,
    Song kẻ đáng thương nào có biết
    Nhờ ai, có gốc rễ, tình thân.

46-47. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,
Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong.
Nếu con nhìn lại chàng trai ấy
Như trước, cùng trò chuyện thiết thân,
Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,
Công năng đức hạnh bại vong dần.

  1. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,
    Thiên hình giả dạng! Hãy coi chừng!
    Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,
    Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Nghe những lời cha dạy, chàng trai suy nghĩ: “Cha ta bảo nàng ấy là một con quỷ cái!”. Sau đó chàng xin cha tha lỗi và nói:

– Thưa thân phụ, xin hãy tha tội cho con, con sẽ không rời nơi này đâu.

Cha chàng liền an ủi chàng, ngài bảo:

– Này con thân, con hãy tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Và ngài thuyết giảng cho chàng pháp môn chứng đắc Tứ Vô lượng tâm này.

Từ đó chàng trai thực hành theo lời dạy bảo trên và tu tập Thiền định như trước.

*

Khi đã chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư thuyết giảng các Thánh đế, và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, người vợ trong những ngày phóng dật cũ của kẻ này là Nalinikà, Tỷ kheo thối thất là Isisinga và Ta chính là người cha.

-ooOoo-

  1. Chuyện kỹ nữ Ummadantì (Tiền thân Ummadantì)

Kia nhà ai đó, hỡi Su-nan?…,

Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện rằng, một ngày kia, trong khi đi quanh thành Savatthi (Xá-vệ) để khất thực, ông chợt trông thấy một nữ nhân tuyệt sắc, với xiêm y diễm lệ, liền sinh lòng mê mẫn nàng ấy. Khi trở về Tịnh xá, ông không thể nào xua tan hình bóng nàng khỏi tâm tư. Từ lúc ấy, như thể trúng mũi tên độc của dục tình, ông mắc bệnh tương tư, gầy gò như chú nai rừng, gân xanh nổi khắp mình mẩy và mong manh như cành liễu rũ.

Ông không tìm thấy an lạc trong bất cứ pháp nào của tứ oai nghi, cũng không ham thích trầm tư, nhưng một khi xao lãng phận sự đối với vị Giáo thọ, ông xao lãng luôn cả việc học hỏi, suy tư và tham thiền nhập định. Các bạn đồng Phạm hạnh bảo:

– Này Hiền giả, trước đây bạn an tịnh và tự tại trong tứ oai nghi, sao giờ đây không như vậy nữa. Vì cớ gì?

Ông đáp:

– Này các Hiền giả, ta chẳng còn ham thích gì nữa.

Tăng chúng khuyên ông giữ an lạc và bảo:

– Sinh ra làm Đức Phật thật khó lắm thay; được nghe Chánh pháp và làm người là chuyện cũng khó vậy. Song trước đây Hiền giả đã được điều này, và vì mong ước đoạn trừ phiền não, bạn đã mặc thân nhân khóc lóc, và trở thành người tu hành sống đời sống ẩn sĩ. Tai sao nay Hiền giả lại rơi vào vòng tham dục? Những tham dục xấu xa này rất thông thường đối với mọi chúng sinh si ám, từ loài sâu bọ trở lên, những tham dục này có gốc ở sắc pháp hữu vi, vì thế chúng rất đáng nhàm chán, tham dục đầy phiền não, khổ ưu ở đây lại tăng trưởng nhiều hơn nữa. Tham dục giống như xương khô, như miếng thịt. Tham dục như bó đuốc làm bằng cỏ khô hay lửa than hồng. Tham dục tan biến như cơn mơ hay của nợ, hoặc như trái cây. Tham dục làm đau đớn như mũi giáo nhọn hay chiếc đầu rắn. Thế mà Hiền giả thật vậy, sau khi đã thọ trì Giáo pháp sáng ngời như thế này và xuất gia tu tập, giờ đây lại rơi vào vòng tham dục tai hại kia.

Khi thấy những lời khuyến giáo của Tăng chúng không làm ông hiểu được ý nghĩa, Tăng chúng đưa ông đến yết kiến Đức Thế Tôn tại Chánh pháp đường. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, tại sao các ông đem người này lại đây dù người đó không muốn?

Tăng chúng đáp:

– Hội chúng bảo rằng vĩ Tỷ-kheo này thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi xem có đúng chăng, khi nghe ông thú nhận quả đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, các bậc trí nhân ngày xưa, dù đang trị vì một quốc độ, vậy mà hễ khi nào tham dục khởi lên trong tâm cũng phải bị chi phối một thời gian, nhưng rồi đã cố điều phục nhưng tâm tư tán loạn ấy và không còn phạm vào tà hạnh bất xứng nữa.

Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong kinh thành Aritthapura của quốc độ dân Sivi, có vị vua trị vì mệnh danh là Sivi. Bồ-tát sinh ra làm con của Chánh hậu và được đặt tên là vương tử Sivi. Vị đại tướng trong triều cũng sinh con trai đặt tên là Ahipàraka. Hai thiếu nhi lớn lên trở thành thân hữu, khiđược mười sáu tuổi, hai vị đến thành Takkasilà học tập thành tài xong liền trở về nhà. Vua giao vương quốc cho vương tử, tân vương này phong bạn Ahipàraka làm đại tướng và cai trị rất đúng pháp.

Trong kinh thành có một phú thương tên gọi Tiritavaccha, gia sản đến tám trăm triệu đồng, sinh được một con gái rất yêu kiều diễm lệ, thân nàng có đủ mọi tướng tốt của phúc phận mai sau, đến ngày lễ đặt tên, nàng được gọi là Ummadantì (Người làm điên đảo say mê). Khi đến mười sáu tuổi, nàng đẹp như tiên nữ với một dung sắc siêu phàm.

Mọi phàm nhân chiêm ngưỡng nàng đều không thể nào chế ngự được lòng mình, và đều say mê nàng như thể say rượu nồng và mất hẳn tính tự chủ, vì thế thân phụ nàng đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Thánh thượng, nhà hạ thần có một nữ báu thật xứng đáng tiến cung hầu hạ Thánh thượng, xin hãy triệu các tiên tri vào, những vị này biết cách xem quý tướng trên thân người, để các vị ấy thử xét đoán nàng xong, xin Thánh thượng cứ tuyển dụng nàng tùy thích.

Vua chấp thận cho triệu các vị Bà-la-môn. Rồi họ đến nhà phú thương ấy, được tiếp đón rất trọng thể linh đình và dự tiệc bánh sữa. Vào lúc ấy Ummadantì ra tiếp kiến quan khách với xiêm y lộng lẫy. Thoạt trông thấy nàng, họ đều mất hết tự chủ, chẳng khác nào bị say rượu mạnh, họ quên mất rằng đang ăn tiệc dở dang. Có người cầm chiếc bánh lên, nghĩ mình sẽ ăn bánh, lại đặt bánh lên đầu! Có người để rớt bánh trên hông, có người lại ném bánh vào tường. Mọi người đều như mất trí.

Nàng thấy bọn họ như vậy, liền bảo:

-Thế mà họ bảo ta rằng các người này đến đây để xem xét các đặc điểm của ta.

Nàng ra lệnh nắm gáy cả bọn ném ra ngoài đường. Họ rất bực tức trở về cung với lòng uất hận Ummadantì và trình:

-Tâu Thánh Thượng, nữ nhân này không xứng với Thánh Thượng, đó là một tay phù thủy.

Vua nghĩ thầm: “Họ bảo ta nàng ấy là một phù thủy”.

Vì thế vua không triệu nàng vào.

Nghe được việc ấy, nàng bảo:

-Ta không được vua tuyển vào làm vương hậu vì họ bảo ta là phù thủy, như vậy bọn phù thủyđều giống ta. Được lắm, nếu ta có dịp vào yết kiếm vua, ta sẽ biết cách hành động.

Nàng lại sinh lòng thù oán vua.

Sau đó cha nàng đem gả nàng cho Ahipàraka, và nàng rất được vị phu quân yêu quí say mê. Nguyên nhân gì khiến nàng thành diễm lệ như vậy? Đó là nhờ một chiếc áo đỏ. Ngày xưa đã có một đời nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ ở Ba-la-nại. Vào một ngày lễ, nàng trông thấy một vài nữ nhân cao quý phục sức lộng lẫy trong những chiếc y rực rỡ nhuộm màu hoa cúc đỏ thắm đang vui đùa, nàng nói với cha mẹ là nàng cũng muốn mặc áo như vậy và chơi đùa.

Họ bèn bảo:

-Này con, nhà ta nghèo lắm, làm sao kiếm ra áo ấy cho con được?

Nàng đáp:

-Vậy thì cha mẹ hãy cho con đi làm kiếm tiền ở một gia đình giàu có, khi nào họ biết đến công lao của con, họ sẽ thưởng con một chiếc áo.

-Được.

Cha mẹ chấp thuận. Nàng liền đến một gia chủ xin làm việc phục dịch để lấy một chiếc áo đỏ, họ bảo:

-Sau khi làm việc cho ba năm, ta sẽ trả công cho nàng một chiếc áo.

Nàng bằng lòng ngay, bắt đầu làm cho họ. Trước khi mãn hạn ba năm, họ đã thưởng công nàng một chiếc áo nhuộm màu hoa cúc đỏ thật dày cùng với một chiếc xiêm khác và đưa nàng ra về, họ bảo:

-Hãy đi tìm các bạn nàng và sau khi tắm gội xong, hãy mặc các xiêm y này.

Thế là nàng cùng đám bạn ra đi tắm dưới sông, để chiếc áo đỏ trên bờ. Lúc ấy, một vị đệ tử của Đức Phật Kassapa(Ca-diếp), vừa bị cướp mất y, đang mặc những mảnh lá cây dùng làm y trong và y ngoài, đang đi đến chỗ này.

Thấy vị này, nàng nghĩ:

-Vị Thánh nhân này chắc bị cướp mất y. Ngày xưa ta cũng vậy, vì không có ai cho y nên thật khó kiếm ra một chiếc.

Nàng liền quyết định chia chiếc y làm đôi, cho vị này một nửa, vì vậy nàng bước lên bờ mặc chiếc áo cũ vào xong bảo:

-Xin Thánh giả nán lại.

Nàng đảnh lễ vị Tỷ-kheo và xé chiếc y làm đôi, tặng vị kia một nửa.

Sau đó vị này đứng nghiêng một bên trong một nơi kín đáo, ném chiếc y bằng lá cây ra, lấy một mảnh áo làm y trong và mảnh kia làm y ngoài, rồi bước ra giữa khoảng không, cả người chói rực lên nhờ màu sắc huy hoàng của chiếc áo, như thể vầng dương mới xuất hiện.

Thấy vậy nàng suy nghĩ: “Vị Thánh nhân này trước đây trông chẳng sáng chói, thế mà bây giờ ngài rực rỡ như vầng dương mới xuất hiện. Thôi để ta cúng dường ngài thêm cái này nữa”.

Nàng liền cúng nửa áo kia và phát nguyện:

-Thưa Thánh giả, con xin nguyện kiếp sau sẽ được sắc đẹp tuyệt trần, hễ ai thấy con đều không tự chủ được, và không nữ nhân nào đẹp hơn con cả.

Vị Tỷ-kheo cảm tạ nàng và ra đi, sau một kiếp luân hồi trong Thiên giới, nàng tái sinh vào thành Aritthapura và diễm lệ như đã được tả trên đây.

Lúc bấy giờ trong kinh thành dân chúng mở hội Kattika,vào ngày rầm trăng tròn tháng mười âm lịch, họ trang hoàng cả kinh thành.

Khi Ahipàraka ra đi đến trạm canh phòng, chàng dặn dò nàng:

– Phu nhân Ummadantì, hôm nay là ngày hội Kattika, đức vua dự đám rước linh đình khắp kinh thành, trước tiên sẽ đến trước cửa nhà ta. Vậy phu nhân đừng lộ diện e ngài thấy phu nhân, sẽ không chế ngự được tâm tư ngài.

Trong lúc chàng từ giã nàng, nàng đáp:

– Thiếp xin lưu tâm việc ấy.

Vừa khi chàng đi khuất, nàng liền ra lệnh nữ tỳ phải báo cho nàng biết ngay khi vua tới cổng nhà nàng. Thế rồi vào lúc mặt trời lặn, mặt trăng hiện lên, đèn đuốc sáng rực khắp kinh thành vừa được trang hoàng như thể một kinh thành của chư Thiên, đức vua phục sức vô cùng lộng lẫy, ngự trên vương xa thật đẹp do các tuần mã kéo, cùng đám quần thần theo hầu, đi vòng quanh kinh thành với vẻ uy nghi cao cả, trước tiên ngài đến thăm cửa nhà Ahipàraka.

Lúc bấy giờ ngôi dinh thự này đứng trong bức tường bao quanh màu son đỏ thắm với các cổng cao và tháp canh được trang hoàng rất sang trọng rực rỡ. Vừa khi ấy nữ tỳ đưa tin hoàng thượng giáng lâm, nàng Ummadantì ra lệnh đem đến một giỏ hoa, nàng lại đứng gần bên cửa sổ ném hoa xuống khắp mình vua với tất cả dáng điệu mê hồn của một Thiên thần.

Thoạt nhìn lên thấy nàng, vua như ngây ngất điên cuồng và không thể nào tự chủ được tâm trí, nên ngài không còn nhận ra nơi đây là tư thất của đại tướng quân Ahipàraka. Vì vậy ngài ngâm hai vần kệ hỏi người quản xa:

  1. Kia, nhà ai đó, hỡi Su-nan,
    Bao bọc thành cao tỏa ánh vàng?
    Bảo vật này như sao sáng rực,
    Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?
  2. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
    Chính chủ nhà? Hay vợ cậu tôn?
    Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
    Có chồng, hay chửa được cầu hôn?

Người quản xa đáp lời vua qua hai vần kệ:

  1. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần
    Đôi bên cha mẹ, thảy am tường;
    Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn
    Phụng sự quân vương đủ mọi đường.
  2. Đại thần này chính của Anh quân,
    Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
    Mệnh phụ A-li lừng lẫy ấy,
    Lọt lòng được gọi Um-ma-dan.

Nghe vậy, vua ngâm kệ tán tụng tên nàng:

  1. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
    Song thân nàng đã đặt cho nàng,
    Um-ma, từ lúc nàng nhìn trẫm,
    Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng!

Trông thấy vua dao động như thế, nàng vội đóng cửa sổ lại và đi thẳng vào khuê phòng. Còn vua, từ lúc trông thấy nàng, chẳng còn thiết gì đến việc đi dự đám rước linh đình quanh kinh thành nữa. Ngài bảo người quản xa:

– Này hiền hữu Sunanda, hãy dừng xe lại. Ðám hội này không hợp với ta nữa, nó chỉ hợp với Ahipàraka, đại tướng quân của ta thôi. Ngai vàng cũng xứng đáng với vị ấy hơn ta. Và khi vương xa dừng lại, ngài ngự lên hoàng cung vào nằm nghỉ trên long sàng và nói huyên thuyên mê mẩn:

  1. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
    Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
    Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
    Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền!
  2. Thu ba gợn sóng mắt long lanh
    Quyến rũ hồn như sét ái tình,
    Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
    Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình!
  3. Tố nga huyền bí, thật cao vời,
    Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
    Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
    Rụt rè như vẻ một con nai.
  4. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
    Chiên- đàn tỏa ngát, dịu đôi tay
    Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
    Ðến thuở nào cười với trẫm đây
  5. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
    Trước ngực phô trương món bội hoàn,
    Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt
    Khác nào cát lũy bám cây rừng?
  6. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
    Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
    Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
    Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền!
  7. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng
    Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
    Không còn tự chủ lòng ta nữa,
    Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan!
  8. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Um-ma,
    Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
    Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
    Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta!
  9. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền:
    Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
    Hưởng đời cùng với Um-ma ấy,
    Ðể tướng A-hi trị nước liền.

Sau đó các vị cận thần nói với tướng Ahipàraka:

– Thưa Chủ tướng, đức Thánh thượng đang lúc dự đám rước linh đình khắp kinh thành, đã đi đến cửa dinh ngài rồi trở về cung ngay.

Ahipàraka liền về nhà hỏi Ummadanti xem nàng có xuất hiện trước mắt vua không.

Nàng bảo:

– Thưa phu quân, có một lão bụng bự, răng hô đứng trên vương xa đến đây. Tiện thiếp không biết là đức vua hay vương tử, nhưng nghe bảo đó cũng là một vị vương gia nào đó, nên tiện thiếp đang lúc đứng trên cửa sổ liền ném hoa xuống người ấy. Sau đó người ấy liền quay xe bỏ đi mất.

Nghe nói vậy, chàng bảo:

– Thôi nàng đã hại ta tàn đời rồi!

Sáng sớm hôm sau lên đến cung vua, chàng đứng trước cửa vương thất và nghe vua đang nói huyên thuyên về nàng Ummadantì, chàng suy nghĩ: “Ðức vua đang si tình Ummadantì, nếu không chiếm được nàng, ngài sẽ chết mất, vậy bổn phận ta là phải cứu sống ngài, nếu ta làm việc ấy mà không gây tội lỗi cho ngài hoặc cho ta”.

Thế là chàng trở về nhà, gọi một tên gia nô bạo gan đến và bảo:

– Này hiền hữu, ở chốn kia có một gốc cây thân rỗng, trong ấy là đền thờ thần. Hiền hữu đừng cho ai biết cả, đợi lúc sẩm tối hãy đến ngồi trong bộng cây ấy. Ta sẽ đến đó cúng lễ dâng thần thánh và sẽ cầu nguyện như vầy: “Tâu Thiên vương, đức vua của chúng thần, trong lúc đám rước đang diễn hành, ngài đã không dự vào lại về cung thất nằm nói lảm nhảm không đâu; chúng thần chẳng hiểu cớ gì. Ðức vua đã từng làm đại ân nhân của chư thần, hằng năm đã chi tiêu vào việc cúng tế cả ngàn đồng tiền vàng. Xin Thiên vương cho biết tại sao đức vua lại nói nhảm như vậy và xin ban cho chúng thần một điều ước để cứu mạng ngài”, ta sẽ khấn như vậy và hiền hữu hãy nhớ lập lại những lời này: “Này Ðại tướng, đức vua chẳng bệnh tật gì cả, song ngài đang si tình phu nhân Ummadanti đấy. Nếu ngài chiếm được nàng, ngài sẽ sống, bằng không, e ngài phải chết. Nếu Ðại tướng muốn cho ngài sống, thì hãy dâng nàng Ummadanti cho ngài”. Hiền hữu nhớ nói như vậy.

Sau khi dặn dò gã ấy xong, chàng bảo gã ra đi. Thế là hôm sau, người gia nô đến ngồi trong bộng cây kia và khi vị đại tướng đến nơi cầu khấn, gã ấy đọc lại đủ điều đã đã học trên. Ðại tướng bảo:

– Tốt lắm.

Rồi đảnh lễ vị thần xong, đại tướng đến kể chuyện với các vị đại thần của vua; sau đó vào cung, gõ cửa cung thất của vua.

Vua đã hồi tỉnh và hỏi ai đó.

– Tâu Thánh thượng, chính hạ thần là Ahipàraka.

Rồi chàng mở cửa cung thất, bước vào làm lễ triều kiến vua và ngâm vần kệ:

  1. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
    Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
    – “Um-ma mê hoặc lòng kim thượng”-
    Mong chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng!

Vua liền hỏi:

– Này hiền hữu Ahipàraka, ngay các vị thần Dạ xoa cũng biết trẫm đang nói ngông cuồng vì say mê nàng Ummadanti đấy ư?

– Tâu Thánh thượng, quả vậy.

Vua nghĩ thầm: “Việc hèn hạ xấu xa kia của trẫm đã bị khắp thế gian biết cả rồi”. Và ngài cảm thấy hổ thẹn khôn cùng. Vừa khi lấy lại được lòng chân chính, vững vàng, ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
    Thế giới đều hay đại tội ta,
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chẳng gặp lại Um-ma
    .

Các vần kệ sau đây là do hai vị đối đáp xen kẽ:

Ðại tướng:

  1. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
    Việc kia, ai biết giữa trần gian?
    Um-ma, tặng vật xin dâng chúa,
    Phỉ nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Kẻ ác nghĩ:?Không một thế nhân
    Hẳn từng chứng kiến tội ta làm?.
    Song toàn việc ấy, đều hay biết
    Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.
  2. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Nếu khanh chăng gặp lại phu nhâ
    n.

Ðại tướng:

  1. Nàng quý yêu như mạng sống mình
    Thực là vợ thắm thiết bao tình,
    Song hoàng thượng đến Um-ma gấp,
    Như hổ, sư về thạch động nhanh.

Quân vương:

  1. Bậc trí, dù đau khổ ngập tràn
    Cũng không bỏ việc tạo bình an,
    Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc
    Tội lỗi thế kia, chẳng dám làm!

Ðại tướng:

  1. Tâu Ðại vương là dưỡng phụ thân,
    Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
    Thê nhi, xin hiến làm nô lệ,
    Thánh thượng Si-vi hãy đẹp lòng!

Quân vương:

  1. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
    Bảo: “Chính đây là chúa vạn năng?,
    Chỉ nửa đời thôi, e khó sống,
    Thánh thần thấy vậy, chẳng bằng lòng.

Ðại tướng:

  1. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng
    Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
    Vậy người đem tặng cùng người nhận
    Làm việc thành công, quả vạn toàn.

Quân vương:

  1. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
    Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
    Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
    Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.

Ðại tướng:

  1. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
    Thật nàng là vợ quý vô ngần,
    Um-ma, tặng vật, xin dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại nàng.

Quân vương:

  1. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
    Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
    Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
    Như mình, chẳng biết chánh chân rồi!

Ðại tướng:

  1. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
    Thật nàng được ái luyến khôn lường,
    Thần dâng bảo vật, không hoài của,
    Như vậy, người cho đã hưởng phần
    .

Quân vương:

  1. Ta có thể làm hại bản thân
    Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
    Song ta quyết chăng bao giờ dám
    Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.

Ðại tướng:

  1. Ví thử Minh quân phải khước từ
    Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
    Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
    Xin triệu nô tỳ vời chiếu thư!

Quân vương:

  1. Ví dù đại tướng hại thân mình,
    Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
    E phải chịu bao lời khiển trách,
    Chẳng hề ai nói đúng công bình.

Ðại tướng:

  1. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
    Ðể mặc lời bình phẩm, ngợi khen,
    Trút xuống hạ thần như ý muốn,
    Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền!

Quân vương:

  1. Kẻ không màng đến việc khen, chê,
    Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
    Tài sản, vinh quang đều biến mất,
    Như cơn lũ rút, đất khô đi.

Ðại tướng:

  1. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,
    Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
    Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
    Như đất khoan dung cả dữ, lành.

Quân vương:

  1. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
    Làm càn, cho bạn phải ưu sầu,
    Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
    Chân chánh, không làm vướng bận nhau.

Ðại tướng:

  1. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
    Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
    Tặng vật Um-ma, thần cống hiến
    Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.

Quân vương:

  1. Khanh đối cùng ta thật chí thành
    Khanh và hiền nội, bạn chân tình;
    Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách
    Nguyền rủa, ta mang mãi nặng mình.

Ðại tướng:

  1. Thần chắc dân quê đến thị dân
    Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
    Vì Um-ma, chính thần dâng hiến,
    Thỏa nguyện, rồi đem trả lại thần.

Quân vương:

  1. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
    Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
    Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
    Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.

Ðại tướng:

  1. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần
    Những gì thần ước, đại ân nhân,
    Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
    Xin nhận Um-ma, của biếu không.

Quân vương:

  1. Tri kỷ A-hi, quả thật tình,
    Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
    Ðâu còn ai nữa trong nhân thế
    Nỗ lực cho ta được tốt lành?

Ðại tướng:

  1. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
    Thông hiểu chánh hành, đại trí nhân,
    Vạn tuế Pháp vương, đầy chánh hạnh,
    Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.

Quân vương:

  1. Ðến đây, Ðại tướng A-hi-pà,
    Hãy lắng nghe lời nói của ta,
    Ta sẽ dạy thanh toàn chánh đạo
    Thực hành bởi các thiện nhân xưa:
  2. Vua cầu Chánh pháp, được ân trời,
    Bậc trí tối ưu giữa mọi người,
    Không phản bạn lành là thiện hảo,
    Tránh đường tà, cực lạc cao vời!
  3. Dưới quyền đức độ của minh quân
    Như bóng cây che nắng trú thân,
    Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
    Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.
  4. Việc ác, nào ta có tán đồng,
    Dù là vô ý vẫn sai lầm:
    Ngu si là tội ta khinh ghét,
    Nghe ví dụ này, khắc tận tâm.
  5. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc bước luôn,
    Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
    Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
    Cả đoàn thấp kém, liền theo gót,
    Cả nước than thời loạn nhiễu nhương.
  6. Song nếu bò cha lái đúng dòng,
    Ðoàn bò thẳng tiếp bước sau lưng;
    Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
    Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
    Thanh tịnh an bình liền phát khởi
    Khắp miền cương thổ với non sông.
  7. Ví dầu trẫm được cả trần gian
    Cũng chẳng làm sao, hỡi Tướng quân,
    Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp
    Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.
  8. Nhũng gì quý giá giữa nhân gian,
    Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
    Thuấn mã, xiêm y, kho của cải,
    Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,
    Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
    Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
    Trẫm vốn Si-vi dòng quý tộc,
    Người cai trị chính đáng công bằng!
  9. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
    Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
    Trẫm quyết trị dân theo Chánh đạo,
    Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.

Ðại tướng:

  1. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành!
    Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh!
    Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
    Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh!
  2. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
    Vì Ðại vuơng chân chánh nhiệt tâm,
    Các bạo chúa nào quên Chánh đạo
    Từ nay ắt phải mất ngai vàng.
  3. Với xuân huyên là đấng song thân,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  4. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
    Xin thực hành chân chánh Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  5. Với bao bằng hữu, đám triều thần,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  6. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
    Xin Ðại vương chân chính thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  7. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
    Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.
  8. Mọi miền quốc độ, khắp giang sơn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  9. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
  10. Với loài súc vật, các chim muông,
    Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
    Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên dường.
  11. Thực hành chân chánh, tấu quân vương,
    Do đấy, nguồn ân phước tưới tràn,
    Nhờ tiến bước theo đời Chánh hạnh,
    Ðại vương sẽ đạt đến thiên đàng.
  12. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
    Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
    Giáo sĩ, chư Thiên và Ðế Thích
    Từ xưa đã đạt đến thiên đường.

Khi vua đã nghe đại tướng Ahipàraka của ngài thuyết giảng Chánh pháp như vậy xong, ngài đoạn trừ hết lòng tham đắm đối với nàng Ummadantì.

*

Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: vào đoạn kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả Dự Lưu.

– Thời bấy giờ, Ànanda là người lái xe Sunanda, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là tướng Ahipàraka, Uppalavannà (Liên Hoa Sắc) là nàng Ummadantì, các đệ tử của đức Phật là đám triều thần và Ta chính là vua Sivi.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả đại Bồ đề (Tiền thân Mahà-Bodhi)

Ý nghĩa gì chăng những vật này …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, về sự Viên mãn của Trí tuệ Tối thắng.

Hoàn cảnh câu chuyện sẽ được kể trong Tiền thân số 546. Mahà Ummagga, Tập VII. Vào dịp này, bậc Ðạo Sư bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả xưa kia nữa, Như Lai cũng đã sáng suốt đánh bại mọi kẻ tranh chấp biện luận.

Cùng với các lời nói này, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa trong triều vua Brahmadatta, Bồ-tát được sinh tại Ba-la-nại trong vương quốc Kàsi vào một gia đình Bà-la-môn miền Bắc có thế lực, của cải lên đến tám trăm triệu, cha mẹ đặt tên ngài Nam tử Bodhi (Ðại trí). Khi ngài lớn khôn, ngài được dạy đủ các môn học thuật tại Takkasilà, rồi trở về nhà ngài sống trong sự săn sóc nuông chiều của gia đình.

Dần dần ngài đoạn trừ mọi ác dục thế gian và lui về sống ở vùng Tuyết Sơn, bắt đầu cuộc đời tu hành của một du sĩ khất thực. Ngài ở đó một thời gian thật lâu, ăn toàn củ và trái rừng. Vào mùa mưa ngài hạ sơn đi khất thực dần dần đến gần thành Ba-la-nại.

Tại đấy ngài trú ngụ trong vườn ngự uyển, hôm sau ngài đi vào kinh thành khất thực, vời tư cách của một vị khất sĩ, ngài đến gần hoàng môn. Vua đứng bên cửa sổ trông thấy ngài, và rất hoan hỷ trước dáng điệu thanh thản của ngài, liền mời ngài vào cung và ngồi trên vương tọa.

Sau một hồi đàm đạo thân hữu, vua được nghe ngài thuyết Pháp rồi tiếp đãi cúng dường ngàiđủ thứ cao lương mỹ vị. Bậc Ðại Sĩ nhận vật thực và suy nghĩ: “Thật ra vương triều này đầy hận thù và cừu địch. Ta không biết ai sẽ giải thoát cho ta khỏi nỗi lo sợ đang khởi lên trong lòng ta”.

Vừa nhìn thấy con chó săn màu hung được vua cưng quý đang đứng gần đó, ngài lấy một miếng thịt tỏ vẻ muốn cho con chó. Vua thấy thế liền truyền đem dĩa của con chó lại và bảo ngài lấy thức ăn cho con chó. Bậc Ðại Sĩ tuân lệnh và cũng vừa chấm dứt buổi ăn.

Vua xin ngài chấp nhận việc xây một túp lều tranh cho ngài trong ngự viên của hoàng thành, truyền ban tặng ngài đủ vật dụng của một ẩn sĩ, và mời ngài an trú tại đó. Mỗi ngày hai ba lần, vua đến thăm, tỏ lòng cung kính đối với ngài. Ðến giờ cơm, bậc Ðại Sĩ liên tục được ngồi vào vương tọa thọ dụng các thức ngự thiện cùng với vua. Cứ thế mười hai năm liền trôi qua.

Lúc bấy giờ, vua có năm vị cố vấn đã dạy ngài các thế pháp cũng như thánh sự. Một vị trong số đó không chấp nhận thuyết Nghiệp nhân. Một vị khác tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao sắp đặt. Một vị thứ ba chủ trương thuyết Tiền nghiệp. Vị thứ tư tin vào sự Ðoạn diệt sau khi chết. Vị thứ năm chủ trương thuyết Giai cấp Sát-đế-lỵ. Vị không chấp nhận Nghiệp nhân dạy dân chúng rằng con người trong thế gian này sẽ được thanh tịnh hóa nhờ luân hồi. Vị tin vào hành động của Ðấng tối cao dạy rằng thế giới này do vị tối cao ấy sáng tạo. Vị tin vào kết quả của Tiền nghiệp dạy rằng mọi ưu lạc ở đời này là kết quả của một nghiệp quá khứ. Vị tin vào thuyết Ðoạn diệt dạy rằng không ai ở đời này tái sinh vào một thế giới khác, vì thế giới này sẽ bị đoạn diệt. Vị chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ dạy rằng quyền lợi của cá nhân mình phảiđược thỏa mãn cho dù phải giết cả cha mẹ mình.

Năm vị này được vua chỉ định ngồi xử án trong triều và vì tham muốn của hối lộ, họ đã tướcđoạt tài sản của những người chủ nhân chính đáng. Một ngày kia, có một kẻ bị sạp nghiệp vì một vụ xử án sai lầm, thấy bậc Ðại Sĩ đi vào cung khất thực liền đảnh lễ và than thở vào tai ngài:

Thưa Tôn giả, tại sao ngài thọ thực trong cung điện, mà lại thờ ơ trước những việc do những vị phán quan cầm cân nẩy mực của Thánh thượng đang làm tan gia bại sản mọi người vì muốn ăn hối lộ? Ngay bây giờ đây năm vị kia nhận của hối lộ từ tay một người vu cáo nên đã tước đoạt hết tài sản của tôi một cách vô lý.

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ động lòng thương hại, đi vào triều xử bản án lại cho đúng và trả quyền tài sản cho người kia. Dân chúng đồng tình hoan nghênh ngài nhiệt liệt.

Vua nghe tiếng ồn ào liền hỏi có việc gì, khi nghe nói vậy, vừa lúc bậc Ðại Sĩ dùng cơm xong, đến ngồi cạnh ngài và hỏi:

– Này Tôn giả, có thực là ngài vừa xử án như dân chúng đồn chăng?

– Tâu Ðại vương, quả vậy.

Vua bảo:

– Nếu ngài xử án, ngài sẽ đem lợi lạc cho dân chúng, vậy từ nay ngài cần phải xử án.

Ngài đáp:

– Chúng thần là những kẻ tu khổ hạnh, việc này không phải là việc của chúng thần.

– Này Tôn giả, ngài phải làm việc đó vì từ tâm đối với dân, ngài không cần xử án suốt ngày, mà chỉ khi nào ngài từ vườn ngự uyển đến đây thì hãy đến công đường từ sáng tinh sương để xử bốn vụ án; rồi trở về ngự viên, sau khi thọ dụng thức ăn xong, lại xử bốn vụ nữa, như vậy dân chúng sẽ được lợi lạc.

Sau khi nghe nài nỉ nhiều lần, ngài nhận lời và từ đó xử án như vậy.

Những kẻ lừa đảo không còn cơ hội làm ăn nữa, các vị cố vấn kia không nhận hối lộ được, lâm vào cảnh khốn đốn, nghĩ thầm: “Từ khi có gã khất thực Bodhi bắt đầu xử án, chúng ta chẳng được gì cả”. Bọn họ gọi ngài là thù địch của vua và bảo nhau:

– Này, chúng ta phải vu cáo nó và làm cho nó chết đi.

Họ liền đến yết kiến vua và tâu:

– Tâu Ðại vương, gã khất thực Bodhi muốn làm hại Ðại vương.

Vua không tin họ và phán:

– Không đâu, ngài là bậc thiện nhân uyên bác, ngài không làm thế được.

Họ lại bảo:

– Tâu Ðại vương, dân chúng đều là người của gã cả, chỉ có năm chúng thần là không ở trong tay gã thôi. Nếu Ðại vương không tin chúng thần, thì lần sau khi gã đến đây, xin Ðại vương để ý đến đám tùy tùng của gã.

Vua ưng thuận, khi đứng bên cửa sổ nhìn ngài đi đến, vua thấy đám người thưa kiện theo sau ẩn sĩ Bodhi mà ngài không biết, vua tưởng đó là tùy tùng của ngài, liền có thành kiến với ngài ngay, nên triệu tập đám quốc sư vào hỏi:

– Ta phải làm sao đây?

Chúng đáp:

– Xin Ðại vương ra lệnh bắt gã lại.

Vua đáp:

– Nếu ta không thấy gã vi phạm lỗi lầm nào hiển nhiên, làm sao ta bắt gã được?

– Vậy thì xin Đại vương giảm bớt ân huệ thường dành cho gã, khi gã thấy vinh dự sa sút, là một khất sĩ khôn ngoan, gã sẽ tự ý bỏ đi không hé răng điều gì với ai đâu.

Vua chấp thuận lời đề nghị ấy và dần dần giảm bớt mọi sự tôn trọng đối với ngài. Ngày đầu tiên sau đó bọn họ mời ngài ngồi trên một tọa sàng không có nệm. Ngài nhận thấy thế hiểu ngay là đám kia đã vu cáo ngài với vua, nên khi trở về ngự viên, ngài định ra đi ngay hôm đó, song ngài lại suy nghĩ: “Khi nào biết chắc chắn ta sẽ ra đi”, nên ngài không bỏ đi.

Ngày hôm sau khi ngài ngồi vào tọa sàng không nệm lót, quân hầu dâng ngự thiện dành cho vua cùng nhiều thực phẩm khác, và đem cho ngài thực phẩm trộn lẫn cả hai thứ trên.

Ngày thứ ba quân hầu không để ngài đến gần bệ rồng mà đặt ngài ngồi ở đầu bệ, rồi chúng đem đến ngài các thức ăn trộn chung lại. Ngài nhận lấy và trở về ngự viên tự làm thức ăn cho mình tại đó.

Ngày thứ tư họ đặt ngài trên hiên nhà phía dưới và đem cho ngài cháo bột gạo, ngài cũng đem về ngự viên tự dọn thức ăn lấy. Vua bảo:

– Mặc dù mọi vinh quang dành cho gã đã giảm sút, khất sĩ đại trí vẫn không bỏ đi. Vậy ta phải làm sao đây?

– Tâu Ðại vương – Họ bảo – không phải gã đến đây để khất thực mà vì gã muốn tranh quyền bá chủ. Nếu gã đến đây để khất thực thì gã đã bỏ đi ngay hôm đầu tiên gã bị coi khinh.

– Vậy ta phải làm gì đây?

– Xin Ðại vương truyền lệnh giết gã ngày mai.

Vua đáp:

– Ðược lắm.

Vua trao kiếm vào tay các vị kia, vừa bảo:

– Ngày mai khi gã đến đứng trong cửa, hãy chặt đầu gã và phanh thây gã ra, chẳng cần nói gì với ai cả, cứ ném xác gã vào đống phân, rồi tắm rửa và trở về đây.

Bọn họ sẵn sàng tuân lệnh ngay và tâu:

– Ngày mai chúng thần xin đến làm như thế.

Sau khi sắp đặt công việc với nhau, họ trở về tư thất. Còn vua sau buổi ăn tối nằm trên vương tọa nhớ lại mọi công đức của bậc Ðại Sĩ, nỗi ưu phiền đột nhiên kéo đến trong tâm, mồ hôi đổ ra khắp thân thể và không thể nào nằm yên trên giường, vua cứ trằn trọc mãi.

Lúc bấy giờ chánh hậu nằm bên cạnh vua, song vua chẳng thốt ra một lời nào với bà. Vì vậy bà hỏi vua:

– Tâu Thánh thượng, tại sao Thánh thượng không nói gì với thần thiếp? Thần thiếp có làm điều gì xúc phạm đến Thánh thượng chăng?

Không đâu ái hậu – Vua bảo – nhưng chúng bảo khất sĩ Bodhi trở thành kẻ thù địch của ta rồi, nên ta đã ra lệnh cho năm vị cố vấn ngày mai phải giết gã đi, giết xong phải phanh thây gã mà vứt vào đống phân. Nhưng trong suốt mười năm trường gã đã giảng dạy ta biết bao chân lý. Trước đây ta không hề thấy gã có một điều xúc phạm mảy may nào mà chỉ vì do sự xúi giục của kẻ khác, ta đã ra lệnh giết gã đi, vì thế ta rất ưu phiền.

Lúc ấy bà vội an ủi vua:

– Tâu Thánh thượng, nếu gã là kẻ thù của ta, tại sao Thánh thượng lại buồn rầu khi giết gã? Phải giữ gìn thánh thể an khang, dù cho kẻ thù phải giết đi chính là vương tử của Thánh thượng. Xin Thánh thượng đừng bận tâm làm gì.

Lời bà khiến vua an tâm và ngủ thiếp đi. Vào lúc ấy con chó săn màu hung được cưng quý kia nghe được câu chuyện nghĩ thầm: “Ngày mai ta phải dùng sức mạnh của ta để cứu người này”.

Thế là sáng sớm hôm sau, con chó từ hiên nhà đi xuống cửa lớn đặt đầu trên bực thềm, canh chừng con đường từ đó bậc Ðại Sĩ đi đến. Nhưng năm vị quốc sư cầm kiếm trong tay đã đến từ tảng sáng và đứng bên trong cửa lớn.

Ẩn sĩ Bodhi thấy đúng giờ, từ ngự viên đi đến cửa cung. Lúc ấy, con chó thấy ngài liền há miệng nhe bốn răng thật lớn ra và suy nghĩ: “Thưa Tôn giả, tại sao Tôn giả không đi khất thực nơi khác ở cõi Diêm-phù-đề? Ðức vua đã sắp đặt cho năm quốc sư cầm kiếm đứng bên trong cửa chực giết ngài. Xin đừng đến cam phận chịu chết, mà phải nhanh chân tẩu thoát”. Rồi nó sủa lớn tiếng.

Nhờ biết rõ ý nghĩa mọi thứ âm thanh nên ẩn sĩ Bodhi hiểu có chuyện chẳng lành, liền trở về ngự viên thu dọn mọi vật cần thiết để lên đường.

Nhưng vua đứng bên cửa sổ, thấy ngài không đến, liền nghĩ: “Nếu người này là kẻ thù của ta thì gã sẽ trở về ngự viên thu thập mọi lực lượng để sẵn sàng hành động. Còn nếu không, chắc chắn gã sẽ lấy mọi thứ cần dùng và chuẩn bị ra đi. Ta muốn đi xem gã sắp làm gì”.

Khi đến ngự viên, vua thấy bậc Ðại Sĩ bước ra khỏi am tranh cùng mọi vật dụng cần thiết đặt ở cuối lối đi trong am thất, sắp sửa lên đường, vua đảnh lễ ngài rồi đứng qua một bên và ngâm vần kệ đầu tiên:

  1. Có nghĩa gì chăng các vật này,
    Lọng, giầy, y, gậy lại cầm tay?
    Thượng y, bình bát, cùng dao quắm,
    Ta muốn hiểu ra cớ sự vầy,
    Ðến xứ sở nào xa cách lắm,
    Sao ngài nóng vội bỏ đi ngay?

Nghe vậy, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: “Ta chắc vua không hiểu mình đã làm gì. Ta muốn cho vua biết”. Ngài liền ngâm hai vần kệ này:

  1. Tâu Ðại vương, hơn một thập niên,
    Hạ thần an trú chốn hoa viên,
    Từ nay về trước, chưa hề thấy
    Con chó này cất tiếng sủa lên.
  2. Hôm nay chó nọ lại nhe răng
    Trắng nhởn, kiêu căng thật dữ dằn,
    Vì đã nghe ngài cùng chánh hậu,
    Báo cho thần biết, sủa vang rần!

Lúc ấy vua đành nhận tội, và ngâm vần kệ thứ tư xin ngài tha thứ:

  1. Tội ấy của ta thật đúng phần,
    Ðích ta đà nhắm giết Tôn nhân,
    Song nay ân huệ ban lần nữa,
    Mong ước Tôn nhân hãy nán chân.

Nghe lời trên, bậc Ðại Sĩ đáp:

– Tâu Ðại vương, các bậc trí không ở cùng với một người chẳng nhìn thấy sự việc chính mắt mình, mà lại nghe theo lời chỉ dẫn của kẻ khác.

Nói xong, ngài vạch rõ cách xử thế sai lầm của vua như sau:

  1. Thực phẩm ngày xưa sạch, trắng ngần,
    Kế theo màu sắc tạp nham dần,
    Ðến nay đã hóa thành nâu sẫm,
    Chính lúc này ta phải rút chân.
  2. Buổi đầu tọa thực ở trên ngai,
    Kế đó cầu thang, cuối bệ dài,
    Trước lúc ta chờ dài cổ họng,
    Ta đành tử giã chốn này thôi.
  3. Ngài chớ mến yêu bạn bất trung:
    Khác gì đâu cái giếng khô cùn,
    Dù đào sâu đến bao nhiêu mẫu,
    Dòng nước tuôn ra cũng đục bùn.
  4. Phải lo kết nghĩa bạn trung can,
    Hãy tránh xa liền bạn bất nhân,
    Như kẻ khát đi tìm suối nước,
    Bạn vàng trung tín phải theo gần.
  5. Lưu luyến bạn thân luyến ái ngài,
    Ðem tình ngài đáp lại tình ai,
    Kẻ ruồng bỏ bạn vàng trung tín
    Ðược kể là người đốn mạt thôi.
  6. Kẻ chẳng luyến lưu bạn thủy chung,
    Chẳng đem tình đáp lại tình thân,
    Giữa đời là kẻ đê hèn nhất,
    Ðịa vị không hơn lũ khỉ rừng.
  7. Gặp gỡ quá nhiều cũng xấu xa,
    Khác nào chẳng gặp gỡ bao giờ.
    Hỏi xin ân huệ nào nhanh quá
    Cũng khiến tình thân hóa nhạt nhòa!
  8. Viếng bạn, song đừng đến viếng luôn,
    Cũng không nấn ná bước dừng chân,
    Ðúng thời, ta mới cầu ân huệ,
    Nhờ thế tình thân chẳng lụi dần.
  9. Ai cứ kéo dài cuộc trú chân,
    Thấy thường bằng hữu hóa cừu nhân;
    Trước khi ta mất tình bằng hữu,
    Xin giã biệt ngay, tiến bước đường.

Vua bảo:

  1. Dù trẫm chắp tay khẩn thiết nài,
    Ngài không muốn để lọt vào tai,
    Chẳng dành lời nói cho quần chúng
    Tha thiết cầu ân đức của ngài,
    Trẫm khát khao ngài ban tối huệ
    Xin về đây viếng trẫm nay mai.

Bồ-tát đáp:

  1. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
    Ví thử ngài, ta, Ðại đế ôi!
    Còn sống, hỡi người-nuôi-quốc-độ,
    Ta bay về lại chốn này thôi,
    Rồi ta còn dịp lành tương kiến
    Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

Bậc Ðại Sĩ nói thế xong còn thuyết giáo cho vua, ngài bảo:

– Xin Ðại vương hãy luôn tỉnh giác.

Sau khi rời ngự viên và đi một vòng khất thực trong khu phố của ngài, ngài rời thành Ba-la-nại và dần dần đi đến một chỗ trong vùng Tuyết Sơn, trú tại đó một thời gian rồi ngài hạ sơn, đến trú trong một khu rừng gần một thôn làng vùng biên địa.

Khi ngài vừa ra đi, các cố vấn lại ngồi xử án, bóc lột dân chúng và suy nghĩ: “Nếu gã Ðại Bồ-đề khất sĩ trở lại đây, ta sẽ mất kế sinh sống, vậy ta phải làm gì để ngăn cản gã ấy trở lại?”. Rồi họ nghĩ đến điều này: “Những người như vậy không thể rời vật mà họ lưu luyến; vậy vật gì làm gã lưu luyến đây?”. Khi thấy chắc chắn đó phải là bà chánh hậu của vua, họ suy nghĩ: “Ðây là lý do khiến gã ấy trở về đây. Ta phải nhanh tay với bọn họ và khiến bà ta phải chết”.

Họ liền nói lại điều này với vua:

– Tâu Ðại vương, hôm nay có một lời đồn đại lan khắp kinh thành.

– Ðồn đại việc gì?

– Khất sĩ Ðại Bồ-đề và chánh hậu vẫn gửi tin tức cho nhau.

– Với mục đích gì?

– Dân chúng bảo, vị ấy nhắn tin với Chánh hậu như vầy: “Lệnh bà có đủ khả năng giết đức vua và trao chiếc long trắng cho ta chăng?”. Chánh hậu nhắn lại vị kia: “Việc giết vua đúng là trọng trách của ta, vậy ngài phải đến đây gấp”.

Bọn họ cứ nói đi nói lại mãi điều này cho đến khi vua tin đó là sự thật liền hỏi:

– Vậy phải làm gì bây giờ?

Họ bảo:

– Ta phải giết chánh hậu đi.

Rồi không cần tìm hiểu sự thật của chuyện này ra sao, vua phán:

– Vậy thì giết chánh hậu đi, rồi phanh thây bà ném vào đống phân.

Họ tuân lệnh ngay, và tin hoàng hậu chết chấn động khắp kinh thành.

Lúc ấy bốn vương tử bảo nhau:

– Mẫu hậu ta dù vô tội, đã bị hành hình do lệnh người này.

Và bọn họ trở thành cừu địch của vua. Và vua vô cùng kinh hãi. Bậc Ðại Sĩ lúc ấy đã hay tin sự việc xảy ra liền suy nghĩ: “Lúc này không có ai ngoài ta có thể làm dịu lòng các vương tử này và khuyên họ tha tội phụ vương, ta sẽ về cứu mạng vua và giải thoát các vương tử khỏi mục đích tội lỗi của họ”.

Vì thế ngày hôm sau, ngài đi vào ngôi làng ở biên địa, sau khi ăn thịt khỉ do dân làng cúng dường, ngài xin miếng da khỉ đem về phơi khô trong am tranh cho đến khi hết mùi hôi rồi làm thành y trong, y ngoài và khoác lên vai. Tại sao ngài làm thế, ngài có thể bảo:

– Nó rất hữu ích vào ta.

Khoác tấm da lên, ngài đi dần vào thành Ba-la-nại, tiến lại gần các vương tử, và bảo họ:

– Giết phụ thân là một việc ác khủng khiếp, các vương tử không nên làm vậy; làm người không ai thoát khỏi mạng vong chết chóc. Ta phải đến đây để hòa giải các vị; khi ta nhắn tin, chư vị phải đến gặp ta.

Sau khi khích lệ các vương tử xong, ngài đi vào ngự viên trong kinh thành, ngồi trên phiến đá trải miếng da khỉ lên trên.

Khi người giữ vườn thấy thế, liền vội phi báo cho vua. Vua nghe xong lòng đầy hoan hỷ, bảo năm vị cố vấn cùng đi với vua đến đảnh lễ bậc Ðại Sĩ, rồi ngồi xuống để chuyện trò vui vẻ cùng ngài.

Bậc Ðại Sĩ chẳng hề đáp lễ thân mật gì cả, cứ tiếp tục vuốt tấm da khỉ. Vua hỏi:

– Này Tôn giả, tại sao không nói một lời nào với trẫm lại cứ vuốt tấm da, vậy nó ích lợi cho ngài hơn trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, chính thế, con khỉ này thật hữu dụng bậc nhất cho bần đạo, khi bần đạo đi đây đó, thường ngồi trên lưng nói. Nó mang bình nước cho bần đạo, nó quét sạch chỗ ở của bần đạo. Nó làm đủ mọi việc lặt vặt cho bần đạo, vì tính khờ khạo của nó, bần đạo đã ăn thịt nó, lấy da phơi khô rồi trải ra, nằm lên trên; thật nó rất ích lợi cho bần đạo.

Ngài nói vậy để đánh tan luận điệu của đám tà đạo kia, gán mọi việc làm của một con khỉ vào tấm da khỉ và với mục đích này, ngài đã nói như trên.

Từ việc khoác tấm da khỉ, ngài bảo:

– Khi bần đạo đi đây đó thường ngồi trên lưng khỉ.

Từ việc đắp da lên vai và mang bình nước, ngài bảo:

– Nó mang bình nước.

Từ việc quét nhà bằng tấm da, ngài bảo:

– Nó quét nhà.

Khi ngài nằm, lưng ngài đụng vào tấm da, khi ngài bước lên tấm da, bàn chân ngài đụng vào nó, ngài bảo:

– Nó làm đủ mọi việc cho bần đạo.

Khi ngài đói lòng, ngài đã ăn thịt nó, nay ngài bảo:

– Nó khờ khạo như thế nên bần đạo đã ăn thịt nói rồi.

Nghe vậy, các quốc sư suy nghĩ: “Người này mang tội sát sinh. Hãy xem hành vi của ẩn sĩ này; gã bảo gã giết con khỉ, ăn thịt nó rồi đi khắp nơi mang theo da khỉ”, họ vỗ tay cười chê ngài.

Bậc Ðại Sĩ thấy họ làm như vậy tự bảo: “Bọn này không biết ta đến đây với tấm da này để đánh bại các tà thuyết của chúng. Ta không bảo cho chúng biết đâu”. Khi nói chuyện với kẻ không chấp nhận nghiệp nhân, ngài hỏi:

– Tại sao Tôn giả khiển trách ta?

– Vì ngài đã phạm tội phản bạn và sát sinh.

Lúc ấy bậc Ðại Sĩ bảo:

– Nếu người ta tin vào Tôn giả và giáo lý của, rồi hành động theo đó, thì còn gây tội lỗi nào nữa?

Rồi để đánh bại tà thuyết của lão, ngài nói:

  1. Nếu thuyết ngài cho “thiện, ác hành”
    Ðều do duyên cớ tự nhiên sinh,
    Thì trong các việc làm vô ý,
    Tội lỗi làm sao thấy chỗ mình?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm
    .

Bậc Ðại Sĩ đã chỉ trích lão như vậy khiến lão phải im lặng. Vua cảm thấy buồn bực ngồi xuống; còn bậc Ðại Sĩ, sau khi đánh bại tà thuyết của lão ấy, lại nói với kẻ tin rằng mọi việc đều do một Ðấng tối cao tạo ra, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài khiển trách ta khi ngài thực sự tin vào lý thuyết cho rằng mọi vật đều do một Ðấng tối cao tạo nên?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Nếu có Chúa trời đủ vạn năng
    Cho người thiện, ác, lạc, ưu tràn,
    Ðấng kia quả thật mang đầy tội,
    Người theo ý chúa, chỉ chuyên làm.
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy, chẳng khác nào một người đánh ngã cây xoài bằng chính cái gậy chặt ra từ cây xoài ấy, ngài đã đánh bại người tin vào hành động của một Ðấng tối cao bằng chính lý thuyết của lão ta; rồi ngài lại nói với người tin vào các nghiệp quá khứ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, tại sao ngài chê trách ta khi ngài tin vào lý thuyết cho rằng các nghiệp đã có sẵn trong quá khứ?

Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Lạc, ưu, khởi tự nghiệp duyên xưa,
    Khỉ ấy nay đền tội đã qua,
    Mỗi nghiệp ta làm đều trả nợ,
    Vậy thì tội lỗi ở đâu ra?
  2. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  3. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Sau khi bác bỏ tà thuyết của người này, ngài quay lại kẻ tin vào thuyết đoạn diệt và bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là không có thưởng phạt, mọi chúng sinh đều phải đoạn diệt ở đời này và không ai tái sinh vào đời sau. Vậy tại sao ngài lại trách ta?

Và ngài ngâm kệ bác bỏ kẻ ấy:

25-26. Tứ đại họp thành mỗi loại sinh,
Mạng chung, mọi bộ phận tan tành,
Mất đi, người chết còn đâu nữa,
Người sống vẫn theo cuộc sống mình,
Ví thử thế gian đều hủy diệt,
Người ngu, bậc trí thảy đi nhanh,
Chẳng ai tội lỗi đầy ô uế
Giữa cõi trần gian đã hoại hình.

  1. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  2. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như thế ngài bác bỏ tà thuyết của kẻ này nữa và tiếp theo với kẻ chủ trương thuyết Sát-đế-lỵ, ngài bảo:

– Này Tôn giả, ngài chủ trương là con người phải phục vụ quyền lợi riêng của mình dù phải giết cha mẹ mình đi nữa. Nếu ngài đi truyền bá thuyết này, tại sao ngài còn trách ta?

Và ngài ngâm vần kệ này:

  1. Sát-đế-lỵ kia vẫn bảo rằng:
    – Lũ ngu lại tưởng chúng khôn ngoan-
    Mẹ cha cũng giết, tùy cơ hội,
    Anh chị, vợ con, nếu có cần.

Như vậy ngài đã chống lại quan điểm của kẻ kia và nêu ra quan điểm của ngài:

  1. Bóng mát ta ngồi xuống nghỉ chân,
    Cành cây ta chặt đứt lìa thân,
    Tội kia bội nghĩa vong ơn đấy,
    Bằng hữu dối gian, hãy ghét căm.
  2. Song nếu do cơ hội nảy sinh,
    Thì ta chặt gốc, rễ cây cành,
    Vì cần phục vụ nhu cầu đó,
    Nên giết khỉ kia cũng hợp tình.
  3. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
    Và đây là Giáo pháp như chân,
    Thì hành vi của ta là đúng
    Khi giết khỉ kia để hưởng phần.
  4. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
    Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
    Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
    Khiển trách việc ta với luận đàm.

Như vậy ngài đã bác bỏ luận thuyết của người này nữa; lúc bấy giờ cả năm vị tà sư ngoại đạo kia đều câm lặng, bối rối. Ngài lại bảo vua:

– Tâu Ðại vương, những kẻ mà Ðại vương đang thân cận đó là những tên đại đạo tặc đang cướp bóc toàn quốc độ của Đại vương. Ôi! Đại vương thật ngu si quá, một người thân cận với những kẻ ác như thế kia sẽ phải gặp đại khổ não trong đời này lẫn đời sau.

Nói vậy xong, ngài dạy vua Chánh pháp :

  1. Người này quả quyết:”Chẳng nguyên nhân”.
    Kẻ khác:”Có trời, Đấng chí tôn”.
    Kẻ nói:”Nghiệp này do nghiệp trước”.
    Người thì:” Thế giới thảy tiêu vong”.
  2. Sát-đế-lỵ cùng ngoại đạo sư,
    Tưởng mình có trí, cả bầy ngu,
    Ác nhân gây tội, khuyên làm ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ ưu.

Rồi ngài giảng rộng bài thuyết Pháp bằng các ví dụ chứng minh:

  1. Sói đội lốt cừu một thuở xưa,
    Đến gần chuồng nọ chẳng ai ngờ
    Giết đàn cừu hoảng hồn kinh vía,
    Xông tới đồng xanh chạy thẳng giò!
  2. Cũng vậy, Sa-môn hoặc đạo nhân
    Thường dùng chiếc áo gạt lương dân,
    Kẻ nằm trên đất, mình dơ bẩn,
    Chồm hổm người ngồi, kẻ nhịn ăn.

38-39. Bọn thì không uống, bọn thì ăn
Theo luật, tạo ra vẻ thánh thần,
Bọn chúng đều là phường bất thiện,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân.
Bọn này không những gây bao tội,
Chúng lại khuyên người khác lỗi lầm.
Truyền bá ác hành luôn tạo quả
Khổ đau và hoạn nạn muôn phần.

  1. Bảo rằng: “Mọi vật chẳng nguồn căn”,
    Chúng phủ nhận luôn mọi nghiệp nhân,
    Xem nhẹ nghiệp mình cùng kẻ khác
    Như là huyễn hoặc, hỡi vương quân.
  2. Bọn chúng đều là lũ bất lương,
    Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân,
    Chúng gây tội lỗi, còn khuyên ác,
    Truyền bá ác hành, tạo khổ thân.
  3. Nếu chẳng nghiệp nhân ở chốn nào,
    Cũng không có thiện, ác hành, sao
    Vua thường tuyển thợ đầy tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhờ kỷ xảo cao?
  4. Vậy cũng chính vì có nghiệp nhân
    Thiện hành, ác nghiệp có thông thường,
    Nên vua chúa tuyển người tài khéo
    Ðể hưởng lợi nhiều bởi kỹ năng.
  5. Ví thử trăm năm chẳng có mưa,
    Tuyết sương chẳng rớt đúng theo mùa
    Ở trong thế giới suy tàn cả
    Dân chúng diệt vong chẳng kẻ chừa.
  6. Song có mưa rơi, với tuyết sương,
    Bốn mùa thay đổi luật thông thường
    Làm cho thóc lúa dần dần chín,
    Ðất nước trải bao thế kỷ trường.
  7. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
    Cả đám bò con lạc hướng luôn,
    Vậy trưởng đoàn theo đường hiểm trở,
    Ðưa bầy thuộc hạ đến đường cùng,
    Và toàn quốc độ đều ân hận,
    Thời đại buông lung phóng dật tràn.
  8. Kẻ hái trái còn quá nhỏ nhoi
    Trước khi trái ấy chín cho muồi,
    Chính là hủy hoại bao mầm hạt,
    Chẳng thể biết đâu quả ngọt bùi.
  9. Cũng vậy người nào tri quốc dân
    Bằng nền cai trị chẳng công bằng,
    Chẳng hề thưởng thức bao mùi ngọt
    Phát xuất từ đường lối chánh chân.
  10. Nhưng kẻ nào hay để trái tươi
    Trên cây, khi trái chín cho muồi,
    Là người giữ được bao mầm hạt,
    Biết hưởng trái ngon ngọt tuyệt vời.
  11. Cũng vậy, người nào trị quốc dân
    Bằng đường chân chánh giữ giang sơn,
    Trái cây công lý bao ngon ngọt,
    Có thể hưởng cho thật vẹn tròn.
  12. Quốc vương cai quản cả giang san
    Dùng bạo quyền trị nước bất công,
    Phải chịu mất đi nhiều thảo mộc
    Dù cho đất kết quả bao phần.
  13. Nếu vua làm hại đám thần dân,
    Có đủ tài sinh lợi bán buôn,
    Khi lợi tức kia đà giảm sút,
    Kho tàng vua cũng cạn vơi dần.
  14. Nếu vua quấy nhiễu đám hùng anh
    Có tài điều khiển việc đao binh,
    Ðội quân sẽ giã từ vua ấy
    Và tước của vua mọi bạo hành.
  15. Nếu làm sai, với Thánh hiền nhân
    Vua ấy về sau hưởng xứng phần,
    Dù quý tộc mà gây tội lỗi,
    Cũng đều phải mất cảnh thiên đàng.
  16. Nếu hôn quân giết một vương phi
    Dầu chẳng hề gây tội lỗi gì,
    Vua liền bị khổ đau xâu xé
    Bởi các con cùng địa ngục kia.
  17. Hãy xử công bằng với quốc dân,
    Ân cần tử tế với toàn quân,
    Với thê nhi hãy đầy thân ái,
    Ðể các hiền nhân an trú chân.
  18. Vị vua như vậy, hỡi Vương quân,
    Giải thoát được bao nỗi hận sân,
    Chẳng khác In-dra, Thiên chủ ấy,
    Tạo nên khiếp phục giữa quần thần.

Bậc Ðại Sĩ, sau khi giảng Chánh pháp cho vua xong, liền triệu bốn vương tử lại và dạy bảo họ, giải thích cho họ hiểu hành động của vua, rồi ngài nói:

– Hãy xin vua cha tha tội.

Sau khi thuyết phục vua tha thứ cho họ, ngài bảo:

– Tâu Ðại vương, từ nay xin Ðại vương đừng nghe lời các kẻ vu cáo mà không cân nhắc thực hư, cũng đừng phạm các tội bạo hành tương tự như thế nữa; còn các vương tử, xin đừng phản bội vua cha.

Như vậy, ngài đã thuyết giáo cho tất cả hoàng tộc. Lúc ấy, vua bảo:

– Thưa Tôn giả, chính vì những kẻ này mà trẫm phạm tội với ngài cùng hoàng hậu, chính vì nghe lời chúng mà trẫm gây tội ác, trẫm muốn xử tử chúng luôn cả năm tên.

– Xin Ðại vương đừng làm vậy.

– Thế thì trẫm sẽ ra lệnh chặt tay chân chúng đi.

– Xin cũng đừng làm việc đó.

Vua ưng thuận bảo:

– Thôi cũng được.

Rồi vua tước bỏ mọi tài sản của họ và hạ nhục họ bằng nhiều cách như: buộc tóc họ thành năm chòm, xiềng họ lại và rảy phân bò lên người họ rồi đuổi ra khỏi nước.

Còn Bồ-tát sau khi ở lại vài ngày nữa để thuyết giáo vua, khuyên vua phải tỉnh giác đề phòng xong lại ra đi lên vùng Tuyết Sơn tu tập thần thông phát xuất từ Thiền định, và suốt đời ngài thực hành Tứ Vô lượng tâm nên được tái sinh vào Phạm thiên giới.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã có đại trí đánh bại mọi kẻ tranh luận.

Rồi ngài nhân diện Tiền thân:

– Thời bấy giờ, năm vị tà sư đó là: Puràna Kassapa, Makkhali Gosala, Pakudha Kaccàna, Ajita Kesa-kambali, Nigantha Nàthaputta, con chó màu hung là Ànanda, và khất sĩ Ðại Bồ-đề chính là Ta.

-ooOoo-

Chương XIX

Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Hiền giả Sonaka (Tiền thân Sonaka)

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người …,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong lúc Ngài ngụ tại Kỳ Viên, về Ðại Sự Xuất thế viên mãn của Ngài.

Vào dịp này, bậc Chánh Giác ngồi ở Chánh pháp đường giữa các Tỷ-kheo trong lúc Tăng chúng đang tán thán công hạnh viên mãn của việc Ngài xuất thế, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã thật sự thoát tục và làm Ðại sự Xuất thế.

Nói xong Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa vua Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị tại thành Rajàgaha (Vương Xá). Bồ-tát sinh làm con Chánh hậu, vào ngày đặt tên, hoàng gia gọi ngài là vương tử Arindama. Chính ngày ngài ra đời, một cậu trai khác cũng ra đời tại nhà vị quốc sư, được cha mẹ đặt tên là Sonaka.

Hai cậu bé lớn lên khi đến tuổi khôn lớn đều cực kỳ xinh đẹp lạ thường, hình dáng thật khó phân biệt nhau; họ cùng đến Takkasilà, sau khi luyện tập xong đủ các học thuật, họ ra đi với ý định học các nghề thực dụng và xem các tập tục địa phương, dần dần đi du hành đến tận Ba-la-nại.

Tại đó họ cư ngụ trong ngự viên và hôm sau đi vào kinh thành; chính ngày hôm ấy, một số người dự định cúng dường thực phẩm cho các vị Bà-la-môn, đem ra món cháo và sắp đặt ghế sẵn, khi trông thấy hai vị nam tử này đến gần, liền mời họ vào nhà ngồi trên các ghế đã soạn ra. Trên ghế dành cho Bồ-tát có trải tấm vải trắng, còn ghế dành cho Sonaka trải tấm thảm len đỏ.

Khi thấy điềm ấy, Sonaka hiểu ngay là ngày hôm ấy Arindama, bạn chàng sẽ lên ngôi vua tại Ba-la-nại và phong cho chàng chức đại tướng. Sau khi ăn xong, hai vị cùng trở về ngự viên. Lúc bấy giờ đã đến ngày thứ bảy từ khi vua Ba-la-nại băng hà, hoàng gia không có người kế vị. Vì thế các quân sư cùng hoàng tộc sau khi tắm rửa đầu mình xong, tụ tập nhau lại và bảo:

– Các người hãy đến nhà người xứng đáng lên ngôi vua.

Họ bắt đầu đánh xe hoa ra đi.

Khi rời thành, xe đi dần đến ngự viên và dừng tại cổng ngự viên, sẵn sàng đợi một người bước lên xe. Bồ-tát đang nằm nghỉ với y ngoài đắp quanh đầu, trên phiến đá dành cho vua, trong khi nam tử Sonaka ngồi bên cạnh. Khi nghe tiếng nhạc cụ, Sonaka nghĩ thầm: “Ðây là xe hoa đến đón Arindama, hôm nay ngài sẽ lên ngôi vua và phong ta chức đại tướng. Song thật ra ta không muốn trị dân; khi ngài đi rồi, ta sẽ rời thế tục và làm ẩn sĩ khổ hạnh.

Thế rồi ngài đứng ẩn mình sang một bên. Vị quốc sư đi vào ngự viên thấy bậc Ðại Sĩ nằm đó, liền ra lệnh thổi kèn lên. Bậc Ðại Sĩ thức dậy quay mình nằm thêm một lát rồi ngồi xếp chân trên phiến đá. Lúc ấy vị quốc sư giơ tay ra cầu khẩn ngài:

– Tâu Ðại vương, quốc độ này thuộc quyền ngài.

– Sao thế, không có kẻ thừa kế ngai vàng ư?

– Quả vậy, tâu Ðại vương.

– Thế thì được. Ngài bảo.

Họ liền làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu) cho ngài lên ngôi vua ngay tại đó. Rồi để ngài lên xe hoa xong, họ rước ngài vào thành cùng đám tùy tùng rầm rộ. Sau lễ rước ngài thật trọng thể quanh kinh thành, ngài đi lên hoàng cung, trong cảnh đại huy hoàng vinh quang ấy, ngài quên bẳn người bạn trẻ Sonaka.

Nhưng khi vua đi rồi, Sonaka trở lại ngồi trên phiến đá, và chính một ngọn lá úa của cây Sà la lìa cành rơi trước mặt ngài, khiến ngài trông thấy, liền kêu lên:

– Thân ta rồi cũng bị hư hoại như chiếc lá này!

Và khi chứng đạt được Thắng trí nhờ Ngài quán sát tính vô thường của các pháp, Ngài đắc quả vị Ðộc Giác Phật và ngay lúc ấy những đặc tính của con người thế tục trong ngài biến mất đi, và những dấu hiệu của một bậc chân tu hiện rõ ra, Ngài bảo:

– Ta không còn tái sinh vào đời sau nữa.

Trong khi thốt lên ý nguyện này, Ngài khởi hành tiến về hang Nandamùla.

Còn bậc Ðại Sĩ, sau bốn mươi năm trôi qua, chợt nhớ đến Sonaka và nói:

– Sonaka nay ở đâu trên đời này?

Dần dần mỗi khi nhớ lại thân bằng, vua không thấy ai báo cho ngài biết: “Hạ thần có thấy vị ấy, hạ thần có nghe nói đến vị ấy”.

Khi lên ngồi xếp bằng trên ngai vàng đặt trên chiếc bệ nguy nga có đám nhạc công và vũ nữ ca kịch vây quanh, tận hưởng cảnh vinh hoa phú quí ấy, vua bảo:

Bất kỳ ai nghe được có người nói Sonaka đang ở nơi này nơi nọ và báo tin cho trẫm, trẫm hứa sẽ ban tặng một trăm đồng tiền; còn ai thấy chàng tận mắt và báo cho trẫm, trẫm hứa tặng một ngàn đồng tiền.

Rồi để làm cho lời cảm khái này được linh động thêm thành một bài ca, ngài ngâm kệ đầu:

Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
Biết So-na ấy chút tăm hơi.

Lúc ấy một vũ nữ bắt được điệu hát từ miệng vua, liền hát lên khúc ca ấy rồi dần dần một người khác, rồi một người nữa hát lên cho đến khi khắp cả hậu cung cho rằng đó là điệu hát được vua ưa chuộng, nên đồng hát lên.

Dần dần dân chúng khắp thị thành đến thôn quê đều hát bài ấy và chính vua cũng thường hát bài ấy. Sau năm mươi năm, vua đã sinh hạ nhiều vương tử và công chúa, vị thái tử tên là Dighàvu.

Vào lúc ấy vị Độc Giác Phật nghĩ thầm: “Vua Arindama rất nóng lòng gặp lại ta. Vậy ta muốnđi giải thích cho ngài hiểu nỗi khổ đau của tham dục và công đức của việc xuất gia, ta sẽ chỉ cho ngài con đường tu hành ẩn sĩ”.

Rồi nhờ thần lực, Ngài đến đó ngay và an tọa trong ngự viên. Lúc bấy giờ một đứa bé lên bảy để tóc năm chòm, được mẹ sai đến đây vừa lượm củi khô vừa hát đi hát lại bài ấy. Ngài Sonaka gọi cậu bé lại và hỏi:

– Này con, sao con cứ hát mãi bài ấy mà chẳng hề hát bài nào khác, con không biết bài nào khác hay sao?

– Thưa Tôn giả, con biết nhiều bài khác, nhưng bài này đức vua yêu thích lắm, vì thế con cứ hát hoài.

– Thế có ai hát điệp khúc của bài này không?

– Thưa Tôn giả, không.

– Vậy ta muốn dạy con một điệp khúc rồi con đi về hát cho đức vua nghe.

– Thưa vâng.

Thế là Ngài dạy câu bé điệp khúc “Một ngàn đồng” và cả đoạn sau, đến khi cậu bé hát thật thông thạo, Ngài để cậu bé về và bảo:

– Này con, con hãy đi về hát điệp khúc này trước đức vua, ngài sẽ ban cho con nhiều quyền thế. Con cần gì phải lượm củi khô nữa? Thôi hãy đi về hết sức nhanh lên.

– Thế thì tốt lắm.

Cậu bé đáp sau khi đã thông thạo khúc hát, liền từ tạ Tôn giả Sonaka:

– Thưa Tôn giả, xin Ngài ngồi lại đây cho đến khi con thỉnh đức vua đến.

Nói xong, cậu vội vàng chạy thật nhanh về gặp mẹ và bảo:

– Mẹ hãy tắm rửa cho con và mặc áo quần vào thật đẹp, hôm nay mẹ con ta sẽ thoát cảnh nghèo hèn.

Sau khi cậu đã tắm rửa, ăn mặc lịch sự xong, cậu đến cửa cung bảo:

– Này ông lão canh cổng, xin hãy đi trình Ðại vương biết: “Có một cậu bé đến đây, đang đứng ở cửa, chuẩn bị ca một bài dâng lên Thánh thượng”.

Người giữ cổng vội phi báo với vua. Vua triệu cậu bé vào yết kiến và bảo:

– Này hiền hữu muốn hát đối cùng trẫm chăng?

– Tâu Ðại vương, đúng thế.

– Vậy thì hát đi.

– Tâu Ðại vương, con không muốn hát ở đây, mà con muốn xin cho tiếng trống đánh lên khắp kinh thành báo hiệu dân chúng tụ tập tại đây, con mong muốn hát trước mặt dân chúng.

Vua ra lệnh làm như vậy, rồi ngự giữa bảo tọa dưới một ngôi đình thật lộng lẫy và dành một chỗ ngồi xứng đáng cho cậu bé, ngài bảo:

– Bây giờ hãy hát đi.

Cậu bé đáp:

– Tâu Ðại vương, xin Ðại vương hát trước rồi con sẽ xin hát điệp khúc của bài đó.

Vua liền hát trước tiên vần kệ này:

  1. Một ngàn đồng trẫm tặng cho người
    Trông thấy thân bằng, bạn trẫm chơi,
    Tặng một trăm đồng cho kẻ khác
    Biết So-na ấy chút tăm hơi.

*

Lúc ấy bậc Ðạo Sư, muốn làm sáng tỏ việc cậu bé còn để tóc năm chòm này ca điệp khúc do vua khởi xướng; và với Trí tuệ Tối thắng Ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Rồi cậu bé kia bỗng nói rằng:
    – Trên đầu còn để tóc năm chòm –
    “Ngàn đồng xin tặng cho con thấy,
    Và đã nghe xin tặng một trăm,
    Con sẽ đưa tin Tôn giả ấy
    Bạn thân ngày trước của Minh quân
    .

*

Các vần kệ sau đây, được hiểu theo tương quan diễn tiến của câu chuyện:

Ðức vua:

  1. Thành thị, thôn quê, quốc độ gì
    Mà con lê mãi bước chân đi,
    Thấy đâu hiền hữu So-na ấy,
    Con hãy vui lòng nói trẫm nghe?

Tiểu nhi:

  1. Trong quốc độ này, chính ngự viên,
    Nhiều Sà la lớn mọc đua chen
    Xanh tươi cành lá, thân cao vút,
    Phong cảnh đẹp sao trước mắt nhìn.
  2. Cành lá giao nhau, kết thật dày,
    Vươn lên trời tựa các vầng mây,
    So-na nằm dưới gốc, thiền định,
    Ly dục, tâm an, thanh tịnh đầy.

Bậc Ðạo Sư:

6 – 7 . Vua liền khởi sự quyết lên đàng,
Rẽ lối tiến ngay, thực vội vàng
Ðến chốn So-na-ka trú ngụ,
Quẩn quanh vườn ngự rộng thênh thang,
Thân bằng, ngài thấy đà ly dục,
Thánh hạnh an nhiên hỷ lạc tràn.

Vua không đảnh lễ ngài, mà chỉ ngồi xuống một bên, và bởi lẽ bản thân vua đã đắm mình vào ác dục, nên cứ tưởng vị cố bằng hữu này là một kẻ khốn khổ bần hàn lắm, liền ngâm kệ bảo bạn:

  1. Trọc đầu, mất cả mẹ cùng cha,
    Trẫm thấy người kia khoác áo dà,
    Kẻ khó tu hành đang nhập định,
    Trải mình đây, dưới gốc Sà-la.
  2. Nghe thế, So-na-ka bảo rằng:
    “Chẳng là khốn khổ, tấu Vương quân,
    Kẻ nào biết rõ trong hành động
    Luôn hướng về điều phải, lẽ chân”.
  3. Khốn hèn là kẻ bỏ điều chân,
    Và lại thực hành chuyện bất nhân,
    Với kẻ ác kia, ngài phải biết,
    Khổ đau mạt vận để dành phần.

Ngài đã khiển trách Bồ-tát như vậy, còn vua giả vờ không biết mình bị khiển trách, cứ làm vẻ thân hữu trò chuyện cùng Ngài, nêu rõ danh tánh, gia tộc qua vần kệ:

  1. Vua Kà-si nọ chính là ta,
    Ta mệnh danh là A-rin-da,
    Từ lúc đến đây, thưa Thánh giả,
    Có điều chi đáng để phiền hà?

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp:

– Không chỉ khi an trú nơi đây, mà bất cứ ở nơi nào khác, ta cũng không gặp điều gì phiền phức cả.

Rồi Ngài bắt đầu ngâm kệ nêu lên các niềm phước lạc của bậc tu hành:

  1. Một kẻ xuất gia chẳng bạc tiền,
    Ðược bao phước lạc, kể đầu tiên,
    Trong bình hay vựa, không tồn trừ,
    Chỉ muốn vật thừa, sống thản nhiên.

13-14. Phước lạc tiếp theo, đáng tán đồng:
Vị này thọ thực chẳng sai lầm,
Thứ ba, hạnh phúc hằng ngày được
Thọ thực an vui, chẳng mếch lòng.

15-16. Phước lạc thứ tư, chốn đến đi,
Thong dong chẳng biết luyến lưu gì,
Thứ năm ví thử thành kia cháy,
Người chẳng thiệt thòi, chẳng mất chi.

  1. Thứ sáu là điều hạnh phúc đây,
    Người tu tính để phận riêng tây:
    Ví dù quốc độ điêu tàn cả,
    Người ấy chẳng hề thiệt mảy may.
  2. Thứ bảy là điều hạnh phúc kia:
    Vì chưng nghèo khó chẳng còn gì,
    Dù bầy cướp chận đường vây hãm,
    Cừu địch dù bao kẻ hiểm nguy,
    Bình bát, hoàng y, người Phạm hạnh
    Bình an vẫn cứ bước chân đi.
  3. Còn đây là hạnh phúc sau cùng:
    Vị ấy lang thang khắp mọi vùng,
    Không cửa không nhà, và khốn khó,
    Lên đường chẳng luyến tiếc băn khoăn.

Như thế vị Ðộc Giác Phật Sonaka đã nêu lên tám phước lạc của một tu sĩ, rồi hơn thế nữa, Ngài có thể kể cả trăm cả ngàn vô lượng phước lạc, nhưng vì vua đang tham đắm dục lạc nên vội ngắt ngang lời Ngài, bảo:

– Trẫm không màng các phước lạc của đời tu hành kia.

Và để làm sáng tỏ việc mình mê đắm dục lạc ra sao, vua ngâm kệ:

20-21. Phước lạc ngài ca, trẫm chẳng màng,
Trẫm truy tầm lạc thú trần gian
Nhân, thiên lạc, trẫm đều yêu thích
Ðạt cả hai ngay, hãy chỉ đàng.

Vị Ðộc Giác Phật liền đáp lời:

  1. Ai cử tham lam muốn hưởng tràn
    Biết bao dục lạc cõi trần gian,
    Tạo nên ác nghiệp trong đời sống,
    Sau phải tái sinh cõi khổ buồn.
  2. Bỏ ái dục kia lại phía sau,
    Suốt đời vô úy tiến lên mau,
    Tham thiền đạt đến tâm thanh tịnh
    Chẳng phải luân hồi cõi khổ đau.
  3. Ta nói Ðại vương ví dụ này,
    A-rin-da hãy lắng nghe đây:
    Những người hiền trí nhờ lời dụ,
    Ý nghĩa cao siêu sẽ hiểu ngay.
  4. Trên sông Hằng sóng thủy triều dâng
    Kìa chú quạ ngu thấy cuốn phăng
    Một xác vật gì to quái lạ,
    Tự nhủ thầm khi nó nổi gần:
  5. “Vật kia tìm được lớn lao thay,
    Ôi thật là kho thực phẩm đầy
    Ðể tận hưởng bao niềm khoái
    Ðây ta sẽ ở suốt đêm ngày”.
  6. Như thế thịt voi, quạ cứ ăn,
    Uống thêm nước mát tự sông Hằng
    Trong khi trôi nổi, không hề thấy
    Rừng miếu thoáng qua giấc mộng vàng
  7. Cứ vậy buông lung chú quạ trôi
    Ðắm mình trên xác chết tanh hôi,
    Sông Hằng cuốn chú lao đầu thẳng
    Vào chốn hiểm nguy của biển khơi.
  8. Song lúc thức ăn đã cạn đi,
    Ôi, chim tội nghiệp cố bay về,
    Ðông Tây, Nam, Bắc nào đâu hướng,
    Chẳng thấy đất đai, biển bốn bề!
  9. Xa giũa trùng dương, đã mệt phờ,
    Trước khi chú quạ đến bên bờ,
    Giữa muôn vàn hiểm nguy trên biển,
    Ngã xuống, không bay nữa bấy giờ.
  10. Nơi chú chim kia khốn khổ rơi,
    Cả đàn sấu, thủy quái đang bơi
    Chung quanh, vội đến và xâu xé,
    Tan xác run run của quạ mồi.
  11. Cũng vậy, Ðại vương với những người
    Tham lam tìm lạc thú kia hoài,
    Tưởng mình có trí như chim quạ,
    Cho đến khi lìa bỏ cuộc đời.
  12. Ví dụ ta bày tỏ thật chân,
    Ðại vương hãy thận trọng quan tâm,
    Danh thơm có được hay danh xấu,
    Tùy thuộc hành vi của Ðại quân.

*

Như vậy nhờ ví dụ kia, Ngài đã khuyến giáo vua và để cho vua ghi nhớ mãi điều này, Ngài ngâm kệ:

  1. Vì từ tâm nói một hai lần,
    Nhắc nhở đôi lời để hộ thân,
    Song chớ nhắc đi nhắc lại mãi,
    Giống gia nô trước chủ nhân ông!
  2. Với trí vô biên, bậc Ðại nhân,
    So-na Giác giả dạy vương quân
    Vừa xong, Ngài thẳng đàng bay biến
    Trong khoảng không gian rộng mịt mùng.

Ðây là vần kệ phát xuất tứ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.

*

Bồ-tát đứng ngắm Ngài bay qua không gian trong lúc còn nhìn thấy hình bóng Ngài, song khi Ngài đã khuất dạng, Bồ-tát vô cùng xúc động nghĩ thầm: “Người Bà-la-môn này thuộc dòng giống thấp kém thế, mà sau khi phủi bụi bặm trên bàn chân lên đầu ta, một người xuất thân từ quý tộc được kế tục từ đời này qua đời khác, đã biến mất trong bầu trời; vậy hôm nay ta phải giã tứ thế gian và thành người tu khổ hạnh ngay”. Trong niềm ước mong làm ẩn sĩ, và rời quốcđộ, ngài ngâm hai vần kệ:

  1. Các quản xa nay được lệnh ban
    Ði tìm đâu được đấng minh hoàng?
    Trẫm không muốn ngự trên ngai nữa,
    Trẫm giã từ ngay chiếc miện vàng.
  2. Ta chết ngày mai, ai có hay
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục cuốn lôi, trẫm đọa đày.

Nghe vua muốn thoái vị như vậy, các quốc sư tâu:

  1. Ðại vương có Thái tử Dì-ghà
    Vương tử đẹp tươi quả thật là,
    Quán đảnh suy tôn lên bảo tọa
    Sẽ làm Ðại đế của triều ta.

Tiếp theo đây, khởi đầu bằng vần kệ do vua ngâm, các câu sau tuần tự được hiểu theo diễn tiến câu chuyện:

  1. Mau triệu Dì-ghà-vu đến đây,
    Hoàng nhi này thật tốt tươi thay,
    Sắc phong quán đảnh lên vương vị,
    Ấy chính là vua quốc độ này.
  2. Khi quần thần dẫn đến Digha
    Chúa tể tương lai của nước nhà,
    Vương phụ bảo cùng hoàng thái tử,
    Con yêu độc nhất quả chàng là.

Phụ vương:

  1. Thôn làng sáu vạn ấy ngày xưa
    Trẫm đã phán rằng:”Chính của ta”,
    Hãy nhận chúng đi, này Thái tử,
    Từ nay trẫm giã biệt sơn hà.
  2. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  3. Kìa xem! Vương tượng sáu mươi ngàn
    Ðược điểm tô bao vẻ rỡ ràng,
    Với đủ cân đai vàng chói lọi
    Trang hoàng bảo vật sáng huy hoàng.
  4. Quản tượng ngồi lên cỡi mỗi con,
    Tay cầm giáo có móc câu tròn,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Con, kẻ lên ngôi trị nước non.
  5. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  6. Kìa xem, vương mã sáu mươi ngàn!
    Tô điểm yên cương sáng rỡ ràng,
    Tuấn mã Sindh đều dòng giống quý,
    Bộ binh hùng hậu cả quân đoàn.
  7. Chúng đều mang quản mã oai hùng
    Ðầy đủ trong tay với kiếm, cung,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Cho con, người ngự trị toàn dân.
  8. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  9. Vương xa sáu vạn đủ yên cương,
    Cờ xí tung bay ngập bốn phương
    Da cọp, da beo bao phủ khắp,
    Kìa xem quang cảnh thật huy hoàng!
  10. Quản xa điều ngự, giáp bào mang,
    Cung tiễn cầm tay, thảy vũ trang,
    Thái tử nhận đi, cha tặng cả
    Vì con, người ngự trí giang san.
  11. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.
  12. Sáu vạn bò tơ sắc đỏ hồng,
    Cùng đàn bò đực ở bên lưng,
    Nhận đi, Thái tử, cha ban tặng
    Vì chính con cai trị quốc dân.
  13. Ngày mai ta chết, có ai hay?
    Trẫm muốn hôm nay thọ giới ngay,
    Vì sợ ngu si như chú quạ
    Ðắm mê ác dục, trẫm sa lầy.
  14. Sáu vạn cung phi đẹp nõn nà
    Ðứng kia xiêm áo thật xa hoa,
    Ðầy tay vòng ngọc, hoa tai điểm,
    Cha tặng con, người trị quốc gia.
  15. Ta chết ngày mai, ai có hay?
    Trẫm mong thọ giới tự hôm nay,
    Sợ rằng như quạ kia ngu dại,
    Ác dục đắm mê, trẫm đọa đày.

Thái tử:

  1. Chúng bảo con: “Vương mẫu mất rồi”
    Ðáng thương ai tử nọ! Than ôi!
    Làm sao con sống không vương phụ,
    Con đã lìa sinh thú ở đời.
  2. Như ở sau lưng, sát với cha,
    Voi con thường thấy kế voi già,
    Xuyên đèo, xuyên núi hay rừng rậm,
    Bằng phẳng, gồ ghề, cũng vượt qua.
  3. Bình bát trong tay, con bước sau,
    Theo cha dẫn lối bất kỳ đâu,
    Cha không thấy gánh con làm nặng,
    Hay phải nuôi con khó nhọc nào
    .

Phụ vương:

  1. Như thương nhân, chủ các con tàu,
    Kiếm lợi dù cho với giá nào,
    Thường bị cuốn trôi vào vực xoáy,
    Cả thuyền, thủy thủ, thảy tiêu hao.
  2. Sợ rằng ta gặp bước gian nan,
    Con trẻ gây phiền lụy cản đàng,
    Làm lễ phong vương trong bảo điện,
    Cho con hưởng lạc thú trần gian.
  3. Cả bầy cung nữ vuốt ve chàng
    Ngời chói đôi tay với ngọc vàng,
    Như Ðế Thích cùng bầy thị nữ
    Từ đây chàng sẽ được hân hoan.
  4. Họ rước Di-ghà, Thái tử này
    Vào cung điện, chốn lạc hoan đầy,
    Vừa nhìn vương tử, đoàn thanh nữ
    Kiều diễm, liền thưa gửi giải bày:
  5. -“Chàng là ai? Nhạc sĩ, Thiên thần,
    Hay Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Bố thí của tiền khắp thị trấn,
    Xin cho tiện thiếp biết danh xưng?.
  6. “Ta không Nhạc sĩ, chẳng Thiên thần,
    Chẳng Ðế Thích danh tiếng lẫy lừng,
    Vua xứ Kà-si, ta kế vị,
    Di-ghà Thái tử, ấy danh xưng,
    Hãy yêu ta nhé và an lạc,
    Ta sắc vương phi đủ mọi nàng!
  7. Rồi với Di-ghà, vị chúa công,
    Các nàng kiều nữ lại thưa rằng:
    “Thượng hoàng tìm chỗ nào an trú,
    Và kể tử nay sẽ ẩn thân?”.

Thái tử:

  1. – “Phụ vương đã tránh chốn bùn nhơ,
    Ngài đã bình an ở đất khô,
    Thoát khỏi chông gai rừng rậm rạp,
    Cuối cùng ngài đã thấy đường to.
  2. Còn ta mới cất bước lên đường
    Dẫn đến nơi đầy rẫy khổ buồn,
    Qua đám chông gai, rừng rậm rạp
    Tiến lên tìm số phận kinh hoàng”.

Cung phi:

68.- “Cung nghênh Thánh thượng đến hoàng cung,
Như hổ tìm con ở động hang,
Thánh thượng từ đây lên ngự trị,
Chánh chân thừa kế chiếc ngai vàng”.

*

Nói xong cả đoàn cung nữ cùng đánh nhạc cụ vang lừng và biểu diễn đủ loại ca múa, cảnh vinh quang huy hoàng tuyệt diệu đến độ Thái tử say mê quên hết mọi sự về phụ vương.

Nhưng sau đó chàng cai trị đúng Chánh pháp, rồi đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ-tát tu tập Thiền định làm phát khởi Thắng trí và khi mạng chung, ngài sinh lên cõi Phạm thiên.

*

Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngay cả ngày xưa nữa, Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.

Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:

Vào thời ấy, vị Ðộc Giác Phật chứng đắc Niết Bàn, vương tử là Ràhula (La-hầu-la) và vua Arindama chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hiền giả Samkicca (Tiền thân Samkicca)

Vừa thấy Brahmà, bậc Ðế vương…,

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể lại trong khi trú vườn xoài của Jivaka, về việc mưu sát phụ vương vua Ajàtasattu (A-xà-thế). Theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vua ấy đã nhờ vị này sát hại phụ vương.

Nhưng khi bệnh tật tràn lan trong đám giáo hội ly khai tiếp theo sau sự chia rẽ trong Tăng chúng, Ðề-bà-đạt-đa quyết đính ra đi và xin đức Như Lai thứ tội trong lúc đi đường đến Sàvatthi (Xá-vệ), trên một chiếc cáng, vị này bị nuốt vào lòng đất ngay tại cổng Kỳ Viên. Khi được tin trên, vua A-xà-thế suy nghĩ: “Vì Ðề bà-đạt-đa thù nghịch với đức Thế Tôn nên phải bị mất xác vào lòng đất và đọa vào địa ngục Avìci (A-tỳ). Vì lão ấy mà ta đã can tội giết hại phụ vương thánh thiện, vị vua của công lý, chắc chắn ta cũng sẽ bị nuốt vào lòng đất”.

Vì thế vua kinh hoàng đến độ không còn hứng thú an hưởng cảnh vương giả trong triều đình và trong khi tưởng rằng chỉ nằm nghỉ ngơi chốc lát, vua đã ngủ thiếp dần, rồi thấy mình dường như rơi vào một cảnh giới toàn bằng sắt dày chín dặm, bị đâm bằng cọc sắt nhọn và bầy chó xâu xé, chúng cứ nhe răng dọa nạt ông, làm ông kêu lớn và giựt mình tỉnh dậy.

Vì vậy vào ngày lễ hội Rằm trăng tròn tháng Mười, khi được đám đông quần thần vây quanh, ông nghĩ đến cảnh vinh quang của mình, lại thấy cảnh vinh quang của phụ vương còn vượt xa hơn mình nữa, mà chỉ vì Ðề-bà-đạt-đa, ông đã giết một vị vua chân chính như vậy, trong khi nghĩ đến điều này, một cơn sốt nổi lên khắp thân thể, mồ hôi đổ ra như tắm.

Rồi ông xem xét ai có thể xua tan nỗi sợ hãi này khỏi lòng mình, ông kết luận là ngoại trừ đấng Thập Lực (danh hiệu của đức Phật), không còn ai nữa, ông suy nghĩ: “Ta đã có tội lớnđối với đức Như Lai, vậy ai có thể đem ta đến yết kiến đức Thế Tôn? 

Và xem ra không còn ai ngoài Jìvaka, ông tìm cách mời vị này cùng đi đến yết kiến đức Phật.

Vua thốt ra một tiếng kêu vui mừng:

– Này Hiền khanh, đêm nay trăng sáng đẹp quá – Vua bảo – hôm nay ta muốn đi cúng dường đảnh lễ một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, có nên chăng?

Khi nghe các công đức của Puràna và các vị Đạo Sư khác được các đệ tử của họ tán thán, vua không quan tâm mà chỉ hỏi lại Jìvaka, và khi nghe vị này kể các công đức của Như Lai cùng kêu lên:

– Xin Thánh thượng, hãy đi đảnh lễ đấng Thế Tôn.

Vua ra lệnh cho các tượng xa chuẩn bi đi đến vườn xoài của Jìvaka.

Khi đến gần đức Như Lai, vua đảnh lễ và được đức Phật thân ái đáp lễ lại, vua hỏi đức Phật về công quả của việc tu hành trong đời này, và sau khi nghe được bài thuyết Pháp êm dịu về vấn đề này từ đức Như Lai, cuối cùng vua xin làm đệ tử đức Phật, và ra về sau khi đã được hòa hợp với đức Phật.

Từ đó thực hành bố thí và trì giới, vua thường kề cận đức Như Lai, nghe Ngài thuyết Pháp êm dịu và nhờ thân cận bậc thiện hữu tri thức, nỗi lo sợ giảm bớt và cảm giác kinh hoàng của ông dần dần biến mất, ông đã được an tâm trở lại và hân hoan tu tập Tứ Nhiếp pháp.

Một ngày kia, Tăng chúng bắt đầu bàn luận tại Chánh pháp đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, sau khi giết phụ vương, vua A-xà-thế quá kinh hoàng không còn muốn hưởng cảnh vương giả nữa, cứ luôn luôn bị cảm giác khổ đau trong mọi hành động. Sau đó vua tìm đến đức Như Lai, và nhờ thân cận với bậc thiện hữu, vua đã quên mất hết mọi nỗi lo âu và an hưởng vinh hoa hạnh phúc của đời vương giả.

Bậc Đạo Sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận vấn đề gì?

Và khi nghe các vị ấy nói vấn đề kia, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, người này sau khi giết cha mình, đã nhờ ta mà phục hồi sự thanh thản tâm trí.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta sinh được một con trai, đó là vương tử Brahmadatta. Vào thời ấy Bồ-tát được sinh vào nhà của vị quốc sư. Ngày ngài ra đời, họ đặt tên ngài là cậu Samkicca. Hai hài nhi cùng lớn lên trong cung vua nên trở thành đôi bạn chí thân. Khi hai vị đến tuổi khôn lớn, và sau khi đã hoàn tất mọi môn học tại Takkasilà, liền trở về nhà, vua phong cho con làm phó vương và Bồ-tát vẫn sống chung cùng bạn.

Một ngày kia khi vua cha du ngoạn tại lạc viên, phó vương nhìn thấy cảnh đại vinh quang của ngài, sinh lòng ao ước và nghĩ thầm: “Phụ vương còn mạnh khoẻ hơn một vị vương huynh, nếu ta đợi chờ vua cha chết thì ta già nua khi lên ngôi báu. Lúc ấy ta được giang sơn thì có lợi gì? Ta muốn giết cha và làm vua ngay”.

Chàng liền nói với Bồ-tát về dự định sẽ làm gì, Bồ-tát phản đối dự tính đó, và bảo:

– Này hiền hữu, giết cha là một tội trọng. Chuyện ấy sẽ đưa đường đến địa ngục, xin ngài đừng làm việc ấy, xin đừng giết đức vua.

Song phó vương cứ nhắc đi nhắc lại chuyện ấy, và bị bạn thân phản đối đến lần thứ ba. Phó vương liền vấn kế bọn hầu cận, bọn chúng đồng ý, và lập mưu giết vua cha. Nhưng Bồ-tát nghe tin này, nghĩ thầm: “Ta không muốn thân cận với hạng người như thế”. Rồi không kịp từ giã song thân, ngài trốn đi bằng cửa hậu, và sống cảnh ẩn dật trong vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài theo đời khổ hạnh và chứng đắc các Thắng trí phát xuất từ Thiền định, chỉ nuôi thân bằng các thứ củ quả rừng.

Còn vương tử, khi bạn bỏ đi rồi, đã mưu giết phụ vương và tận hưởng cảnh vinh quang.

Nghe tin nam tử Samkicca xuất gia tu hành, nhiều thiện gia nam tử cũng rời bỏ thế tục và xin thọ giới với ngài để sống đời khổ hạnh. Ngài sống tại đó với hội chúng đông đảo các vị khổ hạnh kia, và tất cả đều đạt các Thiền chứng.

Phần vua, sau khi giết cha và hưởng thọ dục lạc đời đế vương một thời gian ngắn, lại thấy lo sợ và bất an như thể một người đã thấy rõ hình phạt mình trong địa ngục.

Lúc ấy vua nhớ đến Bồ-tát, liền nghĩ: “Bạn ta đã cố ngăn cản ta, bảo rằng giết cha là một việc kinh hoàng, song đã không thuyết phục được ta, nên đã bỏ đi để khỏi vướng lụy; nếu trước kia có bạn ta ở đây, ắt hẳn đã không để ta phạm tội giết cha và đã cứu ta thoát được nỗi kinh hoàng này. Không biết bây giờ bạn ta ở đâu? Nếu ta biết được chàng ở đâu, ta sẽ cho mời chàng về. Ai có thể cho ta biết nơi chàng ở chăng?”.

Tứ đó ở trong hậu cung cũng như ngoài triều đình, vua vẫn thường tán dương Bồ-tát. Một thời gian lâu sau đó, khi đã sống ở Tuyết Sơn cả năm mươi năm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Vua đang nhớ đến ta. Ta phải đi tìm bạn và thuyết Pháp để bạn ta khỏi lo sợ”.

Thế là được năm trăm vị khổ hạnh theo hầu, ngài bay qua không gian rồi hạ xuống hoa viên Dàyapassa, và ngài an tọa trên phiến đá, với các hiền nhân vây quanh.

Người giữ vườn thấy ngài , liền hỏi:

– Thưa Thánh giả, vị nào là bậc Thượng thủ của hội chúng hiền nhân này?

Khi được biết đó là Hiền giả Samkicca, và lão cũng nhận ra ngài, liền thưa:

– Thưa Tôn giả, xin ngài ở nán lại đây cho đến khi tôi đi thỉnh hoàng thượng đến. Hoàng thượng đang nóng lòng gặp ngài.

Đảnh lễ ngài xong, lão vội đến cung tâu trình về việc ngài trở về. Vua đến thăm ngài, và sau cung kính đảnh lễ theo đúng phép xã giao xong, liền đưa ra vấn đề hỏi ngài.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Vừa thấy Brah-ma-dat đại vương,
    Ngôi cao chiếm chệ thật huy hoàng,
    Lão tâu: “Chúa thượng, thân bằng cũ
    Chúa thượng vẫn thường dạ luyến thương
  2. Tôn giả Sam-ca đã đến đây,
    Giữa hiền nhân, nổi tiếng vai thầy
    Đại vương, xin vội lên đường sớm,
    Chớ chậm tìm thăm bậc Thánh này.
  3. Vua ngự lên xa giá vội vàng,
    Sẵn sàng theo lệnh của vua ban,
    Triều thần bạn hữu vây quanh đủ,
    Tìm kiếm Thánh nhân, tiến thẳng đàng.
  4. Cả năm biểu tượng của vương gia
    Ví chúa Kà-si vội bỏ ra,
    Lọng, quạt đuôi trâu rừng, mão niệm,
    Đôi hài, bảo kiếm cũng trao qua.
  5. Rồi vua ngự xuống khỏi vương xa,
    Cởi hết bào y rực sáng lòa,
    Đi đến Da-ya-pa ngự uyển
    Là nơi an tọa Thánh Sam-ca.
  6. Và vua vội vã tiến lên gần,
    Đảnh lễ trang nghiêm, lại hỏi thăm
    Nhắc lại hàn huyên câu chuyện cũ
    Cùng nhau trao đổi đã bao lần.
  7. Cạnh bạn, vua an tọa một bên,
    Đến khi dịp tốt bắt đầu lên,
    Hỏi câu liên hệ bao điều ác,
    Vua vội nêu ra với bạn hiền:
  8. “Sam-ca, bậc thượng thủ hiền nhân,
    Đại trí nhân, nay trẫm vấn an
    Tỉnh tọa Dà-ya-pa ngự uyển
    Bao điều trẫm muốn hỏi thân bằng.
  9. Ra sao kẻ ác lúc tử trần,
    Cảnh giới nào đâu phải thọ thân ~
    Trẫm đã đi sai đường chánh đạo,
    Trẫm mong lời giải của hiền nhân.

Bậc Đạo Sư nói thêm để làm sáng tỏ việc này:

  1. Như vậy Sam-ca bảo Đại vương
    Trị Kà-si quốc độ giang sơn,
    Tại Dà-ya ngự viên, an tọa,
    “Đại đế, lắng nghe sẽ tỏ tường”.

11.Ví thử ngài đưa lối chỉ đường
Cho người đi lạc bước vô phương,
Người kia theo đúng lời khuyên nhủ,
Chẳng gặp chông gai cản bước chân.

  1. Nếu kẻ kia đi lạc nẻo tà,
    Nếu ngài dẫn dắt đúng đường ra,
    Kẻ kia tuân thủ lời khuyên nhủ,
    Sẽ thoát ra bao cảnh khổ mà.

*

Ngài đã khuyến giáo vua như vậy, và hơn nữa ngài còn dạy vua Pháp lành:

13-14. Đường cái khác nào lẽ chánh chân,
Còn đường tắt chỉ nẻo tà gian,
Chánh chân đưa lối lên thiên giới,
Ác dẫn người vào địa ngục môn.

  1. Kẻ nào phạm giới, hỡi quân vương,
    Và sống đời bất chánh bất lương,
    Số phận nào chờ trong địa ngục
    Mệnh chung, nghe rõ sẽ am tường:
  2. Sañ-ji-va, Kà-la-sut-ta,
    Ro-ru-va tiểu và đại,
    San-ghà-ta, Đại A-vì-ci,
    Ta-pa-na, Pa-tà-pa-na,
  3. Tám địa ngục kia tiếng lẫy lừng
    Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
    Thoát thân từ đó đều vô vọng,
    Các ngục Us-sa(l) được kể rằng:
    Con số tăng hơn mười sáu nữa,
    Đều là ngục cỡ nhỏ từng phần.
  4. Lửa cháy, hành hình các tội nhân
    Thảy đều tạo ác nghiệp vô ngần,
    Kinh hồn, hoảng hốt, đầy đau đớn,
    Khổ não, hãi hùng ngập bốn phương.
  5. Bốn phía đều xây cửa bốn tầng,
    Chia từng khoảng cách thật cân phân,
    Mái vòm bằng sắt trên che phủ,
    Tường sắt lại còn bọc lấy thân.
  6. Nền sắt này xây mới vững sao
    Vì không lửa dữ đốt tan nào,
    Dù xa trăm dặm chung quanh đó,
    Cũng thấy oai thần tỏa vút cao.
  7. Ai làm thương tổn các hiền nhân,
    Hoặc xúc phạm gì bậc thiện chân,
    Rơi thẳng vào ngay miền địa ngục
    Chẳng còn cơ hội để vươn thân.
  8. Thân thể tả tơi, cảnh hãi hùng
    Khác nào cá nướng, lửa đang nồng,
    Cũng vì ác nghiệp bao năm cũ
    Đày xuống ngục kia phải nướng thân.
  9. Thiêu hủy tứ chi lửa bỏng sôi,
    Hành hình làm hoảng sợ con mồi,
    Dù mong giải thoát ra ngoài ngục,
    Cũng chẳng tìm đâu lối thoát rồi.
  10. Chạy tới chạy lui kiếm lối đi,
    Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng mong gì,
    Vì chư thần đó ngăn đường lối,
    Họ cố tìm đường có ích chi.
  11. Hàng ngàn năm số phận đau thương,
    Chúng sống trong miền địa ngục môn,
    Với cánh tay dài vương tới mãi
    Khóc than nỗi khổ ngập tâm hồn.
  12. Cũng như rắn độc giết con mồi
    Nổi giận hung tàn nếu bị khơi,
    Phải tránh tổn thương cho Thánh giả,
    Những người nguyền khổ hạnh trong đời.
  13. Tộc trưởng Ke-ka(2) Aj-ju-na,
    Tan tành vì hại Go-ta-ma,
    Dù ngàn tay, vóc người cường tráng
    Thiện xạ lẫy lừng một thuở xưa.
  14. Dan-da-ki phỉ báng Ki-sa(3),
    Ngài chẳng tội tình, chẳng xấu xa,
    Như chặt cọ dừa từ gốc rễ,
    Hoàn toàn hủy diệt thế kia mà.
  15. Mej-jha vì bậc trí Tan-ga(4)
    Phải rớt từ trên bảo tọa kia,
    Đất nước trở thành hoang phế địa,
    Chúa tôi đều phải hóa ra ma.
  16. Dân chúng Vish-nu tộc tấn công
    Di-pà-ya(5) ấy Hắc hiền nhân
    Cùng tộc An-dha(6) tìm địa ngục,
    Giết nhau dùng dáo trượng tranh hùng.
  17. Bị mắc lời nguyền của trí nhân,
    Cec-ca xưa bước giữa không trung,
    Tương truyền bị nuối vào lòng đất
    Biến mất vào ngày đã định phần.
  18. Kẻ ngu bướng bỉnh chẳng khi nào
    Được tán đồng từ bậc trí cao,
    Song các thiện nhân đầy chánh nghĩa
    Khó lòng nói chuyện dối gian nào.
  19. Kẻ nào nằm sẵn để chờ mong
    Bắt lấy hiền nhân với trí nhân,
    Sẽ bị cuốn chìm vào địa ngục,
    Vì mưu kế độc phải ăn năn.
  20. Kẻ nào lòng phản bội hung tàn
    Xông đến đành càn lão Thánh nhân,
    Sẽ giống gốc cây dừa chết héo,
    Chẳng con thừa kế, phải tàn dần.
  21. Kẻ nào dám giết đại hiền nhân,
    Hoặc bậc tu hành sống chánh chân,
    Sẽ đọa Kà-la-sut địa ngục
    Cực hình phải chịu lắm ngày ròng.
  22. Còn nếu Ma-ga, một ác vương
    Muốn làm điên đảo cả giang sơn,
    Mạng chung, vào ngục Ta-pa ấy
    Phải chịu nhiều đau khổ đoạn trường.
  23. Trăm ngàn năm sống đọa đày thân
    Như cách chư Thiên tính tháng năm,
    Mặc áo làm bằng cây lửa đỏ,
    Giữa đau thương địa ngục muôn phần.
  24. Lửa phun lên rực sáng nơi nơi,
    Tung tóe từ thân thể tả tơi,
    Chân cẳng, tóc râu cùng tất cả
    Chỉ dùng nuôi ngọn lửa làm mồi.
  25. Trong lúc thân kia cháy thật nhanh
    Khổ đau hành hạ đến tan tành,
    Như voi bị quất bằng cây nhọn,
    Kẻ khốn rống lên hết sức mình.
  26. Có kẻ tham sân lại giết cha,
    Ấy người hèn hạ, đại gian tà,
    Chịu nhiều thống khổ trong hầm lửa
    Ở ngục Kà-la-sut mãi mà.
  27. Trong chảo sắt sôi đến lột da,
    Bị đâm tên sắt đến mù lòa,
    Ăn phân, kẻ giết nhằm thân phụ,
    Nước muối chìm thân, chuộc tội xưa.
  28. Quỷ sứ đặt trong miệng kẻ này
    – Vì e nó ngậm chặt hàm ngay –
    Một hòn sắt nóng nung cho đỏ,
    Hoặc một lưỡi cày với sợi dây,
    Rồi buộc lấy mồm cho thật chặt,
    Thả vào trong vũng nước bùn lầy.
  29. Kên kên, diều quạ, cả đen, nâu,
    Chim mỏ sắt kia thật đủ màu,
    Phanh lưỡi nó ra từng mảnh nhỏ,
    Run run từng miếng, máu tuôn trào.
  30. Bay đi, bầy quỷ lại bay về
    Đánh đập kẻ đầy khốn khổ kia,
    Vào ngực cháy, chân tay gãy nát,
    Chúng hành người, độc ác say mê.
  31. Cả bầy quỷ sứ thật hân hoan,
    Song nỗi khổ đau lại ngập tràn
    Những kẻ đọa đày trong ngục ấy,
    Vì đời phạm tội giết nghiêm đường.
  32. Còn nếu kẻ nào giết mẫu thân
    Đọa ngay vào ngục Dạ- ma quân,
    Để đền tội phạm hành vi ác,
    Nhận quả báo kia thật xứng phần.

47-48. Quỷ dữ nắm người giết mẫu thân
Dùng cày sắt rộng ủi mạnh vào lưng,
Tạo thành những luống cày sâu rộng,
Máu tựa đồng tan chảy cả dòng
Từ các vết thương, và chúng lấy
Làm nguôi cơn khát bỏng tù nhân.

49-50. Hồ máu đỏ kia nó ngập mình,
Hít mùi xác chết hoặc bùn tanh,
Bầy sâu khủng khiếp dùng mồm sắt
Xuyên suốt da người chịu cực hình,
Xâu xé thịt kia nhai ngấu nghiến,
Hút ngay máu đỏ thật ngon lành.

51-52. Ngục sâu trăm dặm, ngập chìm thân,
Trăm dặm quanh đầy xác thối nồng,
Bởi chính mùi hôi, ôi! Tội nghiệp,
Xưa dù mắt sáng, cũng mờ dần.

  1. Vượt qua ngục thất Khu-ra-dhà(7),
    Tù ngục tối tăm, khó vượt qua,
    Những kẻ phá thai, sao thoát được
    Dòng sông khủng khiếp Ve-ta-ra(8).
  2. Cây vải có gai sắt thật dài,
    Chừng vài ba tấc, miệng người đời
    Tương truyền trên cả đôi bờ ấy
    Lơ lững giường đen tối của ngài.
  3. Tất cả bọc trong khối lửa hồng
    Vươn lên sừng sững tựa trời trồng
    Cháy bùng rực rỡ như cây tháp
    Cao cả dặm đường giữa cõi không

56-57. Trên lửa gai nung, ngục hiện ra:
Gian phu, dâm phụ, bọn gian tà
Roi da vụt xuống, đầu lăn lóc,
Hỗn loạn quay cuồng chạy trốn xa,
Tơi tả tứ chi nhừ nát cả,
Chúng nằm thức đợi suốt đêm qua.

58-59. Tảng sáng, vào Nồi Sắt ẩn thân
To như núi, ngập nước bừng bừng,
Ngu si vây bọc như y quấn,
Bọn ác nhân kia sáng tối ròng,
Vì ác nghiệp gây từ kiếp trước,
Nay đền nợ cũ xứng cân phần.

  1. Người vợ được mua với bạc vàng
    Đem lòng coi rẻ đức lang quân,
    Hoặc nhìn khinh bỉ người thân thích,
    Lưỡi bị móc ra, thống khổ tràn.
  2. Thấy lưỡi căng đầy đám bọ sâu,
    Kêu than chẳng thể được đâu nào,
    Âm thầm phải gánh bao hình phạt
    Trong ngục Ta-pa chịu khổ đau.

62-63. Kẻ giết heo cừu, bọn thợ săn,
Chài ngư, trộm cướp, lũ tà nhân,
Xem hành vi thiện là hèn kém,
Bị đánh bằng dùi sắt, kiếm cung,
Nhào xuống, cả bầy người khát máu
Bị tên, giáo đuổi, ngã vào dòng.

  1. Thợ rèn làm hại suốt ngày đêm
    Dùng gậy sắt kia để luyện rèn,
    Chỉ sống bằng đồ ăn bẩn thỉu
    Nhả ra bởi các kẻ đê hèn.
  2. Diều quạ, kên kên, với chó rừng
    Hàm nhe toàn sắt sẵn sàng luôn
    Vồ ngay kẻ khốn đang lăn lộn,
    Nuốt sống vào mồm quá hám ăn!
  3. Ai dùng thú dữ giết hươu nai,
    Hoặc giết chim bằng các bẫy mồi,
    Tội lỗi đầy thân chìm đọa xứ,
    Ăn năn ngày tháng khổ đau dài.

Ghi chú: (1) Ussada; (2) Kekakà; (3) Kisavaccha; (4) Màtanga; (5) Dipàyana; (6) Andhaka; (7) Khuradhàra; (8) Vetaranì

Như vậy, ngài đã miêu tả các địa ngục trên và bây giờ vừa mở một chỗ trên mặt đất, ngài vừa chỉ vua thấy thiên giới, vừa bảo:

  1. Nhờ tích đức trên cõi thế gian
    Từ xưa người thiện đến thiên đàng,
    Chư Thiên, Phạm chúng, kìa Thiên chủ,
    Đạt quả công năng chín vẹn toàn.
  2. Ta bảo ngài cai trị chánh chân
    Suốt trong quốc độ, hỡi Quân vương,
    Đạt thành phước đức nhờ công chánh,
    Hối tiếc về sau chẳng phải mang.

Nghe xong bài thuyết giáo của bậc Đại Sĩ, vua bình tâm lại, còn Bồ-tát sau khi ở đó một thời gian nữa, liền trở về nơi an trú của mình.

*

Đến đây, bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại và bảo:

– Không chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, vua ấy cũng đã được ta làm cho an tâm.

Và Ngài nhận diện Tiền thân:

– Vào thời bấy giờ, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) là nhà vua kia, các đệ tử đức Phật là hội chúng của vị khổ hạnh, và Ta chính là Hiền giả Samkicca.

-ooOoo-

Chương XX

Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ

  1. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền thân Kusa)

Quốc độ này hoan lạc ngập tràn . . .,

Đây là câu chuyện bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.

Chuyện kể rằng vị ấy thuộc dòng quý tộc, sống ở Sàvatthi (Xá-vệ), vì nhiệt tâm tin vào Chánh pháp nên ông xuất gia tu tập.

Một ngày kia, ông vào thành Sàvatthi để khất thực, lại gặp một nữ nhân xinh đẹp liền đem lòng say mê ngay khi mới thấy nàng. Bị tham dục chi phối, ông sống trong đau khổ, cứ để lông tóc, móng tay chân mọc dài ra, mặc các y trong lẫn y ngoài đều dơ bẩn, và héo mòn dần đến độ xanh xao khác nào cây liễu rũ với các đường gân nổi lên khắp mình mẩy.

Cũng giống như trên thiên giới, khi một vị Thiên tử nào sắp đọa khỏi kiếp sống Thiên thần, thường để lộ ra năm dấu hiệu quen thuộc, đó là: Các vòng hoa của vị ấy mang héo dần, xiêm y dơ bẩn, thân thể trở nên xấu xí, mồ hôi ở nách đổ ra và vị ấy không còn thấy lạc thú gì trong Thiên cung nữa.

Trường hợp các Tỷ-kheo ở thế gian cũng vậy; khi thối thất tín tâm trong Chánh pháp, có năm dấu hiệu tương tự hiện ra: hoa tín tâm héo úa, y chân chánh dơ bẩn, do bất mãn và các hậu quả của cái danh bất thiện mà thân thể các vị ấy trở nên xấu xí dần, mồ hôi bất tịnh cứ tuôn ra đầm đìa khiến họ không còn thấy lạc thú gì trong đời độc cư dưới gốc cây rừng nữa.

Đó là những dấu hiệu đã xuất hiện ở vị này. Vì thế Tăng chúng đưa ông đến yết kiến bậc Đạo Sư, và thưa:

– Bạch Thế Tôn, kẻ này đang thối thất.

Bậc Đạo Sư hỏi có đúng không, và khi nghe ông thú nhận là đúng, Ngài bảo:

– Này Tỷ-kheo, đừng làm nô lệ cho tham dục. Đây là một ác nữ nhân, ông hãy chế ngự dục tham của ông đối với kẻ ấy, hãy hân hoan trong Chánh pháp. Chính vì mê say một nữ nhân, mà các bậc hiền trí ngày xưa, mặc dù có đủ uy lực phi thường, cũng đã mất hết quyền năng và phải chịu khốn đốn đến suy tàn.

Nói vậy xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.

*

Ngày xưa tại quốc độ Malla, trong kinh thành Kusàvati, vua Okkàka cai trị rất chân chánh. Đứng đầu mười sáu ngàn phi tần của ngài là Chánh hậu Silavatì. Bấy giờ bà không sinh con cái gì nên dân chúng trong kinh đô cùng các triều thần tụ họp tại cửa cung, than vãn rằng quốc độ này sẽ bị diệt vong.

Vua mở cửa sổ ra phán hỏi:

– Trong triều đại trẫm, không có ai làm điều gì bất công trái đạo. Tại sao các ngươi trách móc trẫm?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, quả đúng vậy, không ai làm gì trái đạo lý cả, nhưng Đại vương không có hoàng nam để nối dõi; một kẻ ngoại bang sẽ chiếm lấy vương quốc và hủy diệt đất nước này. Vậy xin Đại vương hãy cầu tự để có hoàng nam trị nước cho đúng pháp.

– Thế khi muốn cầu tự, trẫm phải làm gì?

– Trước tiên, xin Đại vương hãy truyền đưa ra đường một đám cung nữ ca múa hạ đẳng suốt trong một tuần lễ, xem đó như một lễ cúng tế thần, rồi nếu có một nàng nào sinh được con trai thì tốt lắm. Nếu không thì xin hãy đưa một đám nữ nhạc trung lưu và cuối cùng là đám nữ nhạc thượng hạng. Chắc hẳn giữa đám đông như thế sẽ có một nàng đầy đủ đức độ để sinh con trai.

Vua liền làm theo lời họ khuyên ngài, và cứ đến mỗi ngày thứ bảy trong tuần, ngài hỏi thăm đám người ấy trở về cung, sau khi đã hưởng thú vui chơi thỏa thích, xem có nàng nào thọ thai chưa. Và khi tất cả bọn họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, không có ai.

Bấy giờ vua thất vọng kêu lên:

– Ta chẳng có được hoàng nhi nào cả.

Dân chúng trong kinh thành lại trách móc vua như trước. Vua bảo:

– Tại sao các ngươi lại trách trẫm, theo lời các ngươi thỉnh cầu, nhiều đám nữ nhân đã được đưa ra trình diễn ngoài đường, nhưng không nàng nào thọ thai cả. Vậy trẫm phải làm sao bây giờ?

Họ đáp:

– Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn đám nữ nhân này đều vô hạnh và thiếu đức cả. Chúng không đủ công đức để sinh con trai. Song vì chúng chưa thọ thai, vậy hoàng thượng đừng nản lòng, Chánh hậu Silavatì là một nữ nhân đầy đủ đức hạnh; xin hãy đưa chánh hậu ra đường, lệnh bà sẽ sinh hoàng nam.

Vua vui lòng chấp thuận, truyền lệnh đánh trống công bố rằng vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy, dân chúng phải tề tựu lại và vua sẽ đưa Chánh hậu Silavatì ra đường làm tế lễ. Rồi vào ngày thứ bảy, vua truyền lệnh trang điểm chánh hậu thật lộng lẫy và rước bà từ cung ra đường phố biểu diễn.

Do uy lực công đức của bà, cung thất của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nóng dần lên. Thiên chủ Sakka xem xét việc này có ý nghĩa gì, và nhận thấy Chánh hậu đang khao khát một hoàng nam, liền suy nghĩ:

– Ta phải ban cho chánh hậu một hoàng nam.

Rồi trong khi tìm hiểu xem có vị nào trên thiên giới xứng đáng làm con bà không, Thiên chủ chợt trông thấy Bồ-tát.

Truyện kể rằng, vào thời ấy, sau khi đã hưởng hết thọ mạng ở cõi trời Ba mươi ba, ngài (Bồ-tát) ước mong được tái sinh ở một cảnh giới cao hơn. Sakka Thiên chủ đền gần cửa cung ngài, triệu ngài ra bảo:

– Này Hiền giả, ngài sẽ phải đến cõi nhân gian, và thọ sinh làm hoàng nam của Chánh hậu vua Okkaka.

Rồi Thiên chủ lại mời được một Thiên tử khác đến và bảo:

– Hiền giả cũng sẽ làm hoàng nam của Chánh hậu.

Và muốn rằng không có một nam nhân nào được phép làm tổn hại đức hạnh của chánh hậu, nên Sakka Thiên chủ giả dạng làm một lão Bà-la-môn, đi đến cửa cung.

Đám dân chúng, sau khi tắm rửa trang điểm cho mình xong, mỗi người đều thầm mong trong trí là sẽ chiếm được hoàng hậu nên tề tựu ngay tại hoàng môn, nhưng khi thấy Sakka Thiên chủ họ cười ầm lên, hỏi ngài tại sao đến đây. Thiên chủ bảo:

– Tại sao lại trách lão? Thân lão già rồi, song dục tình vẫn không giảm xuống, nên lão đến đây với hy vọng đem được hoàng hậu về với lão, giả sử lão chiếm được bà.

Cùng với những lời này, Thiên chủ dùng thần lực tiến lên phía trước cả đám người ấy, và vì công đức của ngài tỏa ra, không ai có thể đứng trước mặt ngài được, và ngay lúc chánh hậu mới bước ra khỏi cung, được trang điểm cực kỳ rực rỡ uy nghi, ngài liền nắm lấy tay bà và đưa đi mất.

Thế rồi đám người kia đứng trơ ra đó mạ lỵ ngài, bảo:

– Thật là nhục nhã, một lão Bà-la-môn đã biến đi mất cùng một bà hoàng hậu dung sắc tuyệt thế. Lão cũng chẳng biết chuyện gì là cân xứng với lão nữa.

Chánh hậu cũng suy nghĩ: “Một ông già đang bắt ta đi mất đây”, bà cũng nổi giận và lại cảm thấy ghê tởm.

Còn vua đứng ở cửa sổ mở rộng, nhìn ra xem ai sẽ cướp được hoàng hậu mang đi, và chợt thấyđó là ai rồi, thì ngài hết sức bất bình.

Khi Sakka Thiên chủ vừa cùng bà thoát ra khỏi cổng thành, ngài liền dùng thần lực hóa hiện ra một ngôi nhà ngay gần đó, cửa đã mở sẵn cùng với một bó củi khô. Bà hỏi:

– Chỗ ở của lão đây chăng?

– Tâu lệnh bà phải, trước kia lão ở đây chỉ một mình, nay có cả đôi ta. Lão sẽ đi quanh đây kiếm ít gạo về trong lúc ấy xin lệnh bà nằm nghỉ trên đống củi này.

Nói vậy xong, ngài vỗ nhẹ trên người bà, khiến bà rúng động vì sự tiếp xúc với Thiên chủ, rồi ngài đặt bà nằm xuống đó, ngài vừa đụng vào người bà là bà thiếp đi ngay. Sau đó, ngài dùng thần lực siêu phàm đưa bà lên cõi trời Ba mươi ba và đặt bà xuống trên thiên tọa trong một cung điện lộng lẫy nguy nga.

Vào ngày thứ bảy, ngay khi vừa thức giấc, bà ngắm cảnh huy hoàng này và hiểu rằng đây không phải là một Bà-la-môn, mà chắc hẳn là chính Sakka Thiên chủ. Vào lúc này Sakka Thiên chủ đang ngự trên bảo tọa dưới cây San hô, được đoàn Thiên nữ ca múa vây quanh.

Bà liền bước ra khỏi thiên sàng, đi đến gần đảnh lễ Thiên chủ và kính cẩn đứng một bên. Sau đó Thiên chủ bảo:

– Ta ban cho bà một điều ước; hãy chọn đi.

– Vậy xin Thiên chủ ban cho thần thiếp một hoàng nam.

– Này hoàng hậu, không chỉ một mà thôi đâu. Ta sẽ ban hai vương tử cho bà. Một người thông minh trí tuệ nhưng xấu xí, người kia đẹp tướng song lại ngu đần, bà muốn có đứa con nào trước?

– Xin đứa con thông minh trước. Bà đáp.

– Được lắm. Ngài bảo.

Rồi đưa cho bà một cọng cỏ Kusa (Cát tường), một chiếc thiên y cùng với gỗ chiên-đàn, một đóa thiên hoa San hô và cây đàn Kokanada màu đỏ cánh sen.

Xong xuôi ngài đưa bà trở lại mội cung của hoàng gia, đặt bà nằm xuống trên cùng một vương sàng với vua và chỉ lấy ngón tay ngài đụng vào người của bà là ngay lúc ấy Bồ-tát nhập mẫu thai, còn Thiên chủ lập tức trở về cõi của ngài ngay. Bà hoàng hậu hiền đức biết rằng bà đã thọ thai.

Lát sau vua tỉnh giấc thấy bà, liền hỏi ai đã đem bà đi.

– Tâu Thánh thượng, chính Sakka Thiên chủ.

– Kia chính mắt trẫm thấy một lão già Bà-la-môn mang khanh đi mất, tại sao khanh muốn đánhlừa trẫm?

– Tâu Thánh thượng, xin hãy tin thần thiếp, chính Sakka Thiên chủ đã đưa thiếp lên thiên giới.

– Trẫm không tin khanh đâu.

Lúc ấy bà đưa vua xem cọng cỏ Kusa mà Thiên chủ đã tặng bà và nói:

– Bây giờ xin Thánh thượng tin lời thần thiếp.

Vua nghĩ thầm: “Cỏ Kusa hái được khắp nơi”, nên ngài vẫn không tin bà. Bà liền đưa cho vua xem các Thiên y của bà. Thấy vậy ngài tin bà và bảo:

– Này ái hậu, nếu Thiên chủ đem khanh đi thì khanh đã có thai chưa?

– Tâu Thánh thượng, thần thiếp đã có thai.

Vua rất hoan hỷ và truyền cử hành lễ mừng thai phụ.

Mười tháng sau, bà hạ sinh một hoàng nam, triều đình không đặt tên gì khác ngoài tên ngọn cỏ Kusa. Vào thời gian vương tử Kusa biết chạy một mình, bà lại có thai một Thiên tử thứ hai, họđặt tên là Jayampati. Hai vương tử được nuôi dưỡng theo cung cách cao sang trọng vọng.

Bồ-tát thật vô cùng thông minh, không cần học với thầy nào cả, mà tự khả năng ngài đã tài giỏi thành thạo mọi môn học thuật.

Vì vậy khi ngài được mười sáu tuổi, vua nóng lòng trao quốc độ cho ngài, liền bảo chánh hậu:

– Này ái hậu, khi trao vương quyền cho vương nhi, ta sẽ cử hành lễ thật trọng thể, ta muốn nhìn thấy vương nhi được an vị trên ngai vàng khi ta còn sống. Nếu có công chúa ở xứ nào trong cõi Diêm-phù-đề mà ái hậu yêu mến, thì khi rước nàng ấy về đây, ta sẽ phong cho nàng làm chánh hậu của vương nhi. Vậy hãy thăm dò xem vương nhi có yêu mến công chúa xứ nào chăng?

Bà ưng thuận ngay và cho một cung nữ đệ trình vấn đề lên thái tử để biết ý kiến ngài. Nàng ấyđến trình vương tử mọi việc.

Nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ: “Ta không được tốt tướng, hễ một công chúa diễm lệ nào dù được rước về đây làm tân nương của ta thì khi thấy mặt ta cũng sẽ nói: “Mình sẽ phải làm gì với một người chồng xấu xí như thế này”; rồi nàng ấy trốn đi và chúng ta chỉ thêm mang nhục. Vậy ta còn phải cần gì cuộc sống gia đình thế tục nữa? Ta muốn phụng dưỡng song thân lúc còn sống và khi song thân từ trần, ta quyết xuất gia làm ẩn sĩ”. Vì thế ngài đáp:

– Ta có cần gì quốc độ ngai vàng hay yến tiệc hội hè đâu? Khi song thân ta từ trần, ta quyết xuất gia tu hành.

Nàng cung nữ ấy trở về và kể lại với chánh hậu chuyện ngài vừa nói.

Vua rất buồn bực; sau vài ngày lại gửi một chiếu chỉ khác, nhưng vương tử vẫn không chịu nghe theo. Sau ba lần từ chối lời đề nghị của vua cha; đến lần thứ tư ngài suy nghĩ: “Quyết liệt phản đối mẹ cha mãi là điều không hợp lý, nên ta muốn bày một mưu kế gì đó”.

Rồi ngài triệu người thợ vàng trưởng đoàn vào, đưa cho gã một số vàng và bảo gã làm bức tượng một nữ nhân. Khi gã đi rồi, ngài lấy thêm vàng và chính tay ngài nặn hình một nữ nhân.

Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng được thành tựu. Bức tượng tuyệt đẹp vượt ngoài mọi lời lẽ con người miêu tả nó. Sau đó, bậc Đại Sĩ truyền đem xiêm y khoác cho tượng ấy và đặt trong cung thất.

Khi thấy bức tượng do người thợ vàng trưởng đoàn đem vào, ngài chê bai, và bảo:

– Ngươi hãy đi tìm xem bức tượng đặt trong hoàng cung.

Gã thợ ấy bước vào, thấy bức tượng lên suy nghĩ: “Chắc đây phải là một Thiên nữ đến hưởng lạc thú cùng với vương tử”.

Gã bỏ đi ra khỏi phòng mà không dám đưa tay ra về phía bức tượng ấy, rồi gã nói:

– Tâu điện hạ, trong cung ngài có một Thiên nữ cao quý của chư Thiên, hạ thần không dámđến gần.

Ngài bảo:

– Hiền hữu, hãy đi đem bức tượng vàng ấy về đây.

Được bảo đến lần thứ hai, gã mới đi mang bức tượng về.

Hoàng tử ra lệnh đem bức tượng do người thợ vàng đúc đặt vào trong cung thất bằng vàng; còn bức tượng do ngài nặn thì được trang hoàng thật đẹp đặt lên một chiếc xe, đem đệ trình mẫu hậu và bảo:

– Khi nào con tìm ra được một nữ nhân như thế này, con xin lấy nàng làm vợ.

Mẫu hậu triệu các quốc sư vào bảo:

– Này các hiền khanh, vương tử có đầy đủ công đức do Sakka Thiên chủ ban cho ta, chàng phải tìm được một công chúa xứng đáng với chàng. Vậy các khanh hãy đem bức tượng này đặt vào vương xa phủ kín, đi khắp cõi Diêm-phù-đề, hễ thấy công chúa của vua nào giống bức tượng thì hãy trao tượng cho vua ấy và bảo: “Quốc vương Okkàka sẽ làm hôn lễ với công chúa của Đại vương”. Rồi hãy thu xếp ngày trở về nước.

– Thật tốt lành thay.

Họ đáp xong cầm bức tượng ra đi cùng một đoàn tùy tùng đông đảo. Trong cuộc hành trình ấy, dù đến kinh thành nào vào lúc hoàng hôn, đoàn người ấy cũng tụ tập lại rồi sau khi trang hoàng xiêm y, vòng hoa, nữ trang cho bức tượng, họ đặt tượng lên chiếc loan xa đưa ra bến tắm, còn chính họ trở lui, đứng bên vệ đường nghe ngóng người qua lại có bàn tán gì chăng.

Dân chúng thấy bức tượng vàng, bảo nhau:

– Bức tượng này chỉ là một nữ nhân cũng thật vô cùng diễm lệ, chẳng khác một vị Thiên nữ. Tại sao nàng đến đây, nàng từ đâu lại? Trong kinh thành này của ta, không có ai sánh bằng nàng được.

Sau khi tán dương sắc đẹp của tượng vàng, họ lại đi đường họ.

Các quốc sư bảo:

– Nếu có một cô gái nào như thế ở đây, dân chúng sẽ bảo: “Bức tượng này giống công chúa nọ, hoặc tiểu thư kia”; chắc tại đây không có cô gái nào như vậy cả.

Họ liền đem bức tượng ra đi đến kinh thành khác; trên bước giang hồ vô định, họ đến kinh thành Sàgala ở quốc độ Madda.

Lúc bấy giờ vua Madda có bảy công chúa đẹp dị thường như bầy tiên trên trời. Công chúa lớn nhất tên là Pabhàvatì (Quang Huy), thân nàng chiếu tỏa ra các tia sáng như thể ánh bình minh. Khi trời tối, trong phòng loan của nàng rộng chừng bốn cubit (1 cubit = 45 cm) không cần thắp đèn, cả căn phòng cũng sáng rực lên.

Lúc bấy giờ, nàng có một bà nhũ mẫu lưng gù, sau khi đã bưng cơm lên hầu Pabhàvatì, lại muốn gội đầu cho nàng vào lúc trời sẩm tối, bà ra đi múc nước cùng với tám nữ tỳ, mỗi người mang một bình đựng nước đến bến tắm, chợt thấy bức tượng, bà tưởng đó là Pabhàvatì liền kêu lên:

– Cô bé này tệ thật, cứ giả vờ muốn gội đầu và bảo ta đi múc nước, lại lẻn đi trước chúng ta, ra đứng ngoài đường kia kìa.

Đang lúc giận dữ, bà kêu lên:

– Tệ quá, nàng làm nhục gia phong, nàng ra đứng kia, trước cả bọn ta nữa. Nếu đức vua biết được, chúng ta sẽ chết mất.

Nói xong, bà đánh vào má bức tượng, làm một khoảng lớn bằng lòng bàn tay bà bị nứt ra. Khi thấy đó là một bức tượng vàng, bà bật cười đến bảo các nữ tỳ:

– Hãy đến xem ta đã làm gì kìa. Ta tưởng đó là dưỡng nữ của ta, nên ta đánh nó, bức tượng kia thật có đáng gì nếu đem so với con gái ta? Ta chỉ làm đau tay ta mà thôi.

Thế là các sứ giả của vua chạy ngay nắm lấy bà bảo:

– Đây là chuyện gì bà bảo cho ta biết, con gái bà đẹp hơn tượng này sao?

– Ta muốn nói đến Pabhàvatì, công chúa của vua Madda, giá trị của tượng này không bằng một phần mười sáu của nàng ấy.

Họ vui mừng trong dạ, tìm lối vào cung nhờ người trình vua rằng sứ giả của vua Okkàka đang đứng ở cung môn.

Vua đứng dậy từ bảo tọa, ra lệnh cho họ vào chầu. Khi vào, họ đảnh lễ vua và tâu:

– Tâu Đại vương, bổn vương xin gửi lời hỏi thăm ngọc thể có được khang an chăng?

Họ được tiếp đón nồng hậu và khi được hỏi tại sao đến đây, họ đáp:

– Bổn vương của chúng thần có một hoàng nam, vương tử Kusa rất dũng cảm, đức vua muốn trao quốc độ cho con nên sai chúng thần đến xin Đại vương gá duyên công chúa Pabhàvatì cho chàng và nhận bức tượng vàng này làm sính lễ.

Nói xong, họ dâng lên tượng vàng ấy. Vua rất đẹp ý, nghĩ rằng được kết thân với một dòng vua cao quý như vậy thật là vạn phúc. Các sứ giả lại tâu:

– Tâu Đại vương, chúng thần không dám chậm trễ ở nán lại đây, chúng thần phải về trình đức vua là chúng thần đã đi cầu hôn công chúa được rồi, ngài sẽ đến đón dâu sau.

Vua chấp thuận, tiếp đãi họ rất nồng hậu, sau đó để họ ra về. Họ về cung trình lại mọi việc lên đức vua và hoàng hậu. Vua cùng đám tùy tùng đông đảo khởi hành từ Kusàvati dần dần theo thời gian đi đến kinh thành Sàgala.

Vua Madda thân hành đón rước ngài vào thành tiếp đãi rất trọng thể. Hoàng hậu Sìlavati là một nữ nhân thông thái, liền suy nghĩ: “Do nguyên nhân gì mà có việc này?”.

Sau một hai ngày, bà bảo vua:

– Chúng ta đang mong được gặp tân nương.

Vua chấp thuận truyền triệu công chúa vào. Nàng Pabhàvati được phục sức cực kỳ lộng lẫy vàđám cung nữ theo hầu bước ra đảnh lễ mẫu hậu tương lai.

Vừa trông thấy nàng, chánh hậu liền suy nghĩ: “Công chúa này tuyệt đẹp, còn con ta lại xấu xí, nếu nàng thấy con ta, nàng sẽ không ở dù chỉ một ngày, và sẽ trốn đi ngay. Vậy ta phải bày mưu mới được”.

Bà liền nói với vua Madda:

– Tân nương thực là đẹp đôi với hoàng nhi ta. Tuy thế hoàng tộc ta có một tục lệ cổ truyền, nếu nàng tuân theo luật đó, chúng ta sẽ rước nàng về làm hoàng phi.

– Đó là tục lệ gì?

– Trong dòng họ ta, người vợ không được phép nhìn chồng ban ngày cho đến bao giờ nàng thọ thai. Nếu nàng chịu làm theo đúng như vậy, chúng ta sẽ đón nàng về.

Vua hỏi công chúa:

– Này con yêu quý, con có làm thế được chăng?

– Tâu phụ vương, được. Nàng đáp.

Sau đó, vua Okkàka đem nhiều sính lễ tặng vua Madda và rước nàng cùng ra đi, vua Madda tiễn đưa công chúa về nhà chồng cùng với một đoàn hộ tống thật đông đảo. Còn vua Okkàka, khi vừa tới thành Kusàvati, liền ban lệnh cho kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, tất cả tù nhân đều được thả ra, và sau khi làm lễ quán đảnh cho tân vương cùng sắc phong nàng Pabhàvati làm chánh hậu, ngài truyền đánh trống loan báo triều đại vua Kusa ra đời.

Tất cả các vua toàn cõi Diêm-phù-đề có công chúa đều gửi đến triều cống vua Kusa hoặc có vương tử thì gửi đến làm cận thần để mong bầu bạn với ngài.

Bồ-tát lại có cả đoàn nữ nhạc đông đảo và trị dân thật oai phong lẫm liệt. Tuy vậy ngài không được phép nhìn Pabhàvatì ban ngày, nàng cũng không được nhìn ngài, chỉ ban đêm ngài mớiđược tự do đi lại với nàng.

Vào thời ấy, thân thể của nàng Pabhàvatì tỏa sáng lạ thường, song Bồ-tát phải rời hậu cung khi trời còn tối. Vài ngày sau, ngài thưa với mẫu hậu rằng ngài muốn nhìn thấy Pabhàvatì vào ban ngày. Bà từ chối , bảo ngài:

– Con không nên ước muốn việc đó, phải đợi đến bao giờ nàng có thai đã.

Ngài van xin mẹ nhiều lần, vì thế bà bảo:

– Thôi được, con hãy đến chuồng voi đứng đó giả làm người quản tượng. Mẹ sẽ đem nàng lạiđó, con sẽ tha hồ ngắm nàng, nhưng hãy cẩn thận đừng để nàng biết con.

Ngài thỏa thuận đi đến chuồng voi, mẫu hậu truyền làm lễ hội voi và bảo Pabhàvatì:

– Này con, ta hãy cùng đi xem bầy voi của đức phu quân con.

Khi đem nàng lại đó, bà chỉ cho nàng tên của voi này, voi nọ; trong lúc Pabhàvatì đi sau lưng mẫu hậu, vua ném vào lưng nàng một cục phân voi. Nàng tức giận bảo:

– Ta sẽ bảo đức vua chặt đầu ngươi.

Nói xong, nàng lại càu nhàu với mẫu hậu khiến bà phải dỗ dành nàng bằng cách xoa lưng nàng.

Lần thứ hai vua mong muốn nhìn thấy hoàng hậu, lại giả dạng làm người giữ ngựa trong chuồng ngựa, cũng như lần trước, ngài ném cục phân ngựa vào mình nàng và khi nàng bực tức, mẫu hậu lại dỗ dành nàng.

Một ngày kia Pabhàvatì tâu với mẫu hậu là nàng mong muốn nhìn thấy bậc Đại Sĩ Bà từ chối lời thỉnh cầu của nàng và bảo:

– Thôi con đừng ước muốn như vậy nữa.

Nàng lại cứ nài nỉ bà mãi, cuối cùng bà bảo:

– Thôi được, ngày mai hoàng nhi sẽ làm đám rước trọng thể khắp kinh thành. Con cứ mở cửa sổ mà nhìn.

Nói xong, hôm sau, bà ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, rồi truyền cho hoàng tử Jayampati mặc hoàng bào, cỡi voi cử hành lễ khải hoàn rất trọng thể khắp kinh thành.

Mẫu hậu cùng đứng nơi cửa sổ với nàng Pabhàvatì, bảo nàng:

– Con hãy xem cảnh huy hoàng của đức phu quân con.

Nàng bảo:

– Con đã được một đấng vương quân thật xứng đôi vừa lứa với con.

Lòng nàng vô cùng hoan hỷ. Song cũng ngày đó bậc Đại Sĩ giả dạng làm người quản tượng, ngồi sau vương tử Jayampati, khi nhìn thấy Pabhàvatì cho thỏa lòng ao ước, ngài vui thích đưa tay làm bộ điệu trêu ghẹo nàng.

Khi con voi đi qua, mẫu hậu hỏi nàng có nhìn thấy đức vua chăng, nàng bảo:

– Tâu mẫu hậu, có thấy, song sau lưng đức vua là người quản tượng rất thô lỗ đã lấy tay làm điệu bộ trêu con; tại sao chúng lại để một người xấu xí, có dáng xui xẻo như vậy ngồi sau đức vua chứ?

– Con ạ, chúng muốn sau đức vua phải có người cận vệ.

Nàng suy nghĩ: ‘‘Người quản tượng này thật to gan, không tỏ lòng kính trọng đức vua tí nào, hay đó chính là vua Kusa? Chắc chắn vì đức vua xấu xí nên họ không muốn cho ta thấy mặt ngài”.

Thế là nàng rỉ tai bà nhủ mẫu lưng gù của nàng:

– Này nhũ mẫu, lập tức đi ra xem thử đức vua ngồi trước hay sau.

– Làm thế nào ta biết được điều đó?

– Nếu là đức vua thì ngài sẽ bước xuống voi trước, nhũ mẫu sẽ biết được nhờ dấu hiệu này.

Bà vú đi ra đứng xa xa nhìn thấy bậc Đại Sĩ bước xuống voi trước, và sau đó là vương tử Jayampati. Bậc Đại Sĩ nhìn quanh, hết phía này đến phía kia, nhợt trông thấy bà lão gù lưng, biết ngay tại sao bà ta đã đến, liền triệu bà ta lại và nghiêm khắc bảo bà ấy không được tiết lộ bí mật của ngài, rồi cho bà ta về.

Bà vú về và bảo hoàng hậu:

– Vị ngồi phía trước đã xuống voi trước tiên.

Và Pabhàvatì tin bà ta ngay.

Một lần nữa, vua muốn thấy mặt nàng và cầu xin mẫu hậu sắp đặt việc ấy. Bà không thể từ chối ngài và bảo:

– Thôi được rồi , con hãy vào ngự viên.

Ngài vào đó giấu mình trong hồ sen đến tận cổ, đứng dưới nước lấy lá sen che đầu và hoa sen che mặt. Và mẫu hậu đem Pabhàvati vào ngự viên lức sẩm tối bảo nàng:

– Này con hãy nhìn cây này, chim kia, nai nọ…

Như thế bà dụ nàng đi mãi cho đến khi nàng tới gần bờ hồ sen.

Khi nàng nhìn thấy hồ phủ đầy năm loại hoa sen, nàng muốn tắm, liền bước xuống mé nước cùng các cung nữ. Trong lúc vui đùa nàng thấy hoa sen kia, liền đưa tay ra hái. Lúc đó vua rẽ lá sen ra, nắm lấy tay nàng bảo:

– Ta là vua Kusa.

Vừa thấy mặt ngài, nàng hét to:

– Kìa con quỷ đang chụp lấy ta.

Rồi nàng ngất đi ngay, vì thế vua thả tay nàng ra.

Khi tỉnh lại, nàng nghĩ thầm: “Chúng bảo vua Kusa đã nắm lấy tay ta, ngài chính là người đã ném vào ta một cục phân voi trong chuồng voi, rồi một cục phân ngựa trong chuồng ngựa, cũng chính là người ngồi sau lưng voi và trêu ghẹo ta. Ta còn làm gì nữa với một người chồng xấu xa dị dạng như vậy? Nếu ta sống thì ta phải lấy người chồng khác mà thôi”.

Thế là nàng triệu tập các quan đại thần đã hộ giá nàng đến đây, và bảo họ:

– Hãy chuẩn bị loan xa. Ngay hôm nay ta phải đào tẩu.

Họ liền tâu chuyện này cùng đức vua. Ngài nghĩ thầm: “Nếu nàng không trốn được, lòng nàng sẽ đau khổ tan nát; thôi để nàng đi, với tài năng của chính mình, rồi đây ta sẽ đưa nàng trở lại”.

Thế là ngài cho phép nàng ra đi, nàng liền về ngay kinh thành vua cha nàng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ đi từ ngự viên về thành và bước lên cung điện nguy nga của ngài.

Thật ra chính là do kết quả một lời nguyền của nàng trong một đời trước mà nàng không ưng thuận Bồ-tát và cũng vì một nghiệp quá khứ của ngài mà ngài phải chịu xấu xí như thế.

Chuyện kể rằng ngày xưa tại ngoại ô thành Ba-la-nại, ở tại phố trên phố dưới, một gia đình nọ có hai con trai và một gia đình kia có một con gái. Bồ-tát là cậu em trong hai anh em kia, rồi cô gái kết duyên với người anh. Còn cậu em không có gia thất, nên vẫn sống chung với anh.

Một ngày kia, nhà này nướng loại bánh hảo hạng, trong lúc Bồ-tát còn ở trong rừng, nên họ để dành cho ngài một chiếc, rồi chia bánh ra ăn hết. Lúc bấy giờ một vị Độc Giác Phật đến khất thực ở nhà ấy. Người chị dâu của Bồ-tát nghĩ rằng nàng sẽ nướng một chiếc bánh khác cho cậu em, nên đem chiếc bánh để dành phần cậu đưa cho vị Độc Giác Phật.

Ngay lúc ấy cậu trở về từ khu rừng, nàng bảo:

– Này chú em, đừng giận tôi đã đưa phần của chú cho vị Độc Giác Phật rồi.

Cậu em đáp:

– Chị đã ăn hết phần mình rồi lại đem cho phần ta đi, còn bảo sẽ làm cái bánh khác cho ta đấy!

Cậu liền giận dữ bước ra lấy lại chiếc bánh từ bình bát của vị khất sĩ.

Nàng vội trở về nhà mẹ mình lấy một bơ tươi mới tan, có màu như hoa Champac (hoa Sứ) đổ đầy vào bình bát ấy, nó liền tỏa ra một làn ánh sáng. Thấy vậy nàng cầu nguyện:

– Lạy Thánh giả, ước gì khi con tái sinh, thân thể con sẽ phát ra một luồng ánh sáng, con sẽ được xinh đẹp và không bao giờ ở chung nhà với kẻ đê tiện này nữa.

Vì kết quả lời nguyền ngày xưa này, nàng không muốn gặp lại cậu nữa. Và Bồ-tát khi thả chiếc bánh lại vào bình bát, đã khấn:

– Lạy Thánh giả, dù nàng ở cách xa trăm dặm, cũng xin cho con có đủ uy lực bắt nàng về làm vợ.

Vì cậu đã giận dữ lấy chiếc bánh, nên kết quả của nghiệp quá khứ ấy là cậu bị tái sinh rất xấu xí.

Phần vua Kusa vô cùng đau khổ khi Pabhàvatì bỏ ngài ra đi, đến độ các cung phi khác, dù đã phụng sự ngài đủ mọi cách, ngài cũng không còn lòng dạ nào ngó ngàng đến họ; toàn cungđiện ngài thiếu mất Pabhàvatì trông thật vô cùng hiu quạnh. Sau đó ngài nghĩ thầm: “Lúc này chắc nàng đã về đến thành Sàvala”; và ngay sáng ngày hôm sau ngài tìm đến mẹ, và thưa:

– Tâu mẫu hậu, con sẽ đi tìm Pabhàvatì về đây. Xin mẫu hậu trị vì quốc độ thay con.

Và ngài ngâm vần kệ đầu:

  1. Đất nước này hoan lạc ngập tràn
    Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
    Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
    Con sẽ ra đi để kiếm nàng
    .

Khi nghe ngài nói vậy, mẫu hậu bảo:

– Này vương nhi, con phải thật hết sức tỉnh giác, nữ nhân là giống có tâm bất tịnh.

Sau đó, bà đổ đầy thực phẩm cao lương vào chiếc bát vàng và bảo:

– Vương nhi để dành lương thực lúc đi đường.

Rồi bà từ giã ngài. Cầm lấy bát thức ăn ấy xong, ngài đảnh lễ mẫu hậu rất cung kính rồi nói to:

– Nếu con còn sống, con sẽ có ngày gặp mẹ.

Và ngài trở về cung thất của mình.

Ngài trang bị năm thứ vũ khí cho mình, đặt một ngàn đồng tiền vào túi xách xong cầm cái bát thức ăn, chiếc đàn Kokanada và rời kinh thành. Ngài là người lực lưỡng, nên đến giữa trưa, ngài đã đi được năm mươi dặm đường. Sau khi ăn xong, còn nửa ngày ngài đi thêm năm mươi dặm đường nữa, vì thế chỉ trong vòng một ngày ngài đã đi được cả trăm dặm đường.

Chiều tối ngài tắm rửa và vào kinh thành Sàgala. Khi ngài vừa đến nơi thì do uy lực đức độ của ngài, nên Pabhàvati không thể nằm yên trên vương sàng mà phải bước xuống nằm trên sàn nhà. Bồ-tát lúc ấy đã mệt lã vì cuộc hành trình, khi ngài đang lang thang trên đường ngài gặp một người đàn bà mời vào nhà nghỉ ngơi. Sau khi rửa chân xong, bà ấy mời ngài đi ngủ.

Lúc ngài đang ngủ, bà ấy lo dọn cơm cho ngài, rồi thúc ngài dậy ăn cơm, ngài vô cùng đẹp ý nên đã cho bà ấy luôn cả ngàn đồng tiền và cái bát vàng. Để lại chỗ đó luôn cả năm loại vũ khí, ngài bảo:

– Ta cần phải đi vài chỗ nữa.

Khi cầm cây đàn lên, ngài đi đến chuồng voi và gọi các người quản tượng:

– Hãy cho ta ở đây và ta sẽ chơi nhạc để các anh nghe.

Họ đồng ý. Ngài liền đi ra ngoài, và nằm xuống. Khi đã hết mệt mỏi, ngài đứng dậy mở đàn ra, vừa hát vừa nghĩ: “Dân chúng trong kinh thành sẽ nghe tiếng đàn”.

Trong lúc Pabhàvati nằm trên sàn nhà, nàng nghe tiếng hát và suy nghĩ: “Tiếng đàn này không thể của ai khác ngoài vua ấy”, nàng biết chắc vua Kusa đã đến đây chỉ vì nàng. Vua Madda cũng nghe tiếng đàn, liền nghĩ thầm: “Gã kia chơi đàn thật du dương. Ngày mai ta sẽ gọi gã vào cho làm nhạc công”. Còn Bồ-tát suy nghĩ: “Ta không thể nào thấy Pabhàvatì nếu ta ở đây, chỗ này không phải dành cho ta”.

Sáng hôm sau, ngài dậy thật sớm, ăn điểm tâm trong nhà trọ xong, ngài bỏ đàn, và đi đến người thợ gốm của vua xin làm thợ học việc. Một ngày kia, sau khi đổ đất sét vào đầy nhà, ngài hỏi người kia xem ngài có thể làm một số bình đất được chăng, người thợ gốm đáp:

– Được lắm.

Ngài liền đặt cục đất lên bánh xe quay tròn. Khi đã quay được rồi, bánh xe quay nhanh đến giữa trưa.

Sau khi làm đủ mọi loại bình đất lớn nhỏ, ngài bắt đầu làm một chiếc đặc biệt cho Pabhàvatì có nhiều hình vẽ trên đó. Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng thành tựu. Ngài quyết định chỉ một mình Pabhàvatì được thấy các hình vẽ này thôi. Khi ngài phơi khô và nung các bình xong, ngôi nhà đầy cả đồ gốm.

Người thợ gốm ấy đem nhiều mẫu hàng đến cung vua. Vua thấy đồ gốm liền hỏi ai đã làm ra chúng.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Trẫm chắc không phải ngươi làm được, vậy thì ai làm?

– Tâu Đại vương, người thợ học việc của hạ thần.

– Không thể là thợ của ngươi được, phải thầy của ngươi mới đúng. Ngươi hãy học nghề với người ấy. Từ nay hãy để người ấy làm bình gốm cho các công chúa của trẫm.

Vua ban cho gã một ngàn đồng tiền và bảo:

– Hãy trao tiền này cho người ấy, và đưa các bình nhỏ đến các công chúa.

Gã cầm các bình nhỏ đến trao các công chúa, và thưa:

– Những thứ này làm riêng để các công nương chơi.

Các công chúa đều có mặt để nhận quà tặng.

Sau đó, người thợ gốm trao cho Pabhàvatì cái bình mà bậc Đại Sĩ đã làm riêng cho nàng. Khi cầm lên, nàng nhận ra ngay hình vẽ nàng và nhũ mẫu lưng gù, và biết đó là công trình bằng tay của không ai khác ngoài vua Kusa, nàng tức giận bảo:

– Ta không cần cái này, đem cho ai muốn lấy nó đi.

Các công chúa kia thấy nàng giận dữ đều cười bảo:

– Đại tỷ tưởng đó là công trình của vua Kusa, chính người thợ gốm làm nó chứ có phải vua ấyđâu, hãy nhận đi.

Nàng không bảo cho các em biết vị vua ấy đã đến đây và làm đồ gốm.

Còn người thợ gốm trao ngàn đồng vàng ấy cho Bồ-tát, và bảo:

– Này con, đức vua rất hài lòng vì con. Từ nay con phải làm đồ gốm cho các công chúa, còn ta sẽ đem chúng đến tặng các nàng.

Ngài suy nghĩ: “Mặc dù ta ở đây, ta cũng không thể thấy Pabhàvati được”. Ngài liền trả tiền lại người thợ gốm và đi đến nhà người đan giỏ cho vua.

Sau khi trở thành thợ học việc với người này, ngài làm một chiếc quạt bằng lá thốt nốt cho Pabhàvatì, trên đó ngài vẽ một chiếc lọng trắng (biểu tượng của vương quyền), và lấy đề tài một phòng đại tiệc có nhiều hình người trong ấy, ngài vẽ hình Pabhàvatì đang đứng giữa.

Người thợ đan giỏ đem những thứ thủ công do vua Kusa làm đến cung điện. Vua thấy, hỏi ai làm chúng như trước và ban một ngàn tiền vàng cho người này, rồi bảo:

– Hãy trao những mẫu đồ đan lát này cho các công chúa.

Ngài lại trao chiếc quạt đặc biệt dành cho Pabhàvatì. Lần này cũng vậy, không ai nhận ra các hình vẽ; song Pabhàvatì, khi thấy chúng, liền hiểu ngay công trình của vua Kusa, và bảo:

– Hãy đưa thứ này cho ai thích nó thì lấy đi.

Rồi nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa kia lại cười nàng. Còn người thợ đan giỏ đem tiền về trao cho Bồ-tát. Ngài nghĩ rằng nơi này cũng không phải chỗ dành cho ngài ở được, nên ngài trả tiền lại cho người đan giỏ rồi đi đến gặp người giữ ngự viên của vua và trở thành thợ học việc.

Trong khi làm đủ loại vòng hoa, ngài làm một vòng đặc biệt dành cho Pabhàvati, nổi bật với nhiều hình dáng khác nhau. Người giữ vườn lại đem đến cung điện.

Khi vua thấy, bèn hỏi ai làm các kiểu vòng hoa này.

– Tâu Đại vương, chính hạ thần.

– Ta chắc ngươi không thể làm được, vậy ai?

– Muôn tâu, chính chú thợ học việc của hạ thần.

– Kẻ này không thể là thợ của nhà ngươi mà phải là tay thầy. Ngươi hãy học nghề với người này, từ nay người này phải kết vòng hoa cho các công chúa và trao cho gã ngàn đồng vàng này.

Khi ban tiền cho người thợ, vua phán:

– Hãy đem các vòng hoa đến dâng lên các công chúa của trẫm.

Còn người giừ vườn lại dâng lên Pabhàvati vòng hoa mà Bồ-tát đã làm riêng tặng nàng. Ở đây nữa, nàng lại thấy giữa các hình ảnh khác nhau, có cả hình nàng và vua, nàng lại nhận ra đó là công trình mỹ nghệ của vua Kusa, nên nàng giận dữ ném xuống đất.

Các công chúa em nàng cũng cười nhạo nàng như trước. Người làm vườn đem ngàn đồng tiền về trao cho Bồ-tát và kể hết mọi sự tình đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: “Chỗ này cũng không phải của ta”. Ngài trả lại tiền cho người làm vườn rồi đi làm thợ học việc với hỏa đầu quân của vua.

Một ngày kia, người đầu bếp đem đủ loại cao lương mỹ vị đến dâng vua, vào trao cho Bồ-tát một miếng thịt để nấu cho phần ngài. Ngài nấu thịt tuyệt khéo, đến độ mùi thơm bay khắp kinh thành. Vua ngửi mùi thơm, hỏi thử xem người đầu bếp còn nấu thêm món thịt gì trong bếp chăng.

– Tâu Đại vương, không. Song hạ thần có trao cho người thợ học việc một miếng thịt xương đề nấu, chắc đó là mùi thịt mà Đại vương vừa ngửi.

Vua truyền đem món thịt ấy đến và đặt một miếng lên đầu lưỡi, lập tức nó làm bừng dậy và rúng động cả bảy ngàn vị giác! Vua say mê lạc thú được thưởng thức các cao lương nên trao cho người đầu bếp một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi phải đem ngự thiện dâng lên trẫm và các công chúa do thợ học viện của ngươi nấu, ngươi đem phần của trẫm đến dâng trẫm, còn thợ học việc của ngươi thì đem dâng phần các công chúa.

Người thợ về kể lại mọi sự; nghe thế ngài suy nghĩ: “Nay ước vọng của ta đã thành tựu. Ta sẽ gặp được Pabhàvatì rồi”. Lòng đầy hân hoan, ngài trao ngàn đồng tiền cho người đầu bếp và hôm sau ngài nấu các món ăn để dâng vua, còn chính ngài đi lên nội cung, nơi Pabhàvatì đang cư ngụ, gánh theo một gánh thức ăn cho các công chúa.

Pabhàvatì thấy ngài đi lên với gánh nặng như vậy liền suy nghĩ: “Ngài đang làm công việc của kẻ gia nô phục dịch thật không xứng đáng với ngài tý nào. Song nếu ta để yên, ngài sẽ tưởng tađồng ý như vậy, rồi không chịu đi nơi khác, cứ ở tại đây mà nhìn ta chằm chặp. Ta phải lập tức nhục mạ phỉ báng ngài và đuổi ngài đi, không cho ngài ở lại đây phút nào nữa!”.

Thế là nàng mở hé cửa ra, để một tay trên cánh cửa, tay kia đè lên then cửa và ngâm vần kệ nhì:

  1. Ku-sa, ngài phải chịu ngày đêm
    Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
    Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
    Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!

Ngài liền suy nghĩ: “Ta đã nghe được lời Pabhàvati nói rồi”. Lòng mừng khấp khởi, ngài vội ngâm ba vần kệ:

  1. Pab-hà, say đắm bởi dung nhan,
    Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
    Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
    Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
  2. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
    Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
    Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
    Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
  3. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
    Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
    Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
    Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!

Khi ngài đã nói vậy xong, nàng suy nghĩ: “Ta phỉ báng ngài chỉ vì muốn làm cho ngài uất hận trong lòng; song ngài lại cố dùng lời lẽ hòa dịu với ta. Giả sử ngài bảo: <Ta là vua Kusa>, và bắt lấy ta, thì có ai cản ngài được? E rồi có kẻ nghe lọt được câu chuyện giữa ta và ngài nóiđây”.

Thế là nàng vội đóng cửa lại và cài then kỹ bên trong. Còn ngài cầm đòn gánh lên và đem thức ăn đến các công chúa kia. Pabhàvatì bảo nữ tỳ lưng gù đem cho nàng các món ăn do vua Kusa nấu. Bà vú đem lại và bảo:

– Công chúa ăn đi nào.

Pabhàvatì nói:

– Ta không muốn ăn những thức ăn do vua ấy nấu đâu. Bà hãy ăn rồi đi lấy thức ăn của bà nấu cho ta và đem lại đây. Song đừng nói cho ai biết vua Kusa đã đến rồi đấy nhé.

Bà vú lưng gù từ đó đem về ăn phần thức ăn của công chúa, và đưa cho nàng phần thức ăn của bà ta. Cũng từ đó vua Kusa không thể nào thấy nàng được lại suy nghĩ: “Ta không biết Pabhà có thương yêu ta chút nào chăng, ta muốn thử xem nàng ra sao”.

Thế là sau khi đưa thức ăn đến dâng các công chúa kia, ngài lại gánh thức ăn lên vai, bước ra đạp chân xuống sàn nhà cạnh cửa khuê phòng của Pabhàvatì, làm cho các dĩa thức ăn đụng nhau kêu loảng xoảng, rồi ngài vừa hét lên vừa ngã nhào xuống đất mê man bất tỉnh giữa đống đồ đạc.

Khi nghe tiếng ngài kêu lớn, nàng mở cửa phòng ra nhìn, thấy ngài ngã quỵ dưới sức nặng của gánh đồ ngài đang mang đi, nàng thầm nghĩ: “Đây là vị Đại vương ngự trị toàn cõi Diêm-phù-đề, thế mà vì ta, ngài đã chịu bao khổ sở ngày đêm; bởi trước kia ngài được nâng niu chiều chuộng kỹ lưỡng nên nay đã ngã nhào do gánh nặng thức ăn mà ngài đang mang đây. Thôi để ta xem ngài còn sống không’’.

Rồi bước ra khỏi phòng, nàng nghễnh cổ lên nhìn vào mồm ngài xem hơi thở ra sao. Ngài phì nước bọt ra đầy miệng làm văng cả lên người nàng. Nàng vội rút lui về phòng, và phỉ báng ngài, khi nàng đứng bên cửa hé mở, nàng ngâm kệ sau:

  1. Rủi thay phận kẻ mãi mong cầu
    Thấy bị chối từ mọi ước ao,
    Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
    Tình kia chẳng đáp được đâu nào!

Nhưng vì ngài đang si tình nàng đến độ điên cuồng, nên dù ngài bị nàng phỉ báng, mạ ly đến đâu đi nữa, ngài vẫn không tỏ vẻ oán hận mà chỉ ngâm kệ này:

  1. Ai chiếm được người dạ luyến thương,
    Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
    Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
    Thất bại là bi thảm đoạn trường!

Trong khi ngài nói như vậy, nàng vẫn không động lòng thương, còn đáp lại với giọng cương quyết như để xua đuổi ngài đi bằng vần kệ sau:

  1. Theo đuổi nữ nhi chẳng thuận lòng
    Khác nào đào đá tảng trên đồng,
    Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
    Hay đón gió bằng chiếc lưới không!

Nghe thế, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:

  1. Như đá trơ trơ, quả dạ nàng,
    Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
    Không lời thăm hỏi dù ta đến
    Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!

10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.

  1. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
    Hạ cố ban ta một nụ cười,
    Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
    Ku-sa chúa tể ngự trên đời!

Nghe ngài nói vậy, nàng nghĩ thầm: “Ông vua này thật cứ nói dai dẳng đến cùng. Ta phải tìm mưu nói dối để đuổi ngài đi nơi khác”. Nàng liền ngâm kệ này:

  1. Nếu thầy tướng số nói không sai,
    Thì chính tiên tri đúng thế này:
    “Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
    Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.

Nghe vậy vua cãi lại ngay:

– Này ái hậu, ta cũng đã hỏi ý các thầy tướng số ở xứ ta và họ tiên đoán chẳng ai có thể làm phu quân của ái hậu trừ vị chúa công có giọng như sư tử, là Đại đế Kusa, và theo trí hiểu biết của ta, ta cũng thấy những điều trên như vậy.

Ngài lại ngâm vần kệ khác:

  1. Nếu thầy tướng số khác cùng ta
    Nói những lời chân thật, quả là:
    Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
    Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!

Nghe ngài nói vậy, nàng tự bảo: ‘Ta không thể làm nhục ngài được! Vậy dù ngài chịu rời bỏ đi hay không thì có nghĩa lý gì đối với ta”. Nàng liền đóng cửa lại để khỏi ló đầu ra nữa. Ngàiđành gánh đồ đạc lên ra đi.

Tứ ngày ấy, ngài không còn trông thấy nàng nữa và ngài trở nên vô cùng chán nản với công việc bếp núc của ngài. Khi ăn điểm tâm xong, ngài phải chẻ củi, rửa bát dĩa, gánh nước rồi nằm nghỉ ngơi trên đống thóc. Ngài dậy thật sớm lo nấu cháo, rồi đem thức ăn đi phục dịch, và ngài chịu đựng mọi sự hành hạ thân xác này chỉ vì quá si tình nàng Pabhàvatì.

Một ngày kia, ngài thấy bà vú lưng gù đi ngang qua cửa bếp, liền chào bàVì sợ Pabhàvatì, bà vú không dám đến gần ngài, chỉ làm ra vẻ đang vội vàng lắm. Thế là ngài chạy ngang đến gần bà ta, bảo:

– Này bà già gù?

Bà vú quay lại hỏi:

– Ai đấy nhỉ? Già này chẳng dám nghe những gì ngài nói đâu!

Ngài liền bảo:

– Cả hai chủ tớ ngươi thật quá ngang bướng! Dù ta ở gần các người lâu nay, ta cũng chẳng nghe già nói gì về ngọc thể của nàng cả.

Bà gù đáp:

– Thế ngài có quà gì cho già này chăng?

Ngài vội đáp:

– Giả sử ta cho ngươi quà, ngươi có gắng sức làm sao Pabhàvatì nguôi lòng và cho ta gặp mặt nàng chăng?

Nghe bà vú ưng thuận, ngài bảo:

– Nếu ngươi làm được việc ấy, ta sẽ chữa cho lưng gù của ngươi thẳng lên, rồi tặng ngươi một vòng vàng đeo cổ.

Rồi để dụ bà vú, ngài ngâm năm vần kệ:

  1. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
    Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
  2. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
  3. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
    Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
    Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
  4. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
    Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
  5. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
    Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
    Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
    Đưa tay âu yếm đặt vào ta!

Nghe lời ngài, bà vú bảo:

– Thôi xin Đại vương đi cho rồi, chỉ trong vài ngày nữa thôi, già này sẽ đưa nàng đặt vào tay Đại vương! Đại vương sẽ thấy già này đắc lực ra sao.

Nói vậy xong, bà già quyết định hành động ngay; vừa đi đến gặp Pabhàvati, bà làm bộ lau chùi phòng nàng thật sạch, không còn sót một chút bụi nào, rồi cởi đôi hài của nàng ra, bà quét dọn cả phòng nàng.

Sau đó, bà già đặt một chiếc ghế cao cho bà ở ngay bực cửa (để giữ kỹ phía ngoài cửa), rồi trải nệm trên một chiếc ghế thấp cho nàng, bà bảo:

– Này công chúa yêu ơi, để già bắt chấy trên đầu nàng nhé!

Bà đặt nàng ngồi đó, kê đầu vào lòng bà, xoa nhẹ cho nàng một lát rồi bảo:

– Ô kìa, ta bắt được nhiều chấy quá?

Bà già bắt được vài con chấy trên đầu bà, đặt lên đầu công chúa, rồi nói về bậc Đại Sĩ với lời lẽ yêu thương, bà ca ngợi ngài qua vần kệ này:

  1. Công nương này chẳng thấy lòng vui
    Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
    Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
    Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.

Pabhàvatì liền nổi giận với bà gù ngay. Thế là bà vú già nắm cổ nàng đẩy vào phòng, còn bàđứng phía ngoài đóng cửa lại, đứng sát vào sợi dây thừng kéo cửa. Pabhàvatì không thể tới gần chụp bà vú được, phải đứng sát cửa và mắng nhiếc bà vú qua vần kệ khác:

  1. Mụ già nô lệ lưng gù vầy
    Sao dám buông lời quái dị thay!
    Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
    Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!

Bà già gù cứ đứng sát như vậy vào sợi dây thừng buông thả xuống và bảo:

– Này, nàng chỉ là người vô dụng, lại đối xử tàn tệ thế kia, chứ sắc đẹp của nàng có ích lợi cho ai chăng?

Nói xong, bà già cao giọng nêu rõ mọi công đức của Bồ-tát, vừa thét to bằng giọng khàn khàn của một người lưng gù qua mười ba vần kệ sau:

  1. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
  2. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
  3. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
  4. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
  5. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Ngài là vị Đại đế hùng oai.
  6. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Giọng của ngài như sư tử hống,
    Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
  7. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
  8. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
    Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
  9. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
  10. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
    Giọng ngài như mật rót vào tai!
  11. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
    Vì ngài có cả một trăm tài.
  12. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
    Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
  13. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
    Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
    Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
    Ku-sa Đại đế, chính là ngài!

Nghe bà vú nói vậy, Pabhàvatì đe dọa:

– Này mụ già gù lưng ơi, sao mụ la to thế kia? Nếu ta chụp được mụ thì ta sẽ cho mụ biết tay ta là chủ đấy nhé.

Bà vú đáp:

– Lâu nay già vị tình nàng nên đã không tâu trình phụ vương về việc vua Kusa đến đây. Được rồi, hôm nay già sẽ đi trình đức vua cha.

Bà ta cũng cất cao giọng để hăm he nàng. Vì sợ có người nghe lọt chuyện này, nên nàng đành hoà dịu với bà già gù lưng ấy.

Thế là Bồ-tát không còn cách nào nhìn thấy nàng được nữa; sau bảy tháng ròng rã, ngài đâm chán ngán cảnh giường thô cơm hẩm, ngài suy nghĩ: “Ta cần gì nàng nữa chứ? Sau bảy tháng ởđây, ta chẳng còn cách nào được giáp mặt nàng, nàng thật quá nhẫn tâm tàn ác. Thôi ta quyết đi về thăm song thân ta mà thôi”.

Vào lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét vấn đề này và nhận thấy vua Kusa đã bất mãn đến độ nào rồi, nên ngài suy nghĩ: “Sau bảy tháng vua Kusa không còn biết làm sao gặp mặt Pabhàvatì, ta cố tìm cách gì để giúp ngài thấy được nàng”.

Sau đó, Sakka Thiên chủ sai các Thiên sứ đi yết kiến bảy vị quốc vương khác làm như thể vừa từ kinh đô vua xứ Madda đến và tâu:

– Nàng Pabhàvatì đã rời bỏ vua Kusa và trở về nhà phụ vương nàng. Vậy xin Đại vương hãy đến cầu hôn nàng gấp.

Cứ mỗi quốc vương, Thiên chủ đều gửi riêng một thông điệp như vậy.

Mỗi vị vua kia đều đi đến kinh thành cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, và đều không biết lý do đến đây của các vua khác. Các vị liền hỏi nhau:

– Tại sao Đại vương đến đây?

Và khi khám phá được các sự việc đang diễn tiến ra sao, các vua ấy đều nổi giận và bảo:

– Quốc vương này có ý muốn gả một nàng công chúa cho cả bảy chúng ta ư? Hãy nhìn xem lão đối xử tồi tệ mức nào. Lão nhạo báng chúng ta khi bảo: “Hãy cưới nàng làm vương hậu’’. Vậy lão phải gả Pabhàvatì cho cả bảy chúng ta hoặc là phải chiến đấu với chúng ta mà thôi.

Các vua ấy liền gửi thông điệp cho vua Madda về việc này và bao vây kinh thành.

Khi nghe thông điệp, vua Madda lo ngại và hỏi ý kiến quần thần:

– Ta phải làm sao đây?

Quần thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, bảy vua này đến đây tìm công chúa Pabhàvatì. Nếu Chúa thượng từ khước việc gả nàng, các vị ấy sẽ phá thành xông vào kinh đô, rồi sau khi tiêu diệt chúng ta xong, họ sẽ chiếm vương quốc của Chúa thượng. Vậy, trong khi thành chưa bị phá vỡ, ta hãy trao công chúa Pabhàvatì cho họ.

Rồi quần thần ngâm kệ này:

  1. Như thể bầy voi trận vẻ vang
    Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
    Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
    Xin chúa mau mau gửi cống nàng!

Vua nghe vậy liền phán:

– Ví thử trẫm trao Pabhàvatì cho bất cứ một vua nào, thì đám vua kia sẽ giao chiến với trẫm. Vậy không thể nào gả nàng cho bất cứ một ai cả. Sau khi bỏ rơi vị chúa tể tối cao của toàn cõi Diêm-phù-đề, nàng phải lãnh lấy phần thưởng do việc nàng trở về nhà. Trẫm sẽ giết nàng và phân thây làm bảy mảnh để tặng cho bảy vị vua này mỗi người một phần.

Nói xong vua ngâm kệ khác:

  1. Chặt Pa-bhà bảy khúc cho cân,
    Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
    Cho bảy vua kia, người một mảnh,
    Những người đến giết phụ vương nàng!

Lời nói này của vua được truyền vang khắp cung điện. Các tỳ nữ của Pabhàvatì đến bảo nàng:

– Người ta đồn rằng Chúa thượng sẽ truyền chặt công chúa ra bảy mảnh rồi gửi cho bảy vị vua ấy?

Nàng kinh hồn bạt vía, vùng đứng lên từ chỗ ngồi, rồi được các cô em gái hộ tống đến cung thất của mẫu hậu.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích vấn đề:

  1. Diễm lệ, dù da nhuốm sắc đen,
    Bà hoàng vụt cất bước chân lên
    Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
    Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.

*

Nàng bước vào yết kiến mẫu hậu, đảnh lễ bà xong liền cất lời than vãn:

  1. Mặt phấn điểm trang, này soi gương sáng
    Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
    Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
    Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
  2. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
    Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
    Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
    Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
  3. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
    Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
    Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
  4. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
    Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
    Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
    Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
  5. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
    Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
    Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
    Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
  6. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
    Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
    Không thể nào còn phải chịu chết già.
  7. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
    Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
    Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
    Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.
  8. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
    Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
    Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
    Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
    Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
    “Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế…”

Như vậy, nàng quá kinh hoàng vì sợ chết nên cứ than khóc nỉ non với mẹ nàng. Còn vua Madda ra lệnh cho đao phủ đến, đem theo cái rìu và tấm thớt. Việc đao phủ sắp đến được đồn vang động khắp hoàng cung, mẫu hậu nghe tin lão đến, liền vùng dậy khỏi chiếc bảo tọa của bà, và đi vào yết kiến vua, lòng tràn ngập đau buồn.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Khi nhìn tấm thớt với gươm trần
    Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
    Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
    Vội đi tìm gặp đấng vương quân.

*

Rồi mẫu hậu ngâm kệ sau:

  1. Với gươm này, chúa tể Mạch-đa
    Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
    Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
    Mỗi vua cừu địch để làm quà.

Vua cố trấn an bà và phán:

– Này ái hậu nói gì thế này? Công chúa của ái hậu đã từ bỏ vị Đại đế của toàn cõi Diêm-phù-đề chỉ vì duyên cớ vua ấy xấu xí, và cam phận chịu chết nên vội trở về nhà trước khi dấu chân nàng được xóa sạch trên con đường nàng đã đi qua. Vậy thì nay nàng phải gặt hái lấy hậu quả của lòng ganh tị do sắc đẹp của nàng gây ra đó thôi.

Sau khi nghe vua nói, mẫu hậu đến gặp con gái và than thở như vầy:

  1. Con chẳng nghe lời nói của ta
    Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
    Nay thân con phải vương màu máu,
    Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
  2. Số phận kia ta phải gánh mang
    Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
    Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
    Bỏ các lời răn của bạn vàng.
  3. Ví thử hôm nay con sánh vai
    Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
    Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
    Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
    Thì hẳn bạn bè không hộ tống
    Con đành mau bước xuống tuyền đài.
  4. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
    Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
    Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
    Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
  5. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
    Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
    Lạc thú như vầy trong bảo điện
    Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
  6. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
    Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
    Như vầy cực lạc sao tìm được
    Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?

Sau khi trò chuyện với nàng như vậy qua các vần kệ này, mẫu hậu suy nghĩ: “Giá bây giờ có vua Kusa ở đây, thì ngài sẽ đuổi bảy vua kia cao chạy xa bay và sau khi giải thoát con gái ta khỏi chịu khổ hình, lại sẽ đem nàng đi về nước”. Rồi bà ngâm kệ:

  1. Nay ở đâu người dẫm nát tan
    Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!

Lúc ấy Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẫu hậu không đủ lời lẽ để tán dương vua Kusa. Ta sẽ cho mẹ ta biết ngài đang ở đây làm hết mọi việc của một kẻ đầu bếp”, và nàng ngâm kệ này:

  1. Bậc chiến thắng tiêu diệt kẻ thù,
    Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
    Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
    Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!

Mẫu hậu liền suy nghĩ: “Chắc con ta quá kinh hoàng vì sợ chết nên nói lảm nhảm đây’’, rồi bà ngâm kệ:

  1. Phải chăng con đã hóa điên rồ,
    Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
    Ví thử Ku-sa đà trở lại,
    Thì sao con chẳng nói cùng ta?

Nghe nói lời này, Pabhàvatì suy nghĩ: “Mẹ ta không tin lời ta. Bà chẳng biết là ngài đã trở về và đang sống tại đây từ bảy tháng nay. Ta muốn chỉ cho mẹ thấy việc này”. Thế là nàng vừa dắt tay mẹ vừa mở cửa sổ, dang tay chỉ về phía ngài và ngâm kệ:

  1. Mẹ trông! Kẻ nấu bếp đằng kia
    Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
    Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
    Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.

Chuyện kể rằng lúc bấy giờ vua Kusa nghĩ thầm: “Hôm nay tâm nguyện của ta sẽ thành tựu. Thực vậy Pabhàvatì đang kinh hoàng vì sợ chết, nên sẽ báo tin ta đang ở đây. Vậy ta phải rửa bát dĩa và đem cất hết”. Rồi ngài đi lấy nước về và bắt đầu rửa bát. Lúc ấy mẹ nàng mắng nhiếc nàng qua vần kệ:

  1. Con hạ tiện dòng dõi phải chăng?
    Đường đường là một vị công nương
    Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
    Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!

Còn Pabhàvatì suy nghĩ: “Chắc mẹ ta không biết rằng chỉ vì ta mà ngài đã sống khổ như thể này bấy lâu nay”. Và nàng ngâm kệ nữa:

  1. Hạ tiện, con đâu phải giống dòng!
    Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
    May thay, ngài chẳng là nô lệ,
    Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.

Bấy giờ nàng nói tiếp để tán tụng uy danh ngài:

  1. Hai vạn Sa-môn vẫn cúng dường,
    Chính là Thái tử Ok-kà vương,
    Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
  2. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
    Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
  3. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
    Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
    Ok-kà vương tử là ngài đó,
    Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
  4. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
    Ngài không nô lệ, đấy con thề,
    Ngài là vương tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
  5. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
    Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
    Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
    Là người mẹ thấy đứng bên đường.
  6. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
    Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
    Mà là Thái tử Ok-kà đế,
    Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.

Như thế là cảnh huy hoàng của bậc Đại Sĩ đã được nàng tán dương qua sáu vần kệ. Lúc ấy mẫu hậu suy nghĩ: “Con ta nói một cách chắc chắn đầy tin tưởng. Hẳn là đúng vậy”, nên bà tin lời nàng và đem kể cho vua nghe đầu đuôi câu chuyện. Vua vội vã đến gặp Pabhàvatì và hỏi:

– Có thật là vua Kusa đã đến đây như chuyện chúng đồn chăng?

– Tâu phụ vương, quả đúng vậy. Đã bảy tháng nay ngài làm hỏa đầu quân cho các công chúa.

Vua cha không tin lời nàng, liền chất vấn bà già lưng gù và khi nghe bà kể mọi việc trong chuyện này, vua quở trách con gái qua vần kệ này:

  1. Như thể voi kia giả ểnh ương,
    Đến đây Thái tử đại hùng cường,
    Con sai lầm quá và khờ dại,
    Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.

Vua đã quở trách công chúa như vậy xong, vội vã đi tìm vua Kusa và sau các lễ nghi chào hỏi thông thường giữa hai vị, vua nhìn nhận sự xúc phạm của mình và ngâm kệ này:

  1. Vì trẫm không nhìn thấy được ngay
    Đại vương giả dạng đến như vầy,
    Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
    Đành phận xin tha thứ lỗi này!

Nghe lời này, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta nói nặng lời với vua cha thì lòng ngài sẽ đau đớn nát tan ngay. Nên ta muốn nói lời an ủi vỗ về ngài thôi”; rồi vừa đứng giữa đống bát dĩa, ngài vừa ngâm kệ:

  1. Hỏa đầu quân, muốn đóng tròn vai,
    Mình chính đã làm việc trái sai,
    Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
    Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!

Sau khi vua cha được nghe những lời ân cần như vậy, liền trở về cung triệu Pabhàvatì đến, bảo nàng đi thỉnh cầu vua Kusa thứ lỗi, và ngài ngâm kệ:

  1. Mau lên, cô bé quá khù khờ
    Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
    Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
    Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!

Nghe lời vua cha dạy như vậy, nàng liền được cả đoàn công chúa và cung nữ hộ tống đi đến gặp ngài. Đúng ngay lúc ngài đang đứng trong bộ áo quần nô dịch, thấy nàng tiến về phía mình, ngài nghĩ thầm: “Hôm nay ta quyết đánh tan lòng kiêu mạn của Pabhàvatì và khiến nàng phải nằm mọp dưới chân ta trong đám bùn”. Rồi ngài đổ xuống đất hết cả thùng nước mà ngài đã đem đến đó, dẫm chân lên một khoảng rộng bằng cái sàn nhà đập lúa, làm thành một đám bùn. Nàng vừa bước tới liền trượt té dưới chân ngài, phải nằm phủ phục trong đám bùn mà xin ngài thứ tội.

*

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Pa-bhà trong dáng điệu Thiên thần
    Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
    Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
    Đôi chân của chúa tể hùng cường.

*

Rồi nàng ngâm các vần kệ sau:

  1. Chuỗi ngày đêm thiếp sống xa ngài,
    Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
    Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
    Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
  2. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
    Nếu ngài hạ cố để vào tai,
    Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
    Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
  3. Song nếu lời xin bị khước từ,
    Phụ vương liền giết mạng con thơ,
    Gửi đi từng mảnh thân tan tác
    Khắp các địch vương để tặng quà!

Nghe vậy, vua nghĩ thầm: “Nếu ta bảo nàng: Việc này nàng phải tự lo liệu đấy chứ’, chắc tim nàng phải tan nát mất. Thôi ta chỉ muốn nói lời lẽ an ủi nàng”. Và ngài ngâm các vần kệ đáp lời:

  1. Ta nguyền vâng lệnh của nàng ban,
    Đem hết tâm can để cứu nàng,
    Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
    Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
  2. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
    Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
    Ta sẽ không làm gì xúc phạm
    Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
  3. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
    Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
    Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
    Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!

Vua Kusa lúc ấy tràn đầy niềm tự hào của một bậc đế vương khi thấy nàng như thể một thị nữ của Sakka Thiên chủ đang hầu hạ ngài, ngài nghĩ thầm: “Trong lúc ta còn sống đây, còn kẻ nào dám đến cướp mất tân giai nhân của ta được chứ?”. Và ngài liền vùng dậy giữa sân hoàng cung, bảo:

– Toàn dân kinh thành này hãy nghe lệnh truyền báo hiệu ta ngự đến đây.

Rồi ngài nhảy múa, reo hò, và vỗ tay kêu lớn:

– Nay ta muốn bắt sống chúng, hãy bảo quân hầu đem bầy ngựa đến thắng vào các cỗ xe của ta.

Rồi ngài ngâm vần kệ sau:

  1. Đi mau, thắng tuấn mã nhu thuần
    Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
    Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
    Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.

Bấy giờ ngài từ giã Pabhàvatì và bảo:

– Việc đi tội các quốc thù của nàng là trách nhiệm của ta. Còn ái khanh hãy đi tắm rửa, điểm trang rồi lên cung của mình mà nghỉ.

Phần vua Madda gửi các quan cố vấn đến làm vệ sĩ danh dự cho ngài.

Quân thị vệ buông màn quanh ngài ngay tại cửa bếp và đem bọn thợ hớt tóc đến chăm sóc ngài. Khí râu mép của tóc ngài đã được tô điểm, và gội đầu xong xuôi, ngài được phục sức đầy đủ mọi vẻ lộng lẫy cùng với đám tùy tùng vây quanh, ngài bảo:

– Ta muốn bước lên cung điện.

Vừa nhìn quanh tứ phương, ngài vỗ tay, hễ ngài nhìn tới nơi nào là mặt đất nơi ấy rung chuyển, và ngài thét lớn:

– Này hãy xem uy lực của ta vĩ đại biết dường nào!

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Công nương nội điện chúa Mad-da,
    Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
    Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
    Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.

*

Sau đó vua Madda đưa đến cho ngài một con voi đã được luyện thuần thục có thể giữ vững bình thản khi bị tấn công, và voi ấy được trang hoàng thật rực rỡ. Vua Kusa ngự lên lưng voi với chiếc lọng trắng che đầu ngài, và ra lệnh đem Pabhàvatì đến đó, đặt nàng lên ngồi sau lưng ngài xong, ngài rời kính thành bằng Đông môn, được cả đoàn đầy đủ bốn đạo quân hộ tống, và ngay khi thấy các lực lượng của quân thù, ngài thét lớn:

– Ta là vua Kusa, kẻ nào khôn hồn muốn sống hãy nằm móp xuống sát đất?

Rồi ngài rống lên ba lần tiếng hống sư tử và hoàn toàn đánh bại đám địch quân.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:

  1. Ngự mình voi, bà hoàng ngồi sau chúa,
    Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
  2. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
    Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
  3. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
    Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
    Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
  4. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
    Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
    Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
  5. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
    Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
    Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
  6. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
    — “Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
    Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
  7. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
    Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
    Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân”.

*

Quốc vương đáp:

  1. Các địch vương này thuộc về Thiên tử,
    Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
    Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
    Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm: “Ta còn làm gì được với đám người này một khi chúng chết cả rồi? Không nên để cho chúng mất công đến đây mà chẳng được kết quả gì. Pabhàvatì còn có bảy cô em gái đều là công chúa của vua Madda, ta muốn cho chúng kết duyên với bảy vương tử này”. Rồi ngài ngâm kệ:

  1. Bảy nàng công chúa tựa tiên nga
    Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
    Gả các nàng cho vua bảy nước
    Để làm phò mã của vương gia.

Quốc vương đáp:

  1. Ngự ngôi tối thượng, trước toàn dân,
    Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
    Xin gả công nương theo thánh ý,
    Ngài là Chúa tể của quần thần.

Thế rồi quốc vương truyền lệnh trang điểm các công chúa thật đẹp và cử hành lễ vu qui cho mỗi nàng được kết duyên với một vua kia.

*

Bậc Đạo Sư ngâm năm vần kệ đề làm sáng tỏ vấn đề:

  1. Ku-sa sư tử hống vang rền
    Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
    Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
    Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
  2. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
    Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
    Bảy vương tử nọ liền hồi giá
    Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
  3. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
    Xa giá Ku-sa trở lại cung
    Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
    Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
  4. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
    Sánh đôi vương giả trở về nhà,
    Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
    Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
  5. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
    Từ đó quân vương với ái thê
    Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
    Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.

*

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: – Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã chứng Sơ quả Dự Lưu:

– Thời bấy giờ phụ vương và mẫu hậu là song thân trong hoàng gia ngày nay, vương đệ là Ànanda, bà nhũ mẫu gù lưng là Khujjutarà, nàng Pabhàvatì là thân mẫu của Ràhula, và Đại đế Kusa chính là Ta.

-ooOoo-

  1. Chuyện hai hiền giả Sona – Nanda (Tiền thân Sona – Nanda)

Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng?…,

Chuyện này do bậc Đạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình.

Hoàn cảnh đưa đến chuyện này cũng tương tự như trong Tiền thân Sàma (số 540, tập VII). Nhưng vào dịp này, bậc Đạo Sư bảo:

– Này các Tỷ-kheo, chớ xúc phạm Tỷ-kheo này. Các bậc hiền trí đời xưa, dù được thỉnh cầu thống trị toàn cõi (Diêm-phù-đề), cũng đã từ chối việc ấy và phụng dưỡng song thân.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.

*

Một thuở nọ, thành Ba-la-nại được mệnh danh là Brahmavadhana. Thời ấy, vua Manoja trị vì ởđó, và một Bà-la-môn kia có thế lực và giàu sang, với tài sản lên đến tám trăm triệu đồng, nhưng không có con thừa kế. Bà vợ Bà-la-môn ấy vâng lời chồng đi cầu tự.

Lúc ấy Bồ-tát từ giã Phạm thiên giới và nhập mẫu thai bà; vào ngày sinh, ngài được gọi tên Sona nam tử. Vào thời ấu nhi đã biết chạy một mình, một vị Thiên khác từ giã Phạm thiên giới và cũng nhập mẫu thai bà. Lúc ra đời, vị ấy được gọi là Nanda nam tử.

Ngay khi hai nam tử đã được dạy đủ các Thánh điển Vệ đà và thông thạo mọi môn học thuật, vị Bà-la-môn nhìn thấy hai con trai mình đầy đủ hảo tướng biết bao, liền bảo vợ:

– Này phu nhân, chúng ta cần sắp đặt việc hôn nhân cho nam tử Sona.

Bà vợ chấp thuận ngay và thông báo việc này cho con trai. Chàng đáp:

– Con sống đời gia đình thế này là vừa đủ rồi. Bao lâu cha mẹ còn sống, con muốn phụng dưỡng cha mẹ; đến khi cha mẹ qua đời, con muốn lui về vùng Tuyết Sơn và thành người tu khổ hạnh.

Bà mẹ kể chuyện này với vị Bà-la-môn và khi họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không thuyết phục được con, liền bảo Nanda:

– Này con yêu, con hãy yên bề gia thất.

Chàng đáp:

– Con không muốn lượm những vật mà anh con đã vứt bỏ như thể một cục đờm. Con cũng nguyện khi cha mẹ từ trần, con cùng anh con gia nhập hội chúng khổ hạnh.

Song thân suy nghĩ: “Nếu các con ta, dù còn thanh xuân, đã từ bỏ mọi dục lạc thân xác thì chúng ta lại càng phải sống đời khổ hạnh”. Và hai vị bảo:

– Này con yêu, sao lại nói chuyện làm người tu khổ hạnh sau khi cha mẹ qua đời? Cả nhà tađều muốn cùng phát nguyện xuất gia.

Khi trình vua về mục đích của mình, họ quyết định phân phát tất cả tài sản theo cách bố thí, giải phóng các gia nhân nô tỳ và đem tặng những tài sản xứng đáng thích hợp với đám thân quyến, rồi sau đó cả bốn vị khởi hành từ kinh thành Brahmavadhana đến lập thảo am trong vùng Tuyết Sơn ở một khu rừng đầy an lạc, cạnh một hồ nước được phủ năm loại sen, các vị sống đời khổ hạnh.

Hai anh em đồng săn sóc cha mẹ. Từ sáng sớm, hai vị đưa tăm xỉa răng và nước súc miệng cho song thân. Hai vị lại quét dọn cả am thất, đem nước uống, dâu rừng ngọt ngào để cha mẹ ăn, nước nóng, nước lạnh để tắm, kết tóc cha mẹ thành từng búi, xoa dầu thơm vào chân cùng phục dịch mọi việc tương tự.

Thời gian cứ trôi qua như thế, hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta sẽ dâng đầy đủ mọi loại trái cây làm thức ăn cho cha mẹ”. Thế là bất cứ loại trái cây nào hái được tại chỗ ấy ngày hôm trước và hôm trước đó nữa vị ấy đều đem dâng cha mẹ sáng sớm hôm sau. Hai vị dùng trái cây xong liền súc miệng và giữ giới kiêng ăn.

Còn hiền giả Sona đi thật xa để hái trái chín ngọt về dâng cha mẹ. Hai vị liền bảo:

– Này con yêu, chúng ta đã ăn từ sáng các thứ em con mang về và bây giờ chúng ta đang kiêngăn nên không cần thứ trái cây này nữa.

Vì thế các thứ trái cây của ngài không được dùng và phải bỏ phí cả. Ngày hôm sau và sau đó nữa cũng vậy.

Và thế là do chứng đắc Năm Thắng trí, ngài đã du hành thật xa để đem trái cây về, nhưng song thân từ chối phần ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Cha mẹ ta giờ đây rất yếu ớt, và Nanda lại đem về toàn trái cây chưa chín hoặc mới chín cho cha mẹ ăn. Nếu thế này mãi, cha mẹ sẽ không sống lâu. Ta quyết ngăn cản em ta làm việc này”. Vì vậy ngài bảo em:

– Này Nanda, từ nay về sau, khi em đem trái cây, em phải đợi đến lúc ta về, và hai chúng tađều muốn dâng cha mẹ các thức ăn cùng một lần.

Mặc dù đã được bảo vậy, Nanda vẫn muốn làm công đức riêng một mình, nên không quan tâm lời anh dặn. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nanda hành động không đúng khi bất tuân lời ta. Ta muốn đuổi nó đi xa”.

Rồi nghĩ rằng tự ngài muốn chăm sóc cha mẹ, ngài bảo:

– Này Nanda, em đã bỏ qua lời răn dạy và không lưu tâm đến lời nói của bậc trí. Ta là huynh trưởng. Cha mẹ thuộc về trách nhiệm của ta. Ta muốn chỉ mình ta săn sóc cha mẹ. Em không thể ở đây được nữa. Hãy đi nơi khác.

Rồi ngài búng các ngón tay vào mặt em. Sau khi bị đuổi như vậy, Nanda không thể nào ở lại trước mặt anh nữa, liền đến từ giã cha mẹ và thưa hết mọi việc xảy ra.

Sau đó lui về an thất riêng, ông chú tâm Thiền định và ngay hôm ấy, ông phát khởi Năm Thắng trí và Tám Thiền chứng. Ông suy nghĩ: “Ta có thể đi tìm loại cát quý từ chân núi Sineru (Tu-di) về rải khắp thảo am của anh ta và xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta chưa hồi tâm, ta sẽ đi tìm nước hồ Anottata về xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm bằng cách ấy, giả sử vì chư Thiên, anh ta không tha thứ cho ta, thì ta sẽ đem Tứ Thiên vương và Thiên chủ Sakka ra xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm, ta sẽ mang vị đại đế Manoja của toàn cõi Diêm-phù-đề, cùng các vương hầu khác ra xin anh ta thứ lỗi. Làm như vậy, danh tiếng về đức hạnh của anh ta sẽ vang dậy cả khắp Diêm-phù-đề, và sẽ sáng ngời mọi nơi như đôi vầng nhật nguyệt”.

Lúc bấy giờ, nhờ thần lực, ông bay xuống kinh thành Brahmavaddhana đến trước cung môn của vua và dâng sớ lên tâu vua:

– Có một vị khổ hạnh muốn yết kiến Đại vương.

Vua phán:

– Một vị khổ hạnh muốn gặp ta làm gì chứ? Chắc vị ấy đến khất thực.

Vua truyền bảo đem cơm cho ông, nhưng ông không dùng chút nào. Rồi vua bảo cho gạo, y phục và các loại củ khoai, môn, nhưng ông cũng không muốn gì cả. Cuối cùng vua gửi một sứ giả đi hỏi tại sao ông đến, ông đáp sứ giả:

– Bần đạo đến để hầu hạ đức vua.

Khi nghe vậy, vua gửi lời nhắn lại:

– Ta thiếu gì nô tỳ, bảo vị ấy hãy làm phận sự của một ẩn sĩ khổ hạnh.

Nghe vầy, ông nói:

– Nhờ thần lực riêng, bần đạo sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề, và xin dâng tất cả lên Đại vương của các vị.

Vua nghe vậy liền suy nghĩ: “Quả thật các vị khổ hạnh rất thông thái. Chắc chắn các vị ấy biết được vài mưu thần”.

Sau đó vua triệu ông vào yết kiến, mời ông ngồi lên bảo tọa, kính lễ và hỏi:

– Thưa Thánh giả, chúng tâu với trẫm rằng ngài sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phủ-đề và muốn ban quyền ấy cho trẫm phải chăng?

– Tâu Đại vương, quả vậy.

– Làm thế nào Thánh giả đạt được việc ấy?

– Tâu Đại vương, không cần đổ một giọt máu của ai cả, dầu là một giọt vừa đủ cho con ruồi tý hon hút được, cũng không cần tiêu phí kho báu của Đại vương, chỉ cần nhờ thần lực của riêng mình, bần đạo sẽ chiếm quyền thống trị và dâng hết lên Đại vương. Chỉ cần ngay lập tức không chút trì hoãn, Đại vương phải khởi hành ngay hôm nay.

Vua tin lời ấy và khởi hành ngay với một đạo quân hộ tống. Nếu đạo quân gặp trời nóng, hiền giả Nanda dùng lực thần tạo bóng cây khiến cho trời mát. Nếu trời mưa, ông không để cho mưa rơi xuống đạo quân. Ông ngăn cản luồng gió oi nồng. Ông phá bỏ gai góc trên đường đi cùng các thứ hiểm nguy khác. Ông làm cho con đường bằng phẳng như vòng tròn dùng trong pháp môn thiền Kasina, rồi trải một tấm da, ông ngồi kiết-già trên không và cứ thế tiến dần phía trước đạo quân.

Theo cách này, trước tiên ông cùng đạo quân trên đến vương quốc Kosala, đóng trại gần kinh thành, gửi sớ lên vua Kosala hoặc bảo tham chiến hoặc đầu hàng trước uy lực của ông. Vua nổi trận lôi đình, quát:

– Thế thì trẫm không phải là quốc vương hay sao? Trẫm sẽ chinh phạt các ngươi.

Vua dẫn đầu bốn đạo quân và hai phe lâm trận. Hiền giả Nanda trải tấm da hươu ra ngồi giữa hai đạo quân, dùng tấm da bắt hết mọi mũi tên do hai phe chiến đấu bắn ra, nên không có một ai trong quân đội nào bị thương vì trúng tên cả. Đến khi tất cả số tên của họ đều dùng hết, haiđạo quân đứng ngẩn ngơ không còn biết nương tựa vào đâu nữa.

Rồi Hiền giả Nanda đến yết kiến vua Kosala và trấn an vua:

– Tâu Đại vương, xin đừng lo âu tuyệt vọng, không có nguy cơ nào đe dọa Đại vương cả. Vương quốc vẫn thuộc về Đại vương. Chỉ cần Đại vương thần phục vua Manoja thôi.

Vua tin lời hiền giả nói và thỏa thuận điều ấy. Sau đó dẫn vua ấy đến yết kiến vua Manoja, hiền giả Nanda thưa:

– Tâu Đại vương, quốc vương Kosala xin thần phục Đại vương. Hãy để yên quốc độ ấy như cũ.

Vua Manoja sẵn sàng chấp thuận và nhận sự quy phục ấy. Vua cùng hai đạo quân tiến đến quốc độ Anga và chiếm Anga, sau đó chiếm Magadha trong quốc độ có tên ấy và nhờ các phương cách này, vua trở thành bá chủ của mọi quốc vương toàn cõi Diêm-phù-đề, rồi được chư hầu hộ tống đi thẳng đến thành Brahmavaddhana.

Bấy giờ, vua chiếm được mọi quốc độ từ các vua này trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Từ mỗi kinh thành, vua truyền đem đủ thức ăn loại cứng, loại mềm và mời một trăm lẻ một quốc vương nâng chén rượu khải hoàn suốt bảy ngày đại lễ hội.

Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Ta không muốn xuất hiện trước mặt vua cho đến khi ngài đã hưởng mọi lạc thú của vương quyền thống trị trong bảy ngày”.

Rồi khi đi khất thực trong xứ Bắc Kuru, Hiền giả an trú suốt bảy ngày ở Tuyết Sơn, ngay cửa vào Kim Động.

Phần hoàng đế Manoja, vào ngày thứ bảy, sau khi ngắm cảnh đại vinh quang quyền lực của mình, tự nghĩ: “Cảnh huy hoàng này không phải do cha mẹ ta hay người khác trao tặng. Nó xuất phát từ ẩn sĩ Nanda và rõ ràng đã bảy ngày trôi qua từ khi ta thấy ngài. Không biết nay vị hiền hữu đã ban ta cảnh huy hoàng này đang ở đâu trên đời này?”. Và vua nhớ đến hiền giả Nanda.

Còn Hiền giả Nanda khi biết vua đang nhớ mình, liền xuất hiện trước vua trên không. Vua suy nghĩ: “Ta không biết vị khổ hạnh này là người phàm hay thần thánh. Nếu là người phàm, ta sẽ dâng ngài quyền thống trị khắp cõi Diêm-phù-đề. Còn nếu ngài là thần thánh, ta sẽ bày tỏ lòng tôn kính xứng đáng với ngài.

Và để thử vị ấy, vua ngâm vần kệ đầu:

  1. Nhạc thần, Thiên tử, phải ngài chăng,
    Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
    Hoặc một người thần thông quảng đại,
    Ngự bao thành trị thật vinh quang.
    Nay ta ao ước ngài cho biết
    Quý tánh phương danh thật rõ ràng.

Nghe lời vua, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ thứ hai nêu rõ thân thế mình:

  1. Ta chẳng Thiên nhân, hoặc Nhạc thần,
    Cũng không Thiên chủ hoặc quân vương.
    Ta là người đủ thần thông lực,
    Sự thật nay ta đã tỏ tường
    .

Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ngài bảo ngài là một người; như vậy ngài đã làm nhiều công đức cho ta lắm. Ta sẽ tỏ bày sự tôn kính tối cao với ngài để ngài đẹp ý”. Và vua đáp lời:

  1. Công đức ngài ban bố chúng tôi
    Làm sao nói hết được nên lời,
    Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
    Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
  2. Bóng mát ngài làm cho chúng ta
    Khi luồng gió đốt cháy bay qua;
    Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ
    Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
  3. Thật nhiều quốc độ lạc an tràn
    Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
    Hơn cả một trăm vị lãnh chúa
    Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
  4. Những gì ngài chọn giữa kho tàng
    Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng:
    Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
    Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
    Vương cung mỹ lệ nào ngài thích
    Đều sẽ trở thành của Đại nhân.
  5. Nếu muốn ngự cung Ma-kiệt-đà,
    Hoặc là quốc độ xứ An-ga
    A-van-ti, trẫm vui lòng nhượng,
    Hoặc đến trị dân As-sa-ka.
  6. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
    Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
    Chỉ nói một lời điều ước muốn,
    Tức thì vật ấy của hiền nhơn.

Nghe vậy, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ giải thích ước nguyện của mình:

  1. Vương quốc ta nào có ước ao,
    Kinh thành, lãnh dịa chẳng mong cầu,
    Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản
    Từ chính bàn tay Đại đế đâu.

Vị ấy nói tiếp:

– Nhưng nếu Đại vương có lòng ưu ái ta, xin hãy làm theo lời thỉnh cầu của ta về việc duy nhất này:

10-11. Dưới quyền ngài, ngụ lão song thân
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức
Với song thân ấy lão hiền nhân.
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả So-na hết hận sân.

Vua liền bảo vị ấy:

  1. Hoan hỷ, ta xin sẽ vẹn tròn
    Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
    Song ai là kẻ ta cần chọn
    Để tiến hành ngay lệnh Đại nhơn?

Hiền giả Nanda đáp:

  1. Hơn trăm phú hộ, Bà-la-môn,
    Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
    Đại đế Ma-no-ja, đủ số
    Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.

Vua lại bảo:

  1. Thắng ngay tượng, mã vào vương xa,
    Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ
    Theo gió, ta đi tìm ẩn sĩ
    Trú nơi xa vắng, Ko-si-ya.

*

  1. Hộ giá theo hầu, bốn đạo binh,
    Đại vương tiến bước để đăng trình
    Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp
    Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.

Các vần kệ này xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng.

*

Bấy giờ vào ngày ấy, vua đến vùng thảo am, Hiền giả Sona suy nghĩ: “Lúc này đã hơn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày từ lúc tiểu đệ ta ra đi khỏi nhà. Bây giờ em ta đang ở đâu?”

Rồi dùng thiên nhãn, ngài nhìn thấy em, liền tự bảo: “Em ta đang đến đây với một trăm lẻ một vị vua và một đoàn hộ tống gồm hai mươi bốn đạo quân để xin ta thứ lỗi. Các vua này cùng đoàn tùy tùng đã chứng kiến nhiều thần thông do em ta biến hóa, và vì không biết gì về thần lực của ta, nên họ bảo: “Vị ẩn sĩ giả mạo này quá tự cao về thần lực của mình và tự sánh mình với vị chúa tể của chúng ta”. Do lời kiêu mạn này, họ sẽ đọa vào địa ngục. Vậy ta sẽ cho họ xem một điển hình về phép thần thông của ta”.

Rồi đặt đòn gánh giữa không khí, chẳng chạm vào vai ngài một khoảng chừng bốn phân, cứ thế ngài du hành giữa khoảng bao la, bay ngang gần vua, để đi lấy nước từ hồ Anotatta.

Nhưng khi Hiền giả Nanda thấy ngài đến, lại không có can đảm lộ diện, mà lập tức biến mất ngay nơi vị ấy đang ngồi, và tẩu thoát đi ẩn mình trong vùng Tuyết Sơn. Tuy thế, khi vua Manoja thấy Hiền giả Sona đến gần trong dáng điệu uy nghi của bậc tu hành, liền ngâm kệ này hỏi:

  1. Ai đi tìm nước giữa không gian,
    Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
    Đòn gánh cách xa chừng một tấc
    Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?

Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền đáp hai vần kệ:
17. So-na đạo sĩ chẳng bao giờ
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt ưu tư.

  1. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn
    Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
    Đời đời ghi nhớ ơn hai vị
    Xưa đã cho ta hưởng phước phần.

Nghe lời này, vua muốn bầu bạn với ngài, liền ngâm vần kệ khác:

  1. Ta mong đến tận chốn am tranh
    Đạo sĩ Ko-si-ya ẩn mình,
    Hiền giả So-na xin chỉ lối
    Đưa ta đến tịnh thất an lành
    .

Lúc ấy bậc Đại Sĩ dùng thần lực vạch ra một con đường mòn đưa đến thảo am và ngâm vần kệ này:

  1. Đây lối Đại vương hãy nhờ rành:
    Đằng xa khóm lá. đậm màu xanh
    Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
    Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.

*

  1. Như vậy bậc Hiền trí đại hùng,
    Chỉ đường cho các vị vương quân,
    Xong ngài vội vã về am thất,
    Lần nữa du hành giữa cõi không.
  2. Kế đó quét xong chốn thảo am,
    Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
    Ngài vừa thức lão hiền nhân dậy,
    Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
  3. Ngài nói: “Thánh nhân hãy đến ngay,
    Con xin cha tọa lạc nơi này,
    Các vua quý tộc danh lừng lẫy
    Sắp ngự giá qua giữa lối này.
  4. Như vậy sao khi vị lão niên
    Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
    Vội vàng chân bước từ am thất
    An tọa ở bên cạnh cửa tiền.

Các vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng.

*

Phần Hiền giả Nanda đi yết kiến vua ngay khi Bồ-tát vừa đến am thất, vừa đem nước về từ hồ Anotatta, rồi Hiền giả Nanda cắm trại không xa am thất ấy.

Sau đó vua tắm rửa và phục sức vô cùng lộng lẫy, liền được một trăm lẻ một tiểu vương hộ tống, vị Đại vương cùng Hiền giả Nanda bước vào am thất trong cảnh huy hoàng trọng thể và cầu khẩn Bồ-tát tha thứ cho hiền đệ của ngài.

Lúc ấy phụ thân của Bồ-tát thấy vị Đại vương ngự đến gần, liền hỏi Bồ-tát và ngài giải thích vấn đề với cha.

*

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

  1. Thấy vua đứng đó đại vinh quang
    Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
    Bậc lão hiền nhân liền cất tiếng
    Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
  2. “Ai đến đây trong tiếng rộn ràng
    Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
    Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
    Ai đến đây ca khúc khải hoàn?
  3. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
    Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
    Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
    Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
  4. Ai đây đang đến thật vinh quang,
    Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng
    Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ
    Sáng ngời đang cháy ở lò than?
  5. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao
    Được giương lên thật khéo làm sao,
    Lọng che với gọng sườn tô điểm
    Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
  6. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
    Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
    Như một vị hiền nhân trí giả
    Cỡi lưng voi nọ dáng oai phong?
  7. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
    Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
    Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc
    Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
  8. Ai kia đang đến tận nơi đây,
    Được cả hơn trăm lãnh chúa này
    Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
    Sau lưng và trước mặt như vầy?
  9. Các vương xa với một đàn voi
    Đám bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
    Ai đến với oai nghi chiến dấu,
    Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
  10. Ai đến cùng tất cả đạo quân
    Theo sau hộ giá rộng mênh mông
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng đại dương vỗ chập chùng?
  11. “Ma-no đại đế, với Nan-da,
    Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
    Như thể In-dra Thiên chủ ấy
    Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
  12. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn
    Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
    Không hề gián đoạn, dài vô tận,
    Như sóng chập chùng giữa đại dương”.

Đạo Sư lại ngâm:

  1. Lụa tối cao sang, khoác cẩm bào,
    Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
    Các vua này đến gần hai vị
    Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.

Sau đó vua Manoja kính lễ xong, ngồi xuống một bên, vừa trao đổi những lời chào hỏi ân cần, vừa ngâm đôi vần kệ:

  1. Trẫm vẫn tin rằng các Thánh nhân
    Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái
    Phong phú khắp nơi chốn trú an.
  2. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Các ngài tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi ở chốn đây?

Các vần kệ sau đây do hai bên đối đáp nhau:

Ẩn sĩ:

  1. Xin cám ơn ngài, hỡi Đại vương,
    Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
    Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả
    Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
  2. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
    Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
    Chúng ta tránh được bao phiền lụy
    Do thú săn mồi đến chốn đây.
  3. Các loại cây cao vẫn mọc đầy
    Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
    Cũng không bệnh tật gây tai hại
    Từng thấy xảy ra ở chốn này.
  4. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
    Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
    Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
    Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?
  5. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
    Ka-su-ma chín ngọt ngào thay
    Như đường mật, kính dâng ngài ngự
    Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.
  6. Và nước mát này ở động sâu
    Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
    Đại vương, xin kính dâng bình nước
    Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.

Đại vương:

  1. Trẫm đây cùng tất cả vị vua
    Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
    Song hãy lắng nghe lời sắp nói
    Của hiền hữu, Trí giả Nan-da.
  2. Chúng ta tất cả bước theo hầu
    Hiền giả Nan-da đến khẩn cầu
    Ngài chiếu cố nghe người khốn khổ
    Van xin quy lụy đáp ơn sâu.

Nghe nói vậy, hiền giả Nanda đứng dậy từ chỗ ngồi, vừa định lễ cha mẹ và huynh trưởng, vừa ngâm kệ đàm đạo với đoàn tùy tùng của mình:

  1. Xin cả toàn dân, lẻ một trăm,
    Những người danh vọng Bà-la-môn,
    Các vua Sát-ly dòng cao quý
    Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
    Cùng với Ma-no-ja Đại đế,
    Thảy đều công nhận việc cầu ân.
  2. Dạ-xoa Thần ở thảo am này,
    Các vị đang quy tụ ở đây,
    Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
    Lắng nghe ta nói chuyện như vầy.
  3. Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
    Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
    Tiểu đệ là em đây thuở trước
    Ngài xem có mặt tựa tay chân.
  4. Làm sao phụng dưỡng lão song thân
    Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
    Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở
    Cho em làm Thánh sự riêng phần.
  5. Ân cần phụng dưỡng cả song thân
    Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
    Người thiện tán đồng bao thiện sự,
    Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
    Do vầy em đạt nhiều công đức,
    Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
  6. Nhiều người khác biết rõ nơi đây
    Đạo lộ dành cho phận sự này,
    Ấy chính con đường lên thượng giới,
    Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
  7. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn
    Em làm thiện sự thế này chăng?
    Khi em mong muốn nhờ công đức
    Đem lại song thân trọn lạc an
    .

Khi được Nanda nói như vầy, bậc Đại Sĩ bảo:

– Các vị đã nghe những lời Nanda phải nói ra; giờ đây hãy nghe ta.

Và ngài ngâm các vần kệ sau:

  1. Các vị theo hầu tiểu đệ ta
    Hãy nghe ta nói lượt bây giờ:
    Kẻ nào đối xử đầy khinh bỉ
    Nhũng bậc tiền nhân của mẹ cha,
    Phạm tội ác cùng chư trưởng lão,
    Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
  2. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
    Con dường chân lý hiểu tinh tường,
    Giữ gìn giới luật và công hạnh,
    Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
  3. Anh em cùng các bậc thân sinh,
    Tất cả do dây kết hợp thành,
    Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng
    Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
  4. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao
    Hân hoan ta gánh vác đi đầu
    Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
    Chân lý ta không hề lãng xao.

Khi nghe lời này, tất cả các vua đều vô cùng hoan hỷ và nói:

– Hôm nay chúng ta đều biết được rằng toàn thể gia đình là trách nhiệm đặt lên người huynh trưởng.

Rồi các vị rời bỏ Hiền giả Nanda và vừa chú tâm hướng về bậc Đại Sĩ, vừa ngâm hai vần kệ tán dương ngài:

  1. Tri kiến tìm ra tựa lửa bừng
    Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
    Cũng như Thánh giả Ko-si ấy
    Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
  2. Như nhật thần kia chiếu ánh quang
    Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang
    Phố bày hình thể bao sinh vật,
    Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
    Cũng vậy Ko-si-ya Thánh giả
    Hiển bày chân lý với quân vương.

Như vậy là mặc dù từ lâu các vua chúa đã tin tưởng vào Hiền giả Nanda vì chứng kiến các kỳ tích thần thông của vị ấy, tuy thế bậc Đại Sĩ nhờ uy lực tri kiến đã phá hủy lòng tin của họ, khiến họ phải chấp nhận lời ngài và do vậy tất cả đều trở thành những người hầu cận tuân phục ngài nhất ở đời.

Lúc ấy Hiền giả Nanda suy nghĩ: “Đại huynh ta là một bậc trí giả tinh thông am tường kinhđiển. Ngài đã chinh phục các vị vua này và đưa họ về phía ngài. Ngoài ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Ta chỉ còn biết khẩn cầu ngài thôi”.

Thế rồi ông ngâm vần kệ này:

  1. Huynh chẳng lưu tâm dáng khẩn cầu,
    Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
    Em mong làm kẻ hèn nô lệ
    Đợi lệnh huynh ban, vội đến chầu.

Dĩ nhiên bậc Đại Sĩ không cảm thấy hờn giận hay oán thù đối với Nanda, nhưng ngài đã hành động như một cách khiển trách em để hạ bớt lòng kiêu mạn của vị ấy khi phát biểu tự cao thái quá như vậy. Nhưng bây giờ khi nghe những lời em nói ra, ngài vô cùng hoan hỷ và muốn ban ân huệ cho em, ngài bảo:

– Nay ta tha thứ hiền đệ rồi và sẽ cho phép hiền đệ chăm sóc cha mẹ.

Và ngài ngâm kệ nêu rõ đức tính của hiền đệ:

  1. Em thông Chính pháp, hỡi Nan-da,
    Nhu các Thánh nhân đã dạy mà:
    Duy nhất quý cao là thiện sự,
    Em làm đẹp ý thỏa lòng ta.
  2. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
    Em hãy nghe điều ta nói ra:
    Nhiệm vụ phần em lo gánh vác
    Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
  3. Mẹ cha ta bảo dưỡng lâu nay
    Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
    Đến lượt Nan-da nay đã tới
    Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
  4. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền
    Mong muốn Nan-da phụng dưỡng riêng,
    Xin nói một lời, và tiểu đệ
    Phải theo hầu vị ấy ưu tiên
    .

Lúc ấy mẹ ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và bảo:

– Sona thân yêu, em con đã vắng nhà lâu nay. Bây giờ rốt cuộc nó đã trở về, ta không đích thân hỏi thăm nó vì chúng ta đều nương tựa vào con cả. Song nếu con cho phép, bây giờ ta xin được ôm lấy nam tử thánh thiện này trong tay và hôn lên trán nó.

Rồi bà ngâm kệ này nêu rõ ý của bà:

  1. So-na, cha mẹ dựa con đây,
    Nếu được con cho phép việc này,
    Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ
    Nan-da thánh thiện quý cao vầy.

Sau đó bậc Đại Sĩ nói với mẹ:

– Này mẹ yêu quý, con cho phép mẹ rồi, mẹ hãy đi ôm lấy Nanda, con trai mẹ rồi ngửi tóc và hôn đầu nó để xoa dịu nỗi sầu trong lòng mẹ.

Thế là bà đi đến Hiền giả Nanda và ôm choàng lấy con trước toàn thể hội chúng và ngửi tóc, hôn đầu con, làm tiêu tan mọi nỗi khổ trong lòng bà, và ngâm kệ nói chuyện với bậc Đại Sĩ:

  1. Giống như cây yếu ớt bồ-đề
    Rung động vì cơn gió nặng bề,
    Cũng vậy, tim ta vui rộn rã
    Thấy Nan-da đã được quay về.

68 . Dường như ta thấy lại Nan-da
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
“Nan-da nay trở lại cùng ta!”

  1. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
    Thấy Nan-da ấy đã ra đi,
    Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo
    Do nỗi buồn đau quá não nề.
  2. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
    Nan-da rốt cuộc đã về nhà,
    Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
    Nó tạo ngôi nhà với chúng ta.
  3. Dù nghiêm đường quý mến Nan-da,
    Hãy để em con ở tự do,
    Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
    Nan-da cần trọn nghĩa cùng ta.

Bậc Đại Sĩ chấp thuận lời mẹ và nói:

– Con mong được như vậy.

Và ngài khuyến giáo em:

– Này Nanda, em đã lãnh phận sự của người anh cả, quả thật mẫu thân chính là đại ân nhân của ta. Em hãy thận trọng chăm nom mẹ.

Ngài lại ngâm hai vần kệ tán thán công đức của mẹ hiền:

  1. Là nơi nương tựa thật ân cần,
    Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
    Mẹ chính là đường lên thượng giới,
    Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
  2. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
    Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
    Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
    Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà
    .

Như vậy bậc Đại Sĩ đã nêu lên công đức của mẹ qua hai vần kệ, và khi mẹ ngài đã về chỗ ngồi một lần nữa, ngài bảo:

– Này Nanda, em có một bà mẹ đã chịu đựng nhiều gian lao khó vượt qua. Cả hai ta đã được mẹ nuôi nấng rất nhọc nhằn. Này em hãy thận trọng chăm sóc mẹ và không được đưa thứ dâu chua cho mẹ ăn nữa.

Và để làm sáng tỏ cho hội chúng thấy rõ những công việc cực kỳ gian khổ được dành cho số phận bà mẹ, ngài ngâm kệ:

  1. Cầu nguyện khát khao một đứa con,
    Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
    Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
    Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
  2. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
    Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
    Thoáng chốc hài nhi vô ý thức
    Bắt đầu quen biết một thân bằng.
  3. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
    Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
    Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
    Ngày ấy vui lòng tiếng “mẹ” mang.
  4. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
    Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
    Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
    Nỗi đau của trẻ được xua tan.
  5. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
    Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
    Được gọi vú nuôi, thôi cũng được,
    Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
  6. Tài vật nào cha mẹ có đây,
    Mẹ dành cho trẻ để sau này,
    Bà suy: “Cũng có ngày con hỡi,
    Gia sản may ra đến tận tay”.
  7. “Hãy làm này nọ, bé yêu ơi”,
    Bà mẹ lo âu gọi thế hoài,
    Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
    Mẹ còn kêu khóc, thở than dài.
    Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp
    Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
    Mẹ giận dữ la rầy cáu kỉnh:
    “Sao không trở lại lúc ban mai?”
  8. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng mẹ hiền này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  9. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
    Mà người xao lãng phụ thân này,
    Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
    Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
  10. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  11. Kẻ nào tài sản quá mê say,
    Tài sản mất đi cũng có ngày,
    Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
    Hối hận vì tai hại đắng cay.
  12. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
  13. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
    Giải trí, là tài sản tại gia
    Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
    Phụ thân khi tuổi tác già nua.
  14. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
    Ân cần phục vụ cạnh song đường,
    Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng
    Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
  15. Những đức tính này đối thế nhân,
    Giống như mấu trục bánh xe lăn,
    Nếu không có chúng, thì tên mẹ
    Sẽ phải cầu xin với các con.
  16. Từ mẫu cũng như nghiêm phụ ta
    Phải đều được kính trọng tôn thờ,
    Hiền nhân tán thán người nào có
    Những đức tính này tỏ lộ ra.
  17. Song thân như vậy đáng tuyên dương,
    Giữ địa vị cao cả khác thường,
    Được gọi “Phạm thiên” do cổ đức,
    Uy danh hai vị lớn khôn lường.
  18. Song thân hiền phải được tôn vinh
    Xứng đáng từ con cái của mình,
    Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh
    Là người có trí tuệ thông minh.
  19. Đem dâng thức uống với đồ ăn
    Sàng tọa và y phục xứng phần,
    Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
    Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.
  20. Bậc trí tán dương các việc trên,
    Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
    Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
    Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.

Như vậy bậc Đại Sĩ chấm dứt Pháp thoại khác nào làm cho núi Sineru (Tu-di) rung chuyển. Nghe ngài nói, tất cả các quốc vương cùng đoàn tùy tùng đến trở thành những kẻ mộ đạo. Vì vậy sau đó an trú hội chúng vào Ngũ giới và khuyến giáo họ tính cần bố thí cùng các đức tính tương tự, ngài bảo họ ra về.

Sau khi cai trị quốc độ một cách chân chánh, vào cuối đời tất cả các vua ấy đều đi lên cộng trú với chư Thiên.

Hai Hiền giả Sona và Nanda suốt đời sống phụng sự cha mẹ và về sau được sinh Phạm thiên giới.

*

Đến đây bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Thánh Đế và nhận diện Tiền thân.

Lúc kết thúc các Thánh Đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ được an trú vào Sơ quả Dự lưu:

– Thời ấy, song thân là phụ mẫu trong hoàng gia, Hiền giả Nanda là Ànanda, vua Manoja là Sàriputta, một trăm lẻ một vị vua là tám mươi đại Trưởng lão và một số vị khác, hai mươi bốn đạo quân là đệ tử đức Phật, còn Hiền giả Sona chính là Ta.

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm