30 NGÀY THIỀN THẤT
BÊN TRONG VẠN PHẬT THÁNH THÀNH.
Hạnh Nguyện
Tôi đã từng nghe về một Vạn PhậtThánh Thành cách đây vài mươi năm về trước, khi từ thời ngài Tuyên Hóacòn sống trước năm 95 nhưng quả thậttôi chưa đủ duyên để diện kiến ngài vàtu học dưới mái chùa ngài. Nay ngài đã mất thì cũng là lúc tôi có đủ cơ duyênđể đến, đến để thấy và cảm nhận được một đời sống tu hành chân thật, đúng nghĩa, một đời sống xả ly tất cả để cầu giải thoát, cứu độ chúng sanh.
Đạo vốn không ở xa, nhưng với người không có đủ duyên để hiểu và để thấy thì sẽ phải loanh quanh tìm đạo. Khi chưa xuất gia tu hành là đã đi quanh tìm đạo, khi xuất gia rồi đạo ấy vẫn tiếp tục cầu tìm, sáng tối tối sáng tháng năm tìm cầu vẫn chưa ra. Phải chăng đời xuất gia phải là đời của người đi tìm đạo, bên ngoài tha phương cầu học, tham vấn các bậc Thiện tri thức, bên trong hằng luôn khao khát kiến tánh,giác ngộ bổn tâm. Khi tâm chưa sáng, trí tuệ chưa tỏ, tham sân si còn dày đặc thì người xuất gia không thể tự mãn, tự an với đời sống tu hành thường nhật, với chùa to Phật lớn, với tín chúng đông đảo hoặc với lịch Phật sự dày đặc bận rộn suốt năm.
Cho đến khi tâm khai mở, lại cũng phải trải qua thời gian dài dụng công, tu hành miên mật thì mới có thểtự tại trong tử sanh. Người xưa thì tu đạo, hành đạo như vậy nên Phật pháp được truyền lưu hưng thịnh, nhiều người chứng đắc. Còn ngày nay tiếc thay thời mạt pháp, thời thế, nhân tâm con người bị đảo ngược, nên dù đạo vẫn là vậy, rất gần và thanh tịnh nhưng lòng người lại tham lam, đắm nhiễm nên lại thấy rất xa, dù đạo rất dễ nhưng tâm trí con người lại tán loạn, bất tín nên rất khó, bởi vậy chúng ta dùsuốt đời vào đạo, học và hành đạo mà vẫn chưa thấy một ánh sáng thể nhập.
Được anh tôi là đệ tử của ngài Tuyên Hóa giới thiệu, tôi quyết định ngay cho việc đăng ký tham dự khóatu Phật thất và Thiền Thất tại Vạn Phật Thánh Thành vào tháng 12 vừa qua, mỗi năm chỉ tổ chức một lần. Sau vài ngày nghỉ ngơi tại nhà người anh (tại San Jose, bang Cali, Mỹ quốc) cho quen thời gian thay đổi từ Âu sang Mỹ, tôi được đưa đến Vạn Phật Thành vào ngày 19/12/2014, và sau khi đăng ký ghi danh xong, tôi được vị Tăng tri khách đưa vào khu vực Tăng phòng nơi chư Tăng thường trú. Đó là một căn phòng nhỏ, khoảng 8m2 trong một dãy hành lang trên 30 phòng mờ tối.
Vạn Phật Thánh Thành nguyên là một bệnh viện vĩ đại với hơn 70 tòa nhà rộng lớn khác nhau trên khu đất 500 mẫu Tây (4000m2/1 acre). Bệnh viện này có lẽ được xây dựng trên cả trăm năm nay, từng là nơi làm việc của trên 6000 người nhân viên và bệnh nhân. Nhưng trong thập niên 70 do hạn hán nhiều năm tại Cali nên bệnh viện này không còn nước và cuối cùng chính phủ phải bán bệnh viện này, qua tay mộtthương gia và cuối cùng đến tay Hòa thượng Tuyên Hóa mua được với một giá tượng trưng. Có chứng kiến tận mắt tôi mới thấy được sự vĩ đại của cơ sở này, vậy mà sự mầu nhiệm và thần kỳ nào như sắp đặt, để ngài cuối cùng sở hữu được cơ sở này. Sau khi mua xong ngài đến chỉ điểm nơi đào giếng và lập tức có nước phun lên, dùng mãi cho đến ngài nay.
Căn phòng nơi chư Tăng ở có vẻ hơi giống khu vực cách ly giành cho bệnh nhân tâm thần thì phải, vì bởi phòng ốc nhỏ như nhà tù, với các bức tường bê-tông dày cả feet, kiên cố lạnh lùng âm chứa tất cả hơi lạnh của khí trời mùa đông vào trong, nên vừa bước vào nghỉ lại trong phòng, tôi đã cảm thấy run lên bần bật, dù rằng tôi cũng là người quen chịu lạnh vì đã nhiều năm sống ở nước Bắc âu. Buổi tối mặc dù đã mặc 4 cái áo và đắp 3 cái chăn bên ngoài, cũng như đội chiếc mũ len trùm cả hai tai, tôi vẫn thấy lạnh run cả người.
Bên ngoài cửa là một chiếc ngăn đựng thư và giấy tờ. Ở đây chư Tăng với nhau rất ít nói chuyện và làm phiền nhau vì nội quy Tòng lâm là như vậy; cần việc gì họ viết vào giấy, bỏ vào ngăn thư ấy và người kia cũng viết giấy trả lời, bỏ lại vào đó hoặc đưa thẳng cho người ấy. Như vậy đời sống tu hành hàng ngày của mỗi người gần như sống tách biệt và tịnh khẩu. Từ nơi phòng tôi ở nếu phải đi vệ sinh thì phải đixuyên qua những dãy hàng lang vắng vẻ, âm u đến rợn người, tôi tự nhủ thầm, phải chấp nhận, bởi vì bao nhiêu người ở được thì mình ở được. Câu thần chú đó làm tôi mạnh mẽ hẳn lên, an nhiên chịu đựngsuốt thời gian dài khổ nhọc của khóa tu.
Vạn Phật Thánh Thành quả thật không hổ danh là một Đại Tòng Lâm, một nơi đào tạo Tăng tài đúng nghĩa với thanh quy nghiêm ngặt, đời sống tu hành tối đơn giản, thanh tịnh. Nơi đây chư Tăng vào sống ở đây không được giữ tiền, những người mới xuất gia chưa thọ Tỳ kheo thì không được dùng điện thoại và máy tính trừ chư Tăng sống 5 năm trở lên. Đời sống tu hành như vậy quả thật thanh tịnh trang nghiêm vàgiới phẩm trong sạch mà tôi chưa từng thấy nơi nào trên thế giới có được. Thế nên sau mấy tuần ở đây tôi phải buộc miệng khen rằng, chư tăng tu hành nơi này thật là giới hạnh trong sạch như băng tuyết.
Trong bản nội quy mà khách Tăng/Ni phải tuân theo khi đến viếng Vạn Phật Thánh Thánh gồm có 10 điều tóm tắt như sau:
1) Phải được phép của giới sư khi đến ở lại VPTT.
2) Phải có giấy giới thiệu của ngôi chùa mình ở.
3) Luôn mặt áo giới khi ra ngoài.
4) Một ngày ăn một bữa.
5) Tuân theo lịch trình tu tập hàng ngày cùng đại chúng. Không vắng mặt nếu không có lý do hợp lý.
6) Không đi lang thang ra ngoài khuôn viên của VPTT.
7) Không nên tụ họp hoặc đi đến phòng người khác để tham gia nói chuyện không cần thiết.
8) Tuân theo 6 đại tông chỉ của VPTT. Không nên lợi dụng, đặc biệt là không tìm cách để nhận cúng dường từ quý Phật tử tại gia.
9) Tôn trọng các quy củ. Xin lưu ý rằng các cá nhân không tuân theo các nội quy của VPTT có thể được yêu cầu rời khỏi.
10) Bất kỳ khách Tăng/Ni nào muốn đến thăm VPTT nên điền đơn xin phép trước khi đến. Trong đơn ghi rõ tu viện xuất xứ và chỉ có thể đến VPTT sau khi đơn được chấp thuận. Lưu ý rằng sau khi đến VPTT, chùa sẽ quan sát quý vị trong 3 ngày.
Vạn Phật Thánh Thành có nhiều còn đường nhựa dọc ngang nối nhau như là một khu phố nhỏ, và cáccon đường trong Đại tòng lâm này đều mang các tên trong Phật giáo như: Đường Trí tuệ, đường Từ bi, đường Tinh tấn, đường nhẫn nhục, đường bố thí.v.v… Trên các bãi cỏ tôi cũng thấy một vài đàn naithong dong qua lại, hoặc rất nhiều bầy chim Công với bộ lông cánh tuyệt đẹp ung dung gặm mổ thức ănmà chẳng sợ con người. Không hiểu có phải do từ trường thanh tịnh tu hành của chư tăng mà chiêu cảmngay cả các loài vật hoang dã đến đây cùng sống, cùng khoe sắc khoe thân trước mọi người. Thật làcảnh giới an bình, thần tiên như một cõi tịnh độ.
Thời gian khóa tu Phật thất và Thiền thất đều bắt đầu từ 3.25 sáng đánh bảng gọi báo thức cho đếnkhoảng 10.20 đêm. Trong khoảng thời gian này, lịch trình các khóa niệm Phật, và Thiền định gần như san sát, chỉ nghỉ ngơi khoảng 20 phút rồi lại tiếp tục.
Khóa Phật thất buổi sáng thì sau khi tụng công phu khuya Lăng Nghiêm xong đến 5.00 sáng thì nghỉ ngơi đến 6.30 và bắt đầu khóa Tịnh độ với thời kinh A Di Đà trước, sau đó tán Phật, niệm Phật, và đi kinh hành 2 vòng lớn quanh chánh điện, tiếp đến ngồi xuống niệm Phật khoảng nữa tiếng, và cuối cùng niệm Phật trong tâm khoảng nữa tiếng trước khi kết thúc và chuẩn bị buổi ăn trưa lúc 10.45. Khóa niệm Phậtchiều từ 1.00 đến 5.00 chiều, và khóa buổi tối từ 6.10 đến 9.30 tối.
Ngoài thời gian hành trì niệm Phật miên mật gần như suốt ngày, khóa buổi tối có 1.giờ 30 phút nghe pháp và khai thị về pháp tu. Không thể ghi lại tất cả việc tu học trong khóa tu, tôi chỉ thuật lại một số nétđại cương như sau:
KHÓA TU PHẬT THẤT.
Ngày thứ 1:
Buổi sáng tinh mơ, đúng 3.25am tiếng bảng (bằng tay) đã đứng thức chúng Tăng dậy. Sau đó 3 phút, tiếng bảng bằng máy tiếp tục đánh lên, và cứ thế sau 10 phút lại đánh lên nữa. Tiếng bảng chát chúa vang lên trong đêm khuya, không ai có thể ngủ mê thêm nữa dù lười đến đâu! Nước rửa mặt lạnh như nước đá sẽ làm mọi người tỉnh táo.
3.50 phút sáng, chư Tăng đi trong hàng dài và niệm Phật theo tiếng mõ, hướng chánh điện (cách đó khoảng 600m) trong bầu trời tĩnh mịch của đêm đen. Gần đến chánh điện, tiếng trống liên hồi như thúc dục, như nghênh đón chư Tăng vào chánh điện. Phía bên Ni thì cũng vào chánh điện theo một cửa khác. Buổi lễ Sái tịnh đàn tràng đã được thực hiện từ tối hôm trước nên khóa tu chính thức thực hiện hôm nay. Toàn thể đại chúng trong chánh điện có khoảng hơn 300 người.
H.T khai thị:
“Trong thất này quý vị cần phải “nhất môn thâm nhập” –chuyên tâm vào một pháp môn- chỉ dựa vào lòng chân thật, lòng thành khẩn, cung kính mà tu pháp niệm Phật, chớ để uổng phí thời gian dù chỉ là một phút thôi. Quý vị nên biết, một chút thời gian là một chút sinh mạng. Nếu không dụng công, mình sẽ tăng gia tội nghiệp. Chân thật dụng công thì tăng trưởng thiện căn.”
Khi niệm Phật một tiếng, trong hư không sẽ có một ánh hào quang xuất hiện. Nếu quý vị chí thành, chân thật, khẩn thiết niệm Phật thì ánh hào quang ấy sẽ chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, và có thể hóa giải mọi thứ ô nhiễm, tàn ác hung bạo và tai họa.
Niệm niệm chân thành niệm niệm thông,
Mặc mặc cảm ứng, mặc mặc trung.
Trực chỉ sơn cùng thủy tận xứ,
Tiêu dao Pháp-giới nhậm Tây Đông.
Nghĩa là:
Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt,
Lặng lặng cảm ứng, lặng trung dung.
Đến khi núi mòn sông cạn hết,
Tiêu diêu Pháp-giới khắp Đông Tây.
Không biết quý-vị có liễu ngộ được chân nghĩa của bài kệ vừa rồi hay chăng? "Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt," chữ niệm đầu tiên nói lên ý niệm do tâm phát ra. Chữ niệm thứ hai là chỉ ý niệm do miệng thốt ra. Nếu chỉ có ý niệm thứ nhì, tức là ý "niệm" phát ra từ nơi miệng thì không còn là ý niệm chân thành. Cho nên tâm khẩu cần phải chân thành khi niệm danh hiệu Phật Bồ-tát. Chúng ta cần niệm đến chỗ tâm và miệng hợp nhất, một mà không hai.
Chúng ta không thể tùy tiện mà niệm, cũng không thể niệm một cách tán loạn, và càng không nên niệm một cách tạp nhạp với nhiều vọng tưởng của mình. Nếu mình làm được như vậy thì mới gọi là chân thành được. Có được ý niệm chân thành thì nhất định sẽ được cảm ứng. Cảm ứng đó là gì? Là sự tương thông giữa tâm phàm phu của mình với tâm sáng lạng của chư Phật Bồ-tát. Đó gọi là:
Quang quang tương chiếu; Khổng khổng tương thông.
Nghĩa là:
Ánh sáng này chiếu ánh sáng kia; Lỗ lông này thông lỗ lông kia.
Tại sao có được cảm ứng như vậy? Giống như khi gọi điện thoại, bên này có quay số, bên kia mới trả lời. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, sẽ có lúc Bồ-tát hỏi mình rằng: "Thiện nam tử, thiện nữ nhân, các vị cần điều chi?" Lúc đó mình cầu gì sẽ được nấy. Nếu thiếu thành tâm thì cũng như điện thoại có năm số, mà mình chỉ quay có ba số rồi ngừng tay, làm sao đường dây có thể thông được. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, nếu mình niệm một chốc rồi ngừng lại, đó là thiếu thành tâm. Nhất định không có chuyện cảm thông được. Chỉ ai có cảm ứng mới nhận biết sự "quang quang tương chiếu" này. Cũng như khi gọi điện thoại, phải nhấc ống nghe lên mới nghe rõ người bên kia đầu dây. Vì phàm phu không sao thấy được luồng sóng qua lại của điện thoại.
Thêm vào đó, cổ nhân lại có câu:
"Quân tử cầu chư kỷ,
Tiểu nhân cầu chư nhân."
Nghĩa rằng:
Người quân tử thì tìm đáp án nơi chính mình, dựa vào năng lực của mình, còn kẻ tiểu nhân thì nương tựa, cầu cạnh kẻ khác.
Chúng ta không thể có tâm ỷ lại, phải biết rằng sự cảm ứng là tự mình chiêu cảm lấy, không do nơi khác. Có người nói: "Niệm Phật để được sinh Tịnh-độ; như vậy nhờ Phật mới được tiếp dẫn." Câu nầy có thể đúng nhưng cũng có thể không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì thuyết tiếp dẫn do đối căn cơ mà lập. Đối vớichúng sinh còn đầy lòng tham, luôn hy vọng chỉ dùng ít sức mà hoạch kết quả lớn; hay thích cho vay ít lấy lãi nhiều, thánh nhân do đó phải tùy cơ ứng biến, nói rằng Phật lực tiếp dẫn với mục đích là muốnchúng sinh nổ lực niệm Phật. Kỳ thật kẻ niệm danh hiệu Phật, Bồ-tát mà được vãng sinh Tịnh-độ đềuhoàn toàn do dựa vào sức lực của chính họ.
Mình học Phật cũng vậy, phải hiểu rằng mọi sự vô thường, không ai thoát được cái chết. Tại sao mình không lo chuyện hạ thủ công phu để giải quyết cái chết? Cho nên:
Nhược yếu nhân bất tử,
Tiên hạ tử công phu.
Nghĩa là:
Mình nếu muốn không chết,
Thì phải tu hết mình. "Tử công phu" (tu hết mình),
Mình cần phải niệm Đức A Di Đà Phật tới độ là coi Ngài như sư phụ của mình, xem Ngài Quán ThếÂmBồ-tát như là người bạn của mình. Nếu như được làm đệ tử của Phật, làm bạn của Bồ tát, trải qua nhiều năm tháng, tự nhiên mình cũng sẽ trở thành bạn thân của các vị đó. Như vậy thì chư Phật Bồ-tát sẽ tiếp dẫn mình về thế giới Cực-lạc vào phút cuối cùng. Quý-vị đừng nên hồ nghi, bởi vì:
Tu Đạo chi nhân tâm mạc nghi,
Nghi tâm nhất khởi tiền đồ mê.
Nghĩa là:
Lòng người tu Đạo chớ ngờ nghi,
Nghi ngờ nổi dậy liền mờ mê.
Nghĩa là người tu Đạo chớ có tâm nghi ngờ, khi lòng nghi nổi dậy thì đi vào sự mê mờ. Chúng ta nênnghe lời của thiện-tri-thức, không nên có lòng nghi ngờ. Thí dụ như thiện-tri-thức nói tu hành cần phải có khổ công, thì mình phải tin như vậy. Nếu mình có lòng tin một cách triệt để nhất định sẽ được minh tâmkiến tánh, phản bổn hoàn nguyên. Do đó mình phải thường nghe lời chỉ dạy của bậc thiện-tri-thức. Nếu vị đó dạy mình "niệm Phật" thì mình nhất định phải theo lời mà niệm Phật; nếu vị ấy dạy mình "đừng buông lung" thì mình không được buông lung, đó là yếu quyết của việc tu Đạo vậy.
Như đã nói trên: "Bịnh rồi mới biết thân này khổ." Bởi vì con người mà không trải qua một cơn bịnh khổ thì không chịu phát tâm tu hành đâu. Do vậy, kẻ chưa bịnh thì không hiểu sự thống khổ. Lại có câu rằng: "Phú quý tu đạo nan." Nghĩa rằng người giàu tu đạo rất khó, bởi vì việc gì cũng được như ý cả thì làm sao họ nghĩ đến chuyện tu. Do đó nghèo với bịnh là thứ trợ duyên cho việc tu Đạo. Bịnh đến thì mình đừng âu lo, nghèo khốn cũng chớ ưu sầu. Có bài kệ như sau:
Ngã kiến tha nhân tử,
Tử tâm nhiệt như hỏa,
Bất thị nhiệt tha nhân,
Tiệm tiệm luân đáo ngã.
Nghĩa là:
Ta thấy người ấy chết,
Lòng ta nóng như lửa,
Chẳng phải nóng cho người,
Mà từ từ lửa tới ta.
Nghèo khốn hay bịnh hoạn hẳn nhiên giúp mình trưởng dưỡng tâm tu Đạo. Cũng như khi thấy người khác nghèo khốn, bịnh khổ, già chết, mình cũng phải phát tâm như thế. Đời người giống như: "
Trường giang, hậu lãng thôi tiền lãng."
Nghĩa là
"Sông Trường giang, sóng sau đẩy sóng trước."
Nếu mình kịp thời phát nguyện vãng sinh, lúc gần chết, mình sẽ có sự chuẩn bị. Không vậy, lúc ấy mình hoảng sợ không biết cách đối phó. Giống như đất nước nếu không trải qua một cơn biến loạn thì nhân dân chỉ thích sống trong cảnh sung sướng an lạc, không màng đến chuyện bảo vệ đất nước.
Hiện tại Phật-giáo cũng như vậy, người ta không nghĩ cách để phục hưng Phật-giáo, nên Phật-giáo đi vào tình trạng ủy mị. Vì vậy mình phải đề xướng Phật-giáo; trách nhiệm không phải chỉ ở các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, mà ở tại mỗi tín đồ Phật-giáo. Nếu như mỗi người chúng ta đều tự nhận trách nhiệm, thì lo gì Phật-giáo không phát triển!
Ngày thứ 2:
Trong suốt khóa tu ngày hôm qua, mọi người gần như tịnh khẩu, chỉ có nhất tâm tu niệm và không một ai nói chuyện với nhau cả dù rằng khoảng giữa có 15 phút giải lao. Sao lạ vậy! Hình như hiện tượng này, tôi chưa từng thấy qua trong các khóa tu ở các chùa Việt Nam mình. Hay là quy củ ở VPTT này là như vậy!Mọi người không được làm quen, tiếp xúc và nói chuyện với nhau, không phải giữa giới xuất gia và Phật tử tại gia mà ngay cả những người Phật tử với nhau cũng vậy. Ai cũng hiểu điều này nên ai cũng giữ sựim lặng và thanh tịnh, mặc niệm hoặc giữ sự trang nghiêm cho đạo tràng.
H.T Tuyên Hóa khai thị.
Ngài khuyến đại chúng khi tu nên giữ gìn tâm ý trang nghiêm và thanh tịnh. Lòng chí thành ấy sẽ cảm ứng chư Phật và cảm động đất trời.
Tâm chân thật, ý chân thật, thật trong thật,
Hành chân thật, tu chân thật, thật trên thật,
Làm chân thật, thành chân thật, thật thêm thật,
Tất cả, tất cả, thật, thật, thật.
Cổ nhân nói: "Thiện ác hai con đường, ai tu thì tu, ai tạo (nghiệp) thì tạo." Kẻ tu thiện thì sẽ thoát khỏi Tam Giới, kẻ tạo ác thì sẽ đọa Tam Ác Đạo. Thiện, ác chỉ ở trong một ý niệm cách biệt. Có trí huệ tức là thiện niệm, có ngu si tức là ác niệm. Mọi sự trên đời đều nói pháp (hiển bày chân lý). Có thứ nói pháp lành, có thứ nói pháp ác. Có thứ nói pháp bàng môn tả đạo, quan điểm sai lầm. Có thứ nói pháp Trung Đạo Liễu Nghĩa, quan niệm đúng đắn.
Nói cách khác, nói pháp lành tức là dạy người ta nhìn thông suốt mọi hiện tượng, buông bỏ mọi chấp trước, đạt được tự tại; còn nói pháp ác tức là dạy người ta đừng nhìn thủng, đừng buông bỏ chấp trước, chẳng đắc được tự tại. Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước, không chịu buông bỏ. Câu thơ xưa nói rằng:
Cổ lai đa thiểu anh hùng hán,
Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.
Nghĩa là:
Xưa nay bao kẻ anh hùng hảo hán,
Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non.
Quý vị hãy nghĩ xem: bao nhiêu người ở trần gian, ai có thể nhảy thoát qua cửa sinh tử? Lúc sống, mưu đồ hư danh, chết rồi, danh nào còn? Ham chức quan lớn, chết rồi, quan cũng hết luôn! Mọi thứ đều hóa thành không. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng vì muốn bảo vệ con cháu, khiến muôn đời sau sẽ mãi làmhoàng đế, nên cho xây Vạn Lý Trường Thành. Nào ngờ chỉ truyền tới đời thứ hai, con là Hồ Hải (Tần Nhị Thế) nối ngôi chưa được ba năm thì bị Thừa-tướng Triệu Cao giết chết. Thế chẳng phải là đã hao phítâm cơ sao?
Xưa nay, từ trong đến ngoài nước, những kẻ cực kỳ giàu sang, kẻ làm quan to chức lớn, đều sống một đời mê muội tranh danh đoạt lợi, tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi; tới lúc chết thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương. Xem đấy, khi tham Thiền chúng ta phải quyết chí dụng công, không thể giải đãi, không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận không kịp. Rằng:
"Một chút thời gian, một chút mạng sống."
Có người nói: "Chờ tôi thành danh rồi, tôi sẽ buông bỏ mọi thứ, chuyên tâm tu Đạo." Song, thời giankhông chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.
Tham Thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần chân thật tu hành thì có thể thoát khỏi vòng sinh tử, tới lúclâm chung tất sẽ
"Thân không bịnh khổ,
Tâm chẳng tham luyến,
Như nhập Thiền-định,
Vui cười vãng sinh."
Đó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!
Ngày thứ 3:
Mỗi ngày trước khóa lễ niệm Phật đều trì kinh Lăng nghiêm buổi khuya lúc 4.00am. Theo thông lệ thì một ngày tụng kinh bằng tiếng Hoa và một ngày tụng kinh bằng tiếng Anh. Tất cả kinh, chú, các bài sám đều như các chùa ở Việt Nam, chỉ khác là họ tiếng tiếng Hoa mà thôi. Cho nên nếu chúng ta học tiếng Hoa thì sẽ rất nhanh vì có rất nhiều âm điệu tương tợ.
Vị thầy dẫn lễ mỗi ngày thường thay phiên nhau, có khi Tăng lại cũng có khi là vị Ni. Vị Phương trượng trụ trì thì chỉ dâng hương cúng Phật và sau đó đứng chấp tay, đứng tấn tại đạo tràng giữa 2 chúng Tăng Ni trong thế thiền định. Nếu khóa lễ 4 tiếng vào buổi chiều là ngài cũng đứng, lúc đi kinh hành thì ngài đi sau chót. Lúc nào ngài cũng là vị dẫn đầu, nêu cao tấm gương tu hành, tinh tấn, kham nhẫn và hạ mìnhthấp nhất trước đại chúng. Thấy cảnh khổ hạnh này, tôi thầm nghĩ, làm thầy Phương trượng VPPT thật không dễ chút nào, khổ cực hơn cả chúng tăng rất nhiều lần. Chẳng bù truyền thống Việt Nam mình, thì thầy Phương trượng trong một đại Tòng lâm như vầy sẽ được cung kính, tôn sùng và trọng vọng đệ nhất trong chùa.
Mỗi buổi sáng, khi đại chúng đi thành hàng vào chánh điện xong, trước khi bắt đầu tụng chú Lăng nghiêm, đều phải đọc Tông chỉ Vạn Phật Thánh thành như sau:
Rét chết không phan duyên
Đói chết không hóa duyên
Nghèo chết không cầu duyên
Rùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên
Chúng ta giữ vững ba đại tông chỉ
Xả mạng vì Phật sự, tạo mạng vì bổn sự, chánh mạng vì Tăng sự
Tức sự minh lý, minh lý tức sự
Truyền thừa mạch huyết Tổ sư
Tự hỏi: Mình có tranh không?
Tự hỏi: Mình có tham không?
Tự hỏi: Mình có cầu không?
Tự hỏi: Mình có ích kỷ không?
Tự hỏi: Mình có tự lợi không?
Tự hỏi: Mình có vọng ngữ không?
Tự hỏi: Mình có ăn ngày một bữa không?
Tự hỏi: Mình có luôn đắp y giới không?
Đây là gia phong của Vạn Phật Thánh Thành và không ai được sửa đổi!
Phần cuối buổi lễ sau phần đảnh lễ Tam tự quy xong, đại chúng còn phải đảnh lễ 15 lễ đối với 5 vị Tổ sưcận đại, biểu lộ lòng thành kính, ghi ân sự truyền thừa mạng mạch từ các ngài.
Lời H.T dạy:
Chúng ta lúc nào cũng ở trong mộng. Rằng:
Nhân sinh nhất trường mộng,
Nhân tử mộng nhất trường.
Mộng lý thân vinh quý,
Mộng tỉnh tại cùng hương,
Triều triều thị tác mộng,
Bất giác mộng hoàng lương,
Mộng trung nhược bất giác,
Uổng tác mộng nhất trường.
Nghĩa là:
Người sống: một tràng mộng,
Người chết: mộng một tràng.
Trong mộng thân vinh quý,
Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ,
Ngày ngày cứ nằm mộng,
Chẳng biết mộng "kê vàng,"
Nằm mộng mà chẳng biết,
Uổng thay mộng một tràng.
Lúc mộng, chúng ta thấy rõ ràng có Lục-thú (sáu nẻo: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục); đến lúc giác ngộ mới thấy tam thiên đại thiên thế giới đều chẳng có. Vì sao? Vì không còn chấp trước. Chẳng còn chấp trước thì đem vạn vật "phản bổn hoàn nguyên"; như thế làm sao còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đặng? Mọi thứ đều chẳng còn! Có người nghe rằng bốn tướng đều hết thì chẳng dám tu hành, vì ngộ nhận rằng: "Tu đến cực điểm thì người ta chẳng hiện hữu nữa,chúng sinh cũng hết sạch, thọ giả cũng không còn, vậy thì sao đây? Lúc ấy công việc làm cũng hết luôn, e rằng tôi sẽ thất nghiệp mất!"
Quý vị nhất định cần có việc làm sao? Vậy thì cứ tiếp tục điên đảo! Khi tu hành đến chỗ không còn bốn tướng, thì quý vị sẽ "quét sạch tất cả pháp, xa rời tất cả tướng," chứng đắc Thực-tướng của mọi sự. Rằng: Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không. (Một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.) Chẳng thể nói suông là mình hiểu đạo lý này, mà chúng ta bắt buộc phải chân chính chứng đắc cảnh giới "một pháp chẳng lập, mọi sự đều không." Lúc ấy sẽ chẳng còn gì là khổ, chỉ hưởng thọ sự an lạc.
Người ta ở đời, nếu không chấp trước danh vọng thì cũng ôm chặt lợi lộc, không chấp trước tiền tài, thì lại mê đắm sắc đẹp, do đó không thể nhìn thủng (hiện tượng), chẳng thể buông bỏ (mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng, muốn buông bỏ, song lại chẳng đặng. Vì sao chẳng kham? Bởi vì trong tâm có "con quỷ" tinh tế và "con sâu" linh lợi tác quái, do đó rất nhiều việc mình để lỡ cơ hội, đối diện với Đức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Đức Quán Âm Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đi tìm kiếm khắp nơi. Đó chính là bị điên đảo vọng tưởng chi phối vậy.
Chữ "tham" trong tham Thiền có nghĩa là quán chiếu, quan sát. Quán chiếu cái gì? Quán chiếu Bát-nhã. Nghĩa là trong mọi ý niệm, mọi thời điểm, quý vị phải quan sát chính mình ở đây (tự tại), đừng quan sátkẻ khác ( tha tại ). Hãy quán sát xem mình có ở tại đây hay chăng -nếu mình ở đây thì có thể tham Thiền,dụng công tu hành; nếu mình chẳng ở đây, tức là mình khởi vọng tưởng lăng xăng, nghĩ ngợi vớ vẩn. Thân tuy ở trong Thiền-đường, nhưng tâm lại dong ruổi tận Nữu Ước hay Ý Đại Lợi. Tới đâu cũng phan duyên, thành ra không tự tại nữa.
Ngày thứ 4:
Buổi trưa khi mọi người niệm Phật xong, đại chúng xếp thành hàng qua một Chánh điện khác thực hiệnnghi thức cúng Ngọ trước khi xếp thành hàng đi ra Trai đường, còn gọi là Ngũ quán đường lúc 10.45. Buổi thọ trai kéo dài 1 tiếng đồng hồ, bắt đầu bằng việc 1 vị Tăng đọc lên bài kinh cúng dường: “Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ lô Giá na Phật…, sau đó đọc Tam đề Ngũ quán và đại chúng bắt đầu dùng cơm.
Thức ăn chư Tăng được để sẵn trong những chậu lớn đầu dãy bàn, và sau khi vị Tăng ngồi đầu lấy món ăn nào xong thì chuyền qua vị thứ hai và cứ thế chuyến đến vị cuối trong từng món một. Do dùng mộtbữa ăn trong ngày nên phần chuẩn bị bữa ăn có thể nói là rất chu đáo, đầy đủ chất dinh dưỡng với khoảng 7 đến 10 món, trong đó ngoài phần cơm và các món ăn xào, kho, canh, mì còn có cả bánh mì, bơ, mứt, bơ đậu phụng. Các thức ăn tráng miệng gồm có 3 loại trái cây, các hạt đậu hoặc bánh quy. Ngoái nhìn sang các ông Sa Di (hơn 50 tuổi) bên cảnh, tôi phát hoảng khi thấy ông ta múc một bình bátđầy thức ăn, một dĩa đầy và các bánh mì, trái cây bênh cạnh. Xem chừng phải gấp 3 lần phần ăn của tôi,vậy mà ông chú Tiểu “đại” đó ăn cũng hết. Tuyệt thật!!!
Sau khi ăn xong, mọi người tự đi lấy 1 chiếc khăn (để trong chậu nước nóng) gần đó quay lại chỗ mình và chùi sạch sẽ khu vực bàn ăn trước mặt mình, xong để khăn lại trong chậu và cầm bình bát và dĩa của mình đi rửa ở một khu nhà bếp gần đó, rửa xong quay trở lại chỗ cũ để trên bàn như trước và chờ đến 11.50 đi thành hàng ra Chánh điện hồi hướng.
Tôi nghĩ thầm, một ngày ăn một bữa như vậy cũng thật là xứng đáng. Đầy đủ tất cả, mãn nguyện tất cả vì ban ẩm thực lo rất chu đáo, nhưng chỉ ngày một bữa. Vậy cũng rất là hay vì như vậy khỏi mất rất nhiềuthời gian cho việc ăn uống. Trong các khóa tu ở chùa Việt Nam mình, về phần ăn uống này thôi tôi cũng thấy rất mệt và phiền cho tất cả mọi người. Bởi vì đại chúng ăn sáng vừa xong và đi khỏi, là ban trai soạn lại tiếp tục chuẩn bị cắt, gọt rau quả để chuẩn bị cho buổi ăn trưa, ăn trưa vừa xong lại cắt, gọt chuẩn bị cho buổi ăn chiều. Ôi! Sao vì cái ăn thôi mà mọi người phải khổ và mệt đến như vậy. Không lẽ một năm 365 ngày không tu, ngày ăn 3 bữa lâu rồi, nay đến thời gian tu hành, bỏ bớt ăn uống 2 bữa, chỉ dùng một bữa để tu lại không làm được hay sao?
Chẳng những ở đây họ ăn một bữa, mà tất cả mọi người đều tự rửa bát chén của mình, lau chùi nơi bàn của mình, nên cuối cùng ban trai soạn, nhà bếp cũng khỏe ru!!! Ngay cả phần bỏ rác có lẽ chúng tacũng cần phải học hỏi, vì họ có 3 thùng rác. Một thùng bỏ các loại vỏ trái cây, 1 thùng bỏ các loại giấy chùi miệng (dùng để tái chế), và 1 thùng dùng để bỏ thức ăn thừa.
Lời H.T khai thị:
Tu hành bí quyết số 1 là ăn ít để bớt dục niệm, do đây đỡ phiền não, Bồ-đề sanh. Thứ 2 là tập nhẫn nại. Những việc mình không thích nhưng chúng đã sai thì cứ nhẫn nại mà làm. Cố gắng làm cho đàng hoàng, chu đáo, với tất cả lương tâm. Lâu dần quen đi thành vui vẻ. Nếu cứ trốn tránh hoặc lười biếngphóng túng, qua loa cho xong chuyện. Như vậy lây lất tháng ngày, người này làm sao có tương lai?
Người tu cả thân lẫn tâm nên lấy chữ Nhẫn làm phương châm. Gặp thử thách, nghiến chặt răng chịu đựng, gió êm sóng lặng, qua cửa ải, tự nhiên bình an.
Chính Tuyên Hóa tôi đã dùng chữ Nhẫn làm pháp bảo để khắc phục mọi khó khăn: lạnh nóng, nắng mưa, đói khát, tôi chịu đựng hết. Quyết không kéo cờ trắng đầu hàng. Bị mắng coi như nghe nhạc. Bị đánh, bình tĩnh ôn hòa. Trời rét đến đâu, công phu khuya sớm không bao giờ trễ nải, bao giờ cũng lênchánh điện trước khóa lễ 5 phút.
Ngày thứ 5:
Thông thường khóa tu niệm Phật bắt đầu bằng khóa lễ tụng kinh A Di Đà. Đây là bản kinh rất quen thuộctrong truyền thống Phật giáo Trung Hoa và truyền thống Phật giáo Việt Nam mình. Sau bài kinh này là đến phần tán Phật: A Di Đà Phật thân kim sắc, Tướng hảo quang minh vô đẳng luân…. Âm điệu và nhạc lễ tiếng Hoa nghe thật du dương và thánh thoát. Sau đó đến phần niệm Phật là phần đi kinh hành, chậm rãi, khoan thai theo tiếng niệm.
Lúc này tôi mới thấy công dụng của các bục gỗ mà trong các chùa Trung Hoa họ thường hay xếp để mọi người quỳ lạy lên trên. Theo các bục gỗ này mà mọi người đi kinh hành vòng qua, uốn lại một cách đều đặng và nhịp nhàng. Chánh điện không lớn, chỉ chưa hơn 300 người và hơn 300 người chật cứng chánh điện nhưng chư Tăng, Ni và đại chúng vẫn kinh hành nhịp nhàng có thứ lớp, trật tự. Phía sau cùngchánh điện, tôi thoáng thấy 1 ban khoảng 3 người mặc đồng phục điều hành, sắp xếp việc di chuyểnkinh hành cho những Phật tử mới ở đoạn cuối.
Đầu tiên là chư Tăng đi trước, kế đó là các vị Sa di và các vị Phật tử Ưu bà tắc, khi gặp nơi giao tiếp, chúng Ưu bà tắc dùng lại để chúng Ni, Sư bà và các quý Ni sư, Sư cô đi tiếp theo sau chúng Sa Di. Khi chúng Sa Di Ni đi rồi thì mới tiếp đến lượt Phật tử Ưu bà tắc và cuối cùng là chúng Phật tử Ưu bà di, trong đó Phật tử đắp y thọ Bồ tát giới đi trước và người chưa thọ giới đi sau.
Về phép niệm Phật trong khóa tu gồm có 4 phép, đó là Đứng niệm Phật, kinh hành Niệm Phật, ngồi niệm Phật ra tiếng, và ngồi niệm Phật trong tâm. Về âm điệu niệm Phật thì có 4 cách: 1) Niệm Phật 6 chữ: Nam Mô A Di Đà Phật. 2) Niệm Phật 4 chữ chậm (thường): A Di Đà Phật. 3) Niệm Phật 4 chữ nhanh (4 âm: cao nhất, cao, trung bình, thấp). 4) Mặc niệm 4 chữ: A Di Đà Phật. Khóa niệm Phật buổi chiều 4 tiếng liên tụctừ 13.00 đến 17.00 và trong thời gian này, ai có nhu cầu thì có thể ra ngoài và trở vào lại sau đó. Trong khóa này thì đã có 2 lần niệm ngồi ra tiếng và 2 lần mặc niệm thì thời gian cũng đã chiếm 2 tiếng rồi.
H.T Tuyên Hóa khai thị: Bớt Nói Chuyện, Dụng Công Cho Nhiều.
Phàm là tham gia Phật Thất, hoặc Thiền-thất, hoặc Quán Âm Thất, hoặc Địa Tạng Thất đều tốt; các bạn chớ tuyên truyền với người ngoài Vạn Phật Thánh Thành là tốt như vậy như kia. Điều tốt của Vạn PhậtThánh Thành, chúng ta không hy vọng người ngoài biết. Vì sao vậy? Nếu bị kẻ khác biết thì bốn phương tám hướng người ta sẽ kéo đến Vạn Phật Thánh Thành, lúc đó Vạn Phật Thánh Thành không cách gì ứng tiếp được.
Vạn Phật Thánh Thành luôn im lặng làm việc, mọi người ai cũng chịu cực chịu khổ, chân thật tu hành. Do đó đối với bên ngoài, không nên chú trọng vào việc tuyên truyền quảng cáo. Nếu ở đây là nơi tu hànhtốt, các bạn có thể thường xuyên lui tới. Nếu các bạn cảm thấy không tốt thì không nên đi theo con đường này nữa, đó là tông chỉ nhất quán của Vạn Phật Thánh Thành.
Vạn Phật Thánh Thành có sáu đại tông chỉ để hướng dẫn việc tu, tức là: “Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không vọng ngữ.” Nếu bạn hiểu rõ sáu tông chỉ này một cách chân thật thì bạn sẽ không uổng đã tới Vạn Phật Thánh Thành. Có một số người rất háo danh, nhưng Vạn Phật Thánh Thành không cần những kẻ đó. Vì sao? Bởi Vạn Phật Thánh Thành muốn dứt trừ ngũ dục: “Tài, sắc, danh, thực, thùy.”
Ngũ dục này là gốc của địa ngục, nhưng đa số người đời ưa thích những thứ đó, nhưng Vạn Phật Thánh Thành lại muốn thoát ly những mối dây ràng buộc ấy. Vì vậy Vạn Phật Thánh Thành không muốn nổi danh, cũng không cầu cạnh lợi lộc gì, chỉ dựa vào công phu chân thật để hoằng dương Phật Pháp, tiếp nối Phật huệ mạng. Đó là tình huống đại khái của Vạn Phật Thánh Thành.
Ngày thứ 6:
Buổi chiều sau phần niệm Phật, cũng có phần cúng Thí thực cô hồn và sau đó đại chúng di chuyển qua phòng thờ Linh. Phòng thờ này khá rộng lớn (khoảng 400m2) và thờ hàng ngàn bài vị. Buổi tụng kinh A Di Đà và cầu siêu diễn ra rất long trọng và trang nghiêm, làm cho cõi âm được muôn phần lợi lạc.
Quả thật thời gian đầu chưa quen, tôi cũng cảm thấy mệt lả người khi tham dự những khóa tu suốt nhiều giờ đồng hồ, từ sáng đến tối như vậy. Có những lúc chân mỏi khủng khiếp như muốn ngã quỵ, lại cũng có những lúc chân ngồi xếp bằng nhiều giờ đớn đau dễ sợ, nhưng rồi do lực của đại chúng và lời dạy, khuyến tu của H.T mà cơn đau qua đi, những khổ nhọc tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi, cuối cùng rồi cũng xong. Tu hành phải là như vậy, ép và phạt thân này phải chịu mọi sự đớn đau và khổ nhọc thì nghiệp chướng mới tiêu trừ, phước đức, công đức mới tăng trưởng như hai câu kệ ngài thường nói:
“Hưởng phước thì hết phước,
Chịu khổ thì hết khổ.”
Thế rồi 7 ngày Phật thất cũng trôi qua mau, những ngày đầu khóa tu và cuối khóa tu, Phật tử đến tham dự đông nghẹt, kín cả trai đường, tôi nghĩ chắc khoảng 800 người có đến, nhưng khi tham dự buổi niệm Phật thì không đủ chỗ, nên đành chịu.
Buổi tối sau khi lễ hoàn tất, tôi phụ các chư Tăng khác dịch chuyển tất cả những bục gỗ lạy Phật vào mộtchánh điện bên cạnh, dọn chỗ cho buổi Thiền thất được tổ chức ngày mai trong chánh điện, dành cho bên Ni. Riêng bên Tăng thì chuyển về Thiền đường, thuộc tòa nhà của Tăng chúng.
Lão H.T Tuyên Hóa dạy như sau:
Tâm lắng, nước hiện trăng.
Ý định, trời không mây.
Dừng tâm, dứt niệm, giàu sang thật!
Đoạn tận tư dục, chân phước điền !
Vọng tưởng thể chất là si, tướng là tham sân. Vì tự thấy còn thiếu thốn mới khởi tâm tham. Tham bị trái ý phát sân, đưa đến tạo nghiệp và phiền não không cùng. Một khi ta nắm được ý này rồi thì loạn tưởng, tạp niệm bớt hẳn và dừng lại. Khi ấy ta mới thật có công đức, phước báu giàu sang của tự tánh, của an vui.
Ngài dạy tiếp:
“Một niệm không sanh, Phật tánh hiển hiện.
Sáu thức vừa động, tâm bị che mờ.”
Diệu minh bản hữu thông thiên triệt địa, viên mãn khắp mười phương vẫn là thể chất của chúng ta, vẫn là nòng cốt sự sống của chúng ta. Nhưng khi mê, chúng ta đang theo nghiệp báo, nhận thân máu mủtanh hôi làm thể sắc. Cả ngày tôi khổ tôi vui, nhận thọ ấm làm mình. Tôi yêu tôi ghét, nhận tưởng ấm làm mình. Tôi thiện tôi ác, nhận hành ấm làm mình. Tôi thấy tôi nghe, nhận thức ấm làm mình. Bị giam chặt trong ngục 5 ấm như thế, chỉ một lời nói một việc làm sơ hở, liền thành trâu, ngựa, vịt, gà v.v…
Ngày thứ 7:
Đả Phật thất, cũng có nghĩa là “khắc kỳ thủ chứng”, lấy thời hạn 7 ngày niệm Phật để chứng nhập “Vô niệm tự niệm” hoặc “niệm Phật tam muội”. Đường lối tu hành này do chư tổ hành trì và chứng nhập pháp môn tu, đã đưa những hành giả tu về Tịnh độ lên một tầng cao mới của sự chứng nhập Pháp tu Tịnh độ. Suốt trong thời gian này, nếu người nào thành tâm, thành ý, chuyên cần dụng công thì lực tu tập, thể nhập, chứng đạt rất dễ trông thấy.
Tôi cũng có dịp trải nghiệm một vài thời khóa Phật thất với người Phật tử Việt Nam, nhưng thật khó đưa chúng Phật tử vào quy củ, có lẽ chư Tăng cũng chưa thể nhập vào pháp tu, chưa dụng công đúng mức và tuân giữ quy củ nên cũng rất khó hướng người Phật tử đi vào quy củ. Khó nhất đối với các Phật tử Việt Nam là việc Tịnh khẩu, bởi vì người Việt Nam có tính hay “nói nhiều” thì phải; gặp mặt là nói, đối với người lạ thì làm quen để nói, mà đối với người quen thì lại càng nói nhiều hơn; chuyện gì cũng nói, đủ thứ chuyện thị phi trên trời, dưới đất cũng đem bàn tán ra nói. Dường như người ta không nói không chịu được hay sao ấy! hay là họ không ý thức được rằng, mình đang trong thời gian tu tập miên mật, Phật thất, tịnh khẩu. Bởi vậy tôi nghĩ rằng, nếu những khóa tu như vầy tổ chức cho người Phật tử Việt Nam tu tập, có lẽ phải lập ra 1 ban vài người, chuyên đi nhắc nhở Phật tử giữ sự im lặng, nhất tâm niệm Phật, thì mới đúng cách cho người Phật tử Việt Nam.
Một khi tu tập, tham dự các khóa tu Phật thất miên mật, tịnh khẩu mà không ý thức được việc này, để cho tâm buông lung, tán loạn, chẳng khởi được tâm thành ý, chuyên nhất, tha thiết hướng về việc hành trìtrong đi, đứng, ngồi, nằm thì có tham dự 10 khóa tu, 100 khóa tu như vậy thì cũng như là gãi ngứa phiền não, vọng tưởng chẳng tan, không có lợi lạc gì nhiều. Cho nên tu tập, dù là thiền hay Tịnh độ thì điều quan yếu hơn hết, vẫn là đưa tâm thức lao xao này về định, một niệm không khởi, ngoài câu: “Nam Mô A Di Đà Phật.” Được vậy thì dù là một khóa tu Phật thất, ta vẫn nắm lấy được yếu chỉ của đức Phật A di Đà.
H.T Tuyên Hóa khai thị.
Chúng ta làm gì trong Thiền-đường? Chính là rèn luyện "thân kim-cang bất hoại." Một khi đã là "thân kim-cang bất hoại," thân ta ắt hẳn chẳng còn biết khổ sở, chẳng còn biết đau đớn. Do đó nếu chúng ta cứ sợ khổ sợ đau thì không làm sao thành tựu được "thân kim-cang bất hoại." Thân bất hoại này là do rèn luyện mà thành. Và công việc chúng ta đang làm đây chính là rèn luyện "thân kim-cang bất hoại"-rèn luyện thân này cho được kiên cố, vĩnh viễn không hư hoại.
Nghe vậy, có vị nghĩ rằng: "Tôi tu hành không phải vì cái 'túi da thối' này. Rèn luyện nó thành bất hoại để làm gì chứ?" Không sai! Lý luận của quý vị đúng lắm; song, "thân kim-cang bất hoại" mà tôi nói đây không phải là "túi da thối" này. Vậy thì là gì? Là "thân kim cang bất hoại" của tự-tánh, cũng là Pháp-thân và huệ-mạng, mà cũng chính là "thân kim cang bất hoại" của tự-tánh nguyên thủy thanh tịnh.
Quý vị nên nhớ: Tu Đạo không phải là chuyện dễ. Hễ quý vị muốn tu Đạo thì có ma tới phá. Ma này không phải chỉ từ một nơi, mà từ bốn phương tám hướng kéo tới. Có thứ là ma bịnh, có thứ là ma phiền não; lại có thiên ma, nhân ma, quỷ ma và cả yêu ma nữa. Chúng ma kéo tới từ chỗ quý vị chẳng ngờ chẳng biết, làm cho Đạo-tâm của quý vị lung lay, khiến quý vị thối lui trên đường tu tập. Chúng dùng đủ cách để dụ dỗ, uy hiếp, đe dọa, khiến quý vị phải thối chuyển, mất Định-lực, rồi bỏ tu luôn.
Quý vị ngồi Thiền tới một trình độ kha khá thì sẽ có ma tới thử thách xem Đạo-lực của quý vị ra sao. Có khi chúng hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đẹp đẽ để dụ dỗ, -nếu không động tâm thì quý vị vượt qua được thử thách, nếu động tâm thì quý vị sẽ đọa lạc. Đây là điều vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ bước là ôm hận ngàn đời!
Khi cảnh giới hiện ra để thử thách kẻ tu hành, thì chúng ta cần phải xét xem cảnh giới ấy là giả hay thật. Dùng phương cách gì? Rất đơn giản: niệm "A Di Đà Phật," chuyên nhất không loạn, chẳng khởi vọng tưởng. Nếu cảnh giới ấy là giả thì nó sẽ từ từ biến mất. Nếu là cảnh giới thật thì càng niệm, cảnh ấy cànghiện ra rõ ràng. Ai ngồi Thiền không hiểu phương pháp này sẽ bị "Tẩu hỏa nhập ma" và Đạo-nghiệp sẽtiêu tan. Lại có kẻ tự cho rằng mình đã nhập ma-cảnh, do đó sẽ bỏ lỡ cơ hội khai ngộ.
Lúc còn trẻ tôi có nghe nói rằng: "Tu Đạo thì có ma." Tôi không tin, lại còn kiêu ngạo nói: "Ma gì tôi cũng không sợ! Tôi chẳng sợ bất kỳ thứ yêu ma quỷ quái nào!" Tôi cho rằng nói như thế cũng không sao, chẳng có gì đáng e ngại. Nào ngờ chẳng bao lâu quả có ma lại phá tôi. Ma gì? Ma bịnh! Lần ấy tôi bịnh nặng, hôn mê suốt bảy, tám ngày, chẳng hay biết gì cả. Bấy giờ mới biết là công phu tu hành chưa đủ nên không vượt qua được thử thách.
Yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo, tôi đều không sợ; chỉ sợ ma bịnh -không hàng phục được nó, mà cũng không chịu đựng nổi nó. Do đó, người tu Đạo chớ có khoe khoang, tự đắc, nói rằng mình chẳng sợ gì cả. Nếu quý vị tự mãn tự đắc thì rắc rối sẽ kéo tới ngay! Người tu Đạo cần phải thế nào? Cần phảikhiêm nhường, cẩn thận giống như đang đi trên bờ vực sâu, hay bước trên mặt băng mỏng vậy. Lúc nào cũng phải hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác, thì mới tu Đạo được. Nói tóm lại, hãy "nói ít, ngồi thiềnnhiều"; đó là căn bản của việc tu hành.
Người tu hành thành tựu được Đạo-nghiệp là nhờ ai trợ giúp? Chính là ma đấy! Cũng như muốn cho lưỡi dao được bén thì phải mài, người tu hành phát huy được ánh sáng trí huệ cũng là nhờ ma lại giúp. Do đó, quý vị hãy xem ma như là hộ pháp vậy. Cho nên có câu:
Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian
Kiến sự mê sự đọa trầm luân.
(Thấy việc, hiểu rõ: xuất thế gian,
Thấy việc, si mê: chịu đọa lạc.)
Nếu quý vị có khả năng giác ngộ, gặp cảnh liền hiểu thấu suốt, thì quý vị sẽ siêu xuất thế giới. Nếu quý vị không thể giác ngộ, gặp chuyện gì thì mê mờ chuyện ấy, ắt sẽ đọa địa ngục. Cho nên, người tu Đạokhông sợ gặp ma, chỉ sợ chẳng có Định-lực. Ma tới là giúp quý vị, thử thách quý vị, xem quý vị có công phu, có Định-lực hay không. Nếu quý vị có công phu, có Định-lực, thì bất luận là thứ ma gì đi nữa, chúng cũng không làm quý vị dao động tinh thần được.
Người tu hành lúc nào cũng phải treo mấy chữ "vấn đề sống chết" ngang mày, lúc nào cũng nghĩ cách để liễu sinh thoát tử. Quý vị nên biết rằng không có việc gì trọng yếu hơn "sinh tử sự đại”. Nếu chuyệnsinh tử chưa giải quyết, quý vị sẽ không biết vì sao mình sinh ra và chết rồi thì đi về đâu. Do đó, chưachân chính thông suốt "vấn đề sống chết" thì cần phải nỗ lực dụng công; bằng không thì sẽ vĩnh viễn bịvòng sinh tử luân hồi ràng buộc, không sao giải thoát được.
Trên đường Đạo, quý vị hãy nghĩ tới "vấn đề sống chết" này, xem chúng ma như là kẻ hộ pháp giúp mình tu hành. Ai chửi quý vị, đánh quý vị, chính là giúp đỡ quý vị tu hành. Ai nói thị phi về quý vị, gây khó khăn cho quý vị, cũng chính là để giúp quý vị tu hành. Nói tóm lại, khi nghịch cảnh kéo tới, quý vị cứthuận theo nó mà nhẫn chịu. Hãy coi chúng như là những bạn bè tới để trợ giúp cho quý vị thì phiền nãosẽ hết. Hễ hết phiền não thì trí huệ phát sinh. Có trí huệ chân chính thì tất cả ma quái không còn cách gì làm cho tâm quý vị dao động nữa.
Vì sao chúng ta bị cảnh giới của yêu ma làm cho dao động? Bởi vì trí huệ của chúng ta chưa viên mãn. Vì trí huệ không viên mãn nên gặp việc gì cũng sinh mê muội, không nhận thức được rõ ràng -ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều nẩy sinh, và phiền não cũng theo đó mà trỗi dậy. Nếu quả có trí huệ, thì không có những vấn đề ấy đâu!
KHÓA THIỀN THẤT.
Ngày thứ 1:
Pháp Thiền Thoại Đầu.
Thiền pháp nguyên bắt đầu từ Phật Thích Ca truyền lại cho ngài Ma Ha Ca Diếp, đến ngài A Nan rồi truyền tới Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền sang Trung Quốc. Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa, truyền cho Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Sau đó chia thành năm phái: Lâm Tế, Tào Động,Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng và Vân Môn.
Thời chư Tổ sư, các thoại đầu để hành giả tham thiền có rất nhiều, nhưng phổ thông nhất là các câuthoại đầu sau:
- 1. Khi chưa có trời đất, ta là cái gì ?
2. Muôn pháp về một, một về chổ nào ?
3. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao ?
4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ?
5. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?
Nhưng nay trong khóa thiền thất VPPT thì tham chữ “Ai” trong “niệm Phật là ai”. Khi tham thoại đầu, tâm trí thiền giả phải luôn luôn chú mục vào “Ai”, và khi âm “Ai” lâu dần, chìm mất theo hơi thở thì nghi tình “Ai” đó được khởi lên lại trong tâm. Như vậy Tham thiền theo cách này gọi là Tham thoại đầu. Tham tức là Nghi, Nghi tức là không hiểu, một việc gì đã hiểu rồi thì hết Nghi, hết Nghi tức là không có tham, cho nênTham thiền rất chú trọng cái Nghi, gọi là Nghi Tình. Muốn khởi lên cái Nghi Tình phải nhờ câu thoại đầu. Thế nào là thoại đầu? Theo Ngài Hư Vân giải thích rằng khi muốn nói một câu thoại thì phải khởi niệm rồi mới nói được, lúc chưa khởi niệm muốn nói gọi là Thoại đầu, nếu đã khởi niệm muốn nói, mặc dù chưa nói ra cũng đã là thoại vĩ rồi.
Như vậy khi tham câu: “niệm Phật là Ai?" không có nghĩa là niệm câu thoại đầu này. Đây là tham tức lànghiên cứu cái chữ “Ai”. Nếu cho rằng niệm Phật là tôi thì khi tôi chết rồi, thì cái “Tôi” đó có còn niệm Phậtđược không? Nếu không thì sao cho rằng “Tôi” niệm Phật. Cho nên phải hiểu rằng, người niệm Phật đó không phải là “Tôi”. Người niệm Phật đó không chết, nếu chết thì người niệm Phật không phải là tôi. Bởi vậy, chính tại nơi đây chúng ta phải tham ngẫm, tham không buông lơi. Cái “Nghi tình” cứ thế đề khởi liên tục trong tâm thức chúng ta. Như vậy suốt thời gian ngày đêm không ngưng nghỉ, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm công việc tay chân hay bằng trí óc; đi bộ hay đi xe, đang ăn cơm, đang đi cầu hay đang ngủ mê, đều phải tiếp tục hỏi tới hoài, không giây phút gián đoạn.
Chương trình khóa Thiền thất gồm các thời gian tu tập như sau:
Buổi sáng bắt đầu ngồi thiền từ 4.00 sáng đến 6.00 sáng. 3 khóa thiền sau đó từ 7.10 phút, mỗi khóa ngồi 1 tiếng và nghỉ 20 phút và như vậy kéo dài đến 11.50 và sau đó sắp hàng đi vào Trai đường. Tiếp đó từ 1.00 chiều đến 3.20 có 2 khóa thiền và buổi tối từ 6.00 đến 8.00 có khóa thiền ngồi 2 tiếng, 1 buổi khai thị thiền và vấn đáp 45 phút và sau đó khóa thiền 1 giờ, kết thúc vào lúc 10.20. Khóa tu thiền này chủ yếu tu pháp thiền Tổ sư, tham thoại đầu.
Lời H.T khai thị:
Nếu có cơ hội gặp khóa thiền, ta phải tham dự cho kỳ được. Dự một lần, thâu hoạch được một lần. Không ăn, có thể chịu đói, nhưng không tham gia thiền thất thì không được; không có áo có thể chịu lạnh, nhưng không tham gia thiền thất thì không được. Bởi các chư Phật mười phương đều phải đi quacon đường ấy mới thành Phật quả.
Có người sợ khổ, không dám tham gia thiền thất, đó là một quan niệm sai lầm. Trong quá khứ, chúng tachưa từng gặp những khóa thiền thất như thế này, thế cho nên chúng ta cứ sanh tử mãi trong vòng luân hồi. Nếu quả đã từng tham gia thiền thất, thì chắc chắn chúng ta không vọng tưởng, chắc chắn khôngđiên đảo; đối với ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thùy, tuyệt đối không tham luyến; coi ngũ dục như nămcon đường dẫn tới địa ngục vậy.
Ngồi tĩnh tọa tham thiền, khi hỏa hầu tới mức, thì sẽ có một loại định lực kim cương, khiến cho chúng takhông bị ngũ dục lay chuyển. Khi đó, tài chẳng ham, sắc chẳng ham, danh chẳng ham, ăn chẳng ham, ngủ chẳng ham, ngay trong mộng cũng không còn một ý niệm tham dục, trong mộng mà tâm cũng thanh tịnh, đó mới là cảnh giới sẽ đạt tới.
Rồi kế đó lại dấn bước thêm tu hành, hành giả sẽ đạt cảnh giới không mộng để thành tựu quả thánh. Người ta trong lúc tỉnh còn làm chủ được mình. Ngoại cảnh có thể đến dụ, nhưng lý trí kiên cường, định lực sung túc thì ngoại cảnh cũng không thể lay chuyển. Tuy nhiên ở trong mộng thì không làm chủ được. Thấy quỷ thì sợ quỷ, thấy hổ sợ hổ, thấy tiền tài ham tiền tài, thấy sắc ham sắc, tức là bị ngoại cảnh mê hoặc.
Thản hoặc, trong mộng có thể làm chủ được, nhưng trong bệnh tật thì lại không được. Hoặc trong khi bệnh tật làm chủ được, đến khi chết lại làm chủ chẳng được. Muốn làm chủ khi sống cũng như khi chết, tất phải tham thiền. Dụng công như vậy, một phần công phu sẽ mang lại một phần thâu hoạch, mười phần công phu sẽ có mười phần thâu hoạch. Có câu nói: "Ông tu ông chứng, bà tu bà chứng," ai tu người ấy chứng, chẳng tu thì chẳng chứng. Giá trị tu hành phải dựa vào chính công phu chân thật của mình, có như vậy thì mới đi lại tự do, tâm thể thanh thản, bởi vì trong thế gian không hề có chuyện khôngcông lao mà được thâu hoạch.
Ngày thứ 2:
Chúng ta có thể thấy rõ rằng, mục đích của tu Tổ Sư Thiền chính là làm ngưng lại dòng tâm ý thức(thường lưu) trôi chảy liên tục trong tâm con người từ thời vô thủy. Chư Tổ sư dùng cơ xảo, phương tiệnlinh hoạt để làm bức phá bức màn vô minh từ thời vô thủy, chấm dứt tất cả vô minh, thấu suốt giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp chất.
Bản thể chân tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất giác, vô minh sinh khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, thành ra có ta, có người rồi từ đó khởi niệm đối đãi, dòng ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng dày đặc, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi tạo nghiệp vay trả trả vay. Ngày nay tu tập tham thiền, khai ngộ bản tâm chính là quay trở về chân tâm thanh tịnh vốn có của mình vậy.
Ở trong buổi giảng: “Không trừ vọng tưởng thì Chẳng thể khai ngộ”, ngài dạy:
Mục đích của tham Thiền là để khai mở trí tuệ, cầu giải thoát. Chúng ta phải chuyên tâm trì chí tham câu: Ai là người niệm Phật?” Khi tham tới cực điểm, quý vị sẽ quên bẵng tất cả mọi vọng tưởng –quên ăn uống, phục sức, ngủ nghỉ, và thậm chí quên cả đại, tiểu tiện! Lúc bấy giờ, “gió thổi không lọt, mưa rơi không thấm,” quý vị chỉ miên mật tham chữ “Ai” mà thôi! Một niệm duy nhất này kiên cố như Kim Cang, không gì phá hoại nổi. Bấy giờ cũng là lúc quý vị thể nghiệm được trạng thái“trong không có thân tâm, ngoài chẳng có thế giới” –mình cùng vũ trụ đã hợp thành một thể.
Khi tâm tư trụ vào câu hỏi này thì ta đánh bạt hết thảy mọi vọng tưởng thường có, thường khởi niệm trong đầu, lâu dần đến công phu miên mật, lúc đó nghĩa là trong tâm ta chỉ còn lại một chữ “Ai”. “Ai” cũng làvọng tưởng trong đầu, nhưng vọng tưởng này sẽ hàng phục, dứt sạch tất cả các vọng tưởng khác, để rồi ngày đêm 24 giờ không giây phút gián đoạn công phu tham “Ai” đây luyện được thành khối. Ngài dạy:“Tham miết sẽ tự nhiên khai ngộ, tham cho đến lúc “sơn cùng thủy tận”, tự nhiên sẽ có tin vui, cảnh giới “hoa tươi dưới liễu” sẽ xuất hiện trước mắt”. Công phu tham thiền sẽ dẫn tới chánh định, chánh thọ, cũng gọi là Tam muội. Nếu như chứng được thì đây là cảnh giới “như như bất động, liễu liễu thường minh”. Quả thật là một phen khổ công, tinh tấn vượt mực, trong tâm không một vọng tưởng,cho đến lúc “một niệm chẳng sanh toàn thể hiện”, cuối cùng thấy được “bổn lai diện mục, bổn địa phong quang”.
H.T Khai thị:
Thiền là cách điều hòa thân và tâm. “Điều thân” tức là làm cho thân không loạn động. “Điều tâm” là làm cho tâm không khởi vọng tưởng, thường thường thanh tịnh. Hễ tâm thanh tịnh thì tận hư không và khắp cả Pháp giới, mọi thứ đều nằm trong tự tánh. Tự tánh bao hàm mọi thứ, dung nạp mọi thứ, và cũng chính là Phật tánh xưa nay của chúng ta.
Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này tiếp đời kia, chúng ta bị những thứ kiến giải sai lầm, bị mê nhiễm quá sâu dầy nên không dễ dàng minh tâm kiến tánh. Bởi vì lý do ấy, chúng ta mới “đả thiền thất”. “Đả thất” gọi là “khắc kỳ thủ chứng” tức là đặt ra một thời gian nhất định, một quá trình nhất định để dụng công, cầuđạt được sự thấu triệt sáng suốt.
Một khi quý vị tìm lại được thật tánh của mình, một niệm linh quang có thể triệt chiếu trời đất, quý vị cùngmười phương ba đời chư Phật chẳng hề khác biệt. Vì sao chúng ta không thể chứng đắc Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông? Vì kẻ phàm phu chúng ta vọng tưởng quá nhiều, do đó trí huệ bị che khuất, chẳng có quang minh thành ra vô minh. Cả ngày cứ khởi mê hoặc, tạo nghiệp, nên thọ nhận qua báođau khổ trong vòng sinh tử.”
Nếu quý vị muốn chân chính thấu triệt, thông suốt thì trước hết quý vị phải học làm như không biết gì cả. Trong thiền đường, lúc dụng công, quý vị dùng phương pháp gì?
Phương pháp “không biết” –trên không biết có trời, dưới không biết có đất, ở giữa không biết có người. Từ sáng đến tối, quý vị làm gì? Không biết! Ăn thức gì? Không biết! Mặc áo gì? Không biết!
Cũng như đang hôn trầm, cái gì cũng không biết. Có câu:
Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo,
Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.
Nghĩa là: Nếu quý vị làm sao thành như người ngu đần nhất thế giới, thì lúc ấy mới sinh ra sự xảo diệu. Bấy giờ thì:
Nhất thông, nhất thiết thông,
Nhất liễu, nhất thiết liễu,
Nhất ngộ, nhất thiết ngộ.
Nghĩa là:
Thông suốt một, thông suốt hết thảy.
Tỏ rõ một, tỏ rõ hết thảy,
Giác ngộ một, giác ngộ hết thảy.
Lúc ấy quý vị sẽ thông suốt mọi sự và triệt để khai ngộ. Quý vị đã học được gì? Cũng không biết, hệt như người khờ vậy. Song ngay lúc ấy, việc kỳ diệu mới hiện ra.
Ngày thứ 3:
Thiền đường nằm trong khu nhà cũ thuộc khu Tăng xá, gồm hàng trăm phòng nhỏ khác nhau và Thiền đường là phòng lớn nhất, khoảng 600m2. Chính giữa là khám thờ Phật bọc kín, có mái che trên, và chung quanh phòng theo hình chữ U thì có các khám ngồi thiền khoảng 1m, cách ngăn với nhau bằng màn vải, và các thiền sinh thì ngồi trong đây. Một số chư tăng thì ngồi bên ngoài, ai muốn vào trong khám này ngồi cũng được. Tên các thiền sinh được ghi rõ mỗi nơi ngồi, để điểm danh.
Mỗi sáng sớm trước 4 giờ tăng chúng và Phật tử đã tụ tập và đi kinh hành chung quanh Thiền đường. Sau đó tiếng mõ vang lên và mọi người bắt đầu chạy. (Sự tích của việc chạy thiền (bão hương) được H.T kể lại bên dưới. Khoảng hơn 1 vòng thì tiếng mõ vang lên và mọi người dừng lại, rồi đi vào chỗ thiền tọacủa mình mà ngồi. Buổi ngồi thiền đầu tiên trong 1 ngày bắt đầu từ 4.00am đến 6.00am.
Đã là ngày thứ 2 mà tôi vẫn chưa quen với thế ngồi. Khoảng nữa tiếng sau là tôi bắt đầu cảm thấy đau nhức nơi chân ghê gớm. Có lẽ anh tôi nói đúng, do vì từ trường nơi đây rất thanh tịnh nên khi ngồi kiết giàở đây rất mau đau chân. Qua ngày thứ nhất và ngày thứ 2 tôi mới cảm nhận được điều đó. Bình thườngở Thái, tôi có thể ngồi đến hơn tiếng mới cảm thấy đau nhức toàn thân. Tuy nhiên khi ngồi nơi đây thì chỉ khoảng 25-30 phút là tôi cảm thấy đau không thể chịu được. Thật là quái lạ!
Ban đầu đau quá, không chịu được tôi bỏ chân xuống và ngồi xếp bán già. Nhưng những lần sau đó, khi hiểu ra được sự quan trọng và cần thiết của việc chịu đựng cơn đau và làm quen với cơn đau, tôi cố gắng chịu đựng, mím môi, nghiến răng, khom người xuống phía trước, và cố gắng chịu đựng cho đến khi không thể chịu đựng được nữa. Quả là một sự chiến đấu kinh hoàng đối với cái đau của xác thân và cái đụng với bản ngã. Từ đó, vọng tưởng tôi khởi lên một bài kệ về đau như vầy:
Mới đầu đau, thấu xương đau, đáng sợ đau,
Nhẫn chịu đau, tập quen đau, coi thường đau,
Ngày ngày đau, kết thân đau, thú vị đau,
Nghiệm ra đau, đau, đau, đau, có gì đau!
Trải qua bao kiếp sống, trải qua suốt mấy mươi năm trong cuộc đời, dường như tôi chưa từng dám làm trái ý xác thân này bao giờ. Thay vào đó chỉ cung phụng và nuông chìu cho thân, từ ăn uống tìm những món ngon, vị ngọt cho thân, cho đến áo quần, y phục hoặc làm cho thân được thoải mái, sung sướng, khoái lạc. Nay thì làm cho thân khổ nhọc, đau đớn xé ruột buốt xương. Tôi không thể diễn tả hết cái đau này, nhưng quả thật là nó thấm thía làm sao trên bước đường tu hành. Khi học Phật, tụng kinh, lễ lạyngười tu hành đã thấy khó và mệt nhọc rồi, nhưng khi ngồi thiền và vượt qua cửa ải đau đớn này, có lẽ còn khó hơn rất nhiều lần. Có lẽ vì vậy mà ít người dám hướng về sự tu thiền chăng?
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Việc tọa Thiền quả thật rất là quý báu. Không biết phút giây nào quý vị sẽ khai ngộ, do đó phải tranh thủtừng phút từng giây, không để trôi qua giây phút nào. Nếu đi vệ sinh thì xong rồi phải lập tức quay vềThiền-đường, tiếp tục ngồi. Tới nhà ăn, ăn uống xong cũng tức khắc quay về Thiền-đường; hoặc uống xong trà cũng lập tức quay về Thiền-đường. Nói tóm lại, quý vị chớ bỏ qua cơ hội khai ngộ vì không biết lúc nào sẽ là lúc khai ngộ. Nói cách khác, đi nhiễu, chạy hay ngồi Thiền đều là cơ hội tốt để khai ngộ, chớ để vuột mất.
Vào đời nhà Thanh, có lần Hoàng-đế Ung Chính mời vị Phươngtrượng Chùa Cao Mân là Thiên Huệ Thiền-sư tới Bắc-kinh để đàm luận Thiền-lý. Hoàng đế hỏi Ngài có biết tông chỉ của Ngọc Lâm Quốc-sư chăng, thì Ngài không trả lời được. Hoàng đế bèn ra lệnh cho Ngài phải ở lại Thiền-đường và trong vòngbảy ngày phải tìm cho ra đáp án, nếu không sẽ bị chém đầu.
Suốt sáu ngày, Ngài tìm không ra đáp án. Đến ngày cuối cùng vì gấp rút khẩn trương quá nên Ngài chạy vòng vòng trong Thiền-đường. Chạy tới chạy lui làm cho Ngài choáng váng mặt mày đâm đầu vào cột trụ, đầu u lên một cục! Ngay lúc ấy tâm trí đột nhiên sáng suốt, Ngài tìm ra được đáp án. Ngài bèn đến gặp Hoàng đế. Vua Ung Chính biết là Ngài đã lãnh hội được tông chỉ của Ngọc Lâm Quốc-sư rồi. Từ ấy về sau mới có lệ chạy vòng (tức bão hương) trong Thiền-đường.
Thiền-đường có hành-hương, bão-hương, tọa-hương và tham thoại đầu. Hành-hương tức là bước mau. Bão-hương là chạy chầm chậm. Tọa-hương là ngồi Thiền. Tham thoại đầu là nghiền ngẫm về một vấn đề. Như tham câu "Ai Niệm Phật?" Nhất tâm nhất ý tham cứu câu đó, tham cứu đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhất trần bất nhiễm (chẳng một mảy bụi nào làm mình vẩn đục) thì đó là lúc khai ngộ vậy. Đó là những phương pháp dùng để ngăn ngừa, đình chỉ vọng tưởng. Không có vọng tưởng thì mới có giác ngộ. Mục đích tọa Thiền là để khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì mới có trí huệ siêu phàm.
Bởi vậy, chư Tổ nghiên cứu phương pháp "dĩ độc công độc," dùng việc tham thoại đầu để khống chếvọng tưởng, tức là dùng một vấn đề để khống chế tất cả các vấn đề khác. Tham thoại đầu gì? Tham câu "Niệm Phật Là Ai?" Khi nào quý vị tìm ra "ai," hiểu biết rốt ráo "Ai Niệm Phật?" thì lúc ấy mới chân chínhthấu suốt. Thấu suốt gì? Thấu rõ phải xa rời mọi thứ điên đảo, thị phi. Tâm Kinh dạy rằng: "Xa rời điên đảo mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn."
Quá trình này đòi hỏi phải trải qua một phen khổ công mới thành tựu nổi. Nếu tôi nói quá nhiều sẽ làmgián đoạn công phu của quý vị. Tốt hơn hết là quý vị hãy theo qui củ luật lệ, chân thật dụng công tu hành. Có một điều quý vị cần hiểu rõ là trong "Tam Tự Kinh" có câu: "Quý dĩ chuyên." (Quý ở sự chuyên cần.)
Bất luận làm việc gì, nếu có thể chuyên tâm nhất ý, thì kết cuộc sẽ thành công. Cũng vậy, khi tham thoại đầu, chỉ nghĩ tới một câu -sáng nghĩ, chiều nghĩ, ăn nghĩ, ngủ cũng nghĩ, đi cũng nghĩ, ngồi cũng nghĩ về câu đó; nếu chưa nghiền ngẫm tới chỗ "biển cạn, đá nứt" thì chẳng bỏ cuộc. Nói cách khác, "chưa khai ngộ, thì chưa ngừng nghỉ." Chỉ nghĩ đến một vấn đề mới là chân lý, còn suy nghĩ nhiều vấn đề quá thì làvọng tưởng. Có hai câu thơ thật đầy ý nghĩa:
“Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du,
Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.
(Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,
Còn hơn xây hằng sa tháp bảy báu.)
Đó là hình dung công đức ngồi Thiền: nếu người ngồi Thiền có thể tịnh tâm chỉ trong một khoảnh thời gian ngắn ngủi thôi thì công đức ấy so với công đức xây hằng hà sa số tháp bảy báu còn nhiều hơn gấp bội. Bởi vì tạo ra vô số tháp bất quá cũng để cúng dường Xá-lợi của Phật; song nếu tĩnh tọa chỉ trong giây lát, có thể tạo ra chânthân của Phật. Do vậy, tĩnh tọa chỉ một sát-na mà hơn xây nhiều tháp bảy báu.
Nếu tĩnh tọa trong khoảnh khắc mà công đức lớn như vậy, thì hàng ngày tĩnh tọa, công đức càng khó kể xiết. Nếu trong một thời gian ngắn ngủi quý vị chẳng khởi vọng tưởng, tâm được thanh tịnh, thì dần dà quý vị sẽ trở nên "trạm nhiên thường tịch."
Ngày thứ 4:
Chùa Vạn Phật được xem là nơi đào tạo thiện tri thức cho thế gian, nên thường xuyên tổ chức nhữngthiền thất, những khóa nhập thất chuyên niệm Phật cho tứ chúng. Nơi đây còn được gọi là nơi đãi vàng, nơi sàng lọc những con người muốn thành Phật, thành bậc thánh nhân, nên lò luyện nơi đây thật gắt gao. Không qua nổi lò luyện kim nơi đây thì thật khó có thể trở thành vàng tốt được.
Khi vào và sống ở đây một thời gian và trải qua các chuẩn mực sinh hoạt và huấn luyện nơi này, tôi cócảm giác như đây là một trường đào tạo quân sự đúng nghĩa. Họ sống theo kỷ luật, nội quy một cáchnghiêm khắc đến lạnh lùng. Tình cảm dường như không có mặt trong các sinh hoạt giao tiếp, tương quan lẫn nhau trong đời sống. Mỗi người đều phải sống riêng biệt với riêng thế giới của mình, dành trọn đời sống vào sự suy nghiệm và kiếm tìm giải thoát; không ai được xâm phạm, ngăn trở hoặc làm phiền đến sự tu học của người khác, và ai ai cũng chấp hành các quy củ, chuẩn mực trong tòng lâm một cách nghiêm túc nhất.
Với đường hướng giáo dục khắt khe như vậy, tôi tin rằng Vạn Phật Thánh Thành đã thành công về mặthình ảnh, danh tiếng trên bước đường hoằng pháp, mang Phật giáo vào xã hội Hoa kỳ. Tuy nhiên do không công khai quảng bá và mở rộng mà chỉ để tùy duyên, nên pháp môn tu này của Vạn Phật Thánh Thành vẫn chưa được truyền bá đến những nơi khác ở Hoa Kỳ và trên thế giới.
H.T Tuyên Hóa dạy:
Tại đạo tràng, tệ hại nhất là không chịu tu hành, đáng quý nhất là sự nghiêm chỉnh tu tập. Ai không tu thì tương lai kẻ đó bị đi xuống; ai tu hành thì tương lai sẽ đi lên. Người ta nói: "Quân tử thượng đạt, tiểu nhânhạ đạt," nên chúng ta tu tập ở đạo tràng, phải từng giờ từng khắc thận trọng, phải dẹp bỏ những ý nghĩtà tri tà kiến giống như những hạng đầu cơ chỉ biết mánh lới để an thân.
Tu hành phải dựa vào công phu thật sự của mình, thì mới có giá trị chân thật, tức là khai mở trí huệ. Nếucông phu chẳng chân thật, thì chẳng có gì là thành tựu được, bất kể kẻ đó là ai. Tại đạo tràng, ai giải đãi, ai tinh tấn, người tinh mắt trông thấy hết. Người nào giải đãi sẽ không có hy vọng gì thành tựu, bởi lẽ người đó không để tâm vào tu hành.
Ngày thứ 5:
Thời gian tham dự khóa Thiền thất tuy ngắn, nhưng cho tôi nhiều kinh nghiệm thực tế quý báu về một dòng phái Thiền thoại đầu còn tinh nguyên, được truyền thừa và có sự chứng đắc của những bậc tổ sư, những bậc được xem như Thánh tăng trong thời hiện đại. Điều này gia cố thêm niềm tin về sự tu hànhtrong tôi, về con đường giải thoát mà suốt gần ba mươi năm qua tôi loanh quanh khát ngưỡng tìm cầu.Phật pháp có vô lượng pháp môn đưa đến khai ngộ và giải thoát, chấm dứt luân hồi sanh tử, nhưngpháp môn nào tạo cho ta niềm tin bất thối, tha thiết tu hành, tinh tấn dụng công, sớm chứng nhập vào pháp tu thì pháp môn ấy thù thắng nhất. Như vậy qua khóa tu này, tôi thấy rằng mình quả thực đã có được cơ duyên hy hữu đi tham bái và thể nhập được một pháp tu kỳ đặc là Thiền pháp thoại đầu, một pháp tu còn nguyên sơ, truyền thừa trực tiếp từ đức Phật Thích Ca đến chư Tổ sư Trung Hoa không bịgián đoạn, cho đến ngày nay khai ngộ cho nhiều hành giả và các bậc đạo sư cận đại, trong đó có Hòa thượng Hư Vân tổ sư của 5 tông phái Phật giáo Trung hoa và sau ấn chứng cho Hòa thượng Tuyên Hóanhư là tổ sư đời thứ 9 dòng thiền phái Quy Ngưỡng.
Trong thiền thất, tôi chứng kiến một số hành giả Phật tử Việt Nam tu trong VPTT khoảng 7 năm và cócông phu hành thiền rất thâm hậu. Các vị này có thể ngồi thiền nhập định từ lúc 4 giờ sáng đến giờ ăn trưa sau 7 tiếng, hoặc có lúc ngồi cả ngày. Một vị thầy trẻ từ Thái Lan qua được hơn 3 năm nay cũng thường khi nhập định một lúc 7 giờ từ sáng sớm đến trưa. Thân thể thầy ấy khi nhập định thật là đoan nghiêm, chánh tọa. Khi vào định thông thường thân thể người hành thiền lúc ấy tự dưng bỗng được sắp xếp lại trong một tư thế cố định, lưng thẳng hai tay xếp lại, hai ngón cái nối liền nhau hình vòm nhẹ nhàng, trang nghiêm. Còn vị thầy trụ trì và một số Tăng/Ni khác trong VPTT thì có thể nhập thiền lên đến 36 ngày trong một lần. Đây là điều phi thường mà tôi chỉ có thể thấy và thật sự được biết khi đến VPTT.
Để có thể nhập định, thông thường chúng ta cần phải ngồi kiết già. Tư thế ngồi này gọi là Hàng ma tọa,Kim cang tọa hay Liên hoa tọa. Ngài dạy: “Tư thế này có thể giúp tiêu trừ nghiệp chướng trong vô lượng kiếp, khiến liễu sanh thoát tử và tạo được vô lượng công đức. Khi ngồi xong, ta hãy điều chỉnh thân thể -mắt nhìn xuống chót mũi, từ mũi nhìn xuống miệng, từ miệng nhìn xuống tâm. Đó là bí quyết để chế phục vọng tưởng, sau đó mới điều hòa hơi thở -đừng mau, đừng chậm- hãy thở một cách tự nhiên. Lúc này ta mới tham ngẫm câu ‘Ai là kẻ niệm Phật?” Trải qua một thời gian dài, việctham thiền sẽ có tác dụng.”
H.T Tuyên Hóa dạy:
Tại Vạn Phật Thành, bất luận là người xuất gia hay tại gia, nếu không có chuyện cần thì đừng tới phòng ngủ của kẻ khác. Bởi vì bạn đến phòng tôi nói chuyện này chuyện nọ, rồi tôi tới phòng bạn nói chuyện thị phi thế nọ thế kia, thì sẽ lãng phí thời giờ, vô ích. Bạn không tu hành thì cũng được, nhưng bạn không thể chướng ngại kẻ khác tu hành! Chướng ngại người tu hành thì tương lai sẽ bị đọa địa ngục Vô Gián,vĩnh viễn chẳng thể khôi phục được thân người! Đã phát tâm tu Đạo thì mình cần phải giữ tâm chuyên nhất, đặc biệt tiếc nuối thời gian, cho nên nói rằng:
"Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm."
(Một phút thời gian, một tấc vàng,
Vàng sao mua đặng phút thời gian?)
Lại nói rằng:
"Thất lạc thốn kim dung dị đắc,
Quang âm quá khứ nan tái tầm."
(Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại,
Thời gian qua mất khó lòng tìm!)
Các vị cần phải nuối tiếc thời gian! Phàm là người tu Đạo thì phải tranh thủ thời gian, đừng để lãng phí. Biết đâu trong một phút nào, một giây nào đó, các vị có thể có cơ hội khai ngộ! Ở Vạn Phật Thành, trong lúc ăn cơm không được nói chuyện. Trước khi ăn, đại chúng niệm bài tụng cúng dường có câu: "Tán tâm tạp thoại, Tín thí nan tiêu." Nghĩa là nếu tâm tán loạn, nói tạp nhạp, thì sẽ khiến cho đồ cúng dường củathí chủ khó tiêu hóa đặng. Tuy niệm như vậy nhưng tại sao mình không giữ quy củ?
Người ta nói rằng:
"Vô quy củ bất thành phương viên."
(Không có quy củ thì chẳng thành nề nếp được.)
Không giữ quy củ thì làm sao có trí huệ? Làm sao khai ngộ được? Cho nên Đức Khổng Tử từng nói rằng: "Thực bất ngôn, Tẩm bất ngữ." (Ăn thì không nói, Ngủ thì không mớ.) Ở trong Trai Đường, khi ăn không nên nói năng ồn ào, chỉ nên chăm chú ăn; như thế thì không những hợp với quy củ mà còn hợp vệ sinh nữa. Vì ăn từ từ, nhai kỹ lưỡng thì dễ tiêu hóa, có lợi cho sức khoẻ!
Ngày thứ 6:
Bậc cổ đức, chư Tổ sư có dạy, Thiền đường là nơi tuyển Phật, vì chính nơi đây tích tụ phước điền, công đức đệ nhất, nên các ngài nói:
Chỉ trong giây lát ngồi tĩnh tọa,
Hơn xây hằng sa tháp bảy báu.
Bởi vì việc xây dựng chùa tháp chỉ là công đức hình tướng, hữu lậu, vì chùa tháp lâu ngày cũng sẽ bịbiến hoại, chịu sự vô thường theo thời gian. Nên tronh kinh Kim Cang có câu:
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai. Nghĩa là:Phàm có tướng đều là hư vọng, Nếu thấy mọi tướng không tướng, tức thấy Như Lai.”
Ngồi tĩnh tọa thiền định có thể soi chiếu và thấy lại tự tánh Tam bảo, kiến tánh, giác ngộ bổn tâm và đây là công đức Vô lậu tối thượng, công đức vô tướng. Công đức này có giá trị gấp muôn vạn lần hơn công đức hữu tướng.
Ngồi tư thế Hàng ma thời gian đầu rất đau và chính điều này làm cho người tu e ngại. Bởi vì ngồi thiềntheo thế bán già thì chân không đau lắm, nhưng nếu phải ngồi kiết già từ giờ này sang giờ khác thì cơn đau sẽ kéo đến và hành hạ chúng ta dễ sợ. Trong thời gian từ nửa giờ đến 1 giờ đồng hồ đầu tiên, chúng ta sẽ chịu cơn đau xé thịt, xé gan và lúc đó chúng ta theo phản xạ khi đau sẽ để chân xuống. Nhưng nếuvậy thì chúng ta sẽ không có sự tiến bộ trên con đường tu thiền. Thế nên đúng theo pháp của H.T Tuyên Hóa dạy, chúng ta sẽ cố gắng chịu đau để cho qua cơn đau này. Ngài dạy:
Tham thiền phải có đủ nhẫn nại vì nhẫn nại là vốn của sự khai ngộ. Tỷ như người làm ăn buôn bán phải có vốn liếng thì việc kinh doanh mới phát triển và được lời nhiều. Chúng ta tham thiền phải khắc phục được cửa đau; vượt qua được cửa đau rồi thì con đường sáng sủa rộng mở, dẫn thẳng đến cảnh giớiminh tâm kiến tánh. Khi chưa qua được cửa ải này thì vẫn còn trong tình trạng “sơn cùng thủy tận, đường tắc ngẽn”, vượt qua được thì cảnh giới “dưới liễu hoa tươi, lại một thôn”. Nên có câu rằng:
Không xả được tử, không đổi được sanh
Không xả được giả, không thành được chân,
Không xả được khổ, không đạt được lạc.
Chúng ta tham thiền phải có một tinh thần như vậy mới có hy vọng thành không. Phải phá được cửa gian nan khốn khổ mới thấy được cảnh giới thực tại.
Nắm rõ bí quyết như vậy, khi tọa thiền và những cơn đau kéo đến, tôi mím chặt môi, đôi khi nghiến răng để chịu đựng chứ không bỏ chân xuống, có đôi lúc chịu hết nổi tôi cũng phải bỏ xuống nhưng đa phần là tôi có thể chịu đựng được những cơn đau này. Hoặc có lúc tôi làm vài động tác cử thân, nghiêng qua lại hoặc khom mình tới trước để giảm bớt cơn đau và nhẫn nhịn kéo dài từng giây cho đến hết giờ ngồi thiền.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Đời Người Như Giấc Mộng, Hãy Thức Tỉnh! Tại thế giới này con người lại buông cái chân thật để nắm giữ cái giả dối, do đó đời đời kiếp kiếp quay lưng với sự giác ngộ để hoà hợp với bụi trần, túy sanh mộng tử. Túy sanh: có nghĩa rằng trong lúc sống thì như kẻ uống rượu say, không biết mình từ đâu sanh về đây. Mộng tử: có nghĩa rằng đến lúc chết thì như kẻ đang nằm mộng, không biết chết sẽ về đâu. Ai ai cũng sống trong mộng. Lấy cái giả mà cho là thật, ham danh ham lợi, lòng tham không bao giờ ngừng dứt.
Ở trong mộng thì bạn thấy mình làm quan, hoặc phát tài, hoặc có địa vị, quyền lợi, danh dự, hoặc có vợ đẹp thiếp xinh, con cái đầy nhà, vinh hoa phú quý, hưởng thọ không hết. Giả như trong lúc mộng ấy mà có người nói với bạn rằng: "Ông ơi! đây chỉ là hư vọng thôi, không phải thật đâu," thì bạn sẽ chẳng bao giờ tin. Chờ đến khi bạn tỉnh dậy rồi thì chẳng ai nói với bạn là bạn đã nằm mộng, bạn cũng biết rõ là mình vừa trải qua một giấc chiêm bao.
Đêm qua nằm mộng thấy đậu trạng nguyên, làm tể tướng, làm hoàng đế, thành thần tiên, hạnh phúc vô cùng. Ngày hôm nay tỉnh lại: "Ôi! Tất cả chỉ là một trường xuân mộng!" (xuân mộng tức là giấc mộng rất ngắn ngủi). Đó là sự tỉnh thức. Nếu không tỉnh mà chọn mộng là thật, thì sẽ tham luyến, không buông bỏ,chấp trước sự mê mờ, và chẳng bao giờ được giác ngộ. Bây giờ mình chính là đang chiêm bao giữa ban ngày mà chưa thức tỉnh, do đó sống một cách hồ đồ, rồi cũng hồ đồ mà chết đi. Sanh ra đây là từ đâu tới? Chết rồi mình sẽ đi đâu? Không biết! Cả một đời chẳng bao giờ tỉnh. Các vị hãy nghĩ xem, như vậy thì có ý nghĩa gì? Có gì mình phải lưu luyến? Có gì đáng để mình không buông bỏ tất cả?
Cả đời mình đều bị sợi dây tam độc và ngũ dục trói buộc vô cùng chặt chẽ đến nổi không có tự do đểchuyển hóa bản thân, thì đừng nói chi đến chuyện giải thoát. Do đó bạn phải phát tâm xuất gia tu đạo,dụng công ngồi thiền, nổ lực lạy Phật, tức là mình tự cởi mở sợi dây tam độc và ngũ dục, cuối cùng sẽ có một ngày sẽ được hoàn toàn giải thoát. Lúc ấy mình sẽ thức tỉnh, quay đầu nhìn lại những điều mình đã làm trong quá khứ đều hoàn toàn như ảo mộng, tất cả đều chẳng phải là chân lý.
Nay thức tỉnh rồi mình mới thoát ra khỏi vòng tam giới, không còn bị hạn chế trong sanh tử, tự do muốn sanh thì sanh, muốn chết thì chết, tự do tới và đi theo ý mình. Đó mới là chơn chính giải thoát, đó là: "Đại mộng sơ tỉnh" vậy.
Thói thường chúng ta cứ giữ chặt cái hư giả dối trá mà quên mất cái chân thật. Thế nào là cái hư giả dối trá? Chính là sự khoái lạc sung sướng của ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Thế nào là cái chân thật? Tức là sự sung sướng của Niết-bàn ở trong bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Song le con người rất quái lạ, điều chân thật mất đi thì không sợ, nhưng khi điều giả dối mất đi thì lại sợ hãi vô cùng. Vì sao vậy? Bởi vì người đời ai cũng nhận giặc làm con, bỏ gốc chạy theo ngọn, lấy cái giả cho là thật, không thức tỉnh, do đó vẫn còn trong mộng, tham luyến cảnh giới của giấc chiêm bao.
Bởi do nhân duyên mình dấy khởi sự mê mờ, tạo ra ác nghiệp rồi thọ sự báo ứng, giống như một hạt bụibay lượn trên không trung, không tự làm chủ mình được. Hạt bụi ấy cứ tùy theo nghiệp lực rồi luân chuyển trong lục đạo luân hồi không lúc nào ngừng nghỉ. Cho nên nói rằng:
"Đả bất phá danh lợi quan,
Khiêu bất xuất luân hồi khuyên,"
nghĩa rằng:
“Đánh không sập cửa danh lợi,
Nhảy không thoát vòng luân hồi.”
Đến lúc nào bạn không bị cảnh giới làm động tâm, lúc ấy bạn mới thoát ly khỏi cái vòng lục đạo luân hồi.
Ngày thứ 7:
Như vậy trong giai đoạn điều thân mà chúng ta vượt qua được, để sau này có thể tự tại tọa thiền trong thế kiết già 5-7 tiếng cho đến vài ngày cũng là một điều phi thường mà ít có người nào trên thế gian làm được. Những Phật tử nào chưa từng tu tập tọa thiền kiết già, thì cũng nên thử qua cho biết cảm giác đau đớn này như thế nào, để nhìn lại cái bản ngã của mình phản ứng ra sao khi đối diện cơn đau. Riêng tôi sau 3 tuần hành thiền miên mật, tôi thấy mình tiến bộ rõ rệt trong sự điều thân, dù rằng thời gian ban đầutôi nghĩ là chắc mình không thể qua khỏi cửa ải thứ nhất.
Cơn đau đầu tiên sẽ kéo đến trong vòng từ nửa giờ đến 1 giờ nếu qua rồi, thì từ nửa giờ thứ 2 đến cuối giờ thứ 2 chúng ta sẽ trải qua cơn đau nữa, tuy không dữ dội như trước. Rồi từ giữa giờ 3 đến giờ thứ 4 cũng sẽ trải qua một cơn đau như vậy. Nếu việc điều thân trong khi ngồi thiền như vậy được điều phụcsau một thời gian từ 1 đến 3 năm, chúng ta sẽ thong dong nhập vào cảnh giới thiền định mà không sợ đau chân, mỏi lưng và khổ sở khi đến giờ hành thiền. Thay vào đó cảm giác bình an, thanh tịnh và hỷ lạchoàn toàn thẩm thấu và tỏa sáng trong tâm thức của hành giả suốt thời gian hành trì. Khi ấy chúng ta sẽ có thể an lạc chìm mình vào trong cảnh giới thiền định nhiều giờ liền trong ngày hoặc có thể nhập định đến vài ngày. Thiền sinh trong VPTT kể lại với chúng tôi như vậy.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Kỳ này thiền thất bắt đầu, hy vọng các bạn đem hết tinh thần để tham thiền. Các bạn hãy phát tâm dũng mãnh để tham thiền. Lúc nào cũng nhớ tham thiền, nhớ làm thế nào để “liễu thoát sanh tử”, và phải quênăn uống để tham thiền. Nếu chưa khai ngộ thì chưa ngừng nghỉ. Nên có nguyện lực cứng rắn như kim cương vậy.
Nếu có người mắng nhiếc, bạn coi như không nghe thấy gì họ. Nếu có người đánh đập, bạn coi như chẳng có cảm giác gì. Ăn hay không ăn cũng chẳng biết, ngủ hay không ngủ cũng chẳng hay. Nếu bạnđạt được cảnh giới như vậy thì bạn sẽ biết ngay những công phu, những chuyện mình làm xưa kia, chỉ là hời hợt ngoài da. Tới ngày hôm nay bạn mới thật là hiểu rõ tham thiền ra sao.
Bắt đầu thiền thất tôi nói mấy câu thô thiển đơn sơ với các bạn, nhưng nếu các bạn hiểu được thì sẽ cóích lợi lớn. Nếu các bạn không hiểu thì cũng sẽ giúp ích rất nhiều. Có người hỏi: giúp ích như thế nào? Bây giờ tôi chưa thể nói cho các bạn nghe được vì khi các bạn hiểu rồi sẽ lại sanh ra chướng ngại, không thể tiến bộ. Bây giờ tôi nói mấy câu, hy vọng các bạn chú ý nghe. Bốn câu thơ như vầy:
“Phạn ngữ thiền na ba-la-mật
Thử vân tịnh lự tế tiến tham
Sơn cao thủy thâm vô sở úy
Thủy tri triên ngoại biệt hữu thiên.
Thiền tiếng Phạn gọi là Thiền-na ba-la-mật. Pháp môn này nếu tu hành tới chỗ viên mãn thì sẽ đưa mình tới bờ bên kia của bể khổ. Trung Quốc dịch là tịnh lự, cũng còn gọi là tư-duy tu (phép rèn luyện sự tư duy). Song le tịnh lự hay tư-duy tu, nếu muốn nghiên cứu một cách tỉ mỉ thì cần phải soi thấu một cáchsâu xa.
Thế nào là soi thấu? Là tham! Soi thấu câu "Niệm Phật là ai." Dù cho núi có cao, biển có sâu tới mức nào mình cũng không sợ hãi. Tới lúc đó mình mới biết bên ngoài bầu trời này còn có những bầu trời kháctrùng trùng vô tận. Do đó mình phải miên mật tham không ngừng, tức là soi vào câu "Niệm Phật là ai." Soi đi soi lại câu đó cho đến khi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,” nghĩa là cho tới chỗ mình tưởng rằng, “Núi đã hết, sông đã cùng, không còn chỗ đi nữa,” thì khi mình quay trở lại tự nhiên sẽ thấy “Liễu ám hoaminh hữu nhất thôn,”
Nghĩa là:
“Sẽ thấy xuất hiện một thôn trang,
Mà lớm đớm hoa trong tàng liễu.”
Ngài dạy tiếp: “Người tham thiền chân chánh dầu đã ăn hay chưa ăn cũng không nhớ; mặc đồ hay chưa mặc, ngủ rồi hay chưa ngủ cũng không nhớ. Tham tới chỗ rốt ráo, trên thì không biết có trời, dưới không biết có đất, chặng giữa không thấy có người, hòa với hư không làm một, sống trong một cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả. Trong cảnh huống đó thì dầu có đau chân cũng đâu ngại gì, đau lưng cũng không sợ vì sự nhẫn nại dụng công đã giúp cho thiền giả vượt qua hết thảy mọi thứ…”
Ngày thứ 8:
Trong kinh tạng, những cảnh giới chứng đạt và những năng lực thần thông diệu dụng sau khi thực chứng là điều được trình bày rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Khi tâm được định thì có thể dần dầnnhập vào các cảnh giới của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền hay các cảnh giới cao hơn, chứngthánh quả là điều có thể thực hiện được. Trong khai thị tập 5 ngài Tuyên Hóa diễn tả một cách rất đầy đủ và chỉ tiết về các trạng thái của thân thể khi nhập vào các tầng thiền này như sau:
Sơ thiền còn gọi là “Ly sanh hỷ lạc địa”. Đây là trạng thái đưa dẫn hành giả lìa hẳn cảnh giới chúng sanh, nên đạt được một trạng thái khoái lạc. Khoái lạc này không giống khoái lạc của phàm phu, bởi nó là công phu do tự tánh mang lại. Khi nhập sơ thiền, hơi thở ngưng lại. Đây là nói ngoại hô hấp đình chỉ, nhưng nội hô hấp bắt đầu hoạt động, giống như hiện tượng ngủ suốt mùa đông của các loài vật. Khi ấy, tâm thìtrong suốt như nước, sáng như gương, soi chiếu tới bổn thể của tự tánh, nhưng vẫn hay biết là mình đang ngồi thiền.
Nhị thiền, gọi là “Định sanh hỷ lạc địa.” Vào trong định này, hành giả kinh nghiệm một thứ khoái lạc không gì sánh bằng, chính là “thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”, bởi trong cảnh giới này hành giả thấy khoái lạc quên luôn cả đói, có thể nhịn ăn, nhịn uống trong nhiều ngày mà không có vấn đề gì. Tuy nhiênchớ chấp trước vào thành tựu đó. Như quả có ý như vậy, công trình có thể tiêu tan, dễ đi vào cảnh giớima, nên chúng ta phải cẩn thận. Trong định này, không những hô hấp đình chỉ mà mạch cũng ngưng đập. Khi nào ra khỏi định, cơ thể lại hoạt động bình thường.
Tam thiền gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa.” Hành giả lìa sự hoan hỷ trong nhị thiền, đạt tới một thứ khoái lạc kỳ diệu không thể nói ra được, đồng thời cảm thấy hết thảy mọi thứ đều là Phật pháp, mọi thứ đều là khoái lạc. Trong cảnh giới Tam thiền, cả hô hấp và mạch đều đình chỉ, ý niệm cũng dừng lại. Khi ấy, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chẳng nghĩ phải, nghĩ quấy, một niệm chẳng sanh. Tuy nhiên hành giả cũng đừng tự hào, vì đó chỉ là một chặng trên đường tu mà thôi. Đến được chỗ liễu sanh thoát tử hãy còn xa lắm. Ngài nói, còn cách cả tám vạn bốn ngàn dặm đường nữa.
Tứ thiền gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa.” Trong cảnh giới này, ngay cả niệm khoái lạc cũng không còn, tất cả đều bị xả bỏ và hành giả đạt tới một trạng thái thanh tịnh, không còn gì phải tạo tác. Đây cũng gọi làcảnh giới “vô vi vô sở bất vi”. Giai đoạn Tứ thiền cũng vẫn còn trong phạm vi phàm phu. Phải tinh tấn dấn bước nữa, tới cảnh giới “Ngũ bất hoàn thiên” mới gọi là chứng quả thánh. Còn không nếu chỉ đạt đến Tứ thiền mà nhận lầm là chứng quả thánh, như Tỳ kheo Vô văn, phỉ báng đức Phật thì sau bị đọa vào địa ngục.
Cũng như những bài giảng chi tiết của ngài về Ngũ Ấm Ma, các hiện tướng của ma khi hành giả đi vàothiền định mà trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật đã chỉ bày. Ngài đề cao kinh này, nhắc nhở tu hành dựa theo kinh này, cho thấy kinh nghiệm tu hành chứng đạt ngày nay của ngài đều trải qua các hiện tướngquấy phá của các loài ma và hiểm nguy khi chúng ta tu thiền định. Tuy nhiên nếu người tu hành có tâm chân chánh, y theo pháp của Phật và các bậc đạo sư khai thị, chân thành và thận trọng khi tu tập thì sẽ đến được bờ giải thoát an lành.
Ngày thứ 9:
Do 6 trần cảnh (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) bên ngoài bị khóa chặt, tôi không còn cơ hội để phóng tâm ra bên ngoài nên trong những giờ nghỉ giải lao, hoặc sau khóa tu tôi đành phải giam mình trở lại, thúc thủ chịu trận trong căn phòng 8m vuông, co ro trùm mình dưới mấy lớp chăn bông dày cui, vừa vẫn còn run vẫn còn suýt soa. Lạnh ơi là lạnh! ban ngày đi đâu hoặc khi ngủ tôi cũng phải đội chiếc mũ len trùm đầu, và quả thật đây là trải nghiệm một đời người. 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của tôi bỗng nhiênhiền từ như ông “Bụt”, không còn có tâm ý quậy phá và hướng ra ngoài, thay vào đó nó nhắn nhủ thì thầm với tôi là, nên lấy kinh sách của Hòa thượng ra đọc và suy tư. Tâm viên ý mã của tôi lúc ấy hiền đến như vậy đó!
Thế là suốt trong thời gian ở đây, thời gian nào rảnh, dù có 5 phút hay 15 phút, tôi cũng cầm những cuốn sách khai thị và nghiến ngấu đọc, như trước đây chừa từng được đọc. Tôi bỗng trân quý thời gian vô cùng, như lời H.T dạy:
(Một phút thời gian, một tấc vàng,
Vàng sao mua đặng phút thời gian?)
Vì cái thời gian mà tôi có đó, chỉ có chút xíu mươi phút và thoáng chốc nó trôi qua nhanh khi tiếng “Bảng” chát chúa vang lên, báo hiệu giờ thiền tọa lại đến. Sao lạ kỳ đến vậy, thời gian chỉ là một, nhưng có những nơi con người ta biết sống, biết tận dụng thời gian đến từng phút, từng giờ để tập tu, tập hành, chuẩn hóa tâm thức. Thời gian lúc ấy đối với các bậc trí tuệ quả thật là vàng, là bạc. Còn thời gian đối với những chúng sanh mê si và điên đảo, nó là rác, là nghiệp chướng và tội lỗi. Cho nên một đời của người trí chỉ toàn là thời gian vàng, thời gian bạc để tiến tu đạo nghiệp, giải thoát mê lầm, cứu độ chúng sanh; còn một đời của người phàm phu, thời gian chỉ là cơ hội của nghiệp chướng, hướng đến mê lầm tạo nghiệp và hưởng quả khổ đau. Cho nên người trí và người phàm sống ở hai thế giới, còn giữa mê lầm vàthức tỉnh chỉ cách nhau không đến một li.
Quả thật ở đây, trong căn phòng lạnh 8m2, nếu không biết ngồi thiền, đọc kinh sách, tự học tu thì không biết sẽ làm gì khác. Cho nên môi trường, thanh quy của Tòng lâm và hoàn cảnh trong phòng ép mình phải tu, không tu thì có lẽ phải lên cơn thần kinh, vì không thể chịu nổi sự bức bách của cả thân và tâm đến như vậy. Còn nếu chấp nhận, an vui và tùy biến trong sự tu hành, ta sẽ có được cái phúc nhất, làtâm thức chúng ta trở về sự tập trung, chuyên nhất, chánh niệm trong sự tu hành. Những nguồn năng lượng trong thân và tâm chúng ta không phải bị phân tán, tản mác, trôi nổi khắp nơi trên trần thế theo 6 trần và 6 thức. Từ đó việc tu hành, đi vào định tuệ chúng ta sẽ dễ được thể nhập và khai mở trong thời gian sớm. Đây cũng chính là dụng tâm sâu xa của bậc thầy thiện tri thức chúng ta vậy!
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Bây giờ thiền thất bắt đầu. Bao nhiêu thứ gọi là đố kỵ, kiêu mạn, quý vị phải bỏ xuống hết. Bây giờ tôi khảo nghiệm thử xem quý vị có thực lòng buông bỏ các thứ đó hay không. Khảo bằng cách nào? Đầu tiên là đánh bằng hương bản. Bị đánh mà không biết đau, thì cho là được, là đủ tư cách tham gia banthiền thất mùa đông này. Thế nhưng, không biết đau thì trơ trơ như cái bàn, không có tri giác; còn biết đau tức là không buông bỏ được. Vậy tại chỗ này, chúng ta hãy tham xem - làm cách nào đây?
Bây giờ kẻ bị đánh không bỏ chạy mới là kẻ đại trượng phu. Đã là đại trượng phu, thế tất phải có khí độanh hùng, không sợ khốn khổ, không sợ gian nan, đầy tinh thần chịu đựng khắc khổ, không thối chuyển, từ đầu thông suốt tới cuối. Phải có một niềm quyết tâm, coi chết nhẹ như không, như vậy mới thành côngđược. Trước khi vào thiền, tôi có bài kệ nầy:
“Đại địa xuân hồi bách vật sinh
Phấn toái hư không tự tại ông
Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng
Pháp giới tuy đại tận bao dung.
Đại địa xuân hồi bách vật sinh, nghĩa là: Kỳ thiền thất này chính là khí tượng của xuân về. Trăm loài hân hoan nẩy sinh tươi tốt. Mọi người đều gặp cơ hội khai ngộ và ánh sáng tự tánh cùng xuất hiện.
Phấn toái hư không tự tại ông: Hư không vốn là vô hình, nếu quả hư không mà tan vụn (phấn toái) thì hư không cũng không có nữa. 'Tự tại ông' lúc đó, mới thật là đúng tư cách!
Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng: Từ đó trở về sau sẽ chẳng còn vướng vào nhân tướng, chẳng vướng vào ngã tướng. Nhân không, pháp cũng không. Nhân pháp đều không, thế là tự tại, cũng không cònchấp ngã, chấp pháp. Không chấp trước, chính là giải thoát.
Pháp giới tuy đại tận bao dung: Tuy pháp giới là không bờ không bến, nhưng ta vẫn có thể ôm trọn pháp giới vào trong, nói cách khác, so với pháp giới ta còn to lớn hơn nữa. Thế mới là khả năng của kẻ đại trượng phu.
Tự mình phải dụng công của mình. Công phu gì? Đó là tham câu: "Niệm Phật là ai?" hay tham: "Trước khi cha mẹ sanh ra thì bổn lai diện mục ta là gì?" Nỗ lực dụng công, nhất định sẽ có tin hay (khai ngộ). Bây giờ bắt đầu vào thất! Vào! Vào! Vào! Thiền thất chính thức bắt đầu, cấm nói chuyện!
Ngày thứ 10:
Đọc vào các Ngữ lục thiền của chư Tổ sư xưa cũng như nay, ta sẽ thấy văn phong và hàm ý Thiền của chư Tổ sư hết sức mạnh bạo. Các ngài nói mạnh bởi vì các ngày đã thấy được lối đi và tin chắc rằng, nếu thúc và đẩy ta đi theo lối đi đó, ta cũng sẽ đến đích như các ngài. Các ngài không phải nói những lời: “khẩu đầu thiền”, vì đây là điều tối kỵ trong thiền môn. Một người tu thiền đúng mực, đi cầu pháp, hành thiền thì sẽ nhận chân ra được vị thầy của mình qua phong cách, khí chất và thiền ngữ của những bậcthiền sư.
Nhưng rõ ràng là tâm ý chúng sinh vốn quá nhiều phiền não và nhu nhược, không tin lấy chính mình có thể kiến tánh, có thể tu hành và có thể giải thoát. Nhắc đến chỗ này, đa phần con người ta e sợ, run rẩy và tìm cách lùi bước, đùn đẩy cho các hàng Bồ tát hoặc hạng người thượng căn thượng trí. Họ đâu biết rằng hạng Thượng căn thượng trí với họ chỉ cách nhau một hào tơ, mê là chúng sanh, giác là Phật. Mê và giác ấy không xa, chỉ cần gặp bậc thiện tri thức khai thị, chỉ bày và họ tinh tấn dụng công thì sẽ đạt.
Bản thân tôi không phải là hạng trí tuệ, nhưng tôi kính tin lời dạy, lời khai thị, chỉ bày của các bậc Thiện tri thức và tôi tin ở nơi mình. Khi tôi tin rằng mình đã có cơ duyên gặp được chánh pháp, nghe được các lời dạy của bậc Thiện tri thức, và thấy được, chứng thật được sự thực tập, tu hành sống động của các bậc thầy tri thức trước mắt thì tôi có đủ niềm tin để tin rằng mình có thể khai ngộ được. Luận Đại trí độ có nói: Tín vi năng nhập, Trí vi năng độ. Tôi có dám tin và có dám bước đi hướng về phía trước? Tôi dám, và mong rằng tất cả các vị thiện tri thức dám cùng tôi bước tới.
Thời đại mạt pháp này, chánh pháp nhãn tạng khó tìm cầu, mà mạt pháp danh văn lợi dưỡng thì trải rộng khắp nơi, đâu đâu cũng thấy. Người tu hành chân thật thì ít, ẩn náu ở các nơi xa xôi trên núi, trong các hang động thâm sâu hoặc ở những nơi ít người biết và tìm đến. Còn các chốn phồn hoa đô hội, danh lamcổ tự nơi rất đông người đến để triều bái cúng lễ thì chỉ tìm được các bậc thầy đốt nhang, làm phép, cúng kiến cho người rồi tính tiền. Thế nên chân thật tu hành thì phải biết tìm cầu, biết buông xả và biết lên đường khi đúng lúc!
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Mục đích chúng ta tham gia thiền thất là cầu khai mở trí huệ, trở về tận cùng gốc gác của mình, tuyệt đốiphải nhận ra bổn lai diện mục.
Bổn lai diện mục của chúng ta ra sao? Cùng với chư Phật là một, chẳng sai khác. Có điều chúng ta làchúng sanh không có trí huệ nên không nhận ra nó, và cũng từ nguyên nhân đó mà trở thành điên đảo, quay đầu lộn đuôi, sanh tử trong cảnh mơ mộng hỗn độn, thậm chí còn biến hiện thêm, khiến cho đã mê càng thêm mê, đã ở trong mộng còn thêm mộng, trong chỗ điên đảo còn thêm điên đảo. Vì sao đến nỗi như vậy? Bởi vì không được gặp thiện tri thức, không được ai mách bảo lối về quê hương, tức con đường tìm bổn lai diện mục.
Nay rất đông thiện tri thức tụ hội tại đây, cùng nhau hướng tới con đường rộng lớn, quang minh để tìm vể bổn lai diện mục. Đúng là:
“Thập phương đồng tụ hội
Giai kỳ học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy.
Nghĩa là:
Mười phương cùng tụ hội
Ai nấy học vô vi
Đây là trường tuyển Phật
Tâm không đậu vinh quy.
Quý vị thiện tri thức từ mười phương, tới Bát-nhã đường này cùng nhau học tập pháp vô vi. Bát-nhãđường chính là trường tuyển Phật. Ai tới được chỗ vô nhân vô ngã thì người đó được chấm đậu. Ai không buông bỏ nổi, kẻ đó bị đánh rớt. Ai được tâm không đây? Người đó được đỗ Trạng nguyên. Lúc đó, áo gấm về làng, rạng rỡ tổ tông.
Như muốn làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng, vậy phải ngồi xuống tham thiền, mới có thể đạt mục đích. Đại anh hùng chính là bậc đại giác, đại giác chính là Phật. Ngồi thiền mà đạt tới cảnh giới vô ngã, thì chân có đau cũng không hay, lưng có mỏi cũng không biết. Trong, không cảm thấy thân tâm, ngoài, không biết có thế giới, tới lúc đó, trong khoảnh khắc, bừng lên đại ngộ: vốn là như thế!
Nếu rõ ràng có ngã, thì có "cái ngã" ở chỗ này. Quý vị ở tại chỗ này, ai không ở tại chỗ này? Không ở tại chỗ này cũng là ai đó? Không ai ở tại đây, cũng chẳng ai không ở tại đây, cho nên gọi là vô ngã.
Nguyên do vì không có tại, nên mới không có ngã. Nếu còn có tại thì còn có ngã tại. Có tại thì đúng ra phải là tự tại, chớ không phải ngã tại. Tự tại không thể có ngã, nếu có ngã thì không phải tự tại. Có ngã nên mới sanh lắm chuyện phiền phức, kể ra không thể hết được.
Nào, ngủ chẳng đủ, tinh thần không khoan khái. Ăn chẳng đủ, bụng không dễ chịu. Mặc không đủ, thân thể ớn lạnh. Bởi đâu mà có những hiện tượng đó? Bởi chung có cái ngã. Muốn không có ngã, chỉ còn một biện pháp, đó là đến thiền đường mà ngồi thiền, thiền tới thiền lui, thiền cho tới lúc đạt được vô ngã,đạt được cảnh giới gọi là:
"Vô nhân vô ngã Quán tự tại,
Phi không phi sắc kiến Như-lai."
Tới lúc đó thì tự tại vô cùng, tự khắc sẽ biết bổn lai diện mục là như thế nào. Tuy nhiên, tới được cảnh giới đó chẳng phải dễ dàng. Bởi vậy mới cần phải gắng sức nhẫn chịu, chịu đựng mọi thống khổ, mọi sựgian nan. Như quả qua được cửa ải này thì sẽ gặp một sự thống khoái: “Chính là ăn bằng niềm vuithiền duyệt, và sống trong pháp hỷ.”
Bất luận làm một công việc gì, buổi đầu tương đối khó khăn. Lâu dần, sẽ thành quen, không cảm thấykhó nữa. Ngồi thiền cũng như vậy. Trong thiền đường, cố gắng chịu đựng, khi đã chịu đựng được rồi thì không còn cảnh giới nào làm cho giao động. Vậy là đã có chút ít định lực. Có một chút định lực tức sẽ có chút huệ lực. Tích tiểu thành đại, khi huệ lực đầy đủ thì tự khắc khai ngộ.
Ngày thứ 11:
Tâm lý của phàm phu là sợ sự thật, vì sự thật là tu và tu là phải sửa và phải xả, nên con người ta rất sợ, sợ phải từ bỏ tất cả ngũ dục trong cuộc đời mà con người ta vốn đã rất nghiện ngập, không thể cai được. Dục nào trong năm dục cũng đều là dục đáng được ưa, đáng được thích và nay chỉ vì tu mà phải từ bỏthì phí uổng quá. Nên con người ta không muốn tu và không dám đối diện thẳng sự thật. Một mặc con người ta than khổ và muốn thoát khổ, nhưng khi tìm được cách thoát khổ thì người ta lại không dám đi tiếp, vì sợ đi tiếp sẽ mất hết tất cả những vị khổ, vị vui, vị say mê khoái lạc sung sướng trong cuộc đời.
Đời sống và trí tuệ trong tu hành cho tôi thấy rõ được sự thật và bản chất của cuộc đời. Đôi khi vạch trần nó ra để soi rọi và quán chiếu, ta thấy được tất cả sự trần trụi, ô trược và khổ đau của chúng sinh làm sao! Cái khổ đau của việc nhận giả làm thật, lấy dơ làm sạch, lấy phải làm quấy, lấy khổ làm vui, nên ngàiTuyên Hóa cũng nói rằng: “Chúng sinh khi sinh ra đã hồ đồ, sống hồ đồ, cả một cuộc đời hồ đồ và khi chết đi cũng hồ đồ.”
Bậc Thiện tri thức khai thị, chỉ thẳng cho mình với những lời trách cứ mạnh mẽ, để cho ta thức tỉnh, để cho ta thấy rõ và thật rõ rằng, những gì chúng ta đang hồ đồ, nắm bắt và hưởng thụ tất cả ở đây đều chỉ là đang trong cơn mộng. Mai này có thể vài mươi năm nữa, vài năm nữa, vài tháng hoặc vài ngày nữa, khi nghiệp đến đánh thức chúng ta, cơn mộng vàng ta đang sống và thấy đây sẽ tan biến, rơi vào hư vôvà ta sẽ được mời đến gặp Diêm vương nhận án, lãnh hình.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Ai Niệm Phật ? Bây giờ là lúc để chúng ta thảo luận. Vậy ai có vấn đề gì thì cứ việc nêu ra để mọi ngườicùng nhau nghiên cứu, bàn luận. Có người hỏi về câu “Ai niệm Phật” là sao? Như trong kinh Kim Cangnói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Cho nên nếu có chỗ thì đó tức là trụ, còn không có chỗ trụ là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, là ngay chỗ đó mà dụng công.
Nếu chúng ta chú ý vào một chỗ nào, rồi nghĩ đến tốt hay không tốt thì đó đều là chấp trước. Tu hành là tu đến chỗ không còn chỗ chấp, cái gì cũng không chấp, thân thể cũng quên luôn. Đến cả thân thể cũng không có, vậy còn chấp vào cái gì nữa? Lúc tọa thiền, chúng ta không nên nghĩ nhớ đến bất cứ điều gì, mà chỉ cần nhớ “Ai niệm Phật?” Ai là người đang niệm Phật? Tức là tìm cái “Ai” nầy. Chừng nào tìm được “Ai” rồi, thì đó là lúc khai ngộ. Nếu tìm không được thì một ngày cũng phải tìm, mười ngày cũng phải tìm, trăm ngày cũng phải tìm, ngàn ngày cũng phải tìm, vạn ngày cũng phải tìm, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, vạn năm, đều chỉ là tìm nó. Cho đến lúc nào tìm được nó, lúc đó mới thôi.
Quý vị đừng mong cho mau, vì đây không giống như hút thuốc phiện, hễ hút xong là thoả mãn cơn ghiền. Nó đâu có dễ như vậy! Vì nếu dễ thì là pháp môn lừa dối. Pháp môn tu chân chánh là phải chính mình nỗ lực dụng công. Không nên có ý nghĩ như anh nông phu vì muốn giúp cho lúa mau lớn, anh bèn kéo cây lúa cao lên một chút, để chúng cũng lớn mau thêm một chút.
Đó là tư tưởng sai lầm! Câu “Ai niệm Phật?” có thể chặt đứt tất cả các vọng tưởng, các dục niệm, là chém giết hết cả mười đại quân ma. Chữ “Ai” nầy là thanh bảo kiếm Kim Cang Vương, cái gì nó cũng chém sạch hết, cho đến không còn chỗ nào để chấp cả. “Phàm những gì có hình tướng thì đều là hư vọng. Nếu người nào thấy tất cả hình tướng là phi tướng tức là thấy được Như Lai.”
Còn có chỗ chấp thì đó là tâm người, tâm chúng sanh. Không có chỗ chấp thì là tâm đạo. Khi chúng tangồi thiền mà không nghĩ đến chữ “Ai” nầy, vọng tưởng sẽ phát sanh nên không thể khai ngộ được. Dùng câu thoại đầu nầy khi tham thiền là lấy độc công độc, dùng vọng tưởng khống chế vọng tưởng, cũng là dùng một vọng tưởng để điều phục nhiều thứ vọng tưởng. Chúng ta dùng nó mãi cho đến khi sơn cùng thủy tận, không còn đường nào để đi thì chính chỗ chuyển thân quay mình đó sẽ khai ngộ.
Ngày thứ 12:
Tổ sư thiền với việc tham các thoại đầu là pháp tu rất mới đối với người Việt Nam, nhưng với các Thiền viện tại Trung Hoa thì truyền thống tu hành này vẫn còn được ứng dụng ở một số chùa và thiền viện rải rác khắp Trung Hoa. Hiện nay, chùa Thiên Đồng, chùa Cao Mân, chùa Kim Sơn là những Thiền viện nổi danh với pháp tu thiền này và mỗi năm đều có những khóa thiền đả thất và có rất đông thiền giả về tu tập.
Với tôi, đường lối tu thiền này cũng rất mới mẻ vì truyền thống các chùa Việt Nam chưa từng được truyền thừa và hướng dẫn tu hành. Phần lớn các chùa đều tu Tịnh độ, lấy tụng kinh và niệm Phật làm chính. Thiền phái Trúc Lâm được H.T Thanh Từ hoằng hóa và phổ biến rộng khắp Việt Nam và thiền pháp này dùng lối tu “vô niệm, biết vọng và không theo vọng”, thay vì dùng thoại đầu (“Ai” là người niệm Phật) để diệt vọng, dùng một vọng tưởng để diệt tất cả vọng tưởng. Hai pháp tu hơi khác nhau một chút nhưng đều cùng chung mục đích: “khai ngộ bổn tâm, kiến tánh thành Phật”.
H.T Khai thị:
Tu Đạo Cần Phải "Quý Phước, Cầu Huệ" Tín đồ Phật Giáo chúng ta khi chưa thành Phật thì cần phải biết "quý phước, cầu huệ." Hễ biết quý phước thì phước báu gia tăng, còn cầu huệ thì trí huệ tăng trưởng. Các bạn hãy nhìn xem: Người đời có vô số hoàn cảnh khác nhau.
Có những người được phước báu rất lớn, không cần phải làm gì cả mà lại được vạn sự như ý, mọi thứ đều có sẵn, đời sống rất sung túc; họ không buồn không lo, sung sướng vô cùng, đó là nhờ khi trước họ đã từng tu phước rất nhiều, nên nay mới được hưởng phước báo lớn lao như thế! Có những người thì lại có trí nhớ rất tốt, chỉ xem qua một lần là không bao giờ quên. Họ vừa thông minh vừa khoẻ mạnh, và còn có biện tài vô ngại; khi họ thuyết Pháp thì có hiện tượng "trời mưa hoa xuống, đất trồi sen vàng" xảy ra. Vì sao họ có khả năng ấy? Là vì khi xưa họ đã từng tu huệ rất nhiều!
Làm thế nào để tu huệ và tu từ đâu? Trước hết, hãy bắt đầu từ Đại Thừa, đọc tụng kinh điển Đại Thừa,nghiên cứu Tam Tạng cho thật thấu đáo, cho tới mức viên mãn, miệng có thể đọc thuộc, tâm có thể nghĩ suy. Sáng cũng như chiều, ngày ngày dùi mài Tam Tạng cho làu thông, thấu triệt, thì đại trí huệ khai mở,kiếp sau nhất định sẽ vừa thông minh vừa biện tài. Chúng ta đã biết thế nào là "quý phước, cầu huệ" thìcần phải quý tiếc đồ vật, không nên làm hư hại vật dụng. Làm những công việc như sửa cầu, đắp đường, cất chùa, dựng tháp, bố thí y phục, bố thí vật thực, cứu giúp người nghèo khổ tức là tu phước, tạo phước điền.
Còn giảng Kinh thuyết Pháp, in kinh sách để truyền bá, phiên dịch kinh điển, tô vẽ tranh Phật... là thuộc về pháp môn tu huệ. Giả sử các bạn không muốn có phước báo và cũng không muốn có trí huệ, thì chẳng còn lời gì để nói. Song, nếu các bạn muốn có phước báo, muốn có trí huệ, thì hãy mau mau tu phước, cầu huệ. Không được lãng phí phước báo và cũng không được bỏ trí huệ một cách tùy tiện! "Quý phước, cầu huệ" là một công việc lớn lao, tất yếu mà mọi tín đồ Phật giáo cần phải thực hành!
Ngày thứ 13:
Được anh tôi giới thiệu, tôi tìm đến thầy Hằng Toàn và được làm quen với ngài. Ngài là bậc thầy Việt Namtrưởng thượng trong Vạn Phật Thánh Thành đứng sau H.T Phương trượng, có nụ cười hiền, ánh mắt từ bivà khuôn mặt hồng hồng với làn da trắng rất đẹp. Có lẽ ngài hành thiền nhiều lắm nên sắc mặt rất đặc biệt, tai thì ửng đỏ. Tôi có dịp tiếp xúc với ngài vài lần, và thấy được sự bình dị, tận tâm và tấm lòng từmuốn độ chúng sanh của ngài. Qua đó, tôi có trình bày về sự tu hành và nhân duyên hoằng pháp của mình, cầu thỉnh ngài cùng góp một tâm nguyện, bàn tay cho công việc độ sanh sau này tại Thái Lan. Ngài cũng hoan hỷ nhận lời khi thấy tôi thành tâm đến như vậy.
Một khi có ý tưởng thối thất nào khởi lên trong thời gian tu hành, tôi lại đem mình so sánh với chúng Tăngthường trụ sống ở đây. Các vị ấy sống từ năm này qua năm nọ ở đây, ngồi thiền hàng bao nhiêu tiếng mỗi ngày, đời sống kham nhẫn muôn phần mà họ còn an lạc, sống thảnh thơi; còn tôi không có lý do gì để phải than van, thối thất. Sự tu hành, dụng công lúc nào cũng phải chuyên chú, nhất tâm hướng về phía trước. Ngẫm lại thời gian tu hành trước, quả thật tôi thấy như lời ngài dạy: “những công phu, những sự tu hành trước kia chỉ là hời hợt ngoài da”. Còn nay đúng là đang tu hành bên trong xương, trong tủy. Tôi phải thấy hết ý nghĩa của sự tu hành và rèn luyện cho mình một sợ kham nhẫn vô đối, luôn xông pha về phía trước, thách thức trở ngại và khó khăn. Một tinh thần chiến đấu như vậy thì mới mong thành tựutrên con đường tu hành, đạt được giải thoát. Đây cũng chính là tâm nguyện một đời của người xuất giavà của chính tôi kia mà!
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Đi đứng nằm ngồi
Không lìa bỏ nó
Lìa bỏ cái đó
Tức thành lầm lỗi.
Cái đó là cái gì? Chính là câu thoại đầu để chúng ta dụng công tham thiền. Lấy chân tâm mà tu Đạo, đề khởi câu thoại đầu rồi tham cứu một cách miên mật, không dứt đoạn. Hàng giờ, hàng khắc, hàng phút, hàng giây, không một tạp niệm nào, một vọng tưởng nào xen vào, tóm lại trong tâm tư, niệm trước niệm sau, chỉ rặt một câu thoại đầu là đề mục tham cứu. Vậy thì đâu còn thời gian nào khác để nói chuyện với nhau, làm rộn người khác? Cũng không có cơ hội để lười biếng nghỉ ngơi, càng không có dịp để nói chuyện thị phi, chuyên một lòng giữ câu thoại đầu để tham ngộ. Có câu kệ rằng:
Mọi sự qua suông sẻ
Khó xả duy nổi nóng
Nếu quả không tức giận
Đó là hòn ngọc quý
Lại không biết hận người
Sự việc đều trôi chẩy
Phiền não chẳng hề sanh
Lấy đâu tạo oan nghiệt?
Thường chỉ rặt trách người
Khổ đau chuốc mãi mãi.
Người tham Thiền nếu có được thái độ như vậy mới mong có ngày "nhập môn". Tại Thiền đường ai ai cũng phải hồi quang phản chiếu, quay về nơi mình, tự hỏi mình, có phải ta đương dụng công, hay ta đương phóng tâm theo vọng tưởng? Hãy nhìn chính mình, phải chăng ta đương rọi sáng để soi chính ta? Chớ không phải soi ra ngoài? Đó là điều chúng ta phải rất mực chú ý.
Dụng công nơi Thiền đường, ta phải ghi nhớ hai câu sau:
Ma-ha-tát, chẳng lý tới kẻ khác
Di-đà Phật, ai nấy tự lo lấy!
Từng thời từng khắc, tự quản lý mình, khỏi cần để ý tới ai, càng không nên làm phiền hà người khác, như vậy là chướng ngại sự dụng công của mọi người, khiến họ có thể lỡ cơ hội khai ngộ, một việc không thểchấp nhận được. Như tôi thường nói với quý vị:
Thành thực nhận lỗi mình
Không bàn lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi ta
Đồng thể gọi Đại bi.
Ai ai cũng có tư tưởng đó thì tất cả đều một lòng một ý tu hành, không còn nghĩ gì khác, chẳng còn nhiều chuyện bàn tán, làm rộn mọi người.
Người tham thiền cốt yếu phải nhận định cho rõ rệt một vấn đề căn bản. Đó là vấn đề gì? Cái đó là tập khí . Ngồi thiền là để loại trừ tập khí, những thói xấu, để thanh lọc tâm tư, để giải trừ những thói xấu đố kỵnhững ai hơn mình. Hãy mang những tâm đố kỵ, những tâm phiền não vô minh, gạt bỏ hết. Có như vậy,Chân tâm sẽ tỏ lộ, trí huệ sẽ hiển bầy, và lúc đó thiền giả mới có hy vọng nhận được tin vui.
Bởi đâu mà mọi người ưa những chuyện thị phi? Chính vì lý do ngu si. Bởi đâu mà sanh tâm tật đố? Cũng là do ngu si. Bởi đâu mà có tâm hại người? Là ngu si hết. Phàm làm những chuyện không hợp lýđều do ngu si mà phát sanh ra. Vậy bởi đâu mà có ngu si? Chính vì không chịu tu tập thiền định, nên không có trí huệ, cho nên chúng ta cứ luẩn quẩn trong vòng nhân ngã thị phi, không ra khỏi được. Do đó, chúng ta phải hồi quang phản chiếu, nhìn nhận lỗi mình trong quá khứ, dốc lòng hối cải, thay vì khư khư giữ mãi những tập khí xấu xa mà không chịu buông bỏ.
Tại sao khi ngồi thiền lại buồn ngủ? Bởi cầu Pháp mà lòng không chân thực. Nếu như thành tâm cầu Đạo thì tuyệt đối không bao giờ buồn ngủ. Quý vị hãy thử kinh nghiệm coi, tôi nói lẽ đó có đúng hay không?
Người tu hành không nên bạ đâu nói đó, mà phải hết sức thận trọng, ôn tồn. Đến chỗ nào thì cũng phải làm gương cho kẻ khác, không thể cười đùa, nói càn nói bậy, vì như thế tức là không tôn trọng quy củcủa đạo tràng. Người khác thấy được hành vi như vậy sẽ phê bình là những người xuất gia trong Vạn Phật Thành không thông hiểu quy củ. Với thái độ như vậy thì làm sao tu Đạo, làm sao thành tựu được Đạo nghiệp? Đừng nên vì một, hai cá nhân chẳng giữ gìn quy củ mà khiến cho danh dự của Vạn PhậtThành bị hoen ố, hủy hoại!
Vạn Phật Thành là ngọn đèn sáng của Phật Giáo trên thế giới, bởi vậy, mỗi người trong đại chúng, nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành, đều phải nên đặc biệt cẩn thận! Người xuất gia tu Đạo lúc nào cũng phải tự kiềm chế chính mình, không nên nghĩ vẩn vơ, vọng tưởng. Bất luận là vọng tưởng tốt hay vọng tưởng xấu, thảy đều phải quét sạch đi, do đó có câu "nhất niệm bất sanh." Đạt tới cảnh giới này thì mình mới tương ưng với Đạo được. Nếu có vọng tưởng vô ích, cho dù thân thanh tịnh mà tâm huyên náo, thìdụng công tu Đạo thế nào được? Làm sao mà thành tựu được? Đó thật là phí thời gian chứ nào phải tu Đạo! Kẻ chân chính tu hành thì tuyệt đối không có vọng tưởng. Có vọng tưởng thì có chướng ngại. Cóchướng ngại thì không thể tiến bộ, rất dễ làm mình thối thất Đạo tâm.
Ngày thứ 14:
Tôi không thể ngờ rằng, giữa một xã hội vật chất và hiện đại như Hoa Kỳ lại có một Tòng lâm, thiền việntu hành nghiêm ngặt như thế. Đó là sự sai lầm của tôi trong nhận định khi chủ quan cho rằng, trong những xã hội vật chất, khó ai có thể tu hành được. Như vậy hóa ra chỉ những nơi không vật chất, nơinghèo khổ thì con người ta mới dụng công, chân thực tu hành hay sao? Quyết đoán như vậy thật là lầm lẫn! Nơi nào trên thế giới cũng có chánh pháp và mạt pháp, kẻ tu người không tu, kẻ tốt và người xấu. Tất cả đều là một sự pha trộn, lẫn lộn rất khó phân định và quyết đoán. Vấn đề ở đây là có duyên để biết, có duyên để thấy, để đến để được học hỏi, tu hành và chứng nhập hay không?
Chính vì chữ duyên ấy nên lần này tôi quyết chí ra đi và tham dự khóa tu này, dù rằng trước đó tôi dự định sang năm, khoảng tháng 6 tôi sẽ sang tham dự các khóa tu bên ấy. Nhưng rồi bản tính vốn thích Thiền, nên tôi đã gạt bỏ hết thảy chương trình cá nhân của mình, để bay sang Mỹ tham dự cho được khóa tu kỳ này. Quả thật là không uổng phí thời gian và đang giá công đi khó khăn.
Khi tham dự các khóa tu này, người xuất gia thì được miễn phí khóa tu, còn người tại gia thì phải đóng chi phí tiền phòng và tiền ăn 20 Mỹ kim một ngày. Như vậy cũng không phải là đắt khi so với vật giá, chi phí và đời sống tại Hoa Kỳ. Trong dịp này, tôi cũng có duyên gặp được một số Phật tử Việt Nam tu lâu năm trong VPTT, thông thường là năm bảy năm, nhưng cũng có vị 10 hay 20, 30 năm. Tuy chùa người Hoa, nhưng người Việt tu học và làm việc tại đây cũng trên 50% rồi. Sao lạ vậy! Có lẽ bản chất người Việt là thích tu, và thích tu gắt gao nữa kia là khác, nên ở khắp nơi trên thế giới Việt Nam chúng ta cũng sinh ra nhiều bậc thầy tu hành ngộ đạo và danh tiếng vang xa.
H.T dạy:
Hôm nay quý vị đã "lên đường" chưa? "Lên đường" có nghĩa là lên con đường Chánh-giác, con đườngBồ đề. Quý vị đã đề khởi được câu "Niệm Phật là ai" chưa? Quý vị đã buông bỏ vọng tưởng chưa? Nếu chưa đề khởi được câu "Niệm Phật là ai?" thì hãy mau mau làm đi. Phải tập như "mèo rình chuột" vậy,kiên nhẫn chăm chú chờ chuột. Lại cũng giống như "gà mẹ ấp trứng," một lòng một dạ nhớ nghĩ đến đám gà con sắp nở. Lại cũng giống như "rồng giữ hạt châu," cẩn thận chuyên nhất giữ chặt hạt bảo châu. Lúc nào cũng dụng công thì mới hy vọng thành tựu.
Chúng ta tu hạnh "ngày ăn một bữa, đêm chẳng nằm mà ngủ" là cách tu khổ hạnh mà tôi dám nói rằng hay nhất thế giới. Đặc biệt là lúc đả Thiền-thất, mỗi ngày ngồi mười hai giờ, đi nhiễu sáu giờ. Sự thực hành khắc khổ này đòi hỏi Thiền-sinh phải ăn uống cho đầy đủ. Do đó tại Trung Quốc, khi nào có đả Thiền-thất, mỗi đêm mọi người đều được cho ăn hai cái bánh bao lớn nên ai cũng thích thú lắm. Song ở đây không có cái lệ này. Do đó bữa trưa, quý vị nên ăn thêm một chút, ăn cho no để đủ sức đi nhiễu hoặc chạy.
Giới luật nhà Phật quy định "nhật trung nhất thực," tức là mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào giờ ngọ (mười hai giờ trưa) mà thôi. Về sau, lệ này đổi thành "quá ngọ bất thực," tức là sau mười hai giờ trưa thì không được dùng bữa, nhưng buổi sáng có thể ăn cháo điểm tâm. Vì không phải ăn sau giờ ngọ nên việc này không phải là phạm giới.
Trong khóa Thiền, nếu ăn không đủ no thì sẽ không có đủ sức ngồi Thiền, đi nhiễu hay chạy, do đó có thể sinh ra thối chuyển. Vì sao? Nếu quý vị tham Thiền đến tối, bao tử quý vị sẽ cồn cào và trách quý vị là đã quá ích kỷ, chỉ biết tu hành, chỉ chú tâm muốn khai ngộ, chẳng quan tâm đến nó, khiến nó phải đau khổ. Nó hỏi quý vị tu Đạo gì mà một chút từ bi cũng không có. Thế là nó chẳng hợp tác với quý vị nữa, khiến quý vị dễ thối tâm, không còn muốn tu hành, uổng phí công phu khi trước. Bởi vậy trong khóa Thiền, quý vị cần phải ăn cho đủ no mới có năng lực để mưu cầu trí huệ giải thoát.
Hôm nay tôi kể cho quý vị nghe câu chuyện "Ăn bánh bao lúc đả thất." Đây là chuyện có thật, không phảibịa đặt. Ở chùa Thiên Đồng tại tỉnh Ninh-Ba bên Trung Quốc, có vị phương trượng tên Mật Vân. Ngài là một vị Minh nhãn Thiện-tri-thức. Thầy Duy-na cũng là một vị Minh nhãn Thiện-tri-thức. Song lòng từ bi của Thầy Duy-na thì quá rộng lớn còn lòng từ bi của Phương-trượng thì lại hạn hẹp. Ngài Mật Vân thì có tác phong "Ma-ha-tát chẳng để ý đến ai cả," còn ngài Duy-na thì chủ trương "Bồ-đề Tát-đỏa thích lo chuyện người." Vì hai vị có tư tưởng khác biệt nên lối cư xử cũng xung khắc.
Trong lúc đả Thất, ai cũng dũng mãnh tinh tấn ngồi Thiền, cầu trí huệ giải thoát. Một đêm nọ vị Duy-na từ bi này thấy đại chúng vì quá đói bụng nên chẳng còn tinh thần nào ngồi Thiền được. Có vị bị hôn trầm, có vị thì tâm tán loạn, hoặc nếu không ngủ gật thì cũng "ngồi sụm." Bình thường, khi ngồi Thiền người ta cao khoảng ba thước tây, nhưng vì bụng đói quá, không ngồi thẳng lưng được, phải khòm xuống nên chỉ còn cao hơn một thước, do đó gọi là "ngồi sụm." Khi hiện tượng này xảy ra thì chẳng ai còn tiếp tục ngồi Thiền được nữa.
Thầy Duy-na thấy vậy mới nẩy lòng thương và muốn giữ sức khỏe cho đại chúng, Thầy bèn nhập Định, dùng thần thông vào nhà bếp lấy cắp một ít cơm cháy đem phân phát cho mỗi người một ít. Khi ngồi Thiền xong, mọi người mở mắt ra thì thấy trên đùi họ có một miếng cơm cháy, liền rón rén ăn hết. Bởi vì "người là sắt, cơm là thép," nên ai ăn vào cũng khôi phục lại tinh thần. Lúc đi nhiễu, cũng không cảm thấy mệt mỏi. Chẳng còn như trước, vì bụng đói không thể đi nhiễu được nên phải ngồi qua một bên để nghỉ mệt.
Sau khi Thầy Duy-na có lòng từ bi này lấy cắp cơm cháy liên tiếp hai ngày để cho đại chúng ăn điểm tâm, thì đến ngày thứ ba bị vị Phương-trượng phát giác ra chuyện ăn cắp nên bị đuổi ra khỏi chùa. Sự việc này xảy ra như sau: Buổi sáng ngày thứ ba, Thầy quản lý nhà bếp phát hiện ra rằng cơm cháy ngày hôm qua đã biến mất và Thầy nghi rằng đã bị chuột ăn hết. Vì là nhiệm vụ của Thầy, nên Thầy mới báo cáo chuyện này lên ngài Phương-trượng để xin ý kiến.
Ngài Phương-trượng dạy rằng: "Được rồi, phải bắt con chuột đó!" Đến tối, ngài Phương-trượng nhập Định quán sát mới phát giác là Thầy Duy-na đã trộm cơm cháy của nhà bếp trong lúc nhập Định. Nhân đó Ngài mới đem nhục thân của Thầy Duy-na giấu dưới ghế ngồi.
Lúc Thầy Duy-na xuất Định thì không thấy "nhà" (nhục thân) của Thầy đâu nữa. Thầy tìm kỹ khắp nơi thìcuối cùng mới thấy nhục thân mình nằm ở dưới ghế nên kéo nó ra. Bấy giờ, Ngài Phương trượng mới bảo: "Thầy làm gì vậy? Thầy quả là một con chuột lớn. Thầy dám ăn cắp cơm cháy ở nhà bếp hả? Thầy có biết là Thầy đã phạm giới không? Ai phạm giới phải bị đuổi ra khỏi chùa! Ngày mai Thầy phải đi.Chúng tôi không thể lưu giữ Thầy ở đây nữa!"
Thầy Duy-na thưa:
"Bạch Ngài, Ngài đuổi tôi thì được rồi, song tôi muốn xin Ngài một việc, mong Ngài thuận cho."
Vị Phương-trượng hỏi: "Thầy sắp ra đi, còn muốn yêu cầu gì nữa?"
Thầy Duy-na thưa: "Các Thiền-sinh nhất định phải được ăn đủ no thì mới có thể dụng công tu hành. Nếu ăn không no, chắc chắn chẳng thể tu hành được. Do đó tôi mới vào nhà bếp lấy trộm cơm cháy để chođại chúng dùng, chẳng phải để tôi ăn. Tôi hy vọng Ngài Phương trượng từ bi, mỗi tối cho mỗi người ăn hai cái bánh bao. Được vậy thì tôi xin cúi đầu đảnh lễ Ngài. Tôi ra đi rồi, chẳng còn gì thắc mắc nữa!"
Vị Phương-trượng suy nghĩ và thấy có lý: "Được rồi! Tôi sẽ thỏa mãn lời yêu cầu của Thầy." Từ đó về sau, khi nào đả Thiền-thất, mỗi người được ăn hai cái bánh bao vào buổi tối.
Thầy Duy-na lại hỏi Phương-trượng: "Thưa Ngài, tôi nên đi về đâu?"
Phương-trượng đáp: "Thầy hãy đến tỉnh Tứ-xuyên xây dựng đạo tràng. Các vị hộ pháp ở đó có thiện duyên với Thầy."
Bấy giờ Thầy Duy-na mới dùng phép Thần-túc-thông để đến tỉnh Tứ Xuyên. Thầy thấy hai cây quế cao to, cành lá sum sê, nên ngồi Thiền giữa hai cây quế ấy. Nhiều vị hộ pháp và cư sĩ thấy Thầy ngồi Thiềndưới gốc cây, nhận ra Thầy là bậc chân tu, một vị cao tăng đức hạnh, do đó họ xây một ngôi chùa dưới hai cây quế ấy lấy tên là "Song Quế Đường." Tại đây, Thầy truyền Pháp và thâu nhận đệ tử. Về sau, rất nhiều người tham Thiền được khai ngộ và Thầy trở thành vị Tổ đầu tiên.
Tham Thiền cũng như uống nước, nóng hay lạnh chỉ tự mình biết lấy. Dụng công tới chỗ vững vàng thì mình tự biết; dụng công mà chưa thành thục thì cũng chỉ có mình tự hay. Ai dụng công đã vững, đãthành thục thì cần phải liên tục nỗ lực. Kẻ chưa dụng công tới đâu cả thì chớ biếng nhác. Trong lúc tham gia Thiền-thất, quý vị phải buông xả hết mọi thứ. Có câu: "Đề khởi được, buông xả được."
"Đề khởi được" cái gì? Đề khởi được câu "Niệm Phật là ai?"
"Buông xả được" thứ gì? Buông xả được mọi vọng tưởng. Phải buông xả được vọng tưởng và sự nghĩ ngợi lăng xăng thì trí huệ mới nảy sinh. Không buông xả được vọng tưởng thì dụng công sẽ không có kết quả.
Ngày thứ 15:
Cho đến hôm nay tôi đã quen dần và hơi thuần thục trong thế ngồi kiết già, không còn những cơn đaukinh khủng như lúc ban đầu. Mỗi lần ngồi như vậy tôi có thể ngồi hơn một tiếng thì cơn đau nhức mới kéo đến. Giờ chỉ còn lại thời khóa dài 2 tiếng buổi sáng và buổi tối, tôi phải chật vật vượt qua. Ngày nào cũngthiền định như vậy và ngày nào cũng phải chạm trán với cơn đau, cái đau nhưng tôi tin rằng, càng chịu đựng cơn đau thì càng bớt nghiệp, phức đức tăng trưởng, nên cơn đau dần trở thành một sự chịu đựngđáng giá và có ý nghĩa.
Tôi tin rằng, nếu có đủ duyên trong tương lai tôi sẽ gởi các đệ tử của mình vào môi trường này tu học. Đây là trường tuyển Phật và đào tạo thánh nhân và tôi đã trải nghiệm qua tất cả với những cảm nhận và chứng thực sâu xa. Nếu các đệ tử tôi, những người Phật tử nào có đủ duyên để được vào học, vào tu ở môi trường này và kham nhẫn chịu được, thì tôi tin rằng vị ấy có đủ chủng tử thánh và năng lực thánh để đạt đạo. Nơi đây tu hành, nếu không thành Phật thì cũng thành Thánh, vì nơi đây không có đất xấu và duyên xấu để tạo tác các nghiệp xấu. Lực tu hành và giữ giới ở đây lại quá thanh tịnh, nên rất ít có cơ hội và điệu kiện để mình phạm và đọa lạc. Có lẽ tôi không nói quá đâu, nhưng để có đủ cơ duyên vào đó và được nhận vào đó cũng không phải là điều dễ dàng và ai muốn cũng được, vì họ rất chọn lọc khi nhận người vào.
H.T khai thị:
Lão Tử nói rằng:
"Quân tử hữu tạo mệnh chi học,
Mệnh do ngã lập, Phước tự kỷ cầu.
Họa, phước vô môn,
Duy nhân tự chiêu."
Nghiã là:
"Quân tử có cái học tạo mệnh,
Mệnh do mình lập, Phước do mình cầu.
Phước với họa chẳng có cửa,
Chỉ do mình tự chiêu cảm lấy."
"Quân tử hữu tạo mệnh chi học." Trời, Đất, Người gọi là Tam Tài. Người là đại biểu của trời, đất; trời không thể nói được mà đất cũng không thể nói được, chỉ có người mới có ngôn từ, có động tác. Sinh mạng con người không phải là nhất định, nhưng cũng có thể nói là nhất định. Tại sao nhất định? Cũng như là mình chia đồ vật vậy: Anh một phần, tôi một phần; đó gọi là nhất định. Thế nào là không nhất định? Giống như đồ vật của anh thì anh dùng hết rất mau, mà đồ vật của tôi thì tôi không dùng cho nên vẫn còn nguyên; đó gọi là không nhất định. Cho nên nói: "Quân tử có cái học tạo mệnh."
Khi sinh ra, chẳng ai kêu mình làm chuyện ác cả, song mình cứ làm ác; đó là mình tự cải biến vận mạng của chính mình. Sinh ra chẳng có ai kêu mình làm chuyện thiện cả nhưng mình cứ làm chuyện thiện, thì đó là mình siêu thoát ra khỏi vận mệnh. Thí dụ như khách bộ hành, muốn đi hướng đông thì nhắm hướng đông mà đi, muốn đi hướng tây thì nhắm hướng tây mà đi. Mệnh vận của người quân tử thì rấtlinh hoạt chớ không phải là cứng ngắc; tất cả mọi chuyện đều do nơi tay mình làm nên, bởi thế: "Quân tử có cái học tạo mệnh."
"Mệnh do ngã lập." Mình có thể cải biến vận mệnh của chính mình. Nếu như khi có bịnh mà biết giữ gìnthì không đi đến tình trạng nguy hiểm đến tánh mạng. Đó là tự mình có năng lực kiểm soát chính mình, không phải ỷ lại người khác. Đáng lẽ phải sống chết luân chuyển trong Lục đạo, nhưng nếu biết tu Đạothì có thể siêu thoát ra khỏi vận mệnh, cắt đứt vòng sinh tử; đó cũng gọi là tạo mệnh.
"Phước tự kỷ cầu." Phước từ nơi mình mà cầu: Nếu mình biết tu phước thì có phước, biết tu huệ thì có huệ. Phước, huệ cùng tu thì càng tốt hơn nữa. Tu phước thì phải hướng về bên trong mà cầu; cầu nơi chính mình, coi thử mình có đức hạnh hay không. Có đạo đức là có phước, không đức hạnh thì là kẻ vô phước. Quân tử cầu nơi chính mình, tiểu nhân thì cầu cạnh nơi người khác. Tiểu nhân lúc nào cũng hướng ra bên ngoài mà cầu.
"Họa, phước vô môn. Duy nhân tự chiêu." Họa, phước không có cửa ra vào, chỉ do mình tự chuốc lấy; có nghĩa là: Bịnh tùng khẩu nhập, Họa tùng khẩu xuất. (Bịnh từ miệng mà vào, Họa do miệng mà ra.) Con người gặp phải đủ thứ tai họa, hoạn nạn là do ăn nói bậy bạ mà ra. Kẻ ham ăn vị ngon, cá thịt, gà vịt, đồ biển v.v... tuy rằng nhất thời sướng cái miệng song sẽ mang nhiều bịnh tật. Khi ăn thì thấy ngon thiệt, nhưng dần dà khi chất độc ngấm vào sanh bịnh thì sẽ hết thuốc chữa! Hiện tại thịt động vật có một chất độc mà không có thuốc nào chữa được. Cho nên khi ta ăn thịt thú vật thì thứ độc ấy truyền vô người mình. Thực vật là loại không có sinh mạng, nên dù có độc cũng rất ít. Chất độc trong thịt là 100%, còn độc trong đồ chay chỉ có 1%, cho nên có thể nói rằng ăn thịt với ăn chay khác nhau một trời một vực!
Các vị học Phật Pháp đừng nên tham ăn đồ ngon, đừng tham ngon miệng! Sau một thời gian ăn chay, chất độc trong người có thể bài tiết ra hết mà không mắc phải những bịnh quái gở. Hy vọng các vị chú ýnghiên cứu lời tôi nói. Thời đại bây giờ vô cùng tệ hại, nên mọi người phải mạnh dạn khuyến khích nhau đừng sát sinh, mà phải bảo vệ sinh mạng thì mới tránh được họa nhân loại diệt vong. Mong các vị hãythận trọng, và hãy tự chế!
Ngày thứ 16:
Tôi được biết là những khóa thiền thất sau này (khi không còn H.T nữa) thì đã được điều chỉnh lại thời gian, bởi vì nếu gắt quá thì sẽ khó có nhiều được có đủ khả năng, thời gian, căn cơ mà tham dự. Khi H.T còn sống, có khóa thiền thất lên đến 100 ngày, và thời gian dụng công lên đến 21 tiếng mỗi ngày. Chúng ta hãy đọc một đoạn sau đây về Một Trăm Ngày Thiền Thất trong tập khai thị:
Một khóa thiền kéo dài 98 ngày, ở một nước phương Tây này, tuy trong tương lai chưa hẳn là vô song, nhưng tính đến nay phải nói là chưa từng có. Chính là: chứng kiến một chuyện chưa từng thấy, nghe một chuyện chưa từng nghe! Mấy ngàn năm nay thực sự chưa hề có một cuộc tu tập nào khổ công như vậy! Sáng sớm, từ hai giờ đã bắt đầu ngồi thiền, xen vào giữa là một giờ nghỉ, cho đến đêm 12 giờ mới ngủ. Vậy là mỗi ngày dụng công trọn 21 tiếng đồng hồ. Bởi vậy mới nói là một khóa thiền chưa từng có.
Quý vị tham dự khóa thiền này, tất phải khảo nghiệm, cố gắng chịu đựng, để từ đầu thông suốt cho tới cuối, chớ không thể nửa chừng bỏ dở. Nếu không thì công phu bỏ ra sẽ thành uổng phí hết, chẳng được chút gì, lại cô phụ bao nhiêu tâm nguyện của mình lúc khởi thủy. Có câu nói: "Nếm mùi cực khổ trong cái khổ, mới trở thành kẻ thượng nhân." Có như thế mới là kẻ siêu việt trong hàng Phật tử chân chánh.
Khóa thiền thất này lại khiến cho tôi vui mừng vì có mấy vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni phát tâm "dạ bất đảo đơn," nghĩa là tới giờ ngủ, họ không trở về phòng mà ngồi luôn tại ghế thiền nghỉ. Cách thức tu trì như thế thực quả tại Tây-phương chưa từng có. (Sách kỷ lục có ghi: Bây giờ tất cả các pháp sư tại Vạn PhậtThành đều phát nguyện giữ đúng "mỗi ngày một bữa (ăn), đêm không ngã lưng" (nhật trung nhất thực, dạ bất đảo đơn). Tinh thần như vậy thật đáng ngưỡng mộ.
Trong lúc ngồi thiền, không người nào được nói chuyện. Mỗi người tự mình chiếu cố thoại đầu của mình, tự mình dụng công. Trông thấy bất cứ ai, cũng mặc kệ. Tại sao? Bởi không người, không ta mà! Ai tới thì tới, ai đi thì đi, chỉ chuyên tâm chuyên chí tham câu "niệm Phật là ai?" trong thời gian 98 ngày ắt có kết quả. Trong kỳ thiền thất mùa đông này, những ai chưa khai ngộ sẽ bị phạt một trăm ngày quỳ hươngtrước bàn thờ Phật. Còn đối với vị nào khai ngộ, tôi xin thiết một đại tiệc khai ngộ, muốn ăn thức gì sẽ có thức ấy, bảo đảm cả trăm vị đầy đủ. Có câu nói: "Thiên trù diệu cúng, thiền duyệt tô-đà." Lúc ấy được coi là giờ phút quang vinh nhất trong đạo Phật. Quý vị nhớ! Muốn khai ngộ, ta phải giữ quy củ đó! Như không muốn khai ngộ, thì xin cứ tùy tiện, không ai bó buộc quý vị.
Khi ở Hương-cảng, tôi đã từng tham dự mười tuần thiền thất. Trong khóa tu, có cả một vị trưởng lãomang râu - Hòa-thượng Minh Quán, cũng có dự nữa. Đó là một vị lão tu hành, còn tôi thì không. Chúng tôi cùng nhau ngồi đủ bẩy mươi ngày, kết quả giữa chúng tôi không ai hơn ai kém.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
"Yếu học hảo, oan nghiệt trảo,
Yếu thành Phật, tiên thọ ma."
Dịch là:
"Muốn học tốt, oan nghiệt tìm,
Muốn thành Phật, trước gặp ma."
"Muốn học tốt, oan nghiệt tìm." Mình muốn làm chuyện tốt thì thế nào oan nghiệt cũng đến tìm. Càng làm tốt thì oan nghiệt kiếm mình càng gắt bởi vì nó muốn thanh toán nợ nần với mình! Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này qua đời khác mình tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn, không có rõ ràng; bởi vậy khi muốn tu Đạothì chủ nợ họ đều tới tìm mình để đòi nợ. Ví dụ có kẻ mượn người khác tiền mà chưa trả sòng phẳng. Lúc y chưa phát tài thì chủ nợ biết y chẳng có tiền nên chẳng đến đòi; nhưng khi y mà phát tài thì chủ nợ liền đập cửa đòi nợ. Vì sao? Vì chủ nợ biết y có tiền! Nếu y không tới đòi thì chẳng biết lúc nào đòi đặng, cho nên phải đòi.
Bởi vậy, trong quá trình tu Đạo mình sẽ gặp nghịch cảnh, mà gặp nghịch cảnh thì mình phải càng dũng mãnh tinh tấn, không có thối thất tâm Bồ Đề. Những nợ nần mà người chủ nợ đến đòi thì mình phải trả cho hết; tức là đem công đức tu hành của mình hồi hướng tới chủ nợ, tới những người oán, kẻ thân; để khi họ nhận được công đức của mình, họ sẽ ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử, đến lúc đó món nợ của mình mới hoàn toàn phủi sạch.
Từ vô lượng kiếp tới nay, do đủ thứ nhân duyên nên mình mắc nợ không phải ít. Ngay đời này, thử suy nghĩ một cách chín chắn coi mình đã giết bao nhiêu sinh mạng rồi? Có bao nhiêu chuyện không công bình mình đã tạo ra? Đối với chúng sinh, nếu mình chưa có giết qua một sinh vật nào, thí dụ như sư tử, voi, heo, gà, trâu, bò v.v... nhưng rất có thể là mình đã sát hại những sinh vật nhỏ hơn như ruồi, muỗi, dế, thằn lằn... Dù nói rằng mình chưa từng giết những sinh vật nhỏ như vậy, nhưng chắc chắn mình vẫn có ý niệm sát sinh tồn tại trong lòng. Lúc nhỏ, vì mình không để ý, bất giác giết hại rất nhiều côn trùng nhỏ, cái đó gọi là Vô tri tội, tội sát mà không có cố ý. Nhưng những chúng sinh bị mình đoạt mạng thì giờ đây, khi mình muốn tu Đạo, thì bọn chúng chắc chắn sẽ tới tìm để đòi nợ. Cái thứ nợ này không phải chỉ có một, hai mà thôi, mà là vô số, bởi vì đời này qua đời khác mình tích lũy nó, nhiều kể không hết!
Do vậy, đừng nói rằng ông Trời bất công: "Tôi bây giờ tu hành rồi, tôi không muốn nhận tất cả những oan gia nghiệp báo, nợ nần hồi xưa." Nghĩ như thế thì vĩnh viễn mình không thể thành Đạo được, bởi vì lòng ta không công bình. Tâm mà công bình thì mình phải nhận nợ. Cho nên nói rằng: "Muốn học tốt, oan nghiệt tìm"; khi mình trở nên giàu đột ngột, thì bạn bè nghèo cùng đều tới đập cửa để đòi nợ.
"Muốn thành Phật, trước gặp ma." Phật mà thành Đạo là do ma giúp đỡ, nếu như không có ma thì không có Phật. Ma đến khảo nghiệm làm cho mình tiến bộ; nên nói rằng:
“Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thượng nhất tằng lâu.
(Muốn thấy tận cùng ngàn dặm,
Phải bước lên thêm một tầng lầu.)
Ma coi thử "hỏa hầu" của mình có đủ chưa. Nếu đủ thì ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi, vạn con ma tới mình cũng không thối lui, không thối thất tâm Bồ Đề. Càng khốn khổ gian nan bao nhiêu, thì càng tinh tấn bấy nhiêu. Hễ nơi nghịch cảnh chằng chịt, rối ren bao nhiêu, thì tâm càng phải an nhiên, bình thản bấy nhiên. Đừng nghĩ là bất công, cũng đừng oán trời, trách người.
Ngày thứ 17:
Phải nói trong lòng tôi rất thán phục những hành giả chân thật tu trong khóa thiền thất này, dù họ là những người tại gia, hay là một thầy Tỳ kheo trẻ người Thái qua tu tại Vạn Phật Thành cách đây khoảng hơn 3 năm. Những vị này có thể ngồi thiền và nhập định suốt đêm, hoặc từ giữa khuya đến giờ ăn trưa. Các vị ấy có thể ngồi an tĩnh (như như bất động) một lúc từ 7 tiếng đến 10 tiếng hoặc nữa ngày, cho thấyđịnh lực của họ không thể tầm thường. Việc điều thân như vậy ít nhất phải mất nhiều năm và phải làm cho bằng được trước khi điều tâm, đó là pháp của H.T Tuyến Hóa buộc phải thực hiện. Các thiền phái khác hoặc các phương pháp tu tập trong các chùa Việt chúng ta không đặt nặng thế ngồi bán già haykiết già, nên sự dụng công của chúng ta không thể đi sâu vào thiền định được, thay vào đó cách ngồi thiền như vậy chỉ là để tĩnh tâm, bớt các vọng tưởng bên trong chúng ta.
Nhưng tu tập không phải là để bớt vọng tưởng, vì bớt vọng tưởng thì chỉ như là gãi ngứa cho thằng chủVô minh. Hôm nay bớt, nhưng ngày mai, mốt, bữa kia thằng chủ Vô minh sẽ sai phái đến hàng loạt binh lính vọng tưởng khác nhiễu loạn chúng ta. Cho nên trong trận chiến đấu này với Vô minh, sẽ không có sự khoan nhượng hay thương lượng với chúng, mà phải chấp nhận tinh thần chiến đấu một mất, một còn với chúng. Định hướng và xác quyết như vậy, chúng ta phải ngồi thiền cho bằng được theo thế kiết già, tức là thế Hàng ma tọa, Kim cang tọa để quyết chiến với chúng ma vương, mà đầu tiên là con ma đau đớn. Càng đau chúng ta càng phải lập thệ chiến đấu đến cùng và vượt qua nó, nếu không thắng được thì con ma sợ hãi, con ma nhát gan, con ma dễ duôi sẽ xui ta và cười lên trên sự yếu ớt, hèn nhát nơi ta. Như vậy thì quả thật đáng xấu hổ cho việc tu hành của ta! Có việc ngồi kiết già cũng không xong, thì nói chi đến việc tu hành, hàng phục phiền não, vô minh, đạt đến giải thoát. Chúa ma lúc ấy chắc sẽ cười chêta, nhạo báng ta và cho rằng ta chỉ là một kẻ nói khoác, chỉ hay giỏi nói.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Thân cây, mỗi ngày mỗi cao lớn nhưng ta không thấy sự sinh trưởng của cây. Tuy ta chẳng để ý, nhưng cây cứ cao lớn dần, chờ đến mười năm hoặc trăm năm sau thì cây đó biến thành vật hữu dụng.
Cây thì vậy, người tu Đạo thì cũng thế. Đừng quá gấp gáp, đừng nghĩ rằng hôm nay tu hành thì ngày maikhai ngộ. Chẳng phải dễ dàng như vậy đâu! Mà cần phải ngày ngày tu luyện, ngày ngày trau giồi, chẳng cần biết là có tiến bộ hay không. Không thối lui có nghĩa là tiến bộ rồi. Chỉ cần làm cho vọng tưởng mỗi ngày giảm bớt, thì đã là tiến bộ rồi; dục niệm mỗi ngày mỗi ít thì đó là tiến bộ rồi; tham sân si mỗi ngày thối lui tức là tiến bộ rồi; đừng có muốn mau muốn chóng. Cho nên nói:
"Kỳ tấn duệ giả, kỳ thối tốc"
Nghĩa là:
"Tiến càng nhanh, thì lùi cũng rất mau."
Tới thật mau tức là lùi cũng mau, cho nên cần phải có cái tâm hằng thường mà tu hành, ngày ngày phảisám hối để sửa đổi lỗi lầm:
"Nhất nhật vô quá khả cải,
Tức nhất nhật vô công khả tạo".
Nghĩa là:
"Một ngày chẳng sửa lỗi lầm,
Là một ngày chẳng tạo công đức."
Cho nên tu hành cần phải trừ bỏ tập khí, lỗi lầm xấu xa, bỏ đi những tư tưởng lầm lạc, khiến cho trí huệ quang minh bản hữu của mình xuất hiện. Trí huệ quang minh này người nào cũng có cả, nhưng rất tiếc là bị vô minh che khuất. Khi không thể dùng trí huệ quang minh này, bởi vô minh che phủ, sẽ làm cho mình cứ muốn trụt xuống, không muốn đi lên; nếu hiển lộ được trí huệ thì tự nhiên mình sẽ tiến tới, đi lênmãi. Đó gọi là "nghịch lưu" (đi ngược giòng nước)! Cho nên tu hành không phải chỉ có một ngày một đêm, mà cần phải hàng giờ, hàng phút, hàng ngày. Buổi cũng sáng như vậy, buổi chiều cũng như vậy, năm này tháng nọ đều tu hành như vậy, hằng thường bất biến. Thời gian lâu rồi thì mình mới trưởng dưỡng được trí huệ Bát Nhã.
Đừng nên "một ngày nóng mười ngày lạnh," một ngày tu mười ngày nghỉ, nếu như vậy thì chẳng thểthành tựu đặng. Phải như thân cây, mỗi ngày lớn lên một chút, ngày ngày đem lòng thành mà tu hành. Trong thời gian tu hành, nếu gặp những cảnh giới gì, dù ma chướng hay nghịch duyên hoặc thuận duyên..., cũng phải an nhiên, bình thản. Thuận cảnh hay nghịch cảnh, mình đều phải tinh tấn, coi mọi sự vật đều như đang nói diệu Pháp cho mình. Nếu hiểu được mọi vật đều thuyết Pháp cho mình, mỗi diễn biến đều là bài Pháp, thì sẽ biết được sự kỳ diệu mà ngôn ngữ không thể diễn tả được.
Nếu hiểu được vậy thì sẽ biết được "bản lai diện mục" của chính mình, biết được con đường về nhà rồi đó. Cho nên mượn pháp thế gian mà vượt khỏi pháp thế gian, không bị vạn pháp làm mê lầm, không bị mọi hình tướng làm mê hoặc. Lúc tất cả cảnh giới tới, nếu mình bình tĩnh sáng suốt, không bị chướng ngại, thì lâu ngày trí huệ của mình sẽ hiện ra.
Ngày thứ 18:
Con người ta sống ở đời chịu khổ nhiều là do chạy theo cái “Dục”. Dục mong muốn, dục khao khát, mong cầu, muốn được thỏa mãn quá nhiều nên tâm trí và xác thân này phải chịu làm nô lệ cho nó. Người đời nghĩ rằng những “dục tưởng” ấy là bạn thân của mình, mong muốn đem lại điều tốt, điều sướng cho thân, cho cuộc sống; nhưng ai ngờ chính nó là những kẻ giặc, sai sử ta, sui khiến ta chạy theo điên đảo, mê lầm để rồi nhận lãnh tất cả những khổ đau, phiền lụy trong suốt những kiếp sống tử sinh.
Khi tu Phật, khi học đạo và được khai thị chỉ bày, ta thấy rõ những “dục tưởng” này chính là những tên giặc ma quái, nhận diện nó và không theo nó nên nó hổ thẹn biến mất. Không được học pháp và sáng suốt nhận chân, ta bỗng trở nên mù mờ, bị nó sai khiến, tạo bao ác nghiệp và rước lấy khổ đau. Suy cho cùng, trên thế gian này có được bao nhiêu người có được cơ duyên học Phật, nghe pháp và tu hành để biết cách thoát khỏi những nanh vuốt của yêu quái bên trong chúng ta.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người phàm không có cơ hội để thoát nó, để rồi mỗi giờ, mỗi phút giây lại có hàng trăm, hàng ngàn tên vọng tưởng, tên giặc phiền não khởi lên sai sử chúng ta và quấy rối tâm mình. Chúng ta có đủ năng lực để không chế vọng tâm, dứt trừ phiền não hay tuân lệnh, hành xử theo sự đòi hỏi, sai khiến của chúng? Chúng ta có đủ trí tuệ diệt trừ hay năng lực chuyển hóa để hướng chúng vọng tưởng đó đi theo con đường thiện, con đường tu hành? Thế nên sống cuộc đời thế gian, cuộc sống phàm phu thì con người ta không có sự lựa chọn nào khác.
Nay trong những khóa tu thiền, chúng ta học cách và biết cách khống chế các vọng tưởng, dục tưởng đó bằng cách dùng câu niệm Phật, hay câu thoại đầu: « Ai niệm Phật » để chế ngự và đánh đuổi tất cả những dục tưởng, vọng tưởng khác ra khỏi tâm ta. Chúng ta nếu có tu, có hành, sáng được một giờ thìchúng ta loại trừ được hàng trăm tên giặc phiền não, vọng tưởng, vô minh. Chúng ta sáng 2 giờ, 5 giờ, 10 giờ thì chúng ta đánh đuổi được trăm ngàn tên giặc vọng tưởng, dục tưởng, vô minh. Như vậy há chẳng phải, chỉ một khóa thiền thất, một khóa công phu tu tập, biết cách dụng công, siêng năng hành trì làchúng ta đã có thể phá được trăm ngàn tên giặc phiền não, vô minh, đã gây cho chúng ta khổ đau,phiền lụy trong suốt những năm tháng qua.
Thiền định có năng lực mạnh mẽ đến như thế. Thoại đầu tuy đơn giản, dễ hành nhưng có đầy uy lựcnhư thế, quả thật, nó chính là thanh bảo kiếm, chặt chém hết thảy những cây gai, cỏ dại của vọng tưởng,vô minh, trói chặt, sai sử, đàn áp chúng ta từ muôn kiếp.
Chỉ trong thời gian ngắn gần 3 tuần hành trì, tôi đã cảm nhận được sức mạnh này của thanh bảo kiếmthoại đầu. Nó đã tiêu diệt vô số phiền não, vọng tưởng si mê trong tôi, và dĩ nhiên từ ánh sáng này lần ra, tôi thấy rõ được bước đường và hướng đi của mình trên con đường tu tập. Ở đó gian nan, thử thách cũng còn nhiều, nhưng ở đó tôi cũng thấy rõ ràng hơn mọi sự, mọi vật để lúc bước tới, chân tôi không phải chùn, tôi không còn phải mê mờ, dọ dẫm, sợ hãi và lạc mất phương hướng. Đó là điều tôi cảm thán, ghi tạc lại những duyên lành mà các bậc thầy, các bậc Thiện hữu tri thức đã trợ duyên và soi đường cho tôi.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Nếu không kiềm chế tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính không bao giờ xuất hiện được. Tự tánh bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai tên làm kế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai thứ này giúp đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói rằng:
"Thực, sắc tánh dã."
Nghiã là háo ăn, háo sắc đều là bản tánh của chúng sinh vậy.
Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đặng? Tại sao phiền não cũng không đoạn được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Đó chính là do mình có lòng tham ăn, lòng háo sắc! Ăn uống thì trợ giúp chodục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm nữa. Đúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đã có, sau khi có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng tham sắc. Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc,quyến luyến nhau, ham muốn không chịu buông bỏ, không thể nhìn suốt được.
Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục, cho nên người xưa nói rằng:
"Bão noãn tư dâm dục,
Cơ hàn khởi đạo tâm."
(No ấm thì nghĩ chuyện dâm dục,
Đói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.)
Khi ăn no rồi, con trai nghĩ đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi nghèo thì nghĩ cách trộm cắp, cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại khởi lên. Thế nên hễ ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì lại chỉ khởi lòng dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn thật ngon miệng, muốn ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều làm sao thỏa mãn được lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc, vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại được ai.
Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối với vấn đềăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà hành Đạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bịnh; đó là thực hànhTrung Đạo.
Ngày thứ 19:
Từ những ngày đầu vào Vạn Phật Thánh Thành là tôi đã được cho mượn chiếc y giới để đắp cho giốngchúng Tăng thường trụ. Mọi người xuất gia vào đây tu hành đều phải nghiêm chỉnh tuân theo thanh quycủa Tòng lâm, nên không được nhúc nhích, vì chúng Tăng ở đây làm sao, ta phải làm y theo như vậy.Thanh quy ở đây từng nổi tiếng là nơi nghiêm ngặt nhất thế giới kia mà.
Lúc đầu tôi thấy cũng khó vì chưa quen, nhưng ở một hai tuần quen rồi, tôi thấy thanh quy như vậy màhay, vì nó điều phục được tất cả tâm tánh ỷ y, dễ duôi, buông thả thường nhật của một con người, trong đó có tôi. Ngay từ thời gian đầu xuất gia, tôi đã có tính này và ít chịu khép mình vào đời sống kỷ luật củathiền môn. Tôi thích một cuộc sống tu hành phóng khoáng, không cố chấp, tự do tự tại nên nhiều năm liền, tôi ra nước ngoài và sống mướn một ngôi nhà bên ngoài để học và để tu. Sang Ấn Độ nhiều năm tôi cũng sống như vậy, ngoài trừ thời gian tôi ở trong tu viện Sera, một tu viện Phật giáo Tây Tạng, nhưng rồi tôi cũng có một gian nhà biệt lập cho mình. Cách sống như vậy cũng có ý hay của nó, vì cho con ngườikhả năng tự chủ, độc lập và trách nhiệm với đời sống tu hành của mình, nếu người tu ấy sống có hạnh, có ý thức, biết giữ giới đức và cầu tiến đi lên trên con đường tu hành. Nếu không, một đời sống như vậy dễ dàng dẫn đến sự dễ duôi, bê tha và đánh mất đời sống thanh tịnh của người xuất gia tu hành. Trong các bài giảng của ngài Tuyên Hóa, ngài quở trách rất nặng đời sống xuất gia của người Tăng sĩ như vậy, và răn nhắc người xuất gia phải sống và tu hành thanh tịnh trong các Tòng lâm.
Trải qua thời gian sống ở Tòng lâm VPTT, tôi mới suy gẫm và đối chiếu lại suốt cuộc đời tu xuất gia của mình mà đa phần sống bên ngoài bức tường rào của Tòng lâm, tôi thấy những lời dạy của ngài thật là tha thiết, thật đúng và chân thực làm sao! Tôi đã đánh mất khá nhiều thời gian cho đời sống đi đó đây,nghiên cứu, sưu tầm và học hỏi. Ngài Tuyên Hóa có lần nói: “hàng ngày đọc các tin tức, thời sự, biết thêm nhiều về thế giới này để làm gì? Có giúp ích cho sự giải thoát không?” Hay ta chỉ biện minh cho việc ham thích hướng ngoại và truy cầu thỏa mãn sự khao khát vi tế của lục căn đối với đời sống thế gian.
Vì suy nghiệm cho cùng, tất cả những kiến thức bên ngoài đưa vào tâm ta đó, thật ra chỉ là một mớ hỗn độn, tạp nhạp, rác rưởi của tri thức, tri kiến thế gian để cuối cùng chính tâm ta lại bị quấy rầy, nhiễm trướcvà tán loạn bởi tất cả những hiểu biết và tri thức thừa thãi mà ta đã đưa vào. Ta nhân danh sự học hỏi,hiểu biết của thế gian để đưa vào tâm mình; và nay ta có dám nhân danh con đường tu hành, giải thoátsinh tử để loại bỏ tất cả sự tạp nhiễm, ô uế và loạn động đó ra khỏi tâm ta? Thật là rất khó! Vì bởi đưa vào thì dễ, nhưng cương quyết đoạn trừ thói quen (ghiền) tập nhiễm này mới thật là khó, khó như bắc thang lên trời. Thứ rác rưởi ấy có giúp tôi chóng khai ngộ hay không, hay chỉ là những thứ rác làm bẩn thêm tâm thức vốn thanh tịnh của tôi. Tôi thấy rõ điều ấy vì sau bao nhiêu năm tu hành, tâm tôi vẫn chưa tịnh, vẫn còn bị nhiều nhiễm trước, vẫn còn khó khăn để gỡ thoát ra khỏi cuộc đời này.
Tôi cũng lại cảm thấy ân hận, nuối tiếc lấy chính mình là sao không có đủ cơ duyên, phước báo để vào đây tu hành năm 1991 (thời gian mà Hòa Thượng Tuyên Hóa còn sống), là năm tôi rời bỏ Âu châu để sang Ấn Độ tầm sư học đạo. Nếu không phải loanh quanh tìm cầu, nếu không phải nghiên cứu, sưu tầm,trích dịch, đuổi theo thế học; và nếu được học và tu đúng môi trường với các bậc minh sư, thiện trithứcdạy dỗ, có lẽ tôi sẽ không phải là tôi, một kẻ tu hành bất tài và vô dụng như hiện bây giờ.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Lão Tử nói:
"Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo,
Học đáo như ngu thủy kiến kỳ."
Dịch là:
"Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo,
Học tới như ngây mới diệu kỳ."
Mình cần học "ngây ngô." Song học ngây ngô không phải là chuyện dễ, bởi vì kinh nghiệm thường dạy mình rằng đừng có ngây ngô. Cho nên nếu dưỡng tâm như khờ dại thì đó mới gọi là tinh xảo. Tu hànhtức là muốn dưỡng "chuyết," dưỡng tâm như kẻ khờ khạo; càng khờ càng tốt. Sao gọi là khờ? Khờ có nghĩa là hoàn toàn chẳng có vọng tưởng. Không khờ thì vọng tưởng đầy dẫy.
Vọng tưởng mà nhiều thì tự nhiên muốn tìm chuyện xưa, muốn biết chuyện nay, rồi muốn xen vào đủ chuyện tạp nhạp, muốn hiểu đủ thứ báo chí tin tức lăng nhăng. Đó là những điều chướng ngại cho sự tu hành. Sự khờ khạo, dốt nát chân chính là như thế nào? Tức là nhập Định. Nếu nhập Định thì đông, tây, nam, bắc, đều chẳng biết tới; cùng thế giới vô tranh, tự tại vô ngại.
Tại sao mình không thể tự tại vô ngại được? Là bởi vì còn có lòng tranh, lòng tham, lòng cầu, lòng ích kỷ, lòng tự lợi; do đó chẳng thể tự tại được. Muốn tự tại cũng làm không được. Khi đã bất mãn hiện tại, bất mãn quá khứ, bất mãn tương lai, cứ cho rằng người khác đối với mình không tốt, cho rằng mình cư xử tốt với người, tự biện hộ, tự đứng trên cương vị không thua ai cả, rằng mình là hơn người, thì không thể tu Đạo được. Tu Đạo tức là chẳng biện hộ, chẳng giảo hoạt, chẳng nói chuyện thị phi; cho nên nói:
Ma Ha Tát, bất quản tha,
Di Đà Phật, các cố các.
(Đại Bồ Tát, chẳng xen vào chuyện người.
A Di Đà Phật, ai lo chuyện nấy!)
Luôn luôn canh gác thân tâm, không nghĩ loạn xạ, đó tức là chân chính tu Đạo. Kẻ không chân chính tu Đạo thì lúc nào cũng nghĩ này nọ loạn xạ, lúc nào cũng tìm phương cách để làm lợi cho mình. Vì thế kẻchân chính tu hành thì phải:
Vạn duyên phóng hạ,
Nhất niệm bất sanh.
(Buông xả mọi chuyện,
Một niệm không khởi.)
Buông xả tất cả danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ. Không khởi ý niệm nên không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; luôn luôn tự tại an lạc. Chân chính tự tại là gì? Tức là không khởi vọng tưởng! Nếu tối ngày cứ khởi vọng tưởng thì mình không có tự tại; tư tưởng loạn xạ của mình sẽ tới khắp cùnghư không, Pháp giới. Nếu không muốn tu thì chẳng cần nói làm gì, bằng nếu muốn chân chính tu hànhthì đừng nghĩ loạn xạ, hãy đem tâm mình cột chặt một chỗ, nhất tâm chuyên niệm. Hễ chuyên nhất thì mới linh ứng; hễ tâm phân tán thì trở nên u mê. Cho nên người muốn tu thì phải biết đạo lý này vậy.
Ngày thứ 20:
Chính vì những quy điều nghiêm ngặt như vậy nên mặc dù cũng có tiếp chuyện một vài vị thầy Việt Namtu trong VPPT, nhưng chẳng có thầy nào mời tôi vào phòng, để thấy và để biết các thầy sống trong phòng như thế nào, sinh hoạt tu hành, học tập ra sao? Có việc mấy thầy bước ra ngoài nói chuyện vài câu, xong trở vào phòng, hoặc bảo tôi rằng, có việc gì cứ việc viết vào giấy và bỏ vào khay thư bên ngoài cửa, và các vị ấy sẽ viết lại trả lời. Thật tôi chưa từng thấy nơi nào trên thế giới có đời sống tu hànhkhô khan và lạnh lùng đến như vậy.
Nhưng ngẫm nghĩ lại, như vậy thấy mà hay vì tập cho người tu sĩ ở đây chỉ biết có tu, tu và tu. Không biết tu thì sẽ không thể trụ nổi ở VPTT được, vì rõ ràng một đời sống khô khan, cô độc và chỉ có tu như vậy thìchỉ có những người tha thiết tu hành, sống chết tu hành mới có thể chịu đựng nổi một đời sống như vậy qua năm này, tháng nọ. Bên cạnh đó, cái lạnh khủng khiếp ở trong phòng, giống như đang sống trong một tủ đá, cái đói vì ngày chỉ được ăn một bữa (có lúc tôi thấy thèm một thỏi sô-cô-la, một cái bánh quy nào đó, nhưng đành bất lực) và nhiều cái bất như ý khác như nói chuyện, quan hệ.v.v… làm tôi liên tưởng rằng, ở nhà tù tại những xứ Tây phương cũng còn sướng hơn ở đây rất nhiều.
Dĩ nhiên các bậc thầy tổ như H.T Tuyên Hóa huấn luyện hàng đệ tử tu hành như vậy đều có cái lý từ nơitrí tuệ siêu việt của ngài. Tất cả sự kham nhẫn và khổ luyện đó sẽ tạo cho người xuất gia một sức mạnhkham nhẫn cao độ, một sự rèn dũa, trui mài ý chí, tích công bồi đức, một sự tích lũy công đức và phước báu trong đời sống tu hành, để mài sáng trí tuệ, rửa sạch hoặc nghiệp, soi chiếu chân tâm vốn từngthanh tịnh nhưng đã bị ô nhiễm, vấy bẩn dày đặc bởi bụm bặm trần lao. Không có một bậc thầy trí tuệquang minh soi sáng, chỉ bày, từ bi tận tụy dạy dỗ, chúng ta những người xuất gia vẫn còn là phàm phusẽ vẫn bị đẩy đưa, cuốn hút và đi lạc vào thế gian đầy những cám dỗ thú vị, khoái lạc mê say của cuộc đời mộng ảo này. Để rồi một phút giây quyết định và bị dẫn đi lạc, hai mươi lăm năm sau mới tỉnh ngộ và muốn trở về.
H.T Tuyên Hóa khai thị:
Bí quyết của người tu hành là nên ăn ít. Vì sao? Vì ăn ít thì bớt sanh dục niệm. Dục niệm ít thì có thể biết đủ (tri túc). Biết đủ thì thường xuyên được an lạc.
Luôn luôn an lạc thì không có phiền não. Không có phiền não thì Bồ-đề nảy sanh. Bồ-đề nảy sanh thìđược giải thoát. Đạt được sự giải thoát tức là có thể "nhiệm vận tự tại, sanh tử tự tại, trí huệ tự tại"- tóm lạilà hoàn toàn tự tại. Đó là những chặng đường mà người tu hành phải trải qua; mọi người hãy cùng nhau gắng sức! Người tu hành cần phải nhẫn nại, bất luận cảnh giới thử thách nào xảy đến cho mình thì cũng phải dùng lòng nhẫn nại mà nhịn nhục, nghiến chặt răng mà chịu đựng; lúc đã vượt qua "cửa ải" được rồi thì "gió êm sóng lặng," tự nhiên sẽ được yên ổn.
Khi làm việc, nếu có những việc mình không muốn làm thì cũng nên nhẫn nại mà làm, lâu dần sẽ quen đi, rồi trở thành tự nhiên. Nói tóm lại, bất luận làm công việc gì chúng ta cũng đều nên làm cho đàng hoàng, có lương tâm; chớ nên lười biếng, trốn tránh công việc cho nhàn thân, hoặc làm cẩu thả qua loa cho xong chuyện. Nếu có ý tưởng "làm Hòa Thượng một ngày thì đánh chuông một ngày," tức là trái ngược với Đạo; hạng người này chẳng qua là "dựa vào Phật để có áo mặc, nương theo Phật để kiếm cơm ăn," sống lây lất qua ngày tháng, chắc chắn chẳng có triển vọng gì cả!
Tôi dùng hai chữ "nhẫn nại" làm phương châm cho đời mình -bất luận trong hoàn cảnh nào cũng dứt khoát không chịu đầu hàng, cương quyết nhẫn chịu hết thảy bằng cả thân lẫn tâm. Khi còn ở tại quê nhàĐông Bắc, tôi đã quen "chịu nóng chịu lạnh." Vào những ngày "tam cửu" (thời kỳ lạnh nhất trong năm), tôi không mang giày mang vớ gì cả, cứ để chân trần mà đi trong tiết trời giá rét như cắt, khiến chân bị lạnh cóng đến đau buốt -nhưng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, hễ nhẫn nại được thì không còn thấy đau nữa! Còn trong mấy hôm "tam phục" (thời kỳ nóng nực nhất trong năm) thì khí trời nực nội đến nỗi đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm; bước đi mà cứ thấy trước mắt một màn tối đen, tưởng chừng như trời đất đang quay cuồng đảo lộn vậy. Nhiều người cảm thấy nóng bức đến lả người, nhưng tôi nhận thấycũng không đến nỗi nào, chỉ cần ngồi nghỉ một lát là khỏe ngay.
Tôi lấy hai chữ "nhẫn nại" làm Pháp-bảo để khắc phục mọi khó khăn - chịu lạnh chịu nóng, dầm mưa dãi nắng, nhịn đói nhịn khát; tôi nhẫn nại chịu đựng tất cả, nhất quyết không "kéo cờ trắng" đầu hàng.
Sau khi xuất gia, tôi chuyên tâm tu Pháp Môn Nhẫn Nhục. Nếu có người mắng tôi ư? Thì tôi cứ như chẳng nghe thấy gì cả, hoặc coi như mình đang nghe nhạc vậy, và tự nhiên được bình an vô sự! Nếu có người đánh tôi ư? Tôi tuyệt đối không đánh trả, mà chỉ đón nhận với thái độ bình tĩnh, ôn hòa!
Tôi cũng kiên nhẫn hành trì các khóa lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối - sáng sớm tinh mơ, khi gần đến giờ phải lên Chánh Điện, dù đang ngon giấc mà nghe tiếng mõ báo hiệu là tôi lập tức vùng dậy. Súc miệng rửa mặt, chuẩn bị xong xuôi là tôi lên Chánh điện chờ sẵn; bao giờ tôi cũng đến sớm năm phút, không một lần trễ nãi!Từ khi xuất gia đến nay, tôi luôn luôn dùng lòng nhẫn nại để làm việc. Khi tôi đến những nơi khác để tham cứu học hỏi, bất luận là hành lễ Công Phu Khuya, Công Phu Tối, giảng Kinhthuyết Pháp, nghe Kinh nghe Pháp, hay Cúng Ngọ, tôi đều tới sớm hơn giờ giấc ấn định, chưa bao giờchậm trễ một chút!
Hôm nay tôi mang sự việc trước kia của mình ra kể cho các bạn nghe tức là "hiện thân thuyết Pháp" vậy! Nếu muốn tu hành một cách chân chánh, thì các bạn không được lười biếng, khi làm việc thì phải tích cực, hăng hái, và không được thiếu lòng nhẫn nại. Dẫu có những điều không thể nhẫn nhịn được thì cũng phải nhẫn nhịn, và nếu có những việc không thể chịu đựng nổi thì cũng phải chịu đựng. Nhẫn nhịn và chịu đựng tất cả -đó là kim chỉ nam của người tu hành.
Đặc biệt là trong thời kỳ còn đang học hỏi, rèn luyện thì các bạn càng phải cố gắng nhẫn nhịn và chịu đựng hơn nữa; cho dù thật tình là chẳng thể nào nhẫn nhịn được nữa thì cũng vẫn phải ráng dằn lòngmà nhẫn nhịn! Có câu:
Nhẫn phiến khắc, phong bình lãng tĩnh,
Thối nhất bộ, hải khoát thiên không.
(Nhẫn một chút, gió êm sóng lặng,
Lùi một bước, biển rộng trời cao.)
Ngày thứ 21:
Ngày cuối của khóa thiền thất 3 tuần và trong buổi vấn thiền sau cùng, tôi được hỏi và trình bày về cảm nhận của mình sau khóa tu trước đại chúng. Tôi không dám nói nhiều vì sợ ảnh hưởng thời gian của cáchành giả khác, chỉ bày tỏ lòng biết ơn đối với chúng tăng và các vị hộ Phật tử pháp đã tận tâm lo khóa tu mà trong đó tôi đã được hưởng. Ngoài ra trải suốt thời gian tu tập ở VPTT, tôi cảm nhận và thấy rõ tinh thần dụng công, tu tập của tất cả mọi người, giờ giấc y theo nội quy (chính xác đến từng giây), môi trường, đạo tràng rất thanh tịnh và trang nghiêm, phương pháp tu thiền thoại đầu rõ ràng, minh bạch, có nhiều sự chứng ngộ của các bậc thầy đi trước và gần đây; các bài pháp, khai thị thường chỉ bày những khúc mắc khi ngồi thiền và tán loạn tâm trí, cũng nhắc nhở, khuyến tấn những người tu phải dụng công“như cá thiếu nước, như lửa cháy đầu”, phải mau đạt đến sự kiến tánh, giác ngộ. Như vậy phần còn lại là ở sự dụng công của mỗi cá nhân chúng ta. Tôi thấy rõ điều này nên phát nguyện trong 10 năm tới sẽ y theo thiền pháp này tu hành, cần cầu đạt đạo.
Về lại chùa Cực Lạc, Thái lan trong thời gian tới sẽ là thời gian nhập thất chuyên tu của tôi với các thời khóa mỗi kỳ thiền thất là 11 tuần. Tuần đầu dành cho khóa Phật thất chuyên trì danh niệm Phật và 10 tuần còn lại là khóa thiền thất, chuyên tu về thoại đầu. Như vậy thay vì nhập thất một hơi liền 3 năm như trước đây tôi từng thực hiện, thì bây giờ từng kỳ thiền thất ngắn hạn trong 77 ngày (khoảng 3 tháng) và 3 năm sẽ có được 12 khóa như vậy. Tu tập nhập thất và kham nhẫn hành trì là một việc làm khó khăn và đòi hỏi nhiều nhân duyên, phước lành mới thực hiện được, nhất là môi trường tu hành phải ở nơi A-lan-nhã, rừng núi vắng vẻ, trang nghiêm thanh tịnh, xa cách thế giới đầy loạn động này thì mới dễ thành tựuđược. Chùa Cực Lạc nơi tôi ở có đầy đủ những yếu tố như vậy, nên tôi rất hài lòng với trụ xứ và phương hướng tu tập trong thời gian tới của mình.
Theo đạo Phật thì người tại gia phải kính trọng người xuất gia, chứ không được "coi trời bằng vung," không được khinh thường người xuất gia, không được phê phán người xuất gia. Người tại gia phải biếtcúng dường và tán thán người xuất gia, như vậy thì mới không tạo ra mạn nghiệp (nghiệp kiêu mạn);nếu không, người tại gia sẽ trở nên cống cao ngã mạn, chẳng những không được công đức mà còn tạo tội nữa, theo định luật nhân quả thì chắc chắn sẽ bị đọa vào ba đường ác.H.T Tuyên Hóa khai thị: Không Nên Có Thái Độ Cống Cao Ngã Mạn Đối Với Tam Bảo!
Ngược lại, khi thọ nhận sự cúng dường của người tại gia, giúp họ trồng ruộng phước, thì người xuất giacần phải hồi quang phản chiếu, suy xét hằng ngày mình có tu hành đàng hoàng hay không, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ,
Trọng như Tu Di sơn,
Thực hậu bất tu Đạo,
Bị mao đái giác hoàn!
(Một hạt cơm thí chủ,
Nặng như núi Tu Di,
Ăn rồi không tu hành,
Mang lông, đội sừng trả!)
Người xuất gia khi thọ nhận sự cung kính của kẻ khác thì phải biết tự phản tỉnh, bản thân mình có xứng đáng để nhận sự cung kính chăng? Thân mình mặc áo của người tu, nhưng phải chăng mình chẳng khác gì kẻ đời? Phải chăng hằng ngày mình thường khởi những vọng tưởng vô ích? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn nóng giận, bực dọc? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn đố kỵ hoặc chướng ngại sự tu hành của kẻ khác? Người xuất gia nếu phạm những điều như trên thì không đủ tư cách để thọ sự cúng dường của người tại gia, dù cho miễn cưỡng mà thọ nhận, thì vẫn thấy thẹn với lòng.
Người xuất gia tu Đạo cần phải luôn luôn chú ý, không được hồ đồ ở trong đạo tràng lãng phí thời gian. Nếu sống như thế mà lại thọ nhận sự cúng dường của kẻ tại gia thì thật là điều hết sức sai lầm! Vì sao người tại gia nên cúng dường người xuất gia hoặc là hộ trì người xuất gia? Là bởi vì người xuất giachuyên tâm tu Đạo, không có vọng tưởng, phiền não hay tật đố như kẻ đời. Nếu được như vậy thì mới xứng đáng với sự cung kính và cúng dường của người tại gia, mới có thể thọ nhận mà lòng không hổ thẹn.
Nếu người xuất gia mà không chân thật tu hành, thậm chí không cung kính và thành khẩn như người tại gia, thì không có tư cách để thọ nhận sự cung kính và cúng dường của kẻ khác! Đây là điều mà mọi người cần phải giác ngộ sâu xa, không thể "lẫn lộn mắt cá với hạt ngọc," không nên ở trong đạo Phật mà kiếm miếng ăn.
Khi người tại gia cúng dường cho người xuất gia thì không được có tâm phân biệt, không được có tâmlựa chọn: "Vị Thầy này có tu hành nên tôi muốn cúng dường. Vị Thầy kia không có đạo hạnh nên tôi không cúng dường." Đừng nên có tâm trạng không chánh đáng như vậy. Bất luận ở đâu chúng ta cũng đều nên cúng dường Tam Bảo, chứ đừng bới lông tìm vết, đừng tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo. Nếu bạn cứ luôn tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo, thì đó chính là tánh cống cao ngã mạn của bạn tác quái, dứt khoátbạn không đủ tư cách hộ trì Tam Bảo!
Ở trong đạo tràng, chúng ta đừng nên tạo tội lỗi mà cần phải làm nhiều việc công đức, như thế mới bù đắp được những tội lỗi mình đã tạo khi xưa. Đầu tiên, chúng ta cần phải sám hối, bởi:
Di thiên đại tội,
Nhất sám tiện tiêu.
(Tội lỗi dẫu lớn đầy trời,
Nếu biết sám hối, tội thời tiêu tan.)
Vậy phải sám hối như thế nào? Chúng ta phải ở trước tứ chúng mà kể ra tất cả tội lỗi mình đã làm, phải nói rõ mọi chi tiết của các tội và phát nguyện rằng từ nay về sau tuyệt đối sẽ không tái phạm. Như vậy thìchư Phật và chư Bồ Tát mới có thể tha thứ cho chúng ta và giúp ta trừ sạch nghiệp tội. Những tội lỗi trước kia của chúng ta đều là "vô tâm sở phạm," tức là do vô ý mà phạm. Song le, từ nay về sau, nếu chúng tatái phạm thì đó là "minh tri cố phạm"- biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm - thì dù có sám hối cũng không có tác dụng bởi nó thuộc loại định nghiệp, tương lai chúng ta tất sẽ chịu quả báo. Chúng ta không nên có tư tưởng: "Ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện, kể như vô tội!"; rồi cứ gây nghiệp luôn luôn, mà gây xong thì tiếp tục cầu nguyện, và dần dà tạo thành một thói quen máy móc. Nếu cứ như thế thì tương lai nghiệp tội của chúng ta sẽ chất chồng như núi Tu Di, không đọa địa ngục sao được!
Trong đạo tràng của chúng ta có hóa thân của mười phương chư Phật, hóa thân của mười phương chưBồ Tát, hóa thân của chư Bích Chi Phật, hóa thân của chư Thánh nhân A-la-hán, và cả Thiên Long Bát Bộ cũng ở đây hộ pháp nữa. Vì thế, nếu chúng ta ở trong đạo tràng mà cứ luôn gây phiền phức cho người khác, soi mói lỗi lầm của mười phương vậy! Sống trong đạo tràng mà một mặt tu hành, một mặt tạo nghiệp - công đức tu được không bằng ác nghiệp tạo ra thì cũng giống như tiền gởi trong ngân hàng không bằng tiền chi tiêu; nếu không bù được sự thâm thủng thì tương lai sẽ bị phá sản.
Bởi vậy:
Thiện ác lưỡng điều đạo,
Tu đích tu, tạo đích tạo.
(Thiện ác hai con đường,
Tu thì tu, tạo vẫn tạo.)
Nghĩa là thiện, ác hai con đường, một mặt mình tu, mà ác nghiệp thì vẫn tạo. Do đó, đừng nên ở chùa mà chỉ biết tạo nghiệp ác. Hãy nên thường xuyên tìm kiếm lỗi lầm của chính mình, chứ đừng soi mói sựsai trái của người khác. Nếu cứ chuyên tìm lỗi người, chướng ngại kẻ khác tu hành thì chẳng những bản thân mình không được điều gì tốt lành mà tương lai mình còn phải gánh chịu quả báo, hậu quả khó lường!
KHÓA TU CHẤM DỨT.
Buổi trở về lại San Jose, Phật tử trên xe đưa tôi xem một số điềm lành hiện ra trong khóa tu Phật thất vàThiền thất, trong có có hình hào quang xuất hiện giữa mặt trời, mặt trăng, có mây ngũ sắc, rồi nhữngđám mây hình rồng rõ nét, cùng những hình ảnh Xá lợi của một vị Phật tử ở VPTT mất cách đây không lâu với trên 300 viên Xá lợi. Tôi thầm nghĩ, nếu người nào có được môi trường tu hành thanh tịnh như ở đây, có các bậc thiện tri thức và đại chúng tu hành tinh tấn, trang nghiêm hàng ngày bên cạnh thì việcvãng sanh nào có khó gì. Những điềm lành, linh cảm như trên hiện ra là điều tất yếu.
Phần cuối, nơi đây tôi sẽ giới thiệu sơ qua về cuộc đời của vị Thánh tăng cận đại cùng với tông chỉ và cácgiáo pháp đặc biệt của ngài, một người nói rất thẳng và tu rất thật, thế nên ai không quen nghe như vậy sẽ cảm thấy rất động chạm và chột dạ vì như ngài rầy la đến mình. Có một sự cố xảy ra ngài thuật lại như sau:
Vào năm 1979, lúc Vạn Phật Thánh Thành làm lễ khai mạc, có hơn mấy trăm người từ Mã Lai đến. Ngoài ra, lại còn có các vị thiện nam, tín nữ từ các nơi như: Hồng Kông, Đài Loan, San Francisco, Los Angeles cũng đến dự Pháp hội, tổng cộng cũng có tới vài ngàn người. Ngày hôm đó, câu gì mà tôi nói trước nhất với mọi người, tôi vẫn còn nhớ rất rõ.
Tôi nói: “Cả đời tôi, tôi rất coi thường những người có tiền. Vì sao vậy? Bởi vì các vị có bao nhiêu tiền, thời các vị có bấy nhiêu nghiệp tội theo sau.”
Nghe tôi nói như thế, có hơn cả trăm người đến từ Mã Lai bèn muốn tranh cãi với tôi. Họ nói: “Chúng tôi đến đây để ủng hộ Thầy, vậy mà Thầy còn mắng chúng tôi nữa. Chúng tôi đều là người có tiền, nếu nói vậy là không đúng rồi!”
Họ muốn nói đạo lý với tôi, nhưng lại không dám công khai. Họ bèn đi thỉnh giáo vị đoàn trưởng kiêm cố vấn của họ là Pháp Sư Đạt Ma Nan Đà. Pháp Sư Đạt Ma Nan Đà sau khi nghe chuyện, Pháp Sư bènquở trách họ: “Quý vị đã sống đến bảy, tám mươi tuổi rồi, nhưng đối với sự việc như vầy mà cũng vẫn không phân biệt được đúng sai. Lúc bấy giờ tôi ngồi bên cạnh Pháp Sư Tuyên Hóa, tôi cũng đã nghe mỗi một câu ngài nói đều là chánh pháp. Nếu quý vị muốn tranh cãi với Pháp sư Tuyên Hóa, vậy tôi không thể ở chung trong nhóm quý vị nữa. Hoặc là quý vị đi, hoặc là tôi đi!”
Thấy vị cố vấn của họ phản ứng như thế, họ mới không đến tranh cãi với tôi.
SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI VÀ HÀNH TRẠNG CỦA H.T TUYÊN HÓA
Hoà Thượng vốn họ Bạch, tên tục là Ngọc-Thư, Pháp danh là An-Từ, tự Độ Luân, và Tuyên Hóa là Pháp hiệu do Lão Hòa Thượng Hư Vân đặc biệt tặng cho khi Ngài thọ lãnh sứ mạng làm người kế thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền Tông Quy-Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song-Thành, tỉnh Tùng-Giang, Đông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Thân phụ Ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông; thân mẫu thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được tám người con, năm trai ba gái, và Ngài là út.
Thân mẫu Ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy Đức Phật A-Di-Đà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng khắp thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh Ngài. Ngài vừa ra đời liền khóc suốt ba ngày đêm, chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta Bà này vậy.
Năm Ngài mười một tuổi, một hôm cùng chúng bạn dạo chơi, Ngài chợt trông thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết nên liền nói : "Đứa bé đã chết rồi!" Song Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết.
Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy :
"Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả!"
Ngài lại thưa : "Như vậy, có cách gì thoát khỏi sự chết chăng?"
Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Đạo, đỡ lời đáp rằng:
"Chỉ có cách tu Đạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòngluân hồi, thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh."
Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất gia tu Đạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy:
"Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, phátđại Bồ Đề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Đạo. Nay con có lòng vậy, mẹ hết sức đồng ý! Song, nay mẹ đã già, mà các anh chị con đều đã tự lập; vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi mẹ mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chưa muộn."
Ngài vâng lời cha mẹ. Sau đó, hằng ngày Ngài thường theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạycha mẹ. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên Ngài hướng về trời, đất, vua, sư trưởng mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã làm. Nhận thấy những người ác thật đáng thương, Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướngcủa họ được giảm bớt và họ sớm biết hối cải. Mỗi ngày Ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày Ngài đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối.
Ngày lại ngày, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Đức Phật vậỵ Chẳng bao lâu tiếnghiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch).
Năm Ngài mười chín tuổi thì gặp phải tang thân mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, Ngài đến ChùaTam Duyên lạy Lão Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau đó, Ngài về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Đại Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà. Rất nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập Định, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng. Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của Ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày. Song, khi tới nơi mọi người thấy túp lều tranh vẫn bình lặng, và Ngài thì an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Định!
Có lần Ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục TổHuệ Năng! Đức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây Phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biênchúng sanh. Mãi đến lúc Đức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài mới choàng tỉnh, sực nhớ rằng Đức HuệNăng vốn là người đời Đường, khoảng 1.200 năm về trước!
Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân vàHòa Thượng Tuyên Hóa |
Năm 1946, sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, tình trạng giao thông trong nước đã bắt đầu dễ dàng trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để đến Chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Đông, đảnh lễ Lão Hòa Thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Đà để thọ Cụ Túc Giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, Ngài đã được bái kiến Lão Hòa Thượng Hư Vân, bậc Đại Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ.
Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói :"Như thị, như thị!" và Ngài cũng đáp lại "Như thị, như thị !" Biết Ngài là bậc 'pháp khí', Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín củaThiền Tông Quy Ngưỡng. Lão Hòa Thượng Hư Vân đã bày tỏ sự tin tưởng vào Ngài qua bài kệ:
Tuyên Quy diệu nghĩa chấn gia thanh,
Hóa thừa Linh nhạc Pháp Đạo long,
Độ dĩ tứ lục truyền tâm ấn,
Luân triền vô hưu tế khổ luân.
Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật Chùa Nam Hoa.
Năm 1949, Ngài từ giã Chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Đại Lục qua Hương Cảng tỵ nạn và cần sự giúp đỡ của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, sáng lập Phật Giáo Giảng Đường, Chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu Đạo, vì Pháp quên mình. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Đề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.
Vốn nuôi chí nguyện đem Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm 1961, Ngài sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco, Hoa Kỳ. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương Đạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống).
Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Ngài nói: "Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh." Mùa hè năm ấy, Ngài chủtrì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, v.v… Năm 1971, Ngài giảng bộ Kinh tối cao của Đại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm.
Thể theo lời khuyến bảo của H.T, thêm nhiều thanh niên nam nữ, người Hoa có, người Mỹ có, người Việt có, đều kéo nhau đến quy y và xuất gia tu hành, thọ giới cụ túc. Trong số này có những vị nguyên là Tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, họ dám bỏ lại đàng sau cả cuộc đời tươi đẹp của mình để vào cửa Phật tìm chân lý. Có những người thì thực tập khổ hạnh tam bộ nhất bái đến gần 3 năm trường, lại có người thực tập khổ hạnh khác bằng cách nhịn ăn một tuần lễ, hoặc 21 ngày hoặc 36 ngày hoặc 72 ngày. Các cách thứckhổ hạnh đó là những việc làm chưa từng xảy ra trong lịch sử PG nước Mỹ và quả là những việc hy hữuxưa nay. Những điều này xảy ra chính là vì đức hạnh siêu việt của H.T làm cho họ vô cùng cảm động, khiến họ phải phát tâm noi theo tinh thần quên mình độ người của ngài để hành Bồ tát đạo.
Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, Ngàithành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Hoa Kỳ. Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng Ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chánh tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc Tông. Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam Đàn Đại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Đại Thừa và Tiểu Thừa hợp lực chủ trì.
Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài đã làm bài kệ nói lên quyết tâm của mình:
Đống tử bất phan duyên, Ngạ tử bất hóa duyên, Cùng tử bất cầu duyên. Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, Bao định ngã môn tam đại tông chỉ. Xả mạng vi Phật sự, Tạo mạng vi bổn sự, Chánh mạng vi Tăng sự. Tức sự minh lý, minh lý tức sự, Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền. Tạm dịch: Dù rét chết, không phan duyên; Dù đói chết, không van nài; Dù nghèo chết, không cầu cạnh. Tùy duyên, không đổi; không đổi, tùy duyên; Ba Tông Chỉ ấy, ta phải giữ gìn.
Xả thân vì Phật sự, Tạo mạng vì bổn sự, Chánh mạng vì Tăng sự. Hiểu sự, rõ lý; rõ lý, hiểu sự; Lưu hành mạch phái Tổ Sư tâm truyền. |
Hai câu đối sau lưng Hòa Thượng: Đống tử bất phan duyên, Ngạ tử bất hóa duyên, Cùng tử bất cầu duyên. Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, Bao định ngã môn tam đại tông chỉ. Xả mạng vi Phật sự, Tạo mạng vi bổn sự, Chánh mạng vi Tăng sự. Tức sự minh lý, minh lý tức sự, Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền. |
H.T đề xướng các bộ môn Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh, dẹp bỏ hàng rào ngăn cách giữa các tông pháivới nhau, coi việc phục hưng Phật giáo là trách nhiệm của mình, đồng thời thúc dục hàng môn đệ phải ngày ngày tham thiền, hoặc niệm Phật, sám hối, nghiên cứu kinh điển, chân thực tu hành.
Năm 1980, Ngài thành lập Trung Tâm Cứu Tế Nạn Dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn nghệ và Anh ngữ, đồng thời giúp tái định cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Cambodia. Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ.
Với tinh thần "vì Pháp quên mình," Hòa Thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo tràngtrong và ngoài nước để hoằng dương Phật Pháp. Ngài được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống khổ hạnhvà nghiêm trì Giới Luật của Ngài. Trong thời Mạt Pháp mà nhiều người không tôn trọng Giới Luật này, Ngài đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vàogiờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ không nằm.
Bình sanh, Ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng sanh. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở nước Cuba vào năm 1962 đã xảy ra không bao lâu sau khi Ngài đến Hoa Kỳ; Ngài đã tuyệt thực năm tuần lễ để hồi hướng cho nền hòa bình thế giới. Vào dịp Ngài du hành Đài Loan năm 1989, Ngài đã nhịn ăn ba tuần lễ để hồi hướng cho dân chúng Đài Loan. Sau đó, Ngài lại đi hoằng Pháp tại nhiều nước Châu Âu.
Mặc dầu tuổi tác Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết Pháp và giảng luận kinh điển Phật Giáo, giương cao ngọn đèn rực rỡ củatrí huệ để soi đường cho chúng sanh đang chìm đắm trong đêm tối của thời đại Mạt Pháp này. Chính trong lúc Ngài đang bệnh để gánh chịu khổ nạn cho chúng sanh, Ngài vẫn kiên trì tiếp tục đại nguyệndiễn dịch kinh điển Phật Giáo.
Ngày 7 tháng 6 năm 1995 (nhằm ngày 10 tháng 5 năm Ất Hợi), Hòa Thượng Tuyên Hóa thị hiện viên tịchtại Los Angeles, Hoa Kỳ; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu :
(1) Tiếp tục hoằng dương Phật Pháp,
(2) Phiên dịch kinh điển Phật Giáo, và
(3) Hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.
Vâng theo di huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đềuchuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm Ngài viên tịch. Ngày 12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, kim quan của Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Tại đây, Đại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7. Và sau Thánh Lễ Trà Tỳ, ngày 29 tháng 7, tro cốt của Ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của Ngài:
H.T Tuyên Hóa |
"Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư khôngđến. Tôi sẽ trở về hư không!"
Dù cho Ngài không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này, nhưng công đức hoằng Pháp tại Tây Phương, phiên dịch kinh điển,thiết lập đạo tràng và học đường của Ngài lúc còn tại thế đã gieo hạt giống Bồ Đề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp dân chúng Tây Phương. Những dấu ấn đó của Ngài sẽ không bao giờ phai mờ với thời gian !
Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa ThượngTuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới long trọngtổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa Thượng Về Các Đạo Tràng Chi Nhánh. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn của Ngài: "Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng !"
Chánh Pháp
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong các kinh điển thì không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết ước định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mạt Pháp là 10.000 năm.
Trong thời Chánh Pháp (“chánh” có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đã diệt độ, nhưng Pháp nghivẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị--đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiên cố".
Trong thời Tượng Pháp (“tượng” có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít; thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "tự miếu kiên cố".
Trong thời Mạt Pháp (“mạt” có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ"đấu tranh kiên cố".
Trên đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ Chánh, Tượng và Mạt của Phật Pháp. Thế nhưng,Hòa Thượng định nghĩa về Chánh Pháp như sau:
"Quý vị thành thật tu hành, không ham hư danh giả lợi, không tham của cúng dường -đó chính làChánh Pháp trụ thế. Nếu mọi người xuất gia đều có thể giữ giới không đụng đến tiền bạc (ngân tiền giới), đều có thể ngồi Thiền, có thể ngày ăn một bữa lúc giữa trưa, có thể luôn luôn mặc giới y và nghiêm trì giới luật, thì đó là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!"
Thậm chí Hòa Thượng còn giảng nghĩa một cách đơn giản hơn nữa: "Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu, khôngích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!". |
Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có chép: "Khi “Pháp” trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp."
Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: "Chỉ có giáo pháp mà không có gì khác thì gọi là Mạt Pháp."
Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong phần Nguyệt Tạng của Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, và trong Kinh Pháp Diệt Tận.
Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát nguyện củaThiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (Nam Nhạc Tư Thiền Sư Lập Thệ Nguyện Văn). Thiền Sư Huệ Tư đã tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đã chép lại toàn bộ Kinh Bát Nhã cùng nhiều bản văn khác. Ngài đã nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi Bồ Tát Di Lặc đến thế gian này.
Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, thì trong quyển 49 của Thập Tụng Luật, Đức Phật cũng đã nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
Năm điều này là:
1. Tôn Trọng Chánh Giáo. Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo pháp chân chánh màtiến tu, xa lánh cái nhìn lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
2. Chỉ Tức Sân Ác (đình chỉ nóng giận và ác độc). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo luôn luôn thực hành hạnh nhẫn nhục, không nóng giận, danh tiếng về đức độ lan xa làm cho mọi người đều quay về và dốc lòng kính ngưỡng; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
3. Kính Sư Thượng Tòa (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục tòng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
4. Ái Lạc Chánh Pháp (trân quý Chánh Pháp). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo trân quý thâm sâunhững giáo pháp nghe được từ các bậc thượng tọa, trưởng lão kỳ cựu, và vui mừng thực hành theo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
5. Thiện Hối Sơ Tập (giải thích kỹ càng cho kẻ sơ học). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo phương tiệndiễn nói pháp Đại Thừa một cách khéo léo, làm cho những kẻ mới bắt đầu học Phật Pháp có thể dựa vào để tiến tu trên đường Đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.
Vào thời Mạt Pháp, chúng sanh không thể liên tục phân biệt được chánh tà, đến nỗi nhiều người muốn vào cửa Phật để tu hành nhưng đã bị vào lầm cửa. Đó là do họ thiếu "Trạch Pháp Nhãn". Mặc dầu trongthời Mạt Pháp, hiện tượng "mắt cá xen lẫn ngọc trai" trong cửa Phật không phải là ít, song nguyện lựccủa Hòa Thượng rất rõ ràng:
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật Giáo có Chánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương. Đây lànguyện lực của tôi. Do đó, không quản khả năng giới hạn của mình, tôi đi khắp nơi tuyên thuyếtChánh Pháp và hành trì Chánh Pháp."
Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng có ý khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép:
"Trong thời Mạt Pháp sẽ có mười hai vạn (120.000) vị Đại Bồ Tát trì Pháp, khiến cho bất diệt."
Từ đó có thể biết được rằng nguyện lực "không cho phép có Mạt Pháp" của Hòa Thượng há chẳng phải chính là tâm đại từ đại bi của chư Như Lai hay sao?
Hòa Thượng đã cảm khái rằng:
“Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,
Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,
Thành thật chân chánh, bị chế giễu,
Gian ngoa xảo trá, được tán dương.
Thế giới Ngũ Trựơc híếm thanh tịnh,
Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,
Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:
Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!”
Trong Phật Giáo không thể có 99%--nếu chỉ một phần nhỏ trong Phật Giáo là giả dối, thì đó không còn là "Chánh Pháp" nữa! Do đó chúng ta phải phân biệt thật rõ ràng, bởi vì trong các chùa chiền đều có cả "tà pháp và ngoại đạo".
Phật Giáo có câu: "Thà cả ngàn năm chẳng vãng sanh, còn hơn một ngày trong ma đạo". Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhãn của "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (trong Kinh Lăng Nghiêm) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính mình lại không hay không biết!
Để có thể phân biệt chánh tà, ngài dạy ta nên quán xét về bảy điểm như sau:
1. Vị Thầy lấy việc thay đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm mồi nhử để thu hútđồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà.
2. Vị Thầy khơi dậy lòng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng mình có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà.
3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hại chúng sanh và ăn thịt chúng sanh, còn nói rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà.
4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà.
5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có lònghiếu kỳ; đó là tà.
6. Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ý nghĩacủa "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó là tà.
7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không có căn bản chân thậtvề đạo lý Phật Giáo; đó là tà.
Chánh Pháp và Mạt Pháp
Trong rất nhiều buổi giảng H.T đã thẳng thắng phê bình những hiện tượng tu hành sai chánh pháp. Ngài không đành lòng thấy chúng sanh tu tập sai đường và phải chịu đau khổ khi bị đọa lạc. Do đó với tâm "đại từ đại bi, gần như tàn nhẫn", ngài bộc lộ hết thảy những lời dạy dỗ khắt khe như la, mắng, nói thẳng, và đây chính là thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh của bậc Bồ Tát. Hòa Thượng có lần viết bài thơ nói lên quyết tâm của Ngài:
"Tôi muốn nói lời thật,
Không sợ bị đánh, chửi.
Giết tôi, tôi chẳng sợ,
Giải thoát, có gì ngại?"
Hòa Thượng Hư Vân đã nói:
"Nho sĩ là tội nhân của Khổng Tử; Tăng sĩ là tội nhân của Phật."
Cho nên ở đây Phật pháp suy đồi hay không là do tự trong hàng ngũ của người xuất gia, Cho nên nói rằng:
"Kẻ hủy diệt Phật Pháp chính là giáo đồ của Phật Giáo, chứ không phải các giáo phái khác. Kẻ làm cho Lục Quốc diệt vong chính là Lục Quốc, chứ không phải nhà Tần. Kẻ làm suy sụp nhà Tần chính là nhà Tần, chứ không phải Lục Quốc vậy."
Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi - như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế tục, cư sĩ ngồi trên tòa cao, v.v ... Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đã dùng tri kiến riêng của mình mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Kinh Lăng Nghiêm.
Lại có Pháp Sư Viễn Tham tuyên bố rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh khác, cũng như Đại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Ở Việt Nam mình thì có T.T Nhật Từ cũngthường xuyên giảng dạy cho chư Tăng Ni và Phật tử (youtube: Kinh Lăng Nghiêm. TNT) rằng, kinh Lăng Nghiêm, kinh Địa Tạng là ngụy tạo do chư tổ Trung Hoa lập ra chứ không phải do Phật thuyết, hoặc là chỉ có 5 cõi chứ không có 6 cõi luân hồi, không có địa ngục.v.v…Người tu hành hoặc một vị giảng sưchân chính khi thuyết giảng điều gì phải y theo Kinh, Luật và Luận, ba tạng giáo điển của chư Phật và chư tổ sư truyền lại để xác lập. Không thể y cứ vào các luận án tiến sĩ của giáo sư này, giáo sư nọ hoặc các tài liệu nghiên cứu từ đại học này, đại học kia, hoặc cũng không thể y cứ kiến thức, tri thức thế gianđể chứng minh Phật giáo và các cảnh giới trong luân hồi là có hay không có. Người xuất gia không khéotu hành, thuyết giảng khắp nơi mà lại tùy tiện diễn giảng theo tư kiến của mình thì sẽ đắc tội với chư Phật, chư tổ. Đây cũng chính là những hiện tượng của thời kỳ Mạt Pháp vậy.
Hòa Thượng đã nhiều lần lập lại lời huấn thị về việc bảo vệ và duy trì Chánh Pháp:
"Trong Phật Giáo, tất cả kinh điển đều rất quan trọng, nhưng Kinh Lăng Nghiêm còn quan trọng hơn nữa. Với ngài thì nơi nào có Kinh Lăng Nghiêm, thì nơi đó có Chánh Pháp trụ thế. Khi Kinh Lăng Nghiêm bị mất đi, đó là dấu hiệu của thời kỳ Mạt Pháp. Khi giảngKinh Lăng Nghiêm, ngài có nói rằng: 'Vào thời kỳ Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt trước nhất. Sau đó dần dần các kinh khác cũng bị diệt theo.'
Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là tháp miếu thờ Phật. H.T nói rằng, nếu Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi sẵn sàng chịu đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn ở chốn địa ngục, không bao giờ được trở lại thế gian để gặp mọi người nữa! Người nào có thể học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc Chú Lăng Nghiêm, thì người đó chính là đệ tử chân chánh của Phật!"
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng:
"Trong quá khứ khi Ta là vị vua tên Hữu Đức, để hộ trì Chánh Pháp, Ta đã chiến đấu với những kẻ muốn hủy hoại Chánh Pháp, và đã mạng vong. Sau khi chết, Ta được sanh về cõi nước của Phật A Súc Bệ và trở thành đệ tử thượng thủ của Đức Phật đó.
Này Ca Diếp! Những người hộ trì Chánh Pháp được quả báo công đức vô lượng như thế. Do nhân duyên hộ trì Chánh Pháp này, mà nay Ta được tướng hảo trang nghiêm và thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại."
Pháp tự nó vốn không có "Chánh, Tượng, Mạt"; nhưng tâm con người thì có sự phân biệt về "Chánh, Tượng, Mạt". Theo Hòa Thượng, bất cứ khi nào còn có người dụng công tu hành, thì khi đó là Chánh Pháp còn đang trụ thế.
Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, thì đó là thời kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm, có phần "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" giảng về sát sanh(sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với phần "Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma,ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai phần này đều nói rất rõ ràng rằng khi nào không còn người giữ giới, thì khi đó là thời kỳ Mạt Pháp. Giới còn, tức là Phật Pháp còn vậy!
Vào năm 1990, trong một lần thuyết giảng tại Trung Tâm Lao Công tại Cao Hùng ở Đài Loan, Hòa Thượng đã khẩn thiết nói rằng:
"Thời kỳ Mạt Pháp là do những người tại gia chỉ hộ trì cho một người xuất gia riêng lẻ mà tạo thành!".
Vì sao lại như thế? Hòa Thượng giải thích rằng:
"Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu Trạch Pháp Nhãn nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ lui, và hộ luôn xuống địa ngục!
Vào thời kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa, và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp, người ta lại không thích nề nếp sinh hoạt của đại tùng lâm nữa. Mỗi người đều ở một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông Sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽbèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị Sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những ngườixuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nỗi phải hoàn tục!"
Hòa Thượng hoàn toàn không phản đối việc xây cất chùa chiền, nhưng chỉ vì con người ngày nay quá hưởng thụ, không biết lấy “Pháp nghĩa và giáo dục” (nghĩa lý Phật Pháp và đạo lý giáo dục) để hóa độchúng sanh. Họ chỉ biết dùng việc "xây chùa lớn" để độ chúng sanh, cùng bày ra phương cách để đượcnổi tiếng và trở nên giàu có.
Cái nhìn của Hòa Thượng về việc kiến tạo chùa chiền như sau:
"Tạo chùa không bằng tạo người, tạo người không bằng tạo Phật. Tôi muốn làm một người thợ đúc tượng. Tôi muốn đúc nên những vị Phật sống, những vị Bồ Tát sống, những vị Tổ Sư sống. Tôi còn muốn làm cho tất cả chúng sanh trên toàn thế giới này đều biến thành những vị Phật sống, Bồ Tátsống, Tổ Sư sống luôn nữa!
Tôi đả phá đây không phải là những ngôi chùa lớn, mà là các miếu thờ Thổ Địa, miếu thờ Thành Hoàng, miếu thờ của con cháu gia tộc. Khi những người ở chùa nhỏ dọn sang chùa lớn, thì tất cả có thể cùng nhau tu hành, như thế mới là nếp sinh hoạt của một đại tùng lâm.
Vì sao ở chùa nhỏ thì không được tốt? Bởi vì ở đó thiếu sự gò bó, câu thúc; không cần phải ‘quán tự tại’, mà có thể ăn ‘tự tại’, mặc ‘tự tại,’ đi đứng ‘tự tại,’ nên rất dễ quên mất việc tu Đạo. Hằng ngày chỉ biết phan duyên, mà tập khí nầy chính là vết thương chí mạng làm băng hoại Phật Giáo!"
Tôi hy vọng Phật Giáo sẽ ghi lòng tạc dạ những lời này và đừng tiếp tục "bịt tai ăn cắp chuông," dối gạtnhân loại nữa. Hiện nay, các dấu hiệu hỗn loạn trong Phật Giáo tại Đài Loan đã vô cùng nghiêm trọng, có thể nói là đến mức phải báo động rồi; thế nhưng, chẳng có người nào dám đứng ra lên tiếng kêu gọi; mà ai nấy chỉ trố mắt ngồi nhìn cảnh Phật Giáo đang đi dần về hướng diệt vong.
Đó là ngài nói rất thẳng đối với tình hình Phật giáo Đài Loan lúc bấy giờ, thời ngài còn sống. Còn nếu ngài có dịp đến Việt Nam thì chắc không thể không nói những lời mạnh mẽ và xót xa như vậy. Là những người xuất gia và tại gia tu hành chơn chánh, chắc chúng ta cũng không thể phủ nhận hiện trạng suy đồi, xuống dốc của Phật giáo mà trong đó chúng ta đang là một phần. Nếu trong chúng ta có ai còn thao thức với tiền đồ của Phật pháp, với chí nguyện xuất gia của mình, cầu giải thoát sanh tử thì phải nên tìm cầu, học hỏi những pháp có “vị đắng” của ngài để tỉnh giác trước cơn mộng mị mê say của cuộc đời.
Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có Trạch Pháp Nhãn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện; chứ chẳng phải một mực chú trọng về việc xây chùa dựng miếu, tổ chức Đại lễ này kia! Chúng ta có bao giờ tự hỏi rằng đằng sau những lời giáo huấn nghiêm khắcnày của Hòa Thượng ẩn chứa biết bao máu lệ xót xa?
Lòng từ bi chân thật và sâu xa nhất mà mọi người được thấy nơi Hòa thượng, đó là ngài không chỉ nói suông. Ngài nhẫn nại hành trì những gì ngài đã nói, ngài đặt ra quy luật cho tín chúng và tất cả đệ tử của ngài phải nhất nhất tuân theo và giữ gìn. Đó là tất cả của gia phong Vạn Phật Thánh Thành. Như ý nghĩa trong câu “đản năng quang chiếu viễn, bất tích tự phần thân”, Hòa Thượng chỉ muốn ánh sáng từ ngọn đuốc trên tay Ngài soi sáng đuợc càng xa càng tốt, mà chẳng quan tâm đến việc mình bị phỏng! "Dầu gặp muôn vàn khó khăn, tôi vẫn giữ vững ý chí của mình." Đây là lời mô tả chân thật nhất về Hòa Thượng.
Ăn Ngày Một Bữa Và Luôn Mặc Y Giới
Mọi người đều biết rằng "ăn ngày một bữa và đắp y giới" là gia phong mà Vạn Phật Thánh Thành hành trì và được đặc biệt biết đến. Hòa Thượng đặc biệt tuyên bố rằng bất cứ người nào xuất gia với Ngài cũng đều phải tuân thủ những quy định của Đức Phật: "Ngày ăn một bữa lúc giữa trưa và luôn luôn mặcy giới." Và, cho dù Vạn Phật Thánh Thành có bị những kẻ bên ngoài chỉ trích như thế nào đi nữa, ngay cả phỉ báng rằng Thánh Thành cố ý làm những việc mới lạ để phô trương, thì Hòa Thượng vẫn không bao giờ vì thế mà thay đổi gia phong. Đối với một loạt những lời phỉ báng, Hòa Thượng chỉ nói:
"Đây không phải là những quy luật do tôi đặt ra. Đây là quy luật của Phật. Chúng ta cần phải tuân thủquy luật của Phật."
Tuy vậy, đối với những đệ tử xuất gia tương đối lớn tuổi, Hòa Thượng đã phương tiện cho phép họ ăn ba bữa mỗi ngày. Quy định này vẫn được giữ nguyên ngay cả trong lời di huấn của Hòa Thượng trước khi Ngài nhập Niết Bàn, không hề sửa đổi. Chính Hòa Thượng đã nói:
"Ngay cả trước khi tôi xuất gia, lúc còn là người tại gia, tôi đã ăn ngày một bữa. Và từ khi tôi xuất giađến nay, trải qua bao nhiêu năm trời, tôi vẫn chỉ ăn ngày một bữa. Những người muốn xuất gia với tôi, người nào mà có thể ăn ngày một bữa, thì tôi sẽ thâu nhận; nếu không thể ăn ngày một bữa, thì tôi sẽ không thâu nhận. Đây là điều kiện thiết định cho những ai muốn xuất gia với tôi; dù dưới bất cứ áp lực nào, do thời gian hay hoàn cảnh, đều không thay đổi."
Tại sao Hòa Thượng xem việc “ăn ngày một bữa" quan trọng như vậy ? Bởi vì, con người "khi bụng no thân ấm, thì nghĩ về dâm dục". Càng no đủ, thì càng nhiều dục vọng. Vấn đề này đã được thảo luận(Kinh Trường A Hàm, quyển 22, “Phẩm Ghi Chép Về Thế Giới: Nhân Duyên Căn Bản Của Thế Giới”) và có ghi lại:
“Những chúng sanh cõi trời Quang Âm khi hết phước báo và bị đọa xuống nhân gian, thì họ bắt đầu ăn cơm, thân thể trở nên thô kệch, xấu xí và mang tướng nam, tướng nữ. Họ nhìn ngó lẫn nhau rồisanh khởi dục niệm và họ đi đến nơi kín đáo để làm hạnh bất tịnh."
Và, có câu thành ngữ Trung Hoa nói rằng: "Đồ ăn uống sanh ra nam nữ.” Điều này chứng minh rằngdâm dục là từ sự ẩm thực quá lượng mà ra. Và nếu đó là việc "ăn phi thời," thì đó là vấn đề phá giới.
Một số người xem vấn đề này như sau: "Hiện tại không phải là thời đại của Đức Phật và chúng ta cũng không phải đang ở Ấn Độ; người Trung Hoa lại không phải là người Ấn Độ, mà giới luật được đặt ra là ’tùy thời, tùy nơi, tùy người‘, như vậy những giới đó chỉ có thể áp dụng cho những người ở tại Ấn Độ chứ không thích hợp cho người ở tại Trung Hoa."
Thật ra điều đó không đúng vì trong Phật Giáo, giới luật là một trong Tam Vô Lậu Học gồm Giới, Định, Huệ, và tất cả đều đã được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Nếu nói rằng Giới Học khôngthích hợp cho người Trung Hoa, như vậy có nghĩa là Định Học và Huệ Học cũng không thích hợp cho người Trung Hoa hay sao? Thật là phi lý!
Không ăn phi thời là hạnh nguyện mà người xuất gia phải giữ và là điều kiện tiên quyết của việc cạo đầuxuất gia. Hơn nữa, trong Bát Quan Trai Giới của người tại gia cũng có bao gồm giới “không ăn phi thời". Do đó đây là vấn đề giới luật có được nghiêm trì hay không. Ngoại trừ khi bị bệnh, không có lý luận nào có thể chấp nhận được.
Thêm nữa, trong Kinh Xứ Xứ có liệt kê năm loại phước đức có được do không ăn sau giờ ngọ:
“1. Ít dục vọng (thiểu dâm);
2. Ít ngủ (thiểu thùy);
3. Tâm định (đắc nhất tâm);
4. Không bị vấn đề đầy hơi trong bụng (thiểu hạ phong);
5. Thân thể yên ổn và không bệnh (thân đắc an ổn diệc bất tác bịnh).”
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng không ăn sau giờ ngọ thì có thể được phước. Ngoài ra trong Luận Đại Tỳ-Bà-Sa cũng cho rằng:
“Không ăn sau giờ ngọ làm bớt ngủ mê, giảm đi vấn đề giữ thức ăn qua đêm, giúp tâm dễ nhập Định, và do có những lợi ích như vậy, nên chỉ ăn vào lúc giữa trưa.”
Trong Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn có nói:
"Lý do bốn mươi cái răng của Như Lai đều sạch, trắng và thẳng tắp là do sự nghiêm ngặt tránh ănphi thời mà Ngài đã thọ trì trong những kiếp trước."
Trong Kinh Tỳ-Ni Tam Muội có giải thích như sau:
"Buổi sáng là giờ chư thiên ăn, buổi trưa là chư Phật ăn, buổi chiều là súc sanh ăn, và buổi tối là giờquỷ thần ăn. Ngày nay, để tạo nhân duyên cho sự thoát ly sáu nẻo và noi gương chư Phật ba đời, việc ăn vào lúc giữa trưa được xem là đúng lúc để ăn (chánh thời)."
Vì thế, ngay thời bây giờ, tại Ấn Độ và các quốc gia mà ở đó Phật Giáo Nam Truyền thịnh hành, giới điều không ăn sau ngọ của Đức Phật vẫn còn được thọ trì.
Nhưng tại quốc gia của tôi [Trung Hoa], hầu hết chư tăng Trung Hoa đã khai mở giới điều này, họ gọi bữa ăn chiều là "thuốc" (dược thạch) và tùy ý thọ dụng.
Dược thạch (thuốc, đá), có nghĩa là họ xem bữa ăn tối như thuốc vậy. Hòa Thượng không đồng ýchuyện này và ngài nói: Họ nói rằng đó chẳng qua chỉ là liều thuốc để trị bệnh mà thôi! Đó gọi là ‘bịt tai ăn cắp chuông’. Đó chính là lừa mình, dối người. Bởi vì họ muốn ăn tối, nên họ gọi thức ăn tối là ‘thuốc’!!! Đó là lừa gạt, dối người và tôi không thể đính chánh lại được!"
Về ý nghĩa của chữ "dược thạch," trong quyển 18 của Huyền Ưng Âm Nghĩa có chép:
"Dược thạch (nghĩa thường: thuốc và đá) là thứ dùng để chữa bệnh. Người xưa dùng đá làm kim châm, ngày nay thì người ta dùng sắt. Tất cả đều nhằm mục đích chữa bệnh."
Trong quyển một của Phật Đình Sự Uyển, Phần La-Hán Dược Thạch, có nói rằng:
"Ăn thức ăn để chữa bệnh, và đó gọi là 'thuốc' (dược thạch) ".
Trong Thiền Lâm Tượng Khí, Phần Ẩm Đạm Môn, có nói như sau về dược thạch:
"Thuốc (dược thạch) là ẩn ngữ để chỉ món cháo dùng vào buổi tối. Bởi vì cháo dùng vào buổi tối nhằm bồi bổ cơ thể và chữa bệnh tật để hành giả có thể tiến bộ trong sự tu tập của mình, do đó gọi là thuốc (dược thạch)”.
Từ đó có thể thấy rằng danh từ "dược thạch" (thuốc) chỉ là một tên khác để chỉ "bữa ăn tối" được Phật Giáo Trung Hoa phát minh ra mà thôi!.
Nói chung, mặc dầu Đức Phật, Đấng Thế Tôn, đã loại bỏ một số giới điều nhỏ trước khi nhập Niết Bàn, nhưng giới không ăn phi thời thì không bỏ được. Quyển 15 của Kinh Tạp A Hàm nói rằng:
"Khi người nào biết giảm thiểu ăn uống phi thời, người đó sẽ có được công đức của sự đoạn trừtham ái ngũ dục. Trong những đệ tử đa văn và thánh thiện có công đức giảm thiểu tham lam, tôi chưa thấy một ai mà còn một kiết sử trong ngũ dục chưa đoạn trừ. Dù chỉ còn một kiết sử, họ vẫn phải tái sanh lại thế gian này."
Giới không ăn phi thời chính là Phạm hạnh thanh tịnh. Làm sao hành giả muốn chấm dứt sanh tử và rời khỏi nhà Tam Giới lại không lưu ý đến giới điều này?
Về vấn đề buộc phải luôn luôn đắp y giới, Hòa Thượng nghiêm khắc yêu cầu những người xuất gia với Ngài phải luôn đắp y giới và không bao giờ để y giới rời thân (y bất ly thể). Hòa Thượng nói:
“Nếu người xuất gia mà không mặc y giới, thì cũng giống như đã hoàn tục. Người đó không khác gì kẻ thế tục. Mặc áo dài của Trung Hoa với cổ áo cong cong (áo tràng) chưa đủ để chứng tỏ người đó là người xuất gia. Đừng nói là áo tràng, ngay cả khi quý vị có mặc y giới, mà quý vị vẫn còn dám phá giới và làm điều không thành thật suốt ngày, huống gì là nếu quý vị không mặc y giới!
Giới y là biểu tướng phân biệt của đệ tử của Phật. Chính bản thân Đức Phật cũng có ba y và một bình bát, và Ngài luôn luôn đắp y.
Kinh Đại Bi có chép rằng:
"Ngay cả Sa Môn (tu sĩ Phật Giáo) trong tự tánh ô nhiễm hạnh Sa Môn, nếu họ có tướng của Sa Mônvà mặc áo cà sa, thì tất cả những người như họ -không có ngoại lệ- sẽ được vào Niết Bàn giữa thờiPhật Di Lặc và Phật Lâu-Chí".
Sau khi đọc những lời này từ các kinh sách, chúng ta có còn phản đối quy luật mặc y giới nữa hay không? Hòa Thượng nói :
"Đúng sai cần gì cãi,
Thật giả lâu tự biết,
Kẻ trí thấy chân thật,
Kẻ ngu hành giả dối,
Kẻ tốt học Bồ tát,
Kẻ xấu dám mắng Phật,
Tâm Đại Bi bình đẳng,
Phổ độ chúng hữu tình."
Thuyết Pháp Giảng Kinh.
Hòa thượng bẩm sanh trí tuệ siêu việt, có trí nhớ phi trường, một lần đọc qua là nhớ mãi nên trong suốtcuộc đời của ngài, việc giảng kinh thuyết pháp được ngài đặc biệt chú trọng và tận tâm chỉ dạy cho hàngđệ tử của mình. Khi giảng kinh ngài thường không soạn sẵn hoặc cầm bổn mà tùy theo thời điểm, tùy theo nhân sự, căn cơ để thuyết giảng. Với biện tài vô ngại, lời lời thốt ra như nước chảy thao thao, chỗ nào cũng là Đạo, nghĩa lý viên dung khiến ai ai cũng phải bội phục.
Kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh lớn và thâm áo của Phật giáo Đại thừa tuy nhiên khi H.T thuyết giảngkinh này, ngài có thể nhắm mắt mà tụng lên Kinh văn, một chữ cũng không sai, quả là điều chưa từng thấy. Kinh Lăng nghiêm, kinh Pháp Hoa ngài cũng thuộc lòng như vậy. Hàng đệ tử ngài thì toàn là thanh niên trí thức với trình độ đại học, ai nấy đều hết sức kính ngưỡng trước đức độ và kiến thức uyên báccủa hòa thượng, ai ai cũng phải bội phục, năm vóc sát đất.
Các kinh sách Hòa Thượng đã giảng trong suốt cuộc đờicủa Ngài được liệt kê tổng quát như sau: Kinh Hoa Nghiêm,Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, Tâm Kinh, Kinh Lục Tổ, Kinh Địa Tạng, Kinh A Di Đà, Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Bách Pháp Minh Môn Luận, Kinh Di Giáo, Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác-- tất cả có hơn 30 loại khác nhau. Ngoài ra Hòa Thượng còn giải thích về hai lãnh vực triết học của Trung Hoa: Tứ Thư và Kinh Dịch. Trong tất cả những kinh sách này có ba tác phẩm rất đặc biệt, ít có người giảng giải, đó là: Lăng Nghiêm Chú Cú KệSơ Giải, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, và Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (chân dung của chư Tổ Phật Giáo qua lời giải thích bằng ngôn ngữ dễ hiểu của thời đại ngày nay).
Chú Lăng Nghiêm |
Loạt bài thuyết giảng Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sơ Giải kéo dài tám năm, từ 1979 đến 1987. Trong suốtlịch sử Phật Giáo, bài chú này hiếm khi được giải thích. Chỉ có Đại Sư Tục Pháp của triều nhà Thanh và Pháp SưBá Đình ở Từ Vân Tự tại Vũ Lâm là từng giảng giải chú này. Pháp Sư Bá Đìnhnghiên cứu Mật Bộ và trước tác bộ Lăng Nghiêm KinhQuán Đảnh Sớ gồm hai mươi sáu quyển, dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa, và sau đó giải thích chi tiết về mật chú này.
Trong Kinh và Chú của Phật Giáo, có "năm loại không phiên dịch" (ngũ chủng bất phiên) bởi vì ngôn ngữbí mật của chư Phật khó cho hầu hết các vị thánh khác hiểu được, chứ đừng nói đến người thường. Mặc dầu theo thông lệ là không dịch các bài chú trong kinh, tuy nhiên người ta có nhiều ý kiến khác nhau vềvấn đề này. Một số người nghĩ rằng việc dịch ý nghĩa của các bài chú có thể mang lại hai mươi bốn loạilợi ích. Vì vậy, khi Hòa Thượng có được bản Lăng Nghiêm Chú Sớ vào năm Dân Quốc thứ 38 (1949), Ngài đã ghi lại:
“Tôi có được điều mà trước đó tôi chưa từng có. Tôi miệt mài nghiên cứu và có được một cái nhìn về cảnh giới vi mật. Tôi luôn luôn mang sách theo bên mình và không bao giờ xa rời.”
Ngài cũng nói:
"Để cho Chánh Pháp được trụ thế lâu dài và để chận đứng tà thuyết, mọi người cần phải hiệp lực vàthâm nhập đại định rốt ráo kiên cố."
Sau khi Hòa Thượng đến Hoa Kỳ, Ngài tuyên giảng Chú Lăng Nghiêm, dùng thể thơ bảy chữ (thất ngôntứ cú) để giải thích từng câu một của bài Chú Lăng Nghiêm dài 554 câu, và sau đó chú giải theo ngôn ngữ thời nay. Đây thật là một kiệt tác "xưa nay chưa từng có", vô cùng quý giá. Hòa Thượng nói:
"Dùng bốn câu kệ để giải thích từng câu chú trong bài thì không cách nào giải thích trọn vẹn được, bởi vì diệu nghĩa trong đó thì vô cùng vô tận.
Bốn câu thơ chỉ đề cập đến ý nghĩa tổng quát - chỉ ném ra một miếng gạch, hy vọng sẽ có người tìm ra được ngọc thạch ở trong đó. Bốn câu thơ có vẻ đơn giản, nhưng xuất phát từ tâm tôi. Quý vị có thể nói đó là máu huyết của tôi, là mồ hôi của tôi. Đây chắc chắn không phải là ‘tầm chương trích cú’, ăn cắp văn hoặc sao chép lại của người khác!
Bây giờ tôi giải thích Chú Lăng Nghiêm cho quý vị, bài Chú mà trải qua trăm ngàn vạn kiếp cũng chưa từng có ai giải thích. Thật ra, cũng không dễ gì mà giải thích trọn vẹn được. Khi tôi giải thíchchú này, tôi biết không có người nào trong quý vị hiểu tôi nói gì. Ngay cả những người họ nghĩ là họ hiểu được, thật sự họ cũng không hẳn đã hiểu được thấu đáo. Nhưng có thể mười năm, một trăm năm hay một ngàn năm sau, sẽ có người đọc được những lời giải thích đơn giản này và có được sựhiểu biết sâu xa."
Dưới đây là những lời khai thị của Hòa Thượng về Chú Lăng Nghiêm:
"Ảo diệu vô cùng thật khó sánh,
Kim cang mật ngữ từ bổn tánh,
Trong Chú Lăng Nghiêm đủ hiệu năng
Khai mở đường Ngũ nhãn Lục thông."
"Là Vua Kiên Cố trong các định
Trực tâm tu học đến Đạo Tràng
Thanh tịnh các nghiệp thân, khẩu, ý
Quét sạch vọng niệm tham, sân, si. "
"Lòng thành cảm ứng được hiện chứng,
Chuyên tâm thành tựu đại thần thông,
Đủ đức được gặp câu linh diệu,
Luôn luôn đừng quên việc xiển dương."
"Ngài A Nan đã chứng Sơ Quá, mà vẫn còn chịu nạn bởi người nữ, và Đức Phật phải dùng Chú Lăng Nghiêm để cứu ngài. Huống gì trong trường hợp của người thường? Nếu chúng ta không nương tựa vào Chú Lăng Nghiêm, làm sao chúng ta có thể chấm dứt sanh tử được?"
"Hễ còn dù chỉ một người trên thế gian này biết tụng thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái sẽ không dám xuất hiện công khai. Nhưng đến thời điểm mà không còn ai tụng thuộc Chú Lăng Nghiêm được nữa thì yêu ma quỷ quái sẽ công khai xuất hiện."
"Thật ra, bằng cách học Chú Lăng Nghiêm quý vị đã là hóa thân của Phật, không chỉ là hóa thân mà là hóa thân Phật trên đảnh của Phật, hóa Phật trong hóa Phật. Những đặc tính vi diệu của Chú Lăng nghiêm thật khó nghĩ bàn !"
Dưới đây là phần giới thiệu tác phẩm Thủy Kính Hồi Thiên Lục. Bộ sách này được Hòa Thượng trước thuật trong bốn năm, từ năm 1985 đến năm 1989. Nội dung của bộ sách này là những lời tán thán chư Phật, chư Bồ Tát, chư A La Hán, lịch đại cao tăng đại đức, các cư sĩ tại gia; cùng những lời bình luậnkhách quan về các bậc đại đức, dị nhân, nguyên thủ, văn hào … ở trong và ngoài nước từ xưa đến nay. Như Khổng Tử làm sách Xuân Thu, Hòa Thượng vốn nặng lòng trung trinh ái quốc, muốn vãn hồi sự hỗn loạn của thời mạt thế, chúng ta có thể phỏng theo câu nói của Khổng Tử mà than rằng: « Tri ngã giả, kỳ duy Thủy Kính hồ ! Tội ngã giả, kỳ duy Thủy Kính hồ ! »
Có thể nói rằng Thủy Kính Hồi Thiên Lục chính là ‘nhất mạch tâm truyền’ từ Xuân Thu Bút Sử, và cũng là sách ghi chép về nhân quả sống động, rõ rệt nhất của đời nay. Trong tác phẩm này, trước tiên, Hòa Thượng giới thiệu sơ lược về cuộc đời của mỗi nhân vật, rồi dùng tám câu thơ bốn chữ (bát cú tứ ngôn) để ca ngợi, và sau đó kết thúc bằng một bài thơ «hựu thuyết kệ viết» (lại nói kệ rằng) theo thể thất ngôn. Bộ sách này xứng đáng để xem đi xem lại, có thể giúp người đời hiểu biết về luật nhân quả, xét chuyện đã qua mà biết chuyện sẽ đến, và đoạn ác tu thiện.
Trong bài tựa sách, Hòa Thượng đã viết :
“Chúng sanh khi tập điều thiện, dù được nắm tay đối mặt, ba lần răn năm lần dạy, vẫn chưa chịuphụng hành; nhưng khi gặp ác duyên thì niệm niệm liền tăng trưởng, tự biết rành rẽ mà chẳng cần ai vẽ bày. Những kẻ lầm đường lạc lối mà biết quay lại, thật ít lắm thay! Do đó, mọi sự giống như ánh trăng đáy nước và bóng hoa trong gương--chỉ có dáng dấp mà thật không hình hài. Đây chính gọi là sự hy vọng việc không thể hy vọng, sự thành tựu việc không thể thành tựu. Bởi lẽ đó nên viết Gương, Nước Về Trời (Thủy Kính Hồi Thiên) vậy”.
Phật Tổ Đạo Ảnh |
Bây giờ chúng tôi xin giới thiệu Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (Chân Dung Các Vị Tổ Phật Giáo Giải Thích Bằng Bạch Thoại). Đây là công trình do Hòa Thượng giảng giải trong mười ba năm, trải dài từ năm 1972 đến năm 1985, tổng cộng 346 tiêu đề. Những nhân vật quan trọng được giới thiệu trong này như sau: Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi “niêm hoa vi tiếu”, giơ cánh hoa trên tay và mỉm cười truyền pháp cho Tôn Giả Ca Diếp; rồi Tôn Giả Ca Diếp truyền cho Nhị Tổ là Tôn Giả A Nan, và tiếp tục như vậy cho đến vị tổ thứ hai mươi tám là Thiền Sư Bồ Đề Đạt Ma, mới là người chính thức mang pháp Thiền sang nước Trung Hoa và trở thành Sơ Tổ ở đất nước này (Đông Độ Sơ Tổ).
Sự truyền thừa được tiếp tục giới thiệu cho đến vị tổ thứ ba mươi ba, tức là vị tổ thứ sáu tại Trung Hoa (Đông Độ Lục Tổ)--Đại Sư Huệ Năng. Bấy giờ, "một hoa nở năm cánh”; rồi Ngũ Gia (năm nhà) trở thành Thất Tông (bảy tông) -- Tông Pháp Nhãn, Tông Tào Động, Tông Vân Môn, Tông Quy Ngưỡng, Tông Lâm Tế, cùng phái Hoàng Long và phái Dương Kỳ; và thêm vào đó là nhánh Ngưu Đầu.
Các vị thánh tăng của hai nước đông [Đông Độ - Trung Hoa] và tây [Tây Độ - Ấn Độ], Tông Thiên Thai, Tông Hoa Nghiêm, Tông Từ Ân, Tông Du Già, Luật Tông, Tông Liên Xã, và mười vị đại cao tăng cận đại -tổng cộng là ba trăm ba mươi tám [338] vị cao tăng được giới thiệu trong bộ sách này. Mỗi vị đều đượctán thán bằng bài kệ theo thể thơ thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu có bảy chữ). Từ phần giới thiệu vềĐại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ, tổ thứ sáu của Tông Liên Xã, cho đến bậc cao tăng đương thời là Lão Hòa Thượng Quảng Khâm, Hoà Thượng đều có thêm vào một bài thơ theo thể tứ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu có bốn chữ). Có thể nói rằng tác phẩm này đã tường thuật về hành trạng của ba trăm ba mươi tám vịTổ Sư rất cặn kẽ.
Bởi vì nguyên bản được viết theo thể văn cổ điển của Trung Hoa, không có dấu ngắt câu, và thêm vào đó là những "cảnh giới ngôn ngữ" của Thiền môn, nên lại càng khó hiểu hơn. Thật khó mà thăm dò đượccảnh giới bí ẩn thâm sâu của các vị đại đức thời xưa! Chỉ có thể nói là "không thể nói ra được", và "chỉ người uống nước mới biết nước nóng hay lạnh" vậy.
Thật ra, việc Hòa Thượng giảng thuật bộ sách Phật Tổ Đạo Ảnh là do một đại nhân duyên. Vào năm 1958, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi bộ sách này cho Hòa Thượng [Tuyên Hóa] cùng với bức thư trong đó nói rằng:
"Thầy gởi cho con bộ Phật Tổ Đạo Ảnh mà Thầy đã hiệu đính trong nhiều năm gần đây. Hãy đọc, và lưu giữ bộ sách này, và Thầy hy vọng con sẽ được lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người và trân quý Đạo."
Thật sự vào ngày 9 tháng 4 năm 1956, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi phiếu điệp đến cho Hòa Thượng, thông tin rằng Ngài [Hòa Thượng Tuyên Hóa] được truyền thừa làm tổ thứ chín của dòng thiền Quy Ngưỡng. Trong thư nói rằng:
"Con là đệ tử đã thiết tha quan tâm đến Phật Pháp và sự tiếp nối huệ mạng của chư Phật Tổ. Naythuận theo hạnh nguyện của con, Thầy gởi cho con văn bản Phật Tổ Nguyên Lưu để kế thừaTổ mạch, với kỳ vọng Tổ Đạo nhờ đó mà được trùng hưng, sự truyền thừa này sẽ bất tận."
Các đệ tử của ngài cho rằng, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã làm hơn hai ngàn bài thơ và kệ trong suốt cuộc đời Ngài. Mỗi bài kệ đều có vần điệu và thể hiện trí huệ Bát Nhã thâm sâu của Hòa Thượng. Điều nàyđặc biệt đúng đối với những bài kệ giảng giải Chú Lăng Nghiêm trước đây chưa từng có; chỉ có những người thật sự chứng nhập cảnh giới của Lăng Nghiêm Đại Định mới có khả năng giải thích như vậy.Ngoài ra, sự giải thích của Hòa Thượng về Phật Tổ Đạo Ảnh có lúc vượt ra ngoài sử liệu, khiến độc giảthắc mắc là có phải Hòa Thượng có thần thông biết được tiền kiếp (Túc Mạng Thông) hay không ?
Hòa Thượng có lời thệ nguyện rằng: "Chỉ cần tôi còn một hơi thở, thì tôi còn giảng kinh thuyết pháp!"; cho nên, Hòa Thượng trước thuật rất nhiều. Thêm vào đó, Hòa Thượng còn nguyện "sẽ phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang mọi ngôn ngữ trên thế giới"; điều này có thể nói là công đức vô lượng vô biên.Trước mắt, Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo đã phiên dịch được hơn một trăm bộ kinh Phật và sách khai thị. Sau khi Hòa Thượng viên tịch, công tác phiên dịch kinh điển không hề bị gián đoạn, chư đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục lãnh đạo chúng sanh, dẫn dắt họ từ trong bóng đêm tăm tối đến nơi quang minh sáng sủa, từ bờ bên này sang đến cứu cánh Niết Bàn ở bờ bên kia !
Thủy Kính Hồi Thiên Lục
Suốt cuộc đời, Hòa Thượng dùng Sáu Đại Tông Chỉ: Không Tranh, Không Tham, Không Mong Cầu, Không Ích Kỷ, Không Tự Lợi, và Không Nói Dối để giáo hóa chúng sanh (thật ra đây chính là Năm Giới). Nhiều Phật tử không xem trọng những tông chỉ này, cho rằng ngay cả đứa trẻ lên ba cũng có thể nói ra được. Như vậy còn cần nói thêm gì nữa ? Tuy nhiên, tôi không biết Hòa Thượng đã nói bao nhiêu lần:
"Bất cứ thành tựu nào mà tôi có được trong cuộc đời đều là nhờ tuân theo Sáu Đại Tông Chỉ. Bất cứ người nào muốn tu Đạo đều cần phải theo Sáu Đại Tông Chỉ này."
Phải chăng Lão Tử từng nói:
"Đạo của ta dễ hiểu và dễ hành nhưng trong thiên hạ không có kẻ nào có thể hiểu và có thể hành!"
Lão Tử còn nói:
"Thiên hạ đều nói Đạo của ta không thể thâm hiểu được, nhưng đó chỉ vì người ta mới khám phá. Nếu họ làm quen lâu hơn, họ sẽ dò đến được cái vi tế của nó".
Hòa Thượng cũng từng nói:
"Đại đạo bình đẳng, ai cũng có thể lên đường dễ dàng."
Tu hành, về căn bản thì rất đơn giản: "Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa."Nhưng người ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm "mật pháp" để tu hành. Điều này thật sự làm chocon người càng hồ đồ thêm. Chúng ta không nhận thức được rằng "sự bí mật nằm ngay bên cạnh chúng ta" hay sao? Nó nằm ngay trong việc theo đuổi dục vọng vật chất và chấp trước của tâmphân biệt; nó nằm ngay ở sự chế ngự nóng giận và từ chối nói dối. Đó là những "mật pháp" tức khắc; đó là Đạo!
Sáu Đại Tông Chỉ đó, đã được Hòa Thượng thể nghiệm trong suốt đời khổ hạnh; do chính Ngài lập ra vớihy vọng cống hiến điều thiện cho thế gian và giúp ích cho nhân loại. Nhưng người ta không xem nhữngtông chỉ đó là trọng yếu; có khi còn chế giễu. Đúng như Lão Tử đã viết trong Chương 41:
"Khi bậc thượng nhân nghe được Đạo, họ đem thực hành. Khi kẻ phàm phu nghe được Đạo, họ có khi chấp nhận có khi chối bỏ. Khi kẻ hạ nhân nghe được Đạo, họ liền chế giễu. Đạo có thể tìm được trong việc không chế giễu và không tự mãn."
Triết lý "không tranh" mà Hòa Thượng đã xiển dương trong suốt cuộc đời mình thì cũng giống như sự "không tranh" của Lão Tử. Hòa Thượng thường đề cập bài thơ:
Tranh là tâm hơn thua,
Đi ngược lại với Đạo,
Tâm sanh ra bốn tướng,
Làm sao được Tam muội.?
Những người thật sự không tranh chấp thì không nóng giận. Họ đã đạt đến mức độ có thể tha thứ và thật sự tha thứ. Hòa Thượng còn nói lên bài thơ nữa:
Việc việc buông thì dễ,
Tánh nóng khó sửa đổi.
Thật sự không nóng giận,
Tức có ngọc vô giá.
Lại không buộc lỗi người,
Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
Phiền não không khởi nữa,
Sân hận không kiếm ta.
Thường luôn tìm lỗi người,
Khổ mình không thể dứt.
Ngoài Sáu Đại Tông Chỉ, Hòa Thượng còn có hai bài thơ đáng được chúng ta tín thọ và phụng hành. Đó là:
Chân thật nhận lỗi mình,
Không bàn luận lỗi người,
Lỗi người là lỗi mình,
Đồng thể tức đại bi.
Hết thảy là khảo nghiệm,
Coi thử mình ra sao,
Đối cảnh lầm không biết,
Phải luyện lại từ đầu.
Trong sách Luận Ngữ và Mạnh Tử, các thánh nhân đã dạy chúng ta rằng: “Khi sự việc không theo ý mình thì chúng ta hãy xét lại chính mình. Ngoài ra, người quân tử thì tìm lại bên trong mình; còn kẻtiểu nhân thì nhìn vào người khác. Thêm nữa, khi người quân tử phạm sai lầm thì tự nhận trách nhiệm; còn khi kẻ tiểu nhân phạm sai lầm thì lại trách trời. (Tuân Tử). Sự hướng dẫn của Hòa Thượngcũng là quay trở lại và tìm trong chính mình.
Đúng là có những lúc người ta phải kinh ngạc về hành động “thân giáo” của Hòa Thượng, làm kinh ngạccác đệ tử khi sự việc xảy ra vào mùa xuân năm 1992 tại Vạn Phật Thánh Thành. Trong buổi họp đó, Hòa Thượng khai thị rằng:
“Tôi đã đau lòng tự đánh mình. Tôi tự đánh tôi nhiều lần đến mức bất tỉnh. Bởi vì tôi thiếu đức hạnh, nên các đệ tử do tôi dạy dỗ mới ra nông nỗi như thế này. Nếu quý vị sám hối chân thật, thì bất cứ lỗi lầm nào quý vị đã gây nên, tôi đều nguyện tự mình nhận lãnh tất cả. Nhưng nếu quý vị không nói lờichân thật, và mong vào địa ngục sớm hơn một chút, thì tôi không có cách nào để cứu quý vị.
Hãy nói sự thật, hãy dùng tâm chân thật của quý vị để sám hối, thì tất cả tội báo nghiệp chướng màđáng lẽ quý vị phải thọ lãnh trong địa ngục, tôi sẽ nhận chịu hết.”
Theo tôi biết, chưa có vị Thầy nào tự đánh mình vì đệ tử không hiếu thuận. Điều này thật vô cùng đau lòng. Hòa Thượng đã áp dụng đạo lý "lỗi người là lỗi mình; đồng thể tức Đại Bi", có thể nhìn là thấy ngay. Điều này đã được mô tả trong Phẩm 25 của Kinh Hoa Nghiêm:
“Tôi nên vì chúng sanh, chịu hết tất cả đau khổ của họ để họ có thể thoát được vực thẳm của sanh tử vô tận. Tôi nên vì tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới và trong tất cả các nẻo ác, mà chịu đựngtất cả các đau khổ của họ suốt đến kiếp vị lai…
Tôi thà chính mình chịu khổ thay cho tất cả chúng sanh hơn là để cho chúng sanh bị đọa vào địa ngục. Tôi thà chịu thế cho chúng sanh đang bị nguy nan trong địa ngục, trong loài súc sanh, hoặc trong các xứ vua A Tu La, để tôi có thể cứu chuộc các chúng sanh trong nẻo ác, giúp họ thoát ra vàđược giải thoát."
Sau Lễ Trà Tỳ của Hòa Thượng, hơn mười ngàn mẩu xá lợi được tìm thấy (có cả xá lợi hoa và mười haixá lợi răng), có đủ màu sắc, gồm trắng, nâu, xanh lá cây, xanh da trời, đen và tím. Có nhiều xá lợi kết tủa thành hình trên xương, lóng lánh như ngọc thạch, rất hiếm thấy. Điều nầy chứng tỏ rằng công đứccủa Hòa Thượng từ việc thuyết pháp kinh điển hơn mười ngàn lần và suốt đời không bao giờ nói dối, quả thật là không thể nghĩ bàn vậy!
TÓM LẠI.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma, không quản ngại xa xôi đã đem Phật Pháp từ Ẩn Độ truyền đến Trung Hoa, là nơi Phật Pháp được phát dương quảng đại. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã sớm phát nguyện mang Phật Pháp sang các nước ở Âu Châu và Mỹ Châu, hầu có thể tiếp dẫn càng nhiều chúng sanh hữu duyên dong thuyền về bờ Trí Tuệ bên kia hơn nữa. Khi Hòa Thượng ở Hoa Kỳ, Ngài phát ba đại nguyện:
1. Chú trọng luân lý đạo đức trong nền giáo dục, đề xướng việc giáo dục thiện nguyện (nghĩa vụ giáo dục).
2. Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ, và thành lập Học Viện Dịch Kinh.
3. Tạo thuận lợi trao đổi và đoàn kết giữa các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa; dung hợp Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Hòa Thượng cho rằng giáo dục cũng quan trọng như hoằng pháp. Học sinh tại Vạn Phật Thánh Thành phải học thuộc lòng "Quy Luật Học Sinh" (Đệ Tử Quy) và "Tam Tự Kinh". Hòa Thượng có thể được xem như là người đầu tiên đề xướng việc giáo dục thiện nguyện tại Tây Phương. Ngài tích cực tìm những giáo sư thiện nguyện để củng cố những tiêu chuẩn cao thượng về học vấn cũng như đạo đức.
Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ trên thế giới chính là hạnh nguyện mà Hoà Thượngđã lập khi xuất gia. Ngài có thể được xem là vị tăng thứ ba đã phát nguyện đem kinh điển Phật Giáochuyển dịch thành các ngôn ngữ của mọi quốc gia trên toàn thế giới, sau hai Đại Sư Huyền Trangvà Giám Chân.
Hơn 130 bộ sách đã được phiên dịch sang Anh ngữ, và công việc phiên dịch sang các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt, tiếng Nam Dương… cũng đang được tiến hành.
Hòa Thượng cũng nỗ lực để dung hợp các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. Hoà Thượng từng nói rằng:
“Các truyền thống Bắc tông và Nam tông đều nhằm mục đích giúp chúng sanh phát Bồ Đề Tâm,chấm dứt sanh tử, xa lìa khổ não, đạt được an lạc. Do đó, các truyền thống Bắc tông và Nam tôngcủa Phật Giáo nên có sự cảm thông với nhau và đoàn kết hợp nhất, xem cả hai đều là một. Đừng nên anh làm việc của anh và tôi lo chuyện của tôi, vì như thế, sức mạnh của Phật Giáo sẽ bị phân tán.”
Cuối cùng chúng ta có thể thấy rằng, cuộc đời, sự nghiệp và giáo pháp của ngài là một tấm gương sáng, một bài học quý báu, thực tiễn cho chúng ta học hỏi, soi lại với chính mình và nương theo đó hành trì. Những điều ngài tu hành và thể nghiệm là những gì ngài nói ra, đi thuyết giảng và sống làm gương trong suốt cuộc đời hoằng pháp của ngài. Đó là hạnh của Bồ tát và chỉ có các Bồ tát mới làm được như vậy, như cuối cuộc đời của ngài không còn gì để lại, thân xác ngài được thiêu xong và tro cốt ấy đưa lên khinh khí cầu rải khắp vào hư không. “Từ hư không đến, trở về hư không” là câu nói bất hủ của ngài vào cuối đời khi ngài di chúc lại.
Một ngày mùa đông tháng 2 tại Đức quốc.
Hạnh nguyện
(Xem thêm bài: Cực Lạc Cảnh Giới Tự Chiangmai)
Các tài liệu tham khảo và trích dẫn:
Khai thị 1,2,3,4,5,6.
Cuộc đời và sự nghiệp của H.T Tuyên Hóa.
Những Cống Hiến Của H.T Tuyên Hóa Đối Với Nền Phật Học.
Tuyên Hóa ngữ lục.
Tuyên Hóa pháp ngữ.
Hư Vân ngữ lục.
Vạn Phật Thánh Thành website: http://www.chuavanphat.org