Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

Lời tựa

Để tiến lên lầu pháp bảo vô biên, chúng ta phải bước từng nấc thang phương tiện.

Chương tr.nh tu học 4 mùa của Tịnh-độ Ni viện chẳng những y cứ trên văn tự kinh

điển mà quan hệ ở 3 nghiệp hằng thấm hoa hương giác tỉnh. Đạo Vô Lượng Quang nuôi

dưỡng các tế bào, làm chất liệu giải thoát cho các d.ng máu, khiến 5 ấm chuyển dần trở về 5

phần Pháp-thân.

Kính thưa qu. huynh đệ !

Chúng ta thật may mắn, được sanh ra từ chiếc nôi và lớn lên trong môi trường giáo

dưỡng của Thầy. Những ai sống gần Thầy đều cảm nhận rằng Thầy sống toàn vẹn với đạo

pháp, Thầy đang hướng dẫn chúng ta trên con đường tự lợi lợi tha.

* * *

Đường xa ngàn dặm, đến nơi được là nhờ ở bước ban đầu. Gốc rễ chẳng khéo vun

trồng, th. do đâu có cây lớn tỏa cành xanh ngọn.

Tịnh-độ Ni viện chúng ta :

1- Học luật để tr.n bổn phận một nữ tu sĩ. Ai cũng biết giới luật là nền tảng Thánh Hiền, cần

phải tinh vi nghiên cứu và chân thành thực hiện.

2- Học và quán Tứ Niệm Xứ để giác tỉnh, trong tiêu ba độc tham sân si, ngoài biết sáu trần ảo

ảnh. Thực hiện nếp sống khắc kỷ khoan tha, để có thể vui h.a với tất cả mọi người và an ổn

trong tất cả hoàn cảnh.

3- Học kinh A Di Đà Yếu Giải để biết tông chỉ và đường lối tu Tịnh-độ.

4- Học kinh Thủ Lăng Nghiêm để nhận biết duy tâm Tịnh-độ, tự tánh Di Đà. Được thế mới

nhất tâm niệm Phật. Như người đ. sẵn có hạt giống, chỉ cần công phu vun trồng, sẽ nở hoa

giải thoát và kết quả Bồ-đề.

Sách học 4 mùa đ. có in riêng để cúng dường đại chúng. Ở đây chỉ ghi chương tr.nh tu

học, cô đọng lại một làn âm hưởng của Tôn Sư, nhưng rất cần thiết cho chúng ta hôm nay và

ngày mai.

* * *

V.n cứu thế giới nhân tâm,

Hoằng dương đại thừa Phật Pháp.

Hoàn thành nhân gian Tịnh-độ,

Trang nghiêm Vô-thượng Bồ-đề.

Lầu Hoa Nghiêm

Tỳ-kheo-ni Bảo Tâm

Mạnh Thu 1995

I-/ KHOA TIẾT CẦN YẾU

  1. TÁN LỄ TỔ SƯ

NIÊM HƯƠNG

Vầng dương rực rỡ, ánh sáng chói chan.

Xét mặt trời không đứng m.i

Nên chiếu phạm, lục h.a Tăng chúng.

C.i không, lễ các bậc Thánh Hiền.

Ngũ phần hương thơm lừng pháp giới.

Hương này âm dương kết tụ,

Trời đất hợp thành.

Vun trồng nào phải công nhất thế,

G.n giữ trông mong ở sức bách thần.

Cỗi cành tươi tốt v. đ. thấm nhuần mưa pháp.

Thể chất thanh cao nhờ cậy mây từ che phủ.

Hương này lấy ở rừng thiền,

Trồng trong vườn tuệ thiên nhiên ngạt ngào.

Dao giới vót h.nh núi cao,

Đốt l. tâm nguyện kính dâng cúng dường.

DÂNG HOA

Hoa tâm nở màu tốt tươi

Mùi thơm sực nức hoa trời kém xa.

Kính Phật con dâng đóa hoa

Muôn thu gió nghiệp chẳng hề động lay.

LỄ T Ổ

Bông hoa hiện điềm lành,

Năm cánh lạc phương xa,

Trao pháp tạng đất Ấn,

Tôn thờ tại Trung Hoa,

Việt Nam trồng giống Thánh,

Kết quả hằng hà sa.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Thiên Đông Độ Việt Nam, lịch đại nhất thiết chư vị Tổ

sư (3 lạy).

Đức tướng đoan nghiêm như vàng thắm,

Đầu đà khổ hạnh giữ chung thân.

Lưu truyền Như Lai chánh nh.n tạng,

Kê Túc trong non đợi Từ Tôn.

Chí tâm đảnh lễ : Ma-ha Ca Diếp tôn giả, THIỀN TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Được độ đầu tiên tám vương tử,

Thân tâm thanh tịnh tợ hoa sen,

Hoằng truyền luật giáo Tỳ Ni tạng,

Phật pháp do đây trụ thế lâu.

Chí tâm đảnh lễ : Ưu Ba Ly tôn giả, LUẬT TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Đa văn trong chúng tôn đệ nhất,

Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông,

Kết tập Như Lai chánh pháp tạng,

Vĩnh tại nhân thiên độ thế gian.

Chí tâm đảnh lễ : Ananđà tôn giả, GIÁO TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Tây phương cổ giáo Thế Tôn tuyên,

Đông độ khai tông hiệu Bạch Liên,

Mười tám đại hiền làm thượng thủ,

“Hổ Khê tam tiếu” tới nay truyền.

Chí tâm đảnh lễ : Huệ Viễn tôn giả, TỊNH-ĐỘ TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Phước đức trí tuệ diệu trang nghiêm,

Nữ nhân xuất gia bậc thượng thủ,

Bát kính thắng pháp thành thọ giới,

Truyền thừa Ni luật độ thế nhân.

Chí tâm đảnh lễ : Ma-ha Ba Xà Ba Đề, Kiều Đàm Di Mẫu, Đại Ái Đạo tôn giả, Ni giới

liệt vị Tổ sư (3 lạy).

PHỤC NGUYỆN

Tông phong vĩnh chấn,

Tổ Ấn trùng quang.

Giác hoa hương biến khắp rừng thiền.

Mưa pháp tưới nhuần người sơ học.

Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng.

Tổ đường rực rỡ, chánh pháp xương minh.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát (3 lạy).

  1. TỔ QUẢNG BÁ

HUẤN TỪ LỄ XUẤT GIA

Ngày 19 - 9 – 1981

Qu. hóa thay ! Qu. vị phát tâm xuất gia làm đại trượng phu, không c.n là nữ nhi nữa.

Trượng phu sự không phải ai cũng làm được. Trượng phu có nghĩa là : phú qu. không rông

rỡ, nghèo khổ không đổi l.ng, thế lực không khuất phục. Thế gian phỉ báng, đủ các thứ khen

chê, vẫn tu. Ăn đói mặc rách, làm nhiều học nhiều, bị mắng bị phạt, có khi bị đ.n, vẫn vui tu.

Phải tập làm sao cho 8 gió không động. Tám gió là thịnh lợi suy vi, hạ giá đề cao, khen ngợi

chê bai, đau khổ an vui. Luôn giác tỉnh vô thường, biết thân mỏng manh chợt c.n chợt mất

nên chẳng màng sung sướng thế gian.

Có người thân xuất gia, tâm c.n tại gia v. ham ưa thế sự. Có người thân tại gia đ.nh

nhưng tâm thật trượng phu. Mong rằng các cháu đ. xuất gia th. cả thân và tâm đều xuất gia.

Thân khoác cà sa, tâm tr.n giới phẩm. Để tổ tiên ông bà cha mẹ nhân đây giải thoát. Chủ yếu

tự m.nh ra khỏi luân hồi để rồi c.n trở vào 6 đạo đưa chúng sanh ra. Như người ở trong nhà

cháy, mau mau làm sao tự cứu được m.nh để c.n lo cứu người.

T.nh cha mẹ thương con như biển hồ lai láng nhưng chính ái ân là gốc trầm luân. Mê

hoặc tạo nghiệp mới có sanh tử nhiều kiếp. Đến nỗi nước mắt nếu chứa lại th. bốn biển c.n

chưa đủ. Xương những kiếp trước nếu giữ lại được th. chất cao như núi Tu-di. Cho nên Phật

dạy xuất gia để t.m đường giải thoát. Song xuất gia cần nhất phát tâm Bồ-đề :

1) Thiện tâm : phiền n.o vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

2) Bi tâm : chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

3) Trực tâm : Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Các cháu cố gắng hàng ngày nhớ câu : Kia trượng phu, ta cũng trượng phu.

  1. BÁT KÍNH PHÁP

Ni chúng suốt đời phải tôn trọng, tán thán vâng giữ bát kính pháp.

1) Tỳ-kheo-ni dù 100 tuổi hạ, thấy Tỳ-kheo Tăng mới thọ giới, phải nghênh tiếp lễ bái, nhắc

ghế thỉnh ngồi.

2) Không được chê bai mắng nhiếc Tỳ-kheo Tăng.

3) Không được nói lỗi lầm và cử tội Tỳ-kheo Tăng.

4) Thức xoa ma na phải theo đại Tăng cầu thọ đại giới.

5) Tỳ-kheo-ni phạm Tăng tàn phải cầu đại Tăng xuất tội.

6) Nửa tháng phải đến đại Tăng cầu giáo thọ.

7) Không được kết hạ an cư ở nơi không có Tỳ-kheo Tăng.

8) An cư xong phải đến đại Tăng cầu tự tứ.

  1. LỤC H.A

1- Thân h.a đồng ở một nơi,

Cùng nhau sửa nghiệp chung vui chung sầu.

Những ngày sống ở bên nhau,

Không tâm chia rẽ, đừng nên mất l.ng.

2- Miệng h.a lời nói dịu dàng,

Ôn tồn nh. nhặn, thật thà vui tươi.

Khuyên ai tránh thói giễu cười,

Chớ nên khiêu khích, dành phần hơn thua.

Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa l.ng nhau.

3- . h.a vui đẹp biết bao,

Bể đông tát cạn lời nào có sai.

Cuộc đời sở dĩ chông gai,

Bởi không đồng ., bởi l.ng hoài nghi.

4- Giới h.a nhớ nghĩ nghiêm tr..

Tỳ ni thanh tịnh đứng đi nằm ngồi.

5- Kiến h.a học hỏi những g.,

Đem ra bàn bạc cùng ghi pháp lành.

Cùng nhau dốc chí tu hành,

Pháp môn thâm nghĩa viên thành quả tu.

6- Lợi h.a vui vẻ phân chia,

Dù nhiều dù ít, lấy đều làm hơn.

Chữ lợi cướp mất nghĩa nhân,

Là người con Phật phải hằng không tham.

Kính h.a sáu phép r. ràng,

Đây là nếp sống của hàng xuất gia.

Hằng ngày tụng đọc thiết tha

Gắng ghi trong dạ, sửa m.nh tu thân.

  1. TỊNH ĐỘ NI VIỆN

Tịnh-độ là đất sạch, v. y báo toàn cảnh tươi đẹp trong sáng, chánh báo toàn thượng

thiện nhân. Trái lại c.i Ta Bà y báo đất cát bụi bặm. Chánh báo toàn tham sân si nên gọi là uế

độ (c.i đất nhơ bẩn). Kinh Duy Ma Cật dạy tâm tịnh là Tịnh-độ (không có c.i riêng tư nào.

Bất cứ ở đâu hễ tâm tịnh đó là Tịnh-độ). Mới nghe tựa hồ khác với kinh A Di Đà. Nhưng thật

2 kinh cùng tuyên dương l. nhân quả. C.i Cực Lạc đất sở dĩ toàn vàng v. tâm địa nhân dân

thuần thiện cảm thành. Cây hoa cung điện chói sáng do trí tuệ giác tỉnh cảm thành. Nơi nơi

ngọc ma ni (như .) trang nghiêm do tâm từ bi cảm thành.

Kinh A Di Đà khế cơ v. chúng sanh c.i Ta Bà 9 tháng tù ngục trong thai nhơ uế, thoát

ra để mùa hạ mặt trời thiêu đốt, mùa đông lạnh cóng buốt xương. Ác thế chỉ đem sát đạo dâm

vọng đối xử với nhau. Khiến cho thân đ. khổ v. sanh già bệnh chết, tâm đ. khổ v. ân ái biệt

ly, oán thù gặp gỡ, cầu chi chẳng được, lại thêm trăm cay ngàn đắng trong gia đ.nh ngoài x.

hội. Nay nghe cảnh giới an vui, có thầy là Phật, có chúng bạn toàn Bồ-tát Thánh Hiền, ai đ.

tin được mà chẳng ham thích cầu về.

Kinh A Di Đà khế l. v. c.i Cực Lạc có thật. Có những chúng sanh thanh tịnh nên cảm

quả báo được Phật là người thanh tịnh đưa về cảnh giới thanh tịnh để chung sống với các bậc

thanh tịnh. Hiện nay trên khắp hoàn cầu, khoa thiên văn đều công nhận trong hư không vô

biên có vô lượng thế giới thể chất khác nhau, nên tin ở phương Tây có c.i Cực Lạc là việc dễ

dàng đối với Phật tử ở thế kỷ thứ 20.

* * *

Tông Tịnh-độ có rất nhiều môn. Hiện nay tại Việt Nam chỉ lưu hành có 3 pháp :

1) Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương đoạn trừ 5 thống 5 thiêu. Năm thống là 5 sự đau đớn. Năm

thiêu là 5 sự đốt nấu. Kinh dạy : Dùng 5 giới để thanh tịnh tâm địa. Lấy tịnh giới làm nhân tu

cầu v.ng sanh về c.i Phật A Di Đà.

2) Kinh Quán Vô Lượng Thọ chủ trương thanh tịnh tâm địa để cầu v.ng sanh bằng định lực.

Kinh dạy 16 pháp quán y báo chánh báo c.i Cực Lạc.

3) Kinh A Di Đà dùng tuệ lực buông xả căn trần hư vọng, một l.ng niệm danh hiệu Phật A Di

Đà. Nhất tâm bất loạn nghĩa là sạch hết kiến-hoặc tư-hoặc th. bảo đảm v.ng sanh.

* * *

Chữ A Di Đà, chúng ta đ. biết, nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Biên

Công Đức. Vô Lượng Thọ là thường trụ không sanh diệt. Vô Lượng Quang là tánh giác ở

khắp mười phương. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà là niệm thật tướng của Phật. Thật tướng

của mười phương Phật chính là thật tướng của mười phương chúng sanh. Chư Phật đ. chứng

ngộ sự thật này. Chúng ta c.n mê. Nay niệm Phật, trở về với Phật, tức là trở về với thật tướng

của chúng ta.

  1. a) Bậc thượng căn y theo l. này niệm Phật, được thượng phẩm thượng sanh, ở c.i Thường

Tịch Quang.

  1. b) Bậc trung căn tr. giới, tu định, niệm danh hiệu Phật, được trung phẩm v.ng sanh, ở c.i

Phương Tiện Thánh Cư.

  1. c) Bậc hạ căn tránh ác làm lành niệm danh hiệu Phật, được hạ phẩm liên hoa, ở c.i Thánh

Phàm Đồng Cư (c.i An Lạc nói trong kinh A Di Đà).

  1. kinh A Di Đà dùng một môn tr. danh gồm nhiếp cả 3 căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo,

Luật, Mật... các tông, nên được lưu thông khắp các nước đại thừa. Tới nay vẫn không kém bề

hưng thịnh.

* * *

Núi Lô Sơn bên Tàu, đời nhà Tấn, ngài Huệ Viễn cùng 123 huynh đệ lập thành Liên

x., khắc bia thề rằng : “Buông xả thế gian ch.m đắm. Tỉnh ngộ vô thường qua mau. Phiền n.o

chướng, nghiệp chướng, báo chướng bức bách thường xuyên. Ngó xuống cảnh tam đồ sâu

hun hút, nh.n ra sáu đạo luân hồi hiểm nguy. V.ng sanh già bệnh chết thật khó thoát. Thế nên

một l.ng ngày đêm kính cẩn chuyên cần cầu Phật A Di Đà cứu vớt. Mượn thân phù du giả

tạm cố gắng tu hành, dùng diệu quán khai trí giác tỉnh. Nương từ lực Phật bay về Cực Lạc,

uống nước tám đức, giải thoát lậu nghiệp, quay trở lại Ta Bà hoằng dương đạo thanh lương,

đưa tất cả chúng sanh về Tịnh-độ”.

Chúng ta hiện nay, chùa Viên Thông 26 vị, Liên Hoa 30 vị, Linh Quang 10 vị, Hương

Sen 90 vị, Dược Sư 100 vị, Bát Nh. 80 vị, Lăng Nghiêm 10 vị. Tổng cộng 346 người hàng

ngày niệm Phật, trừ vọng-hoặc viên thành giới phẩm. Niệm lực tương tục, đúng nghĩa chấp tr.

danh, cố gắng hết sức m.nh cầu đài sen thượng phẩm.

  1. THANH QUY

1- Hô cảnh sách lớn tiếng, đúng giờ. Đại chúng chắp tay chí tâm lắng nghe, đồng niệm Phật.

Trừ khi có việc cần.

2- Vào lớp học đúng giờ, không được tự tiện ra vào. Hết sức yên tĩnh, đứng ngồi ngay thẳng.

Chú . nghe giảng, có bệnh hoặc duyên sự cần nghỉ phải xin phép.

3- Chỉ được xem những sách chùa đ. kiểm duyệt.

4- Mỗi nửa tháng nhóm chúng đọc quy luật, không được vắng mặt. Có việc cần nghỉ phải xin

phép chi trưởng.

5- Gửi thư hay nhận thư phải tr.nh tri chúng.

6- Giờ tụng niệm, chuông 2 phải có mặt. Lễ phục y vàng áo tràng lam, y phục tề chỉnh. Quỳ

đứng trang nghiêm đều hàng. Âm thanh h.a chúng. Không được cao tiếng cũng không được

đọc thầm. Có duyên sự nghỉ phải xin phép. Bất tịnh được nghỉ 4 ngày các khóa lễ, ngồi thiền

và thể dục.

7- Mỗi nửa tháng trước ngày bố tát, toàn chúng phải như luật sám hối. Tri chúng phải kiểm

chúng thanh tịnh mới cho bố tát.

8-Không được nói chuyện tạp. Được hỏi đáp về Phật pháp, nhưng muốn nói quá 10 phút phải

xin phép tri chúng.

9- Thấy khách đến phải chào, mời tri khách tiếp, không được lân la nghe chuyện. Khách của

m.nh phải xin phép tri chúng rồi mới tiếp, không được nói chuyện lâu.

10- Được chị em cử lỗi, dù đúng dù sai phải chắp tay cám ơn rồi mới nhẹ lời h.a nh. tr.nh

bạch. Trường hợp nào cũng phải tâm b.nh khí h.a.

11- Không được đem chuyện chùa nói với người ngoài. Không được đem chuyện ngoài vào

chùa. Không được đem chuyện người này nói với người kia.

12- Ở trong chúng phải giúp đỡ lẫn nhau, không được riêng lo bạn thân.

13- Tự phạm quy luật phải phát lồ giữa chúng. Biết người khác phạm, không được che giấu.

14- Không được lấy trái cây của thường trụ ăn hoặc cho riêng ai.

15- Sau 3 tiếng bảng báo hiệu giờ ăn, phải có mặt ở trai đường. Tuyệt đối im lặng. Tưởng 5

phép quán. Cần ăn riêng phải xin phép tri chúng. Giờ ăn, hành đường không được mặc áo

ngắn, ngôn ngữ cử chỉ se sẽ nhẹ nhàng, không được động niệm chị em. Ăn xong đồng chúng

tụng kinh rồi mới đứng dậy, trừ có việc cần.

16- Ba tiếng kẻng báo hiệu giờ tr. tĩnh, phải sửa soạn. Sau một hồi kẻng phải có mặt trên đơn.

Không được cười nói, đi mạnh, các việc động chúng. Nằm dáng cát tường. Ngồi nằm chỗ của

m.nh. Có việc cần thức sớm phải xin phép.

17- Không được vô cớ vào liêu khác. Không được tự do ngồi nằm trên đơn người khác.

18- Chấp tác cấm nói chuyện. Phải niệm Phật. Đúng giờ khắc. Tr.n nhiệm vụ. Cần nghỉ phải

mượn người thay hoặc thưa tri sự.

19- Chậu và sô của chúng không được ngâm quần áo hoặc chứa nước riêng, chướng ngại sự

cần dùng của người khác. Quần áo cần để cách đêm mới giặt, phải xin phép. Tẩy tịnh dùng

hết nước trong lu, phải xách đền.

20- Phơi quần áo phải đúng nơi quy định, phải có kẹp, cất vào trước giờ lâm thụy. Quần áo

vật dụng đều phải có tên.

21- Muốn mượn vật của người, phải hỏi chủ nhân. Dùng xong phải trả về chỗ cũ. Không được

tự tiện lục đồ của người khác.

22- Không được vứt rác ra vườn.

23- Không được phản kháng chức sự, muốn xây dựng không được đột ngột công cử giữa

chúng, phải góp . riêng. Nếu cần th. tr.nh lên Giám viện xét xử, không được sau lưng kể xấu.

24- Đi đường áo dài tề chỉnh. Không nên đi một m.nh. Không được đi đêm. Nếu cần phải xin

phép, oai nghi đúng luật.

25- Không được đến chùa Tăng. Nếu thật cần phải xin phép Sư cô Giám viện. Không được đi

một m.nh, cần 1 hay 2 người làm bạn.

26- Ra ngoài đại giới, phải xin phép tri chúng. Ở ngoài cách đêm hay nhiều đêm, phải xin

phép Sư cô Giám viện. Giới luật oai nghi nghiêm chỉnh như ở trong chúng.

27- C.i nhau lần 1 đối chúng sám hối, lần 2 lạy một thời Hồng Danh, lần 3 tùy ban chức sự

xét xử.

28- Trừ nhân duyên, ai trái nội quy, lần 1 quay mặt vào tường niệm Phật 5 phút. Lần 2 đối

chúng sám hối. Lần 3 tri sự sai làm việc một ngày. Lần 4 tùy ban chức sự thẩm định.

  1. THANH NIÊN HỌC PHẬT

Dù ngoài đời hay trong đạo, thanh thiếu nhi vẫn được gọi là măng non. Măng non chỉ

có một nhiệm vụ là thu hút những tinh túy của trời đất, để dần dần đan dệt thành những thớ

tre vững chắc, đợi chờ ngày vươn m.nh cao vút, thẳng lên trời xanh, ứng dụng vào bao nhiêu

nhu cầu của làng x..

Nhiệm vụ xây dựng tương lai, nhiệm vụ học tập để thành đạt kết quả, nhiệm vụ gói

ghém bao nhiêu hy vọng, nhiệm vụ được tô điểm v. ngậm chứa tất cả ước mong.

Nói riêng về thanh thiếu nhi đạo Phật chúng ta phải học những g. ? Và cách học thế

nào ?

Toàn bộ vấn đề giáo dục, học vấn và tập luyện là cải tạo ngũ ấm hữu lậu vô minh để

xây dựng 5 phần Pháp-thân hiền thánh.

Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Bát Nh. :

Phật pháp ở tại thế gian

Chẳng l.a thế gian có giác,

L.a thế gian t.m Bồ-đề

Như uổng công t.m sừng thỏ.

Chính từ thân tâm bất giác mà cầu Niết-bàn. Chính từ gốc rễ chúng sanh mà nở hoa

giác tỉnh, kết quả Bồ-đề.

Cố gắng của thế hệ trẻ là phải nghiên cứu kỹ lưỡng 3 khoen : HOẶC – NGHIỆP –

KHỔ. Tin chắc l. nhân quả, luân l. đạo đức nhà Phật căn bản ở giới luật ph.ng phi chỉ ác.

Tin HÀNH là chủ động nghiệp tái sanh, mới có thể hoàn thành chí nguyện giải thoát cho

m.nh và người.

Dĩ nhiên muốn là Phật tử th. phải học Phật pháp. Nhưng chúng ta phải nhớ là vàng

thường lẫn quặng, nên trong thất giác chi, cành lá đầu tiên của cây Bồ-đề là trí tuệ trạch pháp.

Ngay từ bước đầu tất cả nguy cơ đ. xuất hiện, nếu chúng ta học lầm hay không biết cách học.

1- Nắm vững những tri kiến Thánh Hiền tr.nh bày trong kinh sách đ. là một khó khăn cho bộ

óc phàm phu chúng ta. Nhưng đó mới là Văn tuệ. Nếu không bước thêm th. chúng ta chỉ

thành những con mọt sách, huyênh hoang nói đạo nói huyền. Việc học này trở thành tổn thất

nguy hại. Kinh thường dụ là ăn bánh vẽ, đếm bạc cho người, mải xem ngón tay quên mặt

trăng v.v...

2- Cố gắng cần thiết là luyện tập khả năng rời văn tự, thấy kinh ở ngay thân tâm và cảnh của

m.nh. Đây là Tư tuệ.

3- Tu tuệ tức là thực hành, nếp sống đúng chánh pháp.

Tệ nạn tai hại nhất là đời sống tách rời giáo l.. Như miệng tụng : “Thọ thị khổ” mà

sinh hoạt cứ chạy theo sáu trần. Sớm chiều đọc Bát Nh. Tâm Kinh mà cả đời chẳng có lấy

một phút giây chiếu kiến 5 uẩn huyễn vọng. Sự tu hành trở thành dối trá, người bị lừa đầu tiên

chính là m.nh. Nếu không kịp thời hiểu mối nguy cơ này, không kịp thời sửa chữa mà cứ tự

nhận là Phật tử th. sự nghiệp giải thoát không thành. Lại c.n gây mối hại cho ngôi Tam-bảo ở

thế gian. Như mấy ông lang băm đ. làm suy sụp nền y học Đông phương. V. thế tư tưởng, lời

nói, việc làm, 3 nghiệp của chúng ta, đ. chẳng được phép mâu thuẫn với kinh sách mà c.n

phải h.nh dung kinh sách lên bằng ngàn sắc vạn h.nh.

Không có tự giác, giác tha, th. việc học Phật của chúng ta thật vô giá trị. H.a-thượng

Pháp Chủ dạy Giác có 2 nghĩa :

1) Giác sát : Hồi quang phản chiếu, mỗi động mỗi niệm liền biết ngay. Sắc ấm đ.

sanh, thọ tưởng ấm đ. sanh, không nhận là m.nh mà phải quán nhân duyên sanh. Không để

cho 5 ấm này sai sử m.nh, bắt m.nh hành động quấy, đến nỗi nghiệp thức phải đi đầu thai vào

sáu ngả. Giải thoát luân hồi mới thật là khôi phục lại quyền tự do độc lập. Cổ đức có sách

Minh Tâm Bảo Giám. Giám là gương soi. Gương qu. báu này chỉ chiếu liễu khi linh tâm

minh sáng. Nên Thầy không ngớt nhắc răn : “Phải điều h.a thân tâm, phải sinh sống thư thả

điềm tĩnh”. Muốn được như thế th. nếp quy luật, thời khóa biểu phải tuân theo triệt để. Kinh

nói : Giới sanh Định, Định phát Tuệ là 3 vô lậu học.

2) Giác ngộ : Tỉnh thức, sống với chân tâm. Ngài Văn Thù hỏi căn bản tu hành của

chư Phật lúc sơ tâm.

Bổn Sư đáp : Viên Giác đà la ni.

Đức Phổ Hiền hỏi : Làm sao xóa được vô minh để sống với Viên Giác tánh ?

Bổn Sư đáp : Quán thân bất tịnh, quán pháp vô ng..

Vấn đề trước mắt phải để . ngay là Phật tử sơ tâm sẽ có một lỗi lầm nghiêm trọng nếu

cho rằng 5 ấm hư vọng không cần lưu tâm, chỉ cần chuyên y vào tánh Viên Giác, hoặc nói chỉ

tu đại thừa không dùng tiểu thừa.

Kinh Lăng Nghiêm dạy : Phát giác sơ tâm phải hiểu 2 nghĩa quyết định :

1/ Nhân địa tu hành phải đồng với quả giác. Cầu Niết-bàn vô sanh bất diệt mà dùng .

thức sanh diệt để tu th. cũng như nấu cát mong thành cơm. Phải y nơi mật nhân Bồ-đề là tánh

Biết hằng lưu lộ ở sáu căn th. mới có thể vào bể giác.

2/ D.ng m.nh muốn xả hữu vi, việc trước hết phải xét cho r. gốc rễ phiền n.o từ vô

thủy, chỗ phát nghiệp, chỗ nhuận sanh của 8 thức, ai làm ? ai chịu ? Nếu không r. chỗ điên

đảo của hư vọng căn trần th. làm sao hàng phục để tiến lên Như Lai quả vị.

  1. sao đức Phật đ. thành công ? V. ngài đ. nghiên cứu r. 12 nhân duyên hư vọng, t.m

được tánh thể của vô minh là Phật tánh.

Phật pháp không bỗng nhiên có, không phải do các pháp sư phát minh. Ta thật ngu

ngốc nếu mỗi khi thuyết pháp, ta tự thấy m.nh là người sáng tạo bài pháp vừa nói. Phật pháp

có ra là từ công phu giác tỉnh của chư Phật, chư Tổ. Các ngài đ. đánh thức chúng ta, khiến

nhận ra thống khổ của ách luân hồi từ lũy kiếp, cần phải lật đổ.

Cho nên mở đầu nền học vấn, dĩ nhiên chúng ta phải làm giàu trí óc m.nh bằng những

kho tàng tri kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết

bước đi của người xưa. Nhưng không nhắm mắt hấp thụ, không chất đầy đầu óc những văn

chương mà luôn luôn vận trí phê phán, am hiểu thật tế, luyện rèn bắt chước.

Đạo giác tỉnh không cho phép nhắm mắt nghe bừa mà phải nghiền ngẫm sự thật, rút

kết luận trên kết quả thực hành.

Lại nữa, phương ngôn có câu : “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Tổ dạy : “Hổ ly sơn

hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn”.

Giọt nước đứng một m.nh chỉ một thoáng đ. thành không, nhưng nếu theo d.ng th. dư

sức ra biển cả. Sự nghiệp Thánh Hiền vô biên oai đức nhưng đối với chúng ta c.n là ngoại

phận rất mong manh. Trong mặt trận chống vô minh, chúng ta chịu tấn công 3 mặt : a) Nội

phiền n.o tham sân si, tứ đại sanh l.o bệnh tử từ trong đánh ra. b) Thầy tà bạn ác, sáu trần

cám dỗ, gia đ.nh x. hội buộc ràng, hoàn cảnh từ ngoài đánh vào. c) Giữa là nghiệp lực sát đạo

dâm vọng, các tập khí si loạn lôi cuốn.

Trí tuệ xuất thế phải có bạn đồng tâm, đồng chí, đồng nguyện, đồng hành, như những

giọt nước giúp đỡ sức mạnh cho nhau. Phải ở trong d.ng mới hy vọng cùng xuôi về biển

rộng. Lục h.a bảo đảm đoàn kết. Vi phạm lục h.a không phải chỉ mệt người khác mà tan vỡ

đoàn thể, chính m.nh đ. tự phá 5 phần Pháp-thân.

Nếu chỉ đọc bài lấy điểm là đủ an l.ng tự đắc mà không chịu nghiêm chỉnh trong bổn

phận, không phát tâm phục vụ chị em, th. chúng ta là những Phật tử đáng buồn.

Tứ chánh cần không những khuyên thanh thiếu nhi chúng ta làm cỏ mà c.n phải gieo lúa.

Tấm l.ng bi mẫn, nụ cười an ủi, lời nói dịu h.a, bàn tay chăm sóc... như dầu thoa máy, điệu

sống dễ nhịp nhàng trong đoàn thể.

Giác hoa tươi nở trong tâm, hương công đức sẽ thấm nhuần vạn loại. Như đức A Di

Đà từ mỗi chân lông tỏa ánh sáng và hương thơm đi khắp muôn phương, thâu nhiếp hữu t.nh

về Phật hạnh.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CẢNH SÁCH

HÀNG NGÀY

Thức chúng khuya : 3 giờ

Muôn tiếng ch.m lặng rồi

Canh ba trống đổ hồi.

Quốc kêu tiếng tha thiết( 1)

Mộng bướm c.n miệt mài(2 ).

Kiến đục trong cây h.e

Cá ngoi mặt nước bơi.

Không hay xem trăng thật

Chỉ đắm đóa hoa cười.

Lạc nhà xa ngàn dặm

C.n ham giấc ngủ hoài.

Không biết thân này ảo

Mê man trọn một đời.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Tiểu thực : 5 giờ 30 phút.

Đời mộng ảo chuông chùa cảnh tỉnh

Chuông chí tôn reo khắp nhà nhà.

C.n ham giấc ngủ ngon mài miệt

Chẳng quản vầng đông ánh chói l.a.

Dằng dặc đêm dài c.n có sáng

Mịt mờ lối quỷ khó lần ra.

Nay không gắng gỏi tu hành đạo

Ngày khác làm sao thấy Phật đà.

Nam mô đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Học sáng : 7 giờ 30 phút.

Đêm tối vừa lui sáng

Mặt trời dần chiếu ra.

Âm thầm tóc xanh bạc

Má hồng đổi dần dà.

Chẳng biết tuổi xuân ngắn

C.n tranh quả nghiệp mà.

Thân như băng gặp nắng

Mệnh, đèn trước gió to.

Chớ làm khách trọ m.i

Sớm lo trở về nhà.

Nam mô đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Ngọ trai : 10 giờ 30 phút.

Chớp mắt mặt trời đ. giữa trưa

C.n ham thanh sắc, m.i say sưa.

Ngàn cây đứng bóng, Nam Kha mộng( ).

Vầng nhật trên không, bước chuyển v.ng.

Phút chốc hoa tươi đ. rũ úa.

Quẩn quanh mệnh nấm thịnh liền vong( ).

Ai ơi ! Sao chẳng hồi tâm lại.

Tự khổ đường mê m.i ruổi rong.

Nam mô Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Thức chúng trưa : 2 giờ.

Sanh ra làm tớ cho h.nh thể,

Già đến tám mươi trí hôn mê,

Bệnh xâm tứ đại đau khôn nhẫn,

Chết xuống ba đường nghiệp nặng nề,

Gặp gỡ ghét hờn vô cùng hận,

Ái ân khôn xiết khổ biệt ly,

Muốn cầu chẳng được thêm phiền muộn,

Ngũ ấm lẫy lừng cháy thật ghê.

Nam mô đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Học chiều : 2 giờ 30 phút.

Mặt trời nghiêng xế bóng

Vườn dâu xanh mát râm( ).

Ngày tháng khó cầm lại

Già bệnh dễ đến t.m.

Giờ chết luyến chẳng được

Kỳ hẹn ai thể gh.m.

Các ngươi mở to mắt

Mê tan, chớ để tâm.

Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Ngồi tĩnh tối : 7 giờ 30 phút.

Mặt trời vừa lặn tối nhá nhem,

Bối rối đường đi lại tối thêm.

Đốt đuốc chăm lo nhà người rạng,

Đèn nhà m.nh sao chẳng tự xem.

Quạ lửa non tây đ. ch.m hẳn,

Biển đông lấp lánh ánh cung thiềm( ).

Sanh tử thay đổi tuần hoàn m.i,

Tam-bảo quay về hết cảnh đêm.

Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Lâm thụy : 9 giờ tối.

Cảnh bức núi tây mờ

Bao giờ tiếc ngày giờ ?

Chỉ hay theo . ngựa

Đ. dừng tâm vượn chưa ?

Trời lặn rồi lại mọc

Thân nổi ch.m đấy mà.

Già đến khôn với ngu

Chết đi nay như xưa.

Tránh sao được vô thường,

Trốn đâu đại hạn kia.

Ai nấy làm đạo chánh

Chớ lạc lối tà tâm.

Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

  1. NGŨ QUÁN

Phàm tới bữa ăn phải tưởng 5 phép quán :

1- Xét công nhiều ít, chỗ người đem đến.

Mỗi một hạt cơm bao nhiêu vất vả ! Trước hết phải lo ruộng mạ, cuốc cày, nhổ cỏ, tát

nước, đắp bờ. Bao nhiêu thức khuya dậy sớm, mưa nắng d.i dầm. Lại c.n ngâm giống, gieo

mạ, nhổ mạ, cấy lúa, bón phân ba lần, bắt sâu nhiều buổi. Tới khi hạt lúa ngậm sữa th. cả

tháng, ngày canh chim, đêm canh trộm. Lúa chín rồi, nào gặt, nào đập, nào phơi, nào xay, nào

gi.. Chỉ tính một công phu gánh đi gánh lại từ thôn quê lên thành thị, mỗi ngày khuân vác,

bao nhiêu mồ hôi. Có hạt gạo rồi c.n phải bổ củi, gánh nước, lượm thóc, rửa nồi, vo gạo, đun

nấu. Đếm tất cả 72 công việc, vậy mà vừa đặt vào miệng đ. thành đờm d.i, cách một đêm

biến thành phân tiểu, ai cũng ghét không muốn thấy. Thế gian bao kẻ tạo ác chỉ v. tham ăn,

đến nỗi đọa địa ngục, nuốt h.n sắt nóng, uống nước đồng sôi. Hết nghiệp lên làm súc sanh

đền trả nợ người, trâu kéo cày, ngựa kéo xe, đói khát roi vọt. Mưa nắng d.i dầm, trăm cay

ngàn đắng, sống thống khổ, chết đọa đày.

Xét chỗ người đem đến là thế nào ?

Thí chủ cầu phước, giảm miệng bụng m.nh, bớt phần vợ con, đem của tới chùa. Ta

không tu hành, lấy g. đáp lại sự tin kính này. Cho nên có câu : “Hạt gạo nặng như trái núi là

vậy”.

2- Xét đức hạnh m.nh tr.n hay khuyết :

Nếu không giữ giới, ngồi thiền, tụng kinh, làm việc Tam-bảo, thời đức thiếu hạnh

khuyết, không nên thọ người cúng dường. Nếu thọ th. v. đây mà đọa lạc. Đức hạnh dù có

hoàn toàn cũng phải tu 5 phép quán mới tiêu của tín thí. Bởi v. không giác tỉnh, không có giải

thoát, không giải thoát tức là đọa lạc, đ. đọa lạc hẳn phải đền trả nợ xưa. Tổ Thiên Thai dạy :

“Bất luận ăn của chúng Tăng hay đi khất thực, đều phải tưởng 5 phép quán. Nếu không nhập

quán, ắt nhuận sanh tử. Học đạo không thông l., thân sau đền tín thí”. Xưa kia ông trưởng giả

cúng dường một vị Tỳ-kheo, tin kính một l.ng. Chợt ông Tỳ-kheo mắc bệnh chết. Bỗng nhiên

một hôm trong vườn trưởng giả thấy có mọc nấm. Thời gian sau nấm không mọc nữa. Phật

dạy : “Nấm ấy là ông Tỳ-kheo đền nợ vậy”. Kinh đ. nói rành, đâu dám không tin.

3- Ph.ng tâm l.a lỗi :

Từ vô thủy bao nhiêu lầm lỗi, gốc đều từ tham sân si. Cho nên ngày ngày phải giác

sát. Khi ăn gặp món ngon đừng khởi l.ng tham, gặp món dở chớ khởi l.ng sân, với món ăn

b.nh thường chớ khởi l.ng si. Đủ 5 phép quán mới nên thọ thực. Ngoài ra mắt thấy sắc, tai

nghe tiếng, mũi ngửi hương, thân giác xúc, . thọ pháp trần, đều là gốc phát xuất ba độc, cần

tuệ minh sát thanh lọc vọng tâm.

4- Món ăn đây chính là thuốc hay, chữa bệnh h.nh khô sắc héo :

  1. mượn tứ đại làm thân nên có nghiệp đói khát. Nếu không ăn uống th. h.nh gầy sắc

ốm, không do đâu tiến tu đạo nghiệp. Cho nên ăn uống chính là thuốc hay trị bệnh. Nhưng

nếu ta tham đắm th. trở thành thuốc độc.

Kinh A Dục Vương : Tổ Ưu Ba Cấp Đa đưa bát sữa cho một Tỳ-kheo, bảo rằng : “Ông h.y

đợi nguội rồi từ từ uống”. Tỳ-kheo thổi lia thổi lịa, uống một hơi cạn hết. Tổ nói : “Sữa tuy

nguội nhưng tâm ông c.n nóng, phải dùng phép quán bất tịnh để nguội tâm ông đi”. Tỳ-kheo

vâng lời, lặng lẽ quán. Pháp quán đắc lực, ông ói ra đầy bát. Tổ bảo : “Ngươi ăn lại đi”. Tỳ-

kheo bạch : “Bất tịnh ăn làm sao được nữa”. Tổ dạy : “Ngươi phải quán tưởng các pháp như

hỷ mũi khạc đờm”. Nhân đó Tỳ-kheo tinh tấn tư duy quán sát, được quả A-la-hán.

5- V. thành đạo nghiệp mới thọ món ăn :

Ta v. cầu đạo nghiệp mới tới đây thọ l.nh cơm này. Người cũng v. mong ta thành đạo,

mới đem cơm tới đây cúng thí. Vậy h.y tự hỏi : Đạo nghiệp là g. ? Đ. thành chưa ? Dù chưa

thành đạo nhưng cũng phải v. đạo. Nếu không th. một hạt gạo cũng khó tiêu. Cho nên phàm

khi ăn, phải tưởng 5 phép quán, thường sanh l.ng hổ thẹn, mỗi miếng thầm tưởng : “Nguyện

dứt tất cả ác, tu tất cả lành, hằng thanh tịnh tự tâm, bao nhiêu công đức hồi hướng cho tất cả

chúng sanh đồng thành Phật đạo”. Nếu quả được như vậy th. ngàn vàng cũng tiêu.

  1. THỂ DỤC

— Hô theo Từ Bi quán.

— Động tác theo hơi thở thật chậm và dài.

* Động tác vươn thở : Mười phương Sư Tăng

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác tay : Nguyện cho Thầy tôi

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác chân : Nguyện cha mẹ tôi

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác đầu gối : Mười phương tín thí

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác vặn m.nh : Nguyện khắp c.i trời

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác lườn : Nguyện khắp c.i người

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác bụng : Nguyện A-tu-la

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác lưng : Nguyện c.i địa ngục

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác toàn thân : Nguyện khắp quỷ thần

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác chạy tại chỗ : Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

* Động tác điều h.a : Nguyện loài bàng sanh

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác thư gi.n : Mười phương chúng sanh

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

(Tùy sự cần dùng mỗi động tác làm từ 4 đến 8 lần).

LỢI ÍCH

— Thân tập từng động tác, tâm duyên theo âm thanh rải từ bi quán. Đây là phương pháp diệt

dần thói hờn giận, huân tập tâm từ bi, đồng thời giải oan gỡ kết với hết thảy chúng sanh. Tâm

vốn ở khắp pháp giới nên mỗi niệm từ bi rải đến mười phương khổ n.o chúng sanh, phước

báo vô tận. Trái lại mỗi mống nghĩ xấu ác ảnh hưởng cũng cả pháp giới nên tổn đức không

cùng.

— Theo từng động tác, chúng ta hít vào thở ra, điều h.a hơi thở. Hơi thở điều h.a th. tim đập

điều h.a, thần kinh hệ cũng điều h.a theo. Do đó tâm an định, thân khỏe mạnh, tinh thần

thanh sáng an vui. Đây là một phương pháp tiêu tai giải nạn, bảo đảm đắc lực trong hiện tại và

là điều kiện thiết yếu cho sự giác ngộ ngày mai.

  1. BA PHẨM

LIÊN HOA

(năm 1983)

I

Liên Hoa lấy Kinh Luật làm căn bản sinh sống. Kể từ năm ngoái qu. Sư cô mạnh dạn

buông bỏ văn tự, sấn vào hành pháp Tứ Niệm Xứ. Năm nay duyên lành có sư cô Hạnh về tr.

y, qu. Sư cô tiến thẳng vào thiền đại thừa.

Hai năm chuyên Tứ Niệm Xứ để thấy các pháp sanh diệt vô ng.. Vừa tạm đủ lông đủ

cánh, qu. Sư cô vào Nhĩ căn viên thông. Đây là bản hoài của H.a-thượng Pháp chủ. Ăn đến

cái bánh thứ 3 này mới thật no. Nhưng không phải là không cần 2 cái bánh trước. Liên Hoa

hiện tại là một Tịnh-độ có 3 phẩm :

1- Hạ phẩm học Kinh và Luật để vào hiền vị.

2- Trung phẩm tu Tứ Niệm Xứ để mở đường xuất thế.

3- Thượng phẩm Phản Văn vào tri kiến Phật.

Kinh Pháp Cú dạy : “Canh ph.ng tâm nghiêm mật sẽ đi đến an vui”. Qu. Sư cô là

những dũng sĩ can đảm, quyết xông vào trận chiến nội tâm với mục đích tự tha đồng giải

thoát.

Biết nói sao cho hết nỗi cảm phục của chúng con khi thấy qu. Sư cô khép m.nh trong

kỷ luật nghiêm khắc, chịu đựng những thử thách của thân thể và nội tâm. H.nh ảnh qu. Sư cô

nghiêm trang thiền định đập mạnh vào tâm hồn chúng con, khiến tham sân tật đố của chúng

con bớt đi. Chúng con phải làm thế nào để xứng đáng làm em của những người chị đ. từng

giờ từng phút nhiếp niệm.

Chúng con cố gắng học, nắm vững giáo l. để sau này cũng được tập tu. Chúng con

thúc liễm thân tâm v. ngay trước mắt có các bậc thánh hiền gương mẫu. Mười phương chúng

sanh c.n được nhờ từ điển của qu. Sư cô huống chi chúng con hân hạnh sống liền bên. Chúng

con sung sướng được nương tựa vào sự dẫn dắt của chánh pháp.

Kinh Pháp Cú dạy : Làng mạc hay rừng sâu, non cao hay trũng thấp, nơi nào A-la-hán trú ngụ

cũng tịnh lạc.

Kinh Đại Bi dạy : Người nhiếp tâm tr. chú tắm rửa, nước văng vào chúng sanh nào,

chúng sanh này liền tiêu tội được an vui. Hơi miệng người tr. chú theo gió nhằm ai, người này

sẽ được giải thoát.

Qu. Sư cô miên mật trở về tánh nghe không tạp niệm, soi từng hơi thở, biết từng bước

đi. Hôm nay gieo nhân làm Phật, chắc chắn sẽ kết quả Phật. Tương lai chúng con nương nhờ

vào sự tu hành của các chị đi trước. Nguyện cầu Tam-bảo gia hộ qu. Sư cô b.nh an sức khỏe,

trí tuệ khai minh, Bồ-đề tâm kiên cố, hoàn thành cảnh giới Liên Tr. ngay tại Việt Nam.

Nam mô Hoan Hỷ mười phương Phật.

II

Đ. gọi là Tùng Lâm, rừng tùng, hẳn nhiều tùng bách hiên ngang, lá xanh rợp trời, thân

thẳng một gióng, cao vút hư không. Đáng mừng là ban hộ pháp đ. lấy tự tha lưỡng lợi làm

nhiệm vụ. Tận tâm kiệt lực mà vẫn sợ tâm này chưa tận, lực này chưa đủ. Giúp người chính là

giúp m.nh, cùng nhau thành biện sự nghiệp. Tổ dạy : Bổ củi xách nước, không việc nào chẳng

phải đạo. Chủng chủng công vụ thiền môn, mỗi mỗi đều có phần quan trọng.

Tu tĩnh đắc đạo đ. đành mà xả thân khổ hạnh danh thơm cũng lắm. Tổ Quy Sơn nấu

ăn. Tổ Kính Sơn quét dọn nhà bếp. Tổ Thọ Xương cầy ruộng. Tổ Bách Trượng một ngày

không làm không ăn. Qu. ngài đều có tên trên bảng truyền đăng, đều đ. được tâm ấn nối

pháp Như Lai. V. thế chấp lao phục dịch, tự l.nh khó nhọc để phụng thờ Tam-bảo, thật chính

là tu đạo. Đây chính là những cây tùng cây bách đang mong vươn cao, uống ánh quang minh

vô tận. Đây chính là sửa soạn ngôi Tổ ngôi Phật.

Mừng rằng toàn chúng Liên Hoa ai cũng có phần bên Cực Lạc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. HUẤN TỪ CỦA H.A-THƯỢNG PHÁP CHỦ

Nhân ngày lễ tạ 49 ngày đả thất của ban Phản Văn

Tổ sư than rằng : “Thời chánh pháp, người tu dũng m.nh tinh tấn, v. đạo quên thân,

nên có tu có chứng. Ngày nay biếng nhác nên ít chứng ngộ”. Bậc tiền bối nhà Nho khuyến

khích học sinh rằng :

“Bạch nhật mạc nhàn quá

Thanh xuân bất tái lai,

Song tiền cần khổ học

  1. thượng cẩm y hồi”.

Nghĩa là :

“Nắng vàng chớ bỏ qua

Tuổi xanh không trở lại,

Bên cửa cần chăm học

Mai đây ngày vinh quy”.

Vua Đại Vũ ngày xưa tiếc tấc bóng quang âm hơn thước ngọc. Kinh Vô Thường dạy :

“Thiếu niên dung mạo tạm thời tươi, chẳng bao lâu sẽ thành khô tụy”.

Học sinh thế gian biết qu. thời giờ, sớm khuya học tập. Khi thi đỗ rồi, vua ban áo cẩm

bào, cưỡi ngựa về quê, làng huyện đón rước, mẹ cha hớn hở, vinh hoa biết ngần nào ?

Học sinh xuất thế gian, bái từ cha mẹ, vào cửa Thiền-na, lập chí siêu phàm, những

mong nhập thánh. Tâm Bồ-đề vừa khai phát, mười phương Phật vui mừng, c.i âm c.i dương

hy vọng, quỷ thần ủng hộ. Hàng ngày tự hỏi : Quán thông 3 tạng thánh giáo chưa ? Nghiệp

chướng đ. đào thải hết chưa ? Thân miệng . đ. thanh tịnh chưa ? Làm sao đừng cô phụ bốn

ân ? Làm sao cứu vớt cả ba c.i ?

Trường thi tuyển Phật, tâm Không đỗ đầu. So với việc làm thế gian thật dễ hơn nhiều.

  1. sao ? V. học vấn thế gian là đem những kiến thức bên ngoài vào tâm, luyện tài văn

chương, phải dùng sức lực tinh thần rất nhiều. Mà kết quả làm quan phú qu. vinh hoa chỉ

hưởng may lắm mới được trọn vẹn một đời.

C.n học sinh xuất thế gian, cưỡi xe bạch ngưu, mặc giáp liên hoa, ngay c.n đang tu

tập, trời người đ. lễ bái huống chi khi tự giác, giác tha, giác hành viên m.n, khiến cho Phật

nhật tăng huy, th. qu. giá biết chừng nào. Vinh hoa kiếp kiếp đời đời. Cứu dân độ thế, ân đức

trời đất biển sông không chi sánh bằng. Mà chỉ cần có một công phu xả ng. pháp, không nhất

thiết tướng, thành vạn pháp trí.

Nay các cháu đ. chọn đường xuất thế, con đường vô thượng không chi hơn, c.n lời

nói nào để tán thán hết thịnh đức ? Giới thân tuệ mạng vừa thêm 1 hạ. Lại tr.n 49 ngày thiền

thất phản văn, công phu viên m.n hứa hẹn tương lai siêu phàm.

Con đường từ xưa tới đây đ. thật là rực rỡ huy hoàng. Vậy khuyên cứ đường này mà

đi đến nơi đến chốn.

  1. LỚP PHẬT HỌC PHỔ THÔNG

Kính bạch trên Thầy !

Kính bạch toàn thể đại chúng !

Đ. ngót ba ngàn năm đạo Phật có mặt ở Việt Nam. L.ng tin tội phước nhân quả đ.

thấm nhuần khắp các tầng lớp x. hội.

Khoảng 100 năm gần đây, văn minh Âu Mỹ tràn vào, lớp người hiện đại thờ ơ với đạo

Phật. Trong khi ấy, nghiên cứu l. học, sự hành thiền định được thịnh hành khắp năm châu.

Làm sao lại trái ngược như thế ? Bởi v. trên khắp thế giới, pháp luân thường chuyển nên Phật

nhật tăng huy. C.n ở Việt Nam, con số Tăng Ni giảng dạy Phật pháp thật là quá ít. Đạo Phật

chỉ được học và tu kín đáo trong các ngôi chùa. Giữa thành phố, giáo l. c.n được vang lên

mỗi tuần chớ ở các thôn quê th. khoan nói đến ánh sáng chân l. cao xa, 99% người Việt Nam

chẳng am tường tam quy ngũ giới.

Ngay thôn Phú An chúng ta, nổi tiếng là đông tu sĩ Phật giáo, có tới 50 chiếc am cốc.

Nhưng thử hỏi dân chúng, có ai biết đến đức Thích Ca Mâu Ni ? Chắc chắn chỉ nhận được

những lắc đầu.

Người ta đến chùa chỉ để cầu an cầu siêu, coi đức Phật như ông thần gốc đa với bổn

phận tiêu tai giáng phước. Chữ Phật nghĩa là Đại Giác mà nay đạo Phật chỉ đưa người vào mê

tín dị đoan. Như thế đối với đàn na tín thí, tứ sự hộ pháp cúng dường, cái im lặng của chúng

ta quả t.nh là tàn nhẫn và độc ác.

Nóng l.ng về t.nh trạng ấy nên cố H.a-thượng Thích Thiện Hoa suốt 25 năm, đ. đem

những kinh nghiệm giảng dạy, đúc kết thành bộ Phật Học Phổ Thông, gồm 12 nấc thang giáo

l., đưa dần người học đạo từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Mong các đệ tử xuất gia có tài liệu

để mở lời giáo hóa ông bà cha mẹ, trước Phật hóa gia đ.nh, sau khai giác x. hội.

Riêng chùa chúng ta, khiêm tốn nơi miền quê xa xôi, an tĩnh dưới những tàng cây rừng

núi. Hàng ngày vẫn có từng đoàn người từ thành phố đổ lên, đi cả ngàn cây số từ xứ Bắc đến,

từ nước ngoài về thăm quê hương... bao nhiêu công lao, bao nhiêu vất vả, đem đầu đến trước

Tam-bảo, cúng dường các Sư.

Sư là tiếng Tàu. Tiếng Việt dịch là Thầy, nghĩa là người dạy học. Cho nên để tiêu

dung hạt gạo tín thí, chúng ta có bổn phận phải có một bài khai tuệ cho những người v. các Sư

mà đến đây.

Chúng con hôm nay thành kính nối gót tiền hiền, vâng lệnh Tôn sư, đảnh lễ Tam-bảo,

nguyện nghiên cứu bộ Phật Học Phổ Thông, trên hoằng dương đạo giác, dưới mở đường giải

thoát cho ông bà cha mẹ thân duyên cùng mười phương pháp giới hữu t.nh đồng vào Phật

đạo.

  1. LỚP THẬP TÍN

Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm hội thượng Phật

Bồ-tát.

Kính bạch trên Thầy, kính bạch toàn thể đại chúng.

Tuy Phật pháp mênh mông như biển cả nhưng chúng sanh nào cũng có thể tùy phận

lượng mà hưởng thọ. Bởi v. Phật pháp sẵn đủ trong tâm mỗi chúng sanh. Phật tánh là chánh

nhân. Phật pháp là duyên nhân. Liễu nhân Phật đạo do đây viên thành.

Hoa Nghiêm là bộ kinh hùng vĩ vẽ đường Vô-thượng Bồ-đề. Cổ đức đại từ đại bi đ.

dạy cho sơ tâm xuất gia chúng con, vừa bước chân vào chùa, liền được học Tỳ Ni Hương Nhũ

(rút từ phẩm Tịnh Hạnh). Một bộ nhật dụng này, sự th. thâu nhiếp thân tâm, l. th. quy viên

đốn. Mỗi xúc mỗi trần, mỗi hành vi, tập cho tâm trí sáng suốt, thoát ly tạp tưởng quá khứ vị

lai, trở về hiện tại. Nhiếp niệm thành định. Mỗi nguyện mỗi nguyện đều v. chúng sanh. Đọc

văn này, phát nguyện này, làm hạnh này, sẽ đồng với bậc Viên giác, không hai không khác.

Bồ-tát Hiền Thủ dùng ngót 400 bài kệ để ca ngợi công đức Thập Tín Bồ-tát.

Con Tỳ-kheo-ni Bảo Tâm, đ. đủ phước duyên được nhập thất mấy năm chuyên học

kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao của Thanh Lương quốc sư. Nay công phu hoàn tất, vâng lệnh Tôn

sư, cùng một số chị em khai mở lớp học Thập Tín.

Mục đích xuất gia là cầu thành Phật. Bước đầu tiên dĩ nhiên phải vào Thập Tín. Như

Lai đem quả dụng ứng quần cơ, bủa khắp c.i Ta Bà những tia sáng Bồ-đề. Phật danh, Phật

pháp, Phật thân đều là chỗ y cứ để khởi l.ng TIN.

Muốn viên m.n 10 TÂM (10 Tín) cần tu 10 quán pháp. Đây là then chốt, v. muốn tin

phải hiểu. Trong phẩm Bồ-tát Vấn Minh, 10 Bồ-tát tên THỦ cùng nhau hỏi đáp, khám phá

nghiên cùng giáo l.. Song phải do thắng hạnh mới tiến lên thềm bực ngôi vị. Học hiểu mà

không thực hành uổng phí đa văn nên Phật nói tiếp phẩm Tịnh Hạnh. Tùy theo sự duyên mà

khéo phát nguyện, tăng trưởng Trí Bi, thành tựu Phổ Hiền công hạnh, nội đức sớm viên thành,

tà ma chẳng thể quấy. Thần lực pháp nh.n do TÍN mà đầy đủ.

Chúng ta tự xưng là con Phật, học Phật và cầu thành Phật, hẳn cũng nên nhận r. Phật

là g. ? Phật ở đâu ? Đấng Đại Giác thường trụ ở khắp mười phương. Thập TÍN là bước đầu

viên thông. Hôm nay chúng con đặt chân cất bước trên con đường vạn dặm, cầu mong đại trí

Văn Thù, đại bi Quán Thế Âm nhỏ giọt sữa pháp, nuôi mầm Bồ-đề.

Nhất thừa viên đốn diệu pháp môn

Để chân thật thấy tánh thành Phật.

Tay cầm, mắt xem, tâm miệng tụng,

Nên biết đều là đại nhân duyên.

Thấy nghe, tùy hỷ, chứng Bồ-đề.

Rốt ráo viên thành đạo Vô-thượng.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh.

II-/ MÙA HẠ

TỪ 15-4 ĐẾN 15-7

  1. CHƯƠNG TR.NH AN CƯ

— Lễ Tổ – Lễ Phật – Khai luật kệ – Giáo giới an cư (đại chúng quỳ nghe giáo sắc của đại

Tăng).

— Thông kiểm số chúng.

— Cụ Tổ Quảng Bá huấn từ.

— Thỉnh Chủ Pháp Sự.

— Các thượng t.a đối thú bạch an cư.

— Toàn chúng bạch an cư.

— Cung an chức sự mùa hạ.

— Ban chức sự phát nguyện.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

MẪU THÔNG KIỂM SỐ CHÚNG

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch đại đức Ni Tăng ! Năm nay Ất Hợi 3 tháng tiền an cư, trước hết con xin

cung thỉnh đức Trung thiên Giáo chủ Thích Ca Văn Phật đứng ngôi thượng thủ. Kế đến các

cựu và khách Tỳ-kheo-ni gồm 15 vị, Thức xoa ma na 3 vị, Sadini 16 vị, h.nh đồng 2 vị. Cuối

cùng con xin cung thỉnh ngài Vi Đà Hộ Pháp an cư hội thượng nhận 1 ngôi vị.

Vậy tổng cộng mùa hạ năm nay tại trụ xứ Liên Hoa có 38 vị tiền an cư. Kính xin qu.

tôn đức liễu tri cho (1 lạy).

CẢNH SÁCH

KHUYÊN NIỆM PHẬT

Tất cả khổ cực thế gian nằm trong 4 chữ sanh tử luân hồi. Thân người rất khó được mà

lại vô cùng dễ mất. Tam đồ dễ vào mà rất khó ra. Thời gian trong địa ngục phải lấy số kiếp

mà tính đếm. Vạn khổ nung đốt không biết nơi đâu cầu cứu. Đền tội xong, lên dương thế làm

bàng sanh để trả nợ xưa. Từ bụng heo chui ra, tự nhận m.nh là heo. Đem tánh vô lượng quang

vào bào thai xú uế, nương gá bụng ngựa dạ trâu, thương tâm biết ngần nào ! Bảy đời Phật đi

qua vẫn c.n làm thân kiến. Tám vạn kiếp sau chưa thoát nghiệp bồ câu. Bỏ đ.y da này mang

đ.y da khác. Trải ngàn vạn năm mới được tướng người. Bao lần chịu thân cách ấm, đâu c.n

trí sáng ? Xúc thọ căn trần, sanh già bệnh chết làm sao tự chủ ?

Cho nên ngay bây giờ, phải thống niệm hiểm nguy sanh tử như cứu lửa cháy đầu. V.

mười phương chúng sanh nhất tâm niệm Phật. Bởi v. họ với ta đồng thể. Bởi v. đ. từng làm

bà con quyến thuộc nhiều đời. Bởi v. đ. cùng nhau chịu khổ từ vô thủy kiếp. Nên nay niệm

Phật cầu cho ta và người đồng giải thoát, đồng thành Phật đạo. Phát đại tâm như vậy, trên cảm

thông chư Phật, dưới khế hợp tánh linh. Tội nghiệp từ lũy kiếp sẽ giải trừ. Bao nhiêu thiện căn

sớm thành thục. Lấy vui Cực Lạc đối chiếu với thống khổ Ta Bà th. l.ng muốn rời xa càng

vội vàng như mong thoát hang cọp, như đói mong ăn, khát mong uống, như tránh oan gia

đang cầm dao rượt, như chết đuối gấp cầu cứu vớt.

Mê chân khởi vọng hay ngược vọng quy chân, đâu có pháp nào ngoài một niệm này.

Theo tịnh duyên niệm liền vào pháp giới thánh. Theo nhiễm duyên niệm mở ra pháp giới

phàm. Mười phương chánh báo y báo đều từ một niệm này mà ra. Tr. một danh hiệu Phật là

gieo một hạt giống vào 9 phẩm hoa sen. Niệm một câu Phật là một bước trên đường giải

thoát. Tâm tâm liên tục niệm niệm chuyên cần. Càng lâu càng thấm thía. Sao cho thành một

khối nhất tâm bất loạn. Một khi liên hoa khai nở th. tam thân tứ trí, ngũ nhỡn lục thông, bao

nhiêu thắng duyên rực rỡ.

Niệm Phật cốt yếu để minh tâm mà tịnh tâm cũng không chi bằng niệm Phật. Như

nước đục được minh châu nhất định sẽ trong. Biết r. l. này phải vội vàng niệm Phật.

Nếu có thể nhất tâm niệm Phật th. coi như việc tham học đ. xong, việc cần làm đ. thành biện

vậy.

Triệt Ngộ Đại Sư

  1. LỄ TƯỞNG NIỆM H.A-THƯỢNG TRÍ THỦ – ĐỆ NGŨ LUẬT SƯ

Đại chúng sửa soạn an cư. Mọi năm ngày này, Liên Hoa cử 2 vị sang Già Lam đảnh lễ

thỉnh Ôn làm đệ ngũ Luật sư. Năm nay Ôn đ. về c.i Phật. Chúng con không thể ngăn được

nỗi niềm xúc động, đảnh lễ di ảnh, cùng nhau nhắc lại công đức của Ôn đối với Liên Hoa.

Hạ năm nay và chắc rằng m.i m.i, chúng con không t.m đâu được một vị đệ ngũ Luật

sư khoan dung đức độ và tận t.nh dạy dỗ chúng con như Ôn. Ôn đ. vui vẻ giải quyết những

khó khăn rắc rối trong Ni chúng. Ôn lúc nào cũng có sẵn những bài pháp ngắn, hợp cơ phải

thời, để vừa sách tấn vừa răn dạy con em lỗi lầm. Mỗi dịp khánh tuế là chúng con lại được Ôn

kể cho một câu chuyện thật hay để về làm quà cho đại chúng. Ôn vắng bóng là một mất mát

lớn cho Liên Hoa. Thật đúng như phương ngôn Việt Nam : “Con không cha như nhà không

nóc”. Hoàn cảnh thời mạt pháp đ. cam go, thêm vào đó bao nhiêu đần ngu dại dột của chúng

con. Ôn đ. lặng lẽ che chở, gạt đi những mũi tên chỉ trích và từ mẫn nâng đỡ Liên Hoa trước

những tầm mắt nghiêm khắc của trong và ngoài Phật giáo.

Cha lành tỏa đức từ che mát. Mỗi khi chúng con sang thỉnh . kiến Ôn, dù việc nhỏ

như cá nhân phạm lỗi, xin Ôn chỉ dạy cách trị phạt, Ôn vẫn từ h.a hoan hỷ cặn kẽ tận t.nh.

Tưởng như Ôn thong thả rảnh rang lắm. Có lần thầy thị giả phát gắt v. chúng con đ. liên tiếp

làm rộn Ôn. Là người l.nh trách nhiệm lớn trong giáo hội toàn quốc, là thượng thủ trong hoạt

động Tăng già, là Thầy đốc giáo của các trường Tăng Ni Ôn đ. thành lập, là thầy Bổn sư của

ngàn vạn Phật tử tại gia, làm sao Ôn có thời giờ ngồi không ? Thế mà bất luận trường hợp

nào, chúng con cũng chỉ thấy nơi Ôn một đấng nghiêm từ hoan hỷ nâng giấc đàn con dại.

Nếu không được Ôn khuyến khích, hẳn Liên Hoa có bao giờ dám tổ chức hàng năm

khóa y công đức. Chính nhờ những chỉ dạy tỷ mỷ kỹ càng của Ôn mà Liên Hoa mỗi năm

mạnh dạn tu học thêm 5 tháng Cahyna, không lo trái pháp.

Chúng con được qu. Thầy cho biết sáng nào Ôn cũng dậy từ 2 giờ để làm lễ sám. Ôn

c.n tranh thủ thời gian để viết sách cho hậu lai chúng con. Cuốn YẾT MA YẾU CHỈ là tác

phẩm cuối cùng ngài vừa hoàn tất trước khi nhắm mắt.

Toàn quốc đ. nói nhiều về công đức Ôn đối với Phật giáo Việt Nam. Giờ đây đối

trước di ảnh, nhân buổi lễ truy niệm bậc đại ân nhân, Liên Hoa Ni chúng nhớ lại năm 1980,

Thầy chúng con ở Phú An về thành phố Hồ Chí Minh, được Ôn cho một bài pháp. Tết đến,

thay v. lễ phẩm thế gian, Thầy bắt Diệu Văn học thuộc l.ng bài ấy. Cùng với Sư cô Giám

viện sang làm lễ khánh tuế Ôn, chúng con đọc Ôn nghe lại, để dâng lên, xin Ôn chứng minh,

l.ng chân thành ghi nhớ pháp bảo của mấy con. Ôn vô cùng hoan hỷ dạy thêm rằng :

Thời Phật c.n tại thế, ở phương đông thành Xá Vệ, có một bà già ghét Phật, ghét cay

ghét đắng. Mọi người thỉnh Phật độ cho bà. Phật thân hành tới nơi. Bà quay mặt đi. Phật hiện

thân đứng 4 phía. Bà lấy hai tay bịt mắt. Nhưng lại thấy ở mỗi đầu ngón tay một ông Phật. Bà

tức m.nh .a lên khóc. Phật trở về tinh xá, sai La Hầu La đến thăm bà. Bà đon đả đón tiếp và

vui vẻ quy y. Mọi người ngạc nhiên. La Hầu La có tài g. hơn Phật ? Phật dạy : Kiếp xa xưa,

một bà già lên chùa xin xâm bói quẻ. Thầy trụ tr. đuổi. Bà giận lắm, bỏ đi. Thầy tri sự chạy

theo an ủi. Thầy trụ tr. nay là Phật. Thầy tri sự nay là La Hầu La.

Cho nên Bồ-tát muốn độ tất cả chúng sanh, phải cẩn thận, chớ để chúng sanh có những

ác cảm truyền kiếp như thế.

Nhà ai cũng có Quán Thế Âm. Cố gắng sẽ được.

  1. CỤ TỔ QUẢNG BÁ HUẤN TỪ

KHAI THỊ ĐẦU HẠ

Trên đường tu, hiểu đạo chưa là khó, hành đạo mới thật là khó. Chỗ biết của tôi dù có

thể đ. xa trăm dặm mà việc làm thật chưa đi được 5 bước. Kinh Đại Tập dạy : “Đời mạt pháp

ức ức người tu, ít ai ngộ đạo, chỉ nương môn niệm Phật mà thoát luân hồi”.

  1. cầu tu theo chiều sâu, Tăng Ni dùng hương thơm ánh sáng công đức Phật, để trang

nghiêm thành tựu hương thơm ánh sáng Pháp-thân m.nh. Huệ Viễn đại sư 30 năm không rời

núi. Ấn Quang pháp sư, lúc v.ng sanh xá lợi đủ năm màu. C.n bản thân tôi chỉ v. cơ duyên

đ.i hỏi, bất đắc dĩ phải phô sự kém dở, nhận bổn phận Pháp chủ Việt Nam. Như người yếu

chân tự đi không nổi, ngồi ở ng. tư đường, nhưng vẫn cố gắng chỉ lối về cho những ai c.n lạc

bước. Những mong nhân đây tự tiêu tội chướng mà được đới nghiệp v.ng sanh. Cổ đức từng

bảo : “Ăn cơm, mặc áo vạn sự đều là Thiền. Đi đứng nằm ngồi đều là Đạo”. Tịnh-độ tông

chúng ta cũng thế, cử tay cất bước, việc nào chẳng phải là hạnh hoa sen ? Muốn giữ sự thanh

nghiêm trong tịnh viện, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Ni chúng đều cần phải tuân hành đúng

giới luật, nội quy.

1- OAI NGHI NHƯ LỜI PHẬT DẠY :

  1. a) Thân ngay thẳng, bước nhẹ nhàng : Không nhảy nhót hấp tấp, trừ khi thật cần. Đứng đoan

trang, chớ chống nạnh co chân, nghiêng dựa. Nằm cát tường, ngồi vững như chuông úp.

  1. b) Hạn chế việc đi ra ngoài : Tuyệt không có những rong chơi vô ích. Đi thưa về tr.nh là bổn

phận quyết định. Bắt buộc ra khỏi cổng chùa, cố gắng chớ đi một m.nh, như thế mới hợp Ni

luật.

  1. c) Lời nói nghiêm tịnh : Đùa cợt phù phiếm, ồn ào bất nh., thị phi vô ích, làm chết Pháp-thân.

Sách thế gian có câu : “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Kinh dạy : “Im lặng như Hiền

Thánh”.

2- THANH LỌC TRI KIẾN :

Chớ gặp sách nào cũng xem, báo chí nào cũng đọc, chuyện thế gian nào cũng nghe,

vấn đề không liên hệ đến m.nh cũng đem ra bàn bạc. Tổ Quy Sơn dạy : “Đi trong sương móc

tuy không thấy áo ướt mà thật ra có thấm nhuần”. Sáu căn giao thiệp với sáu trần, hàng ngày

huân tập kiến-hoặc, tư-hoặc sâu dầy. Nếu nghiêm hộ sáu căn th. l.a trần thoát cấu, thành pháp

nh.n tịnh.

3- THIỂU DỤC TRI TÚC :

  1. a) Ăn mặc biết đủ : V. thân vô ng. chẳng nên quá cưng chiều.
  2. b) Ngủ nghỉ biết đủ : Hằng nhớ vô thường. Tấc bóng quang âm không thể đem vàng mua

được, chớ nên phí uổng bỏ qua.

  1. c) Chỗ ở nơi nằm đơn giản : Người tu liêu ph.ng cần để trống, mắt tai do đây được thanh

nhàn. Nếu c.n so sánh đua đ.i, l.ng ham muốn sẽ không cùng tận.

  1. d) Tiết kiệm phước đức : Dù của Tam-bảo hay của m.nh, dù giọt nước hay lá rau, không

buông lung xài phí. Giặt giũ, quét tước, những việc chi tự làm được th. làm, không phiền sức

lực người khác. Việc công th. cố gắng tận t.nh, chẳng trốn lánh trộm an.

Những hạnh hoa sen như trên là tinh yếu của các bậc cổ đức. Nay góp vào nội quy

trong tịnh viện. Trông mong những hạnh vi tế này sẽ đưa Ni chúng đến chỗ giới đức vẹn toàn

cao đẹp.

  1. CUNG AN CHỨC SỰ

Giáo dục học vấn là trách nhiệm trên thầy Bổn sư. Nhưng trợ giúp ngài rất cần nhiều

bậc Thầy trợ tá.

Trước hết là SƯ CÔ GIÁM VIỆN, quản l. tổng quát trong tùng lâm tất cả sự việc tinh

thần vật chất, lớn nhỏ trong ngoài.

Kế đến là SƯ CÔ GIÁM LUẬT, khuôn vàng thước ngọc. Kỷ cương thiền đạo vững

bền không thể rời Tỳ Ni tạng.

SƯ CÔ KIỂM KHÁN là đấng nghiêm từ nêu cao kỷ luật, đốc thúc ban chức sự tinh

tấn, ép buộc cả đại chúng vào nội quy, khiến khắp già lam, trên dưới trong ngoài tỏa hương

thánh đức.

Qu. SƯ CÔ GIÁO THỌ dạy chúng con chữ nghĩa kinh điển, truyền trao giáo pháp

Thánh Hiền. Từ qu. ngài chúng con được uống cam lồ pháp vị của chư Phật liệt Tổ.

Qu. vị TRI CHÚNG như mẹ hiền theo d.i chúng con trong 4 oai nghi, uốn nắn dạy

răn từng tiếng nói bước đi, trông nom săn sóc giờ ăn giấc ngủ. Được vào khuôn đúc, chúng

con trong ngoài rạng rỡ phạm hạnh.

Lại ơn qu. Sư cô chánh, phó TRI SỰ, dạy chúng con thổi cơm quét dọn. Chính trong

những giờ chấp tác, bao quê hèn được gột bỏ. Trăm phước trang nghiêm, phụng sự Tam-bảo,

thành công đắc quả, đâu không phải là do tri sự đ. tận t.nh mài dũa chẳng tiếc lời.

Cơ thể khang ninh, tâm trí mới khai phát, chúng con làm sao quên ơn qu. Sư cô

KHÁN BỆNH, suốt ngày lao tâm theo d.i bệnh nhân, đưa đi bác sĩ, đưa vào bệnh viện, cạo

gió cắt lể, thăm nom săn sóc, thuốc sớm cháo chiều, nâng giấc an ủi.

Ngoài ra NGHI LỄ giữ g.n phép tắc, nghiêm chỉnh các khóa công phu. NHANG

ĐĂNG đại lao toàn chúng hương hoa dâng Phật, nhang đèn cúng Tổ. Các vị CHI TRƯỞNG

quyền huynh thế phụ, răn nhắc bảo ban. TRI KHÁCH, TRI VIÊN nhiều ít đưa tay góp sức.

Do đây ngôi Tam-bảo đứng vững trong thế gian, làm nơi nương tựa cho trăm họ.

Có thực mới vực được đạo, Ni chúng b.nh an, ơn chánh phó TRI KHỐ phơi đậu nhặt

thóc. Chị em TRỰC NHẬT sớm khuya, cho đến RỬA CHÉN, HÀNH ĐƯỜNG, đều là công

lao hộ pháp.

Chúng con hôm nay sung sướng được cùng nhau kết hạ an cư, nương từ bi quang Phật

Tổ, một l.ng biết ơn đền ơn, chí thành đảnh lễ toàn ban chức sự.

Nam mô A Di Đà Phật.

BAN CHỨC SỰ PHÁT NGUYỆN

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô và toàn thể đại chúng !

Xiết bao hân hạnh ! Xiết bao vui mừng ! Chúng con hôm nay được góp bàn tay nhỏ bé

vào guồng máy sinh hoạt của đại chúng. Khả năng kém cỏi, không xứng đáng trách nhiệm đại

chúng giao phó, chúng con nguyện sẽ cố gắng đem hết tinh thần, tận tâm tận lực lo tr.n nhiệm

vụ. Trên Thầy đ. lo lắng xếp đặt nếp sống lục h.a cho chúng con an vui tu học. Chị em chúng

con sẽ sách tấn bên nhau, trau dồi giới thân tuệ mạng. Tuổi trẻ bồng bột, chúng con không sao

tránh khỏi lỗi lầm sơ sót. Ngưỡng mong trên Thầy, qu. Sư cô cùng toàn thể đại chúng từ bi

tha thứ và hoan hỷ chỉ dạy, giúp chúng con hoàn thành bổn phận tốt đẹp.

Nguyện cầu Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, hải chúng an h.a, cùng

nhau tiến bước trên con đường tự giác, giác tha cho đến ngày giác hành viên m.n.

Nam mô Công Đức Lâm Bồ-tát ma-ha-tát.

  1. KẾT HẠ

KHAI THỊ CHÚNG

I

Rằm tháng tư hôm nay là ngày kết hạ. 2500 năm về trước, trên hội Linh Sơn cũng có

ngày kết hạ. Từ đó tùng lâm các nơi chẳng trái lệ cũ, 90 ngày cấm túc an cư.

Ngay từ niệm đầu tiên phát tâm xuất gia, người chân thật học đạo đ. cương quyết liễu

thoát sanh tử việc lớn. Như vậy “chân” đ. cấm, “hạ” đ. kết. Trọn đời năm và tháng, cùng việc

này tương ưng. Mùa hạ năm nay cũng thế, 90 ngày an cư trọn vẹn cùng việc này tương ưng.

Được vậy mới có thời tiết gọi là Phật hoan hỷ, Tăng tự tứ. Bằng chỉ nhập hạ đủ 3 tháng để lấy

lệ th. chẳng những không hiểu . Phật Tổ mà cũng là tự cô phụ, thật là đáng thương.

Trên đây là lời của Trung Phong Minh Bổn thiền sư.

Hôm nay chùa Liên Hoa, 38 người ai cũng r. việc này, chẳng chịu tự cô phụ. Mượn cơ hội an

cư để phấn khởi phiến tâm mạnh mẽ. Một ngày phải thấy công tr.nh một ngày, một giờ phải

thấy tiến tới một giờ. Người trên kẻ dưới cảnh sách lẫn nhau, mài dũa cho nhau. 90 ngày siêu

phàm nhập thánh, việc này phải minh bạch. Chùa Liên Hoa là trường tuyển Phật. Tâm

“không” mới thi đậu. Tâm không là thế nào ? Ng. không và pháp không. Ng. không là thân

đất nước gió lửa không thật, tâm bóng ảnh sáu trần không thật. Biết cảnh sắc thanh hương vị

xúc pháp huyễn hóa, tức là pháp không.

Người tâm như hư không, hằng khoan dung tha thứ. Trong siêng công khắc kỷ, ngoài

rộng đức không tranh, mỗi mỗi đúng pháp lục h.a. Niệm niệm chẳng lui sụt, nhắm thẳng vào

3 học giới định tuệ. Nếu không th. tấc vải hạt gạo chắc chắn phải bồi thường.

Người xưa 3 y 1 bát, ngoài ra coi là vật thừa, không phải của m.nh. Thanh bần tu

luyện, thầm lặng dẹp bỏ vọng t.nh. Thề ở dưới mọi người, khiêm tốn hạ m.nh, không dám

xem thường người thiếu khả năng. Tinh cần tỉnh giác chánh niệm, nghịch thuận chẳng biến.

Chúng ta nếu thật học được như thế, ắt hy vọng sau này vượt lên cao, đến chỗ xa.

Nguyện cầu toàn chúng tinh tấn tu hành, viên m.n Bồ-đề.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

II

Rằm tháng tư đ. về đây !

Mỗi năm chúng ta chuẩn bị mùa hạ, cần ôn lại những g. dở đ. qua để tránh, xét những

  1. cần bổ túc cho mùa hạ sắp tới. Ni chúng phải nghiền ngẫm mục đích sinh hoạt của m.nh, dù

là an cư hay tự tứ, thọ giới hay học kinh, mỗi cử động đều nhắm vào việc mà qu. H.a-thượng

gọi là đại sự.

Thiền sư Thanh Từ bắt mạch Tăng Ni, thấy bệnh thông thường nhất là “tự m.n”. Năm

đầu ai nấy hăm hở quyết chí giải thoát, nhưng dần dần đạo trở thành một cái g. xa lắc xa lơ.

Kinh A Hàm nói : “Xuất gia như cô dâu mới về nhà chồng, đối với cha mẹ chồng khép nép

cung kính. Đôi ba năm quen rồi, khinh lờn, chẳng cần lễ phép”. Chúng mới cạo đầu cũng thế,

ban sơ trên kính các thượng t.a, dưới nể v. huynh đệ, tỏ ra dễ dạy ngoan ngo.n, nhu h.a,

nhẫn nhịn. Nhưng ít lâu sau th. “gần chùa gọi Bụt bằng anh, thấy Bụt hiền lành c.ng Bụt đi

chơi”. Thuộc hai thời công phu, rành rẽ mấy khóa lễ, học xong vài bộ kinh, thế là tự m.n, tự

cho là đủ. Không bao giờ nghĩ đến 2 chữ “tu chứng”.

Nghiệp thức mơ màng, vọng t.nh chưa hết, làm sao ra khỏi luân hồi ? Điểm chính

nhắc nhở chị em hôm nay, là phải thực hành những g. đ. học. Chí nguyện thiết tha th. công

hạnh sẽ chuyên cần. Công hạnh chuyên cần sẽ liễu đạt đại sự. Có sáng được việc lớn, chúng ta

mới đáp ứng bản hoài độ sanh của Phật Tổ, mới xứng đáng chí nguyện xuất gia, mới không

phụ công hộ pháp của mười phương tín thí.

Nếu không sáng được việc này, đạo Phật trở thành vô giá trị. Cho nên mùa hạ năm

nay, chúng ta làm sao cho cái mê từ lịch kiếp phải m.n, phải mỏng.

Người xưa đau khổ xót xa rơi nước mắt mỗi khi mặt trời sắp lặn, tiếc tấc bóng quang

âm hơn vàng ngọc. Chúng ta hôm nay cũng lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn

lên. Ngài Phần Dương dạy : “Bốn đại như bọt nước, thân như lá trên sông. Bổn tánh diệu linh

quang khoáng kiếp c.n m.i m.i”.

Triều đ.nh mời ngài về kinh đô, ngài từ chối. Sứ giả thưa : “Con đi không được việc,

về ắt bị trị tội”. Ngài đành trả lời : “Vậy th. ngươi cứ về trước, ta sẽ đi sau”. Rồi ngài nhóm

chúng hỏi : “Ta phải đi, trong chúng có ai đi theo ta được không ?” Thị giả xin đi. Ngài hỏi :

“Ngươi đi một ngày được mấy dặm ?” Thưa : “H.a-thượng tới đâu con tới đó”. Ngài liền kết

già : “Ta đi đây”, nói rồi liền tịch. Thị giả đứng hầu khoanh tay tịch theo. Sống chết tự tại như

vậy gọi là đại sự của người tu.

Thân bốn đại mỏng manh vô thường, hư vọng như bọt nước. Chiếc lá trên sông theo

sóng đong đưa, tùy làn nước chảy về Đông hay về Tây, làm sao có quyền tự chủ ? Chỉ nhắm

mắt mặc cho nghiệp lực xoay vần. Chúng ta vào bào thai, ra làm con người, con trâu, con chó,

hoàn toàn mịt mù mê muội, được sao biết vậy, nói g. đến kén chọn đường đi. C.n tâm linh vô

lượng quang của chúng ta muôn kiếp vẫn thanh tịnh không hư không hoại. Nên sống với căn

bản sanh tử hay cầu sống với căn bản Bồ-đề ? Ba tháng xuân Lăng Nghiêm chúng ta đ. học

và hiểu.

Nay chỉ c.n một thắc mắc : “Ngài Phần Dương đ. đại tự tại đến như thế, sao c.n sợ

vinh hoa, đến nỗi phải thị tịch, để lánh vua quan triều đ.nh ?”

Thưa : “Đốn ngộ th. đồng với Phật, nhưng tập khí nhiều đời thâm sâu đâu dễ đốn trừ”.

Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh những ai muốn lao xuống sông vớt người chết đuối, trước nhất

h.y tập bơi cho thật thạo.

Mong ước rằng thêm mùa hạ này nữa, chúng ta chuyên tu học giới luật, xây đắp thật

chắc thật bền nền móng giải thoát.

  1. THỈNH PHÁP HỌC LUẬT

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô !

— Ức ức triệu triệu sinh linh quẩn quanh trong biển trầm luân thống khổ.

— Ức ức triệu triệu sinh linh mịt mù trong đêm tối vô minh !

— Chỉ v. không gặp đèn pháp, chỉ v. không gặp thuyền từ.

Đèn thánh đức, thuyền Bát Nh., nước dương chi ! Hạnh ngộ hôm nay, Tam-bảo đ.

đầy đủ xếp đặt duyên lành cho bầy trẻ mấy con vào cửa đạo.

Chúng con được nghe : “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, giới luật c.n là Phật

pháp c.n”. Ngày khai hạ, toàn thể học chúng đê đầu đảnh lễ cung thỉnh Sư cô Giáo Thọ thay

  1. mười phương thánh phàm Tăng, đại lao trên Thầy, dạy chúng con bộ Sadi Luật Giải, để

chúng con được thấm nhuần oai nghi phép tắc thiền môn. Đây là thềm thang giới Tỳ-kheo-ni,

cội gốc giới Bồ-tát, là nền tảng Thánh Hiền.

Chúng con nguyện cố gắng thúc liễm thân tâm, dồn hết tinh thần vào việc học, làm sao

trong đời sống hàng ngày không đến nỗi trái lời Phật dạy.

Sau cùng chúng con thành tâm nguyện hồng ân Tam-bảo gia hộ Sư cô Giáo Thọ pháp

thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, ân đức không cùng suốt kiếp vị lai.

Hạnh phúc thay chánh pháp xương minh !

Hạnh phúc thay Tăng già h.a hợp !

Hạnh phúc thay mùa hạ năm nay, chúng con được làm lễ thỉnh pháp, ngưỡng mong

trên Thầy, Sư cô Giáo Thọ thương xót chứng minh.

ĐÁP TỪ

Mùa xuân Lăng Nghiêm thấm thoát đ. trôi qua, chị em ai nấy phấn khởi đón mừng

ngày chư Tăng kết hạ.

Chúng ta tuy xuất gia nhưng hàng ngày bận rộn lo toan đủ thứ, ít có th. giờ kiểm soát

lại m.nh. Đức Phật xót thương, dạy các đệ tử, trong một năm phải quyết định dành 3 tháng hạ

tấn tu đạo nghiệp.

Theo thường lệ, chùa chúng ta mùa an cư miên mật học luật. Bởi v. có giới luật chùa

mới an, có giới luật ngôi Tăng bảo nơi thế gian mới vững. Cổ đức nói : “Nước không luật

nước loạn, nhà không luật nhà tan”. Chính thế, nước có luật của nước, nhà có luật của nhà,

cho đến trường hợp nào đều có luật của trường hợp ấy. Luật pháp thế gian giúp con người an

sống một đời. Giới luật xuất thế giải thoát luân hồi sanh tử. Đạo thánh hiền khó huân ướp,

nghiệp chướng vô minh nặng nề. Không giới luật kiềm thúc, ba nghiệp buông lung tạo tội,

thân tuy ở chùa mà sự đọa lạc r. ràng, v. vậy môn học rất thiết yếu này, xuất gia chúng ta

không thể lơ là. Thân thể nhờ ăn cơm, uống nước, hít thở... mà sống. Tuệ mạng nhờ nghiêm

  1. giới luật mới bảo tồn.

Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Không nghiêm tr. giới luật, dù thiền định trí tuệ hiện tiền

cũng quyết lạc ma đạo”. Cho nên hôm nay toàn chúng vâng lời Phật dạy, lấy luật nghi làm

đầu. Trông mong 3 tháng ai nấy tận lực học tu, xây nền giới luật vững chắc, đem sự an vui

cho m.nh và người.

  1. QUY SƠN

CẢNH SÁCH

Quy Sơn là h.n núi h.nh con rùa. Tổ vâng lời Bổn sư đến ở đó một m.nh. Núi cao chót

vót chạy dài cả vạn dặm, toàn rừng sâu hang thẳm, không một dấu chân người, chỉ có cọp,

beo, gấu, khỉ. Tổ lượm trái rừng ăn đỡ bữa, vốc nước suối uống qua ngày, luôn 7 năm không

một người thăm hỏi. Nhân một tiều phu vào rừng lạc lối, gặp ngài, tin cho bà con xóm làng.

Chẳng bao lâu ngôi chùa được xây cất, và từ đây đạo truyền khắp thiên hạ.

Tổ dạy rằng : Phàm đ. tạo nghiệp phải chịu báo thân, th. ai miễn được khổ lụy h.nh

hài. Vay máu mủ của cha mẹ, mượn đất nước gió lửa làm vóc thể. Vô thường già bệnh, sớm

c.n tối mất, giây phút qua đời khác. Vậy mà cứ ăn ngủ, đùa cười, không mong cầu giải thoát.

Cha mẹ không hiếu dưỡng, x. hội đ. xa l.a. Vâng lời Thầy cạo tóc, trong đinh ninh 3

học Giới – Định – Tuệ, ngoài tập tu kính nhẫn, rộng đức lục h.a. Thế mà vừa thọ giới đ. lên

mặt ta là Sư, ăn dùng của thường trụ, chẳng quán 5 pháp. Cứ cho rằng bổn phận tại gia phải

cung phụng ta tiêu xài. Chụm đầu nói chuyện thế gian, đâu có nhớ mấy phút vui này là cái

nhân tai ương vạn kiếp. Rông rỡ theo trần chưa từng phản tỉnh. Ngày đêm đi qua, thoạt đ. bạc

đầu, một đời vô ích. Người cầu phước nên cúng dường không chán. C.n ta thọ dụng, xét chỗ

tu hành, không đáng hổ thẹn sao ?

Đức Phật khuyên răn : Này các Tỳ-kheo, nghiêm thân tu đạo, cần bớt 3 việc ăn, ngủ,

áo quần. Phép tắc oai nghi phải tịnh như băng tuyết.

Giáo l. không để dạ, huyền đạo làm sao khế ngộ ? Bụng trống l.ng cao, mở miệng chỉ

những lời kiêu ngạo. Nói th. lớn tiếng, ăn mải khua bát, đứng ngồi thô tháo. Bạn hiền khuyên

nhắc, l.ng sân la lớn : “Đại ngộ không chấp việc nhỏ”. Một mai nhắm mắt, nghiệp báo hiện

  1. Cua bị trụng nước sôi, khi ấy càng ngoe rụng hết. Ngưỡng khuyên đại chúng mau mau tỉnh

ngộ, đừng để thất t.nh lục dục cuốn trôi. Phí uổng một đời, chỉ v. biếng nhác.

Người xuất gia lập hạnh đại thừa, nối thịnh d.ng Phật, phá dẹp ma quân, đền trả bốn

ân, cứu giúp ba c.i. Nếu không như thế th. là ma quỷ trà trộn trong Tăng chúng. Huống chi

hôm nay đường đường Tăng tướng, dung mạo oai nghiêm, ai thấy cũng vui mừng kính nể,

đều là nhờ kiếp trước đ. vun trồng căn lành.

Vậy mà nay đ. xả tục ở chùa, thói tục vẫn đa mang. Đ. đủ phước duyên thoát trần mà

duyên trần chẳng chịu dứt. Tu hành không phẩm chất, chỉ mong thọ giới cao, ngồi trên làm

thượng t.a. Xuất gia như thế khác nào lánh chỗ chết ch.m lại đâm đầu vào lửa. Mê si ngược

ngạo tự cho là khôn giỏi, đi thụt lùi mà cứ tưởng m.nh lên cao. Chưa từng một niệm cải quấy

sửa m.nh, chỉ đưa mắt tai ra nghe ngó lỗi lầm người khác. Cạo đầu cho láng, y áo chỉnh tề,

không tu phước tuệ, mai đây hết báo làm người, những cực h.nh ghê gớm của địa ngục, ai

người chịu thay ? Nhân lành không vun trồng làm sao kết quả tốt ?

Mong làm rường cột trong Phật pháp, gương mẫu cho hậu lai, mà cứ dần dà để ngày

ngày đi qua không tiến bước. Kinh dạy : “Thầy tà bạn ác sợ như hổ lang. Thầy hay bạn hiền

  1. như cha mẹ. Thấp m.nh như đất, ngậm miệng như ngu, dẹp sạch thói ta người, bặt dứt

tâm ương ngạnh. Nếu cứ lân la gần gũi người ác, tập thấy ác, làm ác, mắc báo ngay hiện đời,

chết rồi trầm luân”.

Cái tâm thương xót nhắc nhở của Tổ Quy Sơn như thế, dù sắt đá cũng phải đổ mồ hôi,

huống chi chúng ta có tánh Phật, lẽ nào chẳng ghi l.ng tạc dạ, sửa tâm nuôi đức. Trong thắp

đèn Bát Nh., ngoài nghiêm tịnh sáu căn, an định tinh thần mà tự nuôi lớn tâm Phật. Tinh xét

nghĩa l. kinh luật, truyền pháp độ sanh, đền ơn Tam-bảo.

Gánh vác chánh giáo có 2 việc :

1- Tự thân giới phẩm oai nghi xứng đáng bậc pháp khí.

2- Xả thân làm việc Phật pháp mong lợi cho muôn loài. Thánh trước Hiền sau, các ngài đều

có phần trong Phật quả. Các ngài đ. trượng phu, chúng ta cũng cố gắng trượng phu. Trông

mong đại chúng phát chí quyết liệt, mở rộng l.ng dạ theo gót Tổ sư.

  1. Ngày 19-6

LỄ ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT

* Tụng kinh Phổ Môn.

* Sự tích Chúa Ba chùa Hương.

Chân như đạo Phật rất mầu

Trong tâm chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân.

Hiếu là độ được song thân

Nhân là vớt hết trầm luân muôn loài.

Thần thông ngàn mắt ngàn tay

Cũng trong một điểm linh đài mà ra.

Nay miền biển nước Nam ta

Phổ Môn có đức Phật bà Quán Âm.

Thường chăm kính niệm tại tâm

Muôn phần linh ứng chẳng sai bao giờ.

Thuở xa xưa, vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, không có con trai, l.ng thành

cầu tự được 3 con gái, đặt tên là Diệu Thanh, Diệu Âm và Diệu Thiện. Theo thường t.nh, gái

lớn gả chồng, vua gả công chúa Nhất cho trạng nguyên họ Triệu, công chúa Hai cho quan v.

họ Hà. Chúa Ba một mực xin đi tu. Vua cho ở chùa Bạch Tước nhưng ra lệnh các Sư phải bắt

công chúa làm việc nặng nhọc thật nhiều, hành hạ sao cho nản chí mà trở về cung. Không ngờ

chúa Ba mừng rỡ được dịp xả thân v. đạo hầu sớm chứng quả.

Vua tức giận sai đốt chùa giết Sư. Chúa cắt tay, lấy máu vẩy lên không trung. L.ng

thành cảm động thấu trời, máu biến thành mưa, dập tắt ngọn lửa. Vua càng tức giận, thét quân

điệu Chúa ra pháp trường xử chém. Ngọc hoàng Thượng đế sai thiên thần hóa làm m.nh hổ

tha Chúa đem vào rừng sâu.

Công chúa thiêm thiếp thấy m.nh theo sứ giả Diêm Vương xuống âm ty, thăm 18 cửa

ngục, búa đồng, chùy sắt khảo tra. Chúa Ba thương xót tr. chú niệm kinh, khấn cầu 10

phương Phật, 9 phương trời. Bỗng nhiên hào quang lóe sáng, gông cùm rơi rụng tan tành,

ngục nhân quỷ sứ giải thoát. Vua Diêm Vương mừng rỡ đem bảo cái lọng vàng đưa tiễn Chúa

Ba trở về dương thế.

Chúa Ba tỉnh giấc, thấy m.nh ở trong rừng rú, thanh vắng một bề. Đang khi lo lắng bơ

vơ, chợt có một nam tử rẽ lá bước tới, khuyên cô cùng về chung sống. V. ở đây lúc đêm

khuya th. cọp beo rất đáng sợ. Chúa rằng : “Tôi đ. xuất gia, đ. quyết một l.ng sắt đá không

phai”.

Ai ngờ Phật Tổ Như Lai thử l.ng con trẻ. Biết người kiên tâm, Phật thuyết pháp chỉ

đường tu, dạy về miền bể phương Nam chùa Hương Tích. Lại đưa cho quả đào tiên, ăn vào

hết đói hết bệnh, chứng vô sanh. Ngay lúc ấy thần núi Hương Tích hiện thân hổ tới dẫn đường

đưa đi. Bắt đầu từ đấy, nguyện ước tu hành thỏa m.n.

Vua cha do hiếu sát mắc trọng bệnh. Ph. m. họ Triệu dâng thuốc độc cho vua, nói là

thuốc tiên. Ph. m. họ Hà đem binh về đ.i vua nhường ngôi. Chúa Ba hiện thân một H.athượng,

mỗi mỗi giúp vua thoát nạn. Trang Vương cùng hoàng hậu và chúa Nhất, chúa Hai

đồng xuất gia, cùng thành đạo quả.

* * *

Đào trên mây, hạnh trên trời

Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa.

Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà

Trăng tr.n nét mặt, núi xa dáng mày.

Sắc tuy rằng sánh hạnh đào

Nhưng mà đoan chính trông vào nghiêm trang.

Trẻ thơ mà đ. khác thường

Ai ai cũng kính tiên nương dưới trần.

— Trí tuệ công chúa siêu việt, thấu r. quy luật vô thường sắc không, nên không vướng

v.ng danh lợi.

— Mục đích tu hành của Chúa r. ràng :

  1. a) Đối với bản thân th.

May ra siêu thoát tử sanh

Yên tâm c.i Phật vui h.nh c.i tiên.

— Không phải chỉ ở chùa đắp cà sa đ. là tu mà cần minh tâm kiến tánh và thể hiện

trong cách sống hàng ngày.

Không trang điểm, chẳng chơi bời

Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi.

Hoặc :

Bạn cùng gió mát trăng trong

Tự tại một l.ng chẳng lụy trần ai.

  1. b) Ngài hiểu về chữ Hiếu rất là đứng đắn

Đ. hay nghĩa mẹ công cha

Trời cao biển rộng báo đà xứng chưa ?

Nhưng tôi khổ hạnh bây giờ

Mai sau cha mẹ nương nhờ được siêu.

Kẻo e nghiệp chướng quá nhiều

Chẳng tai bể khổ cũng nàn sông mê.

— Vả lại vua cha đốt chùa giết Sư, dễ g. cải hóa, chỉ có một cách là :

Thân này thành Phật may ra

Hộ nước, hộ nhà th. mới có phương,

Giữ chi hiếu nhỏ tầm thường

Giữ điều hiếu lớn là đường báo ân.

  1. c) Xúc động trước :

18 cảnh địa ngục ghê rợn

Chẳng đành con mắt, chẳng yên dạ l.ng.

Ước sao tù ngục trống không

Bao nhiêu khổ quả tội nhân sạch làu.

— Thành chánh quả, Chúa càng có nhiều phương tiện để thực hành l. tưởng. Trước

tiên độ cho hai đệ tử, đưa cả gia đ.nh lên t.a sen, giác tỉnh cho hai yêu quái Thanh Sư và Bạch

Tượng, con vua Thủy Tề cũng kịp thời thoát khổ mắc lưới.

— Cả cuộc đời ngài là một tấm gương sáng ngời phát huy tinh thần đại hùng lực,

chánh tinh tấn, để giữ đạo cứu đời. Thân thế ngài chứng minh một sự thật, chỉ có tu hành mới

độ được cha mẹ thân quyến, mới đưa được muôn loài ra khỏi những khốn khổ của phiền n.o

chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Nghĩa là mới thực hiện hai chữ Hiếu và Nhân một

cách trọn vẹn rốt ráo.

Ngoài ra sách Nam Hải Quán Thế Âm vẽ con đường nhân quả một cách sâu sắc. Tham

sân si, sát đạo dâm đem tai họa cho con người thật nặng nề. Bức tranh x. hội được miêu tả r.

nét.

Vua Trang Vương hiếu sát :

Hay v. giặc gi. đâu đâu

Mà ta giết nó bấy lâu quá nhiều.

Phép binh như lửa cháy đầu

Há không oan uổng luống tiêu mạng người.

Rồi v. vô minh sân giận muốn giết cả con gái.

— Những cảnh xuống cấp đạo l. như con rể âm mưu cho bố vợ uống thuốc độc, ph.

  1. họ Hà nhân vua bị nạn đem quân về chiếm ngôi. Ven đường bờ bụi, yêu ma quỷ quái luôn

luôn r.nh rập h.m hại người lành. Tất cả chỉ v. tranh danh đoạt lợi. Những cảnh như vậy thật

tương phản hoàn toàn với nếp sống có bản chất từ bi đạo hạnh trong trắng của Chúa Ba. Ngài

thật là một đóa sen thơm ngát, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Đoạn miêu tả cảnh 18 địa ngục rùng rợn dài tới 95 câu, là một cảnh cáo nghiêm khắc

cho bọn mê si độc ác. Đây cũng thể hiện ước mơ của nhân dân, mong muốn kẻ ác phải bị

trừng trị đích đáng. Cho nên thông thường các truyện cổ tích đều phân minh r. rệt Ác và

Thiện. Người Thiện kẻ Ác đấu tranh gay gắt. Cuối cùng Thiện bao giờ cũng thắng và hưởng

hạnh phúc, Ác th. bị trừng trị.

C.n đây là sự tích ứng thân của Bồ-tát. L. tưởng Phật giáo theo một hướng khác.

Người thiện phải đấu tranh quyết liệt, dù mất thân mạng cũng cam, để bảo vệ đường đi sáng

suốt của m.nh, để đưa kẻ ác trở về thiện và chung hưởng an vui.

Dưới đây là bài thơ của danh sĩ Chu Mạnh Trinh vịnh cảnh chùa Hương Tích núi

Hương Sơn, ở Phủ L. tỉnh Hà Nam Bắc Việt, nơi Chúa Ba tu thành chánh quả :

Bầu trời, đất Bụt !

Cảnh Hương Sơn ao ước bấy lâu nay !

K.a non non, nước nước, mây mây.

Đệ nhất động, hỏi rằng đây có phải ?

Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái.

Lững lờ khe nước, cá nghe kinh.

Thoảng bên tai một tiếng chầy k.nh.

Khách tang hải giật m.nh trong giấc mộng.

Này suối Giải Oan, này chùa Giải Thoát.

K.a am Phật Tích, k.a động Tuyết Kinh.

Nhác trông lên, ai khéo họa h.nh

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Thăm thẳm có hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối bước lên mây

Chừng giang sơn muốn đợi ai đây ?

Nên tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.

Lần tràng hạt niệm nam mô Phật

Cửa từ bi đón khách trần lao.

Viên thông tự tại ra vào

Bồ-đề sẵn có ai ơi mau về( ).

100 quả núi chầu về một động. Chúa Trịnh dâng cúng biển đề : “NAM THIÊN ĐỆ

NHẤT ĐỘNG”. Lối vào là một d.ng suối rộng thênh thang. Nước trong xanh mát, lăn tăn

sóng bạc. Đ. vào, đ. ra, chào nhau vang lừng Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Hai bên bờ suối

lúa xanh chạy dài ven núi, khiến chốn sơn lâm thăm thẳm mênh mông vắng vẻ, đượm làn

không khí yên ổn thái b.nh. Không một nhà tại gia, không một thuyền đánh cá. Trùng trùng

điệp điệp núi rồi lại núi. Ngoài những ngôi chùa trang nghiêm lẫm liệt, c.n ẩn trong cây cao

lá thắm, không biết bao nhiêu những am nho nhỏ, vàng son vui vẻ, như những thiên thọ

vương nở hoa. Đâu đâu cũng chỉ thờ Phật bà Quán Thế Âm.

Từng đàn c. trắng bay qua. Bao la là những rừng mơ, cả ngàn cây số, hoa trắng muốt

màu tuyết, trái mịn vàng đỏ tươi, vị vừa ngọt vừa chua dịu dịu. Hoa cũng thơm, trái cũng

thơm. Đầu xuân toàn hoa, cuối thu trái chín. Hương thơm bát ngát ướp cả bầu trời. Dân gian

giản dị đặt tên cả vùng là núi thơm (Hương Sơn).

Mặt đất đầy rau sắng, l.ng đất sẵn củ mài. Vị ngon chất bổ hai thứ thổ sản đặc biệt chỉ Hương

Sơn có, để cúng dường người tu.

  1. TÍN NGUYỆN LỰC

Sách Thần Tăng chép : G. Vinh Kha rượu thịt nặng nề. Một hôm đọc V.ng Sanh

Truyện. Đọc xong một truyện, gật đầu một cái. Nhờ nhân lành này về sau đủ duyên tu hành.

Nghe Phật A Di Đà dạy : “Mười năm nữa ngươi sẽ được v.ng sanh”. Kha bạch : “Ta Bà uế

trược, chánh niệm dễ mất. Nguyện con sớm về Tịnh-độ, phụng sự Thánh Hiền”. Quả nhiên 3

hôm sau, Kha nhẹ nhàng v.ng sanh.

Tâm động một niệm là đ. gieo một hạt giống trong 10 pháp giới. Vậy mà có thể không

trân trọng mỗi khi khởi niệm sao ? Một tấc quang âm là một tấc đời sống. Vậy mà không mến

tiếc sao ? Niệm niệm chấp tr. danh hiệu Phật là không uổng phí tinh thần cũng không uổng

phí thời giờ. Làm phước cầu phước cũng là l.ng phí như đem bảo châu như . đổi lấy manh áo

chén cơm. Huống chi c.n buông lung ba nghiệp đến nỗi đọa lạc tam đồ, đau xót bao nhiêu !

Một niệm danh hiệu Phật tiêu 80 ức kiếp sanh tử trọng tội. Đ. về tới c.i Phật rồi, bao nhiêu

gốc ngọn sanh tử diệt hết. Đ. cùng các bậc thượng thiện chung hội th. chỉ một đời liền nhất

sanh bổ xứ. Xin qu. học giả để tâm chiêm nghiệm mà lựa chọn đường đi.

Một người nghèo xa nh.n thấy xâu tiền, vội tới nhặt. Nhưng cầm vào tay lại là con rắn,

vội vứt đi. Kẻ khác thấy tiền lấy xài. Ta thấy căn thân ngoại cảnh cũng như thấy tiền ra rắn.

Rắn duy tâm hiện mà cắn chết người. Tiền duy tâm hiện mà đem no ấm an vui cho người. Ta

Bà nhơ uế đau khổ, An Lạc vi diệu thanh khiết, đều duy tâm hiện. Nhưng khổ Ta Bà từ khổ

về khổ, không biết đến bao giờ mới hết khổ. C.n vui Tịnh-độ đi m.i về vui, cho tới ngày vĩnh

viễn an vui.

Kinh nói nghiệp lực khó nghĩ bàn. Nhưng nghiệp lực không tự tánh, toàn mượn tâm

mà có. Dùng trọng tâm tu tịnh nghiệp quyết định v.ng sanh. Như cổ đức có một vị mạng

chung, chư thiên đem âm nhạc tới rước. Ngài nhất định không đi, một l.ng niệm Phật cầu về

Tịnh-độ. Thân tứ đại lúc sắp phân tán, đau khổ biết ngần nào. Cảnh trời lục dục hấp dẫn biết

ngần nào. Nếu tin không sâu, nguyện không thiết, sức không kiên, ở hoàn cảnh này làm sao tự

chủ ?

Ta thường nghe nói : “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh-độ”. Cái tâm tánh này, Phật và

chúng sanh b.nh đẳng. Phật đ. ngộ tâm này như người tỉnh thức. Chúng sanh mê tâm này như

người đang chiêm bao. Hết chiêm bao, người mộng chính là người tỉnh. Ước về chỗ duyên

sanh vô tánh th. Phật và chúng sanh b.nh đẳng nhất không. Ước về vô tánh duyên sanh th. 10

pháp giới khác nhau một vực một trời. Vua A Dục lúc lâm chung, kẻ hầu cận làm rớt cái quạt

vào mặt. Vua nổi giận. Ngay niệm sân ấy tắt hơi đọa làm thân rắn. Một mụ ăn xin qua sông,

bị sẩy tay rớt con xuống nước. V. cố vớt con nên mẹ cũng chết ch.m. Niệm thương con đưa

mụ lên trời. Một niệm lúc lâm chung này không thể cầu may mà được. Hàng ngày TÍN –

NGUYỆN – HÀNH phải tập cho thuần thục để đủ lực đối phó với những bất ngờ. Những bất

ngờ dĩ nhiên phải có trong kiếp sống vô thường, vô ng. của chúng ta.

  1. LỜI NÓI TRONG GIÓ

Từ các trường học xa xôi cùng tột, lấp lánh trong ánh tuyết nước Nga cho đến các nóc

trường hẻo lánh, ẩn trong đồi xứ Ả Rập. Từ những ngôi đại học to lớn nước Anh, ở phương

Bắc, sinh hoạt trong sương mù đến những trường tiểu học bé con của lũ trẻ da đen Phi Châu

cháy nắng. Có tới triệu triệu đứa trẻ đang đi học. Những tổ kiến học sinh này, ngàn vạn dân

tộc khác nhau, đang phấn khởi tinh thần đi lên.

Ví phỏng một l. do g. khiến sự sinh hoạt này ngừng lại, th. đó là tai họa lớn cho quả

địa cầu, v. nhân loại sẽ trở về mọi rợ. Thế giới sẽ sa vào tối tăm. Hoạt động của học sinh là

tiến bộ, là hy vọng, là ánh sáng vinh quang của văn minh. Mỗi học sinh là một tên lính nhỏ

trong đạo quân hùng vĩ. Lấy sách vở làm khí giới. Trường học là quân đội. Coi ngu dốt là thù

địch. Văn minh nhân loại là khúc khải hoàn.

Hỡi các học sinh phấn đấu ! H.y cố gắng phấn đấu ! Như mặt trời phấn đấu, xóa tan

đêm tối, đem ánh sáng cho muôn loài.

Được đọc bài trên đây ở cuốn “Tâm hồn cao thượng”. Thầy choàng dậy, nghĩ tới mùa

hạ của chúng ta sắp chấm dứt.

Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng,

Tổ đường rực rỡ chánh pháp xương minh.

Chánh pháp của chúng ta xương minh chính nhờ mùa hạ !

— Các con có hôm nào để chút thời giờ suy nghĩ Hạ là g. không ?

— Phàm lập pháp nếu gắt gao th. ít người theo kịp. Nên thế gian mỗi năm có 12 tháng,

đức Phật chỉ bắt chúng ta 3 tháng quyết định phải an cư, thân tâm đều chuyên nhất. Phải ở

trong một đoàn thể đồng chí hướng, để cùng nhau sách tấn tu học. Ai không theo lệnh này gọi

là phạm giới. Chúng ta không an cư, không thể gọi là Tăng. Bởi v. an cư là Tu, là Chứng, là

nhập Thánh siêu phàm. Cho nên bao nhiêu người v. chúng ta mà bận rộn, Phật tử khắp các

nơi rủ nhau đem lễ phẩm, kính cúng dường người kết hạ.

Thương cho chúng ta đâu có biết, kể từ lúc tác bạch an cư, bách thần lo lắng giữ g.n,

các Bồ-tát đăm chiêu t.m phương tiện ủng hộ. Bởi v. mùa hạ này có thể vĩnh viễn xóa tên

chúng ta trên con đường dài sanh tử. Bởi v. mùa hạ này, chúng ta có thể vĩnh viễn không c.n

số phận phải làm thân ngựa ngậm hàm sắt, kéo xe đền nợ tín thí như những kiếp luân hồi sanh

tử vừa qua. Mùa hạ này, chúng ta có thể chuyển được địa vị. Đầu hạ c.n là phàm, cuối hạ đ.

chứng thánh quả, tất cả đều ở chúng ta. Nếu miên mật dụng công, không nhiều th. ít, chúng ta

sẽ có phần trên đền đáp hồng ân đức Phật, dưới đem mừng rỡ cho muôn loài.

C.n nếu cứ vẩn vơ, mặc cho mùa hạ trôi qua, tâm hồn chỉ để lo chấp ta, chấp người.

Một bụng chứa toàn tham sân si. Một lồng ngực thở ra tranh chấp, thở vào ta hay, th. hôm nay

tự tứ, mai Vu lan, chúng ta chỉ có phần một gói quà hay vài cuốn tập...

Viết tới đây, tu sĩ già bệnh mệt quá, phải trở về giường nằm, niệm đức Quán Thế Âm

cho tĩnh thần tĩnh trí.

Khỏe một chút, Thầy ngồi dậy cầm bút viết tiếp để gởi mấy con.

Đức Phật đại từ bi không bức thiết đệ tử. Một năm 12 tháng, ngài chỉ bắt buộc Tăng

Ni an cư 3 tháng. Ngoài ra tùy duyên tùy phước của mỗi người mà tự lo giải thoát. Chùa

chúng ta nhờ thiện căn phước đức, đại chúng được an cư cả 12 tháng. Nay 3 tháng hạ đ. lỡ,

vậy mùa Thu Đông sắp tới (chùa ta gọi là mùa y công đức), chị em ráng phấn đấu ! Cố gắng

phấn đấu !

Hỡi hỡi các vị đ. phát tâm Bồ-đề ! Chúng ta quyết tâm giác tỉnh, đẩy màn vô minh,

quyết đem thân ra khỏi miệng cọp sanh, già, bệnh, chết. Mỗi tu sĩ là một tên lính trong đạo

quân hùng vĩ ở khắp pháp giới của Như Lai. Kinh pháp là vũ khí. Chùa chiền là nơi rèn luyện.

Vô minh là thù địch. Giải thoát là khúc khải hoàn. Hỡi các học sinh phấn đấu ! Cố gắng phấn

đấu ! Mong rằng Giới Định Tuệ của các con đem ánh sáng cho muôn loài, suốt đời vị lai.

Mong rằng lời nói run rẩy này, xuyên qua được rừng cây kẽ lá, theo gió t.m đến tai các con.

Thầy viết ngày 22-6 âm lịch 1992

khi vừa ra khỏi bệnh viện Chợ Rẫy

  1. CHƯƠNG TR.NH TÁN HẠ

Mùng 8 : Tạ pháp và tạ ban chức sự.

Mùng 9 : Tác pháp sám ma.

10 - 11 : Từng cá nhân y luật sám hối.

12 - 13 : Từng cá nhân đối đại chúng thỉnh tự tứ. Từ lớn đến nhỏ tùy . cử lỗi.

Tối 13 : Lễ đức Đại Thế Chí Bồ-tát.

14 : Tác pháp tự tứ theo nghi lễ thông thường.

Sáng 15 : Đại lễ Vu Lan.

Chiều 15 : Chia vật Tăng.

Sáng 16 : Thọ y công đức.

Chiều 16 : Đại đàn thí thực.

17 - 18 : Khánh tuế giới sư.

  1. Ngày 13-7

LỄ ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

TÁN

Tánh giác linh minh,

Tịch chiếu chân thường.

Xưa mê nay ngộ thật tỏ tường.

Tam-bảo từ đường,

Đảnh lễ cúng dường

Một nén tâm hương.

Nhẫn độ, Thích Ca pháp tôn vương !

An Lạc, Di Đà đại nguyện vương !

Liên tông các Tổ tận lực hoằng dương.

Ao sen thơm ngát, hải hội Tây phương,

Duy nguyện giáng cát tường,

Pháp giới hằng thanh lương.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

— Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới A Di Đà Phật (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới, Phật Bồ-tát bao nhiêu kinh pháp, cho đến nước chim gió

cây... tất cả pháp âm, thanh tịnh pháp tạng (1 lễ).

— Nam mô đại thừa 48 nguyện, Vô Lượng Thọ kinh, mười phương 12 loại Tịnh-độ

pháp bảo (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ-tát (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ-tát (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (1 lễ).

* Liên tông sơ Tổ, Lô Sơn Đông Lâm, Bạch Liên đạo tràng, HUỆ VIỄN đại sư.

* Liên tông nhị Tổ, Trường An, Quang Minh đạo tràng, THIỆN ĐẠO đại sư.

* Liên tông tam Tổ, Nam Nhạc, Bát Chu đạo tràng, THỪA VIỄN đại sư.

* Liên tông tứ Tổ, Trường An, Ngũ Hội đạo tràng, PHÁP CHIẾU đại sư.

* Liên tông ngũ Tổ, Tân Định, Đại Nham đạo tràng, THIẾU KHƯƠNG đại sư.

* Liên tông lục Tổ, Hàng Châu, Vĩnh Minh đạo tràng, DIÊN THỌ đại sư.

* Liên tông thất Tổ, Chiêu Khánh, Tịnh Hạnh đạo tràng, TĨNH THƯỜNG đại sư.

* Liên tông bát Tổ, Hàng Châu, Vân Thê đạo tràng, LIÊN TR. đại sư.

* Liên tông cửu Tổ, Bắc Thiên Mục, Linh Phong đạo tràng, NGẪU ÍCH đại sư.

* Liên tông thập Tổ, Ngưu Sơn, Phổ Nh.n đạo tràng, HÀNH SÁCH đại sư.

* Liên tông thập nhất Tổ, Hàng Châu, Tiên Lâm đạo tràng, THẬT HIỀN đại sư.

* Liên tông thập nhị Tổ, Hồng Loa, Tư Phước đạo tràng, TRIỆT NGỘ đại sư.

* Liên tông thập tam Tổ, Tô Châu, Linh Nham đạo tràng, ẤN QUANG đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Vạn Đức đạo tràng, HÂN TỊNH đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Bồ-đề đạo tràng, TUỆ NHUẬN đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Hương Nghiêm đạo tràng, THIỀN TÂM đại sư.

* Liên tông Việt Nam, tiền hiền hậu bối liệt vị Tổ sư.

SÁM HỐI

Quy mệnh mười phương Phật,

Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng,

Tam Thánh c.i Cực Lạc

Xin thương xót chứng minh.

Vô thủy kiếp đến nay,

Con mê lạc luân hồi,

Do bởi tham, sân, si,

Từ nơi thân miệng .,

Tạo 4 trọng, 5 nghịch,

Mười ác vô biên tội.

Nay đem tâm chí thành

Tỏ bày cầu sám hối.

Nguyện nhờ sức gia tr.

Chúng con đều thanh tịnh,

Phát đại Bồ-đề tâm,

Độ m.nh, người giải thoát.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Sám hối phát nguyện rồi, chí tâm đảnh lễ A Di Đà Phật biến pháp giới Tam-bảo (1 lễ).

. NGHĨA DANH

HIỆU ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

Đại : lớn, Thế : thế lực, Chí : đến.

ĐẠI THẾ CHÍ : là một bậc có thế lực lớn đến đây. Kinh dạy : Mỗi bước chân của Bồ-

tát rung động cả trái đất. Ngài đi tới đâu, tạng thức chúng sanh ở nơi đó liền bị rung động. Các

địa ngục, ng. quỷ, bàng sanh được giác tỉnh mà giải thoát khổ báo. Ánh sáng trí tuệ có m.nh

lực soi tan vô minh từ lũy kiếp.

Chúng ta đảnh lễ đức Quán Thế Âm thân tử kim muôn ức. Thân màu vàng kim rực rỡ

trang nghiêm là tướng phước báu đ. từ bi tầm thanh cứu khổ. C.n đức Đại Thế Chí Bồ-tát

được ca ngợi là thân trí sáng vô biên v. trí tuệ quang minh của ngài chiếu khắp pháp giới.

Đức Đại Thế Chí và đức Quán Thế Âm đều là pháp thân Bồ-tát, báo thân ở Cực Lạc thế giới,

hầu cận Phật A Di Đà. Các chùa thường thờ 3 vị gọi là Tây phương tam Thánh.

Kinh Bi Hoa : Vua Vô Tránh Niệm có 1000 con. Vua xuất gia sau thành Phật A Di

Đà. Các thái tử đều theo cha đi tu. Vị lớn nhất là Quán Thế Âm Bồ-tát. Vị thứ 2 là Đại Thế

Chí Bồ-tát.

Việt Nam thờ h.nh tượng đức Đại Thế Chí Bồ-tát, trên mũ có vẽ cái b.nh gọi là b.nh

Trí Tuệ. Tay cầm hoa sen v. ngài có nguyện tiếp người niệm Phật v.ng sanh Tịnh-độ.

Trong kinh Lăng Nghiêm, các Thánh tr.nh bày sự tu hành, có vị tu về căn mắt, có vị tu về căn

mũi. Đức Quán Thế Âm tu về căn tai, đức Đại Thế Chí tu về kiến đại nghĩa là cả sáu căn.

KINH LĂNG NGHIÊM

CHƯƠNG ĐẠI THẾ CHÍ NIỆM PHẬT

Ngài Đại Thế Chí, con đấng Pháp-vương, cùng 52 vị đại Bồ-tát đồng hạnh với ngài,

đứng dậy dập đầu lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng : Con nhớ xa xưa, có Phật ra đời, hiệu

ngài gọi là Phật Vô Lượng Quang. Mười hai Như Lai cùng nối ngôi nhau ra trong một kiếp,

Như Lai cuối cùng hiệu ngài gọi là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Ngài dạy con pháp “Niệm Phật

tam muội”. Ví như hai người : một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như

thế, dù có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau cũng như chẳng thấy. Vậy hai

người phải cùng nhớ tới nhau rất là thâm thiết, cứ như thế m.i, cho hết kiếp này, lại sang kiếp

khác, như bóng với h.nh chẳng hề rời nhau.

“Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn chạy,

  1. mẹ dẫu nhớ có làm g. được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời

xa nhau”. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau quyết định thấy Phật,

cách Phật chẳng xa. Chẳng nhờ đến pháp phương tiện nào khác, mà cũng khai ngộ được tâm

của m.nh. Như người ướp hương, thân có mùi hương. Pháp này gọi là “Hương Quang Trang

Nghiêm”. Chỗ bản nhân con dùng tâm niệm Phật vào vô sanh nhẫn. Nay ở c.i này, tiếp người

niệm Phật về nơi Tịnh-độ. Phật hỏi viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp tất cả

sáu căn, chuyên một tịnh niệm, nối nhau liền liền, được vào chánh định, ấy là đệ nhất.

— Niệm Phật – Hồi hướng – Tam quy.

  1. CHƯƠNG TR.NH TỰ TỨ

— Lễ Phật – Lễ Tổ.

— Đại chúng quỳ nghe giáo sắc của đại Tăng.

— Thông kiểm số chúng.

— Tụng kinh “Tự Tứ Thanh Lương”.

— Yết ma :

  1. a) Sai người thọ tự tứ.
  2. b) Bạch pháp h.a Tăng tự tứ.
  3. c) Yết ma nhận vải may y công đức.

Vấn h.a yết ma sai người chia vật. Đ. sai người rồi, không cần vấn h.a nữa, yết ma

giao vật để chia (xem Yết Ma Chỉ Nam).

— Đọc bài “. nghĩa tự tứ”.

— Thượng t.a đối thú tự tứ.

— Sư cô thọ sai cho chúng tự tứ.

— Đọc bài “Huấn từ tán hạ”.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

  1. KINH TỰ TỨ THANH LƯƠNG

Tôi nghe như vầy : Một thời Phật ngự tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc Lâm,

vườn Ca Lan Đa, cùng với 500 đại Tỳ-kheo đồng an cư mùa mưa.

Bấy giờ vào ngày 15 cuối hạ, đại chúng tự tứ thay v. bố tát. Tôn giả Xá Lợi Phất đứng dậy

sửa y, chắp tay bạch Phật :

Bạch Thế Tôn Vô-thượng Y Vương ! Ai chưa điều ngự Thế Tôn khiến cho điều ngự,

chưa tịch tịnh khiến cho tịch tịnh, chưa giải thoát khiến cho giải thoát, chưa đắc đạo khiến cho

đắc đạo, chưa tu tập phạm hạnh khiến cho tu tập phạm hạnh. Thế Tôn là bậc Trí Đạo, Giác

Đạo, Thức Đạo, Thuyết Đạo.

Chúng con là con của Phật, thọ sanh từ miệng Phật, hóa sanh từ pháp Phật. Phật dạy

chúng con : “Các Tỳ-kheo h.y nhắc nhở lẫn nhau, sám hối lẫn nhau”. Hôm nay ngày tự tứ,

l.nh thọ khuyến giáo, l.nh thọ khiển trách. Đệ tử chúng con vâng theo lời dạy, nhất hướng tu

hành. Do đây chúng con sẽ được tự tại như ., khéo biết r. chánh pháp.

Bạch Thế Tôn, đối với thân khẩu . hành của Xá Lợi Phất con, Thế Tôn có phiền g.

chăng ?

— Này Xá Lợi Phất ! Ta không phiền g. đối với thân, khẩu, . hành của Thầy. V. Thầy

đ. thành tựu Thật Tuệ. Ví như thái tử không trái phạm lời khuyên dạy, bái l.nh sự truyền thừa

của phụ vương và sau này có thể truyền thừa lại. Này Xá Lợi Phất, ta chuyển vận pháp luân,

Thầy cũng có thể chuyển vận pháp luân.

Này Xá Lợi Phất ! Ta không phiền g. về thân, khẩu, . hành của Thầy.

— Bạch Thế Tôn, ngài có phiền g. về thân khẩu . hành của 500 thầy Tỳ-kheo chăng ?

— Này Xá Lợi Phất, các Tỳ-kheo này đều đ. chứng đắc vô trước, dứt trừ các lậu,

phạm hạnh đ. vững, việc làm đ. xong, hữu kết đ. tận, gánh nặng đ. đặt xuống. Các Tỳ-kheo

này đ. đạt được thiện nghĩa chánh trí, chánh giải thoát. Này Xá Lợi Phất, ta không phiền g. về

thân khẩu . hành của 500 thầy Tỳ-kheo.

Tôn giả Xá Lợi Phất, lần thứ 3 chắp tay hướng về Thế Tôn : Bạch Thế Tôn ! Trong số

500 Tỳ-kheo đây, bao nhiêu vị đ. đạt tam minh, bao nhiêu vị đ. chứng đắc câu giải thoát, bao

nhiêu vị đ. chứng đắc tuệ giải thoát ?

— Này Xá Lợi Phất ! 90 vị đ. đạt tam minh, 90 vị đ. chứng câu giải thoát. C.n bao

nhiêu đều đ. được tuệ giải thoát. Trong chúng không có hạt lép, chỉ có toàn hột chắc.

Khi ấy tôn giả Bàng Kỳ Xá đứng dậy trịch vai áo chắp tay :

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn gia tr. cho con thêm uy lực ! Mong Thế Tôn gia tr. cho

con thêm uy lực ! Để ở trước Phật và đại chúng, con được tụng lời tán đúng nghĩa.

— Này Bàng Kỳ Xá ! Thầy cứ tùy ..

— Hôm nay ngày rằm tự tứ.

Hội tọa Tăng chúng 500,

Đoạn tận buộc ràng, kết sử

Đồng chứng vô ngại, vô sanh.

Thanh tịnh ngời quang minh

Giải thoát tất cả hữu,

Dứt sanh, l.o, bệnh, tử.

Lậu diệt, việc làm xong.

Trạo hối và nghi kết,

Mạn, hữu lậu đ. trừ.

Nhổ tuyệt gai ái dục,

Thành vô thượng y sư.

D.ng m.nh như sư tử,

Sợ h.i đ. dứt trừ,

Đ. vượt qua sanh tử,

Diệt lậu tận, vô dư.

Ví như Chuyển Luân Vương

Quần thần vây chung quanh,

Thống l.nh toàn trái đất,

Cả đại dương vô cùng.

Đấng đại hùng tối thắng

Bậc thượng trí thượng tôn,

Ai cung kính sẽ được

Tam minh, ngoài tử sanh.

Tất cả đại chúng đây

Phạm hạnh đ. thành lập,

Chuyển pháp luân vô thượng

Đảnh lễ đức Thế Tôn.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

  1. . NGHĨA TỰ TỨ

Tự là tự m.nh. Tứ là tha hồ. Trải thân đảnh lễ cầu thỉnh mọi người, hoặc thấy hoặc

nghe hoặc nghi, xin tận t.nh chỉ bảo. Ta biết lỗi sám hối, khiến thân tâm được hoàn toàn thanh

tịnh.

Nhân duyên : Một trụ xứ, chúng Tỳ-kheo an cư, tự đặt luật lệ, không cùng nhau nói, để

được tuyệt đối an tĩnh. Phật dạy : “Ngu si lấy hại làm lợi. Sống chung với nhau như oan gia.

Ta vô số phương tiện dạy các Tỳ-kheo phải dạy dỗ nhau, nghe lời nhau, giác ngộ lẫn nhau.

Nếu hành pháp câm, phạm đột-cát-la”.

Bọn Lục Quần liền cử tội thanh tịnh Tỳ-kheo. Phật dạy : Muốn cử lỗi ai, trước phải

cầu nghe, đến người đó phân tách minh định lỗi lầm. Nếu họ chịu sám hối th. thôi. Nếu không

nghe, mới cử tội.

Lục Quần lại đến thanh tịnh Tỳ-kheo cầu nghe. Phật bảo : Muốn cầu người ta nghe,

chính m.nh phải đủ 5 pháp :

1) Phải thời, không được phi thời. Không nên cầu người đang bệnh hoặc đang sân

nghe chỉ lỗi.

2) Chân thật không được hư dối. Thật có lỗi lầm, không do vu báng.

3) Lợi ích không dùng vô ích. Việc cần đáng nói mới nói, không lèm bèm vụn vặt h.o

huyền.

4) Mềm mỏng h.a nh., không dùng lời thô tháo, cứng xẵng.

5) Từ tâm không dùng sân giận, chân thật xây dựng không v. hiềm thù.

Các Tỳ-kheo đủ 5 pháp cầu Lục Quần nghe, Lục Quần không nghe. Phật dạy : “Từ

nay an cư xong, phải tự tứ”.

Cho ngăn tự tứ nếu phi pháp. Ngày tự tứ không nên cầu nghe, v. người tự tứ chính

đương thỉnh chỉ lỗi. Phật bắt buộc trước phải sám hối tất cả lỗi lầm cho thanh tịnh, rồi sau mới

tự tứ.

Nên chọn nơi đất trống, ngồi trên cỏ mà tự tứ. Ở đất trống nêu biểu sự thẳng thắn,

không che đậy tội lỗi. V. sao ngồi trên cỏ ? Đức Như Lai nửa đêm vượt thành xuất gia, vào

núi học pháp ngoại đạo, sáu năm khổ hạnh, chẳng được ích g.. Ngài bèn xuống sông Ni Liên

tắm rửa rồi lên gốc Bồ-đề ngồi kết già. Có tên Cát Tường đang cắt cỏ tại đó, thấy thế vội đem

dâng cỏ để ngài làm t.a ngồi. 49 ngày sau ngài chứng Vô-thượng Bồ-đề.

Chúng ta ngày nay căn tánh kém cỏi lười biếng. 90 ngày an cư đi qua, đ. không chứng

thánh quả c.n đầy lỗi lầm. Dù đ. sám hối vẫn trải cỏ ngồi trên đất trống, vâng lời Phật, sạch

l.ng, kính cẩn cầu người mắt sáng theo chỗ thấy nghe nghi chỉ r. những thiếu sót.

Rửa sạch ba nghiệp, sáu căn thanh tịnh, làm sao pháp nh.n chẳng khai mở để thân chứng diệu

tịnh minh tâm.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. HUẤN TỪ

NGÀY TÁN HẠ

Mùa hạ mưa nhiều, chư Tăng đi khất thực vất vả, ướt lạnh, có khi nguy hại tới sức

khỏe mạng sống. Lại thêm côn trùng sâu kiến sinh sản rất nhiều, khó tránh tội sát sanh. Nên

Phật dạy Tăng Ni mùa hạ phải nhóm họp một chỗ tịnh tu, y chỉ những bậc tiên giác thượng

tọa.

Ba tháng chuyên tu giới định tuệ. Thượng căn chứng quả, trung căn hàng phục phiền

n.o. Dù hạ căn mà giới luật thanh tịnh cũng tăng tấn đạo nghiệp. Nên Tỳ-kheo lấy kết hạ làm

tuổi, gọi là hạ lạp. Niên thiếu Tỳ-kheo chưa đủ 5 hạ phải y chỉ. Ai chưa đủ 12 hạ không được

phép làm Thầy. Trong khóa an cư, ai không được sự chấp thuận của đại chúng mà bước chân

ra ngoài đại giới, gọi là phá hạ, nghĩa là mất tuổi. Được phép ra đi mà trở về không đúng hẹn

cũng mất tuổi. Nên ngày rằm tháng bảy, lễ tán hạ là ngày Tăng nhận tuổi, là ngày khánh tuế

của thiền môn.

Cũng gọi là ngày Tăng tự tứ v. sau 3 tháng an cư, mỗi vị tự kiểm điểm m.nh để sửa

lỗi. Có một ngày sám hối chưa đủ, c.n phải đặc biệt thêm một ngày, thỉnh cả đại chúng, ai có

thấy nghe nghi điều g., cũng xin chỉ dạy, để như pháp sám hối. Thế th. toàn chúng hẳn phải

thanh tịnh. Đ. thanh tịnh hẳn được giải thoát. Được giải thoát là đáp đúng với bổn hoài độ

sanh của chư Phật. Nên ngày ấy c.n có tên là ngày chư Phật hoan hỷ.

Ai thanh tịnh luôn 3 tháng được thọ y công đức, được hưởng 5 quyền lợi đặc biệt. Nên

ngày thọ y công đức gọi là ngày thưởng thiện phạt ác.

Lại nữa, theo kinh Vu Lan, Phật dạy ngài Mục Kiền Liên phải đợi Tăng tự tứ, đem

cúng dường phẩm vật để cứu khổ treo ngược cho cha mẹ và cửu huyền thất tổ. Khổ treo

ngược là khổ địa ngục. Khổ địa ngục c.n cứu được huống chi các khổ khác. Nên ngày rằm

tháng bảy là ngày xá tội vong nhân. Ngày những người con cứu khổ cha mẹ v. được gặp

phước điền thanh tịnh. Nên có tên là ngày báo hiếu.

  1. 3 tháng an cư, công đức lớn như thế nên an cư là luật quan yếu. Tỳ-kheo không an

cư, dù trọn đời cạo tóc đắp y tr. giới, vẫn gọi là phá giới. Nhóm họp an cư mà không kỷ luật

chân chính, gọi là tặc trụ, tội không nhỏ. Tỳ-kheo dù thông hiểu Phật pháp, dù đ. chứng quả

mà chẳng an cư, cũng phạm tội không kính thánh giáo.

Chúng ta từ lịch kiếp nghiệp chướng nặng nề, đ. trôi lăn m.i trong tam đồ lục thú.

Nay nhờ thiện duyên được gặp Phật Pháp Tăng, được xuất gia, biết phát tâm Bồ-đề. Lại đủ

phước viên m.n 3 tháng an cư. Chúng ta nên tự khánh tự mừng, phấn khởi trên con đường tự

giác, giác tha, cho bản thân giải thoát, cho cha mẹ lục thân mong nhờ, cho quốc gia x. hội

nương đức, cho xứng đáng ngôi lục h.a thanh tịnh. Trong kinh Vu Lan, Phật đ. đích chỉ Tăng

già là nơi trông cậy độc nhất của vạn loài.

  1. LỄ VU LAN

SÁNG

  • Tụng kinh Vu Lan.
  • Diễn từ bạch lễ Vu Lan.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trong khung cảnh trang nghiêm của đạo tràng Liên Hoa, con xin phép tr.nh bạch

những cảm nghĩ về lễ Vu Lan, một ngày lễ trọng đại của Phật giáo.

Cách đây hơn 2500 năm, thái tử Tất Đạt Đa, v. thấy 4 cảnh khổ sanh, già, bệnh, chết

đ. quyết tâm xuất gia t.m đạo, một trường hợp thoát tục phi thường, có một không hai trong

lịch sử.

Sau khi phấn đấu m.nh liệt với bao gian khổ, đơn độc tham thiền nhập định trên núi

Tuyết, ngài đ. giác ngộ đạo giải thoát.

Suốt 49 năm thuyết pháp, ngài căn dặn các đệ tử lấy giới luật làm Thầy. Ngài để lại

cho thế gian một kho tàng pháp bảo thâm sâu, vi diệu. Nhờ đây tất cả chúng sanh, kẻ c.n

người mất, đều được hướng dẫn lên đường an vui lợi lạc.

Hai giáo l. nghiệp báo và tái sanh, có liên hệ mật thiết với nhau. Đời sống hôm nay là

kết quả của những hành động quá khứ. Tương lai sẽ là kết quả của những hành động hiện tại.

Trong bức tranh 12 nhân duyên. Phật dạy khoen “HÀNH” vẽ ông thợ đồ gốm đang nặn chiếc

b.nh. B.nh là kết quả theo . muốn của ông thợ, theo hai bàn tay khéo léo hoặc vụng về của

ông mà hiện ra. Nghiệp cũng vậy, thường xuyên thay đổi theo tâm biến hóa : Một ác nhân

ngày hôm nay có thể trở thành thánh nhân ngày mai. Một người tốt có thể v. một l. do nào

đó, trở thành tội nhân.

D.ng sông nghiệp lực c.n được cung cấp bằng những khối nước bùn lầy tham sân si,

c.n tiếp tục chảy. Tái sanh là kết quả tất nhiên của nghiệp lực. Ví như ánh sáng đèn điện,

bóng đèn vỡ, ánh sáng tắt, nhưng v. điện lực không mất, nên ánh sáng sẽ trở lại với một bóng

đèn khác. Thân chúng ta dù tan r., nghiệp lực c.n tồn tại, hẳn c.n tái sanh. V.ng luân hồi chỉ

ngừng khi ta không tạo nghiệp.

Tóm lại quả khổ chuyển theo nghiệp, nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng con

tâm là hết khổ. V. thế chỉ có ánh sáng giác ngộ của Tam-bảo là cứu tinh độc nhất của muôn

loài. Tam-bảo thường trụ ở thế gian nhờ Tăng Ni kế tiếp truyền đăng. Chúng sanh nương

Tam-bảo thoát khổ, tiến lên quả vị Thánh Hiền cho đến thành Phật. V. vậy trong kinh Vu

Lan, Phật đích chỉ : Tăng chúng h.a hợp thanh tịnh tự tứ, là năng lực duy nhất có thể cứu khổ

tam đồ và mở cửa giải thoát cho cả lục đạo luân hồi.

Lễ Vu Lan làm sáng tỏ chân l. “Nhất thiết duy tâm tạo”. Công đức chư Tăng thanh

tịnh cùng với tấm l.ng hiếu thảo chí thành của Phật tử chúng con, cảm thông đến những tâm

hồn đau khổ. Khiến cha mẹ tổ tiên chúng con chuyển tâm niệm, hướng về đường thiện mà

thoát khỏi h.nh phạt của nghiệp báo, tiến dần lên Thánh vị. Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, từ

lực và nguyện lực của Tăng Ni cũng vi diệu không tận.

Hôm nay ngày rằm tháng bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng tự tứ. Phật tử

chúng con tụ hội về đây, thành kính dâng lễ phẩm cúng dường Tam-bảo, ngưỡng mong cha

mẹ hiện đời tăng thêm phước thọ, cửu huyền thất tổ thoát cảnh luân hồi. Bản thân chúng con

cùng với gia đ.nh thân quyến cũng nương phước báo này mà tiêu tai giải nạn, kết duyên Bồ-

đề.

Trước khi dứt lời, chúng con xin chí thành cầu nguyện mười phương Tam-bảo gia hộ

cho toàn thể Tăng Ni Phật tử, Bồ-đề tâm kiên cố, Phật sự viên thành, để dắt dẫn chúng con

bắc nhịp cầu giải thoát cùng về c.i Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả tác đại chứng minh.

NI TĂNG CHÚC NGUYỆN

Toàn chúng quỳ tụng : “Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề câu chi nẩm, đát điệt

tha. Ám, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa bà ha” (108 biến từ chữ Ám...).

  1. việc g. bố thí,

Ắt sẽ được như ..

Như v. vui mà thí,

Sau ắt được an vui.

Quy y mười phương tận hư không giới nhất thiết thường trụ Tam-bảo.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

Nam mô Dược Sư hải hội Phật Bồ-tát, nhất thiết Hiền Thánh Tăng. Từ bi

chứng minh công đức cho mười phương Phật tử, đ. tuân phụng Như Lai di giáo. Nhân

ngày chúng Tăng tự tứ, làm lễ Vu Lan, dâng y và cúng dường phẩm vật, cùng hương

trà hoa trái, hồi hướng công đức về cha mẹ hiện tiền, quá khứ phụ mẫu, cửu huyền thất

tổ, lịch kiếp thân duyên, nội ngoại gia tiên, lục thân quyến thuộc. Rộng cùng mười

phương trăm họ, đồng tiêu tội chướng, đồng thoát khổ luân, đồng sanh An Lạc, đồng

thành Phật đạo (3 lần).

Chuyển . thức phân biệt hư vọng,

Xoay trở về bản tánh viên minh.

Thường trụ tâm địa quang hiển phát

Như nước đục lóng thành trong sáng

Kết quả chứng được đại thần thông.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả (3 lần).

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

Nam mô tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia chúng

(1 lễ).

Nam mô thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia chúng

(1 lễ).

Nam mô Tỳ-kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia chúng (1

lễ).

SỚ TIẾN LỄ VU LAN

SÁCH DẠY :

Tiết Vu Lan trăng tỏ,

Ngày Tự Tứ thanh lương.

Thiết trai đàn cầu cha mẹ hiện tại b.nh an. Dâng sớ tấu độ tổ tiên siêu thăng Phật cảnh.

Câu “dương khánh” một l.ng mong tưởng.

Chữ “âm siêu” trông đợi phước duyên.

Khiến nhà nhà an lạc như nguyền.

Mong chốn chốn b.nh yên toại ..

CHÚNG CON KÍNH NGHE

Động chân cất bước mỗi sát na tạo tội muôn vàn. Tham sân si mạn, mỗi sơ sẩy gây

oan lũy kiếp. Từ vô thủy đ. tạo bao ác nghiệp. E lai sinh c.n thiếu thiện nhân.

Ơn Phật Tổ mở hội Vu Lan,

Mỗi năm dạy lập đàn xá tội.

Trước bệ ngọc lạy cầu sám hối,

Đối liên t.a đèn nến trang nghiêm.

Trượng Phật thừa nương đức từ bi,

Cầu Tăng chúng dắt về giác đạo.

DUYÊN NAY

Ni chúng Liên Hoa 3 tháng hạ tinh tấn công phu. Đầu tháng 7 tụng kinh sám hối, tuần

trung nguyên khiêm thân tự tứ. Lại kính vâng kim ngôn ngọc luật, mở hội Vu Lan. Cả hai

chúng xuất gia tại tục vâng lời di giáo, tụ hội về chùa, thiết lập trai đàn, sửa lễ cúng dường.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

— Nam mô thập phương thường trụ Tam-bảo kim liên tọa hạ.

— Nam mô Ta Bà hải hội Phật Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô Tây phương An lạc thế giới Phật Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia

chúng.

— Nam mô thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia

chúng.

— Nam mô Tỳ-kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia

chúng.

KÍNH MONG

Liệt Tổ cảm thông, Thánh Tăng chiếu giám.

Đức lục h.a cứu khổ trầm luân,

Thanh tịnh giới vớt d.ng lục đạo.

Bát bộ gia tr., thiên long ủng hộ,

Khiến vong giả tội khiên diệt sạch

Và người c.n cát khánh tam đa.

Mong gia tiên tắm gội liên tr.,

Cầu cha mẹ quay về bát đức.

LẠI CHẠNH NGHĨ

Trên đời biết bao tóc bạc da mồi không con dưới gối,

Dưới âm 36 loại quỷ thần ai kẻ xót thương,

Địa ngục giờ này vạc dầu sôi lửa cháy,

Ngay đến c.i thiên đường chưa thoát khổ mê say.

Chúng con học Mục Liên, Địa Tạng,

HIẾU chính Phật tâm, NHÂN là Phật hạnh.

Nên dâng sớ nguyện cầu âm siêu dương thái.

Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển.

Để từ nay oan kết băng tiêu,

Chung cộng hưởng thái b.nh Tịnh-độ.

Việt Nam an lạc ! Thế giới thanh b.nh !

Trăm lạy khấu đầu dâng sớ.

Ngưỡng mong Tam-bảo chứng minh.

  1. KHÁNH TUẾ

THẦY (1992)

Kính bạch Thầy !

Những tưởng rằng chị em chúng con sẽ m.i m.i không bao giờ c.n Thầy nữa, như đàn

chim non sắp mất mẹ hiền, bao nhiêu lo lắng bàng hoàng bên giường Thầy bệnh. Nhưng

phước đức thay ! Mười phương chư Phật, Bồ-tát đ. thấu nghe lời thống thiết nguyện cầu của

chúng con mà thầm cảm ứng. Hôm nay Thầy thật sự ở lại với chúng con. C.n Thầy là c.n tất

cả. Sau cơn mưa trời lại sáng, cảnh trí tưng bừng, hoa lá xanh tươi hơn, gió núi r. rào như

cùng chia sẻ niềm hân hoan với chúng con.

Thầy đ. 39 tuổi đạo là 39 bước vững vàng chắc chắn, trên con đường giác ngộ giải

thoát. Mùa hạ năm nay, Thầy bị sốt rét nặng. Chị em chúng con ít được học kinh trong lớp.

Nhưng nơi thân giáo, mỗi cử động của Thầy trên giường bệnh, chúng con đ. học rất nhiều,

nhất là khả năng tự trị, Thầy vẫn miên mật công phu, chiếu soi 5 uẩn là không, hàng phục thọ

ấm. Đến nỗi ngay trong mê sảng, Thầy toàn giảng Bát Nh. Tâm Kinh.

Ba tháng trôi qua nhanh chóng, chúng con có người được phước sớm tối hầu Thầy, có

người ở trụ xứ xa...

Hôm nay giờ phút trang trọng này, chúng con kính dâng lên Thầy 39 bông sen thơm

ngát như 39 tuổi đạo hương quang trang nghiêm và 10 ngọn đèn để cầu chúc Thầy sớm viên

m.n 10 ba la mật.

Một lần nữa chúng con xin thay mặt tất cả huynh đệ, từ đồng bằng đến cao nguyên,

Việt Nam cũng như hải ngoại, hân hoan đồng thanh cầu chúc Thầy của chúng con sẽ như đức

Quán Thế Âm.

“Ngàn xứ cần cầu ngàn xứ ứng,

Biển khổ thả thuyền vớt chúng sanh.

Diệu ứng thần hóa khó đo lường

Tùy cơ thuyết pháp đồng giải thoát”.

Toàn thể chị em chúng con dập đầu đảnh lễ kính mừng h.a nam bách bái.

  1. ÂN ĐỨC TAM SƯ

Lễ Vu Lan mở ra cho nhân loại một mùa báo hiếu. Cha mẹ thế gian có công sanh

dưỡng tấm thân giả tạm, Phật c.n dạy mỗi năm phải có một ngày đặc biệt thiết thực báo ân.

Huống chi giới thân tuệ mạng, chúng ta lại lơ là không nghĩ tới người sanh dưỡng hay

sao ?

Hôm nay ngày tốt đẹp khai khóa tu này, chúng ta nên cùng nhau nhớ tưởng ân đức tam

sư.

Thầy BỔN SƯ mở l.ng đạo, cho ta thọ hưởng ân lành ngôi Tam-bảo. Đối với ngài ta

phải hết l.ng yêu mến, trọng kính như đấng cha lành chí ái chí thân.

Đưa ta lên ngôi vị Tăng bảo, dẫn dắt ta đặt chân cất bước trên đường tu hành là công

đức của GIỚI SƯ. Nhờ Giới sư ta được trang nghiêm đạo hạnh, giới phẩm triêm thân. Nên

bổn phận chúng ta phải tuân thừa luật học, đỉnh đới phụng tr.. Đây là chân thật báo ân.

Thầy PHÁP SƯ giác mê khai ngộ. Đời tu hành chúng ta tươi sáng, trí đức chúng ta

tinh nghiêm, đều nhờ ngài trau dồi hun đúc. Bao nhiêu tâm huyết hao tổn, bao nhiêu công lao

khó nhọc, Thầy mới d.u dắt được chúng ta ra khỏi rừng gai vô minh rậm rạp, đưa chúng ta lên

cảnh giới quang sáng giải thoát. Là sứ giả của Như Lai, giáo hóa không màng danh lợi, Thầy

bá thí thời giờ sức khỏe, Thầy bá thí cả tâm hồn. Chúng ta ngày nay noi theo con đường Thầy

đ. vạch sẵn, đâu được không tận t.nh kính cẩn học hành, trên đền bốn ân, dưới cứu muôn loài,

hầu mong đáp ơn giáo dưỡng trong muôn một.

Đối với 3 ngôi Thầy, nếu đủ nhân duyên được hân hạnh thân cận, chúng ta phải hết

l.ng phụng sự. Oai nghi tế hạnh, ba nghiệp không buông lung, gương mặt tươi tỉnh, mắt tai

lanh lẹ, đón biết . Thầy, thuận theo nhan sắc. Nếu để Thầy nói nhiều, vừa nhọc sức Thầy, vừa

tổn đức m.nh. Thầy có điều quở trách, ta nên vui vẻ tạ ơn, không hiện tướng chống trái.

Ba ngôi Thầy là nhà cửa che mát, ruộng vườn nuôi sống giới thân tuệ mạng chúng ta.

Các ngài là nguyên soái trong mặt trận chống vô minh, phiền n.o ma quân. Tất cả các pháp

lành ở thế gian đều nhờ ơn qu. ngài gieo giống. Nền đạo đức trang nghiêm của nhân loại

chính từ bàn tay trăm phước của qu. ngài an bài. Cho nên dầu thế nào, ta cũng phải một l.ng

biết ơn. Nếu như ta trái bước lùi lại th. thật là một điều đáng ân hận.

Miễn là chúng ta thành tâm cung kính qu. mến phụng sự 3 đấng Tôn sư, c.n các

phương thức sự tướng th. tùy duyên. Gần Thầy, chúng ta được nghe những điều chưa nghe,

được huân tập những nết chưa có. Như vậy chúng ta vừa tr.n bổn phận đối với Thầy mà riêng

m.nh lại được bội phần lợi ích.

Ngoài ra Tăng già là một trong 3 ngôi Tam-bảo. Đối với liệt vị Tăng Ni, chúng ta tuy

không thọ ân riêng, nhưng v. qu. ngài hạnh đức giới phẩm đáng ngôi Thầy cả c.i trời người,

nên chúng ta phải cung kính phụng thờ. Mỗi khi có nhân duyên hầu tiếp, chúng ta nên thành

thật tr.nh bày chỗ c.n nghi trong đạo l., xin được học thêm. Qu. ngài từ xa đến tạm trú,

chúng ta nên liệu biện chu đáo tất cả các nhu dụng, cung kính tôn thờ, như đối với Thầy

chúng ta không khác.

Và sau nữa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chị em chúng con một l.ng thành kính biết ơn

Sư cô trụ tr. cùng toàn ban chức sự. Rộng ra mỗi mỗi chấp tác, quét nhà, bổ củi, v.v..., đều là

công vụ thiền môn ân. Những bàn tay chung góp xây dựng cảnh giới An Lạc tương lai cho

chúng con. Chúng con phát nguyện biết ơn và nỗ lực đền ơn. Cho nên hàng năm ngày Vu

Lan, chúng con sung sướng được đảnh lễ khánh tuế.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CHÚC THỌ QU. CỤ

Vinh dự biết bao chùa chúng ta được tổ chức lễ chúc thọ qu. cụ.

Hạnh phúc bao nhiêu, chùa Hương Sen chúng ta có đến 16 bậc l.o thành đ. quá tuổi

mà người đời gọi là “cổ lai hy”. Hơn tuổi Thầy có cụ Tỳ-kheo-ni Hạnh Lâm 94 xuân xanh.

Trẻ nhất là Ni sư Thể, Ni sư L., tuổi đ. gần 70 nhưng ở trong hội trưởng l.o, qu. ngài c.n

tươi như hoa sen mới nở.

Vinh dự biết bao cho đàn hậu học chúng con được sum vầy dưới gối. Lịch đại tiền

hiền hậu bối truyền bá đạo giải thoát. Trải 3000 năm cho tới ngày nay, lại nhờ công ơn qu. cụ

đem thân làm nhịp cầu tiếp nối. Bàn tay một đời vâng giữ ngọn đuốc chánh pháp quang minh,

nay đ. đốm da mồi. Mái đầu bao năm lao nhọc tinh thần trong mặt trận chống vô minh phiền

n.o, nay nhuộm màu bạc trắng và gối mỏi răng long, qu. cụ vẫn d.ng m.nh trên con đường

về c.i Phật.

Hương Sen ngào ngạt tỏa khắp gần xa. Qu. cụ tay lần tràng hạt, miệng niệm Nam mô

không ngớt. Mỗi ngày 4 khóa lễ cầu v.ng sanh, chuông m. vang vang khắp rừng sâu núi

thẳm. Hồng chung chiêu mộ, học luật sớm chiều...

Hôm nay hậu học chúng con đảnh lễ Phật Tổ, thành kính dâng lên qu. vị trưởng l.o

của gia đ.nh Hương Sen niềm tri ân. Qu. ngài vừa là những bậc Thầy đạo sư của chúng con,

vừa là những tấm gương tinh tấn cho chúng con.

Trẻ thơ c.n sơ sanh trong đạo Thánh Hiền, chúng con nguyện cầu qu. cụ trường thọ

để đàn con dại dài lâu núp bóng. Và bên trời An Lạc phương Tây, đức Quán Âm, Thế Chí

đang tô điểm những đóa sen trăm báu, đợi chờ mai đây, toàn thể gia đ.nh Hương Sen ta

thượng phẩm giác khai.

Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

MỞ CỬA TÂY PHƯƠNG

Mở cửa Tây phương,

Cung thỉnh qu. cụ đi về, đi đi về.

Bên Tây phương vui tươi (2 lần).

Hằng nghe loài chim nói pháp.

Mau mau đi lên (2 lần).

Khỏi v.ng tử sanh (2 lần).

Đến cảnh Tây phương,

Vui vẻ an lạc bốn mùa, bốn bốn mùa.

Đi sang bên Tây phương (2 lần).

Đầy hoa mùi hương thơm ngát.

Trong ao hoa sen (2 lần).

Trắng vàng đỏ xanh (2 lần).

Dưới đáy ao hoa sen

Lót những thủy ngọc xà cừ, xà xà cừ.

Bốn phía trên ao sen (2 lần).

Bao nhiêu hào quang chiếu sáng.

Đua nhau tuôn ra (2 lần).

Trắng vàng đỏ xanh (2 lần).

Nhớ thuở xưa kia,

Biết bao người đ. sinh về, sinh sinh về.

Đức Thích Ca Mâu Ni (2 lần).

Không hỏi mà ngài tự nói.

Muốn cho nhân sinh (2 lần).

Đặng về c.i Tây (2 lần).

Thích Ca Mâu Ni

Quyết tâm độ tận phen này, phen phen này.

Những ai muốn sanh (2 lần).

Th. mau tr. danh đức Phật.

Hay thay ! Hay thay ! (2 lần).

Thoát v.ng tử sanh (2 lần).

Hết thảy con em

Tâm . cung kính vui mừng, vui vui mừng.

Nào c.n có bao lâu (2 lần).

Qu. cụ hào quang sáng chói.

Bay lên trên hư không (2 lần).

Vang đầy trống chuông (2 lần).

Lúc đến Tây phương,

Chư thánh trỗi nhạc rước vào, rước rước vào.

Ôi Tây phương vui thay (2 lần).

Cầu xin về bên c.i ấy.

Thánh tăng hân hoan (2 lần).

Đón mừng những ai, phát nguyện v.ng sanh.

Hôm nay Hương Sen

Qu. cụ niệm Phật chuyên cần, chuyên chuyên cần.

Chúng con kính dâng (2 lần).

Tràng hoa hương thơm tinh khiết.

Trông mong mai sau (2 lần).

Qu. cụ v.ng sanh, thượng phẩm hóa sanh.

(Dành riêng cho các thiếu nhi đầu c.n để chóp trái đào múa hát mừng qu. cụ).

— Dâng quà khánh tuế qu. cụ.

  1. HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT

Liên Tông Bảo Giám dạy : “Hiếu đứng đầu trăm hạnh”. Hiếu là tâm Phật, dưỡng là

hạnh Phật. Muốn được hạnh Phật phải biết thảo nuôi cha mẹ.

Trường Lư Di thiền sư dạy : “Hiếu là cửa mở ra vạn diệu”. Kinh lấy Hiếu làm tông.

Luật lấy Hiếu làm giới.

Hiếu tại gia là cha mẹ thương không lờn, khi cha mẹ ghét không giận, thuận theo nhan

sắc mà phụng thờ.

Hiếu xuất thế gian là tinh tấn giới định tuệ, đem công đức hồi hướng song thân. Chẳng

những lợi ích cho cha mẹ về sau mà hiện đời này, cha mẹ cũng được b.nh an thêm thọ.

Như Lai nửa đêm vượt thành, sáu năm khổ hạnh mới có cái phước lên trời nói pháp độ

cho mẫu thân. Một bậc Thế Tôn vua chúa cúi đầu lễ dưới chân, ngài c.n về hộ niệm vua Tịnh

Phạn lúc cuối cùng khiến trước khi tắt thở, vua chứng quả Tu-đà-hoàn. Lại đích thân cùng

Anan, Nan Đà và La Hầu La, 3 vị A-la-hán, khiêng linh cữu, để cho người xuất gia về sau,

đừng lầm cậy m.nh đ. xuất thế mà coi thường ân đức cù lao.

Tổ Huệ Năng có 10 lạng bạc cúng mẹ hết rồi ra đi học đạo. Tổ Tất Lăng gánh cha mẹ

đi học. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn làm nhà riêng thờ mẹ, để tạ cái ơn 6 năm nhẫn khổ cưu mang.

Ngài Trần Lục Châu dệt dép bán để nuôi mẹ già. Rạng Pháp sư c.ng mẹ đi giảng pháp.

Chính bởi v. đứng hàng Tăng bảo, làm Thầy c.i trời người nên mới đủ trí tuệ biết ơn đền ơn.

Càng xuất thế càng không quên bổn phận con người. Sách dạy : Con quạ ở rừng sâu,

ngày kiếm mồi về nuôi mẹ, tới khi mẹ chết, quạ vẫn đem mồi về, gọi mẹ suốt đêm thâu.

Người tại gia độ cho cha mẹ đỡ cái khổ thân xác thịt hành hạ, người xuất gia độ cho

cha mẹ thoát khổ luân hồi.

Hôm nay đại chúng Liên Hoa, người người đều biết r. bổn phận này. Sau 3 tháng an

cư kết hạ, vâng lời Phật dạy, mỗi năm một lần, hàng Phật tử xuất gia làm lễ đại sám hối, đảnh

lễ mười phương Tăng cầu tự tứ, và nhân đây mở hội Vu Lan.

Thỉnh mời cha mẹ về chùa dự lễ. Kính dâng tràng hoa tỏ tâm hiếu hạnh, noi gương

Phật Tổ.

TRÀNG HOA HIẾU HẠNH

Trong cảnh trang nghiêm của tùng lâm Liên Hoa ngày Vu Lan, chúng con vô cùng xúc

động, tâm hân hoan mà nước mắt tuôn rơi, chúng con cảm động bái l.nh tràng hoa.

Hân hạnh bao nhiêu cho gia đ.nh chúng con đ. nẩy nở được mầm Bồ-đề, con của

chúng con ngày nay, dự hàng Tăng bảo ở địa vị chúng trung tôn.

Tâm hoa tươi nở,

Trồng trong vườn tuệ.

Tưới nước từ bi,

Tỏa hương công đức.

Phật dạy : “Làm thân lạc đà chở nặng đi xa chưa phải là khổ, ngu si không biết hướng

đi mới thật là khổ”. Gia đ.nh chúng con được Thầy dung nạp vào hàng đệ tử, đ. được giải

thoát một phần nào nỗi khổ thứ nhất ấy. Nhờ ân trời biển của Tam-bảo, chúng con đ. hiểu

được . nghĩa cuộc đời. “Thân này chẳng phải ta, chẳng phải của ta. Vạn vật có đấy rồi mất

đấy. Chỉ có tánh Phật là thường trụ. Từng giờ từng phút giữ g.n thân miệng . thanh tịnh để trở

về bản tánh chân không...”.

Qu. Sư cô đang đi lên, bỗng nhiên Thầy gọi : “Nhớ lại cha mẹ c.n đang chơi vơi

trong trần lụy”. Và nhắc nhở : “Đừng lầm cậy m.nh đ. xuất thế mà coi thường ân đức cù lao”.

Thật vậy ! Hàng tại gia Phật tử chúng con tuy đ. biết phá vô minh để chuyển nghiệp là

cần thiết, nhưng vô cùng yếu đuối lại nặng trần lao, bao nhiêu phiền n.o từ ngàn đời đ. nung

nấu tâm gan.

Giữa cảnh đời bơ vơ lạc l.ng, biết bao ưu tư phiền muộn, tiếng chuông giác ngộ từ

chùa Liên Hoa vọng ra giữa các nẻo đường đầy gió bụi.

Bầu không khí nặng nề những lo âu. Không gian như mờ tối v. mây mù tham sân si.

Ánh sáng từ chánh điện Liên Hoa tỏa ra hùng dũng như ánh sáng mặt trời, đem lại niềm tin và

hy vọng cho những người đang lạc l.ng trong đêm tối phân vân.

Phật tử chúng con nguyện mười phương Tam-bảo gia hộ, m.i m.i đủ duyên lành, nội

ngoại đồng khí liền cành, cao thấp trước sau quyến thuộc, nguyện đều phát tâm xuất thế. Xưa

kia mỗi kẻ một đường. Nay cầu đồng về Lạc Bang.

Chúng con nguyện noi gương cổ nhân, một tấm l.ng son phụng sự Tam-bảo. Nguyện

tu học nghiêm minh để góp phần an vui giải thoát cho bản thân gia đ.nh và x. hội.

Chúng con xin chân thành đảnh lễ kính chúc Thầy cùng đại chúng thân tâm an lạc, pháp thể

khinh an, rộng độ quần mê, đồng thành Phật đạo.

Nam mô Hoan Hỷ mười phương Phật.

Phật tử Đinh Việt Thành

pháp danh Chánh Pháp.

Mùa Vu Lan năm 1982.

  1. TIẾNG NÓI CỦA GÀ

Dù có để bao nhiêu trứng trong ổ cho gà ấp, con của chúng tất cả đều nở ra một lúc.

Thiên nhiên đ. quan tâm đến điều này : đàn con xuất hiện đồng loạt, mẹ dễ trông coi và bảo

vệ. Tuy nhiên trong một thời gian dài, người ta không t.m ra được bí quyết của sự đồng bộ

này.

Alêchxanđrơ Tikhônôp, cán bộ khoa học chính của khoa sinh vật trường Đại học Tổng

hợp Matxcơva, đ. ngồi nhiều giờ trong ph.ng cách âm và nghe, theo đúng nghĩa của từ này,

tiếng nói của các quả trứng. Th. ra các phôi thai truyền cho nhau qua vỏ trứng những tín hiệu

âm tần. Tới một giai đoạn phát triển nhất định, phôi thai nào khỏe nhất sẽ phát ra đầu tiên

những tiếng lách tách. Nghe thấy tiếng của nhà “l.nh đạo”, các anh em cũng bắt đầu kêu lách

tách. Như thế có nghĩa là chúng cũng bắt chước chuyển sang thở bằng phổi. Việc này làm

tăng tốc độ phát triển và h.nh thành của chú gà con tương lai.

Trong máy ấp trứng, “một ổ” là 8 - 9 ngàn quả trứng, đẻ ra trong những lúc khác nhau.

Tạo ra cho chúng một nhịp độ phát triển nhất định là một . nghĩ hấp dẫn : các con gà nở cùng

một lúc sẽ làm đơn giản rất nhiều qui tr.nh nuôi gà.

Alêchxanđrơ Tikhônôp đ. cộng tác với các nhà động vật học, các kỹ sư và kỹ thuật

viên vô tuyến điện. Họ đ. tạo ra một tổ hợp kỹ thuật sinh vật của các máy tạo sóng âm tần.

... Trứng nằm trong máy ấp tới ngày thứ 17, khi phôi thai đ. có thể nghe được, người ta cho

thiết bị vô tuyến điện tử chạy. Nó phát ra những âm lách tách mạnh và khẩn thiết. Trong các

máy ấp thông thường gà con nở ra suốt trong mấy ngày. C.n ở đây chúng theo “lệnh” và đồng

loạt rời khỏi vỏ trứng chỉ trong cùng một ngày. Chúng tức th. rời khỏi ổ và chạy theo tiếng

gọi của con gà điện tử.

Bây giờ cần tách riêng gà mái gà trống. Người nuôi gà biết rằng đây là một công việc

tỉ mỉ đ.i hỏi rất nhiều công sức. Thiết bị “giải tần”, cũng là một công tr.nh mới của các nhà

bác học và kỹ sư, giúp giải quyết vấn đề này, chỉ trong mấy giây và không sai sót. Chỉ cần gà

con kêu một tiếng trước micrô. Th. ra gà trống có giọng kêu “thấp” hơn, nhưng chỉ có máy

thật nhạy mới phát hiện được sự khác nhau đó. Những nhà am hiểu cho rằng gà mái rất ưa

kêu. Số “từ” của chúng chứa tới 25 âm. Máy kích thích phát triển âm học “Brôile”, phát ra

một số các tín hiệu này, như các tín hiệu an thần và các tín hiệu gọi đi ăn, làm cho gà con ăn

ngon miệng.

Tất cả các thiết bị đ. được chế tạo ra này là những thành phần của tổ hợp kỹ thuật sinh

vật, có thể điều chỉnh chúng để ấp và nuôi gà tây, vịt, chim cút. Tổ hợp thí nghiệm này đ. có

kết quả trong các xí nghiệp chăn nuôi gia cầm.

Tin tức khoa học báo Liên Xô 1983

* * *

Quí vị nghe xong hẳn ai cũng có cảm giác thương tâm. Tu sĩ c.n thêm cảm giác lo sợ

cho m.nh v. sống nhờ tín thí mà 5 uẩn chưa không, kiến-hoặc tư-hoặc chưa hết, th. kiếp sống

trong quả trứng kia mấy ai đ. bảo đảm giải thoát.

Các nhà bác học kỹ sư đây, tài trí siêu việt, tinh thần an định tinh vi. Cho đến nghe

được tiếng nói trong quả trứng. Có thể biết đích xác, đến ngày ấp thứ 17, phôi thai bắt đầu có

nhĩ thức để nghe cảnh ngoài. Các ngài c.n thấu đáo được sự cảm thông của cả 10.000 quả

trứng với nhau. Một âm thanh của một phôi thai gà mạnh, được cả 10.000 đồng nghiệp hưởng

ứng, đến nỗi đồng loạt cố gắng sớm hoàn tất sáu căn, để cùng nhau trỗi dậy trong một ngày,

để đồng loạt trong một ngày ra khỏi vỏ trứng. Đ. thực hiện đủ máy điện tử để phụng sự các

cô mái chú gà. Hay nói cho đúng là phụng sự nghề chăn nuôi. Nghĩa là phụng sự đồng tiền và

miếng ăn cho thế gian.

Thương tâm thay những tâm thức mịt mù trong quả trứng. Nhưng đáng thương hơn

nữa là bao nhiêu tài trí chẳng được gặp Phật pháp. Uổng qua đời sống thông minh, chẳng thể

ra khỏi v.ng Hoặc - Nghiệp - Khổ. Mỗi nhà máy cho ấp cả ngàn lần. Mỗi ổ ấp 10.000 trứng.

Trong đó có biết bao bác học kỹ sư đang chuyển kiếp luân hồi.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đấng Đại Giác đ. cấm tiệt đệ tử không được ăn trứng, không được làm vỡ trứng, dù

trứng sâu trứng nhện. V. trong đó có hàm thức biết đau biết khổ.

Ngài đặt ra giới luật qui tắc để bảo đảm các đệ tử khỏi sa đọa. Giới luật thấp nhất là

ngũ giới. Giữ được ngũ giới th. dù ngu xuẩn đến đâu cũng thoát khổ, không lọt vào những sọt

trứng đáng thương kia.

Trong loài người, đặc biệt đối với trẻ em mới đẻ, giọng nói của mẹ được chúng nhận

biết rất chính xác. Tại một bệnh viện ở nước Đức, các núm vú nhựa được nối với máy ghi âm

rồi cho vào miệng những đứa trẻ 12 ngày tuổi. Khi tiếng nói của mẹ chúng cất lên, lũ trẻ đột

nhiên mút sữa rất tích cực so với lúc tiếng nựng khác, không phải của mẹ chúng. Các nhà bác

học giải thích hiện tượng này rằng, trẻ nhỏ đ. quen với chất giọng của mẹ từ hồi c.n ở trong

bụng. Giọng nói của mẹ đọng lại trên vỏ n.o của thai nhi từ khi mới được một vài tháng. Các

bác sĩ khuyên sản phụ nên tr. chuyện với đứa con trong bụng. Trẻ chắc chưa hiểu được lời

nhưng tâm truyền tâm, chúng có thể cảm biết được . mẹ. Các cụ Việt Nam ân cần khuyên

những bà mẹ trong lúc mang thai nên cẩn thận từng tâm niệm. Tinh thần của mẹ có quan hệ

mật thiết đến tánh nết đứa trẻ r. ràng. Như vậy t.nh mẹ con đâu có phải chỉ là vay mượn chút

máu mủ để thành h.nh mà thai nhi bơ vơ không nơi trông cậy, chỉ có mẹ là đời sống, là tất cả.

  1. GIA Đ.NH PHẬT HÓA PHỔ

Kính gởi phụ huynh các em ………

Mọi kế hoạch phát triển x. hội từ ngàn xưa không đề nghị g. hơn là làm sao cho con

người đỡ khổ. Phật giáo cũng chỉ một mục đích ấy, nhưng phương tiện không dùng đến danh

lợi, thế lực, cảm t.nh mà lo thực hiện chuyển hóa tâm thức.

Liệt vị Tổ sư noi dấu đức Phật, lấy chữ Hiếu làm đầu trăm hạnh, lấy rằm tháng 7 làm

ngày cha mẹ. Lễ Vu Lan mở ra tục lệ bổn phận làm con phải lo đưa cha mẹ ra khỏi biển khổ

luân hồi sanh tử.

Riêng chùa chúng tôi, ngửa lên cầu nguyện thần lực Tam-bảo gia hộ cho gia đ.nh được

âm siêu dương thái, là việc đương nhiên. Ngoài lợi ích cứu vớt song thân cùng cửu huyền thất

tổ c.n thiết thực đức dục con em tập học chữ Hiếu. Luyện tâm hướng thiện là việc cần yếu để

đưa qu. cô đi lên.

Vậy xin toàn gia quyến vui vẻ hưởng ứng chương tr.nh giáo dục của nhà chùa mà trợ

duyên cho qu. cô, bằng cách vui vẻ nghe qu. cô giảng giáo l.. Yêu cầu gia đ.nh đặt các câu

hỏi về Phật pháp để qu. cô tập thực hiện chí nguyện tự giác giác tha. Lấy ngay gia đ.nh làm

điểm xuất phát tâm Bồ-đề, qu. cô phải quan tâm, phải tôn trọng, phải đem tất cả tâm hồn để

cầu nguyện cho gia đ.nh hạnh phúc an vui.

Sự nghiệp thánh thiện này sẽ đem lại lợi lạc giải thoát cho cả qu. cô và gia đ.nh.

Trân trọng

Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm

Ngày 10-7- Kỷ M.o (1999)

III-/ MÙA THU

TỪ 16-7 ĐẾN 15-10

  1. CHƯƠNG TR.NH

THỌ Y CÔNG ĐỨC

16-7

— Lễ Tổ – Lễ Phật – Tụng kinh Cahyna.

— Lễ 18 A-la-hán.

— Huấn từ khai khóa Cahyna.

— Chúng nhỏ giải tán. Tỳ-kheo-ni lưu lại yết ma :

  1. a) Sai người tr. y.
  2. b) Trao y công đức.

— Thọ y công đức.

— Lễ y công đức.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

LỄ Y CÔNG ĐỨC

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

1- Cahyna y.

2- Kiên thật y.

3- Thưởng thiện phạt ác y.

4- Công đức y.

5- Tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia chúng.

6- Thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia chúng.

7- Tỳ kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia chúng.

8- Kết tập phiên dịch, giảng dạy chú thích tam tạng, Đông Tây kim cổ liệt vị Pháp sư.

9- Tây thiên Đông độ Việt Nam, thập phương du hóa, truyền giáo khai sơn lịch đại Tổ

sư.

10- Tám trăm Tỳ-kheo núi Talala

Cùng Thế Tôn may y Cahyna,

Năm nấc thang A Na Luật Đà

Xa l.a trần lao đời chật hẹp.

Chứng A-la-hán, đủ thần thông

Đại phước lực, đại oai thần.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô đệ nhất thiên nh.n Cahyna đàn tràng đường chủ, đại thánh

A Na Luật Đà tôn giả (3 lễ).

LỄ 18 A-LA-HÁN

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ : NAM MÔ

— Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật.

— Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

— Cahyna tôn pháp.

1) Đệ nhất trí tuệ XÁ LỢI PHẤT tôn giả.

2) Đệ nhất thần thông MỤC KIỀN LIÊN tôn giả.

3)Đệ nhất đầu đà MA-HA CA DIẾP tôn giả.

4)Đệ nhất nghị luận MA-HA CA CHIÊN DIÊN tôn giả.

5)Đệ nhất vấn đáp MA-HA CÂU HY LA tôn giả.

6)Đệ nhất chánh định LY BÀ ĐA tôn giả.

7)Đệ nhất khéo tr. pháp Phật CHÂU LỢI BÀN ĐÀ tôn giả.

8)Đệ nhất đa văn ANANĐÀ tôn giả.

9)Đệ nhất nghiêm hộ sáu căn NAN ĐÀ tôn giả.

10)Đệ nhất mật hạnh LA HẦU LA tôn giả.

11)Đệ nhất phước điền c.i trời KIỀU PHẠM BA ĐỀ tôn giả.

12)Đệ nhất khéo giáo hóa CA LƯU ĐÀ DI tôn giả.

13)Đệ nhất phước điền nhân gian TÂN ĐẦU LƯ PHẢ LA ĐỌA tôn giả.

14)Đệ nhất thọ mạng BẠC CÂU LA tôn giả.

15)Đệ nhất giỏi thiên văn MA-HA KIẾP TÂN NA tôn giả.

16)Đệ nhất nghĩa không TU BỒ ĐỀ tôn giả.

17)Đệ nhất nói pháp PHÚ LÂU NA tôn giả.

18)Đệ nhất thiên nh.n, Cahyna đàn tràng đường chủ, đại thánh A NA LUẬT ĐÀ tôn

giả.

— Đạo tràng hội thượng Phật Bồ-tát nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng.

  1. CHƯƠNG TR.NH

TU HỌC 5 THÁNG Y CÔNG ĐỨC

I- GIỚI

(Phần này đ. học trong hạ nay chỉ hành tr.)

a/ H.nh đồng mỗi ngày thọ bát quan trai và học 24 oai nghi.

b/ Sadini học Sadi Luật Giải và Quy Sơn Cảnh Sách.

c/ Thức xoa học giới bổn.

d/ Tỳ-kheo-ni ôn luật Tứ Phần và Như Thích.

II- HỘ 6 CĂN

Tụng sám 6 căn trong bộ Khóa Hư của Trúc Lâm sơ Tổ (đ. in riêng).

III - THIỂU DỤC TRI TÚC

Học kinh Cahyna (đ. in riêng).

IV- TỰ CHỦ

Tứ Niệm Xứ (đ. in riêng).

V- NGỒI THIỀN

Sổ tức và quán bất tịnh để trừ ngũ cái, khai tuệ vô lậu.

VI- NIỆM PHẬT

Ngoài các thời khóa tu học, chị em phải nhiếp tâm niệm Phật để cầu v.ng sanh.

ĐÁP TỪ

Cahyna là tiếng Ấn Độ, Tàu dịch là kiên thật (bền chắc và chân thật).

Thuyết pháp dạy người làm thiện để hưởng phước trong luân hồi, không phải là pháp

Cahyna.

Pháp Cahyna : chân thật đưa người tu đến kết quả ra khỏi luân hồi vĩnh viễn an vui.

Cuộc sống chúng ta hiện tại tạm bợ như khách trọ đến rồi đi. Thân tâm cảnh đều vô

thường. Lầm cho là thật mà cố t.nh bám víu, khởi tham sân si th. đây là gốc trầm luân. Chỉ có

ai nắm được một pháp Cahyna, cố vươn ra khỏi 12 khoen nhân duyên sanh tử hư vọng, th. đời

sống mới thật có phẩm chất người, khác loài muông thú.

Nhận thức t.nh vọng tưởng làm tâm tánh. Một bề nô lệ cho kiến-hoặc và tư-hoặc sai

sử, quên hẳn chân tâm tịch thường diệu giác. Kinh dụ người này như con ông trưởng giả bỏ

cha trốn đi. Đánh đu với giặc làm sao yên thân ?

Y Cahyna : Kinh kể chuyện ngài A Na Luật Đà, đ. mù cả hai mắt, lại rách cả 3 y.

Toàn chúng họp nhau may y cho ngài, mở đầu tục lệ mỗi năm, sau 3 tháng an cư, chúng Tăng

chia vải may y, cần nhớ tới các bạn rách y, thiếu y. Phật dạy phải chọn lọc một tấm đẹp nhất

để làm y công đức. Coi như tấm y này là của toàn thể Tăng chúng thánh phàm trong trụ xứ.

Sai người đủ 5 đức (không ái, không sân, không sợ, không si, có trí tuệ biết r. bổn phận tr. y)

giữ g.n y trong 5 tháng, thời gian đại chúng học và tu pháp Cahyna.

Luật Huyền Ty dạy : “Y công đức phải dành cho Tỳ-kheo-ni không y hoặc rách y, đặc

biệt không cho người keo sẻn (tự m.nh có được mà vẫn xin). Ai cúng dường một tấm y cho

Tỳ-kheo, công đức không thể nghĩ bàn. Cúng dường những tấm y không thể nghĩ bàn ấy

chồng chất cao bằng núi Tu-di, phước báu không bằng cúng dường một tấm y công đức”.

Pháp môn Cahyna nào cũng đ.i hỏi 3 điều kiện :

1- Cần . thức rằng càng nói nhiều cách đạo càng xa, nói là hao tổn khí lực, là tinh thần hướng

ngoại. Nội quy số 8 cấm nói chuyện tạp. Hỏi đáp về Phật pháp quá 10 phút phải xin phép tri

chúng. Đây là để chị em an h.a tinh thần, dồn hết tâm lực vào nội quán. Qua được lớp cửa

này như mây bay đi, hé mở một khung trời an ổn thênh thang. Tổ Đạt Ma 9 năm quay mặt vào

vách cầu Bát Nh. vô ngôn của cụ Tu Bồ Đề, cái im lặng mà vua Đế Thích tung hoa xưng tán.

Nếu cứ luôn luôn khắc trí, quyết tiến đến cùng, trong nhịp bước vui tươi vô úy, nhất định

phen này một phiến công phu dứt sạch vô minh tận gốc, th. sẽ đạt tới cái im lặng thật tướng

bất nhị của cư sĩ Duy Ma Cật. Có hiểu r. như thế, chúng ta mới biết ơn tri chúng, tri sự đ. gia

công g. ép chúng ta vào quy luật. Đ. biết ơn th. lo đền ơn, chúng ta sẽ tận t.nh đưa hậu lai

vào quy luật giải thoát.

2- Thận trọng chăn trâu. Tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm từng phút từng giây.

Sư Huệ Tạng đang làm bếp. M. Tổ xuống hỏi làm g. ?

— Thưa : Chăn trâu.

— Chăn làm sao ?

— Thưa mỗi khi vào mạ th. nắm mũi kéo lại.

— Thế là con đ. biết chăn trâu.

Luôn luôn thức tỉnh, không nghĩ về quá khứ vị lai, không nghĩ tới cảnh ngoài. Lấy

thân tâm làm đề mục thiền, làm đối tượng trí quán. Tuệ minh sát như gương, lặng lẽ chiếu

soi :

Sáu căn sáu trần là sắc ấm.

Khổ vui thuận nghịch là thọ ấm.

Yêu ghét mừng giận là tưởng ấm.

Hơi thở, 4 oai nghi là hành ấm.

Thấy nghe ngửi nếm phân biệt là thức ấm.

Mùa y công đức chúng ta học song song 2 kinh Cahyna và Tứ Niệm Xứ.

Soi chiếu tiểu oai nghi, ghi niệm không lười mỏi. Đi biết m.nh đi, nhấc chân biết nhấc

chân v.v... Ngồi nằm soi chiếu hơi thở. Thở ra thở vào mỗi mỗi biết r.. Hễ hơi mờ mịt, đó là

vọng tưởng đ. khởi.

Soi chiếu và tự chủ từng hơi thở từng oai nghi. Lại giác sát nội tâm, biết vọng tưởng

  1. để tan đi. Định tuệ cân phân đưa đến điều h.a, an b.nh và giải thoát.

3- Coi thân này như đ. chết. Đại thừa chủ trương vô ng. vô pháp. Tiểu thừa quyết định nếu

c.n tơ hào kiến-hoặc tư-hoặc tức không giải thoát luân hồi. Vào được cửa này là thánh, c.n

đứng ngoài là phàm. Mà cửa này ai cũng vào được, chỉ cần quyết tâm. Quan trọng ở chỗ biết

cửa và chịu vào. Muốn biết cửa th. học kỹ Phật pháp. Chịu vào là thực tập. Thợ mộc, thợ cày,

nghề nào cũng do luyện tập mà thành. Luân hồi sáu đạo do tập tham, sân, si mà có th. Thánh

Hiền giải thoát cũng phải do luyện Giới Định Tuệ mà chứng. Diệu quan sát trí chuyển

Mạt-na thức khiến cho giác tỉnh từ tiềm thức phát ra. Nếu chỉ hiểu biết qua . thức th. vừa tỉnh

liền mê, biến hóa từng sát na, luân chuyển từng mỗi niệm cho nên quán trí phải chuyên cần.

Nguyện cầu chị em trong đời sống hàng ngày, hằng nhớ thanh tịnh ba nghiệp, nhẫn nhục nhu

h.a, mỗi mỗi y ly, tương ưng với Cahyna pháp, ng. hầu sớm đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát,

giải thoát tri kiến, 5 phần hương Pháp-thân.

  1. KÍNH ĐỆ

H.A-THƯỢNG GIÀ LAM VIỆN CHỦ

Kính bạch H.a-thượng !

Ni chúng Liên Hoa nương H.a-thượng làm đệ ngũ luật sư mùa an cư năm nay đ. được

vui h.a êm đẹp. Chúng con xin H.a-thượng gia ân cho chúng con thêm 5 tháng y công đức.

Tr. y công đức với chúng con là một sự tướng cần thiết để y cứ vào đó mà cùng nhau

nối tiếp công phu.

Tr. y nếu là bằng chứng đức hạnh không tham, không sân, không si th. nguy hiểm cho

người tr.. Bên trong, khó mà không kiêu mạn ngầm. Bên ngoài, khó mà không chiêu vời gai

độc ganh ghét. V. vậy ngày nay, không mấy chùa muốn bày vẽ việc y công đức.

Nay chúng con xin H.a-thượng cho phép Liên Hoa tr. y công đức chỉ v. mong cho

toàn chúng tiến tu đạo hạnh. Người tr. y chỉ là một chức việc trong các chức việc. Thay chúng

g.n giữ trong 5 tháng không ái, không sợ, không sân, không si. Cứ một bề nhẫn nhục như cục

đất ai muốn liệng đâu th. liệng, như chiếc khăn lau ai muốn lau giày dép tùy ..

Muốn nhớ hộ 6 căn được như vậy, phải là người rảnh rang không phận sự, chỉ có một

bổn phận tr. y. Tâm tồn bất tịnh quán và từ bi quán, may ra có thể thành công trong 5 tháng.

Nếu lỡ có sơ sót, xin H.a-thượng cho sám hối rồi lại tiếp tục công phu.

Một khi tuyên bố người tr. y chỉ là kẻ tập học đức hạnh, chớ không phải là người đức

hạnh đ. thành, th. sẽ tránh được những chướng ngại của thời mạt pháp.

Con xin kính đệ lên H.a-thượng chút thiển .. Ngưỡng mong H.a-thượng từ bi chỉ thị.

Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm đảnh lễ tri ân.

H.a-thượng chấp thuận cho

Tỳ-kheo-ni Bảo Liên 2 hạ tr. y công đức

  1. TỨ NIỆM XỨ

VÀ PHẢN VĂN PHÁT NGUYỆN

Kính bạch trên Thầy, kính thưa Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp.

Chúng con những tưởng sau 3 tháng hạ, Liên Hoa chẳng c.n được sum vầy cùng nhau

tu học. Nào ngờ đâu có cảm tất có ứng, v. l.ng chí thành tha thiết nên thiên long bát bộ đ. sắp

đặt cho Liên Hoa thêm 5 tháng y công đức.

Lai Quả thiền sư có dạy : “Đại bệnh sanh tử nhất định phải uống thuốc. Các ông phải

hiểu thân người khó được. Trải qua bao kiếp trong các loài, đến nay mới được thân người. Mà

đời người chỉ mong manh trong hơi thở. Nếu ta để thân này trôi qua vô ích, há chẳng phải là

đ. phí mất sự vun trồng của đời trước sao ?”

Hưng Thiền Đại Đăng quốc sư di giáo rằng : “Dầu chỉ một người thôi, sống hẻo lánh

nơi núi rừng, kết cỏ làm am, ăn rễ cây luộc mà nhất tâm quán tưởng đến chỗ cốt yếu. Người

này hằng thân thiết đối diện với ta và biết đáp đền ân nặng”. Thật thế, người tu chỉ có một

việc để trên đầu là : “Sanh tử sự đại”.

Kính bạch Thầy ! Thưa Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp ! Tương lai chưa biết sẽ

ra sao, hiện tại 5 tháng y công đức này là thời gian vô cùng qu. báu. Ngày giờ như thoi đưa,

tháng năm như chớp mắt, trong thời gian ngắn ngủi này phải lo sao cho thiết thật giải thoát.

  1. thế ban Tứ Niệm Xứ và Phản Văn chúng con hôm nay quỳ trước Tam-bảo, xin

thành tâm phát nguyện, trong 5 tháng qu. giá này, chúng con thực tập theo 5 nấc thang kim

cương của ngài A Na Luật Đà, cùng nhau d.ng m.nh đả thất, bắt đầu kể từ hôm nay.

Suốt thời gian qua trên Thầy, Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp đ. tận lực đùm

bọc cho lớp chuyên tu đứng vững đến giờ này. Một lần nữa nương hồng ân Tam-bảo, nương

đức trên Thầy, Sư cô Giám viện, xin toàn thể đại chúng hoan hỷ cho chúng con chuyên tu

thêm 5 tháng nữa, để hạnh nguyện và công đức chúng con được vuông tr.n. Chị em chúng

con thành kính đảnh lễ tri ân.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CÓ MINH TÂM MỚI KIẾN TÁNH

Ở Linh Quang một buổi sáng, Thầy chỉ tay xuống hồ hỏi Huệ Nghiêm : Con thấy g. ?

— Thưa con thấy cả bầu trời và sum la những cành mít. Bóng in trên mặt hồ r. quá!

— Con có thấy đáy hồ không ?

— Thưa không.

— V. sao ?

— Bởi v. nước đục.

— Thế tại sao lại thấy cả bầu trời ?

— Thưa v. nước đứng lặng như gương nên phản chiếu cảnh ngoài. Cũng bởi v. nước

đục, cảnh thật của hồ không thể hiện ra nên cảnh ngoài thấy r..

— Con có thấy sự điên đảo này giống chúng ta không ?

— Thưa Thầy chúng con đang học Tứ Niệm Xứ. Chúng sanh lồng ngực toàn tham sân

si mạn nghi tà kiến. Tâm bị phiền n.o làm mờ mịt, ngang khởi 4 đảo :

1- Thân bất tịnh cho là qu. báu.

2- Thọ là khổ lại cứ ước cầu càng được nhiều càng hay.

3- Tâm vô thường mà cứ đ.i mọi người chung thủy với m.nh.

4- Pháp vô ng. mà căn, trần, thức mỗi mỗi đều cho là thật.

Nếu không giác tỉnh th. bao nhiêu khả năng minh chiếu chỉ dùng để phân biệt khách

trần ngoại cảnh hư vọng. Cũng chính bởi v. không biết pháp thân, chân tâm, bản tánh của

m.nh nên từ lịch kiếp cứ đắm say sống với luân hồi sanh tử.

— Cho nên muốn có tuệ nh.n việc đầu tiên của chúng ta là phải thanh tịnh tâm địa.

  1. THIỀN MINH SÁT

(Rút ở cuốn Mặt Hồ Tĩnh Lặng)

Ngồi ngay thẳng. Để . đến hơi thở ra vào. Đừng kiểm soát hay điều khiển hơi thở mà

sẽ mất thoải mái. Nên hô hấp tự nhiên. Hơi thở tự nhiên vẫn nhẹ nhàng và điều h.a.

Nếu phóng tâm, h.y dừng lại và trở về đề mục. Lúc đầu ta hay có khuynh hướng làm

chủ hơi thở, đưa hơi thở theo . m.nh. Rất không nên. Đừng t.m cách điều chỉnh nó. Chỉ quan

sát. Có lúc ta cảm giác như hơi thở ngưng lại. Đó chỉ là một cảm giác hư vọng, cứ b.nh thản

tiếp tục, một lát sau, sẽ thấy hơi thở r. ràng như trước.

Tiếp tục giữ tâm an tịnh th. dù ngồi trên xe đ., vẫn vào an lạc một cách dễ dàng mau

chóng. Đạt được sự tiến bộ này là vào đạo đ. khá. Nhưng phải quan sát những đối tượng của

giác quan. Để tâm an tịnh, ghi biết 6 trần, các đối tượng của thân tâm. Tất cả cái g. phát sanh

cũng ghi nhận, dù thích hay không thích. Khách quan mà ghi nhận không để yêu ghét ảnh

hưởng. Dần dần sẽ thấy những cảm giác này cũng như các hiện tượng chỉ là vô thường, vô

ng., khổ và không. Chỉ quan sát, không can thiệp vào một thứ nào. Đây là thiền minh sát đem

lại sự b.nh an tĩnh lặng.

Chẳng bao lâu tuệ giác vô thường vô ng. sẽ xuất hiện. Đây là bước đầu của trí tuệ thật

sự, cốt tủy của thiền, dẫn đến giải thoát.

Trong khi hành thiền, ta thấy ánh sáng, chư thiên, đức Phật v.v..., ngay khi ấy quay về

xem tâm m.nh. Chớ quên điểm căn bản này. Cứ chú tâm quan sát, không mong mỏi thấy g.

cũng không xua đuổi. Nếu theo đuổi những h.nh ảnh này, tâm sẽ mất an ổn. Chỉ nên nhớ đến

hơi thở, coi tất cả đều vô thường vô ng.. Dù những h.nh ảnh ấy có tới sát gần cũng mặc, cứ

chú tâm vào hơi thở. Hít vào thở ra 3 hơi thật dài, mọi h.nh ảnh sẽ hết. Mọi kinh nghiệm bất

thường đều đem lợi ích cho bậc trí nhưng là mối tai hại cho kẻ thiếu khôn ngoan. Tiếp tục

hành thiền cho tới khi không c.n những h.nh ảnh quấy nhiễu.

Nếu tâm muốn vui, chỉ cần . thức rằng vui này không vững bền. Không nên sợ những

h.nh ảnh từ tâm m.nh biến ra. Những tâm sở khác nào du khách đến rồi đi.

THIỀN HÀNH VÀ HÀNH THIỀN

Mỗi ngày đều phải kinh hành. Hai tay đan vào nhau để trước bụng. Bóp chặt một chút

cho dễ chú tâm. Bước b.nh thường, phải biết r. m.nh. Phóng tâm, h.y dừng lại một chút để

đưa tâm trở về. Vẫn phóng tâm, h.y chú . vào hơi thở. Luôn luôn chánh niệm.

Cơ thể mỏi mệt h.y thay đổi tư thế. Dầu hành thiền suốt đêm mà không giác tỉnh

những diễn biến của tâm th. cũng chẳng phải là tinh tấn. H.y nh.n xuống đất trước mặt

khoảng 2 mét, chú tâm vào những cảm giác của cơ thể hoặc niệm Phật. Đừng sợ h.i khi thấy

những hiện khởi của tâm. Đừng để những tư tưởng và cảm giác trói buộc. Nh.n vào toàn thể

tiến tr.nh sanh diệt.

Có như thế trí tuệ mới phát triển. Điều g. hiện khởi trong tâm phải kịp thời tỉnh giác.

Nếu không, phiền n.o sẽ xâm chiếm. Chỉ có chú tâm mới đốn ng. được nó. Do có kẻ trộm ta

mới lo giữ của. Do có phiền n.o ta mới chăm hành thiền.

Hành thiền là phải giác tỉnh trong mọi hoạt động chớ không phải t.m sự b.nh an tĩnh

lặng trong lúc ngồi.

Thực hành tốt đẹp là tự hỏi m.nh một cách thành thật : Tại sao ta sanh ra ? Hàng ngày

tự hỏi 3 lần như vậy.

Tham dự kết tập tam tạng phải là A-la-hán. Anan quyết định hành thiền suốt đêm để

đạt quả. Sự cố gắng chỉ đem lại mệt mỏi. Anan đành đi nghỉ. Nhưng khi đặt m.nh xuống, đầu

chưa chấm gối, Anan chứng A-la-hán. Như thế nghĩa là phải sạch hết những háo hức mong

cầu dù là . muốn đắc đạo, mới giải thoát được.

Việc thực hành quan trọng, h.y bắt tay vào. Đừng chần chừ do dự nữa, mau lên

đường. Không bao giờ bạn ân hận đâu !

  1. QUÁN BẤT TỊNH

Hạt giống đầu tiên là nghiệp dâm dục. Thọ tinh cha huyết mẹ làm thân. Ở trong tử

cung 9 tháng 10 ngày góp đủ máu tanh thành sáu căn. Nằm trong dạ con, chung quanh là mấy

thước ruột toàn phân thối. Sát cạnh là bọng đái khai nồng. Tất cả tắm toàn nước nhớp khắm.

Từ chỗ hạ tiện nhất mà ra. Thân khởi thủy như vậy. Mà chúng ta quên bẵng, cứ kiêu mạn, tự

thấy m.nh quan trọng.

Mở nút ve nước hoa, ai nấy thấy thơm. Mở nắp thùng phân, ai nấy vội vàng bịt mũi.

Thân chúng ta nếu là trầm hương th. sao 9 khiếu ngày nào cũng chảy ra toàn thứ không sạch :

2 mắt ra ghèn, 2 tai ra ráy, 2 lỗ mũi l.ng th.ng chất xanh, miệng khạc đờm trắng. Nào phân,

nào tiểu. Các lỗ chân lông hơi ra cũng hôi, nước ra cũng hôi, cáu ghét ra cũng hôi. Cả biển

nước rửa cũng không thể sạch. Bởi v. thân là cái máy chuyên sản xuất những vật nhơ. Sơn

hào hải vị, chọn những thứ sang qu., trái cây thật tươi thơm, cho vào miệng, cách một đêm,

biến thành những thứ nhơ bẩn ai cũng chán ghét. Cứ như thế trọn đời.

Cuối cùng khi tắt hơi thở, máu không được hấp dưỡng khí, chuyển thành màu đen, làn

da xanh xám, tím bầm. Hơi ấm hết, thần thức không hiện hành. Không có sức chấp tr. của

thần thức, các tế bào vỡ tung, nước không c.n bị ép, bật ra, toàn thân sưng phù. Chỉ c.n

phảng phất h.nh hài tướng mạo con người. Hai mắt sọp. Toàn thân nứt loét, bụng vỡ, ruột l.i,

gan nứt, phân tiểu ứ khắp. Xú khí bốc lên lừng trời lừng đất. Người ta sợ h.i. Con hiếu vội gói

ghém kỹ, bỏ vào h.m, đóng thật chặt, chôn sâu dưới 3 thước đất. Bởi v. độc khí này đem

bệnh hoạn cho những ai gặp phải.

D.i bọ lúc nhúc ăn hết thịt rồi tự tan đi, c.n lại bộ xương phủ bụi. Lâu ngày gân đứt,

xương long rụng, mủn tàn, trả về cho đất.

Như trên là thân phận chung của chúng ta. Già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, ai

cũng đi đến giai đoạn hoại diệt này. Chỉ có một mùi giống nhau là mùi thối, một chất giống

nhau là thịt nát. Vậy mà chúng ta thường quên, cứ tự cho m.nh là cao qu.. V. hy vọng sống

lâu nên mới tạo đủ các ác nghiệp để bồi dưỡng thân và bảo vệ danh giá. Đức Phật khuyên

chúng ta tập quan sát để thấy sự thật. Có trí tuệ sẽ tiêu 3 độc tham sân si. Hạnh phúc của con

người ở ngay chỗ giác tỉnh.

  1. KINH NIẾT-BÀN

PHẨM CA DIẾP BỒ-TÁT

THỌ ẤM là nhân sanh ra tất cả ái, tất cả hữu lậu thế gian, khiến chúng sanh trầm

ch.m trong ba c.i. Do có thọ, chúng sanh mới chấp thân này là ta, sáu trần là cảnh của ta.

Muốn xả thọ, cần quan sát thọ chẳng do tưởng sanh, chẳng do tánh sanh, chẳng tự sanh, chẳng

tha sanh, chỉ do các duyên h.a hợp mà có. Duyên chính lại là ái. V. ái thân ái cảnh mới có

thọ.

Vậy thọ g. làm nhân cho ái ? Ái g. làm nhân cho thọ ? — Thọ thân làm nhân cho ái, ái

thân làm nhân cho thọ. Thọ và ái làm nhân làm duyên lẫn nhau, khiến v.ng luân hồi xoay

chuyển không cùng tận. Muốn xả ái, dứt thọ, chỉ cần quán thân bất tịnh, pháp vô ng.. Hai

chấp ng. và ng. sở đ. tiêu th. Ái và Thọ sẽ tận diệt.

Theo v.ng 12 nhân duyên th. nhân xúc có thọ. Xúc có 3 :

1) Minh xúc, trí tuệ thấy r. thân cảnh hư vọng nên xả thọ.

2) Vô minh xúc, mê chấp ng. và pháp.

3) Minh vô minh xúc (thí dụ biết vị trần là huyễn nhưng vẫn thích ăn chè).

Hai xúc sau tăng trưởng thọ nên phải dứt. Thế gian nói khổ thọ, Phật gọi là khổ khổ.

Thế gian nói lạc thọ, Phật gọi là hoại khổ. Thế gian nói không khổ không vui, Phật gọi là

hành khổ. Bản chất của thọ là khổ. Thọ lại c.n là gốc của ba độc tham sân si, mở ra đủ thứ tội

ác. Tuệ Tứ Niệm Xứ là thuốc trị độc duy nhất. Chánh kiến thọ giới luật, tr. Phật pháp, gọi là

phạm hạnh thanh tịnh.

TƯỞNG ẤM. Chỉ v. lầm cho sắc là có thật, cho thọ là vui mới có tư tưởng tham đắm.

Vô minh là thể chất của tất cả ác tưởng (căn bản phiền n.o và tùy phiền n.o). Chánh

kiến Tứ Niệm Xứ thanh lọc tưởng ấm đưa về phạm hạnh thanh tịnh.

Quán vô thường, vô ng., khổ và không. Quán thân bất tịnh, món ăn đáng chán, là khéo

dùng tư tưởng hướng về Niết-bàn.

  1. Ngày 30-7

LỄ ĐỨC ĐỊA TẠNG

Nâng chén cơm cúng dường cha mẹ là một cử chỉ đẹp, khắp c.i người ngợi khen. Ai

cung kính phụng thờ cha mẹ sẽ sanh về c.i trời. Đức Thích Ca thành Phật về Ca Tỳ La độ cho

phụ vương. Rồi lên Đao Lợi thiên cung v. mẫu hậu nói kinh Địa Tạng. Phật tử nhớ ơn cha mẹ,

noi gương đức Bổn Sư, khuyên cha mẹ tụng kinh Địa Tạng. Nếu cha mẹ đ. quá v.ng th. v.

cha mẹ tụng kinh Địa Tạng.

ĐỊA : đất, là nơi phát sanh, nuôi dưỡng, gánh vác muôn loài. Trong kinh Phật bảo Văn

Thù : “Ông quan sát hết thảy chư Phật, Bồ-tát, Thanh-văn, các chúng trời, rồng, quỷ thần

trong hội này, có biết số lượng là bao nhiêu không ?”

— Bạch đức Thế Tôn, con tận dùng thần lực trong ngàn kiếp cũng không thể lường

tính được.

— Số lượng đó toàn do Bồ-tát Địa Tạng từ lâu xa tới nay đ. hóa độ, đương hóa độ. Đ.

tác thành, đương tác thành.

Đối với tầm hiểu biết của loài người th. đất tượng trưng sự bền bỉ suốt thời gian, sự

rộng lớn khắp không gian. Bồ-tát lấy chữ Địa làm tên để h.nh dung Pháp-thân ngài thường trụ

ở khắp mười phương. Từ nơi đây hằng sa tánh đức phát sanh. Từ nơi đây vô biên công hạnh

lợi sanh. Cũng từ nơi đây an lập muôn loài trong thánh đạo.

Nghe chữ Địa, chúng ta tưởng ngay đến sức an nhẫn vô vàn, để chịu đựng bao nhiêu

nghiệp chướng ương ngạnh đảo điên của muôn loài. Chúng ta tưởng ngay đến sức kiên lao

nhẫn nại, kiếp này sang kiếp khác, nâng giấc dắt d.u từng con sâu con kiến đi dần về quả Phật.

Thế cho nên ba đời Như Lai đồng tán ngưỡng, mười phương Bồ-tát cộng quy y. Thích

Ca Mâu Ni Phật thỉnh ngài cùng tất cả phân thân nhiều như hạt bụi lúa mè tre lau, về cung trời

Đao Lợi, để Ma Gia phu nhân chiêm ngưỡng đảnh lễ. Ma Gia phu nhân từ đỉnh dục lạc của

Ngọc hoàng Thượng đế, cần biết những thống khổ của lửa vô gián địa ngục để tự thức tỉnh.

Bởi v. bánh xe luân hồi đâu có nể ai. Đại hội này đ. thức tỉnh bất khả thuyết, bất khả thuyết

thiên tử.

Kinh dạy : Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu bụi, mỗi bụi tính là một sông

Hằng, mỗi hạt cát của những sông Hằng này tính là một kiếp. Đức Địa Tạng chứng quả Thập

Địa đến nay, đ. lâu xa gấp bội ngàn lần. Trải thời gian không thể nghĩ bàn ấy, cứ một thân

hóa làm vạn ức thân, mỗi thân độ vạn ức người. Kinh nói : Ai nghe tên đức Địa Tạng, một lần

khen ngợi cúng dường, cũng được 100 lần sanh ở c.i trời an vui, không đọa ác đạo nữa.

Như báu kim cang trong biển cả, có oai lực sanh ra các báu, không tăng, không giảm,

không cùng tận, công đức của Bồ-tát cũng vậy.

TẠNG : Cái kho như kho vàng, kho lúa v.v... Tâm chúng ta gọi là tạng thức v. nó chứa

đủ thứ hạt giống thiện ác, nảy nở thành chánh báo y báo, 4 thánh 6 phàm. Tâm thức chúng ta

c.n có tên là Như Lai Tạng, v. tánh thể của kho là giác. Mai đây tu hành chuyển tất cả hạt

giống trở về tánh Phật, tức là hoàn toàn thành Phật. Cái kho này rộng khắp mười phương,

thường trụ suốt ba đời. Thái hư không kia ở trong tâm ta chỉ nhỏ như điểm mây chợt hợp chợt

tan trong bầu trời, như mảnh phù âu chợt c.n chợt mất trên biển cả. Huống chi các tinh tú

nhiều như vi trần lửng lơ trong hư không. Tâm chúng ta bát ngát mênh mông không bờ bến.

Đức Địa Tạng đ. chứng được tâm này, sống với tâm này nên phát nguyện giác tỉnh

cho tất cả chúng sanh đồng nhận được tâm m.nh. Bởi v. ngài thấy r. tâm Phật và tâm chúng

sanh đồng thể, không chút sai khác, nên quả quyết không để một chúng sanh nào ở lại đường

mê.

Chân tánh hằng sa công đức nhưng chúng ta chẳng biết g. th. coi như của c.n giấu kín

trong kho. Đức Địa Tạng đ. biết dùng nên ta người tiêu xài không tận, bởi v. kho vô tận nên

báu lấy ra cũng vô tận.

Kinh dạy : Đời vị lai ai nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát mà chắp tay cung kính tán

thán, sẽ thoát 30 kiếp tội khổ. Lại dạy : Tôi tớ nghèo hèn, biết đây là tội báo nghiệp xưa,

mong cầu sám hối. Nếu chí tâm chiêm bái h.nh tượng Địa Tạng Bồ-tát, 7 ngày chuyên niệm

đủ 10.000 danh hiệu Bồ-tát, th. ngàn vạn đời về sau, hằng sanh nhà tôn qu., không đọa ba

đường ác.

Chúng ta thờ đức Địa Tạng, tay phải cầm gậy tích trượng, thân mặc cà sa, hiện tướng

Tỳ-kheo. V. chúng sanh đọa lạc chỉ do sát đạo dâm vọng, cảm các khổ quả trong luân hồi.

Ngoài thuyền giới luật, lấy g. cứu vớt ?

Tay trái ngài cầm hạt minh châu tiêu hắc ám, phá vô minh. Địa ngục, ng. quỷ, bàng

sanh, tam tai tám nạn cho đến v.ng luân hồi từ vô thủy, dưới ánh sáng trí tuệ, chỉ là hoa đốm

trong hư không.

Đầu đội mũ thất Phật (Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn

Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Văn Phật). Bảy đức Thế Tôn đại

diện cho mười phương ba đời chư Phật. Tất cả tri kiến và hành sự của Địa Tạng Bồ-tát không

rời pháp tam quy. Từ nguồn Tam-bảo chảy ra tất cả bổn nguyện bổn hạnh.

Bổn hạnh của ngài th. hằng hà sa nhưng đặc biệt người ta xưng tán 2 đức HIẾU và

NHÂN. Tiền thân ngài là một nữ Bà-la-môn, đ. v. mẹ niệm danh hiệu đức Giác Hoa Định Tự

Tại Vương Phật, một ngày một đêm nhất tâm không loạn. Do đây bà mẹ thoát địa ngục được

sanh lên trời.

Lại một kiếp khác, ngài cũng làm nữ nhân, cũng v. mẹ niệm danh hiệu Thanh Tịnh

Liên Hoa Mục Như Lai. Bà mẹ thoát địa ngục, được thân người nhưng phải làm con kẻ nô tỳ

mà yểu thọ. Nữ nhân lại v. mẹ phát nguyện : Từ nay đời đời kiếp kiếp cứu vớt chúng sanh

trong mười phương. Địa ngục ng. quỷ bàng sanh, những tội nhân này thành Phật cả rồi con

mới thành Phật. Nhờ nguyện lực này bà mẹ được sanh về c.i Vô Ưu, hiện nay là Bồ-tát Giải

Thoát.

Phật dạy này Tứ Thiên Vương ! Bồ-tát Địa Tạng gặp kẻ sát sanh, dạy quả báo chết

non. Gặp kẻ trộm cướp, dạy quả báo nghèo cùng khổ sở. Gặp kẻ hay gièm chê, dạy quả báo

lưỡi rụt miệng lở. Gặp kẻ sân giận, dạy quả báo thân h.nh xấu xa tàn tật. Như vậy Bồ-tát Địa

Tạng ở c.i Nam Diêm-phù-đề, vận dụng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa chúng

sanh.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Quán Thế Âm : Trời người mệnh chung chiêm ngưỡng lễ bái

h.nh tượng, nghe danh hiệu đức Địa Tạng, sẽ được chuyển tăng phước báo về c.i trời, không

đọa ba đường ác. Nếu lại hương hoa cúng dường th. phước lợi vô biên. Sáu đạo chúng sanh

được nghe danh hiệu đức Địa Tạng lọt vào tai lúc sắp chết, sẽ thoát ba đường ác. Người bệnh

nặng hoặc mắt thấy, tai nghe, . biết thân quyến v. m.nh tô vẽ h.nh tượng Bồ-tát Địa Tạng th.

tội chướng tiêu trừ. Hoặc được sanh thiên, hoặc được khỏi bệnh. Những ai từ tâm rộng lớn

muốn thoát ba c.i, muốn cứu độ chúng sanh, nếu lễ bái thánh tượng, chuyên niệm hồng danh,

sẽ sớm m.n nguyện, không bị chướng ngại. Những ai phát tâm cầu học kinh điển đại thừa nên

nghiêm tr. trai giới. Đặt một chén nước sạch trước tượng Bồ-tát một ngày một đêm, hướng về

phương Nam trân trọng uống. Như thế 7 ngày hoặc 21 ngày sẽ được thông minh sáng suốt,

hiểu nghĩa nhớ lâu. Ai có những sợ h.i, ai có những mong cầu, cứ lễ bái h.nh tượng, tụng bổn

nguyện kinh, niệm danh hiệu ngài, sẽ được như ..

Công đức hồi hướng cho pháp giới, quyết siêu sanh tử, sẽ thành Phật đạo.

Khi ấy Thế Tôn đưa cánh tay vàng xoa đỉnh đầu Bồ-tát Địa Tạng : Này Địa Tạng ! Địa

Tạng ! H.y nhớ hôm nay, tại cung trời Đao Lợi, Như Lai đem tất cả chúng sanh phó chúc cho

ông, ông h.y giúp họ dần dần chứng đạo Vô-thượng.

Bồ-tát Địa Tạng chắp tay quỳ bạch : Cúi xin Thế Tôn chớ lo ! Cúi xin Thế Tôn chớ

lo ! Chúng sanh nào đối với Phật Pháp có được một niệm cung kính, con sẽ tận t.nh hóa độ

cho ra khỏi v.ng sanh tử, rốt ráo không thoái lui đạo Vô-thượng Bồ-đề.

Xưng dương pháp hội Bồ-tát Địa Tạng :

Đao Lợi, Thế Tôn nói pháp mầu,

Địa Tạng công hạnh rất rộng sâu.

Thánh giáo m.i truyền lưu hậu thế,

Khắp độ nhân thiên thoát khổ đau.

Từ bi quảng đại diệu khôn lường,

Cứu khổ đường mê, Địa Tạng Vương.

Tích trượng rung vang khai địa ngục,

Minh châu soi sáng hết đau thương.

Hiện thân cứu tế u minh giới,

Pháp lực giương buồm Bát Nh. thuyền,

Tiếp dẫn quần sanh lên bờ giác,

Đường đường khắp phóng ngọc hào quang.

Địa ngục chưa không thề chẳng thành Phật

Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ-đề.

Nam mô đại bi đại nguyện đại hạnh đại từ bản tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát.

  1. Ngày 6-8

GIỖ TỔ HUỆ VIỄN

Huệ Viễn đại sư họ Cổ người Nhạn Môn, bẩm tánh hiếu học, đ. thông Nho điển lại

giỏi L.o Trang. Nghe Đạo An pháp sư thuyết pháp, ngài khen : “Nào ngờ Phật thừa thâm

diệu”, liền xuất gia. Đạo An pháp sư thấy ngài chuyên cần, huyền k. rằng : “Phật pháp sẽ

được lưu hành ở phương Đông do Huệ Viễn”.

Thấy cảnh Lô Sơn rộng r.i tĩnh mịch, phải nơi hành đạo, ngài bèn lập tịnh xá Long

Tuyền. Được ít lâu, học chúng theo ngài quá đông. Sơn thần báo mộng xin cúng cây gỗ. Sau

một đêm mưa to gió b.o, cây lớn trong rừng ng. xuống ngổn ngang. Quan Thứ Sử phát tâm

dựng t.ng lâm cho ngài, để hiệu là “Đông Lâm Thần Vận Tự”.

Tại Quảng Châu, những người đánh cá thấy trên mặt biển lấp lánh ánh sáng, bèn t.m

đến xem và vớt được một pho tượng đức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát rất đẹp, liền đem tr.nh quan

Thái Thú. Tôn tượng được cung nghinh về chùa Đông Lâm, tôn trí ở nơi trang nghiêm riêng

biệt, gọi là Bát Nh. Đài.

Núi Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, đ. làm nguy hại đến tánh mạng dân cư trong vùng.

Từ ngày cất chùa Đông Lâm, rắn dữ trở nên hiền lành, thường tới chùa nghe kinh.

Đời Đông Tấn, quan phụ chính Hoàn Huyền gởi cho đại sư 2 văn kiện, yêu cầu thanh

lọc hàng ngũ xuất gia và giải tán đạo tràng, lấy l. do là đạo Phật hoang đường thiếu thiết thực,

không lợi ích cho quốc gia. Trong thời gian ấy, Tăng chúng nước Tàu bị bắt buộc hoàn tục rất

nhiều. Đại sư phúc đáp bằng lời lẽ vững mạnh đích đáng, khiến cho riêng tỉnh Giang Tây, núi

Lô Sơn, chẳng những sắc lệnh không thi hành được mà c.n là nơi trung tâm Phật hóa tại miền

Nam.

Mấy năm sau, vua An Đế xa giá đến tỉnh Giang Tây. Quan đầu tỉnh đến tận chùa, yêu

cầu ngài xuống núi, nghênh tiếp vua. Đại sư lấy cớ đau yếu khước từ. Hoàn Huyền lại gởi văn

thơ bắt buộc. Đại sư soạn văn : “Samôn Bất Kính Vương Giả Luận” gần 5 quyển để phúc đáp.

Triều đ.nh từ đấy nể trọng.

Nơi chốn đ. yên, ngài đốc thúc đại chúng hành đạo, đào ao trồng sen. Trên mặt nước

thả một bông gỗ 12 cánh, dùng định giờ để hành đạo, gọi là liên lậu.

Dần dần những nhà đại trí thức mộ đạo, như Giác Hiền, Phật Đà Gia Xá, Lưu Di Dân,

Vương Kiều Chi v.v... đến xin nhập chúng. Tụ tập được 123 người, thành lập Liên x.. Ông

Lưu Di Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào bia đá. Toàn hội tinh tấn hành đạo ngày đêm 6

thời, lần lượt đều chứng tam muội, đều được v.ng sanh, lâm chung đều có thoại ứng.

Ngài từng nói : “Các môn tam muội rất nhiều, nhưng dễ được mà công cao, duy có niệm

Phật”.

Kinh luật lưu hành ở Lô Sơn đến gần trăm thứ. Ngài trứ tác bộ “Pháp Tánh Luận”,

pháp sư Cưu Ma La Thập được xem, khen rằng : “Ông Viễn ở biên phương, chưa học Đại

Niết Bàn kinh, mà lời luận lại hợp l.”.

Ngài trụ Lô Sơn hơn 30 năm, trọn không bước chân xuống núi. Ngày đêm chuyên tâm

Tịnh-độ, lặng l.ng quán tưởng, khước từ tất cả những liên lạc thế gian, nguyện giải quyết vấn

đề sanh tử.

Một hôm có 2 danh nhân. Một nho sĩ, một đạo gia, t.m đến yết kiến. Luận bàn khế

hợp, đưa khách ra về, đại sư bất giác bước chân xuống cầu. Chợt nghe hổ rống, 3 người bừng

tỉnh, nh.n nhau cả cười rồi chia tay. Người sau đặt tên d.ng suối ấy là Hổ Khê. Trong Tây

Phương Bách Vịnh, Nhất Nguyên đại sư có thơ rằng :

Tây phương cổ giáo Thế Tôn tuyên,

Đông độ khai tông, hiệu Bạch Liên.

Mười tám đại hiền làm thượng thủ,

“Hổ Khê tam tiếu” tới nay truyền.

Năm Nghĩa Hy thứ 12, đêm 30-7 ngài nhập định nơi Bát Nh. Đài. Vừa mở mắt xuất

định, thấy Phật A Di Đà giữa hư không. Trong viên quang có vô số hóa Phật. Quán Thế Âm

Bồ-tát hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ-tát hầu bên hữu. Phật và Bồ-tát đều ngự trên t.a sen báu

sáng đẹp, 14 tia sáng quanh lộn lên xuống như v.i nước, vang diễn những pháp khổ, không,

vô thường, vô ng. và các môn ba la mật.

Đức Phật bảo ngài rằng : “V. bổn nguyện lực ta đến an ủi ông, 7 ngày nữa ông sẽ sanh

về nước ta”.

Ngài lại thấy những hội hữu trong Liên x. đ. tịch trước, như Phật Đà Gia Xá, Huệ Tr.,

Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v… bước đến chắp tay chào : “Đại sư sớm phát tâm về Tịnh-độ, sao

c.n muộn đến ngày nay ?”

Hôm sau ngài thuật lại với các đệ tử : Pháp Tịnh, Huệ Bửu v.v... và bảo rằng : “Ta đ.

3 lần thấy Phật và Thánh chúng hiện thân. Nay lại được Phật thọ k. sanh Tịnh-độ”. Rồi ngài

soạn quy chế để lại cho đại chúng. Ngày 6-8, ngài cáo biệt mọi người, đoan tọa viên tịch, thọ

83 tuổi.

  1. Ngày 7-8

GIỖ TỔ ƯU BA LY

Trong đầm g. đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Nam mô Ưu Ba Ly tôn giả, Luật tông đệ nhất Tổ sư.

Xem trong các sách chúng ta thấy có 3 Tỳ-kheo Ưu Ba Ly.

1

Đức Thế Tôn du hóa. Một người gánh phân thuộc d.ng hạ cấp tên Ưu Ba Ly, chợt gặp ngài,

định bỏ chạy. Ngài nắm tay giữ lại, người kia sợ h.i kêu lên : “Con vốn d.ng hạ tiện, xin đức

Thế Tôn chớ lại gần con mà bị ô nhiễm, xin tha lỗi cho con. Ngài là d.ng qu. phái, chúng con

đâu được phép gần”. Đức Phật dạy : “Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi, nông dân hay công nhân đều

từ sản đạo mà ra. Đâu có ai từ miệng Phạm Thiên ra đâu ? Thân nào cũng gồm có 4 chất đất,

nước, gió, lửa, đâu có ai khác. Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi mà thân miệng . ác th. hiện đời là ô

nhiễm, pháp luật không dung, mạng chung đọa về đường khổ. Dù nông dân hay công nhân mà

thân miệng . thiện lành th. hiện đời là thanh tịnh, mọi người qu. mến, mạng chung đều về c.i

trời. Ngươi có chịu vào đạo ta không ? Cả 4 giai cấp đều đ. có người vào trong đạo ta. Đạo ta

không phân chia giai cấp, chỉ có một vị là vị giải thoát. Như 100 sông một khi đ. chảy vào

biển th. h.a đồng thành một vị mặn gọi là nước biển”. Người kia vui mừng sụp lạy xin xuất

gia.

2

Có 8 vương tử rủ nhau đi xuất gia, cởi bỏ đồ trang sức cho anh thợ cạo tên Ưu Ba Ly. Trên

đường về, anh ta suy nghĩ : “Các vương tử đầy đủ hạnh phúc thế gian mà buông xả hết để

xuất gia. Vậy xuất gia hẳn phải cao qu. lắm. Tại sao ta không mong cầu ? Những thứ này họ

xả bỏ, tại sao ta thu nhận ?” Anh liền treo tất cả lên một cành cây. Rồi ba chân bốn cẳng vội

chạy theo 8 vương tử, xin cũng được xuất gia. Tám vương tử bảo nhau : “Chúng ta vốn d.ng

Sát-đế-lợi, Ưu Ba Ly là kẻ công nhân. Thói quen phân biệt giai cấp khó trừ, bệnh kiêu mạn đ.

sẵn ở trong d.ng máu. Nay chúng ta nên nhường cho Ưu Ba Ly xuất gia trước, chúng ta thọ

giới sau. Như vậy bắt buộc chúng ta phải đảnh lễ Ưu Ba Ly là thượng t.a, do đây chúng ta dễ

dàng khiêm tốn”. Cả Ưu Ba Ly và 8 vương tử đều chứng quả A-la-hán.

3

KINH LĂNG NGHIÊM : Ưu Ba Ly đảnh lễ chân Phật bạch rằng : “Chính con theo Phật vượt

thành xuất gia, chứng kiến đức Phật 6 năm khổ hạnh, hàng phục tà ma, đối trị ngoại đạo, giải

thoát các lậu thế gian, con giữ giới 3 ngàn oai nghi 8 vạn tế hạnh, tánh nghiệp giá nghiệp thảy

đều thanh tịnh. Thân tâm tịch diệt thành A-la-hán. Giữ giới tu thân con là cương kỷ đệ nhất

trong chúng. Phật hỏi viên thông, con do giữ thân, thân được tự tại. Con lại giữ tâm, tâm được

thông suốt. Thân tâm thông lợi đó là hơn cả”.

* * *

Ba câu chuyện trên nói về 3 ngài Ưu Ba Ly khác nhau. Chỉ có ở kinh Lăng Nghiêm,

đích thân ngài Ưu Ba Ly tự kể lại tiểu sử của m.nh, chúng ta tin được đây thật là đệ nhất Tổ

sư về Luật tông của trái đất này.

  1. Ngày 8-8

GIỖ TỔ ANAN

Anan là tiếng Ấn Độ, Tàu dịch là Khánh Hỷ. Sanh sau Phật 30 năm, nhằm đêm Phật

thành đạo. Ngài là con vua Hộc Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, em ruột Đề Bà Đạt Đa, em con

chú của đức Thích Ca. Tướng hảo tươi đẹp, thông minh tuyệt vời, 25 tuổi xuất gia. Đại chúng

cử ngài làm thị giả Phật. Ngài nhận lời với 3 điều kiện :

1) Không theo Phật đi thọ trai riêng nếu thí chủ không mời ngài.

2) Không mặc y thừa của Phật.

3) Không đến Phật phi thời.

Phật khen Anan khôn ngoan, biết tránh trước những cơ hiềm.

Anan c.n được Phật khen ngợi một điều đặc biệt : Cả 4 chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,

Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, ai được thấy h.nh bóng Anan cũng vui mừng, ai được chiêm ngưỡng

nghi dung càng vui mừng, ai được nghe Anan thuyết pháp lại càng vui mừng hơn.

Thuở ấy đức Thế Tôn ở nước Thích Xí Xấu, Ma-ha Ba Xà Ba Đề cùng 500 nữ xá-di

xin Phật xuất gia. Phật không chấp thuận. Ngài Anan bạch : Nữ nhân xuất gia có thể chứng

quả. Xin đức Thế Tôn mở cửa giải thoát cho họ. Do đây toàn thể Ni chúng được thành lập.

Truyền m.i cho tới ngày nay, khắp châu Á, đ. 3000 năm, Ni giới vẫn mát mẻ như

vầng trăng sáng. Trong khi đại Tăng giáo hóa khắp 5 châu như mặt trời chói chan nuôi dưỡng

muôn loài.

Phật Niết-bàn rồi, đại chúng cử ngài Anan lên pháp t.a, trùng tuyên lại những kinh

Phật đ. nói. Cả đại chúng đều sa nước mắt v. nghe ngài trùng tuyên không khác Phật một lời.

Ai nấy ngậm ngùi v. chư Tăng vắng Phật như v.m trời toàn sao mà không trăng.

Một hôm ngài hỏi Tổ Ca Diếp : Đức Phật trao y bát, ngoài ra c.n có pháp g. truyền

riêng cho Sư huynh không ? Tổ Ca Diếp liền gọi : Anan ! Ngài ứng đáp : Dạ ! — Cây cột

phướn trước chùa bị ng..

Anan đại ngộ. Tổ Ca Diếp đọc kệ trao chánh pháp nh.n tạng cho ngài :

Pháp pháp bổn lai pháp.

Vô pháp, vô phi pháp.

Hà ư nhất pháp trung,

Hữu pháp, hữu phi pháp.

Dịch . :

Vạn pháp xưa nay vẫn từ chân tâm hiển hiện. Không có chi là thật pháp, cũng không

có chi là phi pháp.

Về sau Thương Na H.a Tu thâm ngộ diệu tâm, kế thừa ngài làm Tổ thứ 3. Ngài trao

bài kệ :

Bổn lai truyền hữu pháp,

Truyền liễu, ngôn vô pháp.

Các pháp tu tự ngộ.

Ngộ liễu, vô vô pháp.

Dịch . :

Xưa nay vẫn có truyền pháp, truyền rồi lại nói không có pháp. Ai nấy cần tự ngộ chân

tâm. Ngộ rồi, không phải là không có pháp.

Tổ Anan kết già thị tịch ở trên một chiếc thuyền lơ lửng giữa sông Hằng. Bờ bên này

vua A Xà Thế, bờ bên kia vua Tỳ Xá Ly, 2 vua đảnh lễ thỉnh ngài lưu lại thế gian không

được, cùng nhau tổ chức lễ trà tỳ, phân chia xá lợi, xây tháp cúng dường.

  1. BÁNH TRUNG THU

H.a-thượng BỬU LAI đ.i Tu viện Hương Nghiêm rằm tháng 8 năm Đinh M.o (1987)

Phật pháp mênh mông như biển cả, chúng sanh tùy phận lượng mà hưởng thọ. Con voi, con

muỗi cùng uống nước sông, tuy số lượng thâu nhập có nhiều ít khác nhau, nhưng sự đ. khát

  1. đồng đều thỏa m.n. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Phật, tâm, chúng sanh tam vô sai biệt”.

Chúng sanh tạo nghiệp chịu báo, khiến các trí tuệ đức tướng vốn sẵn có bị che lấp.

Vầng trăng tuy bị mây che, bản thể vẫn trong sáng. Cho nên Như Lai tận t.nh cứu vớt, tùy

theo căn cơ đặt ra. Nào Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm... đủ thứ pháp môn.

Chung quy không ngoài cái . đưa chúng sanh ra khỏi nhà lửa sanh tử để trở về tâm thể bổn

lai”.

Thuyết thiện ác báo ứng, nhân quả luân hồi, phổ thông giáo hóa gây thành thuần

phong mỹ tục cho các quốc gia.

Hiện nay ở Việt Nam, Phật giáo đang lưu hành 5 tông môn lớn :

1- Giáo tông chuyên giảng kinh thuyết pháp, hoằng dương Phật đạo.

2- Luật tông nghiêm chế ba nghiệp, thanh tịnh thân tâm.

3- Thiền tông chỉ thẳng nhân tâm, thấy tánh thành Phật.

4- Mật tông tr. chú Tổng Tr..

5- Tịnh-độ tông nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc, tựa hồ là một tông phái riêng

biệt, nhưng thật có bao gồm cả các tông trên.

Theo l., pháp-thân A Di Đà là bản thể của tất cả pháp. Không một pháp nào, sự vật

nào ngoài cái thể tánh A Di Đà. Vậy Giáo tông giảng thuyết bao nhiêu cũng chỉ là giải nghĩa 4

chữ A Di Đà Phật. Nhất tâm niệm Phật, huân tập chủng tử Bồ-đề, chuyển vọng thành chân,

tức là hợp với pháp tướng tông chuyển thức thành trí. Thật tướng niệm Phật, ly khai tâm .

văn tự, trực nhận chân tâm, tức là hợp với thiền quán. Tâm tịnh th. độ tịnh. Đ. gọi là Tịnh-độ

tông chẳng thể rời bỏ giới luật. Niệm Phật cho nhất tâm th. 4 chữ A Di Đà Phật chính là thần

chú tổng tr. của Mật tông.

Ai cũng biết tất cả các pháp môn đều đưa đến một mục đích thành Phật. Nhưng các

pháp môn khác đều nương tự lực như người đi bộ. C.n pháp môn Tịnh-độ nương nhờ tha lực

như có tàu xe, phí ít sức mà hiệu lực nhiều, dễ thành công lại mau chóng. Phật A Di Đà như

ông tài xế lái xe. Chẳng những có thế lực giúp chúng ta đới nghiệp v.ng sanh (như kẻ què vẫn

tới được) c.n bảo đảm an ổn ngoại ma không khuấy nhiễu (như thoát giặc cướp trên đường

hiểm).

Chỉ có một điều là cần miên mật công phu, đi đứng nằm ngồi chớ quên niệm Phật. Lơ

là th. chỉ được chút tịnh nhân chớ quyết nhiên không thể v.ng sanh. Chúng ta đừng sợ Phật

không đến rước, chỉ lo rằng : “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn. Tay lần tràng hạt dạ đâu đâu”.

Như vậy không phải niệm Phật mà niệm ma, đ. vời ma th. ma đến. Người niệm Phật

phải tin chắc đức Thích Ca không nói dối, Phật Di Đà không nguyện suông, c.i Cực Lạc có

thật, cảnh trang nghiêm chính đ. từ công đức mà thành.

C.i Ta Bà thật khổ nay nguyện thoát ly. C.i An Lạc toàn vui nay nguyện sớm về. Tín

nguyện này cần rắn chắc như kim cang, vững ch.i như núi thái sơn. Vội vàng niệm Phật, thiết

tha niệm Phật như cứu lửa cháy trên đầu, như người bơi thuyền lánh nạn. Không thể dùng

dằng tr. ho.n, há c.n có th. giờ ngao du ngắm cảnh.

Con heo thích ngủ ham ăn,

Muôn đời nối tiếp bán thân làm hàng.

Con người thích ngủ ham ăn,

Muôn đời nối tiếp trôi lăn luân hồi.

Vậy xin đại chúng mạnh dạn thực hành đi. Hễ c.i Ta Bà đủ tín nguyện hạnh thời bên

trời Tây hoa sen nẩy mầm tươi tốt. Thánh thai thơm ngát trong nước bát công đức sáng ngời.

Sắc thanh hương vị xúc siêu phàm, chính từ mỗi niệm mỗi niệm ta giác tỉnh thanh tịnh.

Ấn Quang đại sư dạy rằng : “Chín c.i chúng sanh rời pháp môn này, chẳng thể viên

thành Phật quả. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này, không thể khắp độ quần sanh”.

— Tay lần 108 hạt,

Diệt tội đẳng hà sa,

Xa l.a ba đường khổ,

Rực rỡ sen nở hoa.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

— Sông ái ngàn thước sóng,

Biển khổ vạn trùng ba.

Muốn thoát luân hồi ngục

Sớm gấp niệm Di Đà.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

— Di Đà tướng tốt lạ lùng,

Hào quang soi sáng khắp cùng mười phương,

Từ bi oai đức không lường,

Sẵn sàng tế độ sáu đường chúng sanh.

Được thấy tướng, được nghe danh

Là nhờ kiếp trước căn lành trồng sâu.

Thế Tôn đủ phép nhiệm mầu

Chúng con muôn loại cúi đầu quy y.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

  1. Ngày 15 - 8 – 1981

TRĂNG LĂNG NGHIÊM

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô cùng toàn thể đại chúng.

Đêm nay trời vừa tạnh, trăng rằm tr.n sáng. Tết trung thu khai mạc. Tụng kinh Dược

Sư, mâm cỗ đủ 49 ngọn đèn rực rỡ. Chưa kể bao nhiêu ánh sáng từ trên bàn thờ tỏa xuống. Cỗ

trung thu Liên Hoa năm nay thật to. Nên toàn chúng đ. đồng l.ng t.nh nguyện đem tất cả tới

bệnh viện Thị Nghè chia cho cả ngàn người già trẻ lớn bé. Mỗi người một miếng bánh đ.

được tr. chú Dược Sư. Kết duyên với 12 đại nguyện, mai sau có phần trong đạo quả Bồ-đề.

Chúng con khôn xiết cảm động, không biết bao đời đ. gieo trồng thiện căn, nay được

dự hàng Tăng chúng, thừa hưởng nền giáo l. tối thượng, đích thân học tập công hạnh Bồ-tát

tự lợi, lợi tha. V. toàn chúng không được ăn cỗ nên Thầy chỉ dạy : Mỗi người phải góp một đề

mục để cống hiến đại chúng vào ngày mừng trăng sáng. Con Tỳ-kheo-ni Huệ Nghiêm có bổn

phận phải nói về mặt trăng Lăng Nghiêm.

Mặt trăng thật năm nay chiếu, năm ngoái chiếu, sang năm chiếu. Từ hồi có trái đất,

đến khi trái đất tan r., mặt trăng vẫn luôn thường chiếu. Sáng trăng phá đêm tối, dịu sức nóng,

đem mát mẻ. Chân tâm thanh tịnh của chúng ta viên m.n thường trụ khắp pháp giới. Mê tâm

là sanh tử, ngộ tâm là Niết-bàn. Phật và chúng sanh thể đồng, chỉ do tỉnh mê mà thành khác.

Biết được tâm này, đốn đoạn mê căn từ lịch kiếp. Huệ Năng ngộ được tâm này, liền ở

núi Hoàng Mai khai đạo “bản lai vô nhất vật”, l.nh y bát, làm Tổ thứ 6. Ngộ được chân tâm,

hằng sa tánh đức hiện tiền. Nên gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

Mặt trăng thứ 2 như người đè mí mắt nh.n lên mặt trăng, thấy bên cạnh có bóng lóe.

Mặt trăng của người này gọi là mặt trăng thứ 2. Mặt trăng này chính là mặt trăng thật, chỉ v.

mí mắt bị đè nên thấy lóe thêm một v.ng sáng.

Thức tinh nguyên minh tuy chưa phải là chân tâm, v. c.n đeo vọng kiến, nhưng thật

không l.a chân tâm, vốn vẫn tịch thường viên thông. Chính là nguồn sống hằng ngày chúng ta

không thể rời, nó lưu lộ ở sáu căn. Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, tuy 6 công dụng khác

nhau nhưng đồng một thể tinh minh. Như trong nhà có đèn, ánh sáng tỏa ra khắp các cửa. Cửa

có nhiều loại vuông, tr.n, rộng, hẹp, cao, thấp. Ánh sáng tỏa ra thành 6 h.nh sai khác nhưng ở

trong nhà chỉ có một đèn. Đêm tối ở xa muốn cầu đèn, cần nương một ánh sáng mà vào. Cũng

thế, muốn trở về bản giác thường trụ diệu minh, nên y theo tánh thấy hoặc tánh nghe, một

trong 6 căn, mà bội trần hợp giác. Trải bao kiếp sanh tử, tánh thấy tánh nghe không hề thay

đổi. V. là chân tâm nên vẫn thường trụ bất động.

Chúng sanh lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, niệm niệm sanh diệt, quên bỏ chân

tâm, điên đảo tạo nghiệp, oan uổng lưu chuyển, thật là đáng thương. Nhưng dù đọa lạc ba

đường hay thành thánh quả, tánh thấy tánh nghe vẫn không biến đổi.

Kinh Lăng Nghiêm dạy đó là Như Lai mật nhân, đích chỉ thức tinh nguyên minh là căn bản

Bồ-đề.

Trăng đáy nước : Người ngu thấy dưới l.ng nước có trăng, lao đầu xuống m. kiếm.

Nhọc sức luống uổng mà c.n phải chịu cái khổ chết ch.m. Chúng sanh từ lịch kiếp lầm nhận

vọng tưởng phân biệt duyên theo 6 trần làm tâm. Suốt đời vất vả mưu cầu hạnh phúc h.o

huyền, kết cuộc chẳng nắm bắt được g.. Tâm phan duyên nuôi ba độc tham sân si, đưa đến

sát, đạo, dâm, vọng để trầm nịch luân hồi, không biết đến bao giờ mới ngóc đầu ra.

* * *

Muốn thưởng thức ánh trăng diệu tịnh minh tâm, Phật tử h.y nghe lời kinh dạy : Các

ông đem duyên tâm nghe pháp th. chỉ được pháp duyên chớ chẳng được pháp tánh. Như

người lấy tay chỉ mặt trăng. Ta nên nhân ngón tay mà nh.n mặt trăng. Nếu cứ khư khư ngó

ngón tay, cho ngón tay là mặt trăng, th. đâu chỉ mất mặt trăng, người ấy mất luôn ngón tay,

mất cả sáng và tối.

Tụng kinh không lo vào tri kiến Phật, sống với bổn diệu minh tâm. Cứ tự cho tụng

niệm là bổn phận, th. chẳng những không minh tâm kiến tánh mà c.n không biết kinh là g.,

đến nỗi mất phần trí tuệ, lại c.n không tự biết chỗ ngu tối của m.nh.

Muốn vào tri kiến Phật, trước hết phải xa l.a tri kiến chúng sanh. Cần bỏ tay ấn mắt, để

thấy mặt trăng thật. Việc đầu tiên là phát tâm Bồ-đề. Chớ tham luyến trần duyên. Trăng đáy

nước là một bóng ảnh giả, chỉ có tướng sáng mà không có lực dụng chiếu soi phá tối. Vọng

tâm do nhân duyên sanh. Nhân là nghiệp. Duyên là 6 trần. Như người có nghiệp tham, thấy

tiền liền khởi tâm ăn cắp. Người ngu si sống với vọng tâm, không giác tỉnh 6 căn huyễn hóa,

6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm, khởi tưởng chấp ta chấp cảnh, rông rỡ sát, đạo, dâm, vọng. Khổ

báo chướng nạn chẳng thể trở về chân tâm bản tánh, pháp-thân thường trụ.

Phải ngửa lên nh.n trăng thật, nghĩa là vận sức trí tuệ quay về sống với bổn giác, khi

ấy sẽ thấy 5 ấm hư vọng vốn là Như Lai Tạng.

Trong đêm dài sanh tử, muôn loài ch.m đắm. Muốn trở về nhà phải nương mặt trăng

thứ 2, tức là thức tinh nguyên minh, làm nhân địa tu hành để vong trần hợp giác. Dĩ nhiên

phản văn cũng như tất cả các pháp môn khác, trước hết cần nghiêm tr. giới luật, thâu nhiếp 6

căn.

Kinh chép : Ngài Xá Lợi Phất than rằng : “Thương thay ! Những kẻ m. trăng đáy

nước đến nỗi chết ch.m”. Phật đáp : “Đúng thế ! Thật đáng thương xót ! Nhưng đáng thương

hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.

Thế gian t.m hạnh phúc nơi căn trần huyễn ảo, mở ra sáu đạo luân hồi, ba đường đau

khổ, quả t.nh đáng thương. Nhưng nhị thừa đắm chấp Niết-bàn thiên không, đâu biết đến cái

vui phước tuệ trang nghiêm Vô-thượng Bồ-đề. Trong các kinh thường có sự so sánh : A-lahán

nhiều như lúa, mè, tre, lau không bằng công đức một người phát tâm quy nguyên.

Trước khi dứt lời, v. không quên vô số sinh linh đang quằn quại trong v.ng hoặc

nghiệp khổ, chúng con phát nguyện cố gắng và cố gắng hơn nữa, nương ánh sáng trí tuệ và

gương mẫu từ bi của chư Phật, Bồ-tát, t.m về ánh trăng chân thật để trên đền bốn ân, dưới cứu

khổ muôn loài.

Đây là món quà trung thu con kính dâng lên Thầy và đại chúng chứng minh.

  1. Ngày 20-8

Biệt Khoa Giỗ Tổ PHÙNG KHOANG

1- Đảnh lễ đấng vô thượng Từ Tôn. Bởi v. tuệ giám không xa nên chúng con tàn dung

hữu hạnh (1 lễ).

2- Phật nhập Niết-bàn, ngót 3 ngàn năm, Ni chúng b.nh an tu hành như vầng trăng tr.n

sáng không mờ, toàn nhờ công đức Ananđà Tôn giả (1 lễ).

3- Những ai có duyên với nhất thừa nên nhớ công phu Long Nữ trực nhận Phật tánh

chân tâm, mà cố gắng thông suốt 3 pháp quán để vong t.nh tiến bộ (1 lễ).

4- Lại nguyện Đại Ái Đạo tôn giả không xả từ bi, thầm gia hộ lậu chất biến thành tam

muội chất (1 lễ).

5- Da Du Đà La tôn giả, trí quang soi tỏ, cô tâm chuyển thành lục h.a tâm. Khiến cho

pháp tử chúng con, cây đạo thêm cao, b.nh an cát khánh, ví như hàng trăm hạt ngọc được mài

giũa thành những chuỗi minh châu thanh tịnh trong sáng (1 lễ).

Trầm hương vừa bén lửa

Xuân giới ngào ngạt thơm,

Vần vần kết mây lành

Gần xa đều mông huân.

Thiền vị diệu thường chân tánh.

Tôn sư linh giác hiện thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Hoa tươi hương ngát, ánh đèn đuốc sáng,

Đối trước di ảnh, chúng con xưng tán :

Núi tuyết trinh trắng giữa hồng trần,

Hoàng Mai lửa tuệ khác nhân gian.

Huyện Hoàn Long, nước 8 công đức thanh lương.

Phủ Hoài Đức, 5 phần chân hương thắng diệu.

Mảnh đất Phùng Khoang chân như trụ.

Rừng hoa Liên Phái học nhiều môn.

Hôm nay khải thỉnh trước thiền sàng,

Nguyện Tổ chứng tâm mà giáng phó.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

BỞI V.

Có minh tâm mới kiến tánh

Muốn thỉnh Tôn Đức lai lâm

Cần phải trai diên khiết tịnh.

(một chén nước nhỏ, một cành lá, vừa bắt ấn vừa đọc :)

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế,

Đầu mặt đảnh lễ thất câu chi.

Con nay xưng tán đại Chuẩn Đề,

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.

Nam mô tát đá nẫm, tam miểu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha. Ám chiết lệ chủ lệ

chuẩn đề sa bà ha (3 biến).

(vừa rẩy nước vừa đọc :)

Trời Nam một vị mưa pháp chan h.a,

Âm dương đồng gội ân đức tam-ma,

Phước thọ tăng gia Thanh Xuân nở hoa.

Nam mô Thanh Lương Địa Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

THIẾT NGHĨ

Tâm tánh viên minh, thần quang chiếu diệu. Muốn đạt cảnh giới trang nghiêm, cần

phải ngát hương giải thoát. Hương này Bắc Châu gây giống, Nam Hải tưới nhuần. Giáng cách

thoát tục, thể chất phi phàm. Quang sáng nguy nguy hơn nhật nguyệt. Tốt tươi cánh triệt cả

sơn hà. Đốt không ra khói, ngạt ngào thầm cúng dường đất Tam-bảo. Thiêu không tan r., viên

thông giao cảm suốt 4 trời thiền. Cung kính thắp chân hương bảo triện, ngưỡng vọng linh giác

Tôn sư.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ-tát ma-ha-tát.

KÍNH NGHE

Hoa ưu đàm báo điềm lành, hương phước quả bay rất xa. R. biết chân như, không c.n

kia đây sai khác. Ngay tại một chỗ, đâu có phân biệt thánh phàm. Tây phương tuy thật xa

nhưng nhất chân tịnh diệu vẫn thấu suốt. Nam Hải tuy chẳng gần nhưng một niệm tịnh thành

vẫn cảm thông. Cổ đức dạy : Sợi chỉ cây kim khó đáp nên chỗ thấy chỗ hiểu phải đúc thành

chí khí. Áo bát tín thí khôn đền nên giới định tuệ phải nhuận thân hiện tại.

Trải chiếu cỏ thơm, vọng về Thanh Xuân, chí thành tin chắc, đấng hư linh biến hóa

vẫn thầm thông ngầm cảm.

Nam mô bộ bộ đế rị, già rị đá rị đát đa nga đa gia (3 biến).

Pháp tử kiền thành thượng hương bái thỉnh.

1

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Tây phương Vô Lượng Thọ, Đông độ Thích Ca Văn, cầm giây vàng khai đường giác,

dùng bè báu độ bến mê.

Thân phụ ở làng Phương Liệt họ Nguyễn danh gia, thân mẫu người Hoàng Tổng vốn

công nương thế phiệt. Nhỏ tuổi đ. theo mẹ vào cửa thiền. Đến lớn vẫn đề huề trong Thích

giáo.

Dù ở chỗ đông vui, trông lên mây vần biến đổi trên trời. Nhàn nh. nơi thanh vắng,

nh.n xuống, k.a vẫn bóng trăng đáy nước. Đốn liễu thiền cơ, cuộc đời giấc mộng. Ngắm cảnh

phát minh l. duy tâm. L.ng thấm Phật đạo, xu hướng xuất gia. Đây là chỗ dung chứa như

biển cả nạp trăm sông. Đây là nơi giải thoát như hư không hàm vạn tượng.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Duy nguyện quang giáng thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

2

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Quán Âm Thế Chí đồng bạn, trong ao bát đức tắm mát, chín phẩm sen vàng tiêu dao.

Cạo đầu nhuộm áo chốn Thanh Xuân, 16 tuổi tam quy ngũ giới. Ân cần học hỏi, như

giáo phụng hành, thọ Sadini Thức xoa năm 18. 21 tuổi lên ngôi vị Thanh-văn. Tiến tu đội luật

mang b.nh, cung kính giữ phận con em. Đi đứng nằm ngồi, nhất nhất không dám trái lời Sư

phụ.

Thân thừa huyền châm chùa Liên Phái. Ba tháng hạ luật thân thắng tiến, sáng tỏ thiền

đăng, pháp thủy chan h.a. Sáu tháng thu dạy chúng tọa thiền, khai pháp tịch khiến Thanh

Xuân hoa nở.

Thảnh thơi một m.nh, nương tựa bảo tướng liên hoa. Nhàn nh. an vui chuỗi tràng

niệm Phật.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Thiền đường bóng nguyệt nay đâu vắng ? Trên trời xanh mây trắng v.ng lai. Duy

nguyện Tôn sư giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

3

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát, thiện bạn đề huề, ra khỏi nguồn sâu phiền n.o, lên bờ

kia tới Bồ-đề.

Đẹp thay Thanh Xuân, khung trời c.i phạm ! Nhưng thế sự vô thường, bóng quang âm

qua mau. Chỉ niệm Di Đà không chi khác, móng tay chưa gảy, đ. tới Tây phương.

Năm Mậu Tuất tháng 8 ngày 20, Tôn sư quy Tịnh-độ.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Thần thức đ. vượt khỏi nhân gian vô thường, duy nguyện quang giáng thiền đường

chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

4

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Nam Thiên pháp lữ, phước địa thiền đồ, xuất gia tu đạo, bậc Thầy thông luật, yết ma

giáo thọ trượng đường, H.a-thượng Xà-lê nghiêm tọa. Khắp cùng mười phương Tỳ-kheo-ni,

Thức xoa ma na, Sadini, Ưu-bà-di, 7 chúng Phật tử, những người khai sáng già lam, thí đất,

thí ruộng, đào giếng, đắp đường, lịch đại lũy kiếp gia nương, nhất thiết chư vị giác linh thiền

tọa hạ.

HƯƠNG HOA THỈNH

5

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Bồi triệu ân sâu, sanh thành đức hậu. Dưới thềm lan nh., cây non nở hoa ưu đàm.

Trong đám h.e quế, bỗng nhiên mọc cây Bồ-đề.

Nội ngoại đồng khí liền cành, cao thấp trước sau quyến thuộc, nguyện đều phát tâm

xuất thế. Xưa kia mỗi kẻ một đường, nay cầu đồng sanh An dưỡng.

Cung duy Tôn sư gia tiên tổ khảo Nguyễn Thuần Tích, Phủ quân.

Tổ tỷ Đỗ Thị Cẩm hiệu Diệu Vạn, Nhũ nhân.

Thứ mẫu Tạ Thị Nẫm hiệu Diệu Minh, Nghi nhân.

Tôn sư gia tiên tổ khảo Hoàng Thuần Nghi, Phủ quân.

Tổ tỷ Trương Thị Yêm hiệu Diệu Viên, Nhũ nhân.

Khắp cùng cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, trùng trùng quyến thuộc các hương hồn.

Duy nguyện giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

6

Hồng chung trong không cốc vang xa, tất cả hữu t.nh đều nghe tiếng. Duy nguyện

giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

* * *

Pháp tử : (tên) dập đầu phụng hiến lễ bạc :

— Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lô chỉ đế, ám tam bạt la tam bạt la hồng (7 biến).

— Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Ám tô rô tô rô, bát la tô rô, bát la tô rô,

sa bà ha (7 biến).

Món ăn sắc hương vị, trên cúng mười phương Phật, dưới cúng các Tổ sư khắp đến 6

đạo phẩm, cúng dường không sai biệt. Tùy duyên đều đầy đủ. Khiến người bá thí, được vô

lượng ba la mật.

—Ám nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật la hộc (7 biến).

— Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

SỚ VĂN

Tín căn nhất niệm, linh giác chứng minh, cung dâng văn sớ, kính xin tuyên đọc :

Mây sớm mưa chiều, d.ng sông sanh tử xuôi xuôi chảy. Pháp thuyền đưa chúng con

lên bờ giác, hôm nay rời bến đi đâu.

THIẾT NIỆM

Bổn sư một đời chăm tu thắng nhân vô lậu, v. đ. tỉnh mộng huyễn hữu vi. Nay thoát

lồng ba c.i, trở về đất tịnh, báo địa diệu cực trang nghiêm. Hiếu đồ chúng con tâm thành cung

thỉnh Tôn sư linh giác, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp danh Đàm

Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, quang lâm Linh Quang Ni viện, chứng minh cúng dường.

Duy nguyện Tôn sư đạt liên cung thượng phẩm, ngự cảnh An Dưỡng quê hương, phước tuệ

nghiêm thân, ấn Tổ lưu truyền, đèn Phật sáng trưng m.i m.i.

Tấc dạ đan thành thống thiết, đệ tử chúng con khấu đầu đảnh lễ tam bái thượng sớ.

Đốt sớ (tụng Bát Nh. Tâm Kinh).

Bát Nh. ba la diệu tối linh,

Đại bi vô ngại nhuận quần sinh.

Không không ngũ uẩn đại thần chú

Nhất điểm linh tâm triệt diệu minh.

Nam mô Quán Tự Tại Bồ-tát ma-ha-tát.

Nay trai diên thâu kết, Tôn sư nhẹ gót đường mây.

Đạp bỏ hồng trần như dép cỏ,

Đào hoa nước chảy chẳng quan tâm.

Ái hà rửa chân lên bờ giác,

Tịnh-độ chuyên tâm hướng kim đài.

Nam mô Sanh Tịnh Độ Bồ-tát ma-ha-tát.

  1. Ngày 19-9

QUÁN ÂM THỊ KÍNH

QUÁN ÂM : Quan sát âm thanh kêu khổ để cứu vớt.

THỊ KÍNH : Thời xưa, đặt tên đàn ông dùng chữ Văn, đàn bà dùng chữ Thị để phân

biệt.

KÍNH : Nghiêm cẩn không buông lung. Hễ sống đúng với chữ Kính là đ. xong được

nửa đường đạo. Kinh Phổ Môn dạy : Bất luận nội chướng hay ngoại chướng, thường niệm

cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát đều được giải thoát.

BẢN HẠNH : Công hạnh từ lúc tu nhân. Như Quán Âm Thị Kính đặc biệt tu hạnh

nhẫn nhục. Quán Âm Nam Hải đặc biệt tu 2 hạnh tinh tấn và từ bi.

TỰA

1- CHỈ ĐƯỜNG CHÁNH GIÁC :

Phật : Tự giác, giác tha, giác hành viên m.n.

— Tự giác : Thân do đất, nước, gió, lửa giả hợp thành h.nh. Lầm chấp ta người, mở ra

ba độc tham sân si, tạo những nghiệp sát đạo dâm vọng để tự chiêu vời quả báo luân hồi sanh

tử. Giải thoát vô minh, trở về sống với chân tâm bản tánh gọi là Giác.

— Giác tha : Đem chỗ đ. tự giác, dạy người chưa biết.

— Giác hành viên m.n : Trọn vẹn 2 điều trên.

2- MỘT NIỆM VÔ MINH :

Kinh dạy : “Vạn pháp duy tâm”. Luận Khởi Tín giải thích : Muôn sự muôn vật ở thế

gian cho đến cả Phật pháp cũng đều do tâm tạo. Chữ Tâm đây là nói vọng tâm. Giữ tâm chân

chánh th. thành Phật. Một niệm sằng bậy là ươm một nhân xấu, sẽ kết trăm ngàn quả khổ.

Cũng như một hạt đa nẩy mầm phát triển thành một cây đa. Mỗi năm sẽ có bao nhiêu

quả. Nhân quả sinh sôi nảy nở như thế nên người tu cần chánh niệm mới mong thoát trầm

luân. Đức Thích Ca hiện thân một mỹ nữ đến thử một tu sĩ. Thay v. từ chối thẳng, tu sĩ đáp :

“Có chăng kiếp khác họa là. Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay”. Thế là hứa hẹn một kiếp sau.

Vọng tâm chưa dứt tuyệt nên phải tái sanh làm thân con gái. Kinh Lăng Nghiêm dạy :

Nếu c.n tơ hào tâm dâm dục không thể hy vọng giải thoát.

3- NHÂN DUYÊN HỘI NGỘ :

Thị Kính sắc đẹp nết ngoan. Thiện Sĩ tài học hơn người. Đôi bên cha mẹ vun vào nên

thành gia thất. Để biết tài và sắc là 2 thứ thế gian mê say ham chuộng thật chẳng phải là gốc

hạnh phúc.

CHÁNH TÔNG

1- GIẢ HỢP GIẢ LY :

Nhân duyên đ. thuận th. làm sao tránh quả ràng buộc. Phật dạy : Tâm làm chủ, tâm

dẫn đường, tâm đưa lên thiên đường, tâm đưa vào địa ngục. Các Tổ đinh ninh dặn d. : Cẩn

thận chớ buông lung ba nghiệp. Với thế gian th. không g. sung sướng bằng vợ chồng h.a hợp.

Ai thấy cảnh bà Thị Kính chẳng khen ngợi thèm thuồng, chẳng reo h. nhảy nhót đổ xô

nhau vào. Con mắt Phật thấy là tấn tuồng ảo hóa, một giấc chiêm bao.

Canh khuya Thiện Sĩ đọc sách mỏi mệt, ngả lưng bên cạnh Thị Kính. Thấy hàng râu

của chồng cạo chẳng được đều, cô cầm dao con cúi xuống định sửa. Chợt Thiện Sĩ mở mắt hô

hoán : “Cắt cổ giết người”. Bà mẹ chồng bước vào ấn định ngay : “Cô này đ. mắc vào người

nào khác nên muốn hại chồng”. Vội vàng trả cô về nhà cha mẹ ruột.

Ngán thay chữa dép vườn dưa,

Dù ngay cho mấy cũng ngờ là gian.

Thế là tan hạnh phúc ! Bậc trí tuệ chẳng ham sung sướng, chẳng sợ khổ đau, cứ thuận

theo lẽ phải. Như vậy mới có thể sống ung dung tự tại, chết giải thoát siêu thăng.

2- DỨT NỢ TRẦN DUYÊN :

Thị Kính gặp cảnh éo le, chợt tỉnh mộng đời, quyết chí đi tu. Biết cha mẹ không chấp

thuận. Cô đành giả trai, trốn nhà đi xa, t.m vào Vân Tự, được Sư cụ đặt tên là tiểu Kính Tâm.

Đây là cốt tủy bộ Bản Hạnh này. Tâm l. con người, hễ chán th. ruồng rẫy ghét bỏ, hễ

thích th. gần gũi vơ vào. Cả 2 cực đoan này đều có sức mạnh. Người trí tuệ biết thích cái hay,

kết quả đi đến thanh cao tự tại. Kẻ ngu thích bậy, kết quả tạo ác đọa lạc. Trí tuệ trạch pháp

thật là quan hệ. Người biết bản tánh là Phật, tu Phật hạnh sẽ về cảnh Phật. Tin được như thế sẽ

chán dục lạc thế gian, rửa sạch tham sân si. Tự m.nh giác tỉnh, lại đem đạo l. soi tỏ cho

người. Cùng nhau bỏ lối gai rậm, lên đường quang minh.

3- THIÊN ĐƯỜNG, ĐỊA NGỤC :

Vâng lời nương cảnh thượng phương

Khêu đèn Bát Nh., dóng chuông tham thiền.

Bà Thị Kính thảnh thơi vui cùng Phật pháp. Kinh dạy : Ái là gốc sanh tử luân hồi. Mắc

vào nó th. khốn khổ ê chề. Ra khỏi nanh vuốt nó th. an vui vô cùng.

Trong làng có cô Thị Mầu, thấy tiểu Kính Tâm :

Đ. lồng ba tấm cà sa,

Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.

Đăm đăm tưởng nguyệt mơ hoa, lại bị người dụ dỗ nên thất tiết mang thai, bị làng bắt

vạ. Cô đổ cho Kính Tâm là cha đứa bé. Làng tra hỏi, Kính Tâm biết nếu nói thật là gái th. đâu

được ở chùa (ngày ấy chưa có chùa Sư nữ). Kính Tâm đành chịu đ.n đánh mà không dám thổ

lộ cái l. do duy nhất có thể giải oan.

Thầy Mạnh Tử nói : Người ta chết v. an vui mà sống v. hoạn nạn. Trời định giao việc

lớn cho ai, tất làm cho lao khổ điêu linh. Người tu hiểu chân l. nên hằng ngâm câu :

Xá chi một đứa dại khờ,

Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm h.a,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.

4- V. ĐỨC HIẾU SINH :

Thị Mầu bị cha mẹ bức bách bắt đem con vứt trả cho Kính Tâm. Thấy đứa hài nhi nằm

trơ trong vườn như cá cạn nước, Kính Tâm đành ẵm vào làng xin sữa. Thấm thoát thằng bé

lên 3 th. Kính Tâm hết tuổi thọ :

Gọi con từ gi. mọi đường,

Bút hoa để lại đôi hàng biệt ly.

Bút thư Kính Tâm xin tạ tội cùng cha mẹ, được Sư phụ cho người đưa về quê hương.

5- HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG :

Làng bắt cha con Thị Mầu lo việc tang ma. Phần th. hổ với xóm làng, phần th. cha mẹ

đay nghiến, cô nhục nh. tự tử.

Cha mẹ Thị Kính được thư vội v. đến chùa Vân.

Ngẩng trông ba thước hồng la,

Lệ tuôn như suối, l.ng sầu như mây.

Sáu năm không được tin tức, nay gặp mặt lại là một xác chết. Đám tang xong, chùa

làm chay cầu siêu độ.

6- VĂN KẾT :

Ai hay pháp Phật nhiệm mầu,

Có khi Thiên Trúc ở đâu cũng gần.

Giữa trời một đóa tường vân,

Đức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn.

Truyền cho nào tiểu Kính Tâm

Phi thăng làm Phật Quán Âm tức th..

Độ cho cha mẹ hai thân,

Đài sen đ. sẵn đợi ngày bước lên.

Siêu thăng thoát cả một nhà

Từ đây phước đẳng hà sa vô cùng.

Lên miền Cực Lạc hội đồng,

Cả làng khi ấy mắt trông rành rành.

  1. ràng lành ắt được lành,

Nam mô đức Phật, tu hành thành công.

HAI BỨC TRANH

Sự tích trên đ. vẽ song song 2 bức ảnh : Thị Kính và Thị Mầu.

Cùng là con gái mới lớn lên, cùng xuất thân nơi gia đ.nh đài các danh giá giàu có,

cùng theo đạo Phật, cùng khốn khổ v. t.nh ái. Chỉ v. tri kiến khác nhau mà cuộc đời trở thành

khác hẳn.

Cho tới kiếp sau, một lên t.a sen, một vào địa ngục. Thật đáng ngậm ngùi xót thương.

1

  1. đâu Thị Mầu đem ô nhục cho cha mẹ, để xấu hổ cho họ hàng. V. đâu cô phải tự tử,

mở ra kiếp kiếp đọa đày ? Phật dạy : Một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại. Như

rùa mù t.m bọng cây trong biển cả, thật khó lắm thay !

Cổ nhân nói : “Cái sẩy nẩy cái ung”. Một vọng tưởng không đâu, nếu biết là hư vọng

  1. nó tự tan. Nếu lầm nhận là m.nh, lồng m.nh vào, th. thành kết sử. Mắt cô chạm vào sắc

tiểu Kính Tâm, khởi l.ng luyến ái. Nếu biết là vọng tưởng th. nó tan ngay. V. cô nhận là

m.nh, cho là m.nh ưa thích nên bị sai sử, đưa vào tội lỗi.

Đ. tà dâm lại dối cha mẹ. Tới khi làng xét xử, vẫn c.n hy vọng làng bắt Kính Tâm

thành gia thất với m.nh nên một mực vu oan. Kính Tâm chịu đ.n tan da nát thịt, đau thấu tới

xương. Nếu không có lời từ bi xin nộp vạ của Sư cụ th. đ. mất mạng.

Phú ông bắt đem con trả cho bố nó, cô cũng đem con bỏ ngoài hiên chùa, mặc cho

Kính Tâm muốn nuôi hay bỏ tùy .. Suốt ba năm trời Kính Tâm chịu oan t.nh, cả làng sỉ vả,

Thị Mầu tổn đức biết bao nhiêu. Quanh co dối trá đến cùng vẫn không thoát quả báo nh.n

tiền, cô phải tự tử.

Cô mới đôi tám xuân xanh, tức là mới có 16 tuổi. Kinh Pháp Cú có câu : “Phàm phu

không giác ngộ, đi chung với cừu địch một đường”. Thị Mầu nhận vọng tưởng tham dục là

m.nh, cùng với ng. ái đi chung một đường nên bản thân khốn khổ, gia đ.nh đắng cay, xóm

làng phiền nhọc. Kiếp này khổ, kiếp sau khổ, khổ sở lâu dài. Đáng thương biết ngần nào.

2

Bà Thị Kính bị cha mẹ chồng trả về gia đ.nh. Đối với phụ nữ Á Đông, đây là một tủi

nhục nặng nề đ. khiến bao người tự tử. Nhưng đối với tầm mắt bà th. :

Nực cười cái chuyện cỏn con,

Bỗng không mà nẩy lên cồn thái sơn.

  1. có trí tuệ Bát Nh., bà thấy r. thị phi của thế gian như sáu con rồng múa rối, chẳng

đáng bận l.ng. Bà t.m giải thoát nơi cửa Phật.

Tới khi Thị Mầu vu oan, dân làng đánh đập. Sư cụ không cho ở trong chùa, đuổi ra

ngoài cổng tam quan, cha mẹ xa xôi không hy vọng tái ngộ. Một thân cô đơn sống dưới con

mắt khinh bỉ của thôn x.. Bổn đạo trong ngoài đều trỏ ngón tay :

Tiểu kia tu có trót đời được đâu.

Trong hoàn cảnh rất mực khó khăn, bà chỉ kết luận :

Xá chi một đứa dại khờ,

Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm h.a,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.

Rồi bà quay về :

Bạn cùng thanh phong minh nguyệt,

Lấy hoa đàm đuốc tuệ làm vui.

Con mắt giác tỉnh, không oán thù mà tha thứ xót thương. Bởi v. thấy r. xấu ác là dại

khờ. Kẻ mê để cho hoàn cảnh chi phối, sống như cái máy, biết g. mà ta oán chấp. Bậc tu hành

tùy duyên nhẫn cảnh. Thế giới không hoa, thân người mộng huyễn. Vạn pháp vô thường đâu

có thể cậy trông. Chỉ quay về bổn phận m.nh, nhẫn nhục, nhu h.a, noi gương Phật Tổ.

Kinh Kim Cương nói : Nhẫn nhục chẳng phải nhẫn nhục. Ấy mới thật là nhẫn nhục.

Nếu c.n thấy có nhục để phải nhẫn th. khó mà nhẫn được lâu dài. Nên biết tới đây Bát Nh.

của bà Thị Kính đ. ba la mật đa.

Những tưởng an thân nơi mái tam quan, vui với thiền tư kinh kệ, th. cơ duyên khe khắt

lại khéo xui Thị Mầu đem con để ở hiên chùa rồi bỏ đi. Nghĩ rằng :

Mạng người khôn lấy làm chơi mà liều.

Cho nên :

Xót t.nh măng sữa nâng vào trong tay.

Sư cụ Bổn sư thấy thế ấn thêm cho một câu : Như vậy thời Thầy cũng nghi.

Hàng ngày bế con đi xin sữa khắp làng. Mẹ v. nuôi con nhện, đ. bao cực nhọc khó

khăn. Lại thêm tiếng bấc tiếng ch. đằng đẵng 3 năm. Thiền sinh mà nuôi con mọn, bám víu bế

ẵm ngày đêm. Những người chuyên tu mới hiểu nỗi khó khăn này. Thật là hy sinh tới chỗ

cùng tột, hy sinh cả sự giải thoát. Nhưng ngài tin Phật, thực hành đức hiếu sinh, lấy vâng lời

Phật làm vui.

Kinh Pháp Hoa nói : “Muốn nhập Phật tri kiến phải ở nhà từ bi, mặc giáp nhẫn nhục,

ngồi t.a pháp không”. Nay nuôi con oan gia mà đầm ấm t.nh máu đào. Bà thật đ. đủ 3 điều

kiện để nhập Phật tri kiến, chứng quả Vô-thượng Bồ-đề.

LỜI B.NH CỦA CỤ THIỀU CHỬU :

Cha mẹ nuôi con, công lao khó nhọc như trời biển. Nhưng giọt máu của m.nh, m.nh

thương yêu nâng niu, dù vất vả nhọc nhằn mà vẫn có mối t.nh đầm ấm, khiến cho vui vẻ. C.n

tiểu Kính Tâm mẹ gà con vịt, tiếng nọ điều kia, mỉa mai nhục nh.. Thế mà bà vâng theo Phật

Tổ, thực hành chủ nghĩa xả thân cứu thế, chẳng quản vất vả, chẳng ngại chê cười. Nước l. coi

như huyết nhục. Công quả này trời bể khôn tầy, chỉ Bồ-tát hiểu Phật pháp mới làm nổi.

Đức Thích Ca thiền định trong rừng. Vua Ca Lợi chặt cả tay chân. Không những

không giận, ngài c.n an ủi : “Bao giờ đắc đạo, ta sẽ độ vua trước nhất”. Ôi ! Rộng r.i bao la,

từ bi vô ngại ! Lời nói ai nghe mà không mủi l.ng cảm động.

Nhẫn nhục của bà Thị Kính tới đây thật đ. thuần túy. Không đợi Phật thọ k., chúng ta

cũng biết bà sẽ chứng quả Vô-thượng Bồ-đề.

  1. DƯỢC SƯ

LƯU LY QUANG NHƯ LAI 30-9

(Kinh Dược Sư cùng các giải nghĩa đ. in riêng)

Phương Đông là nơi b.nh minh lóe sáng phá tan đêm dài. Từ phương Đông ánh hồng

quang tia chiếu khắp làn mây, khiến cho trời đen trở thành trong xanh, sương lạnh biến thành

hạt trai, lóng lánh trang điểm khắp lùm cây bụi cỏ.

Từ phương Đông luồng điện sinh khí truyền khắp người vật, kiến sâu, hoa lá, núi

sông... nên phương Đông đứng chủ sự sinh hoạt. Hải hội Dược Sư Phật Bồ-tát từ phương

Đông tỏa từ bi lực về c.i Ta Bà. Thật ra th. tất cả mười phương đều có hằng sa Tịnh-độ, mà

Phật nào chẳng cứu tử độ sanh. Nhưng cổ lệ Á Đông từ hồi nào vẫn đặc biệt giao trách nhiệm

tiêu tai diên thọ cho đức Dược Sư ở phương Đông. C.n tiếp dẫn người mất th. đặc biệt gửi

đức A Di Đà về phương Tây. Đó là cốt cho kẻ sơ tâm có nơi y cứ và người giản dị dễ hiểu mà

thành tựu định tâm.

Đức Dược Sư tên là Lưu Ly Quang. Hai vị Bồ-tát hầu cận tên là Nhật Quang và

Nguyệt Quang. Cúng dường qu. ngài phải 49 ngọn đèn. Bởi v. cần ánh sáng trí tuệ mới có thể

cứu bệnh tận gốc. Bát Nh. Kim Cang từ tâm địa lưu ly phát ra mới có thể thanh trừ vô minh

cố tật.

Kinh dạy : “Bảy ngày thọ bát quan trai giới, thân sạch sẽ, miệng ăn chay, tâm không

tham dục, không giận hại ai, đối với hết thảy hữu t.nh khởi tâm lợi ích an vui, từ bi hỷ xả,

b.nh đẳng h.a nh., tụng kinh Bổn Nguyện Dược Sư, suy nghĩ nghĩa kinh rồi đem diễn thuyết

khai thị cho người. Thế th. tùy . cầu g. cũng được, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có

được giàu có, cho tới cầu đại Niết-bàn được đại Niết-bàn”.

Bất luận sự g. không hợp l. đều gọi là vô minh. Phật là giác sát phiền n.o, giác ngộ

giải thoát vô minh. Hễ thanh trừ vô minh th. cầu g. cũng được. Tám vạn bốn ngàn trần lao đều

từ vô minh khởi. Nên Giới Định Tuệ có thể giải tất cả oan, gỡ tất cả kết.

Nam mô tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật.

Nam mô tùy tâm m.n nguyện Dược Sư Phật.

  1. VÔ NG.

“Những bất h.a thường do thói quen dành phần phải về m.nh, c.n bao nhiêu sai quấy

đổ cho người”. Chị em đọc sách, thấy đúng như vậy, cùng nhau quyết định từ nay bất cứ vấn

đề g., trách nhiệm hàng đầu của mỗi người là phải tự giác lỗi m.nh và khám phá cho ra những

khía cạnh tốt của đối phương. Thế là yên chí h.a b.nh bảo đảm.

Nhưng lần lượt việc này việc khác xảy ra. Họ tranh nhau nhận lỗi và rốt cuộc một cơn

b.o cấp 10 xuất hiện. Họ kết luận : “Quỷ tha ma bắt tất cả những phương thức đạo đức đi! Cứ

đừng làm bậy là hơn cả”.

* * *

Không t.m được gốc của lỗi lầm th. chẳng thể thành công trong việc sửa m.nh.

Không kết quả hẳn trở lại báng các pháp môn tu là vô ích.

Hạ m.nh xin lỗi, nhường cái phải cho người là biểu tượng thánh hiền. Nhưng nếu

không biết gốc của thánh hiền là giác tỉnh, không tập quan sát vô thường, vô ng.. Cứ mải lo

dán mấy câu của sách vở vào đầu, đến nỗi bị ngay những chữ nghĩa này nó bịt mắt.

Đổi tranh chấp thế gian thành tranh chấp đạo đức. Hai tướng ng. nhân c.n đối lập th.

vẫn nuôi dưỡng tham sân si. Tư tưởng thánh hiền bị trá h.nh, người bị lừa chính là m.nh. Kết

quả là những cơn b.o cấp 10 đâu có lạ !

Trở lại tuyên bố : “Không cần biết có lỗi hay không lỗi, chỉ một việc là đừng làm bậy

nữa”. Lập trường này e nguy hiểm. Con người mấy ai sáng suốt. Phàm phu giơ tay cất bước

tội đ. ngang mày (kinh Địa Tạng). Cho nên cần thấy lỗi, cần sửa lỗi để dần dần trở thành

không lỗi. Như thân nhơ bẩn nên đi tắm. Vài ngày sau mồ hôi cáu bẩn, lại đi tắm. Cứ như thế

trọn đời, người này được coi là sạch sẽ. Tâm chúng ta cũng thế ! Hôm nay lỡ lầm một câu nói

sai, một hành động quấy, chúng ta tự giác xin sám hối. Thời gian sau lại tham lại sân, chúng

ta lại sám hối. Cứ như thế trọn đời, tu sĩ này được Phật chấp nhận là thanh tịnh. Sám là rửa

sạch việc đ. qua. Hối là tiếc đ. trót lỡ, nay cố gắng không tái phạm. Phiền n.o kết tập từ vô

thủy, như cây đa cổ thụ đâu phải một nhát búa đ. hạ được ngay. Phải tỉa dần dần. Nhưng đ.

có công mài sắt hẳn có ngày nên kim. Chúng ta vâng lời Phật, một mặt tự giác thấy lỗi lo sám

hối. Đó là đẽo chặt cành lớn cành nhỏ. Một mặt quán vô thường, vô ng. để nhổ tận gốc vô

minh. Các kết sử theo đây mà bật rễ. Trong không chấp ng., ngoài không chấp pháp, bảo đảm

b.nh an.

Nguyện cầu đại chúng thành công trong sự nghiệp Quán Tự Tại.

  1. HỮU DỤNG, VÔ DỤNG

TÙY CHỖ BIẾT DÙNG

Ngày 2-5 âm lịch (1983), được tin đích xác vào năm 1984 quyết định các chùa phải

giải tán số đông. Phân vân không biết nên cho các em tiếp tục chương tr.nh cũ hay nên dùng

nửa năm vàng ngọc này để tu học một môn cần thiết. Nh.n ra thấy cuốn Triết học phương

Đông, thử bói một quẻ. Vào bài này, ghi tạm để suy ngẫm :

Phạm L.i bỏ nước Sở, vượt biển sang làm giàu ở đất Đào, đổi tên là Đào Chu Công.

Người con trai thứ c.n lại ở nước Sở, bị bắt cầm tù.

Chu Công lấy 1000 nén vàng sai con út đi lo. Con cả đ.i đi, Chu Công không nghe.

Cậu con cả nói : “Việc quan trọng mà cha sai con út, thế ra con cả vô dụng”. Cậu toan tự sát.

Bố bất đắc dĩ cho đi, đem vàng và thư đến người bạn cũ là Trang Sinh, dặn d. : “Mặc ông ta

xếp đặt. Cẩn thận đừng tranh khôn với ông ta”.

Trang Sinh, nhà ở ngoài thành, vườn rau đơn giản. Cậu cả làm theo lời cha. Trang

Sinh nhận vật rồi đáp : “Anh nên về ngay. Em sẽ được ra. Anh đừng ở lại đây”.

Cậu cả ngầm ở lại, t.m đến một nhà quyền qu. ở Sở để nghe ngóng. Trang Sinh thong

thả vào cung, tâu vua Sở : Sao Mỗ đóng chỗ Mỗ có hại cho Sở.

— Làm thế nào ?

— Chỉ dùng Đức mới trừ được.

— Xin Thầy về nghỉ, quả nhân sẽ làm theo. Liền sai sứ giả niêm phong 3 kho tiền.

Thường lệ nước Sở, mỗi khi đại xá tù nhân, thường dùng 3 kho tiền để phát cho tù

nhân có lương thực đi về quê. Tin sắp có ân xá đồn vang.

Cậu cả cho rằng nếu có lệnh đại xá th. thế nào em m.nh cũng được tha. Ngàn vàng cho

l.o Trang Sinh phí uổng. Cậu trở lại gặp Trang Sinh. Trang Sinh giật m.nh : Anh chưa về à ?

— Thưa chưa, con tới đây v. việc thằng em. Nay nó sắp được lệnh ân xá nên con đến

chào cụ để về.

Trang Sinh biết . cậu ta muốn lấy lại vàng, liền trả lại. Hôm sau Trang Sinh lại thong

thả vào tâu vua Sở :

— Tôi trước có nói về ngôi sao Mỗ. Vua hứa sẽ sửa đức để lợi dân. Nay tôi nghe đồn

rằng : Vua không phải v. thương nước Sở mà ra lệnh đại xá đâu. Chỉ v. thằng con Chu Công

đem vàng đút lót các quan hầu vua đó thôi.

Vua Sở cả giận ra lệnh xử tử con Chu Công rồi mới đại ân xá. Cậu cả đưa xác em về.

Chu Công nói : Ta đ. biết, từ nhỏ nó chịu khổ nhọc làm ăn nên không thể dửng dưng với

ngàn vàng. C.n thằng út đẻ ra đ. giàu. Cưỡi xe rong ngựa, theo đuổi cầy cáo, phung phí tiền

bạc, nào có biết từ đâu mà có. V. thế hôm trước ta quyết định sai thằng út, chỉ v. nó biết coi

thường ngàn vàng. Thằng cả th. không thế nên đ. vô t.nh giết em.

Dùng vào việc làm giàu th. thằng cả hữu dụng. Dùng vào việc cứu đứa con thứ th.

thằng út hữu dụng. Gỗ tốt th. làm cột làm kèo, gỗ xấu th. làm củi.

Bậc trí tuệ biết sử dụng hợp t.nh hợp cảnh nên hằng được lợi ích.

IV-/ MÙA ĐÔNG

TỪ 15-10 ĐẾN 15-1

  1. ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
  2. Danh nghĩa :

Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ c.i Tây phương Cực Lạc. Tên ngài có 3 nghĩa :

1- Vô Lượng Thọ : Thọ mạng vô lượng (tánh giác thường trụ).

2- Vô Lượng Quang : Trí tuệ vô lượng (tánh giác ở khắp mười phương).

3- Vô Lượng Công Đức : Hằng sa tánh đức diệu dụng.

  1. Kinh Vô Lượng Thọ :

Thời Phật Thế Tự Tại Vương, vua Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp, liền xuất gia

làm Tỳ-kheo tên Pháp Tạng, phát 48 nguyện. Y nguyện tu hành sau thành Phật hiệu A Di Đà.

Kinh Bi Hoa : Quan đại thần Bảo Hải có con là Bảo Tạng, tướng tốt dị thường, xuất

gia thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm nghe pháp, phát tâm cúng

dường Phật và đại chúng 3 tháng. Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm Bồ-đề, cầu đạo Vôthượng.

Vua nguyện thành tựu một cảnh giới cực kỳ trang nghiêm, đầy đủ phương tiện để

giáo hóa chúng sanh. Bảo Tạng Như Lai thọ k. vua sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, thế giới tên

An Lạc. Bảo Hải sau này cũng thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.

(Kinh A Di Đà Yếu Giải đ. in riêng).

  1. Ngày 11-11

Biệt Khoa Cúng Tổ QUẢNG BÁ

Xem trong cuốn Pháp Bảo.

  1. Ngày 17-11

ĐẠI ĐÀN PHỔ TẾ

— Lễ Phật – Lễ Tổ – Khai kinh – Tán Phật A Di Đà.

Toàn chúng luân phiên ngày đêm cứ mỗi loài sau đây niệm Phật 10 tràng.

ĐỊA NGỤC

Nhị Khóa Hiệp Giải

  1. ĐỊA NGỤC VÔ GIÁN :

Thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp.

  1. TÁM ĐỊA NGỤC NÓNG :

Sức lửa mạnh, h.n đá vuông 3m3 bỏ vào tức thời tiêu tan, hết hạn lại vào các địa ngục

phụ.

1) Đẳng hoạt : Chúng sanh móng tay sắt cào nhau rớt thịt.

2) Hắc thằng : Dây sắt trói, búa sắt chặt.

3) Chúng hợp : Hai núi ép cho thịt nát xương tan.

4) Khiếu hoán : Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi.

5) Đại hô : Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt quay rán.

6) Viêm nhiệt : L. sắt rực đỏ.

7) Chúng nhiệt : Ngục tốt cầm cây thiết xoa đâm tội nhân rồi để dựng đứng trong hầm

lửa đỏ.

8) Xe lửa : Lột da rồi để dưới xe lửa, bánh xe nghiền nát.

16 ngục phụ : 1- R.u búa. 2- Chó sói. 3- Cây kiếm. 4- Rừng dao. 5- Cát đen (cháy da

thấu xương). 6- Phân tiểu (sôi nóng đổ vào miệng). 7- Đinh sắt (đóng khắp thân). 8- Nước

đồng sôi (rót vào miệng). 9- H.n sắt nóng (bắt ăn). 10- Vạc đồng (nấu sôi). 11- Nhiều vạc

đồng. 12- Cối đá (xay thân). 13- Mủ máu (nấu sôi m.nh ở trong). 14- Đấu sắt nóng (phải cầm

đong lửa). 15- Sông tro nóng (phải gieo thân vào). 16- H.n sắt nóng (tay nắm, sức lửa cháy

khắp thân).

  1. TÁM ĐỊA NGỤC LẠNH :

Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như 20 hộc mè 100 năm lấy ra 1 hột. Lấy hết là hết

tuổi thọ.

1- Án phù đà (rét ngặt thịt nát nhừ).

2- Vi lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành bọt nước).

3- A tra tra (lưỡi khua ra tiếng a tra tra).

4- A ba ba (môi đập thành tiếng).

5- Ẩu hầu hầu (từ cuống họng phát ra).

6- Uất ba la (thịt như ướp đá thành màu tái xanh).

7- Ba đầu ma (thịt đỏ tươi).

8- Phân đà lợi (lạnh chẻ xương trắng).

  1. Ngoài ra trong nhân gian có các địa ngục rải rác ở các núi, trong l.ng nước, ngoài cánh

đồng.

Kinh Lương Hoàng Sám

Các địa ngục : v.ng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm than, rừng

gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang, phun lửa.

Kinh Địa Tạng

Thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh, núi đao, bùn lầy, trâu

sắt, chó sắt, lừa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt,

tranh c.i, nhiều sân, voi lửa, chó lửa, ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa,

lột da, uống máu, treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si,

khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay, gió nóng.

QUỶ LOẠI

Ngài Anan một m.nh trong rừng thiền định. Chợt thấy một ngạ quỷ miệng phực ra lửa,

đầu tỏa khói, tay chân lóng đốt lửa cháy nổ tanh tách. Nanh và móng tay dài như gươm, xưng

tên là Diệm Nhiên Vương, nói rằng : Nếu ông đem thức ăn bá thí cho trăm ngàn ức hằng hà sa

ngạ quỷ. Và cúng dường Tam-bảo cầu cho chúng tôi siêu thoát th. ông được tăng tuổi thọ và

tu chứng quả Thánh.

Ngài Anan kinh sợ sớm mai bạch Phật. Phật dạy phương pháp xuất sanh, tr. chú biến

thực.

Quỷ có bậc thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn. Có vị không

oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao sông lớn, hưởng nhân

gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như Dạ-xoa, La-sát, lị mị hưởng cúng máu huyết.

— Quỷ chịu 2 chướng :

  1. a) Nội chướng : Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng rộng toàn lửa.

Rất khó uống ăn.

  1. b) Ngoại chướng : Ở trong cảnh lửa hoặc mủ máu, dao đâm gậy đánh.

— Quỷ có 3 phẩm chia thành 9 loài :

1- Có phước : Được ăn uống nhiều.

  1. a) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của m.nh, hoặc ở mộ địa

được bà con cúng tế (v. trước có bá thí).

  1. b) Ăn đờm d.i, phân uế, các thứ thiu thối.
  2. c) Thế lực lớn, cung điện trang nghiêm.

2- Ít phước : Được chút ít ăn uống.

  1. a) Lông kim : Tự đâm, đâm người, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ

bẩn.

  1. b) Lông thối : Cào vóc nhổ lông, rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu được ăn

chút nhơ bẩn.

  1. c) Bướu lớn : Nhức nhối chảy mủ máu hôi thối, lấy ăn cho đỡ đói.

3- Không phước : Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy.

  1. a) Miệng thối.
  2. b) Toàn thân là lửa như cây đuốc.
  3. c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.

¨

36 bộ quỷ thần

1- Vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả c.n chống cự).

2- Miệng nhỏ như trôn kim.

3- Ăn đồ mửa.

4- Ăn phân.

5- Ăn lửa.

6- Ăn hơi.

7- Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi nay đói khát chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được

tồn tại).

8- Khô khát thèm uống nước.

9- Hy vọng : Trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người).

10- Ăn khạc nhổ (đ. đem đồ bất tịnh cúng Tăng).

11- Ăn tràng hoa (đ. ăn trộm hoa của Tam-bảo).

12- Ăn máu (hay sát sanh).

13- Ăn thịt.

14- Ăn nhang.

15- Đi nhanh, lửa đốt cháy thân.

16- Mỗi lông trong m.nh đều tuôn lửa.

17- Hắc ám : Ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia v. mưu cầu tiền bạc mà vu oan).

18- Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ n.o (ăn trộm của người này đem cho

người khác).

19- Phừng cháy (giết người cướp của).

20- R.nh con nít đại tiện để ăn hơi khí bất tịnh.

21- Dâm dục (quyến rũ người làm việc này lấy tiền).

22- Ở cồn biển (lừa dối người bệnh).

23- Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác).

24- Ăn thịt con nít.

25- Ăn tinh khí người.

26- La-sát (sát sanh).

27- Ăn lửa (ăn vật của Tăng).

28- Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh.

29- Ăn gió (ưa hứa suông).

30- Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống).

31- Ăn chất độc.

32- Ở cánh đồng.

33- Ăn tro nóng chỗ thiêu thây người chết.

34- Ở dưới gốc cây (người trồng cây bá thí m.nh ác tâm chặt đi).

35- Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường).

36- Ma ra : Ma phá hoại người tu hành.

4 Thiên Vương thống l.nh 8 bộ Quỷ Thần

1- Càn-thát-bà (nhạc thần).

2- Cưu-bàn-trà (hung dữ).

3- Tỳ-xá-dà (ăn tinh khí).

4- Tiết-lệ-đa (quỷ đói).

5- Phú-đơn-na (hôi thối).

6- Dạ-xoa.

7- Quỷ truyền tống.

8- La-sát (ăn thịt người).

Kinh Địa Tạng

Quỷ vương : mắt ác, ăn thai trứng, hành bệnh, ác độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích

hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước,

chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, 3 mắt, 4 mắt, 5 mắt,

kỳ lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra, đại a na tra.

Kinh Petakkatha

1- Atthisankhalika : Chỉ có bộ xương bay trong hư không, khóc la thảm thiết, chim

đuổi theo mổ kẽ xương (đồ tể).

2- Mainsapesi : Khối thịt bị chim mổ xé (sát sanh làm kế sinh nhai).

3- Mainsapinđa : Cục thịt (thợ săn).

4- Vicchavi : Thịt đỏ, trùng rúc rỉa.

5- Asloma : Lông như lưỡi dao nhọn bay lên bay xuống đâm vào thân.

6- Sattiloma : Lưỡi kiếm bay lên bay xuống đâm vào thân.

7- Usuloma : Mũi tên lên xuống.

8- Suciloma : Kim lên xuống (đ. dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa trâu chạy nhanh).

9- Cumbhanda : Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan

người để đ.i hối lộ).

10- Gidhakhađi : Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường Tăng Ni).

11- Okilini : Than nóng xối thân.

12- Ansakabandha : Không có đầu. Mắt mũi miệng ở giữa ngực (làm nghề đao phủ).

13- Pabbazila : Thân lửa (xuất gia phá giới).

Những quỷ kể trên đ. trả quả trong địa ngục, nay chịu dư báo từ 10 đến 500 kiếp. Trai tăng

hồi hướng phước báo có thể siêu thoát.

14- Vant.s. : Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh, răng lởm

chởm, thân hôi thối, ghẻ lở, ăn khạc nhổ, ở chỗ nhơ bẩn (xả rác, nhổ bẩn trên đất chùa).

15- Xunapà : Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to

hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn r.ng máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường

những thứ cấm cho người tu).

16- Gùtha : Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người tu, bỏn sẻn với cha mẹ).

17- Aggisala : Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết (khinh báng Tăng Ni).

18- Sucimlbkha : Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn đời đói khát ở

rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói).

19- Xannaji : Uống th. nước hóa lửa, ăn th. món ăn thành lửa (đ. phá hoại vườn ruộng

chùa).

20- Nijjha : Miệng mọc đuôi dài hôi thối chẳng bao giờ được ăn uống (ác khẩu với

Tăng Ni, chế giễu người tàn tật, ly gián người giới hạnh).

21- Sabbanka : M.nh đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá, lấy móng tay nhọn như

dao, tự móc thịt ăn. Vừa ăn vừa khóc, càng ăn càng đói. Loại quỷ này rất nhiều ở các thung

lũng, núi non và cồn b.i (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân).

22- Pabbanka : Thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả triệu năm ở trên núi (chửi

oan người đức hạnh).

23- Ajagara : Thân dài như con trăn, m.nh lớn bằng con voi, nhiều đầu cọp chó mèo gà

khỉ v.v... Khắp m.nh lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu khóc. Ở núi rừng cồn b.i có

rất nhiều loại này (hung dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh).

24- Vemanika : Nửa tháng thọ vui như ở c.i trời, nửa tháng thọ khổ ở địa ngục tra

khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng (si mê ai rủ làm tội th. làm tội, ai rủ làm phước

  1. làm phước).

25- Mahiddhika : Thân đẹp như thiên tử, thần thông bay trong hư không, y phục toàn

ngọc báu, nhưng thân thể hôi thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng liền biến

thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan (xuất gia tà mạng, cầu danh lợi phá

giới).

26- Ahi : M.nh rắn đầu người. Lớn như trái núi, gi.y giụa khóc la, sống lâu trong rừng

núi (sân giận phá chùa am).

27- Nimygga : Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng mới trồi lên được, rồi

lại cắm đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con). Tội ở địa ngục, nay là dư

báo.

28- Sukara : Đầu heo miệng lở thối (ác khẩu).

29- Manguhi : Lác, cùi hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều hâu mổ cắn (mưu mô

bóc lột người).

30- Chataka : Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp, giống quỷ này rất

đông (không kính Tam-bảo).

31- Surruta : Ban ngày cầm búa đập nhau bể sọ, sưng nát m.nh mẩy. Ban đêm lửa

cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa đập nhau (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu,

chọi gà v.v...).

Từ Bi Sám Pháp

1- Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực (Sadi chia bánh cúng chúng,

ăn trộm 2 chiếc, kẹp nách).

2- Trên vai có b.nh nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối lên đầu, đau đớn than khóc (Duy

na nấu sữa, đợi khách Tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa).

Tất cả những tội trên đây đều là hoa báo, quả ở địa ngục. Chúng con cũng đ. từng

phạm những tội như thế. Vô minh che chướng không tự nhớ biết. Nay đầu thành niệm Phật

cầu xin sám hối cho bản thân, xin sám hối cho cha mẹ, Sư trưởng, đồng đàn tôn chứng thượng

trung hạ t.a, xin sám hối thay thế tất cả bốn sanh sáu đạo mà quy y thế gian đại từ bi phụ.

BÀNG SANH

Loài rồng, chim cánh vàng.

A- LOÀI CÓ XƯƠNG SỐNG :

  1. Bốn chân :

B., trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, b. tót một sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, r.ng rọc,

đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó,

chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoẵng, rái nước, heo rừng, tê

giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chàng hiu.

  1. Hai chân :

Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim.

  1. Không chân :

Rắn, trăn.

B- LOÀI KHÔNG XƯƠNG SỐNG :

Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, dán, mối, sùng, b. cạp, chấy, rận, ve

chó, tằm, giun, nhộng, ong, t. v., phù du, mạt, sán, rệp.

Không xương sống có cánh : Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù x.e, châu chấu, cào

cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẻ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ

hung.

C- LOÀI DƯỚI NƯỚC :

Cá, sứa, mực, cua, vọp, s., tôm.

LOÀI NGƯỜI

Châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, Nam cực, Bắc cực.

C.I TRỜI

Vô sắc giới, Sắc giới, Dục giới.

KẾT NGUYỆN

(Mỗi nguyện 10 tràng)

1- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát phiền n.o chướng (tham sân si).

2- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát nghiệp chướng (sát, đạo, dâm, vọng).

3- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát báo chướng 6 căn, 5 ấm, oan gia đối đầu.

4- Nguyện hết thảy chúng sanh không v. miếng ăn mà tạo ác.

5- Nguyện hết thảy tà đạo trở về chánh kiến.

6- Nguyện hết thảy chúng sanh đ. hiểu đạo tiểu thừa tiến lên đại thừa.

7- Nguyện những ai tu phạm hạnh đều được đầy đủ tam tụ giới.

8- Nguyện những ai trót đ. phạm giới không đọa ác thú, biết sám hối trở về tịnh giới.

9- Nguyện tất cả tật bệnh tiêu trừ.

10- Nguyện tất cả tai nạn giải thoát.

11- Nguyện những cảnh giam cầm lao ngục chuyển thành an lạc tự do.

12- Nguyện mười phương chúng sanh thoát khỏi lưới ma cùng nhau quy y Tam-bảo.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

  1. Ngày 1-12

NI TỔ MA HA BA XÀ BA ĐỀ KIỀU ĐÀM DI MẪU

Ma-ha : Đại : Lớn. Ba Xà Ba Đề : Sanh chủ.

Ấn Độ thời xưa, những nhà quyền qu. sanh con, thường mời Thầy tướng xem tương

lai đứa trẻ. Rồi tùy đó mà đặt tên. Sanh chủ là chủ sự sinh sống. Bà nuôi thái tử Tất Đạt Đa từ

lọt l.ng đến khôn lớn. Bà là người gây dựng Ni chúng trong nhân loại. Bà cùng Ma Gia phu

nhân là hai chị em ruột, con vua nước Kô Sa La. Ma Gia : Ma Ra : Huyễn hóa. Ma Gia phu

nhân sanh thái tử Tất Đạt Đa được 7 ngày th. mất. Một người thọ mạng non yểu, chỉ thấp

thoáng hiện thân nên được tên là Ma Ra. Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề vừa là d. ruột, vừa là mẹ kế

của thái tử.

Kiều Đàm Di Mẫu. Kiều Đàm đúng chữ là Cù Đàm. Di Mẫu là mẹ kế. Đức Phật họ Cù

Đàm, tên Tất Đạt Đa.

Sau khi vua Tịnh Phạn chứng Tu-đà-hoàn rồi mất, bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề cũng chứng

Tu-đà-hoàn rồi xuất gia, được pháp hiệu là Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni.

Thuở ấy đức Thế Tôn ở nước Thích Xí Xấu, vườn Ni Câu Luật, bà cùng 500 quận

chúa tới đảnh lễ xin xuất gia.

— Này Cù Đàm Di ! Người nữ xuất gia hành đạo th. Phật Pháp chẳng thể trụ lâu.

Thế Tôn du hành tới nước Câu Tát La, thẳng đường đến nước Xá Vệ, về ở Kỳ Hoàn

tinh xá. Bà cùng 500 quận chúa, cạo tóc mặc cà sa, từ nước Ca Tỳ La Vệ đến nước Xá Vệ, đi

bộ tét chân, bụi đất đầy m.nh, đứng khóc ở cửa tinh xá. Ngài Anan thương xót vào bạch Phật

xin cho nữ nhân xuất gia.

— Này Anan ! Nhà nào con trai ít con gái nhiều th. biết nhà ấy suy vi. Ruộng lúa đang

tốt, gặp mưa đá sẽ bị hư hoại. Nữ nhân xuất gia thọ đại giới, Phật Pháp sẽ chẳng trụ lâu.

— Bạch Thế Tôn ! Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề có ân lớn, đ. thay mẫu hậu nuôi đức Thế

Tôn đến ngày nay.

— Thật thế, song ta cũng đ. đền ân, đ. khiến bà biết đến Tam-bảo. Ân này thế gian

không chi sánh bằng.

— Bạch Thế Tôn ! Nữ nhân xuất gia thọ đại giới có thể được quả Tu-đà-hoàn đến Ala-

hán không ?

— Được ! — Nếu thế th. xin cho họ xuất gia.

— Phải chịu phụng hành Bát Kính Pháp trọn đời mới được.

Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề thưa với ngài Anan rằng : “Trọn đời đỉnh thọ phụng tr. Bát

Kính Pháp mà được giới phẩm Tỳ-kheo-ni th. có khác chi được tắm gội sạch sẽ rồi đặt tràng

hoa lên đầu. Thật là bội phần trang nghiêm”.

Như thế bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề cùng 500 quận chúa được xuất gia thọ giới. Phật dạy :

“Chánh pháp đáng lẽ trụ thế 1000 năm. Nay v. cho người nữ vào đạo, chánh pháp chỉ c.n 500

năm”. Ngài Anan chảy nước mắt, lễ chân Phật, nhiễu quanh Phật 3 v.ng rồi lui.

TRUY MÔN CẢNH HUẤN QUYỂN 3, BÀI ĐỘ NI GIÁO . : Di Mẫu của Phật thâm

chán sanh tử, cầu xuất gia. Phật không cho v. nữ tánh hèn kém. Người đời coi thường, khiến

chánh pháp bị giảm mất một nửa. Sau ngài Anan xin hộ mới được. Lời Sớ nói : Nữ báo hoặc

sâu trí cạn, ưa lười biếng kiêu mạn nên cần Tăng Ni mỗi bộ 10 vị giới sư mới phát được thắng

tâm. Theo như các luật th. chỉ có bà Đại Ái Đạo được nương 8 Kính Pháp mà thành thọ giới.

C.n 500 Ni kia phải nương chúng 11 vị (Tăng 10 vị và bà Đại Ái Đạo làm H.athượng).

Về sau, từ khi nước Sư Tử có Tỳ-kheo-ni học thông kinh luật mới đặt ra nghi thức 2

chúng cho thọ giới. V. phải có yết ma của Đại Tăng mới đắc giới (y 8 Kính Pháp). Cho nên

Cầu Na Bạt Ma Thánh giả nói : Nếu không đủ 2 chúng th. chúng 11 vị như việc bà Đại Ái

Đạo cũng được.

Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni thường trụ ở Ca Tỳ La Vệ v. Ni luật không cho phép du

phương tham học, cũng không được đi các nơi giáo hóa (người nữ có cái lụy về h.nh hài mà

thời xưa đường giao thông rất thiếu phương tiện).

Bà chứng quả A-la-hán. Trong hội Pháp Hoa, bà được thọ k. sẽ thành Phật, hiệu là

Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai.

Chùa ta lấy ngày an vị thánh tượng ở Linh Quang làm ngày cúng giỗ hàng năm.

  1. Ngày 8-12

ĐỨC THÍCH CA THÀNH ĐẠO

Hôm nay mồng 8 tháng chạp, dưới gốc Bồ-đề, giờ sao mai mọc, chúng ta làm lễ kỷ

niệm đức Bổn Sư thành đạo.

Theo con mắt thế gian th. Phật thành đạo rồi, ngồi im lặng hưởng pháp lạc. Hai mươi

mốt ngày sau mới qua vườn Lộc Uyển, giảng pháp Tứ Đế cho 5 anh em ông Kiều Trần Như,

gọi đây là lần chuyển pháp luân đầu tiên. Theo kinh sách đại thừa th. đức Bổn Sư là hóa thân

của đức Lư Xá Na. Đức Lư Xá Na thành Phật đ. lâu lắm rồi. C.i Phật Lư Xá Na, Hoa Tạng

thế giới, h.nh giống như bông sen 1000 cánh. Đức Lư Xá Na ứng hiện 1000 thân. Mỗi ứng

thân giáo hóa một cánh sen. Mỗi cánh sen có ngàn trăm ức hóa thân. Đức Bổn Sư của chúng

ta là một hóa thân.

Trong khi người thế gian thấy ngài ngồi một m.nh ở dưới gốc Bồ-đề th. các Bồ-tát

thấy ngài đang cùng vô lượng đại chúng, gồm đủ cả bốn thánh sáu phàm, giảng về 10 Tín.

Đồng thời ở Đao Lợi thiên cung, vua Đế Thích cùng quyến thuộc dự pháp hội dạy về 10 Trụ ;

ở Dạ Ma thiên có pháp hội dạy về 10 Hạnh ; c.i trời Đâu Suất có pháp hội thập Hồi Hướng ;

Tha Hóa Tự Tại thiên cung có pháp hội thập Địa v.v... như thế khắp không gian, khắp thời

gian lúc nào con đường thành Phật cũng đang được vạch bày, tùy theo căn cơ và duyên phước

chúng sanh. Pháp môn Vô-thượng Bồ-đề đang được vang vang truyền bá, không một sát na

rảnh hở. Thật là diệu thuyết thường hằng.

Kinh Hoa Nghiêm là phương pháp tu hành thông cho cả mười phương c.i. Chẳng phải

là một giáo hóa tùy cơ nghi. Lời dạy cùng cực xứng tánh. Đây là then chốt của nhất thừa. V.

thế sau 600 năm Phật Niết-bàn, Long Thọ Bồ-tát vào long cung, được xem bộ kinh huyền áo

này, vội học thuộc đem về nhân gian truyền bá ở Ấn Độ. Chỉ cần một bài kệ cũng đủ phá địa

ngục cho chúng sanh. Cất tiếng xưng 7 chữ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh tức là

đ. có tổng danh của vô tận kinh tạng. Từ đó các sư đại thừa, trọn mạng sống hoằng truyền,

khiến chánh pháp m.i m.i thạnh huy.

Sau khi Phật thị tịch 500 năm, đạo pháp ở Ấn Độ c.n là thời chánh pháp, th. kinh này

  1. chưa cần đến nên vẫn ẩn tại long cung. Hết thời chánh pháp, các Bồ-tát mới lưu thông kinh

này, để vẽ đường thành Phật cho những khách c.n đọa đày trong tám nạn.

Trước hết kinh tr.nh bày chánh báo và y báo không thể nghĩ bàn của đức Lư Xá Na

cho chúng ta vui mừng phát tâm mong cầu. Kế là con đường tu học thập Tín, quan sát pháp

giới trùng trùng duyên khởi, vô ng., vô thường, khổ và không. Tất cả đều duy tâm tạo. Luân

hồi đ. do tâm tạo mà hiện có th. giải thoát cho đến Vô-thượng Bồ-đề cũng do tâm mà thành

biện. Được thập Tín rồi tiến lên học thập Trụ (10 trùng l. Bát Nh. từ cạn đến sâu). Có thật

hiểu đệ nhất nghĩa đế mới chịu an trụ vào chân l.. Trăng sáng, sông lặng, 3 con thuyền, 1

đ.nh trụ, 1 về Nam, 1 về Bắc. Nam thấy trăng kia ngàn dặm theo về Nam. Bắc thấy trăng kia

ngàn dặm theo về Bắc. Người đ.nh trụ thấy trăng không xê dịch. Thế là vầng trăng bất động

mà ở cả 3 nơi. Như Lai ứng hiện cũng thế. Tức thể là dụng, không đâu chẳng cùng khắp. Đi

hay ở tại chỗ là tùy duyên. Phật không động tĩnh mà vẫn khắp phó quần cơ. Như trăng kia thật

vẫn ở trên trời mà chúng sanh tự thấy có trăng Nam trăng Bắc. V. chuyên về Bát Nh. nên tịnh

hạnh là thông tu của thập Trụ.

Dùng 10 cảnh làm duyên để tác . quan sát : thân, thân nghiệp ; ngữ, ngữ nghiệp ; ., .

nghiệp ; cùng Phật Pháp Tăng và giới. Sơ Phát Tâm Trụ, công đức đ. ngang với hư không.

Trụ nơi chân tâm bản tánh rồi, thập Hạnh dùng 10 ba la mật để phát huy công dụng. Tiếp đến

đại bi khắp trùm là hồi hướng chúng sanh. Mong cầu đại trí là hồi hướng Bồ-đề. Tin, Hiểu,

Hạnh, Nguyện đ. chu viên, thân chứng chân như, tr.n đủ thập Địa, gọi là Đẳng giác. Rồi lên

Diệu giác tức là thành Phật. Cuối cùng phẩm Nhập Pháp Giới mượn một điển h.nh là Thiện

Tài, để tr.nh bày thứ lớp tu chứng, tất cả ngôi vị từ sơ phát tâm đến vô thượng quả.

Thỉnh đại chúng đọc qua vài trang chánh văn để tự thân nếm pháp vị (chúng đọc Hoa

Nghiêm kinh, phẩm Nhập Pháp Giới).

Văn Thù nêu biểu thập Tín, cũng là căn bản trí, Bát Nh. trí, vô sư trí. Trí này ai cũng

sẵn đủ, chỉ cần vẹt hết vô minh th. tự hiển lộ. Văn Thù cùng đi với vô lượng Bồ-tát, nêu biểu

Bát Nh. dẫn đường vạn hạnh.

Văn Thù từ lầu gác Thiện Trụ mà ra. . nói y vào tự lợi mà lợi tha, trước tự giác tỉnh

sau giác tỉnh cho người. Xá Lợi Phất đem 6.000 Tỳ-kheo đến yết kiến Văn Thù. Xá Lợi Phất

nêu biểu trí tiểu thừa trợ giúp đại thừa. Con số 6 nêu biểu 6 căn thanh tịnh, có thể nhập pháp

giới. Nghĩa là có căn khí đại thừa, có thể trở về chân tâm bản tánh. Văn Thù dạy 10 Hạnh xu

hướng đại thừa. Mười câu, mỗi câu đều nhắc “không chán mỏi”. V. chúng sanh vô biên, pháp

môn vô tận. Nếu chấp tướng mà tu hay sanh mỏi nhọc, thành thoái đọa. Nếu không chán mỏi

  1. Phật quả nắm chắc trong tay.

Thiện Tài nói 34 bài tụng, đại . thương thân trầm nịch, thỉnh Văn Thù cứu vớt, dạy

Bồ-đề đạo. Văn Thù đáp toàn vẹn 10 câu hỏi : Nếu thấy nhiều Phật, nghe pháp (10 Tín) tức có

thể học hiểu (10 Trụ), tu tr. (10 Hạnh), thành tựu đại nguyện (10 Hồi Hướng), sẽ chứng nhập

chân không chẳng ngại diệu hữu (10 Địa) vào biển phương tiện mà an trụ Bồ-đề. Lời đáp đại

thành tổng giáo các pháp, hiển trong 10 Tín ở văn kinh. Khuyên cầu thiện tri thức không được

do dự. Bảo t.m c.i Thắng Lạc, núi Diệu Phong, Tỳ-kheo Đức Vân.

Thắng là siêu vượt. Lạc là an vui. Bởi v. tiến lên Sơ Trụ, sự an vui thắng vượt 10 Tín.

Núi tiêu biểu sự tịch tĩnh không động. Phải lên cao mới có thể thấy khắp. Sơ Trụ tâm mới

hiểu giải, y định phát tuệ, tịch nhiên không động, trí giám không sót, thấu triệt nhân quả, quan

sát vạn loài. Tên núi Diệu Phong v. ai lên đỉnh tâm này liền thành chánh giác. Tỳ-kheo nêu

biểu đ. ra khỏi phàm phu và ngoại đạo. Tên Đức Vân nghĩa là đức như mây.

Mây có 4 . : 1) Phổ khắp. 2) Nhuận trạch. 3) Che trùm. 4) Rót mưa. Nêu biểu 4 đức

Định, Phước, Bi và Tuệ. V. Đức Vân là Bồ-tát Tỳ-kheo. Bồ-tát tâm lớn thường làm phước.

Định và tuệ là chỗ tu thiết yếu của Tỳ-kheo. Bắt phải cầu thiện bạn để làm quỹ tắc cho

tất cả hậu lai tu hành, cầu pháp không lười mỏi. Bạn lành nói pháp không sẻn tiếc. Thiện bạn

là toàn phạm hạnh như vua A Xà Thế được gặp Kỳ Bà, như vua Diệu Trang Nghiêm được

gặp Tịnh Đức và Tịnh Tạng. Tự phá ngu chấp kiêu mạn, hạ m.nh học hỏi, khắp kính phụng

sự. Trong vô cầu vẫn thỉnh cầu. Phá chấp thiên không, khiến tức sự tức hành, thà học ít mà

chứng nhập.

Thiện Tài thấy Đức Vân kinh hành chậm r.i ở một ngọn núi khác, sau 7 ngày t.m kiếm

(7 ngày nêu biểu 7 giác chi trợ đạo. Kinh hành là quán, đi chậm r.i là chỉ). Đây là ngôi Sơ

Phát Tâm Trụ. V. trí tuệ trụ ở tánh Bát Nh. đ. được bất thoái.

Đức Vân dạy : “Ta được tự tại quyết định giải lực, tín nh.n thanh tịnh trí quang chiếu

diệu”. Đây chính bày pháp giới tức là niệm Phật tam muội. Tự tại : Quán cảnh tự tại, tác dụng

tự tại. Quyết định : Trí quyết đoán, đ. được l.ng tin không do dự. Giải : Hiểu r.. L.ng tin và

trí tuệ giúp nhau. Cảnh ngoài không thể động lay gọi là lực, nghĩa là tam muội. Tín nh.n

thanh tịnh : Con mắt thấy r. nên l.ng tin chân chánh. Tu niệm Phật tam muội trước phải

chánh tín, kế dùng trí mà quyết liễu, r. thấy phân minh.

Kinh Văn Thù Bát Nh. dạy niệm Phật nhất hạnh tam muội, trước nói về chân pháp

giới bất động. Biết chân pháp giới không động dao là nghĩa hiểu giải quyết định trong đây.

Cho nên niệm Phật việc đầu tiên phải học Bát Nh.. Nhất hạnh : Hệ duyên pháp giới

một tướng tức là hệ duyên pháp giới bất động. H.a-thượng Cao Tề Đại Hạnh nói rằng : “Hai

chữ TIN NHỚ không l.a tâm, kính xưng danh hiệu Phật không l.a miệng”. Phật không l.a

miệng, không l.a tâm. Phật tức cứu hộ. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường xưng danh, thân

hành lễ kính, mới gọi là tin sâu. Cứ thế sớm chiều, trọn không tạm trụ ở các pháp sanh tử.

Thanh Lương Quốc sư đem việc này sách tấn kẻ sơ tâm, cho đây là việc rất quan trọng.

Tín nhỡn khắp quan sát không g. chẳng phải là Phật. Đây là bậc thượng căn. C.n

thông thường, người tu niệm Phật tam muội trước quán Hóa-thân, kế quán Báo-thân, sau mới

quán Pháp-thân. Đây Đức Vân quán cả 3 một lúc. Mắt tin thanh tịnh là đ. l.a tất cả chướng

(ngũ cái và chấp thủ dù ch.m dù nổi) để chứng tam muội. Kinh dạy : “Không thấy vạn pháp

như huyễn th. thấy mà không thấy, đó là kẻ lóa mắt”. Nếu c.n phân biệt, c.n chấp tướng

chẳng thể thấy Phật. Phải rốt ráo hoàn toàn l.a đắm trước mới thấy Phật. Tín nhỡn khắp quán

vạn pháp, tánh thể đều là chân như, gọi là trí quang chiếu diệu. Thấy l.a tướng như thế tức là

đầy đủ thanh tịnh nhất hạnh tam muội. V. nhất hạnh là nhất pháp giới hạnh. Trên đây là nội

dụng. C.n sau là ngoại dụng : “Đi khắp mười phương tất cả quốc độ. Cung kính cúng dường

tất cả chư Phật”. Đ. cùng cực nguồn tịch chiếu th. bất động mà đi, công dụng hẳn vô cùng.

Thường niệm tất cả chư Phật, tổng tr. tất cả chánh pháp. Thường thấy tất cả mười

phương chư Phật nghĩa là thường đến nên thấy tại chỗ. Thấy r. từng sự việc như là sắc tướng

quang minh, đạo tràng trang nghiêm, thần thông du hí, tùy tâm chúng sanh tin ưa mà thị hiện

các thứ giáo hóa v.v...

Thiện bạn đầu tiên dạy niệm Phật, v. đây là đầu vạn hạnh. Trí Độ Luận dạy rằng :

“Bồ-tát lấy Bát Nh. ba la mật làm mẹ, niệm Phật tam muội làm cha. V. có y Phật mới thành

các thắng hạnh”. Lại là ngôi Sơ Trụ duyên Phật phát tâm, vui thích cúng dường. V. niệm Phật

công cao mà dễ tiến. V. quán Phật thông cả cạn sâu nên có thể khắp nhiếp chúng sanh. Niệm

Phật tiêu diệt trọng chướng. Niệm Phật là kiêm cả niệm người và niệm pháp nên dễ gia hộ.

Luôn một lúc Đức Vân nêu ra 21 môn niệm Phật. Trước nói tên sau hiển tướng. Cả 21

môn đều là niệm thể và dụng vô ngại của Phật. Quán Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Mỗi thứ

đều có y báo chánh báo thành 6 pháp quán. Pháp-thân th. có pháp tánh độ. Báo-thân th. Hoa

Tạng các c.i là y báo, 10 thân tướng hải là chánh báo. C.n Hóa-thân th. 32 tướng hảo là

chánh báo, quốc độ đang thị hiện là y báo.

Cảnh trùng trùng đế v.ng là nhập Phổ Hiền niệm Phật tam muội. Môn cuối cùng này

là thông tướng. 20 môn trên là biệt tướng. Môn số 18 là tổng tướng duy tâm, thị tâm thị Phật

  1. thị tâm tác Phật. Số 19 tùy ng. tùy tâm, v. tâm có nhiều thứ nên thấy Phật có khác nhau.

Tông Tịnh-độ ở Việt Nam giản dị theo kinh A Di Đà, chuyên niệm danh hiệu Phật để cầu

v.ng sanh, thuộc về sự l. vô ngại, do Hóa-thân Phật Thích Ca Mâu Ni đề xướng.

Ngày 8-12, cách đây 2500 năm, là ngày đức Thích Ca thị hiện thành đạo, ở dưới gốc cây Bồ-

đề, hứa hẹn giải thoát vô minh cho nhân loại.

Ngày Tết Bồ-đề !

Kể từ ngày ấy, cây Bồ-đề được làm tiêu biểu cho chánh giác thế gian. Kể từ ngày ấy,

trí tuệ loài người trên trái đất này chợt le lói như sao mai lấp lánh trong màn đêm.

Từ ánh sáng của sao mai, một tia hy vọng mát mẻ, báo trước thế gian tối tăm sẽ biến

thành rực rỡ quang minh, tắm trong huy hoàng chiếu diệu của mặt trời trí tuệ. Cung thỉnh đại

chúng ngửa lên ngắm sao mai mọc mà vui mừng. Tánh của chúng ta không phải là tối đặc, là

si mê. Chúng ta là ánh sáng. Kinh Hoa Nghiêm, Phật tuyên bố câu nói lịch sử : “Lạ lắm thay !

Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ đức tướng, trí tuệ của Như Lai”.

Ngôi thập Tín là ánh sáng của sao mai. Thập Trụ là minh tướng xuất hiện. Thập Hạnh,

thập Hồi Hướng là b.nh minh. Thập Địa là thật r. ban ngày. Đẳng giác Diệu giác là mặt trời

tới đỉnh. Ai chưa đi học cho rằng mặt trời mọc để rồi lặn. Người có học biết mặt trời không hề

có mọc có lặn.

Ngày mồng 8 tháng 12 tuyên bố cho thế gian biết trí tuệ chánh giác vẫn thường trụ ở

khắp mười phương. Muôn loài ai cũng có tánh Phật và sẽ thành Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

  1. CHƯƠNG TR.NH

XẢ Y CÔNG ĐỨC (16-12)

— Lễ Phật – Lễ y – Lễ 18 A-la-hán.

— Đại chúng tạ Thầy.

— Đáp từ.

— Tặng quà thưởng Tỳ-kheo-ni tr. y.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

— Chúng nhỏ giải tán.

— Chúng Tỳ-kheo-ni lưu lại yết ma xả y công đức.

— Vị tr. y ở giữa chúng bạch :

“Con Tỳ-kheo-ni... v. Tăng tr. y công đức đ. xong”.

BAN THỦ ĐÁP TỪ

Đang khóa chuyên tu, chị em chỉ có một việc theo d.i tâm m.nh. Quan sát cảm giác và

tư tưởng đến rồi đi, không để tâm dính mắc bất cứ một chuyện g.. Chú tâm tỉnh thức trước

những sự đang xảy ra dù ngoại cảnh hay trong tâm. H.nh thức tu hành tương đối khắt khe g.

bó. Năm tháng vừa qua đ. đưa chị em vào khuôn khổ oai nghi thánh hiền.

Nay m.n khóa, tạm nghỉ, chị em trở về nếp sống b.nh thường. Chớ quên mọi việc làm,

mọi tác động đều là cơ hội thực tập thiền quán. Bất cứ công việc g., quét dọn, phụ bếp, rửa

chén v.v... phải chú tâm tỉnh thức, giữ chánh niệm. Đừng nghĩ rửa nhà cầu, đổ ống nhổ chỉ ích

cho người khác. Nên biết tất cả đều là giáo pháp. Đừng nghĩ chỉ trong thời khóa mới hành

thiền. Không lẽ ngoài các khóa tu ta không thở sao ? Ta có thể đọc sách, t.m hiểu thêm giáo l.

nhưng không dính mắc vào sách vở cũng như không nên dính mắc vào định tâm. Đó là trí tuệ.

Định lực là dụng cụ để tiến xa nhưng ngồi nhiều hay ít không thành vấn đề. Thận

trọng chớ cho tu hành mục đích là đạt đến định tâm an ổn khoái lạc. Thế là phí thời giờ. Thiền

Minh Sát là phương pháp giúp ta giải thoát, do quan sát bản chất của vọng thân và vọng tâm

vô thường, vô ng.. Hiểu r. bản chất của khổ vui th. Phật pháp ở ngay đấy. Nếu ta hoàn toàn

mở rộng tầm mắt trước mọi diễn biến thế gian mà không yêu ghét th. ta với Phật là một. Thấy

được thật tướng của vạn hữu là cốt tủy của học và dạy học.

Mở cửa tịnh thất, trở ra tiếp xúc với đời sống trong chúng, chị em cần lưu tâm tránh 2

điểm : nói lời vô ích và thói tụm năm tụm ba. Đôi khi thấy ai có hành động không tốt, ta bất

b.nh, phán đoán, kể lể. Thế là ta đ. ra ngoài giáo pháp của Phật. Ta tự mua phiền n.o vô ích.

Đừng bắt mọi người phải theo đúng như . muốn của m.nh. H.y quay về xem xét

những cảm giác của m.nh. Đó là phương pháp giúp ta khai tuệ. Đang lái xe trên một con

đường nhiều khúc cong. Bổn phận ta là chăm chú chớ để xe đi lệch đường. Tai nạn nguy hiểm

đợi chờ.

Luật Sadi kể chuyện : Một tam tạng Pháp sư lên chánh điện, thấy một l.o tăng tụng

kinh giọng ồ ề, liền nói đùa : Ngài tụng kinh như chó sủa. Chỉ v. ngứa lưỡi một lời mà 500

đời sau đọa thân chó. Thân cuối cùng ăn vụng thịt, chủ nhân giận quá chặt 4 chân, quẳng

vào đống rác. Chó quằn quại đói khát mấy ngày. Ngài Xá Lợi Phất đi qua xót thương, cho

ăn và v. nói pháp. Tới khi chó chết sanh vào nhà trưởng giả, được đặt tên Quân Đề. Sau

theo ngài Xá Lợi Phất xuất gia chứng quả. Vị tam tạng Pháp sư đ. đi lệch đường nên dĩ nhiên

phải gặp tai nạn.

Cuộc đời muôn màu muôn vẻ nhưng toàn hư vọng. Phật dạy : Không nên có tâm phân

biệt, đừng phán đoán. Nên giản dị quay trí sáng về theo d.i tâm m.nh. Phát triển l.ng lành,

loại bỏ thói châm chọc khinh mạn, đừng gây đau khổ cho ai. Đây là con đường an b.nh m.i

m.i.

  1. ĐẠI CHÚNG BẠCH TẠ SƯ CÔ BAN THỦ

Kính thưa Sư cô Giám thiền !

Mùa y công đức năm nay chúng Liên Hoa thực hiện khẩu hiệu “Im lặng – Chăn trâu –

Xả ng.”. Rất may mắn cho chúng con được Sư cô hướng dẫn tận t.nh. Tuy thời gian không

bao nhiêu, nhưng chúng con được nếm chút thiền vị, tập làm quen với pháp môn Tứ Niệm

Xứ.

Thưa Sư cô ! Những ngày đầu tiên chắc Sư cô phải vất vả nhiều, v. chị em chúng con

c.n bỡ ngỡ. Sư cô phải hướng dẫn, sửa chữa từng tư thế, cách ngồi, tay, chân, vai, lưng, mắt,

điều h.a hơi thở ra vào, sao cho đúng pháp khỏi sanh bệnh. Những buổi tr.nh pháp, chúng con

được học thêm nhiều kinh nghiệm trong sự tu hành. Sư cô ân cần nhắc nhở chúng con :

— Phải ghi niệm không được lười mỏi.

— Phải giữ miệng im lặng, để tâm vào đề mục thiền.

— Phải theo d.i hơi thở, không cho vọng tưởng sanh.

— Phải cố gắng hàng phục hôn trầm.

— Luôn luôn thắp sáng trí tuệ, soi chiếu từng hơi thở, soi chiếu tiểu oai nghi v.v...

Thật qu. báu thay những giờ tu tập, chúng con đ. tiến bộ dần. Nhờ để . hơi thở,

chúng con hàng phục được vọng tâm, khắc chế miệng đỡ nói tạp, vui vẻ h.a nh. với chị em.

Nhờ để . hơi thở, chúng con thấy r. sự sanh diệt, thấy r. thân mạng vô thường,

xây dựng trên hơi thở ra vào mong manh. Mỗi khi xúc sự, tâm muốn nổi sân, thoáng thấy Sư

cô, chúng con vội nhớ lại bổn phận. Liền khởi trí quán : “Sân à ! Sân à !”, “Vọng tưởng à ?

Phóng tâm à ?”. Nhận r. bộ mặt của chúng th. chúng khắc tan.

Tuy chỉ vỏn vẹn có 5 tháng, mà chúng con cũng đ. thâm nhập được một phần nào

hương vị giải thoát. Chúng con ao ước sau khi m.n khóa lại được phước duyên tiếp tục công

phu, sâu vào hành pháp Tứ Niệm Xứ, để tiến dần đến Bát Nh. trí, chiếu kiến ngũ uẩn giai

không, độ hết thảy khổ ách.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. PHÁP TƯỚNG PHÁP TÁNH

Đạo Phật có 2 tông phái tựa hồ trái nhau. Pháp tướng tông thờ đức Di Lặc, chủ trương

vạn pháp duy thức biến. Pháp tánh tông thờ đức Văn Thù, chủ trương vạn pháp duy tâm tạo.

Vậy thế nào là tâm thức ? Thế nào là tâm tánh ? Kinh sách gọi tâm thức là vọng tâm,

tâm tánh là chân tâm.

Tâm tánh là tánh của tâm, bản chất linh tri, vô phân biệt mà diệu minh, diệu giác

không thể nghĩ bàn.

Tâm thức là phân biệt theo thức t.nh vọng động, phan duyên cảnh trần mà tính toán lợi

hại.

Tánh là thể. Thức là dụng sai lầm.

Thật ra 2 tông không trái nhau mà c.n làm sáng tỏ cho nhau. Phàm t.nh chúng ta chấp

tướng nặng, nên thường phải học Duy Thức trước, rồi vào Bát Nh. chân tâm mới dễ dàng.

Pháp tướng tông nghiên cứu đường đi sai lầm của tâm thức, chuyển thức thành trí, đưa

người tu trở về chân tâm bản tánh. Nghĩa là đánh giặc vô minh từ ngoài đánh vào.

Pháp tánh tông y tánh Viên giác lọc bỏ năm ấm sanh tử, đánh giặc vô minh từ trong ra.

Từ căn phát sanh ra thức. Hạt giống cây Long Hoa (pháp tướng tông) ở ngay sáu căn của

chúng ta. Lăng Nghiêm (pháp tánh tông) gọi là mật nhân Bồ-đề.

Đức Văn Thù khuyên quan sát kỹ vạn pháp duyên khởi không thật, để trở về tánh của

tâm thức, chính là chân tâm.

Phong tục thỉnh đức Di Lặc xông đất ngày đầu năm, có . mong 365 ngày sắp tới,

chúng ta sẽ được b.nh an vui vẻ như ngài. Muốn được như ngài phải tu theo ngài. “Mặc ai

báng, mặc ai chê, đem lửa đốt trời luống tự nhọc. Ta nghe vui như uống nước cam lồ, tiêu

dung đốn nhập khó nghĩ bàn”. H.a-thượng Thanh Từ giảng rằng : “Cầm lửa đốt hư không,

bao giờ hư không cháy ?” Trái lại, nếu tâm chúng ta làm bùi nhùi bốc cháy theo lửa sân của

họ th. chúng ta bị cháy ra tro. Người tu đâu cần hơn thua. Chẳng những b.nh tĩnh thản nhiên,

mà c.n coi như được uống cam lồ. Chê khen là thử thách để đo lường trí tuệ vô sanh, l.ng từ

bi, hạnh nhẫn nhục. Nghĩa là đo lường đạo lực của chúng ta. Để kết luận H.a-thượng cho bài

phú :

S.i tôi một dạ tu hành,

Buông xả vạn duyên.

Chí mong siêu thăng làm Phật Tổ,

L.ng nguyện độ tận chúng sanh.

Đêm đông tr. chú, dóng chuông boong boong.

Ngày hạ tụng kinh, lên m. cốc cốc.

  1. chuộng đạo đức,

Miệng chẳng nề ăn đắng ăn cay.

Bởi yêu hai chữ “Từ Bi”

Thân nào quản áo lành áo rách.

Đây là lời nhắc nhở. Đi tu quyết thành Phật thành Tổ để làm g. ?

Để cứu vớt chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ.

Với tinh thần ấy, sáu căn quản g. trái tai, gai mắt. Đức Di Lặc tươi cười trong ngũ

trược ác thế, nhờ trí tuệ biết r. 6 căn huyễn hóa, 6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm. Cổ nhân xưa

hằng tự nhắc : “Tỉnh tỉnh chớ bị lừa !” Xả thức sanh diệt trở về chân tánh vô sanh là Niết-bàn,

là mùa xuân vĩnh cửu.

  1. PHỔ CÁO ĐÓN XUÂN

Kính bạch đại chúng !

Nhập gia tùy tục ! Mỗi năm Tết đến, chùa chúng ta tuy bổn phận là chiếu kiến ngũ uẩn

giai không, nhưng vẫn cùng toàn quốc Việt Nam đón xuân mừng tuổi. Vui h.a với nhịp sống

thế gian như vậy đ. không trái đạo lại c.n là chính . Phật Tổ. Kinh dạy : Nhất thiết chư pháp

vô phi Phật Pháp. Xuất thế gian ở ngay trong thế gian là diệu dụng của Bồ-đề. Thầy chắp tay

tùy hỷ tán thán những ngày vui đầu năm của đại chúng.

Nhưng tuy vẫn thở chung một bầu không khí nhộn nhịp vui tươi của ngày năm mới,

chúng ta nên mở con mắt đạo nh.n một sự thật. Ngày Tết là ngày “bánh chưng xanh, thịt mỡ,

dưa hành, câu đối đỏ”.

Cái vui của thế gian là thế. Muốn cho loài người vui th. trâu b., heo dê, gà vịt, cua cá

phải chết. Nhà nhà bếp bếp thi nhau chặt cổ, mổ bụng chúng sanh. Vậy th. ngày Tết là ngày

vui hay ngày khổ ? Theo Phật giáo, đó là ngày loài người gieo ác nhân. Ngày chúng sanh trả

nợ máu. Đại thừa Phật giáo có mặt ở Việt Nam đ. ngót ba ngàn năm mà vẫn chưa có thể

chuyển hóa được một phong tục r. ràng không hợp l.. Chẳng phải là lỗi của Tăng Ni chúng ta

hay sao ?

Tổ dạy có 3 cách giải thoát :

1) Thượng căn tự lực giác ngộ. Đây là giải thoát bằng Tuệ.

2) Trung căn đọc tụng kinh sách, học và hiểu. Đây là giải thoát bằng Trí.

3) Hạ căn một l.ng cầu nguyện. Đây là giải thoát bằng l.ng Tin. Chưa có thể giác tỉnh

quần chúng, ta chỉ có cách đền tội bằng cầu nguyện. Nên ngày 28, 29, 30 Tết chúng ta đổi

việc sắm tết làm một đàn chay, giải oan gỡ kết cho ta và người.

Hương Sen chuyên niệm đức A Di Đà, Dược Sư chuyên niệm đức Lưu Ly Quang,

Lăng Nghiêm chuyên niệm đức Quán Thế Âm, Linh Quang chuyên sám Lương Hoàng lạy

đức Bổn Sư, Liên Hoa chuyên tụng Pháp Hoa, Viên Thông chuyên lạy Thủy Sám. Chương

tr.nh tụng niệm lễ bái tùy mỗi trụ xứ soạn thảo. Ai muốn dâng lễ phẩm chúc tết Thầy, ít nhiều

xin cứ gởi cúng vào đàn chay, trên cúng dường Tam-bảo, dưới đảnh lễ tạ ơn đại chúng.

Nguyện cầu âm siêu dương thái, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.

Nam mô Công Đức Lâm Bồ-tát ma-ha-tát.

Linh Quang 21-12 ÂL (1994)

Thầy Hải Triều Âm

Phổ cáo

  1. TIỀN THÂN ĐỨC DI LẶC

Chuyện Cổ Phật Giáo kể rằng :

Ngày xửa ngày xưa, có ông Tiên tên là Nhất Thiết Trí Quang Minh tu ở trong rừng.

Gặp năm mưa gió trái thời, cây cỏ héo khô không khai hoa kết quả, dân gian mất mùa, khắp

nơi đói kém. Một con thỏ thấy Tiên ông nhịn đói, thương quá, bèn ra trước mặt ngài để hiến

thân cho ngài. Nhưng Tiên ông chỉ vuốt ve thỏ mà không nghĩ g. đến chuyện hại thỏ. Thỏ

nghĩ : “Tối nay Tiên ông đốt lửa sưởi, ta sẽ nhảy vào tự quay nướng thơm ngon, chắc Tiên

ông sẽ dùng”.

Sương chiều lạnh buốt, ngọn lửa hồng vừa cháy đỏ th. thỏ con nhảy phốc vào, . mừng

rằng : “Đằng nào cũng chết, nay lại được chết để cúng dường một vị đại đức”.

Ngọn lửa xèo xèo reo vui, thui nướng thân h.nh Bồ-tát. Riêng Tiên ông không vui tí nào. Cảm

động ngậm ngùi trước sự hy sinh của con vật, ngài phát nguyện : “Đời đời dù chết, quyết

không nỡ l.ng ăn thịt chúng sanh”.

Từ đấy ngài có tên là Di Lặc (Từ Thị), luôn luôn mẫn từ thương xót muôn loài. Thỏ là

tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.

HÓA THÂN ĐỨC DI LẶC

Cách đây hơn ngàn năm, ở bên Tàu bỗng nhiên xuất hiện một vị H.a-thượng béo tr.n, bụng

phệ, miệng cười tươi như hoa, tay xách túi vải. Nên được tên là Bố Đại H.a-thượng (Bố Đại

là túi vải). Có ai thỉnh pháp, ngài buông tay nải xuống, chắp tay đứng im. Nếu gạn hỏi : “Chỉ

có thế thôi à ?” th. ngài vác đ.y vải lên vai đi thẳng. Một ngày kia, Bố Đại H.a-thượng ngồi

trên mỏm đá, cười mà hóa sau khi đọc kệ :

Di Lặc ! Thật Di Lặc !

Hóa thân ngh.n trăm ức,

Luôn luôn nhắc người đời,

Mà người đời chẳng biết.

Ngài giáng sanh, độ thế chỉ một nụ cười. Vậy mà cái cười ấy được truyền bá khắp tầng

lớp trong nhân gian nhiều hơn các thứ kinh luận khác.

Người Tàu ham ưa nền triết l. tươi vui của nụ cười nên khắp nơi nơi, thường thấy

bóng h.nh Bố Đại H.a-thượng hoặc khắc, hoặc vẽ, hoặc nặn, hoặc chạm trổ. Lại sợ những ai

không tinh ., không hiểu được . nghĩa sâu xa của nụ cười, người ta nặn thêm h.nh 6 chú bé

  1. bám quanh ông bụng phệ, đặt tên là lục tặc (6 tên giặc). V. các chú ngây thơ dại dột lắm,

tinh nghịch dối trá khiến cha mẹ thất điên bát đảo.

Chú thứ nhất tên nh.n thức (cái biết của mắt).

Chú thứ hai tên nhĩ thức (cái biết của tai).

Chú thứ ba tên tỵ thức (cái biết của mũi).

Chú thứ tư tên thiệt thức (cái biết của lưỡi).

Chú thứ năm tên thân thức (cái biết của thân).

Chú thứ sáu tên . thức (cái biết của .).

Chú thứ 6 bé nhất, suốt ngày ở trong nhà tối. Chú không tiếp xúc với đời nhưng 5 chú

kia luôn luôn thọt mách lẻo khiến chú cứ mừng vui, hờn giận, ham thích, uất ức... đủ các thứ

tâm sở phiền n.o kết thành màn vô minh. Chú đâm ra mù quáng. Tuy mù nhưng lanh lẹ lắm.

Tội nghiệp cho cái thân, cái lưỡi, chúng nó thật là những đầy tớ trung thành, chú bảo

sao nghe vậy. Chú sai chúng đủ thứ : sát, đạo, dâm, vọng v.v... Hết 365 ngày đi, lại 365 ngày

khác tới, 6 anh em nhà này cứ loạn xạ, cho đến bao giờ cái nhà mấy chú ở sụp đổ tiêu tan.

Câu chuyện có thế, thật là trẻ con. Chỉ là những tấn tuồng hết vui lại buồn, hết buồn lại

vui của một đàn trẻ. Bậc thức giả đâu có bị lừa mà chẳng ngồi cười.

Khốn nỗi chúng ta ai cũng tin 6 chú bé của ta thông minh, sáng suốt nhất đời. Tin đến

nỗi có 6 chú ấy th. ta sống, không có th. ta chết. Ít người tự hỏi : Vậy ta là ai ?

Nhân loại mỗi người nuôi 6 chú giặc làm con, hèn chi mà quả địa cầu này chẳng ướp

mùi khói đạn máu xương, hèn chi mà thần hạnh phúc chẳng lánh xa c.i Ta Bà.

Bồ-tát Di Lặc cười v. ngài đ. thắng trận giặc rất khó khăn, xưa nay không mấy ai

thắng nổi. Ngài đ. nắm được chủ quyền. Ngài đ. điều phục được giặc, chuyển bọn giặc thành

những bầy tôi trung nghĩa hiền lương. Nhà ngài ở vốn Thường Tịch Quang, không hề vẩn đục

chút phiền n.o.

Bởi thế, ngài c.n có tên là A Dật Đa. Tàu dịch là Vô Năng Thắng, vô địch tướng quân.

Ngài đ. toàn thắng vô minh. Bồ-tát ngồi cười v. đ. thấy r. thế gian ân ân oán oán, duyên nợ

báo đền chỉ là tr. huyễn hóa, do 6 chú “lục tặc” xóa xóa bầy bầy. Chúng ta có đại phước

duyên được thờ đức Di Lặc làm Thầy, được học pháp môn Duy Thức nên trong chùa, kẻ trên

người dưới vui h.a, cùng nhau đầm ấm sửa soạn đón xuân.

  1. KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

Tôi nghe thế này : Một thời đức Phật ngự ở núi Linh Thứu, thành Vương Xá, cùng

đông đủ các đại Tỳ-kheo.

Đại trí Xá Lợi Phất cung thỉnh Thế Tôn nói lại bài tụng thọ k. Từ Thị, bậc đại thần

thông oai đức, sẽ hạ sanh làm Phật.

— Xá Lợi Phất định tâm lắng nghe ! Hết kiếp giảm đến thời kiếp tăng, con người thọ 8

vạn tuổi, không tật bệnh, không phiền n.o, thân tướng đoan nghiêm, sức lực viên m.n, biết

trước giờ lâm chung, tự đến rừng Thi lâm.

Châu Nam Thiệm, nhân dân từ nghiệp lành sanh về, sống không h.nh phạt tai ách. Mặt

đất không gai góc, trải cỏ xanh mềm dịu, êm chân như vải bông mịn. Nếp thơm mọc tự nhiên,

thức ăn ngon lành tự có. Cây rừng trĩu những hoa trái, y phục và vật dụng để trang sức.

Kinh đô Diệu Tràng Tướng lâu đài 7 báu, hào r.nh trân châu, hoa thơm, chim qu.. Chuông

vàng, khánh bạc v.v... nghiêm sức tuyệt diệu, cùng gió vang diễn diệu âm. Nơi nơi ao hồ, tạp

sắc hoa nở thơm ngát.

Thánh vương Hướng Khư phước đức hùng mạnh, bốn biển thái b.nh, kho đầy châu

ngọc, chánh pháp thạnh trị. Đại thần Thiện Tịnh thông thạo bốn minh. Vợ là hiền nữ Tịnh

Diệu, dạo vườn xem hoa, bỗng sanh con trai thân vàng sáng chói, khuôn mặt trăng tr.n, mắt

biếc xuân sơn. Đây là Bồ-tát từ c.i trời Hỷ Túc giáng sanh, thanh tịnh như sen nở, hào quang

khắp rực rỡ. Bồ-tát đi 7 bước, 7 bông hoa đỡ gót. Giọng như Đại Phạm Vương, tuyên bố nội

trong đời này sẽ chứng Niết-bàn. Chín rồng phun nước tắm. Hoa trời rải như mưa. Thiên tử

che lọng báu. Hư không vang h.a nhạc. Thiện Tịnh biết 32 qu. tướng này, xuất gia thành

chánh giác, ở tại gia làm Chuyển Luân Thánh Vương.

Ngày Từ Tôn giáng đản, nữ nào mang thai đều sanh con an ổn. Vua Hướng Khư kiến

lập 7 bảo tràng cao 70 tầm, rộng 60 tầm, bá thí cho các Bà-la-môn, Phạm chí. Họ vui mừng

hớn hở nhưng chẳng bao lâu các tràng báu hư nát. Bồ-tát thấy vậy, tỉnh ngộ thế gian vô

thường, t.m cách thoát ly ngục tù sanh tử. Ngày Bồ-tát xuất gia, 84.000 người phát tâm theo

ngài tu phạm hạnh. Ngay đêm ấy, ngài thành chánh giác dưới gốc cây Long Hoa. Quần chúng

như mây, nhóm đông đầy vườn Diệu Hoa. Vua Hướng Khư nghe pháp, cùng 84.000 quyến

thuộc xuất gia. 84.000 đồng tử Bà-la-môn, Thiện Tài trưởng giả cùng 1000 quyến thuộc, bảo

nữ Tỳ Xá Khư cùng 4000 thị nữ, vô số thiện nam tín nữ đồng thời xuất gia.

Đại Từ Thế Tôn phán rằng : Những ai đ. thâm tâm tin chịu chánh đạo của Thích Ca

Mâu Ni Phật, nay đều sanh trong pháp ta. Cúng dường Phật Thích Ca, quy y Tam-bảo, tứ sự

phụng thờ Tăng chúng, trai giới thanh tịnh, giáo hóa chúng sanh khiến được sạch trừ phiền

n.o v.v... Những người như thế nay đều đ. sanh trong pháp của ta.

Hội đầu 96 ức Thanh-văn giải thoát.

Hội hai 94 ức Thanh-văn giải thoát.

Hội ba 92 ức Thanh-văn giải thoát.

Mỗi khi Phật Từ Thị cùng đệ tử vào thành khất thực, thiên chúng tán hương cúng

dường. Hoa thơm trải đất, nhạc âm vang trời. Bên đường phất phới tràng phan các màu. Vua

Đế Thích xưng tán : Nam mô Thiên Thượng Tôn ! Nam mô Sĩ Trung Thắng ! Lành thay Bạcgià-

phạm ! Đại bi cứu thế gian ! Ma vương c.i trời đảnh lễ quy y Đại Đạo Sư.

Nhân dân phần nhiều là A-la-hán. Trời, rồng, a-tu-la, la-sát, dược-xoa thảy đều hoan

hỷ cúng dường. Tất cả đại chúng đều thành tựu phạm hạnh. Người th. sạch chướng trừ nghi,

siêu vượt sanh tử. Người th. l.a nhiễm, xả báu, dứt ng., ng. sở. Người th. hủy lưới thân ái,

viên m.n tịch diệt.

Từ Thị Thiên Nhân Tôn thọ 6 vạn tuổi. Chánh pháp trụ thế 6 vạn năm.

Người thông tuệ nghe pháp như trên, vui mừng phát nguyện, mong gặp đức Từ Tôn.

Ai cầu giải thoát trên hội Long Hoa, h.y chăm cúng dường Tam-bảo, siêng năng tu hành. Ai

đọc tụng thọ tr. giảng nói kinh này, như pháp tu hành, hương hoa cúng dường, hoặc viết chép

lưu bố, sẽ được gặp Từ Thị hạ sanh, sẽ có phần giải thoát trong 3 hội.

Phật nói pháp xong, ngài Xá Lợi Phất cùng đại chúng vui mừng tin chịu vâng làm.

Nam mô Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh, Di Lặc Tôn Phật (3 lần).

  1. LONG HOA TAM HỘI

Long Hoa là một thứ cây to lớn sum suê, cành uốn khúc như rồng múa. Hoa màu hồng

tươi nở rực rỡ khắp cành nên gọi là cây Long Hoa. Đức Di Lặc ngồi dưới gốc cây này thành

đạo. Đức Thích Ca nói kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật :

Nhất tâm nghe cho r.

Lửa tam muội sáng soi,

Người công đức thứ nhất

Đang sắp sửa ra đời.

Người ấy nói pháp mầu

Ai nghe đều vui thỏa,

Như khát uống cam lồ

Tới ngay đường giải thoát.

Đất nước ấy bằng phẳng một làn như tấm gương lưu ly. Có bao thứ hoa, cánh hoa

mềm mại như lụa trên trời, kết quả cát tường, mùi thơm vị ngọt. Nhân dân sống 84.000 tuổi,

người cao 16 trượng. Con gái 500 tuổi mới đi lấy chồng. Đến lúc già suy, cứ tới rừng kia

niệm Phật mà v.ng sanh, hoặc đi các c.i trời, hoặc đi các c.i Phật. Nhân dân chỉ có 3 bệnh :

ăn uống, đại tiểu tiện và già chết. Đại tiểu tiện xong, đất tự nứt chôn đi, tại nơi ấy nẩy bông

sen đỏ. Không có giặc cướp, đao binh, đói khát, chết non. Ai nấy giữ g.n sáu căn, cung kính

h.a thuận nhau như con yêu cha, bà thương cháu. Người không sát sanh, không ăn thịt, được

sanh về đấy.

Gạo lúa thơm ngon, cấy một lần gặt 7 lần. Chúng nhân coi vàng ngọc như gạch ngói.

  1. chúng sanh căn khí khác nhau, đức Di Lặc mở 3 hội :

1- Gồm những đại thừa Bồ-tát đ. tu tr.n 6 ba la mật.

2- Những vị giữ tr.n 5 giới trở lên l.ng tin quyết định :

Quy y Phật, mở l.ng rộng r.i độ m.nh độ người.

Quy y Pháp, nghiên cứu kinh điển phân biệt chánh tà.

u đức lập hạnh.

3- Để vớt những mầm thiện c.n kém duyên lành, chậm kết quả.

Đức Thích Ca v. bi nguyện, không nỡ bỏ sót một chúng sanh nào đ. có duyên với

ngài. Nên nhất nhất giao phó cho đệ tử là đức Di Lặc sau này phải làm nốt nhiệm vụ giáo hóa

và thọ k. cho tất cả đều được thành Phật. Từ người lễ một lễ, tới đứa trẻ trong lúc chơi đùa,

nhác trông thấy Thánh tượng. H.nh ảnh in vào thức thứ 8. Ngày mai gặp duyên, hạt giống nẩy

mầm cũng thành chánh quả. Cả những kẻ chê bai đạo Thích Ca, cũng đ. kết duyên với Phật,

đều được Từ thệ nhiếp về tới hội này.

Nhưng bao giờ đức Di Lặc mở 3 hội Long Hoa ?

Trong kinh Di Lặc Thượng Sanh, Phật bảo ông Ưu Ba Ly rằng : “Người ấy từ đây 12 năm

nữa sẽ sanh lên trời Đâu Suất, 50 ức vạn năm nữa xuống c.i Diêm-phù-đề, ngồi dưới gốc cây

Long Hoa thành Phật quả, khua trống lớn, quay bánh xe pháp lớn”.

  1. ràng là đức Di Lặc tuy c.n ở cung trời Đâu Suất, nhưng cây Long Hoa hiện đang

nẩy mầm ở ngay nhân gian này. Chị em chúng ta h.y gánh nước đại bi tưới khắp c.i, cho rễ

cây ăn sâu suốt nơi nơi, bắt đầu từ trái tim trong trắng của đàn em bé.

Cha chúng ta đ. có lời nguyện đại bi, đại dũng như vậy, chúng ta há chẳng nên ra công

kết duyên lành cho muôn loài. Nỡ nào c.n để sót những sinh linh phiêu bạt trầm luân. C.n ai

muốn theo chân đức Di Lặc lên cung trời Đâu Suất, để sẽ cùng ngài xuống trần mở hội Long

Hoa, h.y nghe lời đại sư Thái Hư : Ngay từ bây giờ chuyên học chuyên tu Duy Thức, giữ giới

sát sanh thật tinh nghiêm, đoạn trừ phiền n.o, tỏ ngộ l. ng.-không pháp-không, hàng ngày

niệm “Nam mô Di Lặc Như Lai”. Như thế hiện tại thân tâm trong sạch, không tai nạn bệnh

tật. Lâm chung, các thiên tử, thiên nữ sẽ xuống đón lên cung trời Đâu Suất.

  1. HÁI LỘC ĐẦU NĂM

TẠI CÂY BỒ-ĐỀ LINH QUANG

SÁNG 1-1 NHÂM THÂN 1992

Sông ái ngàn thước sóng,

Khổ hải vạn trùng ba.

Muốn thoát luân hồi khổ

Mau sớm niệm Di Đà.

Giải nghĩa :

Xuất gia cắt ái từ thân. Công cha như núi thái sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn

chảy ra. Cắt đứt t.nh thâm vào chùa cầu giải thoát. Những mong có đạo xuất thế để báo hiếu

đền ơn.

Nhưng nếu không tu học Tứ Niệm Xứ để xả ng. ái. Cái ta cứ sừng sững đối lập với

mọi người. Lại c.n riêng tư bè đảng. Người này tôi hợp, người kia không ưa. Khiến cho hai

chữ Tăng Già trở thành vô nghĩa.

Thánh nhân thường nhắc : “H.y nhớ thân ta chỉ là nắm bụi”. Xuất gia là chuyển thế

giới của cái tôi thành thế giới của chúng ta. Nhà chùa gọi là chuyển cô tâm thành lục h.a tâm.

Ai nấy quên quyền lợi riêng để cùng nhau xây dựng Tam-bảo. Đức Phật thường nhắc : “Trùng

trong thân sư tử mới giết nổi sư tử”. Nghĩa là chỉ những người xuất gia, cạo tóc, đắp y, mà

không sống đúng như luật như lời Phật dạy, mới khiến cho đạo Phật suy vi. Phật Pháp Tăng là

cửa giải thoát độc nhất của muôn loài, là nơi nương tựa duy nhất của chúng ta. Mong rằng

mỗi người con Phật cố gắng tr.n bổn phận.

  1. M.N KHÓA ABHIDHARMA

Abhidharma : Tàu phiên âm là A Tỳ Đàm, dịch nghĩa là Luận tạng. Abhi là mổ xẻ để

bàn rộng, phân tách để nói r., phát triển cả chiều cao lẫn chiều sâu. Dharma : Giáo pháp.

Abhidharma là một kho luận l.. Riêng tiểu thừa (nguyên thủy) cũng có tới 7 bộ, gồm nhiều

ngàn pháp môn do Phật nói ở cung trời Đao Lợi. Ngài A Na Luật Đà đ. khéo kết tập, các Tổ

sư đ. phân khoa và giải nghĩa.

Chúng ta học hôm nay chỉ là một phần nhỏ xíu ở quyển đầu bộ thứ nhất. Tuy đ. rút đi

rút lại chỉ c.n một l.i chất thật đơn giản nhưng vẫn đủ 3 phần chánh yếu của toàn thể giáo l.,

một đời thuyết pháp của đức Bổn Sư : 1) Cảnh. 2) Hành. 3) Quả.

1- Tâm thức chúng ta tr.nh bày 3 cảnh :

  1. a) Tâm thiện, tâm ác của Dục giới.
  2. b) Tâm Sắc giới và Vô sắc giới.
  3. c) Tâm siêu thế.

2- Pháp môn tu hành có 40 đề mục thiền.

3- Quả là 4 ngôi Thánh. Tới A-la-hán là tr.n phận sự, là tốt nghiệp trường tiểu học

Phật giáo, bằng cấp là trí tuệ Niết-bàn. Chỉ có một việc là chuyển phiền n.o thành Bồ-đề.

Vinh hoa là dự hàng Thánh chúng, hưởng phước vĩnh viễn an vui.

Các em đ. học kỹ nhưng chưa tập chưa tu. Nhớ nhiều chữ, viết nhiều chữ, kể ra cũng

  1. lắm. Trong c.i Ta Bà mù l.a này mà biết chữ Phật, đ. là châu báu vô giá rồi. Nhưng .

Phật không muốn chúng ta đếm châu báu vô giá của Phật mà chỉ ao ước chúng ta thật sự thi

đỗ làm quan A-la-hán, thoát hẳn cái khổ làm dân luân hồi.

Thầy thưởng đồng đều cho mỗi em một cuốn Duy Thức. Cô Giáo Thọ sẽ đưa các em

vào rừng Luận tạng đại thừa.

Đây là lời Phật rải rác trong khi thuyết pháp ở Ấn Độ thời xưa. Đức Di Lặc soạn tập

và biện tác các nguyên l.. Ngài Vô Trước và em là ngài Thế Thân diễn đạt rộng ra. Các đệ tử

truyền nối thịnh hành.

Nước Tàu có Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ học, phiên dịch rất nhiều kinh, đặc biệt

chú trọng môn này. Khi về nước, ngài đem tài uyên bác thành lập pháp tướng Duy Thức tông.

Các đệ tử nổi danh của ngài đ. khiến cho tông phái này cực kỳ hưng thịnh, truyền bá

qua Nhật Bản, Cao Ly, Việt Nam...

Các em sẽ thấy Luận học nguyên thủy hay đại thừa đều cao không cùng, sâu không

đáy, rộng không bờ nhưng chung quy cũng chỉ nghiên cứu về cái tâm của chúng ta. Nói về

một cái tâm của chúng ta mà Phật Tổ đ. dùng cả biển mực viết m.i vẫn chưa xong. Nương

ánh sáng trí tuệ của Phật Tổ, các em sẽ có nhiều phát minh thích thú. Cả một chân trời mới lạ

hé mở. Đặc biệt Luận nguyên thủy và Luận đại thừa đồng thanh nhắc chúng ta rằng ai ai cũng

có 3 thứ hữu dư : 1) Tập khí. 2) Báo chướng. 3) Phiền n.o.

Từ lịch kiếp chúng ta đ. tạo vô biên tội ác. Những tội nặng đ. trả quả ở địa ngục, ng.

quỷ rồi. Tham ái nhẹ đ. làm bồ câu, chim sẻ, cá chép, cá bống v.v... rồi. Sân nhẹ đ. làm rắn,

mèo, hổ, báo v.v... rồi. Ngu si nhẹ đ. làm voi, heo, ruồi, kiến v.v... rồi. Nay c.n dư báo phải

trả đền :

1- V. tập khí nên xuất gia dễ phạm sát, đạo, dâm, vọng.

2- V. dư báo nên câm điếc hoặc gặp nhiều hẩm hiu, các thứ chướng nạn.

3- V. phiền n.o nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham sân si, để đời đời đi lại trong tam

đồ.

Nhưng nguy nhất là thứ phiền n.o kiêu mạn. Mười người hết chín bị nó sai sử. C.n

một người kia bất quá là chỉ v. biết dùng trí tuệ tự kiềm chế. Nhưng nó vẫn thầm thầm ở

trong. Nuôi dưỡng kiêu mạn cống cao th. quả ở đường dưới. Nếu được làm người cũng chịu

dư báo, làm thân hèn hạ quyền người sai sử. Tài giỏi sang giàu mà ít kiêu mạn là đ. tu nhiều

kiếp. Bởi thế đối với kẻ ăn xin, ta nên cảm thông nỗi khổ nhục phải kêu nài. Gặp ai cũng nên

vui vẻ chào hỏi. Đối với các vị mới xuất gia lớn tuổi nên cung kính để các ngài hoan hỷ mừng

tu...

Cho nên khiêm tốn nhún nhường là tướng mạo của trí tuệ. Đức Phổ Hiền trong kinh

Hoa Nghiêm dạy các đại Bồ-tát : Muốn an trụ nơi pháp giới thanh tịnh, đầy đủ công đức lành,

phải ba nghiệp thân miệng . niệm niệm hằng sám hối, không bao giờ chán mỏi.

  1. THƯ THĂM BỆNH (Kinh Duy Ma Cật)

Văn Thù hỏi : An ủi Bồ-tát bệnh thế nào ?

Duy Ma Cật đáp : Thân vô thường nhưng nó là cái bè đưa người tu lên cảnh thường

trụ. Thân là gốc khổ, nhưng bản chất là tánh Niết-bàn. Thân không thật, nhưng Bồ-tát cần

dùng nó để giáo hóa chúng sanh. Thân tuy rốt cuộc là không, nhưng chân diệu pháp thân, thật

không rời nó mà chứng. Biết khổ của bệnh th. thương chúng sanh đ. bao đời, đeo hết thân

này sang thân khác, chịu hết bệnh này sang bệnh khác. Biết gốc của bệnh là do nghiệp báo

nên hằng nhớ nghĩ tịnh thân miệng ., dạy người tu phước ở lành. Bồ-tát thân mang bệnh khổ

nên l.ng dạ chỉ ước mong làm sao chữa hết thân bệnh và tâm bệnh cho chúng sanh. V. thế

Bồ-tát bệnh mà vẫn phấn khởi tinh thần, vui vẻ sống với tâm Bồ-đề.

* * *

Bồ-tát bệnh, điều phục tâm m.nh thế nào ?

— Thưa, nên nghĩ thế này : Thân do đất, nước, gió, lửa giả mượn. V. cố chấp làm ta

cho nên bốn đại không h.a mới tự nhận là m.nh bệnh. Việc trước hết phải suy xét cho ra, thân

này không phải ta, cũng không phải của ta. Không ta không người, không chúng sanh, không

thọ mạng. Trở về sống với tánh thể b.nh đẳng, tánh thể này không hề có bệnh.

Thân ta đang khổ c.n chúng sanh trong địa ngục, ng. quỷ, bàng sanh giờ này đang thế

nào ? Ta tuy khổ nhưng đ. tự biết điều phục vọng tâm để giải thoát gốc khổ. Nay ta cần cố

gắng dạy chúng sanh dứt trừ gốc khổ, đừng để đến nỗi hết thống khổ này lại thống khổ khác.

Từ tối vào tối, đêm dài rên rỉ từ lịch kiếp tới nay, hỏi đến bao giờ mới cùng tận.

* * *

Thế nào là gốc bệnh ?

— Tâm vọng tưởng phiền n.o trần lao, dính níu sáu trần trong ba c.i là gốc bệnh (v.

đó là gốc luân hồi sanh tử, nhân đây có thân. Từ thân phát sanh tất cả sanh, l.o, bệnh, tử, ưu,

bi, khổ, n.o).

Làm sao dứt được ?

— Quán vạn pháp vô sở đắc (6 căn huyễn hóa, 6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm). Thưa

ngài Văn Thù, Bồ-tát điều phục tâm m.nh như vậy, dứt các thống khổ sanh già bệnh chết là

d.ng m.nh của Bồ-tát.

* * *

Nếu Bồ-tát c.n thấy có ta, có người bệnh. Rồi v. ta bệnh nên thương người bệnh, đó

là ái kiến đại bi. Đ. thấy có ta th. làm lâu sẽ mỏi. Đ. thấy có người th. khi người khổ m.nh

thương, khi người xấu m.nh ghét. Tâm không b.nh đẳng sẽ có oán thân. L.ng đại bi quyết

định bị thương tổn. Nên trong khi cứu giúp mọi người. Bồ-tát luôn luôn giác tỉnh vô ng. vô

pháp. L.ng từ bi luôn luôn sẵn sàng với bất cứ ai ai, bất luận trường hợp nào, hoàn cảnh dù

nghịch dù thuận, không cần đủ duyên nên gọi là vô duyên từ.

— Có tuệ phương tiện th. giải thoát,

Không tuệ phương tiện th. trói buộc.

— Có phương tiện tuệ th. giải thoát,

Không phương tiện tuệ th. trói buộc.

Thưa ngài Văn Thù, thường quán thân vô thường, vô ng., khổ và không gọi là có tuệ.

Đủ duyên vẫn không quản khổ nhọc để độ chúng sanh gọi là phương tiện. Có tuệ phương tiện

là phương tiện có trí tuệ soi sáng. Như trên đ. nói, cứu độ chúng sanh mà vẫn giác tỉnh vô

ng., vô nhân, gặp người bội bạc vẫn làm ân, bị hiểu lầm không nản chí. Do đó mà ở hoàn

cảnh nào việc lành cũng vẫn tiến hành.

C.n phương tiện tuệ là trí tuệ trong khi đủ duyên cứu giúp chúng sanh. Đem tâm ham

muốn, nóng giận, tà kiến để vun trồng công đức là không có phương tiện tuệ.

* * *

  1. có trí tuệ nên Bồ-tát ở trong sanh tử mà không nhơ xấu, ở Niết-bàn vẫn nguyện độ

chúng sanh. Tuy cứu độ chúng sanh tận t.nh mà chẳng yêu thương dính líu. Tuy xa l.a tất cả

ràng buộc mà không diệt tận thọ tưởng. Tuy thân tâm tịch diệt mà vẫn hiện thân vào sanh tử.

Tuy rốt ráo thanh tịnh mà vẫn tùy chỗ ứng thân. Có năng lực như vậy mới có thể phát đại

hùng nguyện :

Địa ngục chưa không, thề chưa thành Phật.

Chúng sanh độ tận, mới chứng Bồ-đề.

  1. Thư gửi Ni chúng VIÊN THÔNG

Thầy đọc sách : “Tự giác, giác tha, giác hành viên m.n. Sự nghiệp vĩ đại này, chỉ dành

riêng cho những ai giản dị, khiêm tốn nhún nhường, hạ m.nh đảnh lễ đại chúng. Coi lời chê

bai như nước cam lồ. Coi quở trách như món quà sách tấn”.

Bao nhiêu tội ác, tham sân si là gốc. Cho nên Sadini mà không có Tứ Niệm Xứ, Tổ gọi

là cán cờ gỗ. Tấm y nêu biểu Giới Định Tuệ c.n cái cán gỗ th. giá trị g. ?

Chiến sĩ trước hết phải biết giặc ở chỗ nào. Tham ngon, giận dở, cứ mống ra ở cái lưỡi

trong mỗi nuốt. Anh hùng dùng gươm tuệ chém luôn. Bé Huệ Hương nhắc thêm : “Chẳng

những khi ăn mà khi c.i lộn cũng cái lưỡi này sân si”.

Thật ra đâu chỉ một cái lưỡi này có tội. Đi đứng nằm ngồi, nói nín, mắt nh.n, tai nghe,

mũi ngửi, thân xúc. Lúc nào tu sĩ chẳng phải canh gác sáu căn. Đêm khuya giặc vẫn lởn vởn

trong tâm. Không đề ph.ng kỹ, làm sao an hưởng thái b.nh.

Đang đêm Tổ ngồi dậy la lớn : “Có giặc ! Có giặc !” Trong chúng ta ai là con Phật ?

Ai phá Tam-bảo ? — Chỉ ở nơi ph.ng giữ 6 căn. Hai đức thẹn hổ vừa rời tâm liền có nạn. Cẩn

thận, trong khi đang chê bai người khác, có khi m.nh đang là giặc sân. Có người chưa đến nỗi

thế. Chỉ hôm nay bất m.n một tí. Mai bất m.n một tí. Tập quen thành giặc lúc nào không hay.

Trong khi ấy, cứ tự đánh lừa m.nh là chiến sĩ của đấng Pháp-vương.

Luật Sadini các con thuộc nhừ hơn cháo. Những điều mà trẻ thơ mấy con biết r., già

móm hết răng như Thầy vẫn chưa làm xong. Các con thật đ. được ướp kỹ Phật pháp. Con nhà

giàu đâu có sợ nạn đói.

Thân gởi các con thêm một chuyện :

Cây mít sum suê vươn cao,

Hôm nay ngày cuối tháng 2 mưa rào.

Những chiếc lá vui sướng mừng reo : Chào chào mưa hạ ! Chào nước trong veo ! Mát

quá ! Mát quá ! Cám ơn ! Cám ơn gió đưa mây về đây !

Nhưng cũng có tiếng rên : “Khổ quá ! Lạnh quá ! Vừa nắng cháy da nay lại sắp sửa

lạnh buốt thấu xương. Khổ quá ! Khổ quá !” Các bạn an ủi : Chị h.y dũng cảm đón mưa to

gió lớn. Mưa càng dữ dội bao nhiêu, chúng ta càng mạnh khỏe chóng lớn bấy nhiêu. Chị đừng

phiền trách mặt trời. Chính ông ta đ. cho cả họ nhà mít những múi ngọt ngào thơm ngon. Nếu

không có bốn mùa mưa nắng, gió sương thay nhau đan dệt, th. làm sao có những trái mít kếch

sù, khiến cho nhân loại nể v. họ mít ?

Chiến sĩ Bồ-đề cũng vậy :

Thích Ca nguyện độ chúng sanh,

Đem thân đến ở rừng xanh quản g..

Sáu năm khổ hạnh một m.nh,

Trải bao sương tuyết mà không ng. l.ng.

Quyết thành pháp ng. hai không,

Trời cao đất rộng, biển nào sánh công.

Nhờ đây đạo Phật sáng ngời !

Ngàn năm m.i m.i cho đời làm gương.

Chúc cầu Phật Pháp miên trường !

  1. CHUYỆN CỔ PHẬT GIÁO

Dưới cội Bồ-đề hùng vĩ, đức Thích Ca kết già an định. Một thanh niên tuấn tú quỳ

bạch : Con là đông cung thái tử nước Cambasa, tên là Djêta, về đây xin làm đệ tử.

— Bảy trăng sau mùa mưa này ngươi h.y trở lại.

Tới kỳ hẹn, đức Phật dạy : Này hoàng tử cao qu. ! Kiếp trước con đ. gây nghiệp. Nay

trả quả th. con đ. sa ng. như tất cả ai ai. Thế là con không đủ khả năng vào đạo.

— Xin đức Thế Tôn từ bi chỉ r. để con biết đường ăn năn.

— Vừa rồi, có người mưu đoạt ngôi vị của con nên đ. vu cáo cho con một chuyện

giữa triều đ.nh. Thay v. b.nh tĩnh đợi chờ ánh sáng chân l. hoặc nhẫn chịu lời vu khống để trả

nợ kiếp xưa, con đ. phẫn nộ quyết minh oan cho bằng được. Người tu hành làm thinh l.nh

những bất công, v. với họ thế sự không c.n quan hệ nữa : danh giá, lợi dưỡng, oai quyền, tự

ái v.v... không c.n giá trị. Họ tin chắc l. nhân quả. Trên đời không có sự ngẫu nhiên. Khổ vui,

vinh nhục đều do đ. gieo nhân.

Điều thứ hai là con đ. ích kỷ. Tên Batica muốn làm thân với bạn con là Dasa. Lửa

ganh ghét đ. bật lên trong l.ng con.

— Bạch đức Thế Tôn ! Đó là v. con biết Dasa bị lợi dụng.

— Hoàng tử cao qu. ơi ! Cái biết trong lưới thất t.nh lục dục, cái biết của mắt thịt tai

phàm, cái biết của ngũ quan vô minh, cái biết của ng. ái ganh ghét. Người học đạo cần t.m

chỗ sai của m.nh hơn là thấy cái xấu của kẻ khác, không than van phiền muộn sự phản bội bất

trung, qu. bạn không vị kỷ mà vị tha. Rộng l.ng bác ái chớ không nắm lấy một người, đó là

gốc của trí tuệ.

Điều thứ ba là con đ. thiếu l.ng nhân từ, tàn nhẫn xô đuổi thứ phi Nan Đà dù cô đ.

thiết tha xin chừa.

— Bạch đức Thế Tôn ! Cô đ. nhơ danh xú tiết. Con làm sao được phép để cho cô bôi

nhọ cả hoàng gia. Điềm nhiên trước những sai quấy như thế là khuyến khích những bại hoại

luân thường đạo l..

— Này hoàng tử cao qu. ! Bậc cầm quyền cần thưởng phạt. Người cầu đạo t.m hiểu

để cứu vớt, không v. sự thanh tịnh mà tách m.nh ra khỏi nhân loại. Con là một phần tử trong

thế gian. Nghiệp quả của con vốn vẫn dệt chặt với nghiệp quả của muôn loài. Cần t.m l. do để

tha thứ hơn là kết án. Thanh tịnh không đi đôi với từ bi dễ nhuộm độc kiêu căng tự phụ và

đưa đến l.nh đạm trước những đau khổ của kẻ kém hèn.

Djêta ơi ! Hy M. Lạp Sơn đầy tuyết trắng thật oai nghiêm hùng vĩ nhưng bốn mùa

lạnh ngắt. L.ng nhân ái như tia nắng ấm áp. Chúng sanh cần sự tha thứ và nâng giấc để phấn

khởi đi lên.

— Lạy đức Thế Tôn ! Con sẽ ráng sửa m.nh cho hợp l. đạo. Xin cho con đặc ân được

yết kiến ngài một lần nữa.

Thái tử hồi triều giúp vua sửa sang việc nước, luôn luôn nhớ rằng muốn có đức phải

có công. Mỗi mũi gai làm rướm máu là một bước vào đạo. Gốc rễ của tật xấu ăn sâu vào thâm

tâm. Nhổ nó ắt nhiều đau xót. Ta phải tập trung tất cả lực lượng của tâm hồn mới hy vọng.

  1. LÀNG ANH NHI VIỆT NAM

Nửa thế kỷ chiến tranh vừa qua, đ. đem vành khăn tang cho bao nhiêu gia đ.nh Việt

Nam. Bao nhiêu cô nhi vất vưởng, bao nhiêu phụ nữ không gia đ.nh, bao nhiêu già l.o bơ vơ.

Sư cụ Ngộ Chân Tử chùa Hoằng Pháp khai khẩn 42 mẫu đất ở Gia Định để thành lập

làng Anh Nhi Việt Nam. Nơi đây đ. xây cất nào chánh điện, giảng đường, nào trường trung

tiểu học, bệnh xá, viện dục anh, viện dưỡng l.o cho đến nghĩa trang, cơ sở công kỹ nghệ cho

các em học nghề và từng d.y nhà cho những nhân viên nông trại của làng. Sư cụ kêu gọi Tăng

Ni về hợp tác để xây dựng ở làng Anh Nhi một nền đạo đức thuần túy hiếu thiện. V. theo . Sư

cụ, con người dù tài cao học rộng đến đâu mà thiếu lễ nghĩa tàm qu. cũng là thiếu tất cả,

không thể ích lợi g. cho nhân quần x. hội. Làng Anh Nhi Việt Nam có nguyện vọng bảo vệ

những tâm hồn thanh khiết, những khối óc trong trắng khỏi bị ô nhiễm v. những thói hư tật

xấu của đường đọa lạc.

Nhân dịp đầu năm Ất M.o (1975) Sư cụ in một triệu tờ Pháp Môn Niệm Phật, khuyên

các Phật tử xa gần, thuộc nằm l.ng 6 tiếng “Nam mô A Di Đà Phật”. Đường về c.i Tịnh ngắn

nhất, giản dị, dễ dàng nhưng không nên coi thường. Miệng niệm, tâm nghe, hợp nhau mới ích

lợi. Nhiều người tu mà ít ai đắc quả, chỉ v. quá vụ sự tướng bên ngoài, không lo tu tâm bên

trong. Có người rất thành kính, sớm tối đèn nhang chuông m.. Nhưng ngoài giờ công phu, lại

buông lung thân miệng . nên không tránh khỏi vay tạo thêm nghiệp mới.

Ngoài các khóa lễ, đi đứng nằm ngồi, quét nhà thổi cơm v.v... tâm nhớ miên mật sáu

chữ hồng danh. Như dùng phèn lắng nước đục, ta tập lắng dịu l.ng trần. Định thần th. tuệ

sáng. Thất t.nh lục dục tiêu trừ, ba độc tham sân si m.n mỏng, bao nhiêu phiền n.o diệt sạch.

Được thế th. Cực Lạc hiện tiền, lo g. lâm chung không đến Tây phương. Vẫn h.a m.nh với

đời, tận lực độ sanh mà không nhiễm trần vọng. Tư tưởng giải thoát từ bi, lại được hào quang

Phật tiếp dẫn, th. con đường thánh thiện đâu có nhọc nhằn khó đi.

Niệm Phật chẳng cứ sớm chiều, giàu nghèo sang hèn, kẻ bận rộn, kẻ thanh nhàn, ai ai

cũng cần niệm Phật. Bởi v. mỗi niệm, mỗi phút giây, nương oai thần Phật, nương nguyện lực

Phật, bao nhiêu tiền oan báo chướng được băng tiêu, do đây giải thoát các tai nạn. Gia quyến

b.nh an khang thái, cửu huyền thất tổ siêu thăng. Niệm Phật đủ tín nguyện hạnh, thiện căn

vững chắc, d.ng m.nh đoạn trừ phiền n.o, một l.ng cứu khổ ban vui, gieo giống Bồ-đề, viên

thành phước tuệ, th. thiên long quỷ thần ủng hộ, A Di Đà Phật cùng Thánh chúng đón mừng.

Mau chân nhẹ gót lên thuyền, rời bến sanh tử Ta Bà ô trược, tới bờ Lạc Bang vĩnh viễn an

vui.

Ai ơi ! Niệm Phật qu. báu vô vàn !

  1. TỊNH ĐỘ

Sư Cô Tuệ Uyển, chùa Thiên Phước tỉnh Long An.

Chiêm bao thấy một vị Sư dạy 3 pháp tối thắng : Danh hiệu Phật A Súc, Thích Ca

Mâu Ni và A Di Đà.

— Con đ. niệm vài ức danh hiệu Phật A Di Đà.

— Tuy cô niệm mà không có tướng niệm trong tâm.

Tỉnh dậy không hiểu sao. Nhân kỳ nhập thất này có chút công phu nên biết được. Bèn

hành công phu lại, quả nhiên an lạc. Nên viết thành bài mong giúp kinh nghiệm cho chị em.

  1. NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG

Niệm Phật có 2 nghĩa quyết định :

1- Đánh thức tự tánh.

2- Nương đại nguyện lực Phật A Di Đà.

Từ vô thủy chúng ta mải sống với thân tâm sanh diệt, chưa từng một niệm phản chiếu

tự tánh. Đâu ngờ gốc của sanh là vô sanh. Niệm Phật là nhớ đến tánh Vô Lượng Quang, Vô

Lượng Thọ, Phật và ta đồng thể. Chỉ v. chúng ta sống với thức tâm sanh diệt nên Niết-bàn ẩn

mà lục đạo hiện.

— Tánh chân là thể (chủ).

— Vọng tâm là tướng dụng (khách).

Tánh và tướng hiển bày lẫn nhau.

Bội trần hợp giác đến tr.nh độ nhập lưu, sẽ thấy Phật A Di Đà, v. đ. vào được nhà vô

sanh.

Chân tâm như cái gương thường trụ bất động. Ánh sáng của gương (minh) chiếu ra

vọng cảnh sanh diệt, tướng phần của 6 thức. Chúng ta lầm nhận bóng là thật và ở ngoài, quên

chân tâm thường tịch (gương).

Người khéo niệm Phật cũng thế, dùng mà chẳng chấp có, tịch mà chẳng chấp không.

Tướng niệm và tánh vô niệm đ. chẳng trái nhau lại c.n sáng tỏ cho nhau.

Tâm an ổn thái b.nh.

  1. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Phật và chúng sanh chỉ cách nhau một cái vọng tưởng. Hữu niệm là chúng sanh, ly

niệm là Phật. Muốn được ly niệm phải tập vô niệm. Cổ đức thường nói : “Vô tâm, đạo dễ

t.m”.

Vô tâm chẳng phải không thể chất mà chỉ hết vọng tưởng. Như nói “cái b.nh không”,

là muốn nói trong b.nh không vật chớ chẳng phải không có cái b.nh.

Có 3 phương pháp :

1- Cảnh hết tâm c.n như chuyên phản văn. Áp dụng vào Tịnh-độ th. rũ sạch vạn

duyên, nhất tâm niệm Phật.

2- C.n cảnh c.n tâm. Đức Quán Tự Tại tu hành tinh thâm pháp Bát Nh. ba la mật đa,

chủ trương hư không đâu bị keo dính. Trong pháp môn Tịnh-độ, chuyên giữ một danh hiệu

Phật làm cảnh từ tâm ra tiếng. Tiếng lại rành rẽ nghe vào tâm.

3- Nhiếp cảnh vào tâm (tướng tánh nhất như). Lăng Nghiêm nói : “Cái cây không phải

tánh thấy, làm sao thấy được cây ?”

Vạn pháp quy về Như Lai Tạng. Người niệm Phật đ. tin chắc vạn pháp duy tâm, nghĩa

là pháp giới duy Phật. Pháp-thân Phật ở mười phương, ngay quanh ta, tại thân ta, không l.a ta.

Kinh dạy : “Năng niệm sở niệm tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”.

Đức Đại Thế Chí dạy : Thâu nhiếp sáu căn chuyên một tịnh niệm. Không cần phương

tiện nào khác mà cũng khai ngộ được tâm m.nh.

III. NHẬN TÁNH VÔ SANH TRONG SÁU CĂN

— A Di Đà : Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

Vô Lượng Thọ : vô sanh, thường trụ.

Vô Lượng Quang : tánh bản giác ở khắp mười phương.

— Kinh Lăng Nghiêm đích chỉ tánh thấy là tâm linh giác và nói r. tánh bản giác của

chúng ta hiện đang lưu lộ ở 6 căn. Mười phương Phật đồng nói : “Luân chuyển sanh tử cũng

từ 6 căn, mà tu chứng thanh tịnh diệu thường cũng từ 6 căn”. Đây là chỗ cổ đức bảo : Chính

nơi vọng tưởng hiện là chỗ hành của thánh trí. Chân l. cùng cực ở ngay con người mà con

người không biết, thật là đáng thương. Đức Lục Tổ dạy : “Quên tánh mà thấy nghe hay biết,

càng thấy nghe hay biết càng mê”. V. căn trần thức chẳng l.a nhất tâm. Chỉ có mê ngộ thành

ra xa cách.

Câu niệm Phật được coi là vừa song hành vừa song khiển.

Song hành là chân tục song song :

  1. a) V. khế cơ nên dùng pháp hữu vi khởi niệm.
  2. b) Vẫn khế l. v. mỗi niệm khiến nhớ tới bổn thể tự tánh quang minh vô sanh diệt.

Song khiển là buông xả cả 2 : Ngài Đại Thế Chí nói : Thâu nhiếp 6 căn chuyên một

tịnh niệm vào Tam-ma-địa.

  1. a) Thâu nhiếp 6 căn : buông xả hẳn cuộc đời thế tục.
  2. b) Vào Tam-ma-địa : vào chánh định th. không c.n phàm thánh, năng sở. Niệm

đ. tới chỗ vô niệm th. cảnh tịch diệt hiện tiền.

Ngài Trung Phong viết : “Sum la vạn tượng hiện trong đại viên kính trí như mây qua

lại trong hư không. Không phân biệt gọi là nhất tâm không loạn. Đến đây quên cả thân tâm”.

Đây là pháp như như đang tu nhân mà không nhiễm.

  1. PHÁ NG. ĐỂ SÁNG TỎ TÁNH VÔ SANH

Long Thọ dạy : “Có bệnh phải dùng đúng thuốc mới lành. Thuốc của tiểu thừa là tọa

thiền quán khổ. Thuốc của Bồ-tát là quán các pháp không buộc không cởi”.

Buộc là phàm phu vướng mắc tốt xấu.

Cởi là nhị thừa quán duyên sanh để giải ba độc tham sân si. Bồ-tát sống với tự tánh

nên không buộc không cởi.

Nay người niệm Phật, sống với tự tánh A Di Đà không buộc không cởi. Nhưng phải

uống thuốc đúng bệnh. Nếu tự xét c.n nặng nghiệp thế gian th. phải kiêm tu các pháp tiểu

thừa để thanh lọc tâm tánh.

Lục Hạnh Tập viết :

1) Phàm phu bố thí khởi tâm kiêu mạn thành tội.

2) Khởi tâm cung kính thành phước.

3) Nhị thừa bố thí quán pháp vô thường.

4) Sơ tâm Bồ-tát bố thí quán pháp vô ng..

5) Đại Bồ-tát bố thí quán tam luân không tịch.

6) Phật đ. chứng duy tâm, bố thí ly niệm thường tịch.

Một hạnh bố thí có 6 tướng khác nhau.

Niệm Phật thật dễ nhưng pháp môn này lại rất khó hiểu khó tin. Căn cơ chúng sanh

lược nói có 3 nhưng thật ra vô lượng nên hành tướng cũng vô cùng.

Đau khổ sanh tử đều do chấp ng. mà ra. Vô-thượng Bồ-đề phước tuệ trang nghiêm,

bắt đầu phải từ xả ng.. Chấp ng. mở ra các thứ chấp, chôn vùi Pháp-thân. Không phá được 5

ấm tức là không ra khỏi sanh tử. Nên thường quán thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường,

pháp vô ng.. Có trí tuệ Tứ Niệm Xứ th. niệm Phật sẽ tinh tấn và sớm kết quả.

  1. THỊ TÂM THỊ PHẬT, THỊ TÂM TÁC PHẬT

(Kinh Quán Vô Lượng Thọ)

Nắm đến chuỗi tràng, trần niệm dứt.

Nghiễm nhiên thành Phật đ. từ lâu.

Hễ cứ bỏ được trần tâm, liền sống ngay với Phật tánh, biết sắc tâm không, thành Phật

chẳng khó. Người mê tu nhân đợi quả. Người trí ngay chỗ dùng hàng ngày được vô sanh. Có

người cho rằng m.nh nhiều vọng niệm rất khó tu, đâu biết rằng đây là tại duyên nhiều cảnh.

Gương v. có tánh sáng mới chiếu soi. Vật bóng tuy nhiều nhưng sáng chiếu có một.

Thế gian có trăm ngàn đường nguy hiểm từ tâm niệm chúng ta đưa tới. Trí tuệ Phật

dạy chúng ta lọc bỏ hết đi, vạch bày một con đường thẳng tắt đưa về c.i An Lạc. Đặt chân cất

bước là phàm phu, tới cuối đường bảo đảm sẽ thành Bồ-tát vô sanh bất thoái, để tiến lên nhất

sanh bổ xứ. Chỉ cần ở chúng ta quyết tin và quyết đi. Quyết tin ngũ dục thế gian là đám bùn

chôn người không có ngày ngóc đầu ra. Ngài Đức Sơn bảo : “Mảy may hệ niệm là nghiệp

nhân tam đồ, chớp mắt t.nh sanh là gông xiềng muôn kiếp”. Há cho tu hành là việc tr. ho.n

được ư ? Cổ nhân nói : “Một câu niệm Phật mà dựa không vững, nắm không chắc, thường

ngày không chuyên, th. làm sao được tương ứng lúc trở về ?”. Bởi v. dù đ. ngộ, vẫn c.n ở

bên này bờ sanh tử. Lâm chung, chỉ có tâm tịnh biến thành cảnh tịnh, tâm nhiễm biến thành

cảnh nhiễm. Giờ phút gió phong đao xẻ thân, mấy ai c.n tự chủ ? Nên ngay bây giờ cần phải

sớm chiều niệm Phật.

V-/ MÙA XUÂN

TỪ 16-1 ĐẾN 14-4

(NGÀY 16-1)

  1. THỈNH PHÁP

I

Kính thưa Sư cô Pháp sư !

Mùa đông, mai vàng rực rỡ mừng hải hội Di Đà vừa tàn th. hôm nay mùa xuân Lăng

Nghiêm đ. trở về trên miền cao nguyên với thông xanh trúc biếc. Chúng con nô nức phấn

khởi đón mừng xuân Lăng Nghiêm, đem ánh sáng trí tuệ tăng trưởng Bồ-đề cho hàng hậu

học.

Chúng con vô cùng cảm động khi thấy ngay trên giường bệnh, Thầy vẫn hết sức cố

gắng soạn thảo ghi chép. Qu. Sư cô phụ Thầy thâu đêm suốt sáng làm việc, những mong bộ

Lăng Nghiêm hoàn hảo để truyền tới lớp trẻ chúng con.

Hôm nay trong khung cảnh trang nghiêm của bảo điện. Chúng con đảnh lễ cung thỉnh

Sư cô Pháp sư thay Thầy khai giảng bộ Lăng Nghiêm, chúng con nguyện cố gắng giúp đỡ lẫn

nhau, kiên tr. tinh tấn tu học để khỏi phụ l.ng trên Thầy và Sư cô trong muôn một. Từ bàn tay

trăm phước trang nghiêm, Thầy đ. bao năm nuôi nấng, ân cần đùm bọc để măng non thành

cứng cáp, những mong sau này vận chuyển guồng máy Tăng già, bảo tồn mạng mạch Phật

pháp.

Chúng con nhất tâm đảnh lễ mười phương chư Phật, chư đại Bồ-tát, thiên long bát bộ,

Hộ Pháp tôn thần ngày đêm ủng hộ cho lớp học Lăng Nghiêm được vuông tr.n, chúng con đủ

sức trí tuệ thâm nhập pháp môn đại thừa, hoa Bồ-tát tươi nở, quả Bồ-đề sớm viên m.n.

Nguyện cầu Thầy vô lượng thọ.

Sư cô Pháp sư vô lượng quang và toàn chúng vô biên công đức.

Nam mô Lăng Nghiêm hội thượng Phật Bồ-tát.

Nam mô Nhĩ căn viên thông đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát.

II

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Tôn Pháp.

Nam mô Khải Giáo Ananđà Tôn giả.

Một nén chiên đàn hương

Khói tỏa khắp mười phương,

Thỉnh Sư lên bảo tọa

Phật pháp rộng tuyên dương.

Hàng phục ma lực oán

Trừ kết tận không dư,

Đàn tràng rung chuông khánh

Thỉnh Pháp sư an tọa.

Chúng con cầu nghe pháp

Mong qua biển sanh tử,

Ngày nay đủ duyên lành

Khấu đầu cung kính thỉnh.

Kính bạch Sư cô Pháp sư !

Ai cũng biết từ xưa Mật tông vẫn cấm nghiệt không cho truyền bá bừa b.i giáo pháp

của m.nh. Các vua Ấn Độ hộ pháp, phạt tử h.nh những ai không tuân lệnh. Nên bộ Lăng

Nghiêm không được tự do truyền bá ra nước ngoài. M.i đến đời Đường mới có Samôn Bát

Lặc Mật Đế lấy một thứ mực không chi làm phai được, viết trọn bộ Lăng Nghiêm vào một

thứ lụa thật mỏng, rạch vế đùi nhét vào rồi khâu lại, giả làm vết thương, theo các lái buôn đi

đường biển, vào Trung Quốc. Do đây Phật giáo châu Á mới có kinh Lăng Nghiêm để ngày

nay truyền bá đến chúng con.

Như vậy các bậc tiền bối đ. v. đạo xả thân, chịu đau chịu khổ bao nhiêu để có pháp

bảo lưu truyền hậu thế. Cũng bởi v. kinh Lăng Nghiêm là ch.a khóa mở kho tàng giáo l. đại

thừa. Lại có lời huyền k. rằng : “Thời mạt pháp kinh Lăng Nghiêm sẽ mất đầu tiên, kinh A Di

Đà c.n lại đến cuối cùng”. Như vậy có nghĩa là nơi nào c.n kinh Lăng Nghiêm, nơi ấy c.n

chánh pháp.

Kính thưa Sư cô ! Khế kinh c.n dạy : “Bị thiêu đốt trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ

ngu si không biết hướng đi mới thật là khổ. V. ngu si là gốc nguồn tội”. Lại dạy : Thân người

khó được, Phật pháp khó gặp, thời khắc dễ qua, đạo nghiệp khó thành.

Nay chúng con đ. có đại phước được sanh vào một gia đ.nh giàu Phật pháp. Lại tới

thời tiết nhân duyên được quỳ trước Tổ đường thỉnh pháp. Cầu mong Sư cô khai kinh Thủ

Lăng Nghiêm, chỉ mở đường Bồ-đề cho chúng con phân biệt được cái giả và cái thật ở ngay

thân tâm m.nh, để chúng con sống hợp với lẽ phải, ng. hầu vĩnh viễn thoát khổ, hưởng vui

Thánh Hiền. Ngưỡng nguyện thiên long bát bộ Hộ Pháp tôn thần thùy từ gia hộ Sư cô Pháp sư

của chúng con pháp thể khinh an, lớp học thành tựu viên m.n.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát (3 lần).

  1. Ngày 8-2 ĐỨC BỔN SƯ XUẤT GIA

(Xem kinh BẢN HẠNH TẬP).

  1. Ngày 15-2 PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Hôm nay ngày trăng tr.n tháng 2, chúng ta làm lễ kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn.

Lắng nghe lời di giáo :

“Này Anan, sau khi ta Niết-bàn, ông phải siêng năng đem diệu pháp dạy răn hậu lai.

Ai c.n thống khổ trong ba c.i, phải mau cầu giải thoát. Ngũ trược ái dục rất đáng chán.

Không có cách nào thoát được móng vuốt quỷ vô thường. Một khi mất thân người, vạn

kiếp chưa được trở lại. Phải điều phục, đưa tâm vào đạo quả. Ba nghiệp thanh tịnh mới hy

vọng sanh về cảnh giới tốt đẹp. Chớ để đời này luống qua, về sau ăn năn không kịp”.

Ngài Anan té xỉu. Ngài A Na Luật Đà an ủi : “Hôm nay dầu c.n được nghe Phật nói,

sáng mai đ. thành không. Ta chớ để mất chút thời gian vàng ngọc này, mau mau thưa Phật.

Mai đây vắng bóng Phật

1/- Chúng con thờ ai làm Thầy ?

2/- Các Tỳ-kheo ác tánh, làm sao chuyển hóa ?

3/- Chúng con làm sao cùng họ ở chung ?”

Ngài Anan bạch Phật. Đức Phật dạy :

Sau này giới Ba la đề mộc xoa là đại sư của các ông, nương đây tu hành sẽ được định

tuệ xuất thế.

Này Anan, dùng thiện phương tiện có thể cải hóa những ác tánh. Hành khổ đầy tràn ba

c.i. Cỗi gốc là vô minh. Nếu được trí tuệ Bát Nh. huân ướp th. vô minh dứt. Sanh, l.o, bệnh,

tử, ưu bi khổ n.o sẽ không c.n. Giáo pháp chánh quán 12 nhân duyên đưa các Tỳ-kheo đến

thanh tịnh thượng quả. Như Lai là đấng chân ngữ. Đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải

vâng theo.

Này các Tỳ-kheo, sau khi Phật nhập Niết-bàn, các ông phải nương Tứ Niệm Xứ mà an

trụ. Quán thân, thọ, tâm, pháp vô thường, vô ng., khổ và không, sẽ diệt hết ưu lo, viên m.n

giới định tuệ, 3 vô lậu học.

Anan lại bạch : “Sau này tín tâm đàn việt cúng dường Như Lai thời phải xử trí thế

nào?”

— Tạo tượng Phật, sắm các thứ hương đèn phan lọng. Ai lạm dụng phạm tội ăn trộm

của Phật. Anan lại hỏi : Cúng dường Như Lai hiện tiền và cúng dường tượng Phật. Phước đức

nào hơn ?

— Đáp : Như nhau không khác. Trên trời, c.i người, ai cung kính lễ bái tán thán cúng

dường Như Lai công đức vô lượng vô biên. Anan nên biết Tam-bảo vẫn thường trụ, làm chỗ

nương tựa vĩnh viễn cho tất cả chúng sanh.

* * *

Lúc đó đức Thế Tôn vạch y Tăng-già-lê để lộ ngực hoàng kim bảo đại chúng : “H.y

chí tâm nh.n kỹ thân vàng Như Lai ! Ai thấy h.nh Phật, gặp ánh sáng Phật đều sẽ được giải

thoát”.

Ba phen ân cần khuyên bảo như vậy rồi bay lên hư không, bảo đại chúng : “H.y chí

tâm nh.n kỹ thân vàng của Như Lai”. Từ hư không xuống lại bay lên, tất cả 24 lần ân cần bảo

đại chúng : “H.y chí tâm nh.n sắc thân vàng Như Lai. Người khát nước phải uống đến no.

Sau này biết bao giờ mới lại được thấy thân Như Lai. Thấy thân Như Lai th. bao nhiêu tội ác,

bát nạn, tam đồ đều được tiêu trừ”.

* * *

Giữa đêm ấy đức Như Lai nhập trí thiền, yên lặng Niết-bàn trong rừng Ta La.

Mười phương thế giới chấn động. Mười phương biển cả cuộn sóng. Đêm tối mịt mù,

gió gào khắp rừng sâu : “Thương thay, từ nay thế gian không c.n con mắt tuệ”.

Ngài Anan lại té xỉu. Ngài A Na Luật Đà an ủi : “Phật dù đ. Niết-bàn nhưng c.n xá

lợi và pháp bảo. Ông và tôi có bổn phận phải thay Phật hoằng dương đạo giải thoát. Đưa

chúng sanh ra khỏi biển khổ là báo đền ơn Phật trong muôn một”.

Xá lợi Phật được chia làm 8 phần. Tám vua thỉnh về nước m.nh xây tháp cúng dường.

Thế là c.i Diêm-phù-đề có 8 tháp thờ xá lợi.

Khi ấy chư Bồ-tát, Thanh-văn, trời rồng, 8 bộ quỷ thần, ai nấy cúi đầu đảnh lễ phụng

tr..

ỨNG TẬN HOÀN NGUYÊN

Ứng thân đức Bổn Sư đ. viên m.n sự nghiệp độ sanh. Nay nhập Niết-bàn là trở về thể

tánh chân thật, trở về Pháp-thân. Đức Thế Tôn phổ cáo đại chúng : “Ta dùng mắt Phật xem

khắp ba c.i sáu đạo chúng sanh, chánh báo y báo, tướng đều hư vọng như hoa đốm. Nhưng

thể tánh vẫn thường trụ thanh tịnh bất động như hư không”. Phàm phu không giác biết nghĩa

này, cho rằng Phật nhập Niết-bàn là mất hẳn. Sự thật Phật nhập Niết-bàn là trở về bổn tánh vô

lượng quang, vô lượng thọ.

Chúng sanh quen sống với sự tướng, khó tin được những g. mắt không thấy tai không

nghe nên đức Phật giáng thần về xứ Ấn Độ, hiện thân tu hành chứng quả. Phật giáo dạy các

đệ tử phải quan sát tánh chất thế gian vô thường, vô ng., khổ và không. Phàm có h.nh tướng

đều hư vọng. Ai lấy âm thanh, sắc tướng cầu Phật đều là tà đạo, không thể thấy Như Lai. Cho

nên đích thân Phật cũng thị hiện vô thường. Đúng pháp l. thế gian, Phật nhập Niết-bàn. Thật

ra vạn pháp chẳng chỗ nào, chẳng thời gian nào không phải là Phật. Phật bảo thường trụ ở

khắp mười phương suốt quá khứ, hiện tại, vị lai. Chỉ v. không h.nh không tướng nên thế gian

không ngờ là Phật vẫn ngày đêm ở trước mặt m.nh, ở ngay trong tâm m.nh, ở khắp quanh

m.nh. V. thế những ai cung kính cúng dường lễ bái tán thán h.nh tượng Phật, được phước như

cúng dường Phật tại thế không khác.

Ngài A Na Luật Đà hiểu r. . chỉ này nên đ. vững tâm an ủi Anan. Thân ứng hóa dù

có đổi thay nhưng Pháp-thân vẫn thường trụ. Trí thân Phật vẫn thấy r. chúng ta, hộ tr. chúng

  1. Bổn phận chúng ta phải thờ phụng xá lợi để bảo tồn phước điền cho thế gian. Chúng ta

phải thay Phật hoằng dương chánh pháp, làm chỗ quy y cho chúng sanh. Chúng sanh nương

pháp bảo tu hành, sẽ được thấy Pháp-thân Phật. Như thế mới là chân thật báo ơn Như Lai.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô đại thánh A Na Luật Đà Tôn giả.

Nam mô đại thánh Ananđà Tôn giả.

Nam mô Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát ma-ha-tát, thiên long bát bộ Hộ Pháp tôn thần thùy

từ minh chứng.

  1. Ngày 19-2

QUÁN ÂM QUẢNG TRẦN

(Đọc bài giải nghĩa trong kinh Lăng Nghiêm).

  1. Ngày 21-2

LỄ ĐỨC PHỔ HIỀN

Kinh Hoa Nghiêm nói về nhân hạnh Phổ Hiền.

Kinh Pháp Hoa nói về quả đức Phổ Hiền.

Nhân hạnh thể hiện r. nét trong phẩm Nhập Pháp Giới. Thiện Tài diện kiến người

thừa kế đức Thích Ca là Di Lặc Bồ-tát. Di Lặc giữ bảo tạng Như Lai mới đủ tư cách mở cửa

Tỳ Lư Giá Na cho Thiện Tài vào đảnh lễ đức Pháp-thân thường trụ. Thâm nhập Tỳ Lư Giá Na

tánh rồi, hành giả chấm dứt giai đoạn 1, hiểu giáo l. qua kinh nghiệm sống trên 52 chặng

đường học đạo. Qua giai đoạn 2, hành giả tự phát triển thực hiện những việc của đức Phật đ.

thành tựu. Việc này không đơn giản nên Di Lặc khuyên Thiện Tài phải t.m Văn Thù. Ở giai

đoạn 1, hành giả gặp Văn Thù, sử dụng trí tuệ, để rọi vào giáo l. Phật, vào cuộc sống bản thân

và x. hội. Ở giai đoạn 2, hành giả gặp Văn Thù, để trang bị cho m.nh trí tuệ vô lậu, thấy biết

diễn tiến sự vật bằng trực giác của bản tâm thanh tịnh.

Bấy giờ Văn Thù đứng cách 110 do tuần, vươn tay xoa đỉnh đầu Thiện Tài, nêu biểu

dù cách xa Thầy muôn dặm hành giả vẫn nghe và nhận được pháp âm vi diệu của Thầy truyền

qua bản tâm thanh tịnh. C.n giai đoạn 1 cần có Thầy ở bên cạnh để d.u dắt.

Văn Thù đưa Thiện Tài nhập pháp giới để gặp Phổ Hiền. Thiện Tài không thấy Phổ

Hiền bằng mắt. Phải quan sát Phổ Hiền hạnh mới thấy. Nhờ thiện căn phúc đức nhiều đời,

Thiện Tài thấy thân Phổ Hiền trùm khắp pháp giới. Ba đời chư Phật đều nằm trong một chân

lông của Phổ Hiền. Phổ Hiền có khả năng phân thân mười phương và thu gọn tất cả vào một

chân lông (trí phàm chỉ đứng ngoài lề, không thể nào giải thích được cảnh giới Phổ Hiền).

Phổ Hiền có khả năng chẻ các thế giới thành bụi, uống cạn nước bốn biển mà bao

nhiêu chúng sanh trong đó không hề biết là m.nh đ. vào trong bụng Phổ Hiền. Phổ Hiền Bồ-

tát tuyên bố chỉ duy nhất có một việc ngài không làm nổi là nói được hết công đức của Như

Lai. Phải vào Phổ Hiền hạnh môn, tu Phổ Hiền hạnh nguyện mới hiểu được thế nào là công

đức Như Lai. Trước hết phải ngộ Tỳ Lư Giá Na tánh.

Phổ Hiền hạnh mênh mông bát ngát trùm khắp pháp giới, thu gọn lại 10 điều. Thành

tựu 10 hạnh nguyện Phổ Hiền, chúng ta sẽ đạt quả vị Như Lai. Thực tế ta không thấy Phổ

Hiền nhưng hiện hữu tác động của ngài vô cùng, không đâu ngài không đến, tùy yêu cầu của

chúng sanh. Yêu cầu h.nh g. ngài hiện thân đó. Nếu cố chấp Phổ Hiền với một loại h.nh cố

định, chúng ta sẽ không có Phổ Hiền. Người ta thờ đức Phổ Hiền cưỡi voi sáu ngà. Theo lời

H.a-thượng Trí Quảng trong Pháp Hoa Lược Giải : “Sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo vô biên

tội. Nay tu theo lời Phật dạy, sáu căn chuyển thành sáu ngà giúp ngài tạo muôn vàn công đức.

Sáu ngà là sáu thần thông. Voi là loài có khả năng chở nặng đi ngược dốc không g.

chướng ngại. Sức mạnh của voi nêu biểu bất tư ngh. lực, hàng phục được tất cả ác thế gian,

làm được tất cả những việc khó làm”.

KINH HOA NGHIÊM

PHẨM 40- PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN

Phổ : đức trùm pháp giới.

Hiền : thuận theo hạnh lành.

Hạnh : xứng tánh tu hành.

Phổ có 10 nghĩa :

1/- Cầu chứng tất cả chỗ chứng của Như Lai.

2/- Giáo hóa tất cả chúng sanh trong pháp giới.

3/- Đoạn trừ tất cả phiền n.o, không để sót một vi trần.

4/- Không một hạnh lành nào, dù nhỏ như mảy lông dù lớn như hư không, mà không

làm với tất cả tận t.nh.

5/- Tất cả sự hạnh trên đều triệt nguồn l..

6/- Hạnh vô ngại : L. sự giao triệt.

7/- Hạnh dung thông : Mỗi hạnh dung nhiếp vô tận.

8/- Chỗ khởi dụng : Không dụng nào không biến khắp pháp giới.

9/- Chỗ hành xứ : tám môn trên như đế v.ng thiệp nhập trùng trùng.

10/- Thời gian hành : Cùng tận ba đời, không hạn kỳ.

CHÁNH VĂN KINH

Phổ Hiền đại Bồ-tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai rồi bảo Thiện Tài rằng

: Này thiện nam tử ! Mười phương Phật nói công đức của Như Lai trải số kiếp nhiều như cực

vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết c.i Phật, cũng không nói hết được. Ai muốn trọn

đủ công đức ấy phải tu 10 đại hạnh nguyện.

1- LỄ KÍNH CÁC CHƯ PHẬT

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật, tôi nương hạnh nguyện Phổ

Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều dùng ba nghiệp thân, miệng, . thanh tịnh mà lễ

kính. Tôi hóa hiện thân nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết c.i. Mỗi thân khắp lễ

các đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết c.i. Hư không kia

hết, c.i chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền n.o chúng sanh hết th. sự lễ kính của tôi

mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự lễ kính của tôi

cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng lễ kính, không bao

giờ chán mỏi.

2- KHEN NGỢI NHƯ LAI

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật. Vị nào cũng có rất đông Bồ-

tát vây quanh. Tôi nương hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều

dùng lưỡi vi diệu hơn Biện Tài thiên nữ. Mỗi lưỡi phát xuất biển âm thanh vô tận. Mỗi âm

thanh diễn xuất biển lời nói, để ca ngợi công đức Như Lai. Như thế, hư không giới, chúng

sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết thời sự khen ngợi của tôi mới hết.

Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự khen ngợi của tôi cũng

không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng khen ngợi, không bao

giờ chán mỏi.

3- RỘNG TU CÚNG DƯỜNG

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật, vị nào cũng có rất đông Bồ-

tát vây quanh. Tôi nương hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều

kính dâng cúng dường thượng diệu mây hoa, mây hương, mây âm nhạc, mây tàn lọng v.v...

Lại dâng cúng các thứ đèn, đèn dầu thơm, đèn tô lạc v.v... Tim đèn lớn như núi Tu-di, dầu

nhiều như nước biển cả.

Này thiện nam tử ! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng

dường là : tu hành đúng như lời Phật dạy, làm lợi ích chúng sanh, chịu khổ thay cho chúng

sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập căn lành, không bỏ hạnh Bồ-tát, không rời tâm

Bồ-đề.

Vô lượng tài cúng dường như trên sánh với một niệm pháp cúng dường, thời công đức

không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, một

phần toán, một phần số, một phần ưu ba ni sa đà. V. sao ? V. Như Lai tôn trọng chánh pháp.

  1. tu hành đúng lời Phật dạy mới thành Phật. Bồ-tát pháp cúng dường mới trọn vẹn sự cúng

dường. Pháp cúng dường mới là đại cúng dường. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới,

chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết thời sự cúng dường của tôi mới hết. Nhưng c.i

hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết, th. sự cúng dường của tôi cũng không

cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng cúng dường, không bao giờ

chán mỏi.

4- SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG

Từ vô thủy thân miệng . đ. tạo bao nghiệp ác, v. ba độc tham sân si. Những tội ác này

nếu có h.nh tướng th. khắp hư không chẳng đủ chỗ chứa đựng. Nay xin đem ba nghiệp trong

sạch, đối trước mười phương tận pháp giới chư Phật, thành tâm sám hối, không dám tái phạm.

Nguyện hằng an trụ nơi pháp giới thanh tịnh đầy đủ công đức lành. Như thế, hư không giới,

chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự sám hối của tôi mới

hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự sám hối của tôi

không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng sám hối, không bao giờ

chán mỏi.

5- TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Mười phương ba đời tận pháp giới bao nhiêu đức Phật từ sơ phát tâm cầu nhất thiết trí,

siêng tu cội phước không tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như cực vi trần trong bất khả thuyết

bất khả thuyết c.i. Mỗi kiếp đều thí xả đầu mắt tay chân nhiều như số cực vi trong bất khả

thuyết bất khả thuyết c.i Phật, làm tất cả những hạnh khó làm, đầy đủ các môn ba la mật,

chứng nhập các trí địa, viên m.n Vô-thượng Bồ-đề, cho đến nhập Niết-bàn, phân chia xá lợi.

Bao nhiêu căn lành tôi đều xin tùy hỷ.

Sáu thú bốn sanh mười phương có bao nhiêu công đức, dù nhỏ như mảy bụi, tôi cũng

đều xin tùy hỷ.

Tất cả các Bồ-tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu quả Vô-thượng chánh đẳng Bồ-đề,

bao nhiêu công đức rộng lớn, tôi đều xin tùy hỷ. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới,

chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự tùy hỷ của tôi mới hết. Nhưng c.i hư

không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự tùy hỷ của tôi không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng tùy hỷ, không bao giờ chán mỏi.

6- THỈNH PHẬT THUYẾT PHÁP

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu vị thành đẳng chánh giác, chúng Bồ-

tát vây quanh, tôi đều đem ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, dùng đủ phương tiện ân cần

cung thỉnh nói pháp nhiệm mầu. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp,

chúng sanh phiền n.o hết, thời sự cung thỉnh của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến

phiền n.o chúng sanh không hết th. sự cung thỉnh của tôi không cùng tận. Ba nghiệp thân

miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng cung thỉnh chuyển diệu pháp luân, không bao giờ chán

mỏi.

7- THỈNH PHẬT TRỤ THẾ

Mười phương ba đời tận pháp giới các đức Phật, Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác, hữu

học vô học cho đến tất cả các thiện tri thức, tôi đều cung thỉnh đừng nhập Niết-bàn. Xin Phật

trụ thế trải vi trần kiếp lợi ích chúng sanh. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng

sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, th. sự cung thỉnh của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không

cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự cung thỉnh của tôi cũng không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm cung thỉnh, không bao giờ chán mỏi.

8- THƯỜNG THEO HỌC PHẬT

Đức Tỳ Lư Giá Na Phật ở c.i Ta Bà, từ sơ phát tâm tinh tấn bá thí bất khả thuyết bất

khả thuyết thân mạng, lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực, biên chép kinh

điển chất cao như núi Tu-di. Tôn trọng chánh pháp, thân mạng không tiếc, huống là ngôi vua

thành ấp cung điện vườn rừng. Bao nhiêu việc khó làm cho đến thành đại Bồ-đề, các thứ thần

thông biến hóa, hiện thân trong các chúng hội đạo tràng, Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác,

Chuyển Luân Thánh Vương, tiểu vương, cư sĩ, trưởng giả, bà-la-môn, sát-đế-lợi, hoặc các đạo

tràng của thiên long 8 bộ, tùy cơ giáo hóa. Dùng viên âm thành thục chúng sanh, như đại lôi

chấn. Tất cả hạnh đức như vậy cho đến thị hiện Niết-bàn, tôi đều học tập theo. Như hiện nay

học theo Thế Tôn Tỳ Lư Giá Na, tôi học theo mười phương ba đời các đức Phật cũng vậy.

Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời

sự theo học của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th.

sự theo học của tôi cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm theo

học, không bao giờ chán mỏi.

9- HẰNG THUẬN CHÚNG SANH

Mười phương ba đời tất cả chúng sanh trong pháp giới, loài sanh thai, sanh trứng, ẩm

thấp, hóa sanh, các thứ sắc thân, h.nh trạng, tướng mạo, các thứ tộc loại tâm tánh tri kiến, các

thứ dục lạc . hành oai nghi, các thứ ăn uống y phục cư ngụ. Cho đến thiên long 8 bộ, loài

không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, loài có tâm tưởng, không tâm tưởng, phi phi tưởng...

Tôi đều vâng thờ cúng dường như kính cha mẹ, như trọng sư trưởng, phụng sự như

đức Thế Tôn. Làm thầy thuốc với bệnh nhân, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem đuốc sáng cho

đêm tối, đem của báu cho người nghèo. Bồ-tát b.nh đẳng lợi ích chúng sanh. Bởi v. tùy thuận

chúng sanh chính là cúng dường Như Lai. Làm cho chúng sanh vui mừng chính là làm cho tất

cả Như Lai vui mừng. Bởi v. nhân chúng sanh mà khởi l.ng đại bi. Nhân đại bi mà phát tâm

Bồ-đề. Do đây thành Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.

Trong c.i sa mạc sanh tử mênh mông này có cây Bồ-đề thọ vương. Dùng nước đại bi

tưới gốc rễ chúng sanh th. sẽ trổ bông trí tuệ Bồ-tát mà kết quả Phật toàn giác. Cho nên Bồ-đề

thuộc về chúng sanh, không có chúng sanh tất cả Bồ-tát không thể thành đạo Vô-thượng

chánh đẳng chánh giác.

Này thiện nam tử, nơi nghĩa này phải hiểu r. : Có b.nh đẳng đối với chúng sanh mới

viên m.n l.ng đại bi. Đem tâm đại bi tùy thuận chúng sanh mới thành tựu pháp cúng dường

Như Lai. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o

hết, thời sự tùy thuận của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh

không hết, th. sự tùy thuận của tôi cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh,

niệm niệm tùy thuận, không bao giờ chán mỏi.

10- KHẮP ĐỀU HỒI HƯỚNG

Từ sự lễ kính ban đầu đến tùy thuận chúng sanh, có bao nhiêu công đức thảy đều hồi

hướng tất cả pháp giới chúng sanh. Nguyện đều an vui không bệnh khổ. Pháp ác đều không

thành. Pháp lành mau thành tựu. Đóng chặt cửa ác thú, mở rộng lối nhân thiên Niết-bàn.

Chúng sanh nào lỡ tạo nghiệp ác, phải chịu quả khổ. Tôi xin chịu thay, khiến được giải thoát,

cho đến chứng quả Vô-thượng Bồ-đề. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh

nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự hồi hướng của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho

đến phiền n.o chúng sanh không hết, th. sự hồi hướng của tôi cũng không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hồi hướng, không bao giờ chán mỏi.

* * *

Này thiện nam tử ! Bồ-tát tu hành 10 đại nguyện như trên, có thể thuần thục tất cả

chúng sanh, có thể trọn đủ biển hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát.

Thiện nam, thiện nữ nào dùng bảy báu thượng diệu và các thứ vui đẹp của c.i trời c.i

người đầy khắp mười phương, trên cúng dường tất cả chư Phật, dưới bá thí tất cả chúng sanh,

trải vi trần kiếp liên tiếp không ngừng. So với người một phen nghe 10 điều nguyện vương,

công đức không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một

phần ưu ba ni sa đà.

Nếu đem l.ng tin sâu biên chép đọc tụng thọ tr., dù chỉ một bài kệ 4 câu, sẽ trừ năm

nghiệp vô gián. Tất cả thân bệnh, tâm bệnh, khổ n.o ác nghiệp đều được tiêu tan. Dạ-xoa, Lasát,

Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-xà, Bộ-đa v.v... các ác quỷ thần đều lánh xa. Nếu có tới gần là để ủng

hộ.

Người tr. tụng 10 nguyện vương này đi trong thế gian không bị chướng ngại, như mặt

trăng ra khỏi mây mù. Các đức Phật Bồ-tát khen ngợi, trời người kính lễ. Tất cả chúng sanh

đều nên cúng dường. Thiện nam tử này trọn đủ công đức Phổ Hiền. Chẳng bao lâu sẽ thành

tựu sắc thân vi diệu, đủ 32 tướng đại trượng phu, sanh về c.i trời, dù có ở c.i người cũng

sanh trong d.ng cao qu.. Phá hoại tất cả đường ác, xa l.a các bạn xấu, chế phục tà ma ngoại

đạo, giải thoát tất cả phiền n.o. Như sư tử vương dẹp phục bầy thú, kham l.nh thọ sự cúng

dường của tất cả chúng sanh.

Lâm chung, căn thân hư hoại, quyến thuộc xa l.a, oai thế tiêu tan, tiền của ngựa xe,

không một thứ nào đem theo được, chỉ có 10 đại nguyện vương này dẫn đường về Cực Lạc,

thấy Phật A Di Đà cùng các Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Tự Tại, Di Lặc v.v... sắc tướng

đoan nghiêm. Người này tự thấy gá sanh nơi ao sen báu, được Phật thọ k.. Từ đó trải vô số

trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, đi khắp mười phương. Dùng sức trí tuệ tùy thuận lợi ích

tất cả chúng sanh. Chẳng bao lâu sẽ ngồi đạo tràng hàng phục quân ma, thành đẳng chánh

giác, giáo hóa chúng sanh trong vi trần c.i Phật cùng tận vị lai.

Này thiện nam tử, công đức người thọ tr. đọc tụng giảng nói 10 nguyện vương này chỉ

có đức Phật mới biết r., ngoài ra không ai hiểu thấu. Thế nên ai đ. được nghe, chớ có nghi

ngờ. Phải nên thọ tr. biên chép giảng nói. Tất cả ước mong đều sẽ được như nguyện, có thể ở

trong biển khổ cứu vớt chúng sanh, đưa về c.i Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

  1. Ngày 16-3

THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ YẾU NGHĨA

Kinh Chuẩn Đề chép : Đức Phật ở thành Vương Xá, tinh xá Kỳ Hoàn, vườn Cấp Cô

Độc, 4 chúng và 8 bộ vây quanh. Thương xót chúng sanh đời mạt pháp phước mỏng nghiệp

dày, đức Thế Tôn nhập định Chuẩn Đề tam muội rồi nói thần chú : “Nam mô tát đa nẫm, tam

miểu tam bồ đề câu chi nẫm, đát điệt tha. Ám chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha”.

Phật dạy : Tr. tụng đủ 90 vạn biến có thể diệt được những tội 10 ác, 4 trọng và 5

nghịch. Bất luận tịnh hay uế, tăng hay tục, chỉ cần chí thành tr. tụng thần chú sẽ được tiêu tai

giải nạn, hết bệnh sống lâu, tụng đủ 49 ngày th. đi, đứng, nằm, ngồi đều được Tam-bảo ủng

hộ.

Muốn cầu thần thông trí tuệ cho đến Vô-thượng Bồ-đề, chỉ cần đúng pháp thiết lập

đàn tràng, tụng 100 vạn biến. Những người này sẽ được về Tịnh-độ, hầu hạ chư Phật, nghe

pháp, trọn sẽ chứng quả Bồ-đề.

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế,

Đầu mặt đảnh lễ thất câu chi,

Con nay xưng tán Đại Chuẩn Đề,

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.

Trên đây là bài kệ của Long Thọ Bồ-tát, mở đầu tụng thần chú Chuẩn Đề.

Tô Tất Đế : Bộ kinh lớn của Mật tông. Tàu dịch là Diệu Viên Thành (khéo thỏa m.n

tất cả ước nguyện thế gian và xuất thế gian).

Khể thủ quy y Tô Tất Đế : Đem l.ng chí thành quy y pháp bảo.

Thất câu chi : 700 ức.

Đầu diện đảnh lễ thất câu chi : Thân chí thành lễ 700 ức đức Phật đ. nói bài thần chú

này. Tức là đem thân nghiệp chí thành đảnh lễ Phật bảo.

Chuẩn Đề : Tiếng Phạn gọi là Căng-đi, nghĩa là đúng với chân l., dùng đại trí để dứt

vọng hoặc (thật trí). V. vậy mới có đủ các nhân hạnh để thành thục chúng sanh (quyền trí).

Ng. kim xưng tán Đại Chuẩn Đề : Con nay đem khẩu nghiệp chí thành ca ngợi thần

chú Chuẩn Đề. Những ai tr. tụng thần chú Chuẩn Đề là Tăng bảo. Có nơi gọi là Chuẩn Đề

Phật Mẫu bởi v. 700 ức đức Phật do pháp Chuẩn Đề tam muội đ. chứng quả. Chúng sanh nào

thọ tr. thần chú này sẽ được chứng quả Phật.

(Rút trong NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI)

  1. Ngày 16-3

PHÓ PHÁP TÔN SƯ

GIỖ SƯ CỤ TUỆ NHUẬN (Văn Quang Thùy)

1

Hồi ấy Thầy chưa xuất gia, không nhớ năm tháng nào, cùng bà D. đi qua chùa Quán

Sứ. Bỗng bà nói : “Ta vào xem ông cụ kia đang nói g. mà đông người ngồi nghe thế”. Miệng

nói chân bước, bà vào chùa. Thầy đi theo. Nghe lạ lạ, hay hay, sẵn có giấy bút, Thầy ghi tất

cả, về chép lại thành một bài giảng chương Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật. Ngày hôm sau,

Thầy lại tới, được nghe thêm bài Quán Âm Quảng Trần. Thầy cũng viết thành bài. Các Sư nữ

mượn xem rất hoan hỷ. Bởi v. c.n ở thế gian, chưa học 2 chữ vô thường. Nên Thầy đâu dám

nghỉ học trường đời. V. là học sinh nội trú nên phải đợi một ngày lễ lớn mới được ra. Tới

Quán Sứ hỏi lớp Lăng Nghiêm th. cụ giáo đ. về quê, không ai biết ở đâu.

Từ đó gặp ai theo đạo Phật, Thầy cũng hỏi kinh Lăng Nghiêm nhưng ai cũng lắc đầu.

Sau gặp cụ Tú vừa có kinh vừa giỏi chữ Nho, đọc âm cho Thầy viết sang tiếng Việt. T.nh cờ

một bà mời Thầy chơi họ, mỗi tháng đóng 25$. Ngày hai buổi đi làm ở sở. Buổi trưa, cơm

xong, Thầy mải miết chép, có khi mệt quá ngủ gục. Ngày qua tháng lại lần hồi cũng xong trọn

bộ. Nhờ thư k. trong sở đánh máy. Bà cái họ cũng vừa dốc ống đem cho Thầy một số tiền hồi

đó gọi là lớn. Th. vừa hay có người mách cụ giáo từ quê lên Hà nội. Thầy đem sách và tiền

đến dâng cụ, xin cho in và khi nào có kinh chữ Việt, xin mở lớp giảng học. Tiếc rằng khi lớp

Lăng Nghiêm khai giảng ở chùa H.e Nhai Hà Nội th. Thầy đ. phải đổi đi Hải Ph.ng.

2

Hồi ấy Thầy thưa : Thời giờ con eo hẹp lắm, xin cụ cho con một bài kinh nào ngắn

nhất để con thọ tr.. Cụ cho bản Bát Đại Nhân Giác. Thầy đọc thấy hay nhưng công hạnh mênh

mông làm sao vào nổi. Thầy xin cụ cho học một điều thứ nhất thôi : “Thế gian vô thường,

quốc độ nguy biến, bốn đại khổ không, năm ấm vô ng.. Tâm là nguồn ác. Thân là rừng tội.

Như vậy quan sát, thoát dần sanh tử”.

Tuổi trẻ ham làm việc từ thiện x. hội, ngoài giờ ở sở cứ chiếc xe đạp chạy rong trong

thành phố, chỉ có hai bữa cơm là Thầy có thời giờ suy ngẫm đệ nhất giác ngộ. Riết thành thói

quen. Đến khi xuất gia, luật dạy hai bữa cơm phải quán 5 pháp. Thầy ngày nào cũng kiếm một

giờ khác để suy tư bài này, Thầy cảm thấy r. ràng 3 ngày không suy tư th. trong tâm hai thứ

tham sân bắt đầu ngọ nguậy. Nên không ngày nào Thầy dám thiếu. Về sau vào sâu kinh điển

mới biết là m.nh hàng ngày vẫn quán Tứ Niệm Xứ. Thế là vô t.nh Sư cụ đ. trao cho Thầy một

pháp môn quan trọng.

3

Người ta bảo rằng : Ai theo đạo Phật, tối nào cũng phải tụng kinh. Thầy lên Quán Sứ

thỉnh được một cuốn kinh A Di Đà chữ Nho đối chiếu tiếng Việt. Ngày nào cũng đọc một lần

suốt từ đầu đến hết. Nhờ cụ Tú giảng. Cụ dạy đúng nghĩa đúng chữ. Nghe xong, Thầy chán

quá, thốt ra miệng nhiều lần : “Thế gian này bao nhiêu trẻ mồ côi, bao nhiêu cụ già, bao nhiêu

bệnh nhân cần người chăm sóc. Bao nhiêu tù nhân trong các trại giam cần đồng quà tấm bánh,

kèm theo đôi lời chân thành khuyến thiện. Ngay đến đạo Phật cũng có bao nhiêu người c.n

bỡ ngỡ cần sự chỉ dẫn. Tín ngưỡng là món thuốc an thần đệ nhất cho thế gian, đang cần người

truyền bá v.v... Thế mà kinh lại dạy buông hết bổn phận làm người. Cả ngày chỉ niệm Phật.

C.n phải nhất tâm không loạn. Mục đích để về Cực Lạc có bờ ao 7 báu, cung điện

bằng vàng. Tôi thích ở c.i này, tự thấy m.nh có ích, c.n vui hơn về c.i ấy để tự thấy m.nh vô

dụng”. Thế là Thầy ghét cay ghét đắng kinh A Di Đà.

Bỗng cụ được mời về Hải Ph.ng giảng kinh Kim Cương. Hàng ngày Thầy tới nghe.

Đến câu : “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Thầy

bật nói : “À ! con hiểu kinh A Di Đà rồi !” Ông Cao Bá Sâm liền đứng dậy, xin phép cụ hỏi :

“Cô học sinh v. sao nghe kinh Kim Cương lại hiểu kinh A Di Đà ?”

— Thưa v. cái tâm hàng ngày đ. hư vọng, sao không buông nó đi để sống với tâm kim

cương chân thật. Nhất tâm bất loạn nghĩa là không c.n một niệm lạc về hư vọng nữa. Từ đấy

Thầy trở lại tin kinh A Di Đà và được cụ dắt dẫn dần vào tông Tịnh-độ.

Như vậy chỉ có giới luật là Thầy mới học sau khi xuất gia. C.n cả 3 môn ngày nay có

pháp trao cho các con, đều là từ cụ truyền dạy. Kinh Dược Sư các con hiện đương tụng, kinh

Di Đà Yếu Giải hiện các con đương học, đều do cụ dịch sang Việt văn. Cho nên chùa chúng

ta thờ ngài là Phó Pháp Tôn sư. Và hàng năm vào ngày này chúng ta đảnh lễ nhớ ơn. Tiểu sử

và h.nh ảnh ngài có in ở đầu kinh A Di Đà Yếu Giải.

  1. ĐỨC VĂN THÙ (4-4)

Nguyên chữ Ấn Độ là Manjusri.

Phiên âm là Mạn Thù Thất Lợi.

Mạn Thù (Manju) : Diệu.

Thất Lợi (Sri) : Cát tường.

Ngài thuộc d.ng Bà-la-môn, người nước Xá Vệ, theo đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Phật xuất gia học đạo. Nên ở Trung Hoa các nơi tăng đường, trai đường, giới đàn, đều có thờ

ngài h.nh tướng xuất gia. Bởi v. ngài chuyên về đại thừa nên thông thường người ta thờ ngài

h.nh tướng thế tục, để hiển tâm từ bi h.a quang đồng trần, lấy sự giúp ích chúng sanh, giáo

hóa muôn loài làm trọng. Tượng ngài cầm gươm cưỡi sư tử. Gươm nêu biểu trí tuệ phá phiền

n.o. Sư tử nêu biểu trí tuệ là chúa muôn hạnh.

Bồ-tát Văn Thù hầu bên trái đức Thích Ca, chủ về căn bản trí (tự lợi). Bồ-tát Phổ Hiền

hầu bên phải đức Thích Ca, chủ về hậu đắc trí (lợi tha).

I

KINH VĂN THÙ SƯ LỢI

Như vậy tôi nghe : Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc, cùng

8.000 đại Tỳ-kheo, trưởng l.o Xá Lợi Phất, đại Mục Kiền Liên v.v... làm thượng thủ.

Bồ-tát Hiền kiếp 1000 vị, đức Di Lặc làm thượng thủ. Lại có mười phương Bồ-tát đến dự, đức

Quán Thế Âm làm thượng thủ.

Cuối đêm, Phật nhập định, hào quang rực rỡ chói khắp rừng Kỳ Đà, xoay quanh vận

chuyển chiếu ngay ph.ng Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, hóa thành 7 cái đài bằng vàng. Mỗi đài có

500 hóa Phật đi kinh hành.

Bồ-tát Bạt Đà Bà La kính lễ tịnh xá Phật, đến liêu ngài Anan giục báo hiệu cho đại

chúng biết.

— Kính thưa Thánh giả, Thế Tôn chưa ban sắc lệnh, tôi làm sao dám đánh kiền chùy

họp chúng.

Tôn giả Xá Lợi Phất cũng vừa đến, bảo Anan : “Pháp đệ ! Nên tùy nghi nhóm chúng”.

Anan liền đánh kiền chùy tập chúng. Tiếng vang dội khắp cả nước đều nghe. Trên c.i trời

Hữu Đỉnh, Thích Phạm Hộ Thế Tứ Thiên Vương cùng các thiên tử vội hoa hương đến vườn

Kỳ Đà. Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định, mỉm cười, hào quang năm sắc từ miệng Phật hiện ra.

Rừng Kỳ Đà biến thành ngọc lưu ly. Thánh giả Văn Thù vào trong tịnh xá lễ Phật, dưới mỗi

đầu gối bỗng có 5 bông sen. Từ trên đầu 10 ngón tay chắp lại, hiện ra 10.000 hoa sen vàng.

Ngài Văn Thù dùng hoa này tung lên cúng dường đức Phật. Xong ngài nhiễu Phật 3

v.ng rồi lui về chỗ ngồi. Bồ-tát Bạt Đà Bà La đảnh lễ thỉnh Phật nói về Thánh giả Văn Thù.

Phật dạy : Ngài đ. từng gần gũi trăm ngàn chư Phật, nay ở c.i Ta Bà làm Phật sự. Ngài

thường biến hiện tự tại khắp mười phương thế giới, về sau lâu xa mới nhập Niết-bàn.

Phật bảo Bạt Đà Bà La và đại chúng : Thánh giả Văn Thù vô lượng thần thông. Chúng

sanh nào được nghe tên ngài, liền dứt trừ 12 ức kiếp sanh tử tội nặng. Ai lễ bái cúng dường,

đời đời thường sanh trong nhà Phật. Cho nên chúng sanh phải ân cần nhớ niệm h.nh tượng

ngài. Nếu quán không được tỏ r. (bởi v. đời trước đ. gây nghiệp chướng nặng nề) th. phải

tụng kinh Thủ Lăng Nghiêm xưng niệm danh hiệu Thánh giả từ 1 đến 7 ngày, cầu nguyện th.

sẽ thấy h.nh tượng ngài trong mộng. Muốn cầu chứng quả, lễ bái Thánh tượng một ngày một

đêm, quán tưởng thấy được h.nh ngài, sẽ chứng A-la-hán. Ai thâm tín kinh Phương Đẳng, tu

pháp thiền định, tâm c.n tán loạn, thành kính niệm danh hiệu ngài th. trong chiêm bao được

nghe nghĩa chân thật viên diệu. Tâm người này được kiên cố, bất thoái nơi đạo Vô-thượng.

Này Bạt Đà Bà La ! Ai muốn tu phước nghiệp Bồ-tát, mà thường nghĩ nhớ đến Thánh

giả Văn Thù th. ngài hiện thân bần cùng cô độc đến trước hành giả.

Các bậc trí tuệ phải nh.n xét cho kỹ Văn Thù đủ 32 tướng qu., 80 vẻ đẹp. Hằng quán tưởng

như vậy. Lại nhờ oai lực chánh định Thủ Lăng Nghiêm, sẽ mau chóng được thấy Thánh giả

Văn Thù.

Sau khi Phật diệt độ, ai được nghe danh hiệu Văn Thù, thấy h.nh tượng Văn Thù th.

trăm ngàn kiếp chẳng sa ác đạo. Ai thọ tr. danh hiệu Thánh giả, thường sanh về các quốc độ

thanh tịnh, gặp Phật nghe pháp, chứng vô sanh nhẫn.

Này Bạt Đà Bà La ! Thánh giả Văn thù chứng được thân bất hoại. Ông đ. nghe những

lời ta nói, phải khéo thọ tr., v. chúng sanh rộng bày.

Bạt Đà Bà La cùng các đại Bồ-tát, tôn giả Xá Lợi Phất cùng Thanh-văn Tăng, thiên

long bát bộ, tất cả đại chúng hoan hỷ phụng hành.

Phật nói kinh Văn Thù Sư Lợi đ. xong.

Đại Tạng Kinh. Quyển 463.

II KINH VĂN THÙ SƯ LỢI TUẦN HÀNH

(Đời Nguyên Ngụy, Tam tạng Pháp sư

Bồ Đề Lưu Chi dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.

Ni trưởng Huê Lâm Việt dịch).

Như vậy tôi nghe, một thời đức Bạc-già-phạm ở thành Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật,

cùng 500 đại Tỳ-kheo.

Mặt trời vừa mọc, đức Văn Thù cùng 500 Tỳ-kheo thứ lớp tuần hành. Trước hết đến

trưởng l.o Xá Lợi Phất, thấy ngài đang đoan nghiêm an tọa.

— Thưa ngài Xá Lợi Phất, tâm tịch tịnh sẵn đủ, sao c.n nhập thiền để cầu tịch tịnh ?

Đại đức Xá Lợi Phất y pháp thiền nào ? Y quá khứ, y hiện tại hay y vị lai ? Y nội thân hay y

ngoại cảnh ? Y tâm hay y thân mà nhập thiền ? Ngài đ. thông suốt pháp này chưa ? Ngài hành

  1. có pháp lạc chưa ?

— Nếu chưa nắm được pháp ấy làm sao tôi biết tu ? Nếu không có pháp lạc làm sao

tôi hành tr. ? Đây là pháp ly dục, Như Lai v. hàng Thanh-văn giảng dạy. Tôi y lời mà hành

thiền. Y theo quá khứ, y theo hiện tại, y theo vị lai cho đến y theo thân tâm mà hành tr.. Thiền

của tôi tu chánh niệm, gồm cả định và tuệ.

— Thưa đại đức Xá Lợi Phất !

a- Nếu y theo các pháp quá khứ, Như Lai không có. Hiện tại, Như Lai không có. Vị

lai, Như Lai không có. Pháp này như thế là không, đ. không có pháp th. không chỗ y.

b- Quá khứ Như Lai, hiện tại Như Lai, vị lai Như Lai không có người an trụ cũng

không có xứ sở để an trụ. Đ. không có chỗ an trụ th. nương nơi đâu có chỗ sở y ?

c- Nếu nói quá khứ, hiện tại, vị lai Như Lai là chỗ y hay là chẳng y, đều là phỉ báng

Như Lai. Bởi v. Như Lai vô niệm vô sở niệm. Chân như bất thoái, chân như vô tướng.

d- Quá khứ chân như bất khả đắc, hiện tại chân như bất khả đắc, vị lai chân như bất

khả đắc cho đến tâm chân như cũng bất khả đắc.

đ- Không có pháp ngoài chân như để có thể nói.

— Thưa Thánh giả Văn Thù, Như Lai an trụ chân như mà nói pháp.

— Chân như chẳng phải có, pháp ấy cũng không có. Như Lai cũng không có. “Có thể

được chánh pháp hay chẳng thể được chánh pháp”. Cả 2 lời nói này đều chẳng thể được.

— Thưa Thánh giả, sau này ai thọ l.nh được đúng nghĩa như ngài dạy ?

— Không chấp thủ pháp hữu vi, cũng chẳng trông mong nhập Niết-bàn, sẽ thọ được

pháp này. Không được các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Không biết các pháp ấy, sẽ được

pháp này. Chẳng thấy nhiễm ô thanh tịnh, không tâm thủ xả, sẽ l.nh được pháp này. Chẳng

  1. hành tr. cũng chẳng vô ng. mà hành tr., sẽ l.nh thọ được pháp này.

— Thưa Thánh giả Văn Thù, pháp này c.n chẳng phải cảnh giới của A-la-hán, huống

chi phàm phu ngu si làm sao l.nh hội ?

— Bạch đại đức ! Không trụ, không xứ, gọi là A-la-hán. Vậy A-la-hán ở cảnh giới nào

? Đối với danh sắc không phân biệt gọi là A-la-hán. Phàm ngu bất khả đắc, pháp của phàm

ngu cũng bất khả đắc. A-la-hán bất khả đắc, pháp A-la-hán cũng bất khả đắc. Đ. bất khả đắc

  1. chẳng phân biệt. Chẳng phân biệt th. không có chỗ sở hành, không sở hành th. không có
  2. luận, không h. luận mới thật là tịch tịnh. Người tịch tịnh không chấp có, không chấp

không, không chấp chẳng phải có, không chấp chẳng phải không. Không chấp thủ là chứng vô

sở đắc, nghĩa là xa l.a tất cả sở đắc, vô tâm, ly tâm. Trụ pháp Thanh-văn phải biết r. như thế.

* * *

Năm trăm Tỳ-kheo vội bỏ pháp hội ra đi, nói rằng : “Chúng ta chẳng muốn thấy mặt

Văn Thù, chẳng muốn nghe đến tên Văn Thù. Nơi nào có Văn Thù chúng ta cũng bỏ đi. V.

ông ấy nói những lời khác với phạm hạnh của chúng ta”.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất trách Thánh giả Văn Thù đ. nói pháp nghĩa quá cao, khiến

các Tỳ-kheo phạm tội phỉ báng.

— Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Các Tỳ-kheo đ. nói những lời thật hay, thật qu. hóa,

thật khéo đúng với Phật pháp. Bởi v. Văn Thù bất khả đắc th. làm sao thấy ? Làm sao nghe ?

Nơi nào c.n chấp có Văn Thù th. dĩ nhiên chúng Tỳ-kheo bỏ đi. Nhưng nếu thật không có

Văn Thù th. c.n cần g. đến những chuyện gần gũi hay bỏ đi ?

Nghe nói như thế 500 Tỳ-kheo quay trở lại. Thánh giả Văn Thù nói tiếp : Thưa các

Tỳ-kheo, pháp này chẳng do nhận thức mà biết được, chẳng do trí tuệ suy tư mà biết được. V.

chẳng phải là chỗ sở niệm. Hàng Thanh-văn đệ tử của đức Như Lai nếu học được như thế,

đức Thế Tôn sẽ khen là bậc tối thắng phước điền của thế gian, xứng đáng thọ sự cúng dường

của trời người.

Bốn trăm Tỳ-kheo l.nh đại pháp, sạch hết các kết sử hữu lậu, liền được giải thoát. C.n

100 Tỳ-kheo v. ác tâm đọa địa ngục.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất lại trách Thánh giả Văn Thù không chịu hộ niệm chúng sanh.

Đức Phật can rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Một trăm Tỳ-kheo v. tội phỉ báng, đáng lẽ phải chịu

khổ địa ngục trọn một kiếp. Nhưng v. được nghe đại pháp vô lậu thượng diệu của Văn Thù

(dù là nghe qua tai) nên chỉ thọ nghiệp rất ít rồi liền sanh lên c.i trời Đâu Suất, ở chung một

chỗ. Một trăm Tỳ-kheo này, Long Hoa đệ nhất hội của đức Di Lặc, sẽ chứng A-la-hán. Như

thế Xá Lợi Phất ! Nghe được pháp môn tối thắng này, sẽ chẳng c.n phải tu tứ thiền, tứ vô

lượng tâm v.v... mà vẫn giải thoát hết thảy sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, n.o.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất tán thán Thánh giả Văn Thù khéo nói pháp lợi ích chúng sanh.

Thánh giả Văn Thù đáp : Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Chân như chẳng giảm bớt, chẳng tăng

thêm. Pháp giới chẳng giảm bớt, chẳng tăng thêm. Chúng sanh giới chẳng giảm bớt, chẳng

tăng thêm. Bởi v. việc này chỉ có lời nói, không có người y cứ, không có chỗ y cứ. Chẳng

phải y hay không y. Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Chỗ chẳng y như thế tức là Bồ-đề. Bồ-đề tức

là giải thoát. Nếu y nơi pháp là c.n phân biệt. Biết chẳng phải hữu vi (có tạo tác) chẳng phải

vô vi (không tạo tác), tức là Niết-bàn.

Đức Thế Tôn ấn chứng : Đúng vậy ! Đúng vậy ! Và muốn cho nghĩa này được tỏ r.,

kệ rằng :

Nếu phân biệt quá khứ,

Cùng hiện tại vị lai,

Các pháp, tướng, vô tướng,

Hữu vi hay Niết-bàn,

Phân biệt khiến tạo nghiệp,

Chấp thủ tức trói buộc.

Nếu dùng trí quan sát

Ấm, nhập, giới giả danh

Vô tướng không sanh diệt,

Được trí tuệ xuất thế.

Dùng trí vô phân biệt

Không chấp thủ, giải thoát,

Cảnh giới của hạnh này

Nhàn tịnh như hư không.

Của báu đầy ba ngàn

Bố thí được hưởng phước.

Nếu người nghe pháp này

Phước hơn người bố thí.

Bố thí, tr. giới, nhẫn,

Thần thông đại tự tại,

Ức kiếp thường tu hành

Chẳng bằng nghe kinh này.

Nên biết thắng pháp đây

Đức chánh biến tri nói

Những ai vui nghe kinh

Quyết sẽ chứng quả Phật.

Phật nói kinh xong, 10.000 chúng sanh xa trần l.a cấu, được pháp nh.n tịnh. Các Tỳ-

kheo đều phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Thế Tôn thọ k. cho 500 Tỳ-kheo sẽ

thành Phật, đồng một hiệu là Pháp Hoa Như Lai, chánh biến tri... Thánh giả Văn Thù, trưởng

l.o Xá Lợi Phất, thiên long bát bộ... nghe Phật giảng thuyết, đều tín thọ phụng hành.

Đại Tạng Kinh. Quyển 14.

Bộ 4. Số 471.

  1. Mùng 8-4

CHƯƠNG TR.NH LỄ KHÁNH ĐẢN

1- Lễ Tổ – Lễ Phật.

2- Đọc bài . nghĩa đản sanh.

3- Tắm Phật – Nhiễu Phật.

4- Mừng khánh đản.

5- Lễ đức Bổn Sư.

6- Hồi hướng – Tam quy.

7- Nếu có thời giờ giảng bài tắm Phật.

. NGHĨA NGÀY ĐẢN SANH

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Cũng ngày này, 2538 năm về trước, vào một buổi b.nh minh, khu vườn Lâm Tỳ Ni

ngạt ngào hương hoa, tiếng chim ríu rít tưng bừng, đón chào vị cứu tinh muôn loại xuất thế,

đón chào thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia.

Thái tử hạ sanh dưới cây Vô Ưu. Ngài đi 7 bước, mỗi bước hoa nở dưới chân. Tay trái

chỉ xuống đất, tay phải chỉ lên trời, miệng nói : “Thiên thượng thiên hạ duy ng. độc tôn” (trên

trời dưới đất chỉ có chân tâm bản tánh thường lạc ng. tịnh mới đáng tôn qu.).

Đây là toát yếu toàn thể giáo l. Phật đà.

Ngài trưởng thành nơi cung vàng điện ngọc. Nhưng vợ đẹp con khôn, phú qu. vinh

hoa trở thành nhạt nhẽo, khi ngài thấy r. ngoài cổng thành 4 cảnh sanh già bệnh chết. Vạn

hữu thành hoại phù hư. Ngài d.ng m.nh thoát ly triền phược, quyết t.m ánh sáng chân như.

Trải 6 năm phấn đấu với muôn ngàn gian khó, nắng mưa sương tuyết cùng cám dỗ của ma

vương. Một buổi sáng, sao mai vừa ló dạng, ngài đắc quả chánh đẳng chánh giác.

Đắc quả Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Nghĩa là chứng được Pháp-thân chân ng.

mà ngay lúc vừa giáng sanh, ngài đ. tuyên bố là độc tôn.

Con người từ vô thủy vẫn sống vô minh, suốt ngày chỉ lo cho ta mà chưa từng để .

xem thật ta là g. ? Ta ở đâu ? Ta là thân đất nước gió lửa, hay ta là vọng tâm, bóng ảnh của 6

trần triền miên sanh diệt ? Chỉ v. quên mất chân tánh độc nhất tôn qu., lầm sống theo vọng

thức nên mới lưu chuyển trong 6 đạo luân hồi, chịu đủ khổ sở. Nay Phật từ bi giáng trần cứu

khổ, chỉ có một cách mở đường giải thoát cho chúng sanh, là vạch r. chỗ mê lầm và chỉ r.

chỗ chân thật.

Ngài vạch r. 6 căn thật huyễn hóa, 6 trần thật ảo ảnh, 6 thức thật mê lầm. Không phải

ta, không phải của ta mà là huyễn vọng vô minh.

Ngài chỉ r. Pháp-thân thường lạc ng. tịnh là tánh Phật, bản lai ta vẫn có mà vẫn

thường quên, nay quay trở về liền tới.

Một đời giáo hóa, đức Bổn Sư dù nói ngàn kinh vạn quyển, dù đặt ra 8 vạn 4 ngàn

pháp môn, chung quy cũng không ngoài mục đích trên.

“Thiên thượng thiên hạ, duy ng. độc tôn” đây là bài tựa mở đầu tam tạng kinh điển.

Tới khi sắp nhập Niết-bàn, trong thời Pháp Hoa, ngài tỏ lộ bản hoài : “Mười phương

tam thế chư Phật chỉ ra đời với một mục đích v. chúng sanh khai thị Phật tri kiến”. Phật tri

kiến tức là thấy biết “chân tánh độc tôn”. Đây là văn kết một đời đức Bổn Sư thị hiện giáo

hóa. Cho nên biết câu nói lịch sử này, chính là cửa giải thoát vô thượng. Tất cả những ai đ. tự

xưng là Phật tử, không thể không suy ngẫm kỹ càng và đỉnh đới thọ tr..

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

TẮM PHẬT

Con nay dội tắm thân Như Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ.

Ngũ trược chúng sanh l.a trần cấu,

Đồng chứng Như Lai tịnh Pháp-thân.

Thành Tỳ Gia thật chưa từng sanh.

Rừng Ta La thật chưa từng diệt.

Không sanh, không diệt, đức Cù Đàm !

Con mắt xem nh.n càng thêm vọng.

Sáng nay chính là ngày sinh nhật,

Tịnh Phạn Vương cung sanh Tất Đạt.

Chín rồng khắp tưới, mưa nước tắm.

Bảy bông nâng gót, đỡ chân đi.

Ám mâu ni, mâu ni, tam mâu ni, sa bà ha (3 lần).

MỪNG KHÁNH ĐẢN

Ngày mùng 8-4, xưa cũng như nay, là mùa hoa nở. 2500 năm về trước, ngày 8-4 trong

vườn Lâm Tỳ Ni, hoa Ưu đàm bừng nở, hương thơm tỏa khắp. Hoàng hậu Ma Gia ra vườn

xem hoa đ. đản sanh thái tử, một bông hoa Ưu đàm trong loài người.

Thái tử vừa sanh, liền đi 7 bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ xuống đất, cất tiếng viên

âm vang khắp mười phương : “Thiên thượng thiên hạ duy ng. độc tôn” nghĩa là trên trời dưới

đất chỉ có một sự nghiệp cao qu. là sống đúng thật với chân tâm bản tánh của m.nh. Cho nên

“khai nhân tánh”, mở bày tánh chất thật của con người, là mục đích của việc Như Lai ứng thế.

Vấn đề này đề cập ở khắp các kinh luận đại thừa. Chúng ta h.y nghe Tổ Thanh Lương

giảng đề kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

ĐẠI là lớn. Tâm chúng ta là bản thể hết thảy vạn vật. Vũ trụ núi sông muôn loài đều là

những pháp hiện trong tâm ta.

PHƯƠNG là vuông. Ta nói “mẹ tr.n con vuông” là cả hai đều đầy đủ sức khỏe, vạn

sự như .. Tâm chúng ta “phương” v. đủ h.nh tướng vạn pháp, 4 pháp giới Thánh và 6 pháp

giới phàm.

QUẢNG là công dụng vô cùng rộng r.i. Bồ-tát cứu khổ địa ngục, ng. quỷ. Phàm phu

bổ củi, gánh nước, đều là thần thông của tâm.

PHẬT là giác, đặc tánh linh diệu.

Chữ HOA có nhiều nghĩa :

1/ V. Đại Phương Quảng nên mới phát ra được những công hạnh rực rỡ tốt tươi như

hoa, từ bi hỷ xả, ái ngữ lợi hành, tùy thuận các căn cơ.

2/ Như hoa báo điềm kết quả, hạnh tu là duyên nhân để mai sau thành Phật.

3/ Giác tâm khai hoa, th. hương thơm khắp gần xa, huân thấm l.ng người.

4/ Hoa quang tịnh dụ cho căn bản trí minh hiển.

5/ Biết bao khôn khéo của thiên nhiên mới có một bông hồng. Bao nhiêu phước đức

nhân duyên, chúng ta mới có được một tâm sở tốt.

6/ Nước đang nhè nhẹ chảy trong gân mạch của hoa, vốn đồng một thể với thủy đại ở

khắp pháp giới. Những công hạnh vi diệu của con người, chính từ Phật trí hiện đang có ở thân

tâm khắp vạn loài.

NGHIÊM :

Trong danh đề Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh th. Đại Phương Quảng Phật

là tâm, là cảnh được nghiêm sức. C.n Hoa là những công hạnh đẹp đ. trang nghiêm tâm

m.nh. Đức Thích Ca thành công cùng cực trong sự nghiệp Hoa Nghiêm này.

Dĩ nhiên là nếu không có bản chất vàng ngọc, th. mài dũa bao nhiêu cũng chẳng thành

  1. giá. Bởi v. bản chất của tâm là Đại Phương Quảng Phật nên mới có hoa để tự trang

nghiêm. Đại Phương Quảng Phật là chánh nhân. Hoa là duyên nhân, để thành Vô-thượng Bồ-

đề là liễu nhân, vạn đức oai hùng lợi ích tận vị lai.

Ngày mùng 8-4, lễ phẩm qu. giá nhất là giác chiếu. Giác tỉnh bừng ngộ trong đêm dày

mê nặng, chiếu soi tan khỏa những u tượng vọng t.nh. Tổ Thanh Lương nhắc nhở rằng :

“Tăng Ni đem tâm ra ngoài lo học lo nghe. Thiền sinh chuyên trọng nội tâm, một bề chiếu soi

nội cảnh đều là thiên chấp. Muốn đạt chân tánh cần học đức viên dung”.

Muốn noi theo, trước hết lễ kính. Mười hạnh Phổ Hiền, lễ kính đứng đầu. Xưa vua A

Dục hằng ngày lễ Phật. Một đại thần can rằng như thế rất trái với ngôi vị một đấng quân

vương. Một hôm vua sai các quan mỗi người đem bán một cái đầu thú vật. Riêng ông đại

thần, vua giao cho đầu một tử tù. Tất cả đầu thú vật đều bán được ngay, chỉ cái đầu người cho

không cũng không ai chịu lấy. Vua quở trách, ông quan tâu rằng : “Lúc sống th. đầu người

  1. hơn đầu súc vật một trời một vực. Nhưng đ. chết, th. đầu súc vật c.n dùng được chớ đầu

người chỉ để thối nát, bẩn mắt thiên hạ, hôi s.nh lừng đất lừng trời, ai dại g. mà thọ nhận”.

Vua hỏi : “Thế đầu ta là đầu đấng quân vương th. mai sau cũng thế ư ?” Vua bắt buộc ông đại

thần phải nói thật. Thấy ông khổ sở không dám nói. Vua bật cười, kết luận rằng : “Ngươi đ.

biết đầu người là đáng chán như vậy. Sao ngươi c.n can ta, khi ta đem cái vật vô giá trị này

đổi lấy vô biên công đức”.

(Thỉnh đại chúng đứng tán :)

Đệ tử hôm nay

Gặp ngày khánh đản.

Một dạ vui mừng

Cúi đầu đảnh lễ.

Thập phương tam thế

Điều ngự Như Lai,

Bồ-tát, Thánh Hiền,

Liệt vị Tổ Sư.

Pháp giới chúng sanh

Bởi thiếu nhân lành,

Nên c.n sa đọa

Tham sân chấp ng.,

Quên hẳn đường về.

T.nh ái si mê,

Tù trong lục đạo

Trăm dây phiền n.o,

Nghiệp báo không cùng.

Nặng kiếp luân hồi,

Đêm dày tăm tối.

Phật Tổ năng nhân

Rủ l.ng lân mẫn

Thương xót sinh linh,

Đuốc tuệ rạng soi

Nguyện cứu muôn loài,

Dùng pháp phương tiện.

Ta Bà thị hiện,

Thích chủng thọ sanh.

Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,

Vua Tịnh Phạn phước sanh con thảo,

Thái tử đủ 32 tướng hảo,

Bảy hoa sen đỡ gót chân đi.

Cất viên âm, tay chỉ đất trời.

“Duy ng. độc tôn” lời lịch sử,

Năm thái tử vừa 19 tuổi.

Xin vua cha dạo 4 cửa thành,

Chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết.

Nên phát tâm lập chí xuất trần.

Sáu năm khổ hạnh ẩn rừng già.

Bốn mươi chín ngày tinh nghiêm thiền tọa,

Hàng phục ma quân, thành đạo quả.

Quang minh soi chiếu khắp Ta Bà.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ

1) A-tỳ ngục tốt, phát khởi thiện tâm.

Chúng h.a : Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (về sau mỗi số là 1 lễ như đây).

2) A-tăng-kỳ kiếp, quả m.n nhân tr.n.

3) Nhất sanh bổ xứ, trên trời Đâu Suất.

4) Ta Bà hóa độ, ứng hiện sanh thân.

5) Đâu Suất giáng thần, ứng mộng Ma Gia.

6) Hoàng cung thác chất, thị hiện đầu thai.

7) Dưới cây Vô Ưu, khánh đản giáng sanh.

8) Giả hưởng năm dục, chán cảnh vô thường.

9) Dạo chơi bốn cửa, r. già bệnh chết.

10) Nửa đêm vượt thành, t.m đường xuất thế.

11) Non xanh cắt tóc, t.m Thầy hỏi đạo.

12) Núi Tuyết tu hành, sáu năm khổ hạnh.

13) Dưới cây Bồ-đề, hàng phục ma quân.

14) Sao mai vừa mọc, đạo quả viên thành.

15) 49 năm tr.n, thuyết pháp độ sanh.

16) Tam thừa đ. đủ, hóa độ vừa xong.

17) Ta La song thọ, thị hiện Niết-bàn.

18) Lưu bố xá lợi, phước ích trời người.

19) Ta Bà giáo chủ, đại từ bi phụ.

20) Đương hội đạo tràng thiên bách ức hóa thân.

  1. TRỊ TÂM

1

Tỳ-kheo-ni Đan Ti Ka nhân lúc đi núi chứng A-la-hán, ngâm kệ :

Trên non voi tắm vừa xong,

Bỗng nhiên quản tượng ở đâu tới gần.

Tay quơ chĩa, miệng la rân,

Thét voi bắt phải quỳ chân co gi..

Voi nghe vội v. mọp b.,

Thuận t.ng sai khiến, voi ngoan ngo.n về.

Voi kia vốn chúa rừng xanh

Chủ khôn khéo dạy, hóa ra hiền lành.

À ra la thét dỗ dành,

Vật dù cứng mấy, do đây cũng mềm.

Tâm ta từ kiếp tăng-kỳ

Trần lao đắm trói, dễ g. luyện tu.

Song nhờ trí tuệ quản chu,

Dứt t.nh ham muốn ngăn ngừa sân si.

Từ đây an tịnh Niết-bàn.

An nhàn suối hát vui ngàn thông reo.

2

Ngài Budha Ghosa, một đại Tổ sư, đ. làm sáng rỡ Phật giáo Tích Lan, khi bàn về tâm

giận hờn, ngài luận rằng :

Anh ơi ! Anh đ. xuất gia lánh tục mà c.n giận hờn. Đó là anh c.n ôm việc thế tục

trong l.ng. Xin anh cho biết cái giận đứng chỗ nào mà gọi là anh giận ? Tim giận ? Phổi

giận ? Ruột giận hay gan giận ? Thật anh là thứ nào để giận hờn người kia ?

C.n kẻ kia là thứ nào đang l.nh anh giận hờn ?

— Tóc lông móng răng da ? Anh giận xương chăng ? Anh giận chất đất hay chất

nước ? Hay anh giận hơi thở ? Trong năm ấm anh giận sắc hay thọ ? Tưởng, hành, thức anh

phiền thứ nào ?

Anh giận cả 6 giác quan hay chỉ giận riêng con mắt, cái tai ? Nhỡn thức của người kia

đ. làm anh giận đến thế ư ?

Anh ơi ! Anh thấy cái giận của anh đứng chỗ nào ? Một tu sĩ phân tích toàn thân để

t.m chỗ chứa sự giận hờn, sẽ thấy không thể lấy mũi kim mà ghim hạt cải. Sân giận là một thứ

chưa hề có chỗ đứng ở trên trái đất này.

  1. ĐẠO TỪ

Của Sư bà Thiên Phước, tỉnh Long An.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

Kính thưa Ni sư viện chủ, qu. Sư cô và đại chúng !

Hôm nay là ngày tạm kết thúc khóa tu A Na Luật, viên m.n y công đức. Lời nói đầu

tiên của chúng tôi là lời chân thành cảm niệm công đức Ni sư, đ. tận tâm dạy bảo nâng đỡ Ni

chúng. Cùng chúng tôi chung sức trong những cố gắng giáo dục đào luyện đàn hậu tấn.

Việc Ni sư tổ chức khóa tu học này thật phù hợp với . nguyện của tôi. Từ lâu tôi chỉ

mong cho con em có căn bản, có thứ lớp, có đường lối vững vàng. Đối với sự xây dựng tương

lai cho Ni chúng cũng như đạo pháp, chúng tôi xin ghi nhận và tán thán công đức của Ni sư.

Trong các giờ giảng dạy kinh và luật, Ni sư không quản lao nhọc, bố thí sức khỏe và

thời giờ cho Ni chúng. Mỗi ngày ba thời. Khi bệnh cũng như khi mạnh, lúc nào cũng tận tâm,

ân cần nhắc đi nhắc lại những lời dạy khế cơ khế l.. Giác tỉnh con em nhận r. vạn pháp

duyên sanh tức vô thường và tiến lên bước nữa là toàn giả tức chân, ngộ l. chân thường.

Nhận thức sáng suốt 6 căn, 6 trần và 6 thức đều không thật, để hàng ngày lúc nào cũng

y ly. Hướng về nội tâm phản tỉnh, mới có thể bảo đảm sự giải thoát sau này.

Việc tu hành khó hay dễ đều do tâm m.nh có d.ng m.nh quả quyết hay không. Người

thế gian như ông Phạm Quỳnh đ. nói : “Đường đi khó, không khó v. ngăn sông cách núi, mà

khó v. l.ng người ngại núi e sông”. Việc thế gian c.n thế, huống chi việc xuất thế gian vô

cùng quan trọng. Tín tâm là ch.a khóa mở toang cửa đạo nhiệm mầu. Hy vọng đại chúng từ

nay phấn phát tâm thành cần cầu giác ngộ, nghĩ đáp bốn ân để khỏi phụ công lao chỉ giáo của

Ni sư. Tưởng niệm tới nỗi đau khổ của sáu đường mà dốc chí tu hành không biếng trễ.

Thưa Ni sư ! Đem đôi mắt thực tế nh.n xem t.nh trạng chung quanh chúng ta, tôi

tưởng chừng khó khăn lắm mới thực hiện được . nguyện toàn vẹn. Vậy mà chúng ta tuy chịu

ít nhiều thử thách chướng ngại nhưng nhờ hồng ân Tam-bảo thầm gia hộ nên đ. vượt qua.

Cổ đức nói rằng :

“Trần lao muốn gánh việc phi thường

Nắm chặt đầu dây giữ lập trường,

Ví chẳng một phen sương thấm lạnh

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.

Tu đạo đ.i hỏi nhiều nghị lực và nhẫn nại mới thành tựu mỹ m.n.

Ngày 29-1 Canh thân (1980)

  1. THƯ GỬI LIÊN HOA

I

  1. hội nào cũng có các nhân viên chánh trị soi xét toàn dân, bắt buộc từng cá nhân

vào quy luật. Quốc gia do đây b.nh an thịnh vượng. Một bà mẹ có nhiều con. Nếu quá cưng

chiều, muốn chi được nấy, tha hồ phóng túng buông lung, những đứa con trở thành vô dụng.

Bà mẹ về già sẽ khốn khổ v. con. Ngược lại nếu mẹ cứng rắn nghiêm minh, con sẽ nên người.

Kết quả mẹ con hạnh phúc.

Mỗi người chúng ta đều có nhiều tâm sở mừng giận, thương lo, yêu ghét, buồn tủi

v.v... Nếu để những tâm này tha hồ rông rỡ, th. tâm sở thiện ít khi đủ duyên hiện hành, c.n

các thứ cuống siểm hại kiêu v.v... sẽ mọc um tùm như cỏ dại. Từ vô thủy chúng ta đ. có biết

bao phiền n.o chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Nếu không có trí tuệ nghiêm minh hằng

tự soi chiếu, bắt tâm viên . m. này vào khuôn khổ th. như người ta vẫn nói : “Ngọc kia không

dũa không mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi”.

Tâm nếu được trí rèn luyện th. ngôi Phật, ngôi Tổ c.n nắm chắc trong tay, huống chi

các quả vị khác.

Điểm chánh yếu là tự hiểu biết m.nh, luôn luôn tự quán chiếu, luôn luôn tỉnh thức,

nh.n thẳng vào thân tâm m.nh, theo d.i sinh hoạt của nó.

Tu theo đạo Phật, không phải để thành tựu một điều g. mà là để xả bỏ đi tất cả. Bởi v.

chân tâm bản tánh chúng ta bản lai đầy đủ hằng sa tánh đức.

Nguyện cầu chị em thân miệng . hằng thanh tịnh.

Nam mô A Di Đà Phật.

II

Con tằm nhả tơ kéo kén cố gắng vất vả một thời. Những mong mai đây kén êm dày

kín. Nằm ở trong thật an ổn chắc chắn, chẳng c.n lo cái kiến con sâu nào quấy rầy. Mặc ai

mưa gió b.o bùng sương sa gió lạnh, kén ta vẫn bền vẫn ấm.

Dè đâu chính sợi tơ óng ả bền chắc ấy, đ. xui con người bỏ tằm vào vạc dầu sôi. Cứ

như thế từ ngàn xưa là kiếp sống của tằm. Hiện tại vẫn thế, loài tằm không thay đổi tri kiến,

không thay đổi lối sống.

Loài người cũng vậy, cháu đưa đám ông, con đưa đám cha. Cứ như thế nối d.ng đào

hố vô thường. Kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri kiến, không thay đổi lối sống.

Sách kể chuyện : Con chồn đi ăn vụng, quá no căng bụng, lăn kềnh ra ngủ. Sáng sớm

chị bếp la lớn : “Ồ ! Con chồn chết, ta chặt lấy cái đuôi phơi làm chổi”. Chồn đành giả chết,

chịu chặt đuôi. Ai dè bà chủ lên tiếng : “Áo lông cừu đ. rách, lột da chồn thuộc đi, vá cũng

đẹp”. Chồn liều mạng vùng dậy, chạy biến vào rừng.

Người anh dũng nên như chồn, vùng một cái, chạy thẳng về Cực Lạc mới hy vọng an

thân vĩnh viễn.

VI-/

LỜI CÁC ĐẠI SƯ

I

  1. TRUNG ĐẠO GIẢN DỊ

Tâm linh tất cả hữu t.nh hoạt động ở 6 căn : mắt tai mũi lưỡi thân .. Con đường chúng

ta đi là vứt bỏ yêu ghét. B.nh tĩnh trước mọi cảnh, thoát ra ngoài chiến trường thế sự. Đường

giải thoát là trung đạo giữa 2 thái cực buông lung và khổ hạnh. Chỉ cần đặt tất cả khổ vui hay

dở xuống. Tin chắc thế gian này chẳng có g. hấp dẫn, chẳng có g. cần nắm giữ. Biết lạc thú

hay đau khổ đều chẳng phải ta và của ta, chúng sẽ biến dần. Thực tập xả bỏ tất cả thủ chấp.

Được thuần thục, tâm sẽ quân b.nh. Quân b.nh này là chánh đạo giải thoát.

H.y học cách nh.n tiến tr.nh của tâm. Khi bị khuấy động, tâm dấy khởi các ảo giác,

các tư tưởng. Mặc cho chúng tan đi. Kiểm soát tâm là một việc làm thích thú, bảo đảm không

bao giờ chán.

Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo : Sáu căn gặp 6 trần không phân biệt đẹp xấu thơm hôi

ngon dở nên không cảm động. Tinh tấn g.n giữ 6 căn, không để ác pháp làm chủ. Một bề an

định trong tánh thấy nghe. Cảm giác thuận nghịch phát sanh, thương ghét nhiễu loạn, không

nhận là m.nh. Đừng hững hờ để tâm duyên cảnh. Tinh tấn chế ngự tham sân si. Bảo hộ thiện

pháp như ph.ng giặc không cho vào nhà cướp của.

Có 5 pháp để thành biện việc hộ 6 căn là giới, nhẫn, trí nhớ, trí tuệ, tinh tấn. Ngược

lại : buông lung, hay quên, mê muội, nông nổi, lười biếng không hộ được 6 căn.

Lộ tr.nh tâm trong nh.n căn khi xúc trần :

1- Tâm b.nh thường (Bhavanga) rung động 1 sát na, dừng lại 1 sát na.

2- Tâm t.m kiếm cảnh trần ở 5 căn phát sanh rồi diệt.

3- Nh.n thức 1 sát na.

4- Thọ một 1 sát na.

5- Suy đạt 1 sát na.

6- Xác định 1 sát na.

7- Tốc hành tâm luôn 7 sát na.

Những sát na đầu, Tỳ-kheo chưa . thức được. M.i đến số 7 mới có hộ, nghĩa là tham

sân không áp lực chi phối. Thân như cái nhà, 6 căn như cửa mở. Trí nhớ như người gác cửa.

Năm pháp hộ như cửa cái. Một trong 6 trần dắt đường. Tham sân là kẻ cướp. Người gác quên

phận sự, không lưu tâm đến cửa cái, kẻ dắt đường dẫn cướp vào phá các thiện pháp. Thành

quách an toàn nhờ quan quân canh giữ. Tỳ-kheo hộ 6 căn mới bảo tồn được giới phẩm.

  1. HỌC VÀ HÀNH

Muốn được chân l. phải học căn bản :

1) Giới luật.

2) Tứ Niệm Xứ. Lời nói có giới hạn nên kinh điển không diễn tả được hết. Kinh

nghiệm của chính m.nh mới đem lại đức tin thật sự. Lấy lời Phật làm căn bản để nghiên cứu

tâm m.nh. Học rồi thực hành sẽ thấy giáo pháp. Nếu không, ta chỉ biết Phật pháp qua ngôn

ngữ. Việc cần học là t.m một con đường thoát khổ được an cho m.nh và người.

Tâm di động th. tư tưởng h.nh thành tham ái hay bực bội. V. không hiểu r. sự chuyển

động này, cứ theo thói quen, h.nh thành m.i tư tưởng, trở nên nạn nhân của nó. Theo d.i sự di

chuyển của vọng tâm, sẽ thấy đặc tính của nó là vô thường, vô ng. và không biết chán đủ. Khi

các pháp phát sanh, h.y chánh niệm, biết chúng. Tâm thực hiện được sự ghi nhận, giác tỉnh

này mới là tâm được huấn luyện đúng cách.

Nhiều loại tâm h.nh thành, nẩy nở liên tục. Cứ mặc chúng, tốt cũng như xấu. Phật

dạy : Vất bỏ hết. Nhưng làm thế nào vất bỏ ?

— Quan sát tâm, chỉ thấy các yếu tố khác nhau kết hợp mà không tự ng.. Cảm giác k.

ức, cả 5 uẩn đang dời chỗ như lá cuốn theo gió. Ai quan sát tâm sẽ khám phá ra điều này.

C.n dính mắc vào an tịnh vẫn là c.n dính mắc. An tịnh chấm dứt, dao động bắt đầu, ta sẽ bị

dính mắc nhiều hơn. Cho nên dù an tịnh hay động tâm, ta không nên nhận là tôi hay của tôi.

  1. có chấp thủ nên con người hết hân hoan đến thoái chí, không ngừng bước lên thiên

đường, vào địa ngục.

  1. ràng chân tâm chủ nhân ông đang chiếu soi không sanh không diệt. Trí chiếu sáng,

không g. làm bận rộn được nó cả. Ta bận rộn v. bị những hiện tượng nhận lầm là tự ng. đánh

lừa. Khi chứa đựng đồ tốt, chân tâm không trở nên tốt. Khi tiếp xúc việc xấu, chân tâm không

trở nên xấu. Tâm trong sạch biết những đối tượng này r. ràng không bản chất. Trí tuệ nh.n

chúng với tâm xả. Đây là b.nh an, vô sanh, vô ng., vượt ra ngoài thiện ác.

H.y phát triển tâm định, an tịnh và minh sát, h.y thật sự dùng nó. Gặp việc ưa thích

hay bực m.nh, ta để nó ra đi được chưa ? Bài này không phải để nghe suông, phải quyết liệt

thực hành liên tục mới được. Đáng tiếc là rất ít người nghiên cứu Phật giáo chịu thực tập. Tôi

khẩn khoản khuyên họ nên có sự tu để l. học được sáng tỏ.

  1. XẢ LÀ BÍ QUYẾT GIẢI THOÁT

Nhà khoa học đem sự vật ra xét nghiệm để r. thực chất. Tỳ-kheo quan sát con chim

xinh đẹp, thấy thân nó bất tịnh, vô thường, một dúm lông chất chứa đau khổ. Thế gian si mê,

  1. quỵ trong phiền n.o, chịu quả báo sáu đạo, gia tăng thói xấu, tạo thêm nghiệp ác. V.ng

luân hồi cứ thế xoay vần không cùng tận.

Phật đ. đích chỉ tham sân si là ba độc, dạy chấm dứt thủ chấp. Gió giác quan, nếu

không theo d.i sẽ gây b.o tố tham sân, khiến miệng nói thân làm sai quấy. Si mê thấy thiện ra

ác, ác ra thiện. Ba thứ căn bản phiền n.o này, vừa như lửa nung nấu, vừa như nước nhận

ch.m.

Đức Phật đ. thành đạo, vẫn có thân (sắc), vẫn có cảm giác khổ vui (thọ), có tư tưởng,

có suy nghĩ (hành), có tâm thức phân biệt, nhưng không nhận chúng là ta, là của ta. Ngài tách

rời 5 uẩn ra khỏi các phiền n.o, như người phá rừng phát quang những bụi cây nhỏ mà không

làm hại đến những cây lớn. Phiền n.o không c.n chỗ đứng để sanh diệt, tồn tại, nối tiếp. C.n

5 uẩn th. đến và đi, sanh và diệt, theo bản chất tự nhiên của chúng.

Bị nguyền rủa, Tỳ-kheo v. không có cảm giác về tự ng. nên câu chuyện theo âm thanh

mà thành không. Tỳ-kheo cẩn thận buông xả hết kiêu và mạn. Thong thả đi trong đời không

bị dính mắc là con đường Niết-bàn. Tất cả giáo huấn của Phật chỉ có một mục tiêu : Giải thoát

tâm khỏi mọi ràng buộc. Nguồn từ bi và trí tuệ sẽ từ đây chảy ra.

  1. B.NH AN

Nh.n mọi vật dưới ánh sáng vô thường, vô ng., khổ và không, sẽ không luyến ái cũng

chẳng ghét bỏ. Chúng ta không t.m khoái lạc, chỉ cầu b.nh an. B.nh an không có ở rừng sâu

núi thẳm. Một bậc Thầy đạo đức tối thượng cũng không thể ban cho chúng ta b.nh an. B.nh

an chỉ có ở ngay trong chúng ta, cùng một chỗ với dao động. Theo d.i tâm, thấy nguyên nhân

của đau khổ th. chấm dứt ngay. Ta sẽ không phải đương đầu với những kết quả.

Nguyên nhân của đau khổ là phiền n.o. Quan hệ nhất là biết phiền n.o không bản

chất. Không lẩn tránh phiền n.o. Không dằn ép phiền n.o mà đối diện với phiền n.o. Không

nuôi dưỡng những thứ độc ở trong tâm.

Tâm ích kỷ là mẹ đẻ của tham sân si, gốc rễ của tất cả đau khổ. Ta phải chế ngự

chúng, chiến thắng từng giờ phút để thoát sự kiềm chế và điều khiển của chúng. Cuộc chiến

đấu tranh quyền làm chủ này thật khó khăn. Khó khăn v. những người bạn thân này, chẳng

những sống với chúng ta từ thuở c.n thơ mà đ. từ vô thủy.

  1. chúng ta chỉ đắp thuốc bên ngoài, bên trong vẫn nuôi dưỡng phiền n.o, cho đến

nhận chúng là m.nh nên đâu có g. mệt nhọc. Nay mổ xẻ để trị tận gốc, tránh sao khỏi khó

khăn, một khi từ thâm tâm chúng đ. là ruột thịt của m.nh.

Muốn đề kháng phiền n.o trước hết bớt ăn bớt ngủ. Đây không phải là tự hành hạ mà

là điều cần thiết để có sức mạnh ở bên trong. Chúng ta chịu luân hồi sanh tử v. đ. dính mắc

vào thọ, tưởng, hành, thức. Mỗi mỗi nhận là ta. Ta khổ ta vui, ta yêu ta ghét, ta làm thiện ta

làm ác, ta thấy ta nghe, chỉ những ta là ta. Nhà thiền coi tâm như một con trâu rừng, đăm đăm

trông không cho nó dẫm vào lúa mạ. Huấn luyện cho nó thuần thục. Như thế chẳng những

chúng ta chấm dứt phiền n.o mà c.n thấy được chân l..

Việc này không phức tạp lắm đâu, chỉ có điều là không thể trông cậy ở sách vở và thầy

bạn, mà phải tu tập. Chính m.nh kinh nghiệm, chính m.nh giác tỉnh, l.ng tin đạo pháp mới

vững bền. Dần dần tầm tri kiến sẽ thay đổi và theo đó các thói quen chấp ng. sẽ chuyển gỡ.

Có 2 loại khổ : khổ đưa đến khổ và khổ để dứt khổ. Nếu ta sợ loại 2, nhất định ta phải

gặp loại 1. Nghiên cứu điểm này sẽ được b.nh an.

  1. TÂM PHÂN BIỆT

Mật ong ngon ngọt, ăn cơm không, thấy nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ một vị

nhưng bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu

lại là bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuộm màu vạn vật. Thế giới 6 trần chính nó tạo ra,

toàn những bất đồng.

Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh, chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh

nên vô ng., vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta tự chủ và luôn luôn sáng suốt. Những

cảm giác khởi lên, chúng ta ghi, biết rồi để mặc cho chúng tan đi với tánh cách vô thường của

chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ để ưa thích rồi chán bỏ... Giác

quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Dĩ nhiên v. có si mê đứng đấy. Nhưng với chánh

niệm th. đây là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy

rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù. Chỉ cần chánh niệm, không dính

mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và

làm chủ con khỉ. Cần th. xích nó lại. Mặc cho nó chết. Nhưng bạn ơi, bạn vẫn có con khỉ chết.

Xác nó có thối rữa hết đi nữa, bạn vẫn c.n bộ xương khỉ.

Theo kinh Lăng Nghiêm, dù có nhắm mắt bịt tai, nội thủ u nhàn, vẫn là pháp trần phân

biệt ảnh sự (con khỉ chết). Dù có chứng A-la-hán, như Tổ Ca Diếp, nghe tiếng đàn của Cànthát-

bà-vương, bất giác đứng dậy múa. Ngài Tất Lăng Già Bà Ta cứ gọi thần nữ sông Hằng là

Tiểu tỳ. Phật dạy : Tổ Ca Diếp xưa kia, 500 đời làm nghề ca múa. Ngài Tất Lăng Già Bà Ta

thật t.nh không c.n kiêu mạn. Đây là tập khí nhiều đời c.n lại. Phải tu Bồ-tát hạnh mới đoạn

hết (xương khỉ).

  1. CHÁNH KIẾN

Đức Phật khi thành đạo xem loài người như một ao sen : Một số c.n nằm trong bùn.

Một số vượt khỏi bùn nhưng c.n nằm ở trong l.ng nước. Một số vươn được lên mặt nước.

Một số vượt mặt nước đứng trong hư không, nở hoa tỏa hương. Bạn h.y xét xem m.nh là loại

nào. Nếu c.n ở dưới nước th. coi chừng, chẳng thoát được lũ cá và rùa nó rúc rỉa, c.n ở luân

hồi, dù c.i trời người vẫn không thể là chỗ b.nh an.

Cần học kỹ Phật pháp để tự có một tầm nh.n đúng. Việc này vô cùng quan trọng.

Suốt đời trau dồi tâm từ ái và tôn kính mọi người. Thận trọng lời nói và việc làm. Đấy là tài

sản của chúng ta. Sống đúng với giới luật, tâm sẽ an h.a trong sáng, giải thoát dễ dàng phát

triển trên mảnh đất này.

Nhà cửa phải quét dọn sạch sẽ, y phục tề chỉnh. Tâm chúng ta phải xả ác tu lành. Xả

ác tu lành tới cùng cực. Có nhiều hiểu biết sai lầm về sự tập trung tâm .. Có nhiều hiện tượng

bất thường xảy ra trong lúc tu hành, nên cần các bậc Thầy điều chỉnh và hướng dẫn.

Chánh tinh tấn không phải là lo việc bên ngoài mà là bền tâm giác tỉnh và ngự chế bên trong.

Có đức hạnh mà bố thí th. từ thiện được trong sáng.

Người không hiểu giáo pháp mong che giấu lỗi lầm, đâu có biết nghiệp luôn luôn theo

d.i họ. Giới luật và chánh kiến là hai bước đầu tiên phải hoàn thành. Phiền n.o sẽ tự tan biến.

Cũng như đèn thắp lên, chúng ta chẳng cần hỏi bóng tối đ. đi đâu. Muốn có chánh kiến phải

học và tu Tứ Niệm Xứ.

Giới Định Tuệ là đạo, là con đường phải đi chớ chưa phải là chân l. mục tiêu. Như từ

Sài G.n đến Hương Sen, đường đi là đạo, chỗ đến là Hương Sen. Trong tất cả lúc, tất cả nơi,

đạo lo hủy diệt Tập và Khổ. Kiên tr. không ngơi nghỉ, chịu đựng mọi khó khăn, tranh đấu với

phiền n.o cho tới cùng.

Giới Định Tuệ đem lại sự b.nh an kỳ diệu, không phải dựa vào một ai khác.

Có trí tuệ là tự m.nh thấy r. lẽ phải. Khen chê không quấy rầy được. H.y tự xét. Nếu họ nói

sai, ta bỏ qua. Nếu họ nói đúng, ta sửa m.nh. Cần g. phải giận dữ. Tự tin và nỗ lực giác tỉnh,

sẽ được thật sự b.nh an, ta chỉ cần tỉnh thức và chánh niệm.

Đừng t.m lỗi người. Nếu họ sai, ta tự khổ làm chi. Đ. chỉ chỗ sai mà họ không sửa,

đây là đường đi của họ, chớ có giận dữ mà tự mua sai quấy vào m.nh. Bất cứ việc g. cũng làm

với tâm xả bỏ, không mong cầu tiếng khen hay sự đền đáp. Xả bỏ ít sẽ có b.nh an ít. Xả bỏ

nhiều, b.nh an nhiều. Xả bỏ hoàn toàn, b.nh an hoàn toàn. Tâm ta luôn luôn hoạt động. Quét

nhà hay ăn uống ta h.y thận trọng chánh niệm. Trong những chấp tác hằng ngày, ta tự biết có

c.n lạc l.ng theo các phiền n.o không? Nhiều vấn đề ta đương đầu chính là nguồn gốc của trí

tuệ, để cuộc tranh đấu với thế gian này sớm chấm dứt.

Đạo, Quả, Niết-bàn đ.i hỏi một đối kháng với chính tâm m.nh. Trong giai đoạn đầu

t.m hiểu giáo pháp, thân ẩn cư rất cần. Nghiêm chỉnh tu hành, ta sẽ trưởng thành trong giáo

pháp. Ai t.m sẽ thấy. Ai ăn sẽ no. Chỉ người ăn mới no.

Bạn có thể bảo thân bạn đừng già được không ? Dạ dày có xin phép bạn khi nó đau

không ? Chúng ta chỉ là người thuê nhà. Tại sao không chịu t.m cho ra thật sự chủ nhân thân

này là ai ?

  1. TIẾT CHẾ BA NGHIỆP

Chỉ nói khi cần hoặc có ai hỏi. Xuất gia kiêng nói nhiều và thói quần tụ. Không cần

hoàn toàn tịnh khẩu, chỉ nói lời hữu ích.

Chớ lo tạo chùa mà chẳng nghĩ đến luyện tâm. Muốn dạy người khác, chính m.nh phải

kiểm soát được m.nh. Hằng kiểm điểm tâm m.nh, xem ta thực hành đúng hay c.n khuyết

điểm ?

Nhiều vị tu hành hay nhập thất là để dễ thanh lọc tâm, chứ không phải để tách rời mọi

người.

Nếu đời sống thế tục thuận lợi cho sự tu hành th. đức Phật đâu có khuyên chúng ta

xuất gia. Thân và tâm là hang ổ của kẻ cướp, luôn luôn nổi lửa tham sân si, ngũ dục lôi cuốn.

Ta đối trị tham ái bằng pháp đầu đà và quan sát tử thi. Tập thấy m.nh là một xác chết, một bộ

xương. Các cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là những bộ xương bọc thịt, phủ một lớp da. Cả 3 thứ

đều tanh hôi, sửa soạn để hóa d.i mủn nát.

Niệm thân để đối kháng lại chỗ thấy biết rất sai của m.nh. Đạo giải thoát bảo ta phải

nh.n cho thấy cơ thể ta và người chỉ là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải

thoát những hiểm nguy của tham ái.

Nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó ta được

hoan hỷ và định tâm. Biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.

Tu hành có 3 căn bản :

1/- Nghiêm hộ 6 căn miên mật sớm chiều như người vào rừng sâu đề ph.ng rắn độc và

thú dữ, cẩn thận không để gai nhọn đâm chích. Như người có vết thương thận trọng không

cho ruồi muỗi xúc chạm. Ba nghiệp điều h.a mới có b.nh an.

2/- Ăn uống tiết độ : Ăn chay th. dễ, hạn chế miếng ăn rất khó. H.y học ăn trong

chánh niệm. Nên phân biệt muốn ăn và cần ăn. Bớt ăn bớt ngủ rất cần trong mặt trận chống

biếng nhác và tham ái. Có thiếu thốn, phiền n.o mới lộ diện để cho ta thấy mà hàng phục.

3/- Chánh niệm tỉnh thức liên tục. Niệm Phật cả đêm để cả ngày hôm sau nghỉ hay vứt

bỏ tất cả bổn phận để chuyên niệm Phật, bạn sẽ mất b.nh an. Nên nhớ ta phải tiếp tục thở bất

cứ ở hoàn cảnh nào, không thể quá gấp hoặc quá ho.n. Điều h.a là cha sức khỏe. Tu hành

cũng thế, luôn luôn theo d.i tâm như cha mẹ bảo vệ con cái, không cho chúng làm bậy.

  1. AN VUI Ở ĐÂU

Vất bỏ hết đời sống thế tục, đắp y mang bát làm một người xuất gia, hoàn toàn tự do,

không c.n một chút tư hữu nào. Thế mà nhuộm y sẫm nhạt một chút cũng không chịu. Đội

mũ không được phải đội khăn v.v... Bận tâm đến vài ba cái sở hữu, trong khi chỉ cần giác

tỉnh. Đời sống an phận thúc liễm trong tu viện, nhiều người cho là tù túng áp chế. Dù là đ.

dụng tâm quyết chí tu hành, họ vẫn thấy không thoải mái.

Tư hữu và tham luyến hoàn toàn không do hoàn cảnh sanh ra. Gốc rễ của chúng ở tim

con người. Bất luận nơi đâu, lúc nào, với một vật bé nhỏ không đáng, chúng cũng khởi dậy.

Chỉ khi nào ta biết r. chúng là gốc rễ của tất cả phiền toái th. ta mới được hưởng cái thảnh

thơi của dứt bỏ.

Luyện tâm là điều tối yếu. Phật giáo là đạo của tâm. Người nào đào luyện tâm m.nh,

người ấy tu theo Phật giáo. Tin chắc l. nhân quả, quan sát kỹ sự sanh diệt của sáu trần, làm

chủ mọi hoạt động của tâm ., chắc chắn sẽ giải thoát. Như thế ta tự lo khai mở trí tuệ. Trí tuệ

cải thiện thân tâm. H.y tỉnh dậy ! Cố gắng t.m vui ở sự tu hành. Giữ g.n giới phẩm căn bản.

Kiểm soát thân miệng .. Đừng chán nản trong khó khăn tập trung tâm .. Đạo sở dĩ qu. v. có

thể huấn luyện được tâm. Với nỗ lực đúng, chúng ta đạt được trí tuệ.

Thực hành chánh pháp là bậc xuất thế gian. Giới luật là cha mẹ của mọi sự tốt đẹp.

Nh.n thẳng tham sân khởi dậy ở các giác quan, đừng dính mắc vào chúng. Cứ thế tập, đừng

bận tâm đến kết quả. Bao giờ thành cũng được, miễn là ta tinh tấn.

Biết r. thân già bệnh chết chỉ là đất nước gió lửa, kết hợp tạm thời, th. khi bắt buộc rời

bỏ nó, ta đỡ đau khổ.

Hiểu r. vô ng. tức khắc buông gánh nặng. Không chấp ng., tầm nh.n sẽ mở rộng, mọi

việc trở nên dễ dàng. Sống với giáo pháp, an vui tự đến.

II

  1. ĐÀN GIỚI TỲ-KHEO-NI

Tỉnh Lâm Đồng, huyện Đơn Dương, chùa Giác Nguyên.

9 giờ sáng ngày 24-8 Canh Ngọ (1990).

H.a-thượng Giải Nghiêm chùa Hương Sơn chứng minh.

H.a-thượng Pháp Chiếu Yết Ma sư.

H.a-thượng Huyền Đăng Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Như Tấn Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Minh Chiếu Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Chân Hướng Tôn chứng sư.

Đàn giới vừa xong, H.a-thượng Chứng Minh huấn từ :

Phước đức nhân duyên vun trồng nhiều kiếp, nay mới được dự đàn giới Tỳ-kheo-ni.

Cây Bồ-đề bắt đầu nẩy mầm. Đắc pháp rồi phải hết l.ng vâng giữ. Nay đ. là thời mạt pháp.

Mạt là ngọn. Đạo Phật tuyên dạy trải mấy ngàn năm, nay đ. phai nh.a, chỉ c.n chút ngọn. Hết

ngọn là đến hư không,. Chẳng c.n g. nữa. Phật huyền k. : “Sau này các kinh mất hết, chỉ lưu

lại 6 chữ Nam mô A Di Đà Phật làm chuyến đ. cuối cùng vớt kẻ có duyên. Đ. này cũng sắp

rời bến”. Mau mau lên gấp, chậm chân là tuyệt phận, không c.n chuyến nào nữa. Khuyên chớ

buông lung. Phải miên mật niệm Phật. Niệm cho tới bao giờ nh.n đâu đâu cũng chỉ thấy toàn

tánh A Di Đà, mới thể nhận được tâm chân thật của m.nh.

Kinh dạy : “Ba nghiệp thanh tịnh là Phật tại thế. Ba nghiệp không thanh tịnh là Phật đ.

nhập diệt”. Tánh Phật của chúng ta bị phiền n.o chướng, nghiệp chướng, báo chướng che

khuất như trăng bị mây phủ. Nay cầu giới phẩm để tiêu ba chướng, giải thoát tâm thức. Sanh

tử luân hồi, tuy là hoa đốm ở hư không, nhưng c.n sức thiện ác lôi kéo lên xuống th. chưa thể

hết. Bao giờ học Bát Nh. Tâm Kinh, r. nghĩa sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thể nhận

được chân tâm th. vọng tâm liền xóa sạch. Chiếu thấy 5 uẩn đều không th. cả phận đoạn và

biến dịch, 2 sanh tử đều giải thoát.

H.a-thượng Yết Ma nhấn mạnh : “Trọn đời nhớ kỹ Tứ Y là 4 điều phải nương tựa để

sống :

1- Người đánh m.nh, m.nh không được đánh lại.

2- Người mắng m.nh, m.nh không được mắng lại.

3- Người giận m.nh, m.nh không được giận lại.

4- Người giỡn cợt m.nh, m.nh không được giỡn cợt lại.

  1. ngày bố tát không nhắc lại điểm này nên học chúng dễ quên. Tứ Y vô cùng quan

trọng trong sự nghiệp thanh tịnh thân miệng .. Có diệt ba độc tham sân si, Tỳ-kheo-ni mới

như pháp, như luật, như lời Phật dạy. Song 4 pháp này chỉ là sự tu biểu lộ h.nh tướng bên

ngoài. Cần học kinh để tỏ r. l. tánh bên trong, giải thoát thật sạch những phiền n.o mới hy

vọng thánh quả. Sự nghiệp này đ.i hỏi công phu tỉ mỉ. Chủng tử hiện hành lại huân tập thành

chủng tử, khiến nghiệp thức nặng nề mê ám. Giác tỉnh được chỉ có những bậc siêu quần. Lắng

l.ng niệm Phật như người lọc bột. Gạn lấy bột nhất, bỏ nước chua đi. Các con nay như hoa

c.n trong nụ. Phải cố gắng thuận theo thánh duyên hiện tại để mai đây tới thời tiết, tỏa đủ 5

phần hương Pháp-thân.

Khi trao phần thưởng học vấn, H.a-thượng Pháp Chiếu răn dạy :

Biển học bao la, chớ lấy đây làm thỏa m.n. Phần thưởng chỉ là phương tiện để khích lệ, để

sách tấn. Hiện nay văn hóa loài người đ. tiến triển. Khắp 5 châu Âu Á đều đ. biết tôn sùng tín

nhiệm đạo Phật. Song đó là phần rộng, công đức của đông tây kim cổ liệt vị pháp sư đ. khiến

cho lợi ích lan xa. Riêng chúng ta, muốn thành cho người, trước phải tự thành. Trong Phật

học phải dùng trí quan sát. Sự vật hiện tại đang sống, mỗi mỗi đều là đối tượng tu quán. Tuệ

như mắt thấy đường đi. Hạnh như chân tiến bước. Phước trí nhị nghiêm mới kết quả Bồ-đề.

Khi trao phần thưởng đức hạnh, H.a-thượng Giác Nguyên huấn từ : Hạnh đứng đầu

trong Tăng là pháp lục h.a. Nhất là bên Ni lại càng cần lắm. Lục h.a là sức mạnh của đoàn

thể. Có lục h.a không ai phá được đạo Phật. Hạnh cần xuất phát từ tâm. Nếu do đè nén th.

sáng hiền chiều ác. Nếu xuất phát từ tâm th. trong mọi đối tượng, mọi thời khắc, hạnh đều có

mặt. Không phải g. ép h.nh tướng bên ngoài, khúm núm trước mặt, sau lưng lại khác. Hạnh

xuất phát từ tâm th. hoàn cảnh càng khó xử, ng. ái càng bị châm chích nặng, thật hạnh càng

được phô bày.

Sống trong chúng, gặp trái . nghịch l.ng nên kiên nhẫn để t.nh huynh đệ đỡ tổn

thương, guồng máy Tăng già không bị suy sụp. Một người ở địa vị thấp nhưng có trí tuệ biết

tiền và vật là thứ giả tạm, không tham không giận. Người này ai cũng kính nể v. tư cách cao

thượng. C.n ở địa vị cao mà gặp cảnh cũng phùng mang trợn mắt như những kẻ tầm thường,

  1. chỉ được sự cung kính bên ngoài. Người ta không thật l.ng trọng phục.

Cần tu sửa tâm niệm. Tâm niệm hay th. hành động đẹp. Ở cảnh nào cũng an vui. Thí

dụ : Hẹn bạn 2 giờ chiều cùng đi nghe pháp. Đợi đến 2 giờ rưỡi, bạn vẫn không đến. Thế là

nhỡ việc. Ta phiền tức, định gặp bạn quở trách. T.nh bạn sẽ tan vỡ. Nếu ta nghĩ bạn m.nh

đang khổ sở lê chiếc xe đạp nổ lốp đi t.m tiệm chữa xe. Ta sẽ thương bạn.

Trong cuộc đời trùng trùng duyên khởi, tâm vẫn làm chủ. Hễ tâm niệm lành th. hành

động lành. Hành động lành, quả báo sẽ lành. Việc này ai cũng biết. Nhưng tỉ mỉ soi xét nội

tâm để sáng suốt hành động th. ít ai để .. Năng lực tự trị đ. hiếm, tự giác lại càng khó. Thứ trí

tuệ này phải tập hàng ngày hàng giờ từng niệm, đức hạnh không phải phút chốc thành được.

Đây là tài sản của chúng ta, không châu báu nào sánh kịp.

Giáo Thọ Ni bê 22 quyển Luật Tứ Phần Lược Ghi tới trước đại Tăng, cung kính quỳ

bạch : Nam mô A Di Đà Phật ! Đức Thích Tôn dạy đệ tử phải thờ Ba la đề mộc xoa làm Thầy.

Mười phương Phật lấy đây làm đệ nhất minh hối. Tỳ Ni tạng trụ th. Phật Pháp c.n. Nơi nào

Tỳ Ni không được hoằng dương th. Phật Pháp tùy diệt. Phật đ. diệt độ hơn 2500 năm. Ngôi

Tam-bảo vẫn c.n hưng long ở thế gian. Chính nhờ liệt vị Tăng Ni nghiêm tr. giới luật, thanh

trừng ba độc tham sân si. Biển khổ luân hồi, thuyền từ cứu vớt, Phật trao chèo lái về ngôi

Tăng bảo. V. thế chúng con nguyện đem hết tâm hồn quy y trụ tr. Tam-bảo. Ngưỡng mong

chư tôn H.a-thượng giới sư, từ bàn tay trăm phước trang nghiêm, bá thí luật điển, mở cửa cho

chúng con vào Thánh đạo.

Các giới sư lần lượt phát sách. Mỗi giới tử lại được thêm một huấn từ. Thí dụ : Phổ

Minh được câu : “Phật dạy lấy giới luật làm Thầy nhưng phải nhớ sách chỉ là phương tiện.

Lời Phật . Tổ phải thấm nhuần vào tạng thức, h.nh dung trong ba nghiệp khi động khi tĩnh,

chớ khư khư ôm suông chữ nghĩa”. Thanh An được câu : “Thanh-văn giới tuy gọi là cụ túc

nhưng muốn thật đầy đủ, phải tiến lên đại thừa, cầu Bồ-tát giới”.

Hương Quang mừng rỡ cầm cuốn Luật xá. H.a-thượng nghiêm sắc mặt : “Khoan,

đứng dậy ! Đặt cuốn sách lên bàn, chắp tay xá. Luật Sadi có dạy r. ràng không được cầm kinh

xá người”. Hương Quang vội vàng y giáo phụng hành.

Phát Luật xong, H.a-thượng Huyền Đăng ngâm kệ :

Khi xưa Phật nhập Niết-bàn,

Để lời di chúc r. ràng chẳng sai.

Ai là đệ tử Như Lai,

Phải lấy giới luật làm Thầy chớ quên.

* * *

Giới tử sửa soạn ra xe về, một l.o Tăng trong chùa tiễn chân một câu chuyện, dặn bỏ

túi đem về làm quà cho chị em : “Hai lái buôn chung vốn chung sức. Đến khi chia l.i, A dành

phần hơn, B vui vẻ. C đứng ngoài tức hộ : “Tội g. m.nh cũng công cũng của mà chịu thiệt”.

— V. anh tôi có mẹ già nên cần tiêu nhiều.

Lời nói cắt đứt xoi mói của C, khiến A cảm động, bội phần qu. B. Thế là một câu nói

đem lợi ích cho cả 3. Thế gian buôn bán, chuyên tâm tính toán hơn thua mà c.n ăn ở với nhau

như vậy. Đạo t.nh phải làm sao cho chị em đối với m.nh, đi th. nhớ ở th. thương”.

Dọc đường xe chạy từ Đơn Dương về Phú An, đại chúng thi nhau niệm Phật vang trời.

Lại thêm chú Thiện và chú Tiến, 2 thị giả của đại l.o H.a-thượng tiếp sức. Tới bến sang

Thiện Chí để về Hương Sơn, H.a-thượng lên đ. : “Chúc qu. cô thường lạc ng. tịnh”.

SỐNG TỈNH THỨC

Tối rồi sáng !

Tối rồi sáng !

Vui mừng ta đón ngắm ánh b.nh minh.

Trên cành cây, chim hót lá rung rinh.

Trời trong mát, thanh b.nh trong nắng mới.

Thương yêu muôn vật, chúng ta vun xới.

Mầm từ bi, cầu trí sáng vô biên.

Không ng. nhân, ảo tưởng với n.o phiền.

Muôn tướng trạng thảy đều vô sở đắc.

Nương Bát Nh. thuyền, không không sắc sắc,

Thôi từ nay một dạ quyết chuyên tu.

Tánh chân như nào đâu có trí ngu,

Bớt phân biệt, tâm đỡ bao chướng ngại.

Tự tại rồi nào c.n khôn với dại.

Ngày tháng qua, đâu quản ngại thời gian

Đi trong đời an ổn, thật Niết-bàn.

(Ưu-bà-di Viên Không)

III

NỒI CƠM NHAN HỒI

Đức Khổng Tử dẫn học tr. đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Thời Đông Chu, chiến tranh

liên miên, chư hầu loạn lạc, dân chúng đói khổ. Thầy tr. Khổng Tử rau cháo cầm hơi. Nhưng

không một ai kêu than thoái chí. Tất cả quyết tâm theo Thầy đến cùng.

Ngày đầu tiên đến đất Tề, một nhà hào phú từ lâu đ. nghe danh Khổng Tử, đem biếu ít

gạo. Khổng Tử phân công : Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau. Nhan Hồi đảm nhận

việc thổi cơm.

Nhà trên cách bếp một cái sân nhỏ. Khổng Tử đang đọc sách, bỗng nghe tiếng động

mạnh từ bếp vọng lên. Khổng Tử nh.n xuống bếp, thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm cho vào

tay, nắm từng nắm nhỏ, đưa lên miệng ăn. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời, than rằng :

Chao ôi ! Học tr. nhất của Khổng Tử mà đi ăn vụng ! Chao ôi ! Bao nhiêu hy vọng ta đặt vào

Nhan Hồi nay thành mây khói !

Mọi người mang rau về, luộc rau, dọn cơm ở nhà trên, cùng chắp tay mời Khổng Tử.

Khổng Tử nói : Trong cảnh loạn lạc, từ Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm, nắng mưa đói khổ,

các Thầy vẫn một dạ theo ta. Hôm nay, bữa cơm đầu tiên trên đất Tề, các Thầy h.y cùng ta

hướng về quê hương xứ Lỗ, tưởng niệm cúng dường cha mẹ.

Nhan Hồi chắp tay thưa : Cơm đ. ăn trước rồi không nên cúng. Bởi v. khi con mở

vung ra xem thử cơm đ. chín chưa. Chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên mái

rơi xuống. Con nhanh tay vội đậy vung lại nhưng không kịp. Con xới lớp cơm bẩn ra định vứt

đi. Nhưng cơm th. ít mà anh em lại đông. Chúng sẽ mất một suất ăn. Con đ. mạn phép Thầy

và anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy. Như vậy là hôm nay con đ. ăn cơm rồi. Bây giờ con

xin phép chỉ ăn phần rau.

Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời, than rằng : Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những

việc chính mắt m.nh trông thấy rành rành mà vẫn không phải là sự thật.

Chao ôi ! Su.t t. nữa, Khổng Tử này đ. là một kẻ hồ đồ.

TÂM TA LÀM PHẬT - TÂM TA LÀ PHẬT

Cương l.nh của Quán Kinh, câu này c.n là tông yếu của một đời Bổn Sư thuyết pháp.

Chân pháp nhiễm tịnh tùy duyên, hiện thành 10 pháp giới. Mười pháp giới toàn thể là chân.

Cho nên kẻ tin sâu l. nhân quả, chính là người sẽ đại minh tâm tánh. Chúng sanh và Phật vốn

ở khắp nơi, tuyệt đ.i, viên dung, không thể nghĩ bàn. Hành giả nên tin đây mà vào. Tự tánh

hiện tiền của một tâm niệm tức là cái bổn hữu chân tâm. Vô minh hiện hành của chúng sanh

tức là cái thể bất động trí của Phật. Tr. danh hiệu Phật là lấy duy Tâm tức là duy Phật làm

tông.

Hiểu như trên th. r. ràng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Việc trước hết của người

niệm Phật là tinh nghiêm giới sát sanh. Phóng tâm sát hại, kết oán thâm sâu. Sát tâm m.nh

liệt, sát nghiệp nặng nề, chứa góp thành quả báo đại kiếp đao binh. Tin l. nhân quả là hiểu r.

lẽ cảm ứng. Ta ác tâm cảm, người sẽ ác tâm ứng. Thiện tâm cảm th. thiện tâm ứng. Cảm ứng

chẳng những hiện đời mà thông cả quá khứ vị lai. Cảm ứng chẳng những trong loài người mà

thông cả sáu đạo. Trong 3 đời 6 đạo này, tất cả chúng sanh đ. từng làm cha mẹ anh em lẫn

nhau.

Pháp môn niệm Phật như trời khắp che, đất khắp chở. Kinh Hoa Nghiêm lấy 2 chữ

nhân quả gồm suốt 54 ngôi Thánh. Vạn hạnh trang nghiêm nhất thừa Phật quả th. vạn hạnh há

không phải là hạnh niệm Phật hay sao ?

Kinh Pháp Hoa từ đầu đến cuối, một bề khai thị Phật tri kiến cho chúng sanh ngộ

nhập, há không phải là một pháp môn niệm Phật sao ?

Kinh Lăng Nghiêm chỉ cái mật nhân để thành Phật. Nếu hướng về th. giải thoát năm

ấm ma, trải 55 Thánh vị mà viên m.n Vô-thượng Bồ-đề. Nếu không th. trầm luân bảy thú.

Kết kinh, Phật minh bạch nói : “Phạm 4 trọng 10 baladi, quả báo đáng đọa A-tỳ địa ngục.

Kiếp hoại, trái đất tan, c.n phải đi chịu tội ở các địa ngục vô gián khắp mười phương. Nếu

phát tâm đem kinh Lăng Nghiêm khai thị cho thời mạt pháp kẻ chưa học, ứng niệm trọng tội

liền tiêu diệt, được sanh về Tịnh-độ của chư Phật”.

Như vậy, một đời thuyết pháp, Phật chỉ hiển thị duy tâm tự tánh viên thành vô thượng

diệu giác, quy tất cả về một đại pháp môn niệm Phật.

Tu tịnh nghiệp cần 7 điều :

1- Thật v. sanh tử, phát tâm Bồ-đề (gieo giống).

2- Tin sâu nguyện thiết tr. danh (chánh tông).

3- Nhiếp tâm chuyên niệm (phương tiện).

4- Chiết phục các phiền n.o (yếu vụ).

5- Nghiêm tr. luật nghi (căn bản).

6- Nhẫn khổ, thiểu dục tri túc (trợ đạo).

7- Nhất tâm bất loạn (mục đích).

KHẢI HOÀN CA

Kỷ yếu của Sư bà Diệu Ấn.

Sống hiền thiện, thác b.nh an.

Thỉnh Thầy về c.i Tây phương hưởng nhàn.

Ở c.i ấy Niết-bàn tự tánh,

Toàn nhân dân nhập Thánh siêu phàm.

Đường đi cây báu thẳng hàng,

Chư thiên trỗi nhạc nhịp nhàng khúc ca.

Ca thân Phật bao la rộng r.i,

Ca trời quang, đất trải gấm hoa,

Ca mừng hải hội Phật đà,

Ca hoa sen báu là cha mẹ m.nh.

Trên đài vàng hóa sanh thác chất,

Nghiệp duyên dù chồng chất cũng tiêu.

V.ng sanh đới nghiệp rất nhiều,

Pháp âm thức tỉnh, sớm chiều nhắc răn.

Thân tứ đại trả về tứ đại,

Tánh thông minh nhập thể linh minh.

Sang bờ giác chứng vô sanh,

Lên thuyền Bát Nh., tâm t.nh nhẹ không.

Thể linh minh muôn hồng ngàn tía

Tùy chân như ứng hóa hiện bày.

* * *

Đức càng rộng, đạo càng cao.

Thỉnh Thầy nhẹ gót về ao sen vàng.

Diện kiến Phật, tâm quy y,

Oai nghi quang chiếu từ nay sạch trần.

Rửa sạch hết chướng duyên sanh tử

Nghe Phật âm, thanh tịnh lâng lâng.

Gió reo, chim hót, chuông ngân,

Ngày đêm diễn xướng pháp phần chánh y.

Chánh báo Phật thân vàng sáng rỡ,

Phóng từ quang tiếp đón quần sanh.

Y báo c.i nước nghiêm minh,

Cơm thiền, sữa pháp, chúng sanh đức nhuần.

Bạn Bồ-tát hằng sa vô số,

Bạn Thanh-văn thơm ngát hạnh lành.

Ngũ căn, ngũ lực viên thành,

Thần thông quảng đại dụng hành trang nghiêm.

Mười phương Phật đồng thùy tiếp độ,

Đồng gia tr. khế ngộ tánh chân.

Bấy giờ Thầy sẽ trở về

Việt Nam d.u dắt sinh linh vạn loài.

MỤC LỤC

— Lời tựa

I-/ KHOA TIẾT CẦN YẾU :

1- Tán lễ Tổ sư.

2- Huấn từ xuất gia.

3- Bát kính pháp.

4- Lục h.a.

5- Tịnh-độ Ni viện.

6- Thanh quy.

7- Thanh niên học Phật.

8- Cảnh sách hàng ngày.

9- Ngũ quán.

10- Thể dục.

11- Ba phẩm Liên Hoa.

12- H.a-thượng Pháp chủ huấn từ.

13- Lớp Phật Học Phổ Thông.

14- Lớp Thập Tín.

II-/ MÙA HẠ TỪ 15-4 ĐẾN 15-7 :

1- Chương tr.nh an cư.

2- Lễ tưởng niệm H.a-thượng Trí Thủ – Đệ ngũ luật sư.

3- Tổ Quảng Bá huấn từ.

4- Cung an chức sự.

5- Kết hạ khai thị chúng.

6- Thỉnh pháp học Luật.

7- Quy Sơn Cảnh Sách.

8- Lễ đức Quán Thế Âm chùa Hương.

9- Tín nguyện lực.

10- Lời nói trong gió.

11- Chương tr.nh tán hạ.

12- Lễ đức Đại Thế Chí Bồ-tát.

13- Chương tr.nh tự tứ.

14- Kinh Tự Tứ Thanh Lương.

15- . nghĩa tự tứ.

16- Huấn từ ngày tán hạ.

17- Lễ Vu Lan.

18- Khánh tuế Thầy.

19- Ân đức tam sư.

20- Chúc thọ qu. cụ.

21- Hiếu trong đạo Phật.

22- Tiếng nói của gà.

23- Gia đ.nh Phật hóa phổ.

III-/ MÙA THU TỪ 16-7 ĐẾN 15-10 :

1- Chương tr.nh thọ y công đức.

2- Chương tr.nh tu học.

3- Kính đệ H.a-thượng Già Lam Viện chủ.

4- Tứ Niệm Xứ và Phản Văn phát nguyện.

5- Có minh tâm mới kiến tánh.

6- Thiền Minh Sát.

7- Quán bất tịnh.

8- Kinh Niết Bàn, phẩm Ca Diếp.

9- Lễ đức Địa Tạng Bồ-tát.

10- Giỗ Tổ Huệ Viễn.

11- Giỗ Tổ Ưu Ba Ly.

12- Giỗ Tổ Anan.

13- Bánh trung thu.

14- Trăng Lăng Nghiêm.

15- Biệt khoa giỗ Tổ Phùng Khoang.

16- Quán Thế Âm Thị Kính.

17- Dược Sư.

18- Vô ng..

19- Hữu dụng vô dụng tùy chỗ biết dùng. IV-/ MÙA ĐÔNG TỪ 15-10 ĐẾN 15-1 :

1- Đức Phật A Di Đà.

2- Biệt khoa cúng Tổ Quảng Bá.

3- Đại đàn phổ tế.

4- Ni Tổ Ma-ha Ba Xà Bà Đề.

5- Đức Phật Thích Ca thành đạo.

6- Chương tr.nh xả y công đức.

7- Đại chúng bạch tạ Sư cô Ban Thủ.

8- Pháp tướng pháp tánh.

9- Phổ cáo đón xuân.

10- Tiền thân đức Di Lặc.

11- Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật.

12- Long Hoa tam hội.

13- Hái lộc đầu năm.

14- M.n khóa Abhidharma.

15- Thư thăm bệnh.

16- Thư gửi Ni chúng Viên Thông.

17- Chuyện cổ Phật giáo.

18- Làng Anh Nhi Việt Nam.

19- Tịnh Độ.

V-/ MÙA XUÂN TỪ 16-1 ĐẾN 14-4 :

1- Thỉnh pháp.

2- Đức Bổn Sư xuất gia.

3- Đức Bổn Sư nhập Niết-bàn.

4- Quán Âm Quảng Trần.

5- Lễ đức Phổ Hiền.

6- Thần chú Chuẩn Đề yếu nghĩa.

7- Phó pháp Tôn Sư.

8- Đức Văn Thù.

9- Chương tr.nh lễ khánh đản.

10- Trị tâm.

11- Đạo từ.

12- Thư gửi Liên Hoa.

VI-/ LỜI CÁC ĐẠI SƯ :

I)

1- Trung đạo giản dị.

2- Học và hành.

3- Xả là bí quyết giải thoát.

4- B.nh an.

5- Tâm phân biệt.

6- Chánh kiến.

7- Tiết chế ba nghiệp.

8- An vui ở đâu.

  1. II) Đàn giới Tỳ-kheo-ni.

III) 1- Nồi cơm Nhan Hồi.

2- Tâm ta là Phật.

3- Khải hoàn ca.__

Bốn Mùa Hoa Giác

Nhà xuất bản tp. Hồ chí minh

Tỳ-kheo-ni Huệ Hải Biên soạn

- 1999 -

Lời tựa

Để tiến lên lầu pháp bảo vô biên, chúng ta phải bước từng nấc thang phương tiện.

Chương tr.nh tu học 4 mùa của Tịnh-độ Ni viện chẳng những y cứ trên văn tự kinh

điển mà quan hệ ở 3 nghiệp hằng thấm hoa hương giác tỉnh. Đạo Vô Lượng Quang nuôi

dưỡng các tế bào, làm chất liệu giải thoát cho các d.ng máu, khiến 5 ấm chuyển dần trở về 5

phần Pháp-thân.

Kính thưa qu. huynh đệ !

Chúng ta thật may mắn, được sanh ra từ chiếc nôi và lớn lên trong môi trường giáo

dưỡng của Thầy. Những ai sống gần Thầy đều cảm nhận rằng Thầy sống toàn vẹn với đạo

pháp, Thầy đang hướng dẫn chúng ta trên con đường tự lợi lợi tha.

* * *

Đường xa ngàn dặm, đến nơi được là nhờ ở bước ban đầu. Gốc rễ chẳng khéo vun

trồng, th. do đâu có cây lớn tỏa cành xanh ngọn.

Tịnh-độ Ni viện chúng ta :

1- Học luật để tr.n bổn phận một nữ tu sĩ. Ai cũng biết giới luật là nền tảng Thánh Hiền, cần

phải tinh vi nghiên cứu và chân thành thực hiện.

2- Học và quán Tứ Niệm Xứ để giác tỉnh, trong tiêu ba độc tham sân si, ngoài biết sáu trần ảo

ảnh. Thực hiện nếp sống khắc kỷ khoan tha, để có thể vui h.a với tất cả mọi người và an ổn

trong tất cả hoàn cảnh.

3- Học kinh A Di Đà Yếu Giải để biết tông chỉ và đường lối tu Tịnh-độ.

4- Học kinh Thủ Lăng Nghiêm để nhận biết duy tâm Tịnh-độ, tự tánh Di Đà. Được thế mới

nhất tâm niệm Phật. Như người đ. sẵn có hạt giống, chỉ cần công phu vun trồng, sẽ nở hoa

giải thoát và kết quả Bồ-đề.

Sách học 4 mùa đ. có in riêng để cúng dường đại chúng. Ở đây chỉ ghi chương tr.nh tu

học, cô đọng lại một làn âm hưởng của Tôn Sư, nhưng rất cần thiết cho chúng ta hôm nay và

ngày mai.

* * *

V.n cứu thế giới nhân tâm,

Hoằng dương đại thừa Phật Pháp.

Hoàn thành nhân gian Tịnh-độ,

Trang nghiêm Vô-thượng Bồ-đề.

Lầu Hoa Nghiêm

Tỳ-kheo-ni Bảo Tâm

Mạnh Thu 1995

I-/ KHOA TIẾT CẦN YẾU

  1. TÁN LỄ TỔ SƯ

NIÊM HƯƠNG

Vầng dương rực rỡ, ánh sáng chói chan.

Xét mặt trời không đứng m.i

Nên chiếu phạm, lục h.a Tăng chúng.

C.i không, lễ các bậc Thánh Hiền.

Ngũ phần hương thơm lừng pháp giới.

Hương này âm dương kết tụ,

Trời đất hợp thành.

Vun trồng nào phải công nhất thế,

G.n giữ trông mong ở sức bách thần.

Cỗi cành tươi tốt v. đ. thấm nhuần mưa pháp.

Thể chất thanh cao nhờ cậy mây từ che phủ.

Hương này lấy ở rừng thiền,

Trồng trong vườn tuệ thiên nhiên ngạt ngào.

Dao giới vót h.nh núi cao,

Đốt l. tâm nguyện kính dâng cúng dường.

DÂNG HOA

Hoa tâm nở màu tốt tươi

Mùi thơm sực nức hoa trời kém xa.

Kính Phật con dâng đóa hoa

Muôn thu gió nghiệp chẳng hề động lay.

LỄ T Ổ

Bông hoa hiện điềm lành,

Năm cánh lạc phương xa,

Trao pháp tạng đất Ấn,

Tôn thờ tại Trung Hoa,

Việt Nam trồng giống Thánh,

Kết quả hằng hà sa.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Thiên Đông Độ Việt Nam, lịch đại nhất thiết chư vị Tổ

sư (3 lạy).

Đức tướng đoan nghiêm như vàng thắm,

Đầu đà khổ hạnh giữ chung thân.

Lưu truyền Như Lai chánh nh.n tạng,

Kê Túc trong non đợi Từ Tôn.

Chí tâm đảnh lễ : Ma-ha Ca Diếp tôn giả, THIỀN TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Được độ đầu tiên tám vương tử,

Thân tâm thanh tịnh tợ hoa sen,

Hoằng truyền luật giáo Tỳ Ni tạng,

Phật pháp do đây trụ thế lâu.

Chí tâm đảnh lễ : Ưu Ba Ly tôn giả, LUẬT TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Đa văn trong chúng tôn đệ nhất,

Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông,

Kết tập Như Lai chánh pháp tạng,

Vĩnh tại nhân thiên độ thế gian.

Chí tâm đảnh lễ : Ananđà tôn giả, GIÁO TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Tây phương cổ giáo Thế Tôn tuyên,

Đông độ khai tông hiệu Bạch Liên,

Mười tám đại hiền làm thượng thủ,

“Hổ Khê tam tiếu” tới nay truyền.

Chí tâm đảnh lễ : Huệ Viễn tôn giả, TỊNH-ĐỘ TÔNG liệt vị Tổ sư (3 lạy).

Phước đức trí tuệ diệu trang nghiêm,

Nữ nhân xuất gia bậc thượng thủ,

Bát kính thắng pháp thành thọ giới,

Truyền thừa Ni luật độ thế nhân.

Chí tâm đảnh lễ : Ma-ha Ba Xà Ba Đề, Kiều Đàm Di Mẫu, Đại Ái Đạo tôn giả, Ni giới

liệt vị Tổ sư (3 lạy).

PHỤC NGUYỆN

Tông phong vĩnh chấn,

Tổ Ấn trùng quang.

Giác hoa hương biến khắp rừng thiền.

Mưa pháp tưới nhuần người sơ học.

Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng.

Tổ đường rực rỡ, chánh pháp xương minh.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát (3 lạy).

  1. TỔ QUẢNG BÁ

HUẤN TỪ LỄ XUẤT GIA

Ngày 19 - 9 – 1981

Qu. hóa thay ! Qu. vị phát tâm xuất gia làm đại trượng phu, không c.n là nữ nhi nữa.

Trượng phu sự không phải ai cũng làm được. Trượng phu có nghĩa là : phú qu. không rông

rỡ, nghèo khổ không đổi l.ng, thế lực không khuất phục. Thế gian phỉ báng, đủ các thứ khen

chê, vẫn tu. Ăn đói mặc rách, làm nhiều học nhiều, bị mắng bị phạt, có khi bị đ.n, vẫn vui tu.

Phải tập làm sao cho 8 gió không động. Tám gió là thịnh lợi suy vi, hạ giá đề cao, khen ngợi

chê bai, đau khổ an vui. Luôn giác tỉnh vô thường, biết thân mỏng manh chợt c.n chợt mất

nên chẳng màng sung sướng thế gian.

Có người thân xuất gia, tâm c.n tại gia v. ham ưa thế sự. Có người thân tại gia đ.nh

nhưng tâm thật trượng phu. Mong rằng các cháu đ. xuất gia th. cả thân và tâm đều xuất gia.

Thân khoác cà sa, tâm tr.n giới phẩm. Để tổ tiên ông bà cha mẹ nhân đây giải thoát. Chủ yếu

tự m.nh ra khỏi luân hồi để rồi c.n trở vào 6 đạo đưa chúng sanh ra. Như người ở trong nhà

cháy, mau mau làm sao tự cứu được m.nh để c.n lo cứu người.

T.nh cha mẹ thương con như biển hồ lai láng nhưng chính ái ân là gốc trầm luân. Mê

hoặc tạo nghiệp mới có sanh tử nhiều kiếp. Đến nỗi nước mắt nếu chứa lại th. bốn biển c.n

chưa đủ. Xương những kiếp trước nếu giữ lại được th. chất cao như núi Tu-di. Cho nên Phật

dạy xuất gia để t.m đường giải thoát. Song xuất gia cần nhất phát tâm Bồ-đề :

1) Thiện tâm : phiền n.o vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

2) Bi tâm : chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

3) Trực tâm : Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Các cháu cố gắng hàng ngày nhớ câu : Kia trượng phu, ta cũng trượng phu.

  1. BÁT KÍNH PHÁP

Ni chúng suốt đời phải tôn trọng, tán thán vâng giữ bát kính pháp.

1) Tỳ-kheo-ni dù 100 tuổi hạ, thấy Tỳ-kheo Tăng mới thọ giới, phải nghênh tiếp lễ bái, nhắc

ghế thỉnh ngồi.

2) Không được chê bai mắng nhiếc Tỳ-kheo Tăng.

3) Không được nói lỗi lầm và cử tội Tỳ-kheo Tăng.

4) Thức xoa ma na phải theo đại Tăng cầu thọ đại giới.

5) Tỳ-kheo-ni phạm Tăng tàn phải cầu đại Tăng xuất tội.

6) Nửa tháng phải đến đại Tăng cầu giáo thọ.

7) Không được kết hạ an cư ở nơi không có Tỳ-kheo Tăng.

8) An cư xong phải đến đại Tăng cầu tự tứ.

  1. LỤC H.A

1- Thân h.a đồng ở một nơi,

Cùng nhau sửa nghiệp chung vui chung sầu.

Những ngày sống ở bên nhau,

Không tâm chia rẽ, đừng nên mất l.ng.

2- Miệng h.a lời nói dịu dàng,

Ôn tồn nh. nhặn, thật thà vui tươi.

Khuyên ai tránh thói giễu cười,

Chớ nên khiêu khích, dành phần hơn thua.

Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa l.ng nhau.

3- . h.a vui đẹp biết bao,

Bể đông tát cạn lời nào có sai.

Cuộc đời sở dĩ chông gai,

Bởi không đồng ., bởi l.ng hoài nghi.

4- Giới h.a nhớ nghĩ nghiêm tr..

Tỳ ni thanh tịnh đứng đi nằm ngồi.

5- Kiến h.a học hỏi những g.,

Đem ra bàn bạc cùng ghi pháp lành.

Cùng nhau dốc chí tu hành,

Pháp môn thâm nghĩa viên thành quả tu.

6- Lợi h.a vui vẻ phân chia,

Dù nhiều dù ít, lấy đều làm hơn.

Chữ lợi cướp mất nghĩa nhân,

Là người con Phật phải hằng không tham.

Kính h.a sáu phép r. ràng,

Đây là nếp sống của hàng xuất gia.

Hằng ngày tụng đọc thiết tha

Gắng ghi trong dạ, sửa m.nh tu thân.

  1. TỊNH ĐỘ NI VIỆN

Tịnh-độ là đất sạch, v. y báo toàn cảnh tươi đẹp trong sáng, chánh báo toàn thượng

thiện nhân. Trái lại c.i Ta Bà y báo đất cát bụi bặm. Chánh báo toàn tham sân si nên gọi là uế

độ (c.i đất nhơ bẩn). Kinh Duy Ma Cật dạy tâm tịnh là Tịnh-độ (không có c.i riêng tư nào.

Bất cứ ở đâu hễ tâm tịnh đó là Tịnh-độ). Mới nghe tựa hồ khác với kinh A Di Đà. Nhưng thật

2 kinh cùng tuyên dương l. nhân quả. C.i Cực Lạc đất sở dĩ toàn vàng v. tâm địa nhân dân

thuần thiện cảm thành. Cây hoa cung điện chói sáng do trí tuệ giác tỉnh cảm thành. Nơi nơi

ngọc ma ni (như .) trang nghiêm do tâm từ bi cảm thành.

Kinh A Di Đà khế cơ v. chúng sanh c.i Ta Bà 9 tháng tù ngục trong thai nhơ uế, thoát

ra để mùa hạ mặt trời thiêu đốt, mùa đông lạnh cóng buốt xương. Ác thế chỉ đem sát đạo dâm

vọng đối xử với nhau. Khiến cho thân đ. khổ v. sanh già bệnh chết, tâm đ. khổ v. ân ái biệt

ly, oán thù gặp gỡ, cầu chi chẳng được, lại thêm trăm cay ngàn đắng trong gia đ.nh ngoài x.

hội. Nay nghe cảnh giới an vui, có thầy là Phật, có chúng bạn toàn Bồ-tát Thánh Hiền, ai đ.

tin được mà chẳng ham thích cầu về.

Kinh A Di Đà khế l. v. c.i Cực Lạc có thật. Có những chúng sanh thanh tịnh nên cảm

quả báo được Phật là người thanh tịnh đưa về cảnh giới thanh tịnh để chung sống với các bậc

thanh tịnh. Hiện nay trên khắp hoàn cầu, khoa thiên văn đều công nhận trong hư không vô

biên có vô lượng thế giới thể chất khác nhau, nên tin ở phương Tây có c.i Cực Lạc là việc dễ

dàng đối với Phật tử ở thế kỷ thứ 20.

* * *

Tông Tịnh-độ có rất nhiều môn. Hiện nay tại Việt Nam chỉ lưu hành có 3 pháp :

1) Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương đoạn trừ 5 thống 5 thiêu. Năm thống là 5 sự đau đớn. Năm

thiêu là 5 sự đốt nấu. Kinh dạy : Dùng 5 giới để thanh tịnh tâm địa. Lấy tịnh giới làm nhân tu

cầu v.ng sanh về c.i Phật A Di Đà.

2) Kinh Quán Vô Lượng Thọ chủ trương thanh tịnh tâm địa để cầu v.ng sanh bằng định lực.

Kinh dạy 16 pháp quán y báo chánh báo c.i Cực Lạc.

3) Kinh A Di Đà dùng tuệ lực buông xả căn trần hư vọng, một l.ng niệm danh hiệu Phật A Di

Đà. Nhất tâm bất loạn nghĩa là sạch hết kiến-hoặc tư-hoặc th. bảo đảm v.ng sanh.

* * *

Chữ A Di Đà, chúng ta đ. biết, nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Biên

Công Đức. Vô Lượng Thọ là thường trụ không sanh diệt. Vô Lượng Quang là tánh giác ở

khắp mười phương. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà là niệm thật tướng của Phật. Thật tướng

của mười phương Phật chính là thật tướng của mười phương chúng sanh. Chư Phật đ. chứng

ngộ sự thật này. Chúng ta c.n mê. Nay niệm Phật, trở về với Phật, tức là trở về với thật tướng

của chúng ta.

  1. a) Bậc thượng căn y theo l. này niệm Phật, được thượng phẩm thượng sanh, ở c.i Thường

Tịch Quang.

  1. b) Bậc trung căn tr. giới, tu định, niệm danh hiệu Phật, được trung phẩm v.ng sanh, ở c.i

Phương Tiện Thánh Cư.

  1. c) Bậc hạ căn tránh ác làm lành niệm danh hiệu Phật, được hạ phẩm liên hoa, ở c.i Thánh

Phàm Đồng Cư (c.i An Lạc nói trong kinh A Di Đà).

  1. kinh A Di Đà dùng một môn tr. danh gồm nhiếp cả 3 căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo,

Luật, Mật... các tông, nên được lưu thông khắp các nước đại thừa. Tới nay vẫn không kém bề

hưng thịnh.

* * *

Núi Lô Sơn bên Tàu, đời nhà Tấn, ngài Huệ Viễn cùng 123 huynh đệ lập thành Liên

x., khắc bia thề rằng : “Buông xả thế gian ch.m đắm. Tỉnh ngộ vô thường qua mau. Phiền n.o

chướng, nghiệp chướng, báo chướng bức bách thường xuyên. Ngó xuống cảnh tam đồ sâu

hun hút, nh.n ra sáu đạo luân hồi hiểm nguy. V.ng sanh già bệnh chết thật khó thoát. Thế nên

một l.ng ngày đêm kính cẩn chuyên cần cầu Phật A Di Đà cứu vớt. Mượn thân phù du giả

tạm cố gắng tu hành, dùng diệu quán khai trí giác tỉnh. Nương từ lực Phật bay về Cực Lạc,

uống nước tám đức, giải thoát lậu nghiệp, quay trở lại Ta Bà hoằng dương đạo thanh lương,

đưa tất cả chúng sanh về Tịnh-độ”.

Chúng ta hiện nay, chùa Viên Thông 26 vị, Liên Hoa 30 vị, Linh Quang 10 vị, Hương

Sen 90 vị, Dược Sư 100 vị, Bát Nh. 80 vị, Lăng Nghiêm 10 vị. Tổng cộng 346 người hàng

ngày niệm Phật, trừ vọng-hoặc viên thành giới phẩm. Niệm lực tương tục, đúng nghĩa chấp tr.

danh, cố gắng hết sức m.nh cầu đài sen thượng phẩm.

  1. THANH QUY

1- Hô cảnh sách lớn tiếng, đúng giờ. Đại chúng chắp tay chí tâm lắng nghe, đồng niệm Phật.

Trừ khi có việc cần.

2- Vào lớp học đúng giờ, không được tự tiện ra vào. Hết sức yên tĩnh, đứng ngồi ngay thẳng.

Chú . nghe giảng, có bệnh hoặc duyên sự cần nghỉ phải xin phép.

3- Chỉ được xem những sách chùa đ. kiểm duyệt.

4- Mỗi nửa tháng nhóm chúng đọc quy luật, không được vắng mặt. Có việc cần nghỉ phải xin

phép chi trưởng.

5- Gửi thư hay nhận thư phải tr.nh tri chúng.

6- Giờ tụng niệm, chuông 2 phải có mặt. Lễ phục y vàng áo tràng lam, y phục tề chỉnh. Quỳ

đứng trang nghiêm đều hàng. Âm thanh h.a chúng. Không được cao tiếng cũng không được

đọc thầm. Có duyên sự nghỉ phải xin phép. Bất tịnh được nghỉ 4 ngày các khóa lễ, ngồi thiền

và thể dục.

7- Mỗi nửa tháng trước ngày bố tát, toàn chúng phải như luật sám hối. Tri chúng phải kiểm

chúng thanh tịnh mới cho bố tát.

8-Không được nói chuyện tạp. Được hỏi đáp về Phật pháp, nhưng muốn nói quá 10 phút phải

xin phép tri chúng.

9- Thấy khách đến phải chào, mời tri khách tiếp, không được lân la nghe chuyện. Khách của

m.nh phải xin phép tri chúng rồi mới tiếp, không được nói chuyện lâu.

10- Được chị em cử lỗi, dù đúng dù sai phải chắp tay cám ơn rồi mới nhẹ lời h.a nh. tr.nh

bạch. Trường hợp nào cũng phải tâm b.nh khí h.a.

11- Không được đem chuyện chùa nói với người ngoài. Không được đem chuyện ngoài vào

chùa. Không được đem chuyện người này nói với người kia.

12- Ở trong chúng phải giúp đỡ lẫn nhau, không được riêng lo bạn thân.

13- Tự phạm quy luật phải phát lồ giữa chúng. Biết người khác phạm, không được che giấu.

14- Không được lấy trái cây của thường trụ ăn hoặc cho riêng ai.

15- Sau 3 tiếng bảng báo hiệu giờ ăn, phải có mặt ở trai đường. Tuyệt đối im lặng. Tưởng 5

phép quán. Cần ăn riêng phải xin phép tri chúng. Giờ ăn, hành đường không được mặc áo

ngắn, ngôn ngữ cử chỉ se sẽ nhẹ nhàng, không được động niệm chị em. Ăn xong đồng chúng

tụng kinh rồi mới đứng dậy, trừ có việc cần.

16- Ba tiếng kẻng báo hiệu giờ tr. tĩnh, phải sửa soạn. Sau một hồi kẻng phải có mặt trên đơn.

Không được cười nói, đi mạnh, các việc động chúng. Nằm dáng cát tường. Ngồi nằm chỗ của

m.nh. Có việc cần thức sớm phải xin phép.

17- Không được vô cớ vào liêu khác. Không được tự do ngồi nằm trên đơn người khác.

18- Chấp tác cấm nói chuyện. Phải niệm Phật. Đúng giờ khắc. Tr.n nhiệm vụ. Cần nghỉ phải

mượn người thay hoặc thưa tri sự.

19- Chậu và sô của chúng không được ngâm quần áo hoặc chứa nước riêng, chướng ngại sự

cần dùng của người khác. Quần áo cần để cách đêm mới giặt, phải xin phép. Tẩy tịnh dùng

hết nước trong lu, phải xách đền.

20- Phơi quần áo phải đúng nơi quy định, phải có kẹp, cất vào trước giờ lâm thụy. Quần áo

vật dụng đều phải có tên.

21- Muốn mượn vật của người, phải hỏi chủ nhân. Dùng xong phải trả về chỗ cũ. Không được

tự tiện lục đồ của người khác.

22- Không được vứt rác ra vườn.

23- Không được phản kháng chức sự, muốn xây dựng không được đột ngột công cử giữa

chúng, phải góp . riêng. Nếu cần th. tr.nh lên Giám viện xét xử, không được sau lưng kể xấu.

24- Đi đường áo dài tề chỉnh. Không nên đi một m.nh. Không được đi đêm. Nếu cần phải xin

phép, oai nghi đúng luật.

25- Không được đến chùa Tăng. Nếu thật cần phải xin phép Sư cô Giám viện. Không được đi

một m.nh, cần 1 hay 2 người làm bạn.

26- Ra ngoài đại giới, phải xin phép tri chúng. Ở ngoài cách đêm hay nhiều đêm, phải xin

phép Sư cô Giám viện. Giới luật oai nghi nghiêm chỉnh như ở trong chúng.

27- C.i nhau lần 1 đối chúng sám hối, lần 2 lạy một thời Hồng Danh, lần 3 tùy ban chức sự

xét xử.

28- Trừ nhân duyên, ai trái nội quy, lần 1 quay mặt vào tường niệm Phật 5 phút. Lần 2 đối

chúng sám hối. Lần 3 tri sự sai làm việc một ngày. Lần 4 tùy ban chức sự thẩm định.

  1. THANH NIÊN HỌC PHẬT

Dù ngoài đời hay trong đạo, thanh thiếu nhi vẫn được gọi là măng non. Măng non chỉ

có một nhiệm vụ là thu hút những tinh túy của trời đất, để dần dần đan dệt thành những thớ

tre vững chắc, đợi chờ ngày vươn m.nh cao vút, thẳng lên trời xanh, ứng dụng vào bao nhiêu

nhu cầu của làng x..

Nhiệm vụ xây dựng tương lai, nhiệm vụ học tập để thành đạt kết quả, nhiệm vụ gói

ghém bao nhiêu hy vọng, nhiệm vụ được tô điểm v. ngậm chứa tất cả ước mong.

Nói riêng về thanh thiếu nhi đạo Phật chúng ta phải học những g. ? Và cách học thế

nào ?

Toàn bộ vấn đề giáo dục, học vấn và tập luyện là cải tạo ngũ ấm hữu lậu vô minh để

xây dựng 5 phần Pháp-thân hiền thánh.

Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Bát Nh. :

Phật pháp ở tại thế gian

Chẳng l.a thế gian có giác,

L.a thế gian t.m Bồ-đề

Như uổng công t.m sừng thỏ.

Chính từ thân tâm bất giác mà cầu Niết-bàn. Chính từ gốc rễ chúng sanh mà nở hoa

giác tỉnh, kết quả Bồ-đề.

Cố gắng của thế hệ trẻ là phải nghiên cứu kỹ lưỡng 3 khoen : HOẶC – NGHIỆP –

KHỔ. Tin chắc l. nhân quả, luân l. đạo đức nhà Phật căn bản ở giới luật ph.ng phi chỉ ác.

Tin HÀNH là chủ động nghiệp tái sanh, mới có thể hoàn thành chí nguyện giải thoát cho

m.nh và người.

Dĩ nhiên muốn là Phật tử th. phải học Phật pháp. Nhưng chúng ta phải nhớ là vàng

thường lẫn quặng, nên trong thất giác chi, cành lá đầu tiên của cây Bồ-đề là trí tuệ trạch pháp.

Ngay từ bước đầu tất cả nguy cơ đ. xuất hiện, nếu chúng ta học lầm hay không biết cách học.

1- Nắm vững những tri kiến Thánh Hiền tr.nh bày trong kinh sách đ. là một khó khăn cho bộ

óc phàm phu chúng ta. Nhưng đó mới là Văn tuệ. Nếu không bước thêm th. chúng ta chỉ

thành những con mọt sách, huyênh hoang nói đạo nói huyền. Việc học này trở thành tổn thất

nguy hại. Kinh thường dụ là ăn bánh vẽ, đếm bạc cho người, mải xem ngón tay quên mặt

trăng v.v...

2- Cố gắng cần thiết là luyện tập khả năng rời văn tự, thấy kinh ở ngay thân tâm và cảnh của

m.nh. Đây là Tư tuệ.

3- Tu tuệ tức là thực hành, nếp sống đúng chánh pháp.

Tệ nạn tai hại nhất là đời sống tách rời giáo l.. Như miệng tụng : “Thọ thị khổ” mà

sinh hoạt cứ chạy theo sáu trần. Sớm chiều đọc Bát Nh. Tâm Kinh mà cả đời chẳng có lấy

một phút giây chiếu kiến 5 uẩn huyễn vọng. Sự tu hành trở thành dối trá, người bị lừa đầu tiên

chính là m.nh. Nếu không kịp thời hiểu mối nguy cơ này, không kịp thời sửa chữa mà cứ tự

nhận là Phật tử th. sự nghiệp giải thoát không thành. Lại c.n gây mối hại cho ngôi Tam-bảo ở

thế gian. Như mấy ông lang băm đ. làm suy sụp nền y học Đông phương. V. thế tư tưởng, lời

nói, việc làm, 3 nghiệp của chúng ta, đ. chẳng được phép mâu thuẫn với kinh sách mà c.n

phải h.nh dung kinh sách lên bằng ngàn sắc vạn h.nh.

Không có tự giác, giác tha, th. việc học Phật của chúng ta thật vô giá trị. H.a-thượng

Pháp Chủ dạy Giác có 2 nghĩa :

1) Giác sát : Hồi quang phản chiếu, mỗi động mỗi niệm liền biết ngay. Sắc ấm đ.

sanh, thọ tưởng ấm đ. sanh, không nhận là m.nh mà phải quán nhân duyên sanh. Không để

cho 5 ấm này sai sử m.nh, bắt m.nh hành động quấy, đến nỗi nghiệp thức phải đi đầu thai vào

sáu ngả. Giải thoát luân hồi mới thật là khôi phục lại quyền tự do độc lập. Cổ đức có sách

Minh Tâm Bảo Giám. Giám là gương soi. Gương qu. báu này chỉ chiếu liễu khi linh tâm

minh sáng. Nên Thầy không ngớt nhắc răn : “Phải điều h.a thân tâm, phải sinh sống thư thả

điềm tĩnh”. Muốn được như thế th. nếp quy luật, thời khóa biểu phải tuân theo triệt để. Kinh

nói : Giới sanh Định, Định phát Tuệ là 3 vô lậu học.

2) Giác ngộ : Tỉnh thức, sống với chân tâm. Ngài Văn Thù hỏi căn bản tu hành của

chư Phật lúc sơ tâm.

Bổn Sư đáp : Viên Giác đà la ni.

Đức Phổ Hiền hỏi : Làm sao xóa được vô minh để sống với Viên Giác tánh ?

Bổn Sư đáp : Quán thân bất tịnh, quán pháp vô ng..

Vấn đề trước mắt phải để . ngay là Phật tử sơ tâm sẽ có một lỗi lầm nghiêm trọng nếu

cho rằng 5 ấm hư vọng không cần lưu tâm, chỉ cần chuyên y vào tánh Viên Giác, hoặc nói chỉ

tu đại thừa không dùng tiểu thừa.

Kinh Lăng Nghiêm dạy : Phát giác sơ tâm phải hiểu 2 nghĩa quyết định :

1/ Nhân địa tu hành phải đồng với quả giác. Cầu Niết-bàn vô sanh bất diệt mà dùng .

thức sanh diệt để tu th. cũng như nấu cát mong thành cơm. Phải y nơi mật nhân Bồ-đề là tánh

Biết hằng lưu lộ ở sáu căn th. mới có thể vào bể giác.

2/ D.ng m.nh muốn xả hữu vi, việc trước hết phải xét cho r. gốc rễ phiền n.o từ vô

thủy, chỗ phát nghiệp, chỗ nhuận sanh của 8 thức, ai làm ? ai chịu ? Nếu không r. chỗ điên

đảo của hư vọng căn trần th. làm sao hàng phục để tiến lên Như Lai quả vị.

  1. sao đức Phật đ. thành công ? V. ngài đ. nghiên cứu r. 12 nhân duyên hư vọng, t.m

được tánh thể của vô minh là Phật tánh.

Phật pháp không bỗng nhiên có, không phải do các pháp sư phát minh. Ta thật ngu

ngốc nếu mỗi khi thuyết pháp, ta tự thấy m.nh là người sáng tạo bài pháp vừa nói. Phật pháp

có ra là từ công phu giác tỉnh của chư Phật, chư Tổ. Các ngài đ. đánh thức chúng ta, khiến

nhận ra thống khổ của ách luân hồi từ lũy kiếp, cần phải lật đổ.

Cho nên mở đầu nền học vấn, dĩ nhiên chúng ta phải làm giàu trí óc m.nh bằng những

kho tàng tri kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết

bước đi của người xưa. Nhưng không nhắm mắt hấp thụ, không chất đầy đầu óc những văn

chương mà luôn luôn vận trí phê phán, am hiểu thật tế, luyện rèn bắt chước.

Đạo giác tỉnh không cho phép nhắm mắt nghe bừa mà phải nghiền ngẫm sự thật, rút

kết luận trên kết quả thực hành.

Lại nữa, phương ngôn có câu : “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Tổ dạy : “Hổ ly sơn

hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn”.

Giọt nước đứng một m.nh chỉ một thoáng đ. thành không, nhưng nếu theo d.ng th. dư

sức ra biển cả. Sự nghiệp Thánh Hiền vô biên oai đức nhưng đối với chúng ta c.n là ngoại

phận rất mong manh. Trong mặt trận chống vô minh, chúng ta chịu tấn công 3 mặt : a) Nội

phiền n.o tham sân si, tứ đại sanh l.o bệnh tử từ trong đánh ra. b) Thầy tà bạn ác, sáu trần

cám dỗ, gia đ.nh x. hội buộc ràng, hoàn cảnh từ ngoài đánh vào. c) Giữa là nghiệp lực sát đạo

dâm vọng, các tập khí si loạn lôi cuốn.

Trí tuệ xuất thế phải có bạn đồng tâm, đồng chí, đồng nguyện, đồng hành, như những

giọt nước giúp đỡ sức mạnh cho nhau. Phải ở trong d.ng mới hy vọng cùng xuôi về biển

rộng. Lục h.a bảo đảm đoàn kết. Vi phạm lục h.a không phải chỉ mệt người khác mà tan vỡ

đoàn thể, chính m.nh đ. tự phá 5 phần Pháp-thân.

Nếu chỉ đọc bài lấy điểm là đủ an l.ng tự đắc mà không chịu nghiêm chỉnh trong bổn

phận, không phát tâm phục vụ chị em, th. chúng ta là những Phật tử đáng buồn.

Tứ chánh cần không những khuyên thanh thiếu nhi chúng ta làm cỏ mà c.n phải gieo lúa.

Tấm l.ng bi mẫn, nụ cười an ủi, lời nói dịu h.a, bàn tay chăm sóc... như dầu thoa máy, điệu

sống dễ nhịp nhàng trong đoàn thể.

Giác hoa tươi nở trong tâm, hương công đức sẽ thấm nhuần vạn loại. Như đức A Di

Đà từ mỗi chân lông tỏa ánh sáng và hương thơm đi khắp muôn phương, thâu nhiếp hữu t.nh

về Phật hạnh.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CẢNH SÁCH

HÀNG NGÀY

Thức chúng khuya : 3 giờ

Muôn tiếng ch.m lặng rồi

Canh ba trống đổ hồi.

Quốc kêu tiếng tha thiết( 1)

Mộng bướm c.n miệt mài(2 ).

Kiến đục trong cây h.e

Cá ngoi mặt nước bơi.

Không hay xem trăng thật

Chỉ đắm đóa hoa cười.

Lạc nhà xa ngàn dặm

C.n ham giấc ngủ hoài.

Không biết thân này ảo

Mê man trọn một đời.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Tiểu thực : 5 giờ 30 phút.

Đời mộng ảo chuông chùa cảnh tỉnh

Chuông chí tôn reo khắp nhà nhà.

C.n ham giấc ngủ ngon mài miệt

Chẳng quản vầng đông ánh chói l.a.

Dằng dặc đêm dài c.n có sáng

Mịt mờ lối quỷ khó lần ra.

Nay không gắng gỏi tu hành đạo

Ngày khác làm sao thấy Phật đà.

Nam mô đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Học sáng : 7 giờ 30 phút.

Đêm tối vừa lui sáng

Mặt trời dần chiếu ra.

Âm thầm tóc xanh bạc

Má hồng đổi dần dà.

Chẳng biết tuổi xuân ngắn

C.n tranh quả nghiệp mà.

Thân như băng gặp nắng

Mệnh, đèn trước gió to.

Chớ làm khách trọ m.i

Sớm lo trở về nhà.

Nam mô đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Ngọ trai : 10 giờ 30 phút.

Chớp mắt mặt trời đ. giữa trưa

C.n ham thanh sắc, m.i say sưa.

Ngàn cây đứng bóng, Nam Kha mộng( ).

Vầng nhật trên không, bước chuyển v.ng.

Phút chốc hoa tươi đ. rũ úa.

Quẩn quanh mệnh nấm thịnh liền vong( ).

Ai ơi ! Sao chẳng hồi tâm lại.

Tự khổ đường mê m.i ruổi rong.

Nam mô Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Thức chúng trưa : 2 giờ.

Sanh ra làm tớ cho h.nh thể,

Già đến tám mươi trí hôn mê,

Bệnh xâm tứ đại đau khôn nhẫn,

Chết xuống ba đường nghiệp nặng nề,

Gặp gỡ ghét hờn vô cùng hận,

Ái ân khôn xiết khổ biệt ly,

Muốn cầu chẳng được thêm phiền muộn,

Ngũ ấm lẫy lừng cháy thật ghê.

Nam mô đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Học chiều : 2 giờ 30 phút.

Mặt trời nghiêng xế bóng

Vườn dâu xanh mát râm( ).

Ngày tháng khó cầm lại

Già bệnh dễ đến t.m.

Giờ chết luyến chẳng được

Kỳ hẹn ai thể gh.m.

Các ngươi mở to mắt

Mê tan, chớ để tâm.

Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Ngồi tĩnh tối : 7 giờ 30 phút.

Mặt trời vừa lặn tối nhá nhem,

Bối rối đường đi lại tối thêm.

Đốt đuốc chăm lo nhà người rạng,

Đèn nhà m.nh sao chẳng tự xem.

Quạ lửa non tây đ. ch.m hẳn,

Biển đông lấp lánh ánh cung thiềm( ).

Sanh tử thay đổi tuần hoàn m.i,

Tam-bảo quay về hết cảnh đêm.

Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

Lâm thụy : 9 giờ tối.

Cảnh bức núi tây mờ

Bao giờ tiếc ngày giờ ?

Chỉ hay theo . ngựa

Đ. dừng tâm vượn chưa ?

Trời lặn rồi lại mọc

Thân nổi ch.m đấy mà.

Già đến khôn với ngu

Chết đi nay như xưa.

Tránh sao được vô thường,

Trốn đâu đại hạn kia.

Ai nấy làm đạo chánh

Chớ lạc lối tà tâm.

Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

  1. NGŨ QUÁN

Phàm tới bữa ăn phải tưởng 5 phép quán :

1- Xét công nhiều ít, chỗ người đem đến.

Mỗi một hạt cơm bao nhiêu vất vả ! Trước hết phải lo ruộng mạ, cuốc cày, nhổ cỏ, tát

nước, đắp bờ. Bao nhiêu thức khuya dậy sớm, mưa nắng d.i dầm. Lại c.n ngâm giống, gieo

mạ, nhổ mạ, cấy lúa, bón phân ba lần, bắt sâu nhiều buổi. Tới khi hạt lúa ngậm sữa th. cả

tháng, ngày canh chim, đêm canh trộm. Lúa chín rồi, nào gặt, nào đập, nào phơi, nào xay, nào

gi.. Chỉ tính một công phu gánh đi gánh lại từ thôn quê lên thành thị, mỗi ngày khuân vác,

bao nhiêu mồ hôi. Có hạt gạo rồi c.n phải bổ củi, gánh nước, lượm thóc, rửa nồi, vo gạo, đun

nấu. Đếm tất cả 72 công việc, vậy mà vừa đặt vào miệng đ. thành đờm d.i, cách một đêm

biến thành phân tiểu, ai cũng ghét không muốn thấy. Thế gian bao kẻ tạo ác chỉ v. tham ăn,

đến nỗi đọa địa ngục, nuốt h.n sắt nóng, uống nước đồng sôi. Hết nghiệp lên làm súc sanh

đền trả nợ người, trâu kéo cày, ngựa kéo xe, đói khát roi vọt. Mưa nắng d.i dầm, trăm cay

ngàn đắng, sống thống khổ, chết đọa đày.

Xét chỗ người đem đến là thế nào ?

Thí chủ cầu phước, giảm miệng bụng m.nh, bớt phần vợ con, đem của tới chùa. Ta

không tu hành, lấy g. đáp lại sự tin kính này. Cho nên có câu : “Hạt gạo nặng như trái núi là

vậy”.

2- Xét đức hạnh m.nh tr.n hay khuyết :

Nếu không giữ giới, ngồi thiền, tụng kinh, làm việc Tam-bảo, thời đức thiếu hạnh

khuyết, không nên thọ người cúng dường. Nếu thọ th. v. đây mà đọa lạc. Đức hạnh dù có

hoàn toàn cũng phải tu 5 phép quán mới tiêu của tín thí. Bởi v. không giác tỉnh, không có giải

thoát, không giải thoát tức là đọa lạc, đ. đọa lạc hẳn phải đền trả nợ xưa. Tổ Thiên Thai dạy :

“Bất luận ăn của chúng Tăng hay đi khất thực, đều phải tưởng 5 phép quán. Nếu không nhập

quán, ắt nhuận sanh tử. Học đạo không thông l., thân sau đền tín thí”. Xưa kia ông trưởng giả

cúng dường một vị Tỳ-kheo, tin kính một l.ng. Chợt ông Tỳ-kheo mắc bệnh chết. Bỗng nhiên

một hôm trong vườn trưởng giả thấy có mọc nấm. Thời gian sau nấm không mọc nữa. Phật

dạy : “Nấm ấy là ông Tỳ-kheo đền nợ vậy”. Kinh đ. nói rành, đâu dám không tin.

3- Ph.ng tâm l.a lỗi :

Từ vô thủy bao nhiêu lầm lỗi, gốc đều từ tham sân si. Cho nên ngày ngày phải giác

sát. Khi ăn gặp món ngon đừng khởi l.ng tham, gặp món dở chớ khởi l.ng sân, với món ăn

b.nh thường chớ khởi l.ng si. Đủ 5 phép quán mới nên thọ thực. Ngoài ra mắt thấy sắc, tai

nghe tiếng, mũi ngửi hương, thân giác xúc, . thọ pháp trần, đều là gốc phát xuất ba độc, cần

tuệ minh sát thanh lọc vọng tâm.

4- Món ăn đây chính là thuốc hay, chữa bệnh h.nh khô sắc héo :

  1. mượn tứ đại làm thân nên có nghiệp đói khát. Nếu không ăn uống th. h.nh gầy sắc

ốm, không do đâu tiến tu đạo nghiệp. Cho nên ăn uống chính là thuốc hay trị bệnh. Nhưng

nếu ta tham đắm th. trở thành thuốc độc.

Kinh A Dục Vương : Tổ Ưu Ba Cấp Đa đưa bát sữa cho một Tỳ-kheo, bảo rằng : “Ông h.y

đợi nguội rồi từ từ uống”. Tỳ-kheo thổi lia thổi lịa, uống một hơi cạn hết. Tổ nói : “Sữa tuy

nguội nhưng tâm ông c.n nóng, phải dùng phép quán bất tịnh để nguội tâm ông đi”. Tỳ-kheo

vâng lời, lặng lẽ quán. Pháp quán đắc lực, ông ói ra đầy bát. Tổ bảo : “Ngươi ăn lại đi”. Tỳ-

kheo bạch : “Bất tịnh ăn làm sao được nữa”. Tổ dạy : “Ngươi phải quán tưởng các pháp như

hỷ mũi khạc đờm”. Nhân đó Tỳ-kheo tinh tấn tư duy quán sát, được quả A-la-hán.

5- V. thành đạo nghiệp mới thọ món ăn :

Ta v. cầu đạo nghiệp mới tới đây thọ l.nh cơm này. Người cũng v. mong ta thành đạo,

mới đem cơm tới đây cúng thí. Vậy h.y tự hỏi : Đạo nghiệp là g. ? Đ. thành chưa ? Dù chưa

thành đạo nhưng cũng phải v. đạo. Nếu không th. một hạt gạo cũng khó tiêu. Cho nên phàm

khi ăn, phải tưởng 5 phép quán, thường sanh l.ng hổ thẹn, mỗi miếng thầm tưởng : “Nguyện

dứt tất cả ác, tu tất cả lành, hằng thanh tịnh tự tâm, bao nhiêu công đức hồi hướng cho tất cả

chúng sanh đồng thành Phật đạo”. Nếu quả được như vậy th. ngàn vàng cũng tiêu.

  1. THỂ DỤC

— Hô theo Từ Bi quán.

— Động tác theo hơi thở thật chậm và dài.

* Động tác vươn thở : Mười phương Sư Tăng

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác tay : Nguyện cho Thầy tôi

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác chân : Nguyện cha mẹ tôi

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác đầu gối : Mười phương tín thí

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác vặn m.nh : Nguyện khắp c.i trời

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác lườn : Nguyện khắp c.i người

Sống không hiềm hận,

An vui m.i m.i.

* Động tác bụng : Nguyện A-tu-la

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác lưng : Nguyện c.i địa ngục

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác toàn thân : Nguyện khắp quỷ thần

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác chạy tại chỗ : Nam mô A Di Đà Phật (10 lần).

* Động tác điều h.a : Nguyện loài bàng sanh

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

* Động tác thư gi.n : Mười phương chúng sanh

Sớm mau giải thoát,

An vui m.i m.i.

(Tùy sự cần dùng mỗi động tác làm từ 4 đến 8 lần).

LỢI ÍCH

— Thân tập từng động tác, tâm duyên theo âm thanh rải từ bi quán. Đây là phương pháp diệt

dần thói hờn giận, huân tập tâm từ bi, đồng thời giải oan gỡ kết với hết thảy chúng sanh. Tâm

vốn ở khắp pháp giới nên mỗi niệm từ bi rải đến mười phương khổ n.o chúng sanh, phước

báo vô tận. Trái lại mỗi mống nghĩ xấu ác ảnh hưởng cũng cả pháp giới nên tổn đức không

cùng.

— Theo từng động tác, chúng ta hít vào thở ra, điều h.a hơi thở. Hơi thở điều h.a th. tim đập

điều h.a, thần kinh hệ cũng điều h.a theo. Do đó tâm an định, thân khỏe mạnh, tinh thần

thanh sáng an vui. Đây là một phương pháp tiêu tai giải nạn, bảo đảm đắc lực trong hiện tại và

là điều kiện thiết yếu cho sự giác ngộ ngày mai.

  1. BA PHẨM

LIÊN HOA

(năm 1983)

I

Liên Hoa lấy Kinh Luật làm căn bản sinh sống. Kể từ năm ngoái qu. Sư cô mạnh dạn

buông bỏ văn tự, sấn vào hành pháp Tứ Niệm Xứ. Năm nay duyên lành có sư cô Hạnh về tr.

y, qu. Sư cô tiến thẳng vào thiền đại thừa.

Hai năm chuyên Tứ Niệm Xứ để thấy các pháp sanh diệt vô ng.. Vừa tạm đủ lông đủ

cánh, qu. Sư cô vào Nhĩ căn viên thông. Đây là bản hoài của H.a-thượng Pháp chủ. Ăn đến

cái bánh thứ 3 này mới thật no. Nhưng không phải là không cần 2 cái bánh trước. Liên Hoa

hiện tại là một Tịnh-độ có 3 phẩm :

1- Hạ phẩm học Kinh và Luật để vào hiền vị.

2- Trung phẩm tu Tứ Niệm Xứ để mở đường xuất thế.

3- Thượng phẩm Phản Văn vào tri kiến Phật.

Kinh Pháp Cú dạy : “Canh ph.ng tâm nghiêm mật sẽ đi đến an vui”. Qu. Sư cô là

những dũng sĩ can đảm, quyết xông vào trận chiến nội tâm với mục đích tự tha đồng giải

thoát.

Biết nói sao cho hết nỗi cảm phục của chúng con khi thấy qu. Sư cô khép m.nh trong

kỷ luật nghiêm khắc, chịu đựng những thử thách của thân thể và nội tâm. H.nh ảnh qu. Sư cô

nghiêm trang thiền định đập mạnh vào tâm hồn chúng con, khiến tham sân tật đố của chúng

con bớt đi. Chúng con phải làm thế nào để xứng đáng làm em của những người chị đ. từng

giờ từng phút nhiếp niệm.

Chúng con cố gắng học, nắm vững giáo l. để sau này cũng được tập tu. Chúng con

thúc liễm thân tâm v. ngay trước mắt có các bậc thánh hiền gương mẫu. Mười phương chúng

sanh c.n được nhờ từ điển của qu. Sư cô huống chi chúng con hân hạnh sống liền bên. Chúng

con sung sướng được nương tựa vào sự dẫn dắt của chánh pháp.

Kinh Pháp Cú dạy : Làng mạc hay rừng sâu, non cao hay trũng thấp, nơi nào A-la-hán trú ngụ

cũng tịnh lạc.

Kinh Đại Bi dạy : Người nhiếp tâm tr. chú tắm rửa, nước văng vào chúng sanh nào,

chúng sanh này liền tiêu tội được an vui. Hơi miệng người tr. chú theo gió nhằm ai, người này

sẽ được giải thoát.

Qu. Sư cô miên mật trở về tánh nghe không tạp niệm, soi từng hơi thở, biết từng bước

đi. Hôm nay gieo nhân làm Phật, chắc chắn sẽ kết quả Phật. Tương lai chúng con nương nhờ

vào sự tu hành của các chị đi trước. Nguyện cầu Tam-bảo gia hộ qu. Sư cô b.nh an sức khỏe,

trí tuệ khai minh, Bồ-đề tâm kiên cố, hoàn thành cảnh giới Liên Tr. ngay tại Việt Nam.

Nam mô Hoan Hỷ mười phương Phật.

II

Đ. gọi là Tùng Lâm, rừng tùng, hẳn nhiều tùng bách hiên ngang, lá xanh rợp trời, thân

thẳng một gióng, cao vút hư không. Đáng mừng là ban hộ pháp đ. lấy tự tha lưỡng lợi làm

nhiệm vụ. Tận tâm kiệt lực mà vẫn sợ tâm này chưa tận, lực này chưa đủ. Giúp người chính là

giúp m.nh, cùng nhau thành biện sự nghiệp. Tổ dạy : Bổ củi xách nước, không việc nào chẳng

phải đạo. Chủng chủng công vụ thiền môn, mỗi mỗi đều có phần quan trọng.

Tu tĩnh đắc đạo đ. đành mà xả thân khổ hạnh danh thơm cũng lắm. Tổ Quy Sơn nấu

ăn. Tổ Kính Sơn quét dọn nhà bếp. Tổ Thọ Xương cầy ruộng. Tổ Bách Trượng một ngày

không làm không ăn. Qu. ngài đều có tên trên bảng truyền đăng, đều đ. được tâm ấn nối

pháp Như Lai. V. thế chấp lao phục dịch, tự l.nh khó nhọc để phụng thờ Tam-bảo, thật chính

là tu đạo. Đây chính là những cây tùng cây bách đang mong vươn cao, uống ánh quang minh

vô tận. Đây chính là sửa soạn ngôi Tổ ngôi Phật.

Mừng rằng toàn chúng Liên Hoa ai cũng có phần bên Cực Lạc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. HUẤN TỪ CỦA H.A-THƯỢNG PHÁP CHỦ

Nhân ngày lễ tạ 49 ngày đả thất của ban Phản Văn

Tổ sư than rằng : “Thời chánh pháp, người tu dũng m.nh tinh tấn, v. đạo quên thân,

nên có tu có chứng. Ngày nay biếng nhác nên ít chứng ngộ”. Bậc tiền bối nhà Nho khuyến

khích học sinh rằng :

“Bạch nhật mạc nhàn quá

Thanh xuân bất tái lai,

Song tiền cần khổ học

  1. thượng cẩm y hồi”.

Nghĩa là :

“Nắng vàng chớ bỏ qua

Tuổi xanh không trở lại,

Bên cửa cần chăm học

Mai đây ngày vinh quy”.

Vua Đại Vũ ngày xưa tiếc tấc bóng quang âm hơn thước ngọc. Kinh Vô Thường dạy :

“Thiếu niên dung mạo tạm thời tươi, chẳng bao lâu sẽ thành khô tụy”.

Học sinh thế gian biết qu. thời giờ, sớm khuya học tập. Khi thi đỗ rồi, vua ban áo cẩm

bào, cưỡi ngựa về quê, làng huyện đón rước, mẹ cha hớn hở, vinh hoa biết ngần nào ?

Học sinh xuất thế gian, bái từ cha mẹ, vào cửa Thiền-na, lập chí siêu phàm, những

mong nhập thánh. Tâm Bồ-đề vừa khai phát, mười phương Phật vui mừng, c.i âm c.i dương

hy vọng, quỷ thần ủng hộ. Hàng ngày tự hỏi : Quán thông 3 tạng thánh giáo chưa ? Nghiệp

chướng đ. đào thải hết chưa ? Thân miệng . đ. thanh tịnh chưa ? Làm sao đừng cô phụ bốn

ân ? Làm sao cứu vớt cả ba c.i ?

Trường thi tuyển Phật, tâm Không đỗ đầu. So với việc làm thế gian thật dễ hơn nhiều.

  1. sao ? V. học vấn thế gian là đem những kiến thức bên ngoài vào tâm, luyện tài văn

chương, phải dùng sức lực tinh thần rất nhiều. Mà kết quả làm quan phú qu. vinh hoa chỉ

hưởng may lắm mới được trọn vẹn một đời.

C.n học sinh xuất thế gian, cưỡi xe bạch ngưu, mặc giáp liên hoa, ngay c.n đang tu

tập, trời người đ. lễ bái huống chi khi tự giác, giác tha, giác hành viên m.n, khiến cho Phật

nhật tăng huy, th. qu. giá biết chừng nào. Vinh hoa kiếp kiếp đời đời. Cứu dân độ thế, ân đức

trời đất biển sông không chi sánh bằng. Mà chỉ cần có một công phu xả ng. pháp, không nhất

thiết tướng, thành vạn pháp trí.

Nay các cháu đ. chọn đường xuất thế, con đường vô thượng không chi hơn, c.n lời

nói nào để tán thán hết thịnh đức ? Giới thân tuệ mạng vừa thêm 1 hạ. Lại tr.n 49 ngày thiền

thất phản văn, công phu viên m.n hứa hẹn tương lai siêu phàm.

Con đường từ xưa tới đây đ. thật là rực rỡ huy hoàng. Vậy khuyên cứ đường này mà

đi đến nơi đến chốn.

  1. LỚP PHẬT HỌC PHỔ THÔNG

Kính bạch trên Thầy !

Kính bạch toàn thể đại chúng !

Đ. ngót ba ngàn năm đạo Phật có mặt ở Việt Nam. L.ng tin tội phước nhân quả đ.

thấm nhuần khắp các tầng lớp x. hội.

Khoảng 100 năm gần đây, văn minh Âu Mỹ tràn vào, lớp người hiện đại thờ ơ với đạo

Phật. Trong khi ấy, nghiên cứu l. học, sự hành thiền định được thịnh hành khắp năm châu.

Làm sao lại trái ngược như thế ? Bởi v. trên khắp thế giới, pháp luân thường chuyển nên Phật

nhật tăng huy. C.n ở Việt Nam, con số Tăng Ni giảng dạy Phật pháp thật là quá ít. Đạo Phật

chỉ được học và tu kín đáo trong các ngôi chùa. Giữa thành phố, giáo l. c.n được vang lên

mỗi tuần chớ ở các thôn quê th. khoan nói đến ánh sáng chân l. cao xa, 99% người Việt Nam

chẳng am tường tam quy ngũ giới.

Ngay thôn Phú An chúng ta, nổi tiếng là đông tu sĩ Phật giáo, có tới 50 chiếc am cốc.

Nhưng thử hỏi dân chúng, có ai biết đến đức Thích Ca Mâu Ni ? Chắc chắn chỉ nhận được

những lắc đầu.

Người ta đến chùa chỉ để cầu an cầu siêu, coi đức Phật như ông thần gốc đa với bổn

phận tiêu tai giáng phước. Chữ Phật nghĩa là Đại Giác mà nay đạo Phật chỉ đưa người vào mê

tín dị đoan. Như thế đối với đàn na tín thí, tứ sự hộ pháp cúng dường, cái im lặng của chúng

ta quả t.nh là tàn nhẫn và độc ác.

Nóng l.ng về t.nh trạng ấy nên cố H.a-thượng Thích Thiện Hoa suốt 25 năm, đ. đem

những kinh nghiệm giảng dạy, đúc kết thành bộ Phật Học Phổ Thông, gồm 12 nấc thang giáo

l., đưa dần người học đạo từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Mong các đệ tử xuất gia có tài liệu

để mở lời giáo hóa ông bà cha mẹ, trước Phật hóa gia đ.nh, sau khai giác x. hội.

Riêng chùa chúng ta, khiêm tốn nơi miền quê xa xôi, an tĩnh dưới những tàng cây rừng

núi. Hàng ngày vẫn có từng đoàn người từ thành phố đổ lên, đi cả ngàn cây số từ xứ Bắc đến,

từ nước ngoài về thăm quê hương... bao nhiêu công lao, bao nhiêu vất vả, đem đầu đến trước

Tam-bảo, cúng dường các Sư.

Sư là tiếng Tàu. Tiếng Việt dịch là Thầy, nghĩa là người dạy học. Cho nên để tiêu

dung hạt gạo tín thí, chúng ta có bổn phận phải có một bài khai tuệ cho những người v. các Sư

mà đến đây.

Chúng con hôm nay thành kính nối gót tiền hiền, vâng lệnh Tôn sư, đảnh lễ Tam-bảo,

nguyện nghiên cứu bộ Phật Học Phổ Thông, trên hoằng dương đạo giác, dưới mở đường giải

thoát cho ông bà cha mẹ thân duyên cùng mười phương pháp giới hữu t.nh đồng vào Phật

đạo.

  1. LỚP THẬP TÍN

Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm hội thượng Phật

Bồ-tát.

Kính bạch trên Thầy, kính bạch toàn thể đại chúng.

Tuy Phật pháp mênh mông như biển cả nhưng chúng sanh nào cũng có thể tùy phận

lượng mà hưởng thọ. Bởi v. Phật pháp sẵn đủ trong tâm mỗi chúng sanh. Phật tánh là chánh

nhân. Phật pháp là duyên nhân. Liễu nhân Phật đạo do đây viên thành.

Hoa Nghiêm là bộ kinh hùng vĩ vẽ đường Vô-thượng Bồ-đề. Cổ đức đại từ đại bi đ.

dạy cho sơ tâm xuất gia chúng con, vừa bước chân vào chùa, liền được học Tỳ Ni Hương Nhũ

(rút từ phẩm Tịnh Hạnh). Một bộ nhật dụng này, sự th. thâu nhiếp thân tâm, l. th. quy viên

đốn. Mỗi xúc mỗi trần, mỗi hành vi, tập cho tâm trí sáng suốt, thoát ly tạp tưởng quá khứ vị

lai, trở về hiện tại. Nhiếp niệm thành định. Mỗi nguyện mỗi nguyện đều v. chúng sanh. Đọc

văn này, phát nguyện này, làm hạnh này, sẽ đồng với bậc Viên giác, không hai không khác.

Bồ-tát Hiền Thủ dùng ngót 400 bài kệ để ca ngợi công đức Thập Tín Bồ-tát.

Con Tỳ-kheo-ni Bảo Tâm, đ. đủ phước duyên được nhập thất mấy năm chuyên học

kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao của Thanh Lương quốc sư. Nay công phu hoàn tất, vâng lệnh Tôn

sư, cùng một số chị em khai mở lớp học Thập Tín.

Mục đích xuất gia là cầu thành Phật. Bước đầu tiên dĩ nhiên phải vào Thập Tín. Như

Lai đem quả dụng ứng quần cơ, bủa khắp c.i Ta Bà những tia sáng Bồ-đề. Phật danh, Phật

pháp, Phật thân đều là chỗ y cứ để khởi l.ng TIN.

Muốn viên m.n 10 TÂM (10 Tín) cần tu 10 quán pháp. Đây là then chốt, v. muốn tin

phải hiểu. Trong phẩm Bồ-tát Vấn Minh, 10 Bồ-tát tên THỦ cùng nhau hỏi đáp, khám phá

nghiên cùng giáo l.. Song phải do thắng hạnh mới tiến lên thềm bực ngôi vị. Học hiểu mà

không thực hành uổng phí đa văn nên Phật nói tiếp phẩm Tịnh Hạnh. Tùy theo sự duyên mà

khéo phát nguyện, tăng trưởng Trí Bi, thành tựu Phổ Hiền công hạnh, nội đức sớm viên thành,

tà ma chẳng thể quấy. Thần lực pháp nh.n do TÍN mà đầy đủ.

Chúng ta tự xưng là con Phật, học Phật và cầu thành Phật, hẳn cũng nên nhận r. Phật

là g. ? Phật ở đâu ? Đấng Đại Giác thường trụ ở khắp mười phương. Thập TÍN là bước đầu

viên thông. Hôm nay chúng con đặt chân cất bước trên con đường vạn dặm, cầu mong đại trí

Văn Thù, đại bi Quán Thế Âm nhỏ giọt sữa pháp, nuôi mầm Bồ-đề.

Nhất thừa viên đốn diệu pháp môn

Để chân thật thấy tánh thành Phật.

Tay cầm, mắt xem, tâm miệng tụng,

Nên biết đều là đại nhân duyên.

Thấy nghe, tùy hỷ, chứng Bồ-đề.

Rốt ráo viên thành đạo Vô-thượng.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh.

II-/ MÙA HẠ

TỪ 15-4 ĐẾN 15-7

  1. CHƯƠNG TR.NH AN CƯ

— Lễ Tổ – Lễ Phật – Khai luật kệ – Giáo giới an cư (đại chúng quỳ nghe giáo sắc của đại

Tăng).

— Thông kiểm số chúng.

— Cụ Tổ Quảng Bá huấn từ.

— Thỉnh Chủ Pháp Sự.

— Các thượng t.a đối thú bạch an cư.

— Toàn chúng bạch an cư.

— Cung an chức sự mùa hạ.

— Ban chức sự phát nguyện.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

MẪU THÔNG KIỂM SỐ CHÚNG

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch đại đức Ni Tăng ! Năm nay Ất Hợi 3 tháng tiền an cư, trước hết con xin

cung thỉnh đức Trung thiên Giáo chủ Thích Ca Văn Phật đứng ngôi thượng thủ. Kế đến các

cựu và khách Tỳ-kheo-ni gồm 15 vị, Thức xoa ma na 3 vị, Sadini 16 vị, h.nh đồng 2 vị. Cuối

cùng con xin cung thỉnh ngài Vi Đà Hộ Pháp an cư hội thượng nhận 1 ngôi vị.

Vậy tổng cộng mùa hạ năm nay tại trụ xứ Liên Hoa có 38 vị tiền an cư. Kính xin qu.

tôn đức liễu tri cho (1 lạy).

CẢNH SÁCH

KHUYÊN NIỆM PHẬT

Tất cả khổ cực thế gian nằm trong 4 chữ sanh tử luân hồi. Thân người rất khó được mà

lại vô cùng dễ mất. Tam đồ dễ vào mà rất khó ra. Thời gian trong địa ngục phải lấy số kiếp

mà tính đếm. Vạn khổ nung đốt không biết nơi đâu cầu cứu. Đền tội xong, lên dương thế làm

bàng sanh để trả nợ xưa. Từ bụng heo chui ra, tự nhận m.nh là heo. Đem tánh vô lượng quang

vào bào thai xú uế, nương gá bụng ngựa dạ trâu, thương tâm biết ngần nào ! Bảy đời Phật đi

qua vẫn c.n làm thân kiến. Tám vạn kiếp sau chưa thoát nghiệp bồ câu. Bỏ đ.y da này mang

đ.y da khác. Trải ngàn vạn năm mới được tướng người. Bao lần chịu thân cách ấm, đâu c.n

trí sáng ? Xúc thọ căn trần, sanh già bệnh chết làm sao tự chủ ?

Cho nên ngay bây giờ, phải thống niệm hiểm nguy sanh tử như cứu lửa cháy đầu. V.

mười phương chúng sanh nhất tâm niệm Phật. Bởi v. họ với ta đồng thể. Bởi v. đ. từng làm

bà con quyến thuộc nhiều đời. Bởi v. đ. cùng nhau chịu khổ từ vô thủy kiếp. Nên nay niệm

Phật cầu cho ta và người đồng giải thoát, đồng thành Phật đạo. Phát đại tâm như vậy, trên cảm

thông chư Phật, dưới khế hợp tánh linh. Tội nghiệp từ lũy kiếp sẽ giải trừ. Bao nhiêu thiện căn

sớm thành thục. Lấy vui Cực Lạc đối chiếu với thống khổ Ta Bà th. l.ng muốn rời xa càng

vội vàng như mong thoát hang cọp, như đói mong ăn, khát mong uống, như tránh oan gia

đang cầm dao rượt, như chết đuối gấp cầu cứu vớt.

Mê chân khởi vọng hay ngược vọng quy chân, đâu có pháp nào ngoài một niệm này.

Theo tịnh duyên niệm liền vào pháp giới thánh. Theo nhiễm duyên niệm mở ra pháp giới

phàm. Mười phương chánh báo y báo đều từ một niệm này mà ra. Tr. một danh hiệu Phật là

gieo một hạt giống vào 9 phẩm hoa sen. Niệm một câu Phật là một bước trên đường giải

thoát. Tâm tâm liên tục niệm niệm chuyên cần. Càng lâu càng thấm thía. Sao cho thành một

khối nhất tâm bất loạn. Một khi liên hoa khai nở th. tam thân tứ trí, ngũ nhỡn lục thông, bao

nhiêu thắng duyên rực rỡ.

Niệm Phật cốt yếu để minh tâm mà tịnh tâm cũng không chi bằng niệm Phật. Như

nước đục được minh châu nhất định sẽ trong. Biết r. l. này phải vội vàng niệm Phật.

Nếu có thể nhất tâm niệm Phật th. coi như việc tham học đ. xong, việc cần làm đ. thành biện

vậy.

Triệt Ngộ Đại Sư

  1. LỄ TƯỞNG NIỆM H.A-THƯỢNG TRÍ THỦ – ĐỆ NGŨ LUẬT SƯ

Đại chúng sửa soạn an cư. Mọi năm ngày này, Liên Hoa cử 2 vị sang Già Lam đảnh lễ

thỉnh Ôn làm đệ ngũ Luật sư. Năm nay Ôn đ. về c.i Phật. Chúng con không thể ngăn được

nỗi niềm xúc động, đảnh lễ di ảnh, cùng nhau nhắc lại công đức của Ôn đối với Liên Hoa.

Hạ năm nay và chắc rằng m.i m.i, chúng con không t.m đâu được một vị đệ ngũ Luật

sư khoan dung đức độ và tận t.nh dạy dỗ chúng con như Ôn. Ôn đ. vui vẻ giải quyết những

khó khăn rắc rối trong Ni chúng. Ôn lúc nào cũng có sẵn những bài pháp ngắn, hợp cơ phải

thời, để vừa sách tấn vừa răn dạy con em lỗi lầm. Mỗi dịp khánh tuế là chúng con lại được Ôn

kể cho một câu chuyện thật hay để về làm quà cho đại chúng. Ôn vắng bóng là một mất mát

lớn cho Liên Hoa. Thật đúng như phương ngôn Việt Nam : “Con không cha như nhà không

nóc”. Hoàn cảnh thời mạt pháp đ. cam go, thêm vào đó bao nhiêu đần ngu dại dột của chúng

con. Ôn đ. lặng lẽ che chở, gạt đi những mũi tên chỉ trích và từ mẫn nâng đỡ Liên Hoa trước

những tầm mắt nghiêm khắc của trong và ngoài Phật giáo.

Cha lành tỏa đức từ che mát. Mỗi khi chúng con sang thỉnh . kiến Ôn, dù việc nhỏ

như cá nhân phạm lỗi, xin Ôn chỉ dạy cách trị phạt, Ôn vẫn từ h.a hoan hỷ cặn kẽ tận t.nh.

Tưởng như Ôn thong thả rảnh rang lắm. Có lần thầy thị giả phát gắt v. chúng con đ. liên tiếp

làm rộn Ôn. Là người l.nh trách nhiệm lớn trong giáo hội toàn quốc, là thượng thủ trong hoạt

động Tăng già, là Thầy đốc giáo của các trường Tăng Ni Ôn đ. thành lập, là thầy Bổn sư của

ngàn vạn Phật tử tại gia, làm sao Ôn có thời giờ ngồi không ? Thế mà bất luận trường hợp

nào, chúng con cũng chỉ thấy nơi Ôn một đấng nghiêm từ hoan hỷ nâng giấc đàn con dại.

Nếu không được Ôn khuyến khích, hẳn Liên Hoa có bao giờ dám tổ chức hàng năm

khóa y công đức. Chính nhờ những chỉ dạy tỷ mỷ kỹ càng của Ôn mà Liên Hoa mỗi năm

mạnh dạn tu học thêm 5 tháng Cahyna, không lo trái pháp.

Chúng con được qu. Thầy cho biết sáng nào Ôn cũng dậy từ 2 giờ để làm lễ sám. Ôn

c.n tranh thủ thời gian để viết sách cho hậu lai chúng con. Cuốn YẾT MA YẾU CHỈ là tác

phẩm cuối cùng ngài vừa hoàn tất trước khi nhắm mắt.

Toàn quốc đ. nói nhiều về công đức Ôn đối với Phật giáo Việt Nam. Giờ đây đối

trước di ảnh, nhân buổi lễ truy niệm bậc đại ân nhân, Liên Hoa Ni chúng nhớ lại năm 1980,

Thầy chúng con ở Phú An về thành phố Hồ Chí Minh, được Ôn cho một bài pháp. Tết đến,

thay v. lễ phẩm thế gian, Thầy bắt Diệu Văn học thuộc l.ng bài ấy. Cùng với Sư cô Giám

viện sang làm lễ khánh tuế Ôn, chúng con đọc Ôn nghe lại, để dâng lên, xin Ôn chứng minh,

l.ng chân thành ghi nhớ pháp bảo của mấy con. Ôn vô cùng hoan hỷ dạy thêm rằng :

Thời Phật c.n tại thế, ở phương đông thành Xá Vệ, có một bà già ghét Phật, ghét cay

ghét đắng. Mọi người thỉnh Phật độ cho bà. Phật thân hành tới nơi. Bà quay mặt đi. Phật hiện

thân đứng 4 phía. Bà lấy hai tay bịt mắt. Nhưng lại thấy ở mỗi đầu ngón tay một ông Phật. Bà

tức m.nh .a lên khóc. Phật trở về tinh xá, sai La Hầu La đến thăm bà. Bà đon đả đón tiếp và

vui vẻ quy y. Mọi người ngạc nhiên. La Hầu La có tài g. hơn Phật ? Phật dạy : Kiếp xa xưa,

một bà già lên chùa xin xâm bói quẻ. Thầy trụ tr. đuổi. Bà giận lắm, bỏ đi. Thầy tri sự chạy

theo an ủi. Thầy trụ tr. nay là Phật. Thầy tri sự nay là La Hầu La.

Cho nên Bồ-tát muốn độ tất cả chúng sanh, phải cẩn thận, chớ để chúng sanh có những

ác cảm truyền kiếp như thế.

Nhà ai cũng có Quán Thế Âm. Cố gắng sẽ được.

  1. CỤ TỔ QUẢNG BÁ HUẤN TỪ

KHAI THỊ ĐẦU HẠ

Trên đường tu, hiểu đạo chưa là khó, hành đạo mới thật là khó. Chỗ biết của tôi dù có

thể đ. xa trăm dặm mà việc làm thật chưa đi được 5 bước. Kinh Đại Tập dạy : “Đời mạt pháp

ức ức người tu, ít ai ngộ đạo, chỉ nương môn niệm Phật mà thoát luân hồi”.

  1. cầu tu theo chiều sâu, Tăng Ni dùng hương thơm ánh sáng công đức Phật, để trang

nghiêm thành tựu hương thơm ánh sáng Pháp-thân m.nh. Huệ Viễn đại sư 30 năm không rời

núi. Ấn Quang pháp sư, lúc v.ng sanh xá lợi đủ năm màu. C.n bản thân tôi chỉ v. cơ duyên

đ.i hỏi, bất đắc dĩ phải phô sự kém dở, nhận bổn phận Pháp chủ Việt Nam. Như người yếu

chân tự đi không nổi, ngồi ở ng. tư đường, nhưng vẫn cố gắng chỉ lối về cho những ai c.n lạc

bước. Những mong nhân đây tự tiêu tội chướng mà được đới nghiệp v.ng sanh. Cổ đức từng

bảo : “Ăn cơm, mặc áo vạn sự đều là Thiền. Đi đứng nằm ngồi đều là Đạo”. Tịnh-độ tông

chúng ta cũng thế, cử tay cất bước, việc nào chẳng phải là hạnh hoa sen ? Muốn giữ sự thanh

nghiêm trong tịnh viện, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Ni chúng đều cần phải tuân hành đúng

giới luật, nội quy.

1- OAI NGHI NHƯ LỜI PHẬT DẠY :

  1. a) Thân ngay thẳng, bước nhẹ nhàng : Không nhảy nhót hấp tấp, trừ khi thật cần. Đứng đoan

trang, chớ chống nạnh co chân, nghiêng dựa. Nằm cát tường, ngồi vững như chuông úp.

  1. b) Hạn chế việc đi ra ngoài : Tuyệt không có những rong chơi vô ích. Đi thưa về tr.nh là bổn

phận quyết định. Bắt buộc ra khỏi cổng chùa, cố gắng chớ đi một m.nh, như thế mới hợp Ni

luật.

  1. c) Lời nói nghiêm tịnh : Đùa cợt phù phiếm, ồn ào bất nh., thị phi vô ích, làm chết Pháp-thân.

Sách thế gian có câu : “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Kinh dạy : “Im lặng như Hiền

Thánh”.

2- THANH LỌC TRI KIẾN :

Chớ gặp sách nào cũng xem, báo chí nào cũng đọc, chuyện thế gian nào cũng nghe,

vấn đề không liên hệ đến m.nh cũng đem ra bàn bạc. Tổ Quy Sơn dạy : “Đi trong sương móc

tuy không thấy áo ướt mà thật ra có thấm nhuần”. Sáu căn giao thiệp với sáu trần, hàng ngày

huân tập kiến-hoặc, tư-hoặc sâu dầy. Nếu nghiêm hộ sáu căn th. l.a trần thoát cấu, thành pháp

nh.n tịnh.

3- THIỂU DỤC TRI TÚC :

  1. a) Ăn mặc biết đủ : V. thân vô ng. chẳng nên quá cưng chiều.
  2. b) Ngủ nghỉ biết đủ : Hằng nhớ vô thường. Tấc bóng quang âm không thể đem vàng mua

được, chớ nên phí uổng bỏ qua.

  1. c) Chỗ ở nơi nằm đơn giản : Người tu liêu ph.ng cần để trống, mắt tai do đây được thanh

nhàn. Nếu c.n so sánh đua đ.i, l.ng ham muốn sẽ không cùng tận.

  1. d) Tiết kiệm phước đức : Dù của Tam-bảo hay của m.nh, dù giọt nước hay lá rau, không

buông lung xài phí. Giặt giũ, quét tước, những việc chi tự làm được th. làm, không phiền sức

lực người khác. Việc công th. cố gắng tận t.nh, chẳng trốn lánh trộm an.

Những hạnh hoa sen như trên là tinh yếu của các bậc cổ đức. Nay góp vào nội quy

trong tịnh viện. Trông mong những hạnh vi tế này sẽ đưa Ni chúng đến chỗ giới đức vẹn toàn

cao đẹp.

  1. CUNG AN CHỨC SỰ

Giáo dục học vấn là trách nhiệm trên thầy Bổn sư. Nhưng trợ giúp ngài rất cần nhiều

bậc Thầy trợ tá.

Trước hết là SƯ CÔ GIÁM VIỆN, quản l. tổng quát trong tùng lâm tất cả sự việc tinh

thần vật chất, lớn nhỏ trong ngoài.

Kế đến là SƯ CÔ GIÁM LUẬT, khuôn vàng thước ngọc. Kỷ cương thiền đạo vững

bền không thể rời Tỳ Ni tạng.

SƯ CÔ KIỂM KHÁN là đấng nghiêm từ nêu cao kỷ luật, đốc thúc ban chức sự tinh

tấn, ép buộc cả đại chúng vào nội quy, khiến khắp già lam, trên dưới trong ngoài tỏa hương

thánh đức.

Qu. SƯ CÔ GIÁO THỌ dạy chúng con chữ nghĩa kinh điển, truyền trao giáo pháp

Thánh Hiền. Từ qu. ngài chúng con được uống cam lồ pháp vị của chư Phật liệt Tổ.

Qu. vị TRI CHÚNG như mẹ hiền theo d.i chúng con trong 4 oai nghi, uốn nắn dạy

răn từng tiếng nói bước đi, trông nom săn sóc giờ ăn giấc ngủ. Được vào khuôn đúc, chúng

con trong ngoài rạng rỡ phạm hạnh.

Lại ơn qu. Sư cô chánh, phó TRI SỰ, dạy chúng con thổi cơm quét dọn. Chính trong

những giờ chấp tác, bao quê hèn được gột bỏ. Trăm phước trang nghiêm, phụng sự Tam-bảo,

thành công đắc quả, đâu không phải là do tri sự đ. tận t.nh mài dũa chẳng tiếc lời.

Cơ thể khang ninh, tâm trí mới khai phát, chúng con làm sao quên ơn qu. Sư cô

KHÁN BỆNH, suốt ngày lao tâm theo d.i bệnh nhân, đưa đi bác sĩ, đưa vào bệnh viện, cạo

gió cắt lể, thăm nom săn sóc, thuốc sớm cháo chiều, nâng giấc an ủi.

Ngoài ra NGHI LỄ giữ g.n phép tắc, nghiêm chỉnh các khóa công phu. NHANG

ĐĂNG đại lao toàn chúng hương hoa dâng Phật, nhang đèn cúng Tổ. Các vị CHI TRƯỞNG

quyền huynh thế phụ, răn nhắc bảo ban. TRI KHÁCH, TRI VIÊN nhiều ít đưa tay góp sức.

Do đây ngôi Tam-bảo đứng vững trong thế gian, làm nơi nương tựa cho trăm họ.

Có thực mới vực được đạo, Ni chúng b.nh an, ơn chánh phó TRI KHỐ phơi đậu nhặt

thóc. Chị em TRỰC NHẬT sớm khuya, cho đến RỬA CHÉN, HÀNH ĐƯỜNG, đều là công

lao hộ pháp.

Chúng con hôm nay sung sướng được cùng nhau kết hạ an cư, nương từ bi quang Phật

Tổ, một l.ng biết ơn đền ơn, chí thành đảnh lễ toàn ban chức sự.

Nam mô A Di Đà Phật.

BAN CHỨC SỰ PHÁT NGUYỆN

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô và toàn thể đại chúng !

Xiết bao hân hạnh ! Xiết bao vui mừng ! Chúng con hôm nay được góp bàn tay nhỏ bé

vào guồng máy sinh hoạt của đại chúng. Khả năng kém cỏi, không xứng đáng trách nhiệm đại

chúng giao phó, chúng con nguyện sẽ cố gắng đem hết tinh thần, tận tâm tận lực lo tr.n nhiệm

vụ. Trên Thầy đ. lo lắng xếp đặt nếp sống lục h.a cho chúng con an vui tu học. Chị em chúng

con sẽ sách tấn bên nhau, trau dồi giới thân tuệ mạng. Tuổi trẻ bồng bột, chúng con không sao

tránh khỏi lỗi lầm sơ sót. Ngưỡng mong trên Thầy, qu. Sư cô cùng toàn thể đại chúng từ bi

tha thứ và hoan hỷ chỉ dạy, giúp chúng con hoàn thành bổn phận tốt đẹp.

Nguyện cầu Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, hải chúng an h.a, cùng

nhau tiến bước trên con đường tự giác, giác tha cho đến ngày giác hành viên m.n.

Nam mô Công Đức Lâm Bồ-tát ma-ha-tát.

  1. KẾT HẠ

KHAI THỊ CHÚNG

I

Rằm tháng tư hôm nay là ngày kết hạ. 2500 năm về trước, trên hội Linh Sơn cũng có

ngày kết hạ. Từ đó tùng lâm các nơi chẳng trái lệ cũ, 90 ngày cấm túc an cư.

Ngay từ niệm đầu tiên phát tâm xuất gia, người chân thật học đạo đ. cương quyết liễu

thoát sanh tử việc lớn. Như vậy “chân” đ. cấm, “hạ” đ. kết. Trọn đời năm và tháng, cùng việc

này tương ưng. Mùa hạ năm nay cũng thế, 90 ngày an cư trọn vẹn cùng việc này tương ưng.

Được vậy mới có thời tiết gọi là Phật hoan hỷ, Tăng tự tứ. Bằng chỉ nhập hạ đủ 3 tháng để lấy

lệ th. chẳng những không hiểu . Phật Tổ mà cũng là tự cô phụ, thật là đáng thương.

Trên đây là lời của Trung Phong Minh Bổn thiền sư.

Hôm nay chùa Liên Hoa, 38 người ai cũng r. việc này, chẳng chịu tự cô phụ. Mượn cơ hội an

cư để phấn khởi phiến tâm mạnh mẽ. Một ngày phải thấy công tr.nh một ngày, một giờ phải

thấy tiến tới một giờ. Người trên kẻ dưới cảnh sách lẫn nhau, mài dũa cho nhau. 90 ngày siêu

phàm nhập thánh, việc này phải minh bạch. Chùa Liên Hoa là trường tuyển Phật. Tâm

“không” mới thi đậu. Tâm không là thế nào ? Ng. không và pháp không. Ng. không là thân

đất nước gió lửa không thật, tâm bóng ảnh sáu trần không thật. Biết cảnh sắc thanh hương vị

xúc pháp huyễn hóa, tức là pháp không.

Người tâm như hư không, hằng khoan dung tha thứ. Trong siêng công khắc kỷ, ngoài

rộng đức không tranh, mỗi mỗi đúng pháp lục h.a. Niệm niệm chẳng lui sụt, nhắm thẳng vào

3 học giới định tuệ. Nếu không th. tấc vải hạt gạo chắc chắn phải bồi thường.

Người xưa 3 y 1 bát, ngoài ra coi là vật thừa, không phải của m.nh. Thanh bần tu

luyện, thầm lặng dẹp bỏ vọng t.nh. Thề ở dưới mọi người, khiêm tốn hạ m.nh, không dám

xem thường người thiếu khả năng. Tinh cần tỉnh giác chánh niệm, nghịch thuận chẳng biến.

Chúng ta nếu thật học được như thế, ắt hy vọng sau này vượt lên cao, đến chỗ xa.

Nguyện cầu toàn chúng tinh tấn tu hành, viên m.n Bồ-đề.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

II

Rằm tháng tư đ. về đây !

Mỗi năm chúng ta chuẩn bị mùa hạ, cần ôn lại những g. dở đ. qua để tránh, xét những

  1. cần bổ túc cho mùa hạ sắp tới. Ni chúng phải nghiền ngẫm mục đích sinh hoạt của m.nh, dù

là an cư hay tự tứ, thọ giới hay học kinh, mỗi cử động đều nhắm vào việc mà qu. H.a-thượng

gọi là đại sự.

Thiền sư Thanh Từ bắt mạch Tăng Ni, thấy bệnh thông thường nhất là “tự m.n”. Năm

đầu ai nấy hăm hở quyết chí giải thoát, nhưng dần dần đạo trở thành một cái g. xa lắc xa lơ.

Kinh A Hàm nói : “Xuất gia như cô dâu mới về nhà chồng, đối với cha mẹ chồng khép nép

cung kính. Đôi ba năm quen rồi, khinh lờn, chẳng cần lễ phép”. Chúng mới cạo đầu cũng thế,

ban sơ trên kính các thượng t.a, dưới nể v. huynh đệ, tỏ ra dễ dạy ngoan ngo.n, nhu h.a,

nhẫn nhịn. Nhưng ít lâu sau th. “gần chùa gọi Bụt bằng anh, thấy Bụt hiền lành c.ng Bụt đi

chơi”. Thuộc hai thời công phu, rành rẽ mấy khóa lễ, học xong vài bộ kinh, thế là tự m.n, tự

cho là đủ. Không bao giờ nghĩ đến 2 chữ “tu chứng”.

Nghiệp thức mơ màng, vọng t.nh chưa hết, làm sao ra khỏi luân hồi ? Điểm chính

nhắc nhở chị em hôm nay, là phải thực hành những g. đ. học. Chí nguyện thiết tha th. công

hạnh sẽ chuyên cần. Công hạnh chuyên cần sẽ liễu đạt đại sự. Có sáng được việc lớn, chúng ta

mới đáp ứng bản hoài độ sanh của Phật Tổ, mới xứng đáng chí nguyện xuất gia, mới không

phụ công hộ pháp của mười phương tín thí.

Nếu không sáng được việc này, đạo Phật trở thành vô giá trị. Cho nên mùa hạ năm

nay, chúng ta làm sao cho cái mê từ lịch kiếp phải m.n, phải mỏng.

Người xưa đau khổ xót xa rơi nước mắt mỗi khi mặt trời sắp lặn, tiếc tấc bóng quang

âm hơn vàng ngọc. Chúng ta hôm nay cũng lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn

lên. Ngài Phần Dương dạy : “Bốn đại như bọt nước, thân như lá trên sông. Bổn tánh diệu linh

quang khoáng kiếp c.n m.i m.i”.

Triều đ.nh mời ngài về kinh đô, ngài từ chối. Sứ giả thưa : “Con đi không được việc,

về ắt bị trị tội”. Ngài đành trả lời : “Vậy th. ngươi cứ về trước, ta sẽ đi sau”. Rồi ngài nhóm

chúng hỏi : “Ta phải đi, trong chúng có ai đi theo ta được không ?” Thị giả xin đi. Ngài hỏi :

“Ngươi đi một ngày được mấy dặm ?” Thưa : “H.a-thượng tới đâu con tới đó”. Ngài liền kết

già : “Ta đi đây”, nói rồi liền tịch. Thị giả đứng hầu khoanh tay tịch theo. Sống chết tự tại như

vậy gọi là đại sự của người tu.

Thân bốn đại mỏng manh vô thường, hư vọng như bọt nước. Chiếc lá trên sông theo

sóng đong đưa, tùy làn nước chảy về Đông hay về Tây, làm sao có quyền tự chủ ? Chỉ nhắm

mắt mặc cho nghiệp lực xoay vần. Chúng ta vào bào thai, ra làm con người, con trâu, con chó,

hoàn toàn mịt mù mê muội, được sao biết vậy, nói g. đến kén chọn đường đi. C.n tâm linh vô

lượng quang của chúng ta muôn kiếp vẫn thanh tịnh không hư không hoại. Nên sống với căn

bản sanh tử hay cầu sống với căn bản Bồ-đề ? Ba tháng xuân Lăng Nghiêm chúng ta đ. học

và hiểu.

Nay chỉ c.n một thắc mắc : “Ngài Phần Dương đ. đại tự tại đến như thế, sao c.n sợ

vinh hoa, đến nỗi phải thị tịch, để lánh vua quan triều đ.nh ?”

Thưa : “Đốn ngộ th. đồng với Phật, nhưng tập khí nhiều đời thâm sâu đâu dễ đốn trừ”.

Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh những ai muốn lao xuống sông vớt người chết đuối, trước nhất

h.y tập bơi cho thật thạo.

Mong ước rằng thêm mùa hạ này nữa, chúng ta chuyên tu học giới luật, xây đắp thật

chắc thật bền nền móng giải thoát.

  1. THỈNH PHÁP HỌC LUẬT

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô !

— Ức ức triệu triệu sinh linh quẩn quanh trong biển trầm luân thống khổ.

— Ức ức triệu triệu sinh linh mịt mù trong đêm tối vô minh !

— Chỉ v. không gặp đèn pháp, chỉ v. không gặp thuyền từ.

Đèn thánh đức, thuyền Bát Nh., nước dương chi ! Hạnh ngộ hôm nay, Tam-bảo đ.

đầy đủ xếp đặt duyên lành cho bầy trẻ mấy con vào cửa đạo.

Chúng con được nghe : “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, giới luật c.n là Phật

pháp c.n”. Ngày khai hạ, toàn thể học chúng đê đầu đảnh lễ cung thỉnh Sư cô Giáo Thọ thay

  1. mười phương thánh phàm Tăng, đại lao trên Thầy, dạy chúng con bộ Sadi Luật Giải, để

chúng con được thấm nhuần oai nghi phép tắc thiền môn. Đây là thềm thang giới Tỳ-kheo-ni,

cội gốc giới Bồ-tát, là nền tảng Thánh Hiền.

Chúng con nguyện cố gắng thúc liễm thân tâm, dồn hết tinh thần vào việc học, làm sao

trong đời sống hàng ngày không đến nỗi trái lời Phật dạy.

Sau cùng chúng con thành tâm nguyện hồng ân Tam-bảo gia hộ Sư cô Giáo Thọ pháp

thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, ân đức không cùng suốt kiếp vị lai.

Hạnh phúc thay chánh pháp xương minh !

Hạnh phúc thay Tăng già h.a hợp !

Hạnh phúc thay mùa hạ năm nay, chúng con được làm lễ thỉnh pháp, ngưỡng mong

trên Thầy, Sư cô Giáo Thọ thương xót chứng minh.

ĐÁP TỪ

Mùa xuân Lăng Nghiêm thấm thoát đ. trôi qua, chị em ai nấy phấn khởi đón mừng

ngày chư Tăng kết hạ.

Chúng ta tuy xuất gia nhưng hàng ngày bận rộn lo toan đủ thứ, ít có th. giờ kiểm soát

lại m.nh. Đức Phật xót thương, dạy các đệ tử, trong một năm phải quyết định dành 3 tháng hạ

tấn tu đạo nghiệp.

Theo thường lệ, chùa chúng ta mùa an cư miên mật học luật. Bởi v. có giới luật chùa

mới an, có giới luật ngôi Tăng bảo nơi thế gian mới vững. Cổ đức nói : “Nước không luật

nước loạn, nhà không luật nhà tan”. Chính thế, nước có luật của nước, nhà có luật của nhà,

cho đến trường hợp nào đều có luật của trường hợp ấy. Luật pháp thế gian giúp con người an

sống một đời. Giới luật xuất thế giải thoát luân hồi sanh tử. Đạo thánh hiền khó huân ướp,

nghiệp chướng vô minh nặng nề. Không giới luật kiềm thúc, ba nghiệp buông lung tạo tội,

thân tuy ở chùa mà sự đọa lạc r. ràng, v. vậy môn học rất thiết yếu này, xuất gia chúng ta

không thể lơ là. Thân thể nhờ ăn cơm, uống nước, hít thở... mà sống. Tuệ mạng nhờ nghiêm

  1. giới luật mới bảo tồn.

Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Không nghiêm tr. giới luật, dù thiền định trí tuệ hiện tiền

cũng quyết lạc ma đạo”. Cho nên hôm nay toàn chúng vâng lời Phật dạy, lấy luật nghi làm

đầu. Trông mong 3 tháng ai nấy tận lực học tu, xây nền giới luật vững chắc, đem sự an vui

cho m.nh và người.

  1. QUY SƠN

CẢNH SÁCH

Quy Sơn là h.n núi h.nh con rùa. Tổ vâng lời Bổn sư đến ở đó một m.nh. Núi cao chót

vót chạy dài cả vạn dặm, toàn rừng sâu hang thẳm, không một dấu chân người, chỉ có cọp,

beo, gấu, khỉ. Tổ lượm trái rừng ăn đỡ bữa, vốc nước suối uống qua ngày, luôn 7 năm không

một người thăm hỏi. Nhân một tiều phu vào rừng lạc lối, gặp ngài, tin cho bà con xóm làng.

Chẳng bao lâu ngôi chùa được xây cất, và từ đây đạo truyền khắp thiên hạ.

Tổ dạy rằng : Phàm đ. tạo nghiệp phải chịu báo thân, th. ai miễn được khổ lụy h.nh

hài. Vay máu mủ của cha mẹ, mượn đất nước gió lửa làm vóc thể. Vô thường già bệnh, sớm

c.n tối mất, giây phút qua đời khác. Vậy mà cứ ăn ngủ, đùa cười, không mong cầu giải thoát.

Cha mẹ không hiếu dưỡng, x. hội đ. xa l.a. Vâng lời Thầy cạo tóc, trong đinh ninh 3

học Giới – Định – Tuệ, ngoài tập tu kính nhẫn, rộng đức lục h.a. Thế mà vừa thọ giới đ. lên

mặt ta là Sư, ăn dùng của thường trụ, chẳng quán 5 pháp. Cứ cho rằng bổn phận tại gia phải

cung phụng ta tiêu xài. Chụm đầu nói chuyện thế gian, đâu có nhớ mấy phút vui này là cái

nhân tai ương vạn kiếp. Rông rỡ theo trần chưa từng phản tỉnh. Ngày đêm đi qua, thoạt đ. bạc

đầu, một đời vô ích. Người cầu phước nên cúng dường không chán. C.n ta thọ dụng, xét chỗ

tu hành, không đáng hổ thẹn sao ?

Đức Phật khuyên răn : Này các Tỳ-kheo, nghiêm thân tu đạo, cần bớt 3 việc ăn, ngủ,

áo quần. Phép tắc oai nghi phải tịnh như băng tuyết.

Giáo l. không để dạ, huyền đạo làm sao khế ngộ ? Bụng trống l.ng cao, mở miệng chỉ

những lời kiêu ngạo. Nói th. lớn tiếng, ăn mải khua bát, đứng ngồi thô tháo. Bạn hiền khuyên

nhắc, l.ng sân la lớn : “Đại ngộ không chấp việc nhỏ”. Một mai nhắm mắt, nghiệp báo hiện

  1. Cua bị trụng nước sôi, khi ấy càng ngoe rụng hết. Ngưỡng khuyên đại chúng mau mau tỉnh

ngộ, đừng để thất t.nh lục dục cuốn trôi. Phí uổng một đời, chỉ v. biếng nhác.

Người xuất gia lập hạnh đại thừa, nối thịnh d.ng Phật, phá dẹp ma quân, đền trả bốn

ân, cứu giúp ba c.i. Nếu không như thế th. là ma quỷ trà trộn trong Tăng chúng. Huống chi

hôm nay đường đường Tăng tướng, dung mạo oai nghiêm, ai thấy cũng vui mừng kính nể,

đều là nhờ kiếp trước đ. vun trồng căn lành.

Vậy mà nay đ. xả tục ở chùa, thói tục vẫn đa mang. Đ. đủ phước duyên thoát trần mà

duyên trần chẳng chịu dứt. Tu hành không phẩm chất, chỉ mong thọ giới cao, ngồi trên làm

thượng t.a. Xuất gia như thế khác nào lánh chỗ chết ch.m lại đâm đầu vào lửa. Mê si ngược

ngạo tự cho là khôn giỏi, đi thụt lùi mà cứ tưởng m.nh lên cao. Chưa từng một niệm cải quấy

sửa m.nh, chỉ đưa mắt tai ra nghe ngó lỗi lầm người khác. Cạo đầu cho láng, y áo chỉnh tề,

không tu phước tuệ, mai đây hết báo làm người, những cực h.nh ghê gớm của địa ngục, ai

người chịu thay ? Nhân lành không vun trồng làm sao kết quả tốt ?

Mong làm rường cột trong Phật pháp, gương mẫu cho hậu lai, mà cứ dần dà để ngày

ngày đi qua không tiến bước. Kinh dạy : “Thầy tà bạn ác sợ như hổ lang. Thầy hay bạn hiền

  1. như cha mẹ. Thấp m.nh như đất, ngậm miệng như ngu, dẹp sạch thói ta người, bặt dứt

tâm ương ngạnh. Nếu cứ lân la gần gũi người ác, tập thấy ác, làm ác, mắc báo ngay hiện đời,

chết rồi trầm luân”.

Cái tâm thương xót nhắc nhở của Tổ Quy Sơn như thế, dù sắt đá cũng phải đổ mồ hôi,

huống chi chúng ta có tánh Phật, lẽ nào chẳng ghi l.ng tạc dạ, sửa tâm nuôi đức. Trong thắp

đèn Bát Nh., ngoài nghiêm tịnh sáu căn, an định tinh thần mà tự nuôi lớn tâm Phật. Tinh xét

nghĩa l. kinh luật, truyền pháp độ sanh, đền ơn Tam-bảo.

Gánh vác chánh giáo có 2 việc :

1- Tự thân giới phẩm oai nghi xứng đáng bậc pháp khí.

2- Xả thân làm việc Phật pháp mong lợi cho muôn loài. Thánh trước Hiền sau, các ngài đều

có phần trong Phật quả. Các ngài đ. trượng phu, chúng ta cũng cố gắng trượng phu. Trông

mong đại chúng phát chí quyết liệt, mở rộng l.ng dạ theo gót Tổ sư.

  1. Ngày 19-6

LỄ ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT

* Tụng kinh Phổ Môn.

* Sự tích Chúa Ba chùa Hương.

Chân như đạo Phật rất mầu

Trong tâm chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân.

Hiếu là độ được song thân

Nhân là vớt hết trầm luân muôn loài.

Thần thông ngàn mắt ngàn tay

Cũng trong một điểm linh đài mà ra.

Nay miền biển nước Nam ta

Phổ Môn có đức Phật bà Quán Âm.

Thường chăm kính niệm tại tâm

Muôn phần linh ứng chẳng sai bao giờ.

Thuở xa xưa, vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, không có con trai, l.ng thành

cầu tự được 3 con gái, đặt tên là Diệu Thanh, Diệu Âm và Diệu Thiện. Theo thường t.nh, gái

lớn gả chồng, vua gả công chúa Nhất cho trạng nguyên họ Triệu, công chúa Hai cho quan v.

họ Hà. Chúa Ba một mực xin đi tu. Vua cho ở chùa Bạch Tước nhưng ra lệnh các Sư phải bắt

công chúa làm việc nặng nhọc thật nhiều, hành hạ sao cho nản chí mà trở về cung. Không ngờ

chúa Ba mừng rỡ được dịp xả thân v. đạo hầu sớm chứng quả.

Vua tức giận sai đốt chùa giết Sư. Chúa cắt tay, lấy máu vẩy lên không trung. L.ng

thành cảm động thấu trời, máu biến thành mưa, dập tắt ngọn lửa. Vua càng tức giận, thét quân

điệu Chúa ra pháp trường xử chém. Ngọc hoàng Thượng đế sai thiên thần hóa làm m.nh hổ

tha Chúa đem vào rừng sâu.

Công chúa thiêm thiếp thấy m.nh theo sứ giả Diêm Vương xuống âm ty, thăm 18 cửa

ngục, búa đồng, chùy sắt khảo tra. Chúa Ba thương xót tr. chú niệm kinh, khấn cầu 10

phương Phật, 9 phương trời. Bỗng nhiên hào quang lóe sáng, gông cùm rơi rụng tan tành,

ngục nhân quỷ sứ giải thoát. Vua Diêm Vương mừng rỡ đem bảo cái lọng vàng đưa tiễn Chúa

Ba trở về dương thế.

Chúa Ba tỉnh giấc, thấy m.nh ở trong rừng rú, thanh vắng một bề. Đang khi lo lắng bơ

vơ, chợt có một nam tử rẽ lá bước tới, khuyên cô cùng về chung sống. V. ở đây lúc đêm

khuya th. cọp beo rất đáng sợ. Chúa rằng : “Tôi đ. xuất gia, đ. quyết một l.ng sắt đá không

phai”.

Ai ngờ Phật Tổ Như Lai thử l.ng con trẻ. Biết người kiên tâm, Phật thuyết pháp chỉ

đường tu, dạy về miền bể phương Nam chùa Hương Tích. Lại đưa cho quả đào tiên, ăn vào

hết đói hết bệnh, chứng vô sanh. Ngay lúc ấy thần núi Hương Tích hiện thân hổ tới dẫn đường

đưa đi. Bắt đầu từ đấy, nguyện ước tu hành thỏa m.n.

Vua cha do hiếu sát mắc trọng bệnh. Ph. m. họ Triệu dâng thuốc độc cho vua, nói là

thuốc tiên. Ph. m. họ Hà đem binh về đ.i vua nhường ngôi. Chúa Ba hiện thân một H.athượng,

mỗi mỗi giúp vua thoát nạn. Trang Vương cùng hoàng hậu và chúa Nhất, chúa Hai

đồng xuất gia, cùng thành đạo quả.

* * *

Đào trên mây, hạnh trên trời

Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa.

Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà

Trăng tr.n nét mặt, núi xa dáng mày.

Sắc tuy rằng sánh hạnh đào

Nhưng mà đoan chính trông vào nghiêm trang.

Trẻ thơ mà đ. khác thường

Ai ai cũng kính tiên nương dưới trần.

— Trí tuệ công chúa siêu việt, thấu r. quy luật vô thường sắc không, nên không vướng

v.ng danh lợi.

— Mục đích tu hành của Chúa r. ràng :

  1. a) Đối với bản thân th.

May ra siêu thoát tử sanh

Yên tâm c.i Phật vui h.nh c.i tiên.

— Không phải chỉ ở chùa đắp cà sa đ. là tu mà cần minh tâm kiến tánh và thể hiện

trong cách sống hàng ngày.

Không trang điểm, chẳng chơi bời

Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi.

Hoặc :

Bạn cùng gió mát trăng trong

Tự tại một l.ng chẳng lụy trần ai.

  1. b) Ngài hiểu về chữ Hiếu rất là đứng đắn

Đ. hay nghĩa mẹ công cha

Trời cao biển rộng báo đà xứng chưa ?

Nhưng tôi khổ hạnh bây giờ

Mai sau cha mẹ nương nhờ được siêu.

Kẻo e nghiệp chướng quá nhiều

Chẳng tai bể khổ cũng nàn sông mê.

— Vả lại vua cha đốt chùa giết Sư, dễ g. cải hóa, chỉ có một cách là :

Thân này thành Phật may ra

Hộ nước, hộ nhà th. mới có phương,

Giữ chi hiếu nhỏ tầm thường

Giữ điều hiếu lớn là đường báo ân.

  1. c) Xúc động trước :

18 cảnh địa ngục ghê rợn

Chẳng đành con mắt, chẳng yên dạ l.ng.

Ước sao tù ngục trống không

Bao nhiêu khổ quả tội nhân sạch làu.

— Thành chánh quả, Chúa càng có nhiều phương tiện để thực hành l. tưởng. Trước

tiên độ cho hai đệ tử, đưa cả gia đ.nh lên t.a sen, giác tỉnh cho hai yêu quái Thanh Sư và Bạch

Tượng, con vua Thủy Tề cũng kịp thời thoát khổ mắc lưới.

— Cả cuộc đời ngài là một tấm gương sáng ngời phát huy tinh thần đại hùng lực,

chánh tinh tấn, để giữ đạo cứu đời. Thân thế ngài chứng minh một sự thật, chỉ có tu hành mới

độ được cha mẹ thân quyến, mới đưa được muôn loài ra khỏi những khốn khổ của phiền n.o

chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Nghĩa là mới thực hiện hai chữ Hiếu và Nhân một

cách trọn vẹn rốt ráo.

Ngoài ra sách Nam Hải Quán Thế Âm vẽ con đường nhân quả một cách sâu sắc. Tham

sân si, sát đạo dâm đem tai họa cho con người thật nặng nề. Bức tranh x. hội được miêu tả r.

nét.

Vua Trang Vương hiếu sát :

Hay v. giặc gi. đâu đâu

Mà ta giết nó bấy lâu quá nhiều.

Phép binh như lửa cháy đầu

Há không oan uổng luống tiêu mạng người.

Rồi v. vô minh sân giận muốn giết cả con gái.

— Những cảnh xuống cấp đạo l. như con rể âm mưu cho bố vợ uống thuốc độc, ph.

  1. họ Hà nhân vua bị nạn đem quân về chiếm ngôi. Ven đường bờ bụi, yêu ma quỷ quái luôn

luôn r.nh rập h.m hại người lành. Tất cả chỉ v. tranh danh đoạt lợi. Những cảnh như vậy thật

tương phản hoàn toàn với nếp sống có bản chất từ bi đạo hạnh trong trắng của Chúa Ba. Ngài

thật là một đóa sen thơm ngát, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Đoạn miêu tả cảnh 18 địa ngục rùng rợn dài tới 95 câu, là một cảnh cáo nghiêm khắc

cho bọn mê si độc ác. Đây cũng thể hiện ước mơ của nhân dân, mong muốn kẻ ác phải bị

trừng trị đích đáng. Cho nên thông thường các truyện cổ tích đều phân minh r. rệt Ác và

Thiện. Người Thiện kẻ Ác đấu tranh gay gắt. Cuối cùng Thiện bao giờ cũng thắng và hưởng

hạnh phúc, Ác th. bị trừng trị.

C.n đây là sự tích ứng thân của Bồ-tát. L. tưởng Phật giáo theo một hướng khác.

Người thiện phải đấu tranh quyết liệt, dù mất thân mạng cũng cam, để bảo vệ đường đi sáng

suốt của m.nh, để đưa kẻ ác trở về thiện và chung hưởng an vui.

Dưới đây là bài thơ của danh sĩ Chu Mạnh Trinh vịnh cảnh chùa Hương Tích núi

Hương Sơn, ở Phủ L. tỉnh Hà Nam Bắc Việt, nơi Chúa Ba tu thành chánh quả :

Bầu trời, đất Bụt !

Cảnh Hương Sơn ao ước bấy lâu nay !

K.a non non, nước nước, mây mây.

Đệ nhất động, hỏi rằng đây có phải ?

Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái.

Lững lờ khe nước, cá nghe kinh.

Thoảng bên tai một tiếng chầy k.nh.

Khách tang hải giật m.nh trong giấc mộng.

Này suối Giải Oan, này chùa Giải Thoát.

K.a am Phật Tích, k.a động Tuyết Kinh.

Nhác trông lên, ai khéo họa h.nh

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Thăm thẳm có hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối bước lên mây

Chừng giang sơn muốn đợi ai đây ?

Nên tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.

Lần tràng hạt niệm nam mô Phật

Cửa từ bi đón khách trần lao.

Viên thông tự tại ra vào

Bồ-đề sẵn có ai ơi mau về( ).

100 quả núi chầu về một động. Chúa Trịnh dâng cúng biển đề : “NAM THIÊN ĐỆ

NHẤT ĐỘNG”. Lối vào là một d.ng suối rộng thênh thang. Nước trong xanh mát, lăn tăn

sóng bạc. Đ. vào, đ. ra, chào nhau vang lừng Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Hai bên bờ suối

lúa xanh chạy dài ven núi, khiến chốn sơn lâm thăm thẳm mênh mông vắng vẻ, đượm làn

không khí yên ổn thái b.nh. Không một nhà tại gia, không một thuyền đánh cá. Trùng trùng

điệp điệp núi rồi lại núi. Ngoài những ngôi chùa trang nghiêm lẫm liệt, c.n ẩn trong cây cao

lá thắm, không biết bao nhiêu những am nho nhỏ, vàng son vui vẻ, như những thiên thọ

vương nở hoa. Đâu đâu cũng chỉ thờ Phật bà Quán Thế Âm.

Từng đàn c. trắng bay qua. Bao la là những rừng mơ, cả ngàn cây số, hoa trắng muốt

màu tuyết, trái mịn vàng đỏ tươi, vị vừa ngọt vừa chua dịu dịu. Hoa cũng thơm, trái cũng

thơm. Đầu xuân toàn hoa, cuối thu trái chín. Hương thơm bát ngát ướp cả bầu trời. Dân gian

giản dị đặt tên cả vùng là núi thơm (Hương Sơn).

Mặt đất đầy rau sắng, l.ng đất sẵn củ mài. Vị ngon chất bổ hai thứ thổ sản đặc biệt chỉ Hương

Sơn có, để cúng dường người tu.

  1. TÍN NGUYỆN LỰC

Sách Thần Tăng chép : G. Vinh Kha rượu thịt nặng nề. Một hôm đọc V.ng Sanh

Truyện. Đọc xong một truyện, gật đầu một cái. Nhờ nhân lành này về sau đủ duyên tu hành.

Nghe Phật A Di Đà dạy : “Mười năm nữa ngươi sẽ được v.ng sanh”. Kha bạch : “Ta Bà uế

trược, chánh niệm dễ mất. Nguyện con sớm về Tịnh-độ, phụng sự Thánh Hiền”. Quả nhiên 3

hôm sau, Kha nhẹ nhàng v.ng sanh.

Tâm động một niệm là đ. gieo một hạt giống trong 10 pháp giới. Vậy mà có thể không

trân trọng mỗi khi khởi niệm sao ? Một tấc quang âm là một tấc đời sống. Vậy mà không mến

tiếc sao ? Niệm niệm chấp tr. danh hiệu Phật là không uổng phí tinh thần cũng không uổng

phí thời giờ. Làm phước cầu phước cũng là l.ng phí như đem bảo châu như . đổi lấy manh áo

chén cơm. Huống chi c.n buông lung ba nghiệp đến nỗi đọa lạc tam đồ, đau xót bao nhiêu !

Một niệm danh hiệu Phật tiêu 80 ức kiếp sanh tử trọng tội. Đ. về tới c.i Phật rồi, bao nhiêu

gốc ngọn sanh tử diệt hết. Đ. cùng các bậc thượng thiện chung hội th. chỉ một đời liền nhất

sanh bổ xứ. Xin qu. học giả để tâm chiêm nghiệm mà lựa chọn đường đi.

Một người nghèo xa nh.n thấy xâu tiền, vội tới nhặt. Nhưng cầm vào tay lại là con rắn,

vội vứt đi. Kẻ khác thấy tiền lấy xài. Ta thấy căn thân ngoại cảnh cũng như thấy tiền ra rắn.

Rắn duy tâm hiện mà cắn chết người. Tiền duy tâm hiện mà đem no ấm an vui cho người. Ta

Bà nhơ uế đau khổ, An Lạc vi diệu thanh khiết, đều duy tâm hiện. Nhưng khổ Ta Bà từ khổ

về khổ, không biết đến bao giờ mới hết khổ. C.n vui Tịnh-độ đi m.i về vui, cho tới ngày vĩnh

viễn an vui.

Kinh nói nghiệp lực khó nghĩ bàn. Nhưng nghiệp lực không tự tánh, toàn mượn tâm

mà có. Dùng trọng tâm tu tịnh nghiệp quyết định v.ng sanh. Như cổ đức có một vị mạng

chung, chư thiên đem âm nhạc tới rước. Ngài nhất định không đi, một l.ng niệm Phật cầu về

Tịnh-độ. Thân tứ đại lúc sắp phân tán, đau khổ biết ngần nào. Cảnh trời lục dục hấp dẫn biết

ngần nào. Nếu tin không sâu, nguyện không thiết, sức không kiên, ở hoàn cảnh này làm sao tự

chủ ?

Ta thường nghe nói : “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh-độ”. Cái tâm tánh này, Phật và

chúng sanh b.nh đẳng. Phật đ. ngộ tâm này như người tỉnh thức. Chúng sanh mê tâm này như

người đang chiêm bao. Hết chiêm bao, người mộng chính là người tỉnh. Ước về chỗ duyên

sanh vô tánh th. Phật và chúng sanh b.nh đẳng nhất không. Ước về vô tánh duyên sanh th. 10

pháp giới khác nhau một vực một trời. Vua A Dục lúc lâm chung, kẻ hầu cận làm rớt cái quạt

vào mặt. Vua nổi giận. Ngay niệm sân ấy tắt hơi đọa làm thân rắn. Một mụ ăn xin qua sông,

bị sẩy tay rớt con xuống nước. V. cố vớt con nên mẹ cũng chết ch.m. Niệm thương con đưa

mụ lên trời. Một niệm lúc lâm chung này không thể cầu may mà được. Hàng ngày TÍN –

NGUYỆN – HÀNH phải tập cho thuần thục để đủ lực đối phó với những bất ngờ. Những bất

ngờ dĩ nhiên phải có trong kiếp sống vô thường, vô ng. của chúng ta.

  1. LỜI NÓI TRONG GIÓ

Từ các trường học xa xôi cùng tột, lấp lánh trong ánh tuyết nước Nga cho đến các nóc

trường hẻo lánh, ẩn trong đồi xứ Ả Rập. Từ những ngôi đại học to lớn nước Anh, ở phương

Bắc, sinh hoạt trong sương mù đến những trường tiểu học bé con của lũ trẻ da đen Phi Châu

cháy nắng. Có tới triệu triệu đứa trẻ đang đi học. Những tổ kiến học sinh này, ngàn vạn dân

tộc khác nhau, đang phấn khởi tinh thần đi lên.

Ví phỏng một l. do g. khiến sự sinh hoạt này ngừng lại, th. đó là tai họa lớn cho quả

địa cầu, v. nhân loại sẽ trở về mọi rợ. Thế giới sẽ sa vào tối tăm. Hoạt động của học sinh là

tiến bộ, là hy vọng, là ánh sáng vinh quang của văn minh. Mỗi học sinh là một tên lính nhỏ

trong đạo quân hùng vĩ. Lấy sách vở làm khí giới. Trường học là quân đội. Coi ngu dốt là thù

địch. Văn minh nhân loại là khúc khải hoàn.

Hỡi các học sinh phấn đấu ! H.y cố gắng phấn đấu ! Như mặt trời phấn đấu, xóa tan

đêm tối, đem ánh sáng cho muôn loài.

Được đọc bài trên đây ở cuốn “Tâm hồn cao thượng”. Thầy choàng dậy, nghĩ tới mùa

hạ của chúng ta sắp chấm dứt.

Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng,

Tổ đường rực rỡ chánh pháp xương minh.

Chánh pháp của chúng ta xương minh chính nhờ mùa hạ !

— Các con có hôm nào để chút thời giờ suy nghĩ Hạ là g. không ?

— Phàm lập pháp nếu gắt gao th. ít người theo kịp. Nên thế gian mỗi năm có 12 tháng,

đức Phật chỉ bắt chúng ta 3 tháng quyết định phải an cư, thân tâm đều chuyên nhất. Phải ở

trong một đoàn thể đồng chí hướng, để cùng nhau sách tấn tu học. Ai không theo lệnh này gọi

là phạm giới. Chúng ta không an cư, không thể gọi là Tăng. Bởi v. an cư là Tu, là Chứng, là

nhập Thánh siêu phàm. Cho nên bao nhiêu người v. chúng ta mà bận rộn, Phật tử khắp các

nơi rủ nhau đem lễ phẩm, kính cúng dường người kết hạ.

Thương cho chúng ta đâu có biết, kể từ lúc tác bạch an cư, bách thần lo lắng giữ g.n,

các Bồ-tát đăm chiêu t.m phương tiện ủng hộ. Bởi v. mùa hạ này có thể vĩnh viễn xóa tên

chúng ta trên con đường dài sanh tử. Bởi v. mùa hạ này, chúng ta có thể vĩnh viễn không c.n

số phận phải làm thân ngựa ngậm hàm sắt, kéo xe đền nợ tín thí như những kiếp luân hồi sanh

tử vừa qua. Mùa hạ này, chúng ta có thể chuyển được địa vị. Đầu hạ c.n là phàm, cuối hạ đ.

chứng thánh quả, tất cả đều ở chúng ta. Nếu miên mật dụng công, không nhiều th. ít, chúng ta

sẽ có phần trên đền đáp hồng ân đức Phật, dưới đem mừng rỡ cho muôn loài.

C.n nếu cứ vẩn vơ, mặc cho mùa hạ trôi qua, tâm hồn chỉ để lo chấp ta, chấp người.

Một bụng chứa toàn tham sân si. Một lồng ngực thở ra tranh chấp, thở vào ta hay, th. hôm nay

tự tứ, mai Vu lan, chúng ta chỉ có phần một gói quà hay vài cuốn tập...

Viết tới đây, tu sĩ già bệnh mệt quá, phải trở về giường nằm, niệm đức Quán Thế Âm

cho tĩnh thần tĩnh trí.

Khỏe một chút, Thầy ngồi dậy cầm bút viết tiếp để gởi mấy con.

Đức Phật đại từ bi không bức thiết đệ tử. Một năm 12 tháng, ngài chỉ bắt buộc Tăng

Ni an cư 3 tháng. Ngoài ra tùy duyên tùy phước của mỗi người mà tự lo giải thoát. Chùa

chúng ta nhờ thiện căn phước đức, đại chúng được an cư cả 12 tháng. Nay 3 tháng hạ đ. lỡ,

vậy mùa Thu Đông sắp tới (chùa ta gọi là mùa y công đức), chị em ráng phấn đấu ! Cố gắng

phấn đấu !

Hỡi hỡi các vị đ. phát tâm Bồ-đề ! Chúng ta quyết tâm giác tỉnh, đẩy màn vô minh,

quyết đem thân ra khỏi miệng cọp sanh, già, bệnh, chết. Mỗi tu sĩ là một tên lính trong đạo

quân hùng vĩ ở khắp pháp giới của Như Lai. Kinh pháp là vũ khí. Chùa chiền là nơi rèn luyện.

Vô minh là thù địch. Giải thoát là khúc khải hoàn. Hỡi các học sinh phấn đấu ! Cố gắng phấn

đấu ! Mong rằng Giới Định Tuệ của các con đem ánh sáng cho muôn loài, suốt đời vị lai.

Mong rằng lời nói run rẩy này, xuyên qua được rừng cây kẽ lá, theo gió t.m đến tai các con.

Thầy viết ngày 22-6 âm lịch 1992

khi vừa ra khỏi bệnh viện Chợ Rẫy

  1. CHƯƠNG TR.NH TÁN HẠ

Mùng 8 : Tạ pháp và tạ ban chức sự.

Mùng 9 : Tác pháp sám ma.

10 - 11 : Từng cá nhân y luật sám hối.

12 - 13 : Từng cá nhân đối đại chúng thỉnh tự tứ. Từ lớn đến nhỏ tùy . cử lỗi.

Tối 13 : Lễ đức Đại Thế Chí Bồ-tát.

14 : Tác pháp tự tứ theo nghi lễ thông thường.

Sáng 15 : Đại lễ Vu Lan.

Chiều 15 : Chia vật Tăng.

Sáng 16 : Thọ y công đức.

Chiều 16 : Đại đàn thí thực.

17 - 18 : Khánh tuế giới sư.

  1. Ngày 13-7

LỄ ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

TÁN

Tánh giác linh minh,

Tịch chiếu chân thường.

Xưa mê nay ngộ thật tỏ tường.

Tam-bảo từ đường,

Đảnh lễ cúng dường

Một nén tâm hương.

Nhẫn độ, Thích Ca pháp tôn vương !

An Lạc, Di Đà đại nguyện vương !

Liên tông các Tổ tận lực hoằng dương.

Ao sen thơm ngát, hải hội Tây phương,

Duy nguyện giáng cát tường,

Pháp giới hằng thanh lương.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

— Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới A Di Đà Phật (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới, Phật Bồ-tát bao nhiêu kinh pháp, cho đến nước chim gió

cây... tất cả pháp âm, thanh tịnh pháp tạng (1 lễ).

— Nam mô đại thừa 48 nguyện, Vô Lượng Thọ kinh, mười phương 12 loại Tịnh-độ

pháp bảo (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ-tát (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ-tát (1 lễ).

— Nam mô An Lạc thế giới, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát (1 lễ).

* Liên tông sơ Tổ, Lô Sơn Đông Lâm, Bạch Liên đạo tràng, HUỆ VIỄN đại sư.

* Liên tông nhị Tổ, Trường An, Quang Minh đạo tràng, THIỆN ĐẠO đại sư.

* Liên tông tam Tổ, Nam Nhạc, Bát Chu đạo tràng, THỪA VIỄN đại sư.

* Liên tông tứ Tổ, Trường An, Ngũ Hội đạo tràng, PHÁP CHIẾU đại sư.

* Liên tông ngũ Tổ, Tân Định, Đại Nham đạo tràng, THIẾU KHƯƠNG đại sư.

* Liên tông lục Tổ, Hàng Châu, Vĩnh Minh đạo tràng, DIÊN THỌ đại sư.

* Liên tông thất Tổ, Chiêu Khánh, Tịnh Hạnh đạo tràng, TĨNH THƯỜNG đại sư.

* Liên tông bát Tổ, Hàng Châu, Vân Thê đạo tràng, LIÊN TR. đại sư.

* Liên tông cửu Tổ, Bắc Thiên Mục, Linh Phong đạo tràng, NGẪU ÍCH đại sư.

* Liên tông thập Tổ, Ngưu Sơn, Phổ Nh.n đạo tràng, HÀNH SÁCH đại sư.

* Liên tông thập nhất Tổ, Hàng Châu, Tiên Lâm đạo tràng, THẬT HIỀN đại sư.

* Liên tông thập nhị Tổ, Hồng Loa, Tư Phước đạo tràng, TRIỆT NGỘ đại sư.

* Liên tông thập tam Tổ, Tô Châu, Linh Nham đạo tràng, ẤN QUANG đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Vạn Đức đạo tràng, HÂN TỊNH đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Bồ-đề đạo tràng, TUỆ NHUẬN đại sư.

* Liên tông Việt Nam, Hương Nghiêm đạo tràng, THIỀN TÂM đại sư.

* Liên tông Việt Nam, tiền hiền hậu bối liệt vị Tổ sư.

SÁM HỐI

Quy mệnh mười phương Phật,

Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng,

Tam Thánh c.i Cực Lạc

Xin thương xót chứng minh.

Vô thủy kiếp đến nay,

Con mê lạc luân hồi,

Do bởi tham, sân, si,

Từ nơi thân miệng .,

Tạo 4 trọng, 5 nghịch,

Mười ác vô biên tội.

Nay đem tâm chí thành

Tỏ bày cầu sám hối.

Nguyện nhờ sức gia tr.

Chúng con đều thanh tịnh,

Phát đại Bồ-đề tâm,

Độ m.nh, người giải thoát.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Sám hối phát nguyện rồi, chí tâm đảnh lễ A Di Đà Phật biến pháp giới Tam-bảo (1 lễ).

. NGHĨA DANH

HIỆU ĐẠI THẾ CHÍ BỒ-TÁT

Đại : lớn, Thế : thế lực, Chí : đến.

ĐẠI THẾ CHÍ : là một bậc có thế lực lớn đến đây. Kinh dạy : Mỗi bước chân của Bồ-

tát rung động cả trái đất. Ngài đi tới đâu, tạng thức chúng sanh ở nơi đó liền bị rung động. Các

địa ngục, ng. quỷ, bàng sanh được giác tỉnh mà giải thoát khổ báo. Ánh sáng trí tuệ có m.nh

lực soi tan vô minh từ lũy kiếp.

Chúng ta đảnh lễ đức Quán Thế Âm thân tử kim muôn ức. Thân màu vàng kim rực rỡ

trang nghiêm là tướng phước báu đ. từ bi tầm thanh cứu khổ. C.n đức Đại Thế Chí Bồ-tát

được ca ngợi là thân trí sáng vô biên v. trí tuệ quang minh của ngài chiếu khắp pháp giới.

Đức Đại Thế Chí và đức Quán Thế Âm đều là pháp thân Bồ-tát, báo thân ở Cực Lạc thế giới,

hầu cận Phật A Di Đà. Các chùa thường thờ 3 vị gọi là Tây phương tam Thánh.

Kinh Bi Hoa : Vua Vô Tránh Niệm có 1000 con. Vua xuất gia sau thành Phật A Di

Đà. Các thái tử đều theo cha đi tu. Vị lớn nhất là Quán Thế Âm Bồ-tát. Vị thứ 2 là Đại Thế

Chí Bồ-tát.

Việt Nam thờ h.nh tượng đức Đại Thế Chí Bồ-tát, trên mũ có vẽ cái b.nh gọi là b.nh

Trí Tuệ. Tay cầm hoa sen v. ngài có nguyện tiếp người niệm Phật v.ng sanh Tịnh-độ.

Trong kinh Lăng Nghiêm, các Thánh tr.nh bày sự tu hành, có vị tu về căn mắt, có vị tu về căn

mũi. Đức Quán Thế Âm tu về căn tai, đức Đại Thế Chí tu về kiến đại nghĩa là cả sáu căn.

KINH LĂNG NGHIÊM

CHƯƠNG ĐẠI THẾ CHÍ NIỆM PHẬT

Ngài Đại Thế Chí, con đấng Pháp-vương, cùng 52 vị đại Bồ-tát đồng hạnh với ngài,

đứng dậy dập đầu lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng : Con nhớ xa xưa, có Phật ra đời, hiệu

ngài gọi là Phật Vô Lượng Quang. Mười hai Như Lai cùng nối ngôi nhau ra trong một kiếp,

Như Lai cuối cùng hiệu ngài gọi là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Ngài dạy con pháp “Niệm Phật

tam muội”. Ví như hai người : một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như

thế, dù có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau cũng như chẳng thấy. Vậy hai

người phải cùng nhớ tới nhau rất là thâm thiết, cứ như thế m.i, cho hết kiếp này, lại sang kiếp

khác, như bóng với h.nh chẳng hề rời nhau.

“Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn chạy,

  1. mẹ dẫu nhớ có làm g. được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời

xa nhau”. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau quyết định thấy Phật,

cách Phật chẳng xa. Chẳng nhờ đến pháp phương tiện nào khác, mà cũng khai ngộ được tâm

của m.nh. Như người ướp hương, thân có mùi hương. Pháp này gọi là “Hương Quang Trang

Nghiêm”. Chỗ bản nhân con dùng tâm niệm Phật vào vô sanh nhẫn. Nay ở c.i này, tiếp người

niệm Phật về nơi Tịnh-độ. Phật hỏi viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp tất cả

sáu căn, chuyên một tịnh niệm, nối nhau liền liền, được vào chánh định, ấy là đệ nhất.

— Niệm Phật – Hồi hướng – Tam quy.

  1. CHƯƠNG TR.NH TỰ TỨ

— Lễ Phật – Lễ Tổ.

— Đại chúng quỳ nghe giáo sắc của đại Tăng.

— Thông kiểm số chúng.

— Tụng kinh “Tự Tứ Thanh Lương”.

— Yết ma :

  1. a) Sai người thọ tự tứ.
  2. b) Bạch pháp h.a Tăng tự tứ.
  3. c) Yết ma nhận vải may y công đức.

Vấn h.a yết ma sai người chia vật. Đ. sai người rồi, không cần vấn h.a nữa, yết ma

giao vật để chia (xem Yết Ma Chỉ Nam).

— Đọc bài “. nghĩa tự tứ”.

— Thượng t.a đối thú tự tứ.

— Sư cô thọ sai cho chúng tự tứ.

— Đọc bài “Huấn từ tán hạ”.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

  1. KINH TỰ TỨ THANH LƯƠNG

Tôi nghe như vầy : Một thời Phật ngự tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc Lâm,

vườn Ca Lan Đa, cùng với 500 đại Tỳ-kheo đồng an cư mùa mưa.

Bấy giờ vào ngày 15 cuối hạ, đại chúng tự tứ thay v. bố tát. Tôn giả Xá Lợi Phất đứng dậy

sửa y, chắp tay bạch Phật :

Bạch Thế Tôn Vô-thượng Y Vương ! Ai chưa điều ngự Thế Tôn khiến cho điều ngự,

chưa tịch tịnh khiến cho tịch tịnh, chưa giải thoát khiến cho giải thoát, chưa đắc đạo khiến cho

đắc đạo, chưa tu tập phạm hạnh khiến cho tu tập phạm hạnh. Thế Tôn là bậc Trí Đạo, Giác

Đạo, Thức Đạo, Thuyết Đạo.

Chúng con là con của Phật, thọ sanh từ miệng Phật, hóa sanh từ pháp Phật. Phật dạy

chúng con : “Các Tỳ-kheo h.y nhắc nhở lẫn nhau, sám hối lẫn nhau”. Hôm nay ngày tự tứ,

l.nh thọ khuyến giáo, l.nh thọ khiển trách. Đệ tử chúng con vâng theo lời dạy, nhất hướng tu

hành. Do đây chúng con sẽ được tự tại như ., khéo biết r. chánh pháp.

Bạch Thế Tôn, đối với thân khẩu . hành của Xá Lợi Phất con, Thế Tôn có phiền g.

chăng ?

— Này Xá Lợi Phất ! Ta không phiền g. đối với thân, khẩu, . hành của Thầy. V. Thầy

đ. thành tựu Thật Tuệ. Ví như thái tử không trái phạm lời khuyên dạy, bái l.nh sự truyền thừa

của phụ vương và sau này có thể truyền thừa lại. Này Xá Lợi Phất, ta chuyển vận pháp luân,

Thầy cũng có thể chuyển vận pháp luân.

Này Xá Lợi Phất ! Ta không phiền g. về thân, khẩu, . hành của Thầy.

— Bạch Thế Tôn, ngài có phiền g. về thân khẩu . hành của 500 thầy Tỳ-kheo chăng ?

— Này Xá Lợi Phất, các Tỳ-kheo này đều đ. chứng đắc vô trước, dứt trừ các lậu,

phạm hạnh đ. vững, việc làm đ. xong, hữu kết đ. tận, gánh nặng đ. đặt xuống. Các Tỳ-kheo

này đ. đạt được thiện nghĩa chánh trí, chánh giải thoát. Này Xá Lợi Phất, ta không phiền g. về

thân khẩu . hành của 500 thầy Tỳ-kheo.

Tôn giả Xá Lợi Phất, lần thứ 3 chắp tay hướng về Thế Tôn : Bạch Thế Tôn ! Trong số

500 Tỳ-kheo đây, bao nhiêu vị đ. đạt tam minh, bao nhiêu vị đ. chứng đắc câu giải thoát, bao

nhiêu vị đ. chứng đắc tuệ giải thoát ?

— Này Xá Lợi Phất ! 90 vị đ. đạt tam minh, 90 vị đ. chứng câu giải thoát. C.n bao

nhiêu đều đ. được tuệ giải thoát. Trong chúng không có hạt lép, chỉ có toàn hột chắc.

Khi ấy tôn giả Bàng Kỳ Xá đứng dậy trịch vai áo chắp tay :

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn gia tr. cho con thêm uy lực ! Mong Thế Tôn gia tr. cho

con thêm uy lực ! Để ở trước Phật và đại chúng, con được tụng lời tán đúng nghĩa.

— Này Bàng Kỳ Xá ! Thầy cứ tùy ..

— Hôm nay ngày rằm tự tứ.

Hội tọa Tăng chúng 500,

Đoạn tận buộc ràng, kết sử

Đồng chứng vô ngại, vô sanh.

Thanh tịnh ngời quang minh

Giải thoát tất cả hữu,

Dứt sanh, l.o, bệnh, tử.

Lậu diệt, việc làm xong.

Trạo hối và nghi kết,

Mạn, hữu lậu đ. trừ.

Nhổ tuyệt gai ái dục,

Thành vô thượng y sư.

D.ng m.nh như sư tử,

Sợ h.i đ. dứt trừ,

Đ. vượt qua sanh tử,

Diệt lậu tận, vô dư.

Ví như Chuyển Luân Vương

Quần thần vây chung quanh,

Thống l.nh toàn trái đất,

Cả đại dương vô cùng.

Đấng đại hùng tối thắng

Bậc thượng trí thượng tôn,

Ai cung kính sẽ được

Tam minh, ngoài tử sanh.

Tất cả đại chúng đây

Phạm hạnh đ. thành lập,

Chuyển pháp luân vô thượng

Đảnh lễ đức Thế Tôn.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

  1. . NGHĨA TỰ TỨ

Tự là tự m.nh. Tứ là tha hồ. Trải thân đảnh lễ cầu thỉnh mọi người, hoặc thấy hoặc

nghe hoặc nghi, xin tận t.nh chỉ bảo. Ta biết lỗi sám hối, khiến thân tâm được hoàn toàn thanh

tịnh.

Nhân duyên : Một trụ xứ, chúng Tỳ-kheo an cư, tự đặt luật lệ, không cùng nhau nói, để

được tuyệt đối an tĩnh. Phật dạy : “Ngu si lấy hại làm lợi. Sống chung với nhau như oan gia.

Ta vô số phương tiện dạy các Tỳ-kheo phải dạy dỗ nhau, nghe lời nhau, giác ngộ lẫn nhau.

Nếu hành pháp câm, phạm đột-cát-la”.

Bọn Lục Quần liền cử tội thanh tịnh Tỳ-kheo. Phật dạy : Muốn cử lỗi ai, trước phải

cầu nghe, đến người đó phân tách minh định lỗi lầm. Nếu họ chịu sám hối th. thôi. Nếu không

nghe, mới cử tội.

Lục Quần lại đến thanh tịnh Tỳ-kheo cầu nghe. Phật bảo : Muốn cầu người ta nghe,

chính m.nh phải đủ 5 pháp :

1) Phải thời, không được phi thời. Không nên cầu người đang bệnh hoặc đang sân

nghe chỉ lỗi.

2) Chân thật không được hư dối. Thật có lỗi lầm, không do vu báng.

3) Lợi ích không dùng vô ích. Việc cần đáng nói mới nói, không lèm bèm vụn vặt h.o

huyền.

4) Mềm mỏng h.a nh., không dùng lời thô tháo, cứng xẵng.

5) Từ tâm không dùng sân giận, chân thật xây dựng không v. hiềm thù.

Các Tỳ-kheo đủ 5 pháp cầu Lục Quần nghe, Lục Quần không nghe. Phật dạy : “Từ

nay an cư xong, phải tự tứ”.

Cho ngăn tự tứ nếu phi pháp. Ngày tự tứ không nên cầu nghe, v. người tự tứ chính

đương thỉnh chỉ lỗi. Phật bắt buộc trước phải sám hối tất cả lỗi lầm cho thanh tịnh, rồi sau mới

tự tứ.

Nên chọn nơi đất trống, ngồi trên cỏ mà tự tứ. Ở đất trống nêu biểu sự thẳng thắn,

không che đậy tội lỗi. V. sao ngồi trên cỏ ? Đức Như Lai nửa đêm vượt thành xuất gia, vào

núi học pháp ngoại đạo, sáu năm khổ hạnh, chẳng được ích g.. Ngài bèn xuống sông Ni Liên

tắm rửa rồi lên gốc Bồ-đề ngồi kết già. Có tên Cát Tường đang cắt cỏ tại đó, thấy thế vội đem

dâng cỏ để ngài làm t.a ngồi. 49 ngày sau ngài chứng Vô-thượng Bồ-đề.

Chúng ta ngày nay căn tánh kém cỏi lười biếng. 90 ngày an cư đi qua, đ. không chứng

thánh quả c.n đầy lỗi lầm. Dù đ. sám hối vẫn trải cỏ ngồi trên đất trống, vâng lời Phật, sạch

l.ng, kính cẩn cầu người mắt sáng theo chỗ thấy nghe nghi chỉ r. những thiếu sót.

Rửa sạch ba nghiệp, sáu căn thanh tịnh, làm sao pháp nh.n chẳng khai mở để thân chứng diệu

tịnh minh tâm.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. HUẤN TỪ

NGÀY TÁN HẠ

Mùa hạ mưa nhiều, chư Tăng đi khất thực vất vả, ướt lạnh, có khi nguy hại tới sức

khỏe mạng sống. Lại thêm côn trùng sâu kiến sinh sản rất nhiều, khó tránh tội sát sanh. Nên

Phật dạy Tăng Ni mùa hạ phải nhóm họp một chỗ tịnh tu, y chỉ những bậc tiên giác thượng

tọa.

Ba tháng chuyên tu giới định tuệ. Thượng căn chứng quả, trung căn hàng phục phiền

n.o. Dù hạ căn mà giới luật thanh tịnh cũng tăng tấn đạo nghiệp. Nên Tỳ-kheo lấy kết hạ làm

tuổi, gọi là hạ lạp. Niên thiếu Tỳ-kheo chưa đủ 5 hạ phải y chỉ. Ai chưa đủ 12 hạ không được

phép làm Thầy. Trong khóa an cư, ai không được sự chấp thuận của đại chúng mà bước chân

ra ngoài đại giới, gọi là phá hạ, nghĩa là mất tuổi. Được phép ra đi mà trở về không đúng hẹn

cũng mất tuổi. Nên ngày rằm tháng bảy, lễ tán hạ là ngày Tăng nhận tuổi, là ngày khánh tuế

của thiền môn.

Cũng gọi là ngày Tăng tự tứ v. sau 3 tháng an cư, mỗi vị tự kiểm điểm m.nh để sửa

lỗi. Có một ngày sám hối chưa đủ, c.n phải đặc biệt thêm một ngày, thỉnh cả đại chúng, ai có

thấy nghe nghi điều g., cũng xin chỉ dạy, để như pháp sám hối. Thế th. toàn chúng hẳn phải

thanh tịnh. Đ. thanh tịnh hẳn được giải thoát. Được giải thoát là đáp đúng với bổn hoài độ

sanh của chư Phật. Nên ngày ấy c.n có tên là ngày chư Phật hoan hỷ.

Ai thanh tịnh luôn 3 tháng được thọ y công đức, được hưởng 5 quyền lợi đặc biệt. Nên

ngày thọ y công đức gọi là ngày thưởng thiện phạt ác.

Lại nữa, theo kinh Vu Lan, Phật dạy ngài Mục Kiền Liên phải đợi Tăng tự tứ, đem

cúng dường phẩm vật để cứu khổ treo ngược cho cha mẹ và cửu huyền thất tổ. Khổ treo

ngược là khổ địa ngục. Khổ địa ngục c.n cứu được huống chi các khổ khác. Nên ngày rằm

tháng bảy là ngày xá tội vong nhân. Ngày những người con cứu khổ cha mẹ v. được gặp

phước điền thanh tịnh. Nên có tên là ngày báo hiếu.

  1. 3 tháng an cư, công đức lớn như thế nên an cư là luật quan yếu. Tỳ-kheo không an

cư, dù trọn đời cạo tóc đắp y tr. giới, vẫn gọi là phá giới. Nhóm họp an cư mà không kỷ luật

chân chính, gọi là tặc trụ, tội không nhỏ. Tỳ-kheo dù thông hiểu Phật pháp, dù đ. chứng quả

mà chẳng an cư, cũng phạm tội không kính thánh giáo.

Chúng ta từ lịch kiếp nghiệp chướng nặng nề, đ. trôi lăn m.i trong tam đồ lục thú.

Nay nhờ thiện duyên được gặp Phật Pháp Tăng, được xuất gia, biết phát tâm Bồ-đề. Lại đủ

phước viên m.n 3 tháng an cư. Chúng ta nên tự khánh tự mừng, phấn khởi trên con đường tự

giác, giác tha, cho bản thân giải thoát, cho cha mẹ lục thân mong nhờ, cho quốc gia x. hội

nương đức, cho xứng đáng ngôi lục h.a thanh tịnh. Trong kinh Vu Lan, Phật đ. đích chỉ Tăng

già là nơi trông cậy độc nhất của vạn loài.

  1. LỄ VU LAN

SÁNG

  • Tụng kinh Vu Lan.
  • Diễn từ bạch lễ Vu Lan.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trong khung cảnh trang nghiêm của đạo tràng Liên Hoa, con xin phép tr.nh bạch

những cảm nghĩ về lễ Vu Lan, một ngày lễ trọng đại của Phật giáo.

Cách đây hơn 2500 năm, thái tử Tất Đạt Đa, v. thấy 4 cảnh khổ sanh, già, bệnh, chết

đ. quyết tâm xuất gia t.m đạo, một trường hợp thoát tục phi thường, có một không hai trong

lịch sử.

Sau khi phấn đấu m.nh liệt với bao gian khổ, đơn độc tham thiền nhập định trên núi

Tuyết, ngài đ. giác ngộ đạo giải thoát.

Suốt 49 năm thuyết pháp, ngài căn dặn các đệ tử lấy giới luật làm Thầy. Ngài để lại

cho thế gian một kho tàng pháp bảo thâm sâu, vi diệu. Nhờ đây tất cả chúng sanh, kẻ c.n

người mất, đều được hướng dẫn lên đường an vui lợi lạc.

Hai giáo l. nghiệp báo và tái sanh, có liên hệ mật thiết với nhau. Đời sống hôm nay là

kết quả của những hành động quá khứ. Tương lai sẽ là kết quả của những hành động hiện tại.

Trong bức tranh 12 nhân duyên. Phật dạy khoen “HÀNH” vẽ ông thợ đồ gốm đang nặn chiếc

b.nh. B.nh là kết quả theo . muốn của ông thợ, theo hai bàn tay khéo léo hoặc vụng về của

ông mà hiện ra. Nghiệp cũng vậy, thường xuyên thay đổi theo tâm biến hóa : Một ác nhân

ngày hôm nay có thể trở thành thánh nhân ngày mai. Một người tốt có thể v. một l. do nào

đó, trở thành tội nhân.

D.ng sông nghiệp lực c.n được cung cấp bằng những khối nước bùn lầy tham sân si,

c.n tiếp tục chảy. Tái sanh là kết quả tất nhiên của nghiệp lực. Ví như ánh sáng đèn điện,

bóng đèn vỡ, ánh sáng tắt, nhưng v. điện lực không mất, nên ánh sáng sẽ trở lại với một bóng

đèn khác. Thân chúng ta dù tan r., nghiệp lực c.n tồn tại, hẳn c.n tái sanh. V.ng luân hồi chỉ

ngừng khi ta không tạo nghiệp.

Tóm lại quả khổ chuyển theo nghiệp, nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng con

tâm là hết khổ. V. thế chỉ có ánh sáng giác ngộ của Tam-bảo là cứu tinh độc nhất của muôn

loài. Tam-bảo thường trụ ở thế gian nhờ Tăng Ni kế tiếp truyền đăng. Chúng sanh nương

Tam-bảo thoát khổ, tiến lên quả vị Thánh Hiền cho đến thành Phật. V. vậy trong kinh Vu

Lan, Phật đích chỉ : Tăng chúng h.a hợp thanh tịnh tự tứ, là năng lực duy nhất có thể cứu khổ

tam đồ và mở cửa giải thoát cho cả lục đạo luân hồi.

Lễ Vu Lan làm sáng tỏ chân l. “Nhất thiết duy tâm tạo”. Công đức chư Tăng thanh

tịnh cùng với tấm l.ng hiếu thảo chí thành của Phật tử chúng con, cảm thông đến những tâm

hồn đau khổ. Khiến cha mẹ tổ tiên chúng con chuyển tâm niệm, hướng về đường thiện mà

thoát khỏi h.nh phạt của nghiệp báo, tiến dần lên Thánh vị. Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, từ

lực và nguyện lực của Tăng Ni cũng vi diệu không tận.

Hôm nay ngày rằm tháng bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng tự tứ. Phật tử

chúng con tụ hội về đây, thành kính dâng lễ phẩm cúng dường Tam-bảo, ngưỡng mong cha

mẹ hiện đời tăng thêm phước thọ, cửu huyền thất tổ thoát cảnh luân hồi. Bản thân chúng con

cùng với gia đ.nh thân quyến cũng nương phước báo này mà tiêu tai giải nạn, kết duyên Bồ-

đề.

Trước khi dứt lời, chúng con xin chí thành cầu nguyện mười phương Tam-bảo gia hộ

cho toàn thể Tăng Ni Phật tử, Bồ-đề tâm kiên cố, Phật sự viên thành, để dắt dẫn chúng con

bắc nhịp cầu giải thoát cùng về c.i Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả tác đại chứng minh.

NI TĂNG CHÚC NGUYỆN

Toàn chúng quỳ tụng : “Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề câu chi nẩm, đát điệt

tha. Ám, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa bà ha” (108 biến từ chữ Ám...).

  1. việc g. bố thí,

Ắt sẽ được như ..

Như v. vui mà thí,

Sau ắt được an vui.

Quy y mười phương tận hư không giới nhất thiết thường trụ Tam-bảo.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

Nam mô Dược Sư hải hội Phật Bồ-tát, nhất thiết Hiền Thánh Tăng. Từ bi

chứng minh công đức cho mười phương Phật tử, đ. tuân phụng Như Lai di giáo. Nhân

ngày chúng Tăng tự tứ, làm lễ Vu Lan, dâng y và cúng dường phẩm vật, cùng hương

trà hoa trái, hồi hướng công đức về cha mẹ hiện tiền, quá khứ phụ mẫu, cửu huyền thất

tổ, lịch kiếp thân duyên, nội ngoại gia tiên, lục thân quyến thuộc. Rộng cùng mười

phương trăm họ, đồng tiêu tội chướng, đồng thoát khổ luân, đồng sanh An Lạc, đồng

thành Phật đạo (3 lần).

Chuyển . thức phân biệt hư vọng,

Xoay trở về bản tánh viên minh.

Thường trụ tâm địa quang hiển phát

Như nước đục lóng thành trong sáng

Kết quả chứng được đại thần thông.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả (3 lần).

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

Nam mô tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia chúng

(1 lễ).

Nam mô thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia chúng

(1 lễ).

Nam mô Tỳ-kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia chúng (1

lễ).

SỚ TIẾN LỄ VU LAN

SÁCH DẠY :

Tiết Vu Lan trăng tỏ,

Ngày Tự Tứ thanh lương.

Thiết trai đàn cầu cha mẹ hiện tại b.nh an. Dâng sớ tấu độ tổ tiên siêu thăng Phật cảnh.

Câu “dương khánh” một l.ng mong tưởng.

Chữ “âm siêu” trông đợi phước duyên.

Khiến nhà nhà an lạc như nguyền.

Mong chốn chốn b.nh yên toại ..

CHÚNG CON KÍNH NGHE

Động chân cất bước mỗi sát na tạo tội muôn vàn. Tham sân si mạn, mỗi sơ sẩy gây

oan lũy kiếp. Từ vô thủy đ. tạo bao ác nghiệp. E lai sinh c.n thiếu thiện nhân.

Ơn Phật Tổ mở hội Vu Lan,

Mỗi năm dạy lập đàn xá tội.

Trước bệ ngọc lạy cầu sám hối,

Đối liên t.a đèn nến trang nghiêm.

Trượng Phật thừa nương đức từ bi,

Cầu Tăng chúng dắt về giác đạo.

DUYÊN NAY

Ni chúng Liên Hoa 3 tháng hạ tinh tấn công phu. Đầu tháng 7 tụng kinh sám hối, tuần

trung nguyên khiêm thân tự tứ. Lại kính vâng kim ngôn ngọc luật, mở hội Vu Lan. Cả hai

chúng xuất gia tại tục vâng lời di giáo, tụ hội về chùa, thiết lập trai đàn, sửa lễ cúng dường.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

— Nam mô thập phương thường trụ Tam-bảo kim liên tọa hạ.

— Nam mô Ta Bà hải hội Phật Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô Tây phương An lạc thế giới Phật Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát kim liên tọa hạ.

— Nam mô tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia

chúng.

— Nam mô thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia

chúng.

— Nam mô Tỳ-kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia

chúng.

KÍNH MONG

Liệt Tổ cảm thông, Thánh Tăng chiếu giám.

Đức lục h.a cứu khổ trầm luân,

Thanh tịnh giới vớt d.ng lục đạo.

Bát bộ gia tr., thiên long ủng hộ,

Khiến vong giả tội khiên diệt sạch

Và người c.n cát khánh tam đa.

Mong gia tiên tắm gội liên tr.,

Cầu cha mẹ quay về bát đức.

LẠI CHẠNH NGHĨ

Trên đời biết bao tóc bạc da mồi không con dưới gối,

Dưới âm 36 loại quỷ thần ai kẻ xót thương,

Địa ngục giờ này vạc dầu sôi lửa cháy,

Ngay đến c.i thiên đường chưa thoát khổ mê say.

Chúng con học Mục Liên, Địa Tạng,

HIẾU chính Phật tâm, NHÂN là Phật hạnh.

Nên dâng sớ nguyện cầu âm siêu dương thái.

Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển.

Để từ nay oan kết băng tiêu,

Chung cộng hưởng thái b.nh Tịnh-độ.

Việt Nam an lạc ! Thế giới thanh b.nh !

Trăm lạy khấu đầu dâng sớ.

Ngưỡng mong Tam-bảo chứng minh.

  1. KHÁNH TUẾ

THẦY (1992)

Kính bạch Thầy !

Những tưởng rằng chị em chúng con sẽ m.i m.i không bao giờ c.n Thầy nữa, như đàn

chim non sắp mất mẹ hiền, bao nhiêu lo lắng bàng hoàng bên giường Thầy bệnh. Nhưng

phước đức thay ! Mười phương chư Phật, Bồ-tát đ. thấu nghe lời thống thiết nguyện cầu của

chúng con mà thầm cảm ứng. Hôm nay Thầy thật sự ở lại với chúng con. C.n Thầy là c.n tất

cả. Sau cơn mưa trời lại sáng, cảnh trí tưng bừng, hoa lá xanh tươi hơn, gió núi r. rào như

cùng chia sẻ niềm hân hoan với chúng con.

Thầy đ. 39 tuổi đạo là 39 bước vững vàng chắc chắn, trên con đường giác ngộ giải

thoát. Mùa hạ năm nay, Thầy bị sốt rét nặng. Chị em chúng con ít được học kinh trong lớp.

Nhưng nơi thân giáo, mỗi cử động của Thầy trên giường bệnh, chúng con đ. học rất nhiều,

nhất là khả năng tự trị, Thầy vẫn miên mật công phu, chiếu soi 5 uẩn là không, hàng phục thọ

ấm. Đến nỗi ngay trong mê sảng, Thầy toàn giảng Bát Nh. Tâm Kinh.

Ba tháng trôi qua nhanh chóng, chúng con có người được phước sớm tối hầu Thầy, có

người ở trụ xứ xa...

Hôm nay giờ phút trang trọng này, chúng con kính dâng lên Thầy 39 bông sen thơm

ngát như 39 tuổi đạo hương quang trang nghiêm và 10 ngọn đèn để cầu chúc Thầy sớm viên

m.n 10 ba la mật.

Một lần nữa chúng con xin thay mặt tất cả huynh đệ, từ đồng bằng đến cao nguyên,

Việt Nam cũng như hải ngoại, hân hoan đồng thanh cầu chúc Thầy của chúng con sẽ như đức

Quán Thế Âm.

“Ngàn xứ cần cầu ngàn xứ ứng,

Biển khổ thả thuyền vớt chúng sanh.

Diệu ứng thần hóa khó đo lường

Tùy cơ thuyết pháp đồng giải thoát”.

Toàn thể chị em chúng con dập đầu đảnh lễ kính mừng h.a nam bách bái.

  1. ÂN ĐỨC TAM SƯ

Lễ Vu Lan mở ra cho nhân loại một mùa báo hiếu. Cha mẹ thế gian có công sanh

dưỡng tấm thân giả tạm, Phật c.n dạy mỗi năm phải có một ngày đặc biệt thiết thực báo ân.

Huống chi giới thân tuệ mạng, chúng ta lại lơ là không nghĩ tới người sanh dưỡng hay

sao ?

Hôm nay ngày tốt đẹp khai khóa tu này, chúng ta nên cùng nhau nhớ tưởng ân đức tam

sư.

Thầy BỔN SƯ mở l.ng đạo, cho ta thọ hưởng ân lành ngôi Tam-bảo. Đối với ngài ta

phải hết l.ng yêu mến, trọng kính như đấng cha lành chí ái chí thân.

Đưa ta lên ngôi vị Tăng bảo, dẫn dắt ta đặt chân cất bước trên đường tu hành là công

đức của GIỚI SƯ. Nhờ Giới sư ta được trang nghiêm đạo hạnh, giới phẩm triêm thân. Nên

bổn phận chúng ta phải tuân thừa luật học, đỉnh đới phụng tr.. Đây là chân thật báo ân.

Thầy PHÁP SƯ giác mê khai ngộ. Đời tu hành chúng ta tươi sáng, trí đức chúng ta

tinh nghiêm, đều nhờ ngài trau dồi hun đúc. Bao nhiêu tâm huyết hao tổn, bao nhiêu công lao

khó nhọc, Thầy mới d.u dắt được chúng ta ra khỏi rừng gai vô minh rậm rạp, đưa chúng ta lên

cảnh giới quang sáng giải thoát. Là sứ giả của Như Lai, giáo hóa không màng danh lợi, Thầy

bá thí thời giờ sức khỏe, Thầy bá thí cả tâm hồn. Chúng ta ngày nay noi theo con đường Thầy

đ. vạch sẵn, đâu được không tận t.nh kính cẩn học hành, trên đền bốn ân, dưới cứu muôn loài,

hầu mong đáp ơn giáo dưỡng trong muôn một.

Đối với 3 ngôi Thầy, nếu đủ nhân duyên được hân hạnh thân cận, chúng ta phải hết

l.ng phụng sự. Oai nghi tế hạnh, ba nghiệp không buông lung, gương mặt tươi tỉnh, mắt tai

lanh lẹ, đón biết . Thầy, thuận theo nhan sắc. Nếu để Thầy nói nhiều, vừa nhọc sức Thầy, vừa

tổn đức m.nh. Thầy có điều quở trách, ta nên vui vẻ tạ ơn, không hiện tướng chống trái.

Ba ngôi Thầy là nhà cửa che mát, ruộng vườn nuôi sống giới thân tuệ mạng chúng ta.

Các ngài là nguyên soái trong mặt trận chống vô minh, phiền n.o ma quân. Tất cả các pháp

lành ở thế gian đều nhờ ơn qu. ngài gieo giống. Nền đạo đức trang nghiêm của nhân loại

chính từ bàn tay trăm phước của qu. ngài an bài. Cho nên dầu thế nào, ta cũng phải một l.ng

biết ơn. Nếu như ta trái bước lùi lại th. thật là một điều đáng ân hận.

Miễn là chúng ta thành tâm cung kính qu. mến phụng sự 3 đấng Tôn sư, c.n các

phương thức sự tướng th. tùy duyên. Gần Thầy, chúng ta được nghe những điều chưa nghe,

được huân tập những nết chưa có. Như vậy chúng ta vừa tr.n bổn phận đối với Thầy mà riêng

m.nh lại được bội phần lợi ích.

Ngoài ra Tăng già là một trong 3 ngôi Tam-bảo. Đối với liệt vị Tăng Ni, chúng ta tuy

không thọ ân riêng, nhưng v. qu. ngài hạnh đức giới phẩm đáng ngôi Thầy cả c.i trời người,

nên chúng ta phải cung kính phụng thờ. Mỗi khi có nhân duyên hầu tiếp, chúng ta nên thành

thật tr.nh bày chỗ c.n nghi trong đạo l., xin được học thêm. Qu. ngài từ xa đến tạm trú,

chúng ta nên liệu biện chu đáo tất cả các nhu dụng, cung kính tôn thờ, như đối với Thầy

chúng ta không khác.

Và sau nữa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chị em chúng con một l.ng thành kính biết ơn

Sư cô trụ tr. cùng toàn ban chức sự. Rộng ra mỗi mỗi chấp tác, quét nhà, bổ củi, v.v..., đều là

công vụ thiền môn ân. Những bàn tay chung góp xây dựng cảnh giới An Lạc tương lai cho

chúng con. Chúng con phát nguyện biết ơn và nỗ lực đền ơn. Cho nên hàng năm ngày Vu

Lan, chúng con sung sướng được đảnh lễ khánh tuế.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CHÚC THỌ QU. CỤ

Vinh dự biết bao chùa chúng ta được tổ chức lễ chúc thọ qu. cụ.

Hạnh phúc bao nhiêu, chùa Hương Sen chúng ta có đến 16 bậc l.o thành đ. quá tuổi

mà người đời gọi là “cổ lai hy”. Hơn tuổi Thầy có cụ Tỳ-kheo-ni Hạnh Lâm 94 xuân xanh.

Trẻ nhất là Ni sư Thể, Ni sư L., tuổi đ. gần 70 nhưng ở trong hội trưởng l.o, qu. ngài c.n

tươi như hoa sen mới nở.

Vinh dự biết bao cho đàn hậu học chúng con được sum vầy dưới gối. Lịch đại tiền

hiền hậu bối truyền bá đạo giải thoát. Trải 3000 năm cho tới ngày nay, lại nhờ công ơn qu. cụ

đem thân làm nhịp cầu tiếp nối. Bàn tay một đời vâng giữ ngọn đuốc chánh pháp quang minh,

nay đ. đốm da mồi. Mái đầu bao năm lao nhọc tinh thần trong mặt trận chống vô minh phiền

n.o, nay nhuộm màu bạc trắng và gối mỏi răng long, qu. cụ vẫn d.ng m.nh trên con đường

về c.i Phật.

Hương Sen ngào ngạt tỏa khắp gần xa. Qu. cụ tay lần tràng hạt, miệng niệm Nam mô

không ngớt. Mỗi ngày 4 khóa lễ cầu v.ng sanh, chuông m. vang vang khắp rừng sâu núi

thẳm. Hồng chung chiêu mộ, học luật sớm chiều...

Hôm nay hậu học chúng con đảnh lễ Phật Tổ, thành kính dâng lên qu. vị trưởng l.o

của gia đ.nh Hương Sen niềm tri ân. Qu. ngài vừa là những bậc Thầy đạo sư của chúng con,

vừa là những tấm gương tinh tấn cho chúng con.

Trẻ thơ c.n sơ sanh trong đạo Thánh Hiền, chúng con nguyện cầu qu. cụ trường thọ

để đàn con dại dài lâu núp bóng. Và bên trời An Lạc phương Tây, đức Quán Âm, Thế Chí

đang tô điểm những đóa sen trăm báu, đợi chờ mai đây, toàn thể gia đ.nh Hương Sen ta

thượng phẩm giác khai.

Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

MỞ CỬA TÂY PHƯƠNG

Mở cửa Tây phương,

Cung thỉnh qu. cụ đi về, đi đi về.

Bên Tây phương vui tươi (2 lần).

Hằng nghe loài chim nói pháp.

Mau mau đi lên (2 lần).

Khỏi v.ng tử sanh (2 lần).

Đến cảnh Tây phương,

Vui vẻ an lạc bốn mùa, bốn bốn mùa.

Đi sang bên Tây phương (2 lần).

Đầy hoa mùi hương thơm ngát.

Trong ao hoa sen (2 lần).

Trắng vàng đỏ xanh (2 lần).

Dưới đáy ao hoa sen

Lót những thủy ngọc xà cừ, xà xà cừ.

Bốn phía trên ao sen (2 lần).

Bao nhiêu hào quang chiếu sáng.

Đua nhau tuôn ra (2 lần).

Trắng vàng đỏ xanh (2 lần).

Nhớ thuở xưa kia,

Biết bao người đ. sinh về, sinh sinh về.

Đức Thích Ca Mâu Ni (2 lần).

Không hỏi mà ngài tự nói.

Muốn cho nhân sinh (2 lần).

Đặng về c.i Tây (2 lần).

Thích Ca Mâu Ni

Quyết tâm độ tận phen này, phen phen này.

Những ai muốn sanh (2 lần).

Th. mau tr. danh đức Phật.

Hay thay ! Hay thay ! (2 lần).

Thoát v.ng tử sanh (2 lần).

Hết thảy con em

Tâm . cung kính vui mừng, vui vui mừng.

Nào c.n có bao lâu (2 lần).

Qu. cụ hào quang sáng chói.

Bay lên trên hư không (2 lần).

Vang đầy trống chuông (2 lần).

Lúc đến Tây phương,

Chư thánh trỗi nhạc rước vào, rước rước vào.

Ôi Tây phương vui thay (2 lần).

Cầu xin về bên c.i ấy.

Thánh tăng hân hoan (2 lần).

Đón mừng những ai, phát nguyện v.ng sanh.

Hôm nay Hương Sen

Qu. cụ niệm Phật chuyên cần, chuyên chuyên cần.

Chúng con kính dâng (2 lần).

Tràng hoa hương thơm tinh khiết.

Trông mong mai sau (2 lần).

Qu. cụ v.ng sanh, thượng phẩm hóa sanh.

(Dành riêng cho các thiếu nhi đầu c.n để chóp trái đào múa hát mừng qu. cụ).

— Dâng quà khánh tuế qu. cụ.

  1. HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT

Liên Tông Bảo Giám dạy : “Hiếu đứng đầu trăm hạnh”. Hiếu là tâm Phật, dưỡng là

hạnh Phật. Muốn được hạnh Phật phải biết thảo nuôi cha mẹ.

Trường Lư Di thiền sư dạy : “Hiếu là cửa mở ra vạn diệu”. Kinh lấy Hiếu làm tông.

Luật lấy Hiếu làm giới.

Hiếu tại gia là cha mẹ thương không lờn, khi cha mẹ ghét không giận, thuận theo nhan

sắc mà phụng thờ.

Hiếu xuất thế gian là tinh tấn giới định tuệ, đem công đức hồi hướng song thân. Chẳng

những lợi ích cho cha mẹ về sau mà hiện đời này, cha mẹ cũng được b.nh an thêm thọ.

Như Lai nửa đêm vượt thành, sáu năm khổ hạnh mới có cái phước lên trời nói pháp độ

cho mẫu thân. Một bậc Thế Tôn vua chúa cúi đầu lễ dưới chân, ngài c.n về hộ niệm vua Tịnh

Phạn lúc cuối cùng khiến trước khi tắt thở, vua chứng quả Tu-đà-hoàn. Lại đích thân cùng

Anan, Nan Đà và La Hầu La, 3 vị A-la-hán, khiêng linh cữu, để cho người xuất gia về sau,

đừng lầm cậy m.nh đ. xuất thế mà coi thường ân đức cù lao.

Tổ Huệ Năng có 10 lạng bạc cúng mẹ hết rồi ra đi học đạo. Tổ Tất Lăng gánh cha mẹ

đi học. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn làm nhà riêng thờ mẹ, để tạ cái ơn 6 năm nhẫn khổ cưu mang.

Ngài Trần Lục Châu dệt dép bán để nuôi mẹ già. Rạng Pháp sư c.ng mẹ đi giảng pháp.

Chính bởi v. đứng hàng Tăng bảo, làm Thầy c.i trời người nên mới đủ trí tuệ biết ơn đền ơn.

Càng xuất thế càng không quên bổn phận con người. Sách dạy : Con quạ ở rừng sâu,

ngày kiếm mồi về nuôi mẹ, tới khi mẹ chết, quạ vẫn đem mồi về, gọi mẹ suốt đêm thâu.

Người tại gia độ cho cha mẹ đỡ cái khổ thân xác thịt hành hạ, người xuất gia độ cho

cha mẹ thoát khổ luân hồi.

Hôm nay đại chúng Liên Hoa, người người đều biết r. bổn phận này. Sau 3 tháng an

cư kết hạ, vâng lời Phật dạy, mỗi năm một lần, hàng Phật tử xuất gia làm lễ đại sám hối, đảnh

lễ mười phương Tăng cầu tự tứ, và nhân đây mở hội Vu Lan.

Thỉnh mời cha mẹ về chùa dự lễ. Kính dâng tràng hoa tỏ tâm hiếu hạnh, noi gương

Phật Tổ.

TRÀNG HOA HIẾU HẠNH

Trong cảnh trang nghiêm của tùng lâm Liên Hoa ngày Vu Lan, chúng con vô cùng xúc

động, tâm hân hoan mà nước mắt tuôn rơi, chúng con cảm động bái l.nh tràng hoa.

Hân hạnh bao nhiêu cho gia đ.nh chúng con đ. nẩy nở được mầm Bồ-đề, con của

chúng con ngày nay, dự hàng Tăng bảo ở địa vị chúng trung tôn.

Tâm hoa tươi nở,

Trồng trong vườn tuệ.

Tưới nước từ bi,

Tỏa hương công đức.

Phật dạy : “Làm thân lạc đà chở nặng đi xa chưa phải là khổ, ngu si không biết hướng

đi mới thật là khổ”. Gia đ.nh chúng con được Thầy dung nạp vào hàng đệ tử, đ. được giải

thoát một phần nào nỗi khổ thứ nhất ấy. Nhờ ân trời biển của Tam-bảo, chúng con đ. hiểu

được . nghĩa cuộc đời. “Thân này chẳng phải ta, chẳng phải của ta. Vạn vật có đấy rồi mất

đấy. Chỉ có tánh Phật là thường trụ. Từng giờ từng phút giữ g.n thân miệng . thanh tịnh để trở

về bản tánh chân không...”.

Qu. Sư cô đang đi lên, bỗng nhiên Thầy gọi : “Nhớ lại cha mẹ c.n đang chơi vơi

trong trần lụy”. Và nhắc nhở : “Đừng lầm cậy m.nh đ. xuất thế mà coi thường ân đức cù lao”.

Thật vậy ! Hàng tại gia Phật tử chúng con tuy đ. biết phá vô minh để chuyển nghiệp là

cần thiết, nhưng vô cùng yếu đuối lại nặng trần lao, bao nhiêu phiền n.o từ ngàn đời đ. nung

nấu tâm gan.

Giữa cảnh đời bơ vơ lạc l.ng, biết bao ưu tư phiền muộn, tiếng chuông giác ngộ từ

chùa Liên Hoa vọng ra giữa các nẻo đường đầy gió bụi.

Bầu không khí nặng nề những lo âu. Không gian như mờ tối v. mây mù tham sân si.

Ánh sáng từ chánh điện Liên Hoa tỏa ra hùng dũng như ánh sáng mặt trời, đem lại niềm tin và

hy vọng cho những người đang lạc l.ng trong đêm tối phân vân.

Phật tử chúng con nguyện mười phương Tam-bảo gia hộ, m.i m.i đủ duyên lành, nội

ngoại đồng khí liền cành, cao thấp trước sau quyến thuộc, nguyện đều phát tâm xuất thế. Xưa

kia mỗi kẻ một đường. Nay cầu đồng về Lạc Bang.

Chúng con nguyện noi gương cổ nhân, một tấm l.ng son phụng sự Tam-bảo. Nguyện

tu học nghiêm minh để góp phần an vui giải thoát cho bản thân gia đ.nh và x. hội.

Chúng con xin chân thành đảnh lễ kính chúc Thầy cùng đại chúng thân tâm an lạc, pháp thể

khinh an, rộng độ quần mê, đồng thành Phật đạo.

Nam mô Hoan Hỷ mười phương Phật.

Phật tử Đinh Việt Thành

pháp danh Chánh Pháp.

Mùa Vu Lan năm 1982.

  1. TIẾNG NÓI CỦA GÀ

Dù có để bao nhiêu trứng trong ổ cho gà ấp, con của chúng tất cả đều nở ra một lúc.

Thiên nhiên đ. quan tâm đến điều này : đàn con xuất hiện đồng loạt, mẹ dễ trông coi và bảo

vệ. Tuy nhiên trong một thời gian dài, người ta không t.m ra được bí quyết của sự đồng bộ

này.

Alêchxanđrơ Tikhônôp, cán bộ khoa học chính của khoa sinh vật trường Đại học Tổng

hợp Matxcơva, đ. ngồi nhiều giờ trong ph.ng cách âm và nghe, theo đúng nghĩa của từ này,

tiếng nói của các quả trứng. Th. ra các phôi thai truyền cho nhau qua vỏ trứng những tín hiệu

âm tần. Tới một giai đoạn phát triển nhất định, phôi thai nào khỏe nhất sẽ phát ra đầu tiên

những tiếng lách tách. Nghe thấy tiếng của nhà “l.nh đạo”, các anh em cũng bắt đầu kêu lách

tách. Như thế có nghĩa là chúng cũng bắt chước chuyển sang thở bằng phổi. Việc này làm

tăng tốc độ phát triển và h.nh thành của chú gà con tương lai.

Trong máy ấp trứng, “một ổ” là 8 - 9 ngàn quả trứng, đẻ ra trong những lúc khác nhau.

Tạo ra cho chúng một nhịp độ phát triển nhất định là một . nghĩ hấp dẫn : các con gà nở cùng

một lúc sẽ làm đơn giản rất nhiều qui tr.nh nuôi gà.

Alêchxanđrơ Tikhônôp đ. cộng tác với các nhà động vật học, các kỹ sư và kỹ thuật

viên vô tuyến điện. Họ đ. tạo ra một tổ hợp kỹ thuật sinh vật của các máy tạo sóng âm tần.

... Trứng nằm trong máy ấp tới ngày thứ 17, khi phôi thai đ. có thể nghe được, người ta cho

thiết bị vô tuyến điện tử chạy. Nó phát ra những âm lách tách mạnh và khẩn thiết. Trong các

máy ấp thông thường gà con nở ra suốt trong mấy ngày. C.n ở đây chúng theo “lệnh” và đồng

loạt rời khỏi vỏ trứng chỉ trong cùng một ngày. Chúng tức th. rời khỏi ổ và chạy theo tiếng

gọi của con gà điện tử.

Bây giờ cần tách riêng gà mái gà trống. Người nuôi gà biết rằng đây là một công việc

tỉ mỉ đ.i hỏi rất nhiều công sức. Thiết bị “giải tần”, cũng là một công tr.nh mới của các nhà

bác học và kỹ sư, giúp giải quyết vấn đề này, chỉ trong mấy giây và không sai sót. Chỉ cần gà

con kêu một tiếng trước micrô. Th. ra gà trống có giọng kêu “thấp” hơn, nhưng chỉ có máy

thật nhạy mới phát hiện được sự khác nhau đó. Những nhà am hiểu cho rằng gà mái rất ưa

kêu. Số “từ” của chúng chứa tới 25 âm. Máy kích thích phát triển âm học “Brôile”, phát ra

một số các tín hiệu này, như các tín hiệu an thần và các tín hiệu gọi đi ăn, làm cho gà con ăn

ngon miệng.

Tất cả các thiết bị đ. được chế tạo ra này là những thành phần của tổ hợp kỹ thuật sinh

vật, có thể điều chỉnh chúng để ấp và nuôi gà tây, vịt, chim cút. Tổ hợp thí nghiệm này đ. có

kết quả trong các xí nghiệp chăn nuôi gia cầm.

Tin tức khoa học báo Liên Xô 1983

* * *

Quí vị nghe xong hẳn ai cũng có cảm giác thương tâm. Tu sĩ c.n thêm cảm giác lo sợ

cho m.nh v. sống nhờ tín thí mà 5 uẩn chưa không, kiến-hoặc tư-hoặc chưa hết, th. kiếp sống

trong quả trứng kia mấy ai đ. bảo đảm giải thoát.

Các nhà bác học kỹ sư đây, tài trí siêu việt, tinh thần an định tinh vi. Cho đến nghe

được tiếng nói trong quả trứng. Có thể biết đích xác, đến ngày ấp thứ 17, phôi thai bắt đầu có

nhĩ thức để nghe cảnh ngoài. Các ngài c.n thấu đáo được sự cảm thông của cả 10.000 quả

trứng với nhau. Một âm thanh của một phôi thai gà mạnh, được cả 10.000 đồng nghiệp hưởng

ứng, đến nỗi đồng loạt cố gắng sớm hoàn tất sáu căn, để cùng nhau trỗi dậy trong một ngày,

để đồng loạt trong một ngày ra khỏi vỏ trứng. Đ. thực hiện đủ máy điện tử để phụng sự các

cô mái chú gà. Hay nói cho đúng là phụng sự nghề chăn nuôi. Nghĩa là phụng sự đồng tiền và

miếng ăn cho thế gian.

Thương tâm thay những tâm thức mịt mù trong quả trứng. Nhưng đáng thương hơn

nữa là bao nhiêu tài trí chẳng được gặp Phật pháp. Uổng qua đời sống thông minh, chẳng thể

ra khỏi v.ng Hoặc - Nghiệp - Khổ. Mỗi nhà máy cho ấp cả ngàn lần. Mỗi ổ ấp 10.000 trứng.

Trong đó có biết bao bác học kỹ sư đang chuyển kiếp luân hồi.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đấng Đại Giác đ. cấm tiệt đệ tử không được ăn trứng, không được làm vỡ trứng, dù

trứng sâu trứng nhện. V. trong đó có hàm thức biết đau biết khổ.

Ngài đặt ra giới luật qui tắc để bảo đảm các đệ tử khỏi sa đọa. Giới luật thấp nhất là

ngũ giới. Giữ được ngũ giới th. dù ngu xuẩn đến đâu cũng thoát khổ, không lọt vào những sọt

trứng đáng thương kia.

Trong loài người, đặc biệt đối với trẻ em mới đẻ, giọng nói của mẹ được chúng nhận

biết rất chính xác. Tại một bệnh viện ở nước Đức, các núm vú nhựa được nối với máy ghi âm

rồi cho vào miệng những đứa trẻ 12 ngày tuổi. Khi tiếng nói của mẹ chúng cất lên, lũ trẻ đột

nhiên mút sữa rất tích cực so với lúc tiếng nựng khác, không phải của mẹ chúng. Các nhà bác

học giải thích hiện tượng này rằng, trẻ nhỏ đ. quen với chất giọng của mẹ từ hồi c.n ở trong

bụng. Giọng nói của mẹ đọng lại trên vỏ n.o của thai nhi từ khi mới được một vài tháng. Các

bác sĩ khuyên sản phụ nên tr. chuyện với đứa con trong bụng. Trẻ chắc chưa hiểu được lời

nhưng tâm truyền tâm, chúng có thể cảm biết được . mẹ. Các cụ Việt Nam ân cần khuyên

những bà mẹ trong lúc mang thai nên cẩn thận từng tâm niệm. Tinh thần của mẹ có quan hệ

mật thiết đến tánh nết đứa trẻ r. ràng. Như vậy t.nh mẹ con đâu có phải chỉ là vay mượn chút

máu mủ để thành h.nh mà thai nhi bơ vơ không nơi trông cậy, chỉ có mẹ là đời sống, là tất cả.

  1. GIA Đ.NH PHẬT HÓA PHỔ

Kính gởi phụ huynh các em ………

Mọi kế hoạch phát triển x. hội từ ngàn xưa không đề nghị g. hơn là làm sao cho con

người đỡ khổ. Phật giáo cũng chỉ một mục đích ấy, nhưng phương tiện không dùng đến danh

lợi, thế lực, cảm t.nh mà lo thực hiện chuyển hóa tâm thức.

Liệt vị Tổ sư noi dấu đức Phật, lấy chữ Hiếu làm đầu trăm hạnh, lấy rằm tháng 7 làm

ngày cha mẹ. Lễ Vu Lan mở ra tục lệ bổn phận làm con phải lo đưa cha mẹ ra khỏi biển khổ

luân hồi sanh tử.

Riêng chùa chúng tôi, ngửa lên cầu nguyện thần lực Tam-bảo gia hộ cho gia đ.nh được

âm siêu dương thái, là việc đương nhiên. Ngoài lợi ích cứu vớt song thân cùng cửu huyền thất

tổ c.n thiết thực đức dục con em tập học chữ Hiếu. Luyện tâm hướng thiện là việc cần yếu để

đưa qu. cô đi lên.

Vậy xin toàn gia quyến vui vẻ hưởng ứng chương tr.nh giáo dục của nhà chùa mà trợ

duyên cho qu. cô, bằng cách vui vẻ nghe qu. cô giảng giáo l.. Yêu cầu gia đ.nh đặt các câu

hỏi về Phật pháp để qu. cô tập thực hiện chí nguyện tự giác giác tha. Lấy ngay gia đ.nh làm

điểm xuất phát tâm Bồ-đề, qu. cô phải quan tâm, phải tôn trọng, phải đem tất cả tâm hồn để

cầu nguyện cho gia đ.nh hạnh phúc an vui.

Sự nghiệp thánh thiện này sẽ đem lại lợi lạc giải thoát cho cả qu. cô và gia đ.nh.

Trân trọng

Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm

Ngày 10-7- Kỷ M.o (1999)

III-/ MÙA THU

TỪ 16-7 ĐẾN 15-10

  1. CHƯƠNG TR.NH

THỌ Y CÔNG ĐỨC

16-7

— Lễ Tổ – Lễ Phật – Tụng kinh Cahyna.

— Lễ 18 A-la-hán.

— Huấn từ khai khóa Cahyna.

— Chúng nhỏ giải tán. Tỳ-kheo-ni lưu lại yết ma :

  1. a) Sai người tr. y.
  2. b) Trao y công đức.

— Thọ y công đức.

— Lễ y công đức.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

LỄ Y CÔNG ĐỨC

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :

1- Cahyna y.

2- Kiên thật y.

3- Thưởng thiện phạt ác y.

4- Công đức y.

5- Tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia chúng.

6- Thập Địa tam Hiền, ngũ quả tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia chúng.

7- Tỳ kheo ngũ chúng, h.a hợp vô tranh, nhất thiết trụ tr. Tăng già gia chúng.

8- Kết tập phiên dịch, giảng dạy chú thích tam tạng, Đông Tây kim cổ liệt vị Pháp sư.

9- Tây thiên Đông độ Việt Nam, thập phương du hóa, truyền giáo khai sơn lịch đại Tổ

sư.

10- Tám trăm Tỳ-kheo núi Talala

Cùng Thế Tôn may y Cahyna,

Năm nấc thang A Na Luật Đà

Xa l.a trần lao đời chật hẹp.

Chứng A-la-hán, đủ thần thông

Đại phước lực, đại oai thần.

Chí tâm đảnh lễ : Nam mô đệ nhất thiên nh.n Cahyna đàn tràng đường chủ, đại thánh

A Na Luật Đà tôn giả (3 lễ).

LỄ 18 A-LA-HÁN

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ : NAM MÔ

— Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật.

— Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

— Cahyna tôn pháp.

1) Đệ nhất trí tuệ XÁ LỢI PHẤT tôn giả.

2) Đệ nhất thần thông MỤC KIỀN LIÊN tôn giả.

3)Đệ nhất đầu đà MA-HA CA DIẾP tôn giả.

4)Đệ nhất nghị luận MA-HA CA CHIÊN DIÊN tôn giả.

5)Đệ nhất vấn đáp MA-HA CÂU HY LA tôn giả.

6)Đệ nhất chánh định LY BÀ ĐA tôn giả.

7)Đệ nhất khéo tr. pháp Phật CHÂU LỢI BÀN ĐÀ tôn giả.

8)Đệ nhất đa văn ANANĐÀ tôn giả.

9)Đệ nhất nghiêm hộ sáu căn NAN ĐÀ tôn giả.

10)Đệ nhất mật hạnh LA HẦU LA tôn giả.

11)Đệ nhất phước điền c.i trời KIỀU PHẠM BA ĐỀ tôn giả.

12)Đệ nhất khéo giáo hóa CA LƯU ĐÀ DI tôn giả.

13)Đệ nhất phước điền nhân gian TÂN ĐẦU LƯ PHẢ LA ĐỌA tôn giả.

14)Đệ nhất thọ mạng BẠC CÂU LA tôn giả.

15)Đệ nhất giỏi thiên văn MA-HA KIẾP TÂN NA tôn giả.

16)Đệ nhất nghĩa không TU BỒ ĐỀ tôn giả.

17)Đệ nhất nói pháp PHÚ LÂU NA tôn giả.

18)Đệ nhất thiên nh.n, Cahyna đàn tràng đường chủ, đại thánh A NA LUẬT ĐÀ tôn

giả.

— Đạo tràng hội thượng Phật Bồ-tát nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng.

  1. CHƯƠNG TR.NH

TU HỌC 5 THÁNG Y CÔNG ĐỨC

I- GIỚI

(Phần này đ. học trong hạ nay chỉ hành tr.)

a/ H.nh đồng mỗi ngày thọ bát quan trai và học 24 oai nghi.

b/ Sadini học Sadi Luật Giải và Quy Sơn Cảnh Sách.

c/ Thức xoa học giới bổn.

d/ Tỳ-kheo-ni ôn luật Tứ Phần và Như Thích.

II- HỘ 6 CĂN

Tụng sám 6 căn trong bộ Khóa Hư của Trúc Lâm sơ Tổ (đ. in riêng).

III - THIỂU DỤC TRI TÚC

Học kinh Cahyna (đ. in riêng).

IV- TỰ CHỦ

Tứ Niệm Xứ (đ. in riêng).

V- NGỒI THIỀN

Sổ tức và quán bất tịnh để trừ ngũ cái, khai tuệ vô lậu.

VI- NIỆM PHẬT

Ngoài các thời khóa tu học, chị em phải nhiếp tâm niệm Phật để cầu v.ng sanh.

ĐÁP TỪ

Cahyna là tiếng Ấn Độ, Tàu dịch là kiên thật (bền chắc và chân thật).

Thuyết pháp dạy người làm thiện để hưởng phước trong luân hồi, không phải là pháp

Cahyna.

Pháp Cahyna : chân thật đưa người tu đến kết quả ra khỏi luân hồi vĩnh viễn an vui.

Cuộc sống chúng ta hiện tại tạm bợ như khách trọ đến rồi đi. Thân tâm cảnh đều vô

thường. Lầm cho là thật mà cố t.nh bám víu, khởi tham sân si th. đây là gốc trầm luân. Chỉ có

ai nắm được một pháp Cahyna, cố vươn ra khỏi 12 khoen nhân duyên sanh tử hư vọng, th. đời

sống mới thật có phẩm chất người, khác loài muông thú.

Nhận thức t.nh vọng tưởng làm tâm tánh. Một bề nô lệ cho kiến-hoặc và tư-hoặc sai

sử, quên hẳn chân tâm tịch thường diệu giác. Kinh dụ người này như con ông trưởng giả bỏ

cha trốn đi. Đánh đu với giặc làm sao yên thân ?

Y Cahyna : Kinh kể chuyện ngài A Na Luật Đà, đ. mù cả hai mắt, lại rách cả 3 y.

Toàn chúng họp nhau may y cho ngài, mở đầu tục lệ mỗi năm, sau 3 tháng an cư, chúng Tăng

chia vải may y, cần nhớ tới các bạn rách y, thiếu y. Phật dạy phải chọn lọc một tấm đẹp nhất

để làm y công đức. Coi như tấm y này là của toàn thể Tăng chúng thánh phàm trong trụ xứ.

Sai người đủ 5 đức (không ái, không sân, không sợ, không si, có trí tuệ biết r. bổn phận tr. y)

giữ g.n y trong 5 tháng, thời gian đại chúng học và tu pháp Cahyna.

Luật Huyền Ty dạy : “Y công đức phải dành cho Tỳ-kheo-ni không y hoặc rách y, đặc

biệt không cho người keo sẻn (tự m.nh có được mà vẫn xin). Ai cúng dường một tấm y cho

Tỳ-kheo, công đức không thể nghĩ bàn. Cúng dường những tấm y không thể nghĩ bàn ấy

chồng chất cao bằng núi Tu-di, phước báu không bằng cúng dường một tấm y công đức”.

Pháp môn Cahyna nào cũng đ.i hỏi 3 điều kiện :

1- Cần . thức rằng càng nói nhiều cách đạo càng xa, nói là hao tổn khí lực, là tinh thần hướng

ngoại. Nội quy số 8 cấm nói chuyện tạp. Hỏi đáp về Phật pháp quá 10 phút phải xin phép tri

chúng. Đây là để chị em an h.a tinh thần, dồn hết tâm lực vào nội quán. Qua được lớp cửa

này như mây bay đi, hé mở một khung trời an ổn thênh thang. Tổ Đạt Ma 9 năm quay mặt vào

vách cầu Bát Nh. vô ngôn của cụ Tu Bồ Đề, cái im lặng mà vua Đế Thích tung hoa xưng tán.

Nếu cứ luôn luôn khắc trí, quyết tiến đến cùng, trong nhịp bước vui tươi vô úy, nhất định

phen này một phiến công phu dứt sạch vô minh tận gốc, th. sẽ đạt tới cái im lặng thật tướng

bất nhị của cư sĩ Duy Ma Cật. Có hiểu r. như thế, chúng ta mới biết ơn tri chúng, tri sự đ. gia

công g. ép chúng ta vào quy luật. Đ. biết ơn th. lo đền ơn, chúng ta sẽ tận t.nh đưa hậu lai

vào quy luật giải thoát.

2- Thận trọng chăn trâu. Tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm từng phút từng giây.

Sư Huệ Tạng đang làm bếp. M. Tổ xuống hỏi làm g. ?

— Thưa : Chăn trâu.

— Chăn làm sao ?

— Thưa mỗi khi vào mạ th. nắm mũi kéo lại.

— Thế là con đ. biết chăn trâu.

Luôn luôn thức tỉnh, không nghĩ về quá khứ vị lai, không nghĩ tới cảnh ngoài. Lấy

thân tâm làm đề mục thiền, làm đối tượng trí quán. Tuệ minh sát như gương, lặng lẽ chiếu

soi :

Sáu căn sáu trần là sắc ấm.

Khổ vui thuận nghịch là thọ ấm.

Yêu ghét mừng giận là tưởng ấm.

Hơi thở, 4 oai nghi là hành ấm.

Thấy nghe ngửi nếm phân biệt là thức ấm.

Mùa y công đức chúng ta học song song 2 kinh Cahyna và Tứ Niệm Xứ.

Soi chiếu tiểu oai nghi, ghi niệm không lười mỏi. Đi biết m.nh đi, nhấc chân biết nhấc

chân v.v... Ngồi nằm soi chiếu hơi thở. Thở ra thở vào mỗi mỗi biết r.. Hễ hơi mờ mịt, đó là

vọng tưởng đ. khởi.

Soi chiếu và tự chủ từng hơi thở từng oai nghi. Lại giác sát nội tâm, biết vọng tưởng

  1. để tan đi. Định tuệ cân phân đưa đến điều h.a, an b.nh và giải thoát.

3- Coi thân này như đ. chết. Đại thừa chủ trương vô ng. vô pháp. Tiểu thừa quyết định nếu

c.n tơ hào kiến-hoặc tư-hoặc tức không giải thoát luân hồi. Vào được cửa này là thánh, c.n

đứng ngoài là phàm. Mà cửa này ai cũng vào được, chỉ cần quyết tâm. Quan trọng ở chỗ biết

cửa và chịu vào. Muốn biết cửa th. học kỹ Phật pháp. Chịu vào là thực tập. Thợ mộc, thợ cày,

nghề nào cũng do luyện tập mà thành. Luân hồi sáu đạo do tập tham, sân, si mà có th. Thánh

Hiền giải thoát cũng phải do luyện Giới Định Tuệ mà chứng. Diệu quan sát trí chuyển

Mạt-na thức khiến cho giác tỉnh từ tiềm thức phát ra. Nếu chỉ hiểu biết qua . thức th. vừa tỉnh

liền mê, biến hóa từng sát na, luân chuyển từng mỗi niệm cho nên quán trí phải chuyên cần.

Nguyện cầu chị em trong đời sống hàng ngày, hằng nhớ thanh tịnh ba nghiệp, nhẫn nhục nhu

h.a, mỗi mỗi y ly, tương ưng với Cahyna pháp, ng. hầu sớm đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát,

giải thoát tri kiến, 5 phần hương Pháp-thân.

  1. KÍNH ĐỆ

H.A-THƯỢNG GIÀ LAM VIỆN CHỦ

Kính bạch H.a-thượng !

Ni chúng Liên Hoa nương H.a-thượng làm đệ ngũ luật sư mùa an cư năm nay đ. được

vui h.a êm đẹp. Chúng con xin H.a-thượng gia ân cho chúng con thêm 5 tháng y công đức.

Tr. y công đức với chúng con là một sự tướng cần thiết để y cứ vào đó mà cùng nhau

nối tiếp công phu.

Tr. y nếu là bằng chứng đức hạnh không tham, không sân, không si th. nguy hiểm cho

người tr.. Bên trong, khó mà không kiêu mạn ngầm. Bên ngoài, khó mà không chiêu vời gai

độc ganh ghét. V. vậy ngày nay, không mấy chùa muốn bày vẽ việc y công đức.

Nay chúng con xin H.a-thượng cho phép Liên Hoa tr. y công đức chỉ v. mong cho

toàn chúng tiến tu đạo hạnh. Người tr. y chỉ là một chức việc trong các chức việc. Thay chúng

g.n giữ trong 5 tháng không ái, không sợ, không sân, không si. Cứ một bề nhẫn nhục như cục

đất ai muốn liệng đâu th. liệng, như chiếc khăn lau ai muốn lau giày dép tùy ..

Muốn nhớ hộ 6 căn được như vậy, phải là người rảnh rang không phận sự, chỉ có một

bổn phận tr. y. Tâm tồn bất tịnh quán và từ bi quán, may ra có thể thành công trong 5 tháng.

Nếu lỡ có sơ sót, xin H.a-thượng cho sám hối rồi lại tiếp tục công phu.

Một khi tuyên bố người tr. y chỉ là kẻ tập học đức hạnh, chớ không phải là người đức

hạnh đ. thành, th. sẽ tránh được những chướng ngại của thời mạt pháp.

Con xin kính đệ lên H.a-thượng chút thiển .. Ngưỡng mong H.a-thượng từ bi chỉ thị.

Tỳ-kheo-ni Hải Triều Âm đảnh lễ tri ân.

H.a-thượng chấp thuận cho

Tỳ-kheo-ni Bảo Liên 2 hạ tr. y công đức

  1. TỨ NIỆM XỨ

VÀ PHẢN VĂN PHÁT NGUYỆN

Kính bạch trên Thầy, kính thưa Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp.

Chúng con những tưởng sau 3 tháng hạ, Liên Hoa chẳng c.n được sum vầy cùng nhau

tu học. Nào ngờ đâu có cảm tất có ứng, v. l.ng chí thành tha thiết nên thiên long bát bộ đ. sắp

đặt cho Liên Hoa thêm 5 tháng y công đức.

Lai Quả thiền sư có dạy : “Đại bệnh sanh tử nhất định phải uống thuốc. Các ông phải

hiểu thân người khó được. Trải qua bao kiếp trong các loài, đến nay mới được thân người. Mà

đời người chỉ mong manh trong hơi thở. Nếu ta để thân này trôi qua vô ích, há chẳng phải là

đ. phí mất sự vun trồng của đời trước sao ?”

Hưng Thiền Đại Đăng quốc sư di giáo rằng : “Dầu chỉ một người thôi, sống hẻo lánh

nơi núi rừng, kết cỏ làm am, ăn rễ cây luộc mà nhất tâm quán tưởng đến chỗ cốt yếu. Người

này hằng thân thiết đối diện với ta và biết đáp đền ân nặng”. Thật thế, người tu chỉ có một

việc để trên đầu là : “Sanh tử sự đại”.

Kính bạch Thầy ! Thưa Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp ! Tương lai chưa biết sẽ

ra sao, hiện tại 5 tháng y công đức này là thời gian vô cùng qu. báu. Ngày giờ như thoi đưa,

tháng năm như chớp mắt, trong thời gian ngắn ngủi này phải lo sao cho thiết thật giải thoát.

  1. thế ban Tứ Niệm Xứ và Phản Văn chúng con hôm nay quỳ trước Tam-bảo, xin

thành tâm phát nguyện, trong 5 tháng qu. giá này, chúng con thực tập theo 5 nấc thang kim

cương của ngài A Na Luật Đà, cùng nhau d.ng m.nh đả thất, bắt đầu kể từ hôm nay.

Suốt thời gian qua trên Thầy, Sư cô Giám viện và toàn ban hộ pháp đ. tận lực đùm

bọc cho lớp chuyên tu đứng vững đến giờ này. Một lần nữa nương hồng ân Tam-bảo, nương

đức trên Thầy, Sư cô Giám viện, xin toàn thể đại chúng hoan hỷ cho chúng con chuyên tu

thêm 5 tháng nữa, để hạnh nguyện và công đức chúng con được vuông tr.n. Chị em chúng

con thành kính đảnh lễ tri ân.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. CÓ MINH TÂM MỚI KIẾN TÁNH

Ở Linh Quang một buổi sáng, Thầy chỉ tay xuống hồ hỏi Huệ Nghiêm : Con thấy g. ?

— Thưa con thấy cả bầu trời và sum la những cành mít. Bóng in trên mặt hồ r. quá!

— Con có thấy đáy hồ không ?

— Thưa không.

— V. sao ?

— Bởi v. nước đục.

— Thế tại sao lại thấy cả bầu trời ?

— Thưa v. nước đứng lặng như gương nên phản chiếu cảnh ngoài. Cũng bởi v. nước

đục, cảnh thật của hồ không thể hiện ra nên cảnh ngoài thấy r..

— Con có thấy sự điên đảo này giống chúng ta không ?

— Thưa Thầy chúng con đang học Tứ Niệm Xứ. Chúng sanh lồng ngực toàn tham sân

si mạn nghi tà kiến. Tâm bị phiền n.o làm mờ mịt, ngang khởi 4 đảo :

1- Thân bất tịnh cho là qu. báu.

2- Thọ là khổ lại cứ ước cầu càng được nhiều càng hay.

3- Tâm vô thường mà cứ đ.i mọi người chung thủy với m.nh.

4- Pháp vô ng. mà căn, trần, thức mỗi mỗi đều cho là thật.

Nếu không giác tỉnh th. bao nhiêu khả năng minh chiếu chỉ dùng để phân biệt khách

trần ngoại cảnh hư vọng. Cũng chính bởi v. không biết pháp thân, chân tâm, bản tánh của

m.nh nên từ lịch kiếp cứ đắm say sống với luân hồi sanh tử.

— Cho nên muốn có tuệ nh.n việc đầu tiên của chúng ta là phải thanh tịnh tâm địa.

  1. THIỀN MINH SÁT

(Rút ở cuốn Mặt Hồ Tĩnh Lặng)

Ngồi ngay thẳng. Để . đến hơi thở ra vào. Đừng kiểm soát hay điều khiển hơi thở mà

sẽ mất thoải mái. Nên hô hấp tự nhiên. Hơi thở tự nhiên vẫn nhẹ nhàng và điều h.a.

Nếu phóng tâm, h.y dừng lại và trở về đề mục. Lúc đầu ta hay có khuynh hướng làm

chủ hơi thở, đưa hơi thở theo . m.nh. Rất không nên. Đừng t.m cách điều chỉnh nó. Chỉ quan

sát. Có lúc ta cảm giác như hơi thở ngưng lại. Đó chỉ là một cảm giác hư vọng, cứ b.nh thản

tiếp tục, một lát sau, sẽ thấy hơi thở r. ràng như trước.

Tiếp tục giữ tâm an tịnh th. dù ngồi trên xe đ., vẫn vào an lạc một cách dễ dàng mau

chóng. Đạt được sự tiến bộ này là vào đạo đ. khá. Nhưng phải quan sát những đối tượng của

giác quan. Để tâm an tịnh, ghi biết 6 trần, các đối tượng của thân tâm. Tất cả cái g. phát sanh

cũng ghi nhận, dù thích hay không thích. Khách quan mà ghi nhận không để yêu ghét ảnh

hưởng. Dần dần sẽ thấy những cảm giác này cũng như các hiện tượng chỉ là vô thường, vô

ng., khổ và không. Chỉ quan sát, không can thiệp vào một thứ nào. Đây là thiền minh sát đem

lại sự b.nh an tĩnh lặng.

Chẳng bao lâu tuệ giác vô thường vô ng. sẽ xuất hiện. Đây là bước đầu của trí tuệ thật

sự, cốt tủy của thiền, dẫn đến giải thoát.

Trong khi hành thiền, ta thấy ánh sáng, chư thiên, đức Phật v.v..., ngay khi ấy quay về

xem tâm m.nh. Chớ quên điểm căn bản này. Cứ chú tâm quan sát, không mong mỏi thấy g.

cũng không xua đuổi. Nếu theo đuổi những h.nh ảnh này, tâm sẽ mất an ổn. Chỉ nên nhớ đến

hơi thở, coi tất cả đều vô thường vô ng.. Dù những h.nh ảnh ấy có tới sát gần cũng mặc, cứ

chú tâm vào hơi thở. Hít vào thở ra 3 hơi thật dài, mọi h.nh ảnh sẽ hết. Mọi kinh nghiệm bất

thường đều đem lợi ích cho bậc trí nhưng là mối tai hại cho kẻ thiếu khôn ngoan. Tiếp tục

hành thiền cho tới khi không c.n những h.nh ảnh quấy nhiễu.

Nếu tâm muốn vui, chỉ cần . thức rằng vui này không vững bền. Không nên sợ những

h.nh ảnh từ tâm m.nh biến ra. Những tâm sở khác nào du khách đến rồi đi.

THIỀN HÀNH VÀ HÀNH THIỀN

Mỗi ngày đều phải kinh hành. Hai tay đan vào nhau để trước bụng. Bóp chặt một chút

cho dễ chú tâm. Bước b.nh thường, phải biết r. m.nh. Phóng tâm, h.y dừng lại một chút để

đưa tâm trở về. Vẫn phóng tâm, h.y chú . vào hơi thở. Luôn luôn chánh niệm.

Cơ thể mỏi mệt h.y thay đổi tư thế. Dầu hành thiền suốt đêm mà không giác tỉnh

những diễn biến của tâm th. cũng chẳng phải là tinh tấn. H.y nh.n xuống đất trước mặt

khoảng 2 mét, chú tâm vào những cảm giác của cơ thể hoặc niệm Phật. Đừng sợ h.i khi thấy

những hiện khởi của tâm. Đừng để những tư tưởng và cảm giác trói buộc. Nh.n vào toàn thể

tiến tr.nh sanh diệt.

Có như thế trí tuệ mới phát triển. Điều g. hiện khởi trong tâm phải kịp thời tỉnh giác.

Nếu không, phiền n.o sẽ xâm chiếm. Chỉ có chú tâm mới đốn ng. được nó. Do có kẻ trộm ta

mới lo giữ của. Do có phiền n.o ta mới chăm hành thiền.

Hành thiền là phải giác tỉnh trong mọi hoạt động chớ không phải t.m sự b.nh an tĩnh

lặng trong lúc ngồi.

Thực hành tốt đẹp là tự hỏi m.nh một cách thành thật : Tại sao ta sanh ra ? Hàng ngày

tự hỏi 3 lần như vậy.

Tham dự kết tập tam tạng phải là A-la-hán. Anan quyết định hành thiền suốt đêm để

đạt quả. Sự cố gắng chỉ đem lại mệt mỏi. Anan đành đi nghỉ. Nhưng khi đặt m.nh xuống, đầu

chưa chấm gối, Anan chứng A-la-hán. Như thế nghĩa là phải sạch hết những háo hức mong

cầu dù là . muốn đắc đạo, mới giải thoát được.

Việc thực hành quan trọng, h.y bắt tay vào. Đừng chần chừ do dự nữa, mau lên

đường. Không bao giờ bạn ân hận đâu !

  1. QUÁN BẤT TỊNH

Hạt giống đầu tiên là nghiệp dâm dục. Thọ tinh cha huyết mẹ làm thân. Ở trong tử

cung 9 tháng 10 ngày góp đủ máu tanh thành sáu căn. Nằm trong dạ con, chung quanh là mấy

thước ruột toàn phân thối. Sát cạnh là bọng đái khai nồng. Tất cả tắm toàn nước nhớp khắm.

Từ chỗ hạ tiện nhất mà ra. Thân khởi thủy như vậy. Mà chúng ta quên bẵng, cứ kiêu mạn, tự

thấy m.nh quan trọng.

Mở nút ve nước hoa, ai nấy thấy thơm. Mở nắp thùng phân, ai nấy vội vàng bịt mũi.

Thân chúng ta nếu là trầm hương th. sao 9 khiếu ngày nào cũng chảy ra toàn thứ không sạch :

2 mắt ra ghèn, 2 tai ra ráy, 2 lỗ mũi l.ng th.ng chất xanh, miệng khạc đờm trắng. Nào phân,

nào tiểu. Các lỗ chân lông hơi ra cũng hôi, nước ra cũng hôi, cáu ghét ra cũng hôi. Cả biển

nước rửa cũng không thể sạch. Bởi v. thân là cái máy chuyên sản xuất những vật nhơ. Sơn

hào hải vị, chọn những thứ sang qu., trái cây thật tươi thơm, cho vào miệng, cách một đêm,

biến thành những thứ nhơ bẩn ai cũng chán ghét. Cứ như thế trọn đời.

Cuối cùng khi tắt hơi thở, máu không được hấp dưỡng khí, chuyển thành màu đen, làn

da xanh xám, tím bầm. Hơi ấm hết, thần thức không hiện hành. Không có sức chấp tr. của

thần thức, các tế bào vỡ tung, nước không c.n bị ép, bật ra, toàn thân sưng phù. Chỉ c.n

phảng phất h.nh hài tướng mạo con người. Hai mắt sọp. Toàn thân nứt loét, bụng vỡ, ruột l.i,

gan nứt, phân tiểu ứ khắp. Xú khí bốc lên lừng trời lừng đất. Người ta sợ h.i. Con hiếu vội gói

ghém kỹ, bỏ vào h.m, đóng thật chặt, chôn sâu dưới 3 thước đất. Bởi v. độc khí này đem

bệnh hoạn cho những ai gặp phải.

D.i bọ lúc nhúc ăn hết thịt rồi tự tan đi, c.n lại bộ xương phủ bụi. Lâu ngày gân đứt,

xương long rụng, mủn tàn, trả về cho đất.

Như trên là thân phận chung của chúng ta. Già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, ai

cũng đi đến giai đoạn hoại diệt này. Chỉ có một mùi giống nhau là mùi thối, một chất giống

nhau là thịt nát. Vậy mà chúng ta thường quên, cứ tự cho m.nh là cao qu.. V. hy vọng sống

lâu nên mới tạo đủ các ác nghiệp để bồi dưỡng thân và bảo vệ danh giá. Đức Phật khuyên

chúng ta tập quan sát để thấy sự thật. Có trí tuệ sẽ tiêu 3 độc tham sân si. Hạnh phúc của con

người ở ngay chỗ giác tỉnh.

  1. KINH NIẾT-BÀN

PHẨM CA DIẾP BỒ-TÁT

THỌ ẤM là nhân sanh ra tất cả ái, tất cả hữu lậu thế gian, khiến chúng sanh trầm

ch.m trong ba c.i. Do có thọ, chúng sanh mới chấp thân này là ta, sáu trần là cảnh của ta.

Muốn xả thọ, cần quan sát thọ chẳng do tưởng sanh, chẳng do tánh sanh, chẳng tự sanh, chẳng

tha sanh, chỉ do các duyên h.a hợp mà có. Duyên chính lại là ái. V. ái thân ái cảnh mới có

thọ.

Vậy thọ g. làm nhân cho ái ? Ái g. làm nhân cho thọ ? — Thọ thân làm nhân cho ái, ái

thân làm nhân cho thọ. Thọ và ái làm nhân làm duyên lẫn nhau, khiến v.ng luân hồi xoay

chuyển không cùng tận. Muốn xả ái, dứt thọ, chỉ cần quán thân bất tịnh, pháp vô ng.. Hai

chấp ng. và ng. sở đ. tiêu th. Ái và Thọ sẽ tận diệt.

Theo v.ng 12 nhân duyên th. nhân xúc có thọ. Xúc có 3 :

1) Minh xúc, trí tuệ thấy r. thân cảnh hư vọng nên xả thọ.

2) Vô minh xúc, mê chấp ng. và pháp.

3) Minh vô minh xúc (thí dụ biết vị trần là huyễn nhưng vẫn thích ăn chè).

Hai xúc sau tăng trưởng thọ nên phải dứt. Thế gian nói khổ thọ, Phật gọi là khổ khổ.

Thế gian nói lạc thọ, Phật gọi là hoại khổ. Thế gian nói không khổ không vui, Phật gọi là

hành khổ. Bản chất của thọ là khổ. Thọ lại c.n là gốc của ba độc tham sân si, mở ra đủ thứ tội

ác. Tuệ Tứ Niệm Xứ là thuốc trị độc duy nhất. Chánh kiến thọ giới luật, tr. Phật pháp, gọi là

phạm hạnh thanh tịnh.

TƯỞNG ẤM. Chỉ v. lầm cho sắc là có thật, cho thọ là vui mới có tư tưởng tham đắm.

Vô minh là thể chất của tất cả ác tưởng (căn bản phiền n.o và tùy phiền n.o). Chánh

kiến Tứ Niệm Xứ thanh lọc tưởng ấm đưa về phạm hạnh thanh tịnh.

Quán vô thường, vô ng., khổ và không. Quán thân bất tịnh, món ăn đáng chán, là khéo

dùng tư tưởng hướng về Niết-bàn.

  1. Ngày 30-7

LỄ ĐỨC ĐỊA TẠNG

Nâng chén cơm cúng dường cha mẹ là một cử chỉ đẹp, khắp c.i người ngợi khen. Ai

cung kính phụng thờ cha mẹ sẽ sanh về c.i trời. Đức Thích Ca thành Phật về Ca Tỳ La độ cho

phụ vương. Rồi lên Đao Lợi thiên cung v. mẫu hậu nói kinh Địa Tạng. Phật tử nhớ ơn cha mẹ,

noi gương đức Bổn Sư, khuyên cha mẹ tụng kinh Địa Tạng. Nếu cha mẹ đ. quá v.ng th. v.

cha mẹ tụng kinh Địa Tạng.

ĐỊA : đất, là nơi phát sanh, nuôi dưỡng, gánh vác muôn loài. Trong kinh Phật bảo Văn

Thù : “Ông quan sát hết thảy chư Phật, Bồ-tát, Thanh-văn, các chúng trời, rồng, quỷ thần

trong hội này, có biết số lượng là bao nhiêu không ?”

— Bạch đức Thế Tôn, con tận dùng thần lực trong ngàn kiếp cũng không thể lường

tính được.

— Số lượng đó toàn do Bồ-tát Địa Tạng từ lâu xa tới nay đ. hóa độ, đương hóa độ. Đ.

tác thành, đương tác thành.

Đối với tầm hiểu biết của loài người th. đất tượng trưng sự bền bỉ suốt thời gian, sự

rộng lớn khắp không gian. Bồ-tát lấy chữ Địa làm tên để h.nh dung Pháp-thân ngài thường trụ

ở khắp mười phương. Từ nơi đây hằng sa tánh đức phát sanh. Từ nơi đây vô biên công hạnh

lợi sanh. Cũng từ nơi đây an lập muôn loài trong thánh đạo.

Nghe chữ Địa, chúng ta tưởng ngay đến sức an nhẫn vô vàn, để chịu đựng bao nhiêu

nghiệp chướng ương ngạnh đảo điên của muôn loài. Chúng ta tưởng ngay đến sức kiên lao

nhẫn nại, kiếp này sang kiếp khác, nâng giấc dắt d.u từng con sâu con kiến đi dần về quả Phật.

Thế cho nên ba đời Như Lai đồng tán ngưỡng, mười phương Bồ-tát cộng quy y. Thích

Ca Mâu Ni Phật thỉnh ngài cùng tất cả phân thân nhiều như hạt bụi lúa mè tre lau, về cung trời

Đao Lợi, để Ma Gia phu nhân chiêm ngưỡng đảnh lễ. Ma Gia phu nhân từ đỉnh dục lạc của

Ngọc hoàng Thượng đế, cần biết những thống khổ của lửa vô gián địa ngục để tự thức tỉnh.

Bởi v. bánh xe luân hồi đâu có nể ai. Đại hội này đ. thức tỉnh bất khả thuyết, bất khả thuyết

thiên tử.

Kinh dạy : Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu bụi, mỗi bụi tính là một sông

Hằng, mỗi hạt cát của những sông Hằng này tính là một kiếp. Đức Địa Tạng chứng quả Thập

Địa đến nay, đ. lâu xa gấp bội ngàn lần. Trải thời gian không thể nghĩ bàn ấy, cứ một thân

hóa làm vạn ức thân, mỗi thân độ vạn ức người. Kinh nói : Ai nghe tên đức Địa Tạng, một lần

khen ngợi cúng dường, cũng được 100 lần sanh ở c.i trời an vui, không đọa ác đạo nữa.

Như báu kim cang trong biển cả, có oai lực sanh ra các báu, không tăng, không giảm,

không cùng tận, công đức của Bồ-tát cũng vậy.

TẠNG : Cái kho như kho vàng, kho lúa v.v... Tâm chúng ta gọi là tạng thức v. nó chứa

đủ thứ hạt giống thiện ác, nảy nở thành chánh báo y báo, 4 thánh 6 phàm. Tâm thức chúng ta

c.n có tên là Như Lai Tạng, v. tánh thể của kho là giác. Mai đây tu hành chuyển tất cả hạt

giống trở về tánh Phật, tức là hoàn toàn thành Phật. Cái kho này rộng khắp mười phương,

thường trụ suốt ba đời. Thái hư không kia ở trong tâm ta chỉ nhỏ như điểm mây chợt hợp chợt

tan trong bầu trời, như mảnh phù âu chợt c.n chợt mất trên biển cả. Huống chi các tinh tú

nhiều như vi trần lửng lơ trong hư không. Tâm chúng ta bát ngát mênh mông không bờ bến.

Đức Địa Tạng đ. chứng được tâm này, sống với tâm này nên phát nguyện giác tỉnh

cho tất cả chúng sanh đồng nhận được tâm m.nh. Bởi v. ngài thấy r. tâm Phật và tâm chúng

sanh đồng thể, không chút sai khác, nên quả quyết không để một chúng sanh nào ở lại đường

mê.

Chân tánh hằng sa công đức nhưng chúng ta chẳng biết g. th. coi như của c.n giấu kín

trong kho. Đức Địa Tạng đ. biết dùng nên ta người tiêu xài không tận, bởi v. kho vô tận nên

báu lấy ra cũng vô tận.

Kinh dạy : Đời vị lai ai nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát mà chắp tay cung kính tán

thán, sẽ thoát 30 kiếp tội khổ. Lại dạy : Tôi tớ nghèo hèn, biết đây là tội báo nghiệp xưa,

mong cầu sám hối. Nếu chí tâm chiêm bái h.nh tượng Địa Tạng Bồ-tát, 7 ngày chuyên niệm

đủ 10.000 danh hiệu Bồ-tát, th. ngàn vạn đời về sau, hằng sanh nhà tôn qu., không đọa ba

đường ác.

Chúng ta thờ đức Địa Tạng, tay phải cầm gậy tích trượng, thân mặc cà sa, hiện tướng

Tỳ-kheo. V. chúng sanh đọa lạc chỉ do sát đạo dâm vọng, cảm các khổ quả trong luân hồi.

Ngoài thuyền giới luật, lấy g. cứu vớt ?

Tay trái ngài cầm hạt minh châu tiêu hắc ám, phá vô minh. Địa ngục, ng. quỷ, bàng

sanh, tam tai tám nạn cho đến v.ng luân hồi từ vô thủy, dưới ánh sáng trí tuệ, chỉ là hoa đốm

trong hư không.

Đầu đội mũ thất Phật (Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Câu Lưu Tôn

Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Văn Phật). Bảy đức Thế Tôn đại

diện cho mười phương ba đời chư Phật. Tất cả tri kiến và hành sự của Địa Tạng Bồ-tát không

rời pháp tam quy. Từ nguồn Tam-bảo chảy ra tất cả bổn nguyện bổn hạnh.

Bổn hạnh của ngài th. hằng hà sa nhưng đặc biệt người ta xưng tán 2 đức HIẾU và

NHÂN. Tiền thân ngài là một nữ Bà-la-môn, đ. v. mẹ niệm danh hiệu đức Giác Hoa Định Tự

Tại Vương Phật, một ngày một đêm nhất tâm không loạn. Do đây bà mẹ thoát địa ngục được

sanh lên trời.

Lại một kiếp khác, ngài cũng làm nữ nhân, cũng v. mẹ niệm danh hiệu Thanh Tịnh

Liên Hoa Mục Như Lai. Bà mẹ thoát địa ngục, được thân người nhưng phải làm con kẻ nô tỳ

mà yểu thọ. Nữ nhân lại v. mẹ phát nguyện : Từ nay đời đời kiếp kiếp cứu vớt chúng sanh

trong mười phương. Địa ngục ng. quỷ bàng sanh, những tội nhân này thành Phật cả rồi con

mới thành Phật. Nhờ nguyện lực này bà mẹ được sanh về c.i Vô Ưu, hiện nay là Bồ-tát Giải

Thoát.

Phật dạy này Tứ Thiên Vương ! Bồ-tát Địa Tạng gặp kẻ sát sanh, dạy quả báo chết

non. Gặp kẻ trộm cướp, dạy quả báo nghèo cùng khổ sở. Gặp kẻ hay gièm chê, dạy quả báo

lưỡi rụt miệng lở. Gặp kẻ sân giận, dạy quả báo thân h.nh xấu xa tàn tật. Như vậy Bồ-tát Địa

Tạng ở c.i Nam Diêm-phù-đề, vận dụng trăm ngàn vạn ức phương tiện để giáo hóa chúng

sanh.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Quán Thế Âm : Trời người mệnh chung chiêm ngưỡng lễ bái

h.nh tượng, nghe danh hiệu đức Địa Tạng, sẽ được chuyển tăng phước báo về c.i trời, không

đọa ba đường ác. Nếu lại hương hoa cúng dường th. phước lợi vô biên. Sáu đạo chúng sanh

được nghe danh hiệu đức Địa Tạng lọt vào tai lúc sắp chết, sẽ thoát ba đường ác. Người bệnh

nặng hoặc mắt thấy, tai nghe, . biết thân quyến v. m.nh tô vẽ h.nh tượng Bồ-tát Địa Tạng th.

tội chướng tiêu trừ. Hoặc được sanh thiên, hoặc được khỏi bệnh. Những ai từ tâm rộng lớn

muốn thoát ba c.i, muốn cứu độ chúng sanh, nếu lễ bái thánh tượng, chuyên niệm hồng danh,

sẽ sớm m.n nguyện, không bị chướng ngại. Những ai phát tâm cầu học kinh điển đại thừa nên

nghiêm tr. trai giới. Đặt một chén nước sạch trước tượng Bồ-tát một ngày một đêm, hướng về

phương Nam trân trọng uống. Như thế 7 ngày hoặc 21 ngày sẽ được thông minh sáng suốt,

hiểu nghĩa nhớ lâu. Ai có những sợ h.i, ai có những mong cầu, cứ lễ bái h.nh tượng, tụng bổn

nguyện kinh, niệm danh hiệu ngài, sẽ được như ..

Công đức hồi hướng cho pháp giới, quyết siêu sanh tử, sẽ thành Phật đạo.

Khi ấy Thế Tôn đưa cánh tay vàng xoa đỉnh đầu Bồ-tát Địa Tạng : Này Địa Tạng ! Địa

Tạng ! H.y nhớ hôm nay, tại cung trời Đao Lợi, Như Lai đem tất cả chúng sanh phó chúc cho

ông, ông h.y giúp họ dần dần chứng đạo Vô-thượng.

Bồ-tát Địa Tạng chắp tay quỳ bạch : Cúi xin Thế Tôn chớ lo ! Cúi xin Thế Tôn chớ

lo ! Chúng sanh nào đối với Phật Pháp có được một niệm cung kính, con sẽ tận t.nh hóa độ

cho ra khỏi v.ng sanh tử, rốt ráo không thoái lui đạo Vô-thượng Bồ-đề.

Xưng dương pháp hội Bồ-tát Địa Tạng :

Đao Lợi, Thế Tôn nói pháp mầu,

Địa Tạng công hạnh rất rộng sâu.

Thánh giáo m.i truyền lưu hậu thế,

Khắp độ nhân thiên thoát khổ đau.

Từ bi quảng đại diệu khôn lường,

Cứu khổ đường mê, Địa Tạng Vương.

Tích trượng rung vang khai địa ngục,

Minh châu soi sáng hết đau thương.

Hiện thân cứu tế u minh giới,

Pháp lực giương buồm Bát Nh. thuyền,

Tiếp dẫn quần sanh lên bờ giác,

Đường đường khắp phóng ngọc hào quang.

Địa ngục chưa không thề chẳng thành Phật

Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ-đề.

Nam mô đại bi đại nguyện đại hạnh đại từ bản tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát.

  1. Ngày 6-8

GIỖ TỔ HUỆ VIỄN

Huệ Viễn đại sư họ Cổ người Nhạn Môn, bẩm tánh hiếu học, đ. thông Nho điển lại

giỏi L.o Trang. Nghe Đạo An pháp sư thuyết pháp, ngài khen : “Nào ngờ Phật thừa thâm

diệu”, liền xuất gia. Đạo An pháp sư thấy ngài chuyên cần, huyền k. rằng : “Phật pháp sẽ

được lưu hành ở phương Đông do Huệ Viễn”.

Thấy cảnh Lô Sơn rộng r.i tĩnh mịch, phải nơi hành đạo, ngài bèn lập tịnh xá Long

Tuyền. Được ít lâu, học chúng theo ngài quá đông. Sơn thần báo mộng xin cúng cây gỗ. Sau

một đêm mưa to gió b.o, cây lớn trong rừng ng. xuống ngổn ngang. Quan Thứ Sử phát tâm

dựng t.ng lâm cho ngài, để hiệu là “Đông Lâm Thần Vận Tự”.

Tại Quảng Châu, những người đánh cá thấy trên mặt biển lấp lánh ánh sáng, bèn t.m

đến xem và vớt được một pho tượng đức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát rất đẹp, liền đem tr.nh quan

Thái Thú. Tôn tượng được cung nghinh về chùa Đông Lâm, tôn trí ở nơi trang nghiêm riêng

biệt, gọi là Bát Nh. Đài.

Núi Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, đ. làm nguy hại đến tánh mạng dân cư trong vùng.

Từ ngày cất chùa Đông Lâm, rắn dữ trở nên hiền lành, thường tới chùa nghe kinh.

Đời Đông Tấn, quan phụ chính Hoàn Huyền gởi cho đại sư 2 văn kiện, yêu cầu thanh

lọc hàng ngũ xuất gia và giải tán đạo tràng, lấy l. do là đạo Phật hoang đường thiếu thiết thực,

không lợi ích cho quốc gia. Trong thời gian ấy, Tăng chúng nước Tàu bị bắt buộc hoàn tục rất

nhiều. Đại sư phúc đáp bằng lời lẽ vững mạnh đích đáng, khiến cho riêng tỉnh Giang Tây, núi

Lô Sơn, chẳng những sắc lệnh không thi hành được mà c.n là nơi trung tâm Phật hóa tại miền

Nam.

Mấy năm sau, vua An Đế xa giá đến tỉnh Giang Tây. Quan đầu tỉnh đến tận chùa, yêu

cầu ngài xuống núi, nghênh tiếp vua. Đại sư lấy cớ đau yếu khước từ. Hoàn Huyền lại gởi văn

thơ bắt buộc. Đại sư soạn văn : “Samôn Bất Kính Vương Giả Luận” gần 5 quyển để phúc đáp.

Triều đ.nh từ đấy nể trọng.

Nơi chốn đ. yên, ngài đốc thúc đại chúng hành đạo, đào ao trồng sen. Trên mặt nước

thả một bông gỗ 12 cánh, dùng định giờ để hành đạo, gọi là liên lậu.

Dần dần những nhà đại trí thức mộ đạo, như Giác Hiền, Phật Đà Gia Xá, Lưu Di Dân,

Vương Kiều Chi v.v... đến xin nhập chúng. Tụ tập được 123 người, thành lập Liên x.. Ông

Lưu Di Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào bia đá. Toàn hội tinh tấn hành đạo ngày đêm 6

thời, lần lượt đều chứng tam muội, đều được v.ng sanh, lâm chung đều có thoại ứng.

Ngài từng nói : “Các môn tam muội rất nhiều, nhưng dễ được mà công cao, duy có niệm

Phật”.

Kinh luật lưu hành ở Lô Sơn đến gần trăm thứ. Ngài trứ tác bộ “Pháp Tánh Luận”,

pháp sư Cưu Ma La Thập được xem, khen rằng : “Ông Viễn ở biên phương, chưa học Đại

Niết Bàn kinh, mà lời luận lại hợp l.”.

Ngài trụ Lô Sơn hơn 30 năm, trọn không bước chân xuống núi. Ngày đêm chuyên tâm

Tịnh-độ, lặng l.ng quán tưởng, khước từ tất cả những liên lạc thế gian, nguyện giải quyết vấn

đề sanh tử.

Một hôm có 2 danh nhân. Một nho sĩ, một đạo gia, t.m đến yết kiến. Luận bàn khế

hợp, đưa khách ra về, đại sư bất giác bước chân xuống cầu. Chợt nghe hổ rống, 3 người bừng

tỉnh, nh.n nhau cả cười rồi chia tay. Người sau đặt tên d.ng suối ấy là Hổ Khê. Trong Tây

Phương Bách Vịnh, Nhất Nguyên đại sư có thơ rằng :

Tây phương cổ giáo Thế Tôn tuyên,

Đông độ khai tông, hiệu Bạch Liên.

Mười tám đại hiền làm thượng thủ,

“Hổ Khê tam tiếu” tới nay truyền.

Năm Nghĩa Hy thứ 12, đêm 30-7 ngài nhập định nơi Bát Nh. Đài. Vừa mở mắt xuất

định, thấy Phật A Di Đà giữa hư không. Trong viên quang có vô số hóa Phật. Quán Thế Âm

Bồ-tát hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ-tát hầu bên hữu. Phật và Bồ-tát đều ngự trên t.a sen báu

sáng đẹp, 14 tia sáng quanh lộn lên xuống như v.i nước, vang diễn những pháp khổ, không,

vô thường, vô ng. và các môn ba la mật.

Đức Phật bảo ngài rằng : “V. bổn nguyện lực ta đến an ủi ông, 7 ngày nữa ông sẽ sanh

về nước ta”.

Ngài lại thấy những hội hữu trong Liên x. đ. tịch trước, như Phật Đà Gia Xá, Huệ Tr.,

Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v… bước đến chắp tay chào : “Đại sư sớm phát tâm về Tịnh-độ, sao

c.n muộn đến ngày nay ?”

Hôm sau ngài thuật lại với các đệ tử : Pháp Tịnh, Huệ Bửu v.v... và bảo rằng : “Ta đ.

3 lần thấy Phật và Thánh chúng hiện thân. Nay lại được Phật thọ k. sanh Tịnh-độ”. Rồi ngài

soạn quy chế để lại cho đại chúng. Ngày 6-8, ngài cáo biệt mọi người, đoan tọa viên tịch, thọ

83 tuổi.

  1. Ngày 7-8

GIỖ TỔ ƯU BA LY

Trong đầm g. đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Nam mô Ưu Ba Ly tôn giả, Luật tông đệ nhất Tổ sư.

Xem trong các sách chúng ta thấy có 3 Tỳ-kheo Ưu Ba Ly.

1

Đức Thế Tôn du hóa. Một người gánh phân thuộc d.ng hạ cấp tên Ưu Ba Ly, chợt gặp ngài,

định bỏ chạy. Ngài nắm tay giữ lại, người kia sợ h.i kêu lên : “Con vốn d.ng hạ tiện, xin đức

Thế Tôn chớ lại gần con mà bị ô nhiễm, xin tha lỗi cho con. Ngài là d.ng qu. phái, chúng con

đâu được phép gần”. Đức Phật dạy : “Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi, nông dân hay công nhân đều

từ sản đạo mà ra. Đâu có ai từ miệng Phạm Thiên ra đâu ? Thân nào cũng gồm có 4 chất đất,

nước, gió, lửa, đâu có ai khác. Bà-la-môn hay Sát-đế-lợi mà thân miệng . ác th. hiện đời là ô

nhiễm, pháp luật không dung, mạng chung đọa về đường khổ. Dù nông dân hay công nhân mà

thân miệng . thiện lành th. hiện đời là thanh tịnh, mọi người qu. mến, mạng chung đều về c.i

trời. Ngươi có chịu vào đạo ta không ? Cả 4 giai cấp đều đ. có người vào trong đạo ta. Đạo ta

không phân chia giai cấp, chỉ có một vị là vị giải thoát. Như 100 sông một khi đ. chảy vào

biển th. h.a đồng thành một vị mặn gọi là nước biển”. Người kia vui mừng sụp lạy xin xuất

gia.

2

Có 8 vương tử rủ nhau đi xuất gia, cởi bỏ đồ trang sức cho anh thợ cạo tên Ưu Ba Ly. Trên

đường về, anh ta suy nghĩ : “Các vương tử đầy đủ hạnh phúc thế gian mà buông xả hết để

xuất gia. Vậy xuất gia hẳn phải cao qu. lắm. Tại sao ta không mong cầu ? Những thứ này họ

xả bỏ, tại sao ta thu nhận ?” Anh liền treo tất cả lên một cành cây. Rồi ba chân bốn cẳng vội

chạy theo 8 vương tử, xin cũng được xuất gia. Tám vương tử bảo nhau : “Chúng ta vốn d.ng

Sát-đế-lợi, Ưu Ba Ly là kẻ công nhân. Thói quen phân biệt giai cấp khó trừ, bệnh kiêu mạn đ.

sẵn ở trong d.ng máu. Nay chúng ta nên nhường cho Ưu Ba Ly xuất gia trước, chúng ta thọ

giới sau. Như vậy bắt buộc chúng ta phải đảnh lễ Ưu Ba Ly là thượng t.a, do đây chúng ta dễ

dàng khiêm tốn”. Cả Ưu Ba Ly và 8 vương tử đều chứng quả A-la-hán.

3

KINH LĂNG NGHIÊM : Ưu Ba Ly đảnh lễ chân Phật bạch rằng : “Chính con theo Phật vượt

thành xuất gia, chứng kiến đức Phật 6 năm khổ hạnh, hàng phục tà ma, đối trị ngoại đạo, giải

thoát các lậu thế gian, con giữ giới 3 ngàn oai nghi 8 vạn tế hạnh, tánh nghiệp giá nghiệp thảy

đều thanh tịnh. Thân tâm tịch diệt thành A-la-hán. Giữ giới tu thân con là cương kỷ đệ nhất

trong chúng. Phật hỏi viên thông, con do giữ thân, thân được tự tại. Con lại giữ tâm, tâm được

thông suốt. Thân tâm thông lợi đó là hơn cả”.

* * *

Ba câu chuyện trên nói về 3 ngài Ưu Ba Ly khác nhau. Chỉ có ở kinh Lăng Nghiêm,

đích thân ngài Ưu Ba Ly tự kể lại tiểu sử của m.nh, chúng ta tin được đây thật là đệ nhất Tổ

sư về Luật tông của trái đất này.

  1. Ngày 8-8

GIỖ TỔ ANAN

Anan là tiếng Ấn Độ, Tàu dịch là Khánh Hỷ. Sanh sau Phật 30 năm, nhằm đêm Phật

thành đạo. Ngài là con vua Hộc Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, em ruột Đề Bà Đạt Đa, em con

chú của đức Thích Ca. Tướng hảo tươi đẹp, thông minh tuyệt vời, 25 tuổi xuất gia. Đại chúng

cử ngài làm thị giả Phật. Ngài nhận lời với 3 điều kiện :

1) Không theo Phật đi thọ trai riêng nếu thí chủ không mời ngài.

2) Không mặc y thừa của Phật.

3) Không đến Phật phi thời.

Phật khen Anan khôn ngoan, biết tránh trước những cơ hiềm.

Anan c.n được Phật khen ngợi một điều đặc biệt : Cả 4 chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,

Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, ai được thấy h.nh bóng Anan cũng vui mừng, ai được chiêm ngưỡng

nghi dung càng vui mừng, ai được nghe Anan thuyết pháp lại càng vui mừng hơn.

Thuở ấy đức Thế Tôn ở nước Thích Xí Xấu, Ma-ha Ba Xà Ba Đề cùng 500 nữ xá-di

xin Phật xuất gia. Phật không chấp thuận. Ngài Anan bạch : Nữ nhân xuất gia có thể chứng

quả. Xin đức Thế Tôn mở cửa giải thoát cho họ. Do đây toàn thể Ni chúng được thành lập.

Truyền m.i cho tới ngày nay, khắp châu Á, đ. 3000 năm, Ni giới vẫn mát mẻ như

vầng trăng sáng. Trong khi đại Tăng giáo hóa khắp 5 châu như mặt trời chói chan nuôi dưỡng

muôn loài.

Phật Niết-bàn rồi, đại chúng cử ngài Anan lên pháp t.a, trùng tuyên lại những kinh

Phật đ. nói. Cả đại chúng đều sa nước mắt v. nghe ngài trùng tuyên không khác Phật một lời.

Ai nấy ngậm ngùi v. chư Tăng vắng Phật như v.m trời toàn sao mà không trăng.

Một hôm ngài hỏi Tổ Ca Diếp : Đức Phật trao y bát, ngoài ra c.n có pháp g. truyền

riêng cho Sư huynh không ? Tổ Ca Diếp liền gọi : Anan ! Ngài ứng đáp : Dạ ! — Cây cột

phướn trước chùa bị ng..

Anan đại ngộ. Tổ Ca Diếp đọc kệ trao chánh pháp nh.n tạng cho ngài :

Pháp pháp bổn lai pháp.

Vô pháp, vô phi pháp.

Hà ư nhất pháp trung,

Hữu pháp, hữu phi pháp.

Dịch . :

Vạn pháp xưa nay vẫn từ chân tâm hiển hiện. Không có chi là thật pháp, cũng không

có chi là phi pháp.

Về sau Thương Na H.a Tu thâm ngộ diệu tâm, kế thừa ngài làm Tổ thứ 3. Ngài trao

bài kệ :

Bổn lai truyền hữu pháp,

Truyền liễu, ngôn vô pháp.

Các pháp tu tự ngộ.

Ngộ liễu, vô vô pháp.

Dịch . :

Xưa nay vẫn có truyền pháp, truyền rồi lại nói không có pháp. Ai nấy cần tự ngộ chân

tâm. Ngộ rồi, không phải là không có pháp.

Tổ Anan kết già thị tịch ở trên một chiếc thuyền lơ lửng giữa sông Hằng. Bờ bên này

vua A Xà Thế, bờ bên kia vua Tỳ Xá Ly, 2 vua đảnh lễ thỉnh ngài lưu lại thế gian không

được, cùng nhau tổ chức lễ trà tỳ, phân chia xá lợi, xây tháp cúng dường.

  1. BÁNH TRUNG THU

H.a-thượng BỬU LAI đ.i Tu viện Hương Nghiêm rằm tháng 8 năm Đinh M.o (1987)

Phật pháp mênh mông như biển cả, chúng sanh tùy phận lượng mà hưởng thọ. Con voi, con

muỗi cùng uống nước sông, tuy số lượng thâu nhập có nhiều ít khác nhau, nhưng sự đ. khát

  1. đồng đều thỏa m.n. Kinh Hoa Nghiêm nói : “Phật, tâm, chúng sanh tam vô sai biệt”.

Chúng sanh tạo nghiệp chịu báo, khiến các trí tuệ đức tướng vốn sẵn có bị che lấp.

Vầng trăng tuy bị mây che, bản thể vẫn trong sáng. Cho nên Như Lai tận t.nh cứu vớt, tùy

theo căn cơ đặt ra. Nào Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm... đủ thứ pháp môn.

Chung quy không ngoài cái . đưa chúng sanh ra khỏi nhà lửa sanh tử để trở về tâm thể bổn

lai”.

Thuyết thiện ác báo ứng, nhân quả luân hồi, phổ thông giáo hóa gây thành thuần

phong mỹ tục cho các quốc gia.

Hiện nay ở Việt Nam, Phật giáo đang lưu hành 5 tông môn lớn :

1- Giáo tông chuyên giảng kinh thuyết pháp, hoằng dương Phật đạo.

2- Luật tông nghiêm chế ba nghiệp, thanh tịnh thân tâm.

3- Thiền tông chỉ thẳng nhân tâm, thấy tánh thành Phật.

4- Mật tông tr. chú Tổng Tr..

5- Tịnh-độ tông nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc, tựa hồ là một tông phái riêng

biệt, nhưng thật có bao gồm cả các tông trên.

Theo l., pháp-thân A Di Đà là bản thể của tất cả pháp. Không một pháp nào, sự vật

nào ngoài cái thể tánh A Di Đà. Vậy Giáo tông giảng thuyết bao nhiêu cũng chỉ là giải nghĩa 4

chữ A Di Đà Phật. Nhất tâm niệm Phật, huân tập chủng tử Bồ-đề, chuyển vọng thành chân,

tức là hợp với pháp tướng tông chuyển thức thành trí. Thật tướng niệm Phật, ly khai tâm .

văn tự, trực nhận chân tâm, tức là hợp với thiền quán. Tâm tịnh th. độ tịnh. Đ. gọi là Tịnh-độ

tông chẳng thể rời bỏ giới luật. Niệm Phật cho nhất tâm th. 4 chữ A Di Đà Phật chính là thần

chú tổng tr. của Mật tông.

Ai cũng biết tất cả các pháp môn đều đưa đến một mục đích thành Phật. Nhưng các

pháp môn khác đều nương tự lực như người đi bộ. C.n pháp môn Tịnh-độ nương nhờ tha lực

như có tàu xe, phí ít sức mà hiệu lực nhiều, dễ thành công lại mau chóng. Phật A Di Đà như

ông tài xế lái xe. Chẳng những có thế lực giúp chúng ta đới nghiệp v.ng sanh (như kẻ què vẫn

tới được) c.n bảo đảm an ổn ngoại ma không khuấy nhiễu (như thoát giặc cướp trên đường

hiểm).

Chỉ có một điều là cần miên mật công phu, đi đứng nằm ngồi chớ quên niệm Phật. Lơ

là th. chỉ được chút tịnh nhân chớ quyết nhiên không thể v.ng sanh. Chúng ta đừng sợ Phật

không đến rước, chỉ lo rằng : “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn. Tay lần tràng hạt dạ đâu đâu”.

Như vậy không phải niệm Phật mà niệm ma, đ. vời ma th. ma đến. Người niệm Phật

phải tin chắc đức Thích Ca không nói dối, Phật Di Đà không nguyện suông, c.i Cực Lạc có

thật, cảnh trang nghiêm chính đ. từ công đức mà thành.

C.i Ta Bà thật khổ nay nguyện thoát ly. C.i An Lạc toàn vui nay nguyện sớm về. Tín

nguyện này cần rắn chắc như kim cang, vững ch.i như núi thái sơn. Vội vàng niệm Phật, thiết

tha niệm Phật như cứu lửa cháy trên đầu, như người bơi thuyền lánh nạn. Không thể dùng

dằng tr. ho.n, há c.n có th. giờ ngao du ngắm cảnh.

Con heo thích ngủ ham ăn,

Muôn đời nối tiếp bán thân làm hàng.

Con người thích ngủ ham ăn,

Muôn đời nối tiếp trôi lăn luân hồi.

Vậy xin đại chúng mạnh dạn thực hành đi. Hễ c.i Ta Bà đủ tín nguyện hạnh thời bên

trời Tây hoa sen nẩy mầm tươi tốt. Thánh thai thơm ngát trong nước bát công đức sáng ngời.

Sắc thanh hương vị xúc siêu phàm, chính từ mỗi niệm mỗi niệm ta giác tỉnh thanh tịnh.

Ấn Quang đại sư dạy rằng : “Chín c.i chúng sanh rời pháp môn này, chẳng thể viên

thành Phật quả. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này, không thể khắp độ quần sanh”.

— Tay lần 108 hạt,

Diệt tội đẳng hà sa,

Xa l.a ba đường khổ,

Rực rỡ sen nở hoa.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

— Sông ái ngàn thước sóng,

Biển khổ vạn trùng ba.

Muốn thoát luân hồi ngục

Sớm gấp niệm Di Đà.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

— Di Đà tướng tốt lạ lùng,

Hào quang soi sáng khắp cùng mười phương,

Từ bi oai đức không lường,

Sẵn sàng tế độ sáu đường chúng sanh.

Được thấy tướng, được nghe danh

Là nhờ kiếp trước căn lành trồng sâu.

Thế Tôn đủ phép nhiệm mầu

Chúng con muôn loại cúi đầu quy y.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

  1. Ngày 15 - 8 – 1981

TRĂNG LĂNG NGHIÊM

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch trên Thầy ! Kính thưa qu. Sư cô cùng toàn thể đại chúng.

Đêm nay trời vừa tạnh, trăng rằm tr.n sáng. Tết trung thu khai mạc. Tụng kinh Dược

Sư, mâm cỗ đủ 49 ngọn đèn rực rỡ. Chưa kể bao nhiêu ánh sáng từ trên bàn thờ tỏa xuống. Cỗ

trung thu Liên Hoa năm nay thật to. Nên toàn chúng đ. đồng l.ng t.nh nguyện đem tất cả tới

bệnh viện Thị Nghè chia cho cả ngàn người già trẻ lớn bé. Mỗi người một miếng bánh đ.

được tr. chú Dược Sư. Kết duyên với 12 đại nguyện, mai sau có phần trong đạo quả Bồ-đề.

Chúng con khôn xiết cảm động, không biết bao đời đ. gieo trồng thiện căn, nay được

dự hàng Tăng chúng, thừa hưởng nền giáo l. tối thượng, đích thân học tập công hạnh Bồ-tát

tự lợi, lợi tha. V. toàn chúng không được ăn cỗ nên Thầy chỉ dạy : Mỗi người phải góp một đề

mục để cống hiến đại chúng vào ngày mừng trăng sáng. Con Tỳ-kheo-ni Huệ Nghiêm có bổn

phận phải nói về mặt trăng Lăng Nghiêm.

Mặt trăng thật năm nay chiếu, năm ngoái chiếu, sang năm chiếu. Từ hồi có trái đất,

đến khi trái đất tan r., mặt trăng vẫn luôn thường chiếu. Sáng trăng phá đêm tối, dịu sức nóng,

đem mát mẻ. Chân tâm thanh tịnh của chúng ta viên m.n thường trụ khắp pháp giới. Mê tâm

là sanh tử, ngộ tâm là Niết-bàn. Phật và chúng sanh thể đồng, chỉ do tỉnh mê mà thành khác.

Biết được tâm này, đốn đoạn mê căn từ lịch kiếp. Huệ Năng ngộ được tâm này, liền ở

núi Hoàng Mai khai đạo “bản lai vô nhất vật”, l.nh y bát, làm Tổ thứ 6. Ngộ được chân tâm,

hằng sa tánh đức hiện tiền. Nên gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

Mặt trăng thứ 2 như người đè mí mắt nh.n lên mặt trăng, thấy bên cạnh có bóng lóe.

Mặt trăng của người này gọi là mặt trăng thứ 2. Mặt trăng này chính là mặt trăng thật, chỉ v.

mí mắt bị đè nên thấy lóe thêm một v.ng sáng.

Thức tinh nguyên minh tuy chưa phải là chân tâm, v. c.n đeo vọng kiến, nhưng thật

không l.a chân tâm, vốn vẫn tịch thường viên thông. Chính là nguồn sống hằng ngày chúng ta

không thể rời, nó lưu lộ ở sáu căn. Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, tuy 6 công dụng khác

nhau nhưng đồng một thể tinh minh. Như trong nhà có đèn, ánh sáng tỏa ra khắp các cửa. Cửa

có nhiều loại vuông, tr.n, rộng, hẹp, cao, thấp. Ánh sáng tỏa ra thành 6 h.nh sai khác nhưng ở

trong nhà chỉ có một đèn. Đêm tối ở xa muốn cầu đèn, cần nương một ánh sáng mà vào. Cũng

thế, muốn trở về bản giác thường trụ diệu minh, nên y theo tánh thấy hoặc tánh nghe, một

trong 6 căn, mà bội trần hợp giác. Trải bao kiếp sanh tử, tánh thấy tánh nghe không hề thay

đổi. V. là chân tâm nên vẫn thường trụ bất động.

Chúng sanh lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, niệm niệm sanh diệt, quên bỏ chân

tâm, điên đảo tạo nghiệp, oan uổng lưu chuyển, thật là đáng thương. Nhưng dù đọa lạc ba

đường hay thành thánh quả, tánh thấy tánh nghe vẫn không biến đổi.

Kinh Lăng Nghiêm dạy đó là Như Lai mật nhân, đích chỉ thức tinh nguyên minh là căn bản

Bồ-đề.

Trăng đáy nước : Người ngu thấy dưới l.ng nước có trăng, lao đầu xuống m. kiếm.

Nhọc sức luống uổng mà c.n phải chịu cái khổ chết ch.m. Chúng sanh từ lịch kiếp lầm nhận

vọng tưởng phân biệt duyên theo 6 trần làm tâm. Suốt đời vất vả mưu cầu hạnh phúc h.o

huyền, kết cuộc chẳng nắm bắt được g.. Tâm phan duyên nuôi ba độc tham sân si, đưa đến

sát, đạo, dâm, vọng để trầm nịch luân hồi, không biết đến bao giờ mới ngóc đầu ra.

* * *

Muốn thưởng thức ánh trăng diệu tịnh minh tâm, Phật tử h.y nghe lời kinh dạy : Các

ông đem duyên tâm nghe pháp th. chỉ được pháp duyên chớ chẳng được pháp tánh. Như

người lấy tay chỉ mặt trăng. Ta nên nhân ngón tay mà nh.n mặt trăng. Nếu cứ khư khư ngó

ngón tay, cho ngón tay là mặt trăng, th. đâu chỉ mất mặt trăng, người ấy mất luôn ngón tay,

mất cả sáng và tối.

Tụng kinh không lo vào tri kiến Phật, sống với bổn diệu minh tâm. Cứ tự cho tụng

niệm là bổn phận, th. chẳng những không minh tâm kiến tánh mà c.n không biết kinh là g.,

đến nỗi mất phần trí tuệ, lại c.n không tự biết chỗ ngu tối của m.nh.

Muốn vào tri kiến Phật, trước hết phải xa l.a tri kiến chúng sanh. Cần bỏ tay ấn mắt, để

thấy mặt trăng thật. Việc đầu tiên là phát tâm Bồ-đề. Chớ tham luyến trần duyên. Trăng đáy

nước là một bóng ảnh giả, chỉ có tướng sáng mà không có lực dụng chiếu soi phá tối. Vọng

tâm do nhân duyên sanh. Nhân là nghiệp. Duyên là 6 trần. Như người có nghiệp tham, thấy

tiền liền khởi tâm ăn cắp. Người ngu si sống với vọng tâm, không giác tỉnh 6 căn huyễn hóa,

6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm, khởi tưởng chấp ta chấp cảnh, rông rỡ sát, đạo, dâm, vọng. Khổ

báo chướng nạn chẳng thể trở về chân tâm bản tánh, pháp-thân thường trụ.

Phải ngửa lên nh.n trăng thật, nghĩa là vận sức trí tuệ quay về sống với bổn giác, khi

ấy sẽ thấy 5 ấm hư vọng vốn là Như Lai Tạng.

Trong đêm dài sanh tử, muôn loài ch.m đắm. Muốn trở về nhà phải nương mặt trăng

thứ 2, tức là thức tinh nguyên minh, làm nhân địa tu hành để vong trần hợp giác. Dĩ nhiên

phản văn cũng như tất cả các pháp môn khác, trước hết cần nghiêm tr. giới luật, thâu nhiếp 6

căn.

Kinh chép : Ngài Xá Lợi Phất than rằng : “Thương thay ! Những kẻ m. trăng đáy

nước đến nỗi chết ch.m”. Phật đáp : “Đúng thế ! Thật đáng thương xót ! Nhưng đáng thương

hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.

Thế gian t.m hạnh phúc nơi căn trần huyễn ảo, mở ra sáu đạo luân hồi, ba đường đau

khổ, quả t.nh đáng thương. Nhưng nhị thừa đắm chấp Niết-bàn thiên không, đâu biết đến cái

vui phước tuệ trang nghiêm Vô-thượng Bồ-đề. Trong các kinh thường có sự so sánh : A-lahán

nhiều như lúa, mè, tre, lau không bằng công đức một người phát tâm quy nguyên.

Trước khi dứt lời, v. không quên vô số sinh linh đang quằn quại trong v.ng hoặc

nghiệp khổ, chúng con phát nguyện cố gắng và cố gắng hơn nữa, nương ánh sáng trí tuệ và

gương mẫu từ bi của chư Phật, Bồ-tát, t.m về ánh trăng chân thật để trên đền bốn ân, dưới cứu

khổ muôn loài.

Đây là món quà trung thu con kính dâng lên Thầy và đại chúng chứng minh.

  1. Ngày 20-8

Biệt Khoa Giỗ Tổ PHÙNG KHOANG

1- Đảnh lễ đấng vô thượng Từ Tôn. Bởi v. tuệ giám không xa nên chúng con tàn dung

hữu hạnh (1 lễ).

2- Phật nhập Niết-bàn, ngót 3 ngàn năm, Ni chúng b.nh an tu hành như vầng trăng tr.n

sáng không mờ, toàn nhờ công đức Ananđà Tôn giả (1 lễ).

3- Những ai có duyên với nhất thừa nên nhớ công phu Long Nữ trực nhận Phật tánh

chân tâm, mà cố gắng thông suốt 3 pháp quán để vong t.nh tiến bộ (1 lễ).

4- Lại nguyện Đại Ái Đạo tôn giả không xả từ bi, thầm gia hộ lậu chất biến thành tam

muội chất (1 lễ).

5- Da Du Đà La tôn giả, trí quang soi tỏ, cô tâm chuyển thành lục h.a tâm. Khiến cho

pháp tử chúng con, cây đạo thêm cao, b.nh an cát khánh, ví như hàng trăm hạt ngọc được mài

giũa thành những chuỗi minh châu thanh tịnh trong sáng (1 lễ).

Trầm hương vừa bén lửa

Xuân giới ngào ngạt thơm,

Vần vần kết mây lành

Gần xa đều mông huân.

Thiền vị diệu thường chân tánh.

Tôn sư linh giác hiện thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Hoa tươi hương ngát, ánh đèn đuốc sáng,

Đối trước di ảnh, chúng con xưng tán :

Núi tuyết trinh trắng giữa hồng trần,

Hoàng Mai lửa tuệ khác nhân gian.

Huyện Hoàn Long, nước 8 công đức thanh lương.

Phủ Hoài Đức, 5 phần chân hương thắng diệu.

Mảnh đất Phùng Khoang chân như trụ.

Rừng hoa Liên Phái học nhiều môn.

Hôm nay khải thỉnh trước thiền sàng,

Nguyện Tổ chứng tâm mà giáng phó.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

BỞI V.

Có minh tâm mới kiến tánh

Muốn thỉnh Tôn Đức lai lâm

Cần phải trai diên khiết tịnh.

(một chén nước nhỏ, một cành lá, vừa bắt ấn vừa đọc :)

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế,

Đầu mặt đảnh lễ thất câu chi.

Con nay xưng tán đại Chuẩn Đề,

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.

Nam mô tát đá nẫm, tam miểu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha. Ám chiết lệ chủ lệ

chuẩn đề sa bà ha (3 biến).

(vừa rẩy nước vừa đọc :)

Trời Nam một vị mưa pháp chan h.a,

Âm dương đồng gội ân đức tam-ma,

Phước thọ tăng gia Thanh Xuân nở hoa.

Nam mô Thanh Lương Địa Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

THIẾT NGHĨ

Tâm tánh viên minh, thần quang chiếu diệu. Muốn đạt cảnh giới trang nghiêm, cần

phải ngát hương giải thoát. Hương này Bắc Châu gây giống, Nam Hải tưới nhuần. Giáng cách

thoát tục, thể chất phi phàm. Quang sáng nguy nguy hơn nhật nguyệt. Tốt tươi cánh triệt cả

sơn hà. Đốt không ra khói, ngạt ngào thầm cúng dường đất Tam-bảo. Thiêu không tan r., viên

thông giao cảm suốt 4 trời thiền. Cung kính thắp chân hương bảo triện, ngưỡng vọng linh giác

Tôn sư.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ-tát ma-ha-tát.

KÍNH NGHE

Hoa ưu đàm báo điềm lành, hương phước quả bay rất xa. R. biết chân như, không c.n

kia đây sai khác. Ngay tại một chỗ, đâu có phân biệt thánh phàm. Tây phương tuy thật xa

nhưng nhất chân tịnh diệu vẫn thấu suốt. Nam Hải tuy chẳng gần nhưng một niệm tịnh thành

vẫn cảm thông. Cổ đức dạy : Sợi chỉ cây kim khó đáp nên chỗ thấy chỗ hiểu phải đúc thành

chí khí. Áo bát tín thí khôn đền nên giới định tuệ phải nhuận thân hiện tại.

Trải chiếu cỏ thơm, vọng về Thanh Xuân, chí thành tin chắc, đấng hư linh biến hóa

vẫn thầm thông ngầm cảm.

Nam mô bộ bộ đế rị, già rị đá rị đát đa nga đa gia (3 biến).

Pháp tử kiền thành thượng hương bái thỉnh.

1

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Tây phương Vô Lượng Thọ, Đông độ Thích Ca Văn, cầm giây vàng khai đường giác,

dùng bè báu độ bến mê.

Thân phụ ở làng Phương Liệt họ Nguyễn danh gia, thân mẫu người Hoàng Tổng vốn

công nương thế phiệt. Nhỏ tuổi đ. theo mẹ vào cửa thiền. Đến lớn vẫn đề huề trong Thích

giáo.

Dù ở chỗ đông vui, trông lên mây vần biến đổi trên trời. Nhàn nh. nơi thanh vắng,

nh.n xuống, k.a vẫn bóng trăng đáy nước. Đốn liễu thiền cơ, cuộc đời giấc mộng. Ngắm cảnh

phát minh l. duy tâm. L.ng thấm Phật đạo, xu hướng xuất gia. Đây là chỗ dung chứa như

biển cả nạp trăm sông. Đây là nơi giải thoát như hư không hàm vạn tượng.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Duy nguyện quang giáng thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

2

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Quán Âm Thế Chí đồng bạn, trong ao bát đức tắm mát, chín phẩm sen vàng tiêu dao.

Cạo đầu nhuộm áo chốn Thanh Xuân, 16 tuổi tam quy ngũ giới. Ân cần học hỏi, như

giáo phụng hành, thọ Sadini Thức xoa năm 18. 21 tuổi lên ngôi vị Thanh-văn. Tiến tu đội luật

mang b.nh, cung kính giữ phận con em. Đi đứng nằm ngồi, nhất nhất không dám trái lời Sư

phụ.

Thân thừa huyền châm chùa Liên Phái. Ba tháng hạ luật thân thắng tiến, sáng tỏ thiền

đăng, pháp thủy chan h.a. Sáu tháng thu dạy chúng tọa thiền, khai pháp tịch khiến Thanh

Xuân hoa nở.

Thảnh thơi một m.nh, nương tựa bảo tướng liên hoa. Nhàn nh. an vui chuỗi tràng

niệm Phật.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Thiền đường bóng nguyệt nay đâu vắng ? Trên trời xanh mây trắng v.ng lai. Duy

nguyện Tôn sư giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

3

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát, thiện bạn đề huề, ra khỏi nguồn sâu phiền n.o, lên bờ

kia tới Bồ-đề.

Đẹp thay Thanh Xuân, khung trời c.i phạm ! Nhưng thế sự vô thường, bóng quang âm

qua mau. Chỉ niệm Di Đà không chi khác, móng tay chưa gảy, đ. tới Tây phương.

Năm Mậu Tuất tháng 8 ngày 20, Tôn sư quy Tịnh-độ.

Nam mô Xuân Phương tháp, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp

danh Đàm Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, Tôn sư thiền tọa hạ.

Thần thức đ. vượt khỏi nhân gian vô thường, duy nguyện quang giáng thiền đường

chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

4

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Nam Thiên pháp lữ, phước địa thiền đồ, xuất gia tu đạo, bậc Thầy thông luật, yết ma

giáo thọ trượng đường, H.a-thượng Xà-lê nghiêm tọa. Khắp cùng mười phương Tỳ-kheo-ni,

Thức xoa ma na, Sadini, Ưu-bà-di, 7 chúng Phật tử, những người khai sáng già lam, thí đất,

thí ruộng, đào giếng, đắp đường, lịch đại lũy kiếp gia nương, nhất thiết chư vị giác linh thiền

tọa hạ.

HƯƠNG HOA THỈNH

5

NHẤT TÂM PHỤNG THỈNH :

Bồi triệu ân sâu, sanh thành đức hậu. Dưới thềm lan nh., cây non nở hoa ưu đàm.

Trong đám h.e quế, bỗng nhiên mọc cây Bồ-đề.

Nội ngoại đồng khí liền cành, cao thấp trước sau quyến thuộc, nguyện đều phát tâm

xuất thế. Xưa kia mỗi kẻ một đường, nay cầu đồng sanh An dưỡng.

Cung duy Tôn sư gia tiên tổ khảo Nguyễn Thuần Tích, Phủ quân.

Tổ tỷ Đỗ Thị Cẩm hiệu Diệu Vạn, Nhũ nhân.

Thứ mẫu Tạ Thị Nẫm hiệu Diệu Minh, Nghi nhân.

Tôn sư gia tiên tổ khảo Hoàng Thuần Nghi, Phủ quân.

Tổ tỷ Trương Thị Yêm hiệu Diệu Viên, Nhũ nhân.

Khắp cùng cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, trùng trùng quyến thuộc các hương hồn.

Duy nguyện giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

6

Hồng chung trong không cốc vang xa, tất cả hữu t.nh đều nghe tiếng. Duy nguyện

giáng phó thiền đường chứng minh cúng dường.

HƯƠNG HOA THỈNH

* * *

Pháp tử : (tên) dập đầu phụng hiến lễ bạc :

— Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lô chỉ đế, ám tam bạt la tam bạt la hồng (7 biến).

— Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Ám tô rô tô rô, bát la tô rô, bát la tô rô,

sa bà ha (7 biến).

Món ăn sắc hương vị, trên cúng mười phương Phật, dưới cúng các Tổ sư khắp đến 6

đạo phẩm, cúng dường không sai biệt. Tùy duyên đều đầy đủ. Khiến người bá thí, được vô

lượng ba la mật.

—Ám nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật la hộc (7 biến).

— Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

SỚ VĂN

Tín căn nhất niệm, linh giác chứng minh, cung dâng văn sớ, kính xin tuyên đọc :

Mây sớm mưa chiều, d.ng sông sanh tử xuôi xuôi chảy. Pháp thuyền đưa chúng con

lên bờ giác, hôm nay rời bến đi đâu.

THIẾT NIỆM

Bổn sư một đời chăm tu thắng nhân vô lậu, v. đ. tỉnh mộng huyễn hữu vi. Nay thoát

lồng ba c.i, trở về đất tịnh, báo địa diệu cực trang nghiêm. Hiếu đồ chúng con tâm thành cung

thỉnh Tôn sư linh giác, ma ha Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, húy Thường Nga, pháp danh Đàm

Uyển, hiệu Minh Mẫn Trinh Trinh, quang lâm Linh Quang Ni viện, chứng minh cúng dường.

Duy nguyện Tôn sư đạt liên cung thượng phẩm, ngự cảnh An Dưỡng quê hương, phước tuệ

nghiêm thân, ấn Tổ lưu truyền, đèn Phật sáng trưng m.i m.i.

Tấc dạ đan thành thống thiết, đệ tử chúng con khấu đầu đảnh lễ tam bái thượng sớ.

Đốt sớ (tụng Bát Nh. Tâm Kinh).

Bát Nh. ba la diệu tối linh,

Đại bi vô ngại nhuận quần sinh.

Không không ngũ uẩn đại thần chú

Nhất điểm linh tâm triệt diệu minh.

Nam mô Quán Tự Tại Bồ-tát ma-ha-tát.

Nay trai diên thâu kết, Tôn sư nhẹ gót đường mây.

Đạp bỏ hồng trần như dép cỏ,

Đào hoa nước chảy chẳng quan tâm.

Ái hà rửa chân lên bờ giác,

Tịnh-độ chuyên tâm hướng kim đài.

Nam mô Sanh Tịnh Độ Bồ-tát ma-ha-tát.

  1. Ngày 19-9

QUÁN ÂM THỊ KÍNH

QUÁN ÂM : Quan sát âm thanh kêu khổ để cứu vớt.

THỊ KÍNH : Thời xưa, đặt tên đàn ông dùng chữ Văn, đàn bà dùng chữ Thị để phân

biệt.

KÍNH : Nghiêm cẩn không buông lung. Hễ sống đúng với chữ Kính là đ. xong được

nửa đường đạo. Kinh Phổ Môn dạy : Bất luận nội chướng hay ngoại chướng, thường niệm

cung kính Quán Thế Âm Bồ-tát đều được giải thoát.

BẢN HẠNH : Công hạnh từ lúc tu nhân. Như Quán Âm Thị Kính đặc biệt tu hạnh

nhẫn nhục. Quán Âm Nam Hải đặc biệt tu 2 hạnh tinh tấn và từ bi.

TỰA

1- CHỈ ĐƯỜNG CHÁNH GIÁC :

Phật : Tự giác, giác tha, giác hành viên m.n.

— Tự giác : Thân do đất, nước, gió, lửa giả hợp thành h.nh. Lầm chấp ta người, mở ra

ba độc tham sân si, tạo những nghiệp sát đạo dâm vọng để tự chiêu vời quả báo luân hồi sanh

tử. Giải thoát vô minh, trở về sống với chân tâm bản tánh gọi là Giác.

— Giác tha : Đem chỗ đ. tự giác, dạy người chưa biết.

— Giác hành viên m.n : Trọn vẹn 2 điều trên.

2- MỘT NIỆM VÔ MINH :

Kinh dạy : “Vạn pháp duy tâm”. Luận Khởi Tín giải thích : Muôn sự muôn vật ở thế

gian cho đến cả Phật pháp cũng đều do tâm tạo. Chữ Tâm đây là nói vọng tâm. Giữ tâm chân

chánh th. thành Phật. Một niệm sằng bậy là ươm một nhân xấu, sẽ kết trăm ngàn quả khổ.

Cũng như một hạt đa nẩy mầm phát triển thành một cây đa. Mỗi năm sẽ có bao nhiêu

quả. Nhân quả sinh sôi nảy nở như thế nên người tu cần chánh niệm mới mong thoát trầm

luân. Đức Thích Ca hiện thân một mỹ nữ đến thử một tu sĩ. Thay v. từ chối thẳng, tu sĩ đáp :

“Có chăng kiếp khác họa là. Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay”. Thế là hứa hẹn một kiếp sau.

Vọng tâm chưa dứt tuyệt nên phải tái sanh làm thân con gái. Kinh Lăng Nghiêm dạy :

Nếu c.n tơ hào tâm dâm dục không thể hy vọng giải thoát.

3- NHÂN DUYÊN HỘI NGỘ :

Thị Kính sắc đẹp nết ngoan. Thiện Sĩ tài học hơn người. Đôi bên cha mẹ vun vào nên

thành gia thất. Để biết tài và sắc là 2 thứ thế gian mê say ham chuộng thật chẳng phải là gốc

hạnh phúc.

CHÁNH TÔNG

1- GIẢ HỢP GIẢ LY :

Nhân duyên đ. thuận th. làm sao tránh quả ràng buộc. Phật dạy : Tâm làm chủ, tâm

dẫn đường, tâm đưa lên thiên đường, tâm đưa vào địa ngục. Các Tổ đinh ninh dặn d. : Cẩn

thận chớ buông lung ba nghiệp. Với thế gian th. không g. sung sướng bằng vợ chồng h.a hợp.

Ai thấy cảnh bà Thị Kính chẳng khen ngợi thèm thuồng, chẳng reo h. nhảy nhót đổ xô

nhau vào. Con mắt Phật thấy là tấn tuồng ảo hóa, một giấc chiêm bao.

Canh khuya Thiện Sĩ đọc sách mỏi mệt, ngả lưng bên cạnh Thị Kính. Thấy hàng râu

của chồng cạo chẳng được đều, cô cầm dao con cúi xuống định sửa. Chợt Thiện Sĩ mở mắt hô

hoán : “Cắt cổ giết người”. Bà mẹ chồng bước vào ấn định ngay : “Cô này đ. mắc vào người

nào khác nên muốn hại chồng”. Vội vàng trả cô về nhà cha mẹ ruột.

Ngán thay chữa dép vườn dưa,

Dù ngay cho mấy cũng ngờ là gian.

Thế là tan hạnh phúc ! Bậc trí tuệ chẳng ham sung sướng, chẳng sợ khổ đau, cứ thuận

theo lẽ phải. Như vậy mới có thể sống ung dung tự tại, chết giải thoát siêu thăng.

2- DỨT NỢ TRẦN DUYÊN :

Thị Kính gặp cảnh éo le, chợt tỉnh mộng đời, quyết chí đi tu. Biết cha mẹ không chấp

thuận. Cô đành giả trai, trốn nhà đi xa, t.m vào Vân Tự, được Sư cụ đặt tên là tiểu Kính Tâm.

Đây là cốt tủy bộ Bản Hạnh này. Tâm l. con người, hễ chán th. ruồng rẫy ghét bỏ, hễ

thích th. gần gũi vơ vào. Cả 2 cực đoan này đều có sức mạnh. Người trí tuệ biết thích cái hay,

kết quả đi đến thanh cao tự tại. Kẻ ngu thích bậy, kết quả tạo ác đọa lạc. Trí tuệ trạch pháp

thật là quan hệ. Người biết bản tánh là Phật, tu Phật hạnh sẽ về cảnh Phật. Tin được như thế sẽ

chán dục lạc thế gian, rửa sạch tham sân si. Tự m.nh giác tỉnh, lại đem đạo l. soi tỏ cho

người. Cùng nhau bỏ lối gai rậm, lên đường quang minh.

3- THIÊN ĐƯỜNG, ĐỊA NGỤC :

Vâng lời nương cảnh thượng phương

Khêu đèn Bát Nh., dóng chuông tham thiền.

Bà Thị Kính thảnh thơi vui cùng Phật pháp. Kinh dạy : Ái là gốc sanh tử luân hồi. Mắc

vào nó th. khốn khổ ê chề. Ra khỏi nanh vuốt nó th. an vui vô cùng.

Trong làng có cô Thị Mầu, thấy tiểu Kính Tâm :

Đ. lồng ba tấm cà sa,

Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.

Đăm đăm tưởng nguyệt mơ hoa, lại bị người dụ dỗ nên thất tiết mang thai, bị làng bắt

vạ. Cô đổ cho Kính Tâm là cha đứa bé. Làng tra hỏi, Kính Tâm biết nếu nói thật là gái th. đâu

được ở chùa (ngày ấy chưa có chùa Sư nữ). Kính Tâm đành chịu đ.n đánh mà không dám thổ

lộ cái l. do duy nhất có thể giải oan.

Thầy Mạnh Tử nói : Người ta chết v. an vui mà sống v. hoạn nạn. Trời định giao việc

lớn cho ai, tất làm cho lao khổ điêu linh. Người tu hiểu chân l. nên hằng ngâm câu :

Xá chi một đứa dại khờ,

Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm h.a,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.

4- V. ĐỨC HIẾU SINH :

Thị Mầu bị cha mẹ bức bách bắt đem con vứt trả cho Kính Tâm. Thấy đứa hài nhi nằm

trơ trong vườn như cá cạn nước, Kính Tâm đành ẵm vào làng xin sữa. Thấm thoát thằng bé

lên 3 th. Kính Tâm hết tuổi thọ :

Gọi con từ gi. mọi đường,

Bút hoa để lại đôi hàng biệt ly.

Bút thư Kính Tâm xin tạ tội cùng cha mẹ, được Sư phụ cho người đưa về quê hương.

5- HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG :

Làng bắt cha con Thị Mầu lo việc tang ma. Phần th. hổ với xóm làng, phần th. cha mẹ

đay nghiến, cô nhục nh. tự tử.

Cha mẹ Thị Kính được thư vội v. đến chùa Vân.

Ngẩng trông ba thước hồng la,

Lệ tuôn như suối, l.ng sầu như mây.

Sáu năm không được tin tức, nay gặp mặt lại là một xác chết. Đám tang xong, chùa

làm chay cầu siêu độ.

6- VĂN KẾT :

Ai hay pháp Phật nhiệm mầu,

Có khi Thiên Trúc ở đâu cũng gần.

Giữa trời một đóa tường vân,

Đức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn.

Truyền cho nào tiểu Kính Tâm

Phi thăng làm Phật Quán Âm tức th..

Độ cho cha mẹ hai thân,

Đài sen đ. sẵn đợi ngày bước lên.

Siêu thăng thoát cả một nhà

Từ đây phước đẳng hà sa vô cùng.

Lên miền Cực Lạc hội đồng,

Cả làng khi ấy mắt trông rành rành.

  1. ràng lành ắt được lành,

Nam mô đức Phật, tu hành thành công.

HAI BỨC TRANH

Sự tích trên đ. vẽ song song 2 bức ảnh : Thị Kính và Thị Mầu.

Cùng là con gái mới lớn lên, cùng xuất thân nơi gia đ.nh đài các danh giá giàu có,

cùng theo đạo Phật, cùng khốn khổ v. t.nh ái. Chỉ v. tri kiến khác nhau mà cuộc đời trở thành

khác hẳn.

Cho tới kiếp sau, một lên t.a sen, một vào địa ngục. Thật đáng ngậm ngùi xót thương.

1

  1. đâu Thị Mầu đem ô nhục cho cha mẹ, để xấu hổ cho họ hàng. V. đâu cô phải tự tử,

mở ra kiếp kiếp đọa đày ? Phật dạy : Một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại. Như

rùa mù t.m bọng cây trong biển cả, thật khó lắm thay !

Cổ nhân nói : “Cái sẩy nẩy cái ung”. Một vọng tưởng không đâu, nếu biết là hư vọng

  1. nó tự tan. Nếu lầm nhận là m.nh, lồng m.nh vào, th. thành kết sử. Mắt cô chạm vào sắc

tiểu Kính Tâm, khởi l.ng luyến ái. Nếu biết là vọng tưởng th. nó tan ngay. V. cô nhận là

m.nh, cho là m.nh ưa thích nên bị sai sử, đưa vào tội lỗi.

Đ. tà dâm lại dối cha mẹ. Tới khi làng xét xử, vẫn c.n hy vọng làng bắt Kính Tâm

thành gia thất với m.nh nên một mực vu oan. Kính Tâm chịu đ.n tan da nát thịt, đau thấu tới

xương. Nếu không có lời từ bi xin nộp vạ của Sư cụ th. đ. mất mạng.

Phú ông bắt đem con trả cho bố nó, cô cũng đem con bỏ ngoài hiên chùa, mặc cho

Kính Tâm muốn nuôi hay bỏ tùy .. Suốt ba năm trời Kính Tâm chịu oan t.nh, cả làng sỉ vả,

Thị Mầu tổn đức biết bao nhiêu. Quanh co dối trá đến cùng vẫn không thoát quả báo nh.n

tiền, cô phải tự tử.

Cô mới đôi tám xuân xanh, tức là mới có 16 tuổi. Kinh Pháp Cú có câu : “Phàm phu

không giác ngộ, đi chung với cừu địch một đường”. Thị Mầu nhận vọng tưởng tham dục là

m.nh, cùng với ng. ái đi chung một đường nên bản thân khốn khổ, gia đ.nh đắng cay, xóm

làng phiền nhọc. Kiếp này khổ, kiếp sau khổ, khổ sở lâu dài. Đáng thương biết ngần nào.

2

Bà Thị Kính bị cha mẹ chồng trả về gia đ.nh. Đối với phụ nữ Á Đông, đây là một tủi

nhục nặng nề đ. khiến bao người tự tử. Nhưng đối với tầm mắt bà th. :

Nực cười cái chuyện cỏn con,

Bỗng không mà nẩy lên cồn thái sơn.

  1. có trí tuệ Bát Nh., bà thấy r. thị phi của thế gian như sáu con rồng múa rối, chẳng

đáng bận l.ng. Bà t.m giải thoát nơi cửa Phật.

Tới khi Thị Mầu vu oan, dân làng đánh đập. Sư cụ không cho ở trong chùa, đuổi ra

ngoài cổng tam quan, cha mẹ xa xôi không hy vọng tái ngộ. Một thân cô đơn sống dưới con

mắt khinh bỉ của thôn x.. Bổn đạo trong ngoài đều trỏ ngón tay :

Tiểu kia tu có trót đời được đâu.

Trong hoàn cảnh rất mực khó khăn, bà chỉ kết luận :

Xá chi một đứa dại khờ,

Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm h.a,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.

Rồi bà quay về :

Bạn cùng thanh phong minh nguyệt,

Lấy hoa đàm đuốc tuệ làm vui.

Con mắt giác tỉnh, không oán thù mà tha thứ xót thương. Bởi v. thấy r. xấu ác là dại

khờ. Kẻ mê để cho hoàn cảnh chi phối, sống như cái máy, biết g. mà ta oán chấp. Bậc tu hành

tùy duyên nhẫn cảnh. Thế giới không hoa, thân người mộng huyễn. Vạn pháp vô thường đâu

có thể cậy trông. Chỉ quay về bổn phận m.nh, nhẫn nhục, nhu h.a, noi gương Phật Tổ.

Kinh Kim Cương nói : Nhẫn nhục chẳng phải nhẫn nhục. Ấy mới thật là nhẫn nhục.

Nếu c.n thấy có nhục để phải nhẫn th. khó mà nhẫn được lâu dài. Nên biết tới đây Bát Nh.

của bà Thị Kính đ. ba la mật đa.

Những tưởng an thân nơi mái tam quan, vui với thiền tư kinh kệ, th. cơ duyên khe khắt

lại khéo xui Thị Mầu đem con để ở hiên chùa rồi bỏ đi. Nghĩ rằng :

Mạng người khôn lấy làm chơi mà liều.

Cho nên :

Xót t.nh măng sữa nâng vào trong tay.

Sư cụ Bổn sư thấy thế ấn thêm cho một câu : Như vậy thời Thầy cũng nghi.

Hàng ngày bế con đi xin sữa khắp làng. Mẹ v. nuôi con nhện, đ. bao cực nhọc khó

khăn. Lại thêm tiếng bấc tiếng ch. đằng đẵng 3 năm. Thiền sinh mà nuôi con mọn, bám víu bế

ẵm ngày đêm. Những người chuyên tu mới hiểu nỗi khó khăn này. Thật là hy sinh tới chỗ

cùng tột, hy sinh cả sự giải thoát. Nhưng ngài tin Phật, thực hành đức hiếu sinh, lấy vâng lời

Phật làm vui.

Kinh Pháp Hoa nói : “Muốn nhập Phật tri kiến phải ở nhà từ bi, mặc giáp nhẫn nhục,

ngồi t.a pháp không”. Nay nuôi con oan gia mà đầm ấm t.nh máu đào. Bà thật đ. đủ 3 điều

kiện để nhập Phật tri kiến, chứng quả Vô-thượng Bồ-đề.

LỜI B.NH CỦA CỤ THIỀU CHỬU :

Cha mẹ nuôi con, công lao khó nhọc như trời biển. Nhưng giọt máu của m.nh, m.nh

thương yêu nâng niu, dù vất vả nhọc nhằn mà vẫn có mối t.nh đầm ấm, khiến cho vui vẻ. C.n

tiểu Kính Tâm mẹ gà con vịt, tiếng nọ điều kia, mỉa mai nhục nh.. Thế mà bà vâng theo Phật

Tổ, thực hành chủ nghĩa xả thân cứu thế, chẳng quản vất vả, chẳng ngại chê cười. Nước l. coi

như huyết nhục. Công quả này trời bể khôn tầy, chỉ Bồ-tát hiểu Phật pháp mới làm nổi.

Đức Thích Ca thiền định trong rừng. Vua Ca Lợi chặt cả tay chân. Không những

không giận, ngài c.n an ủi : “Bao giờ đắc đạo, ta sẽ độ vua trước nhất”. Ôi ! Rộng r.i bao la,

từ bi vô ngại ! Lời nói ai nghe mà không mủi l.ng cảm động.

Nhẫn nhục của bà Thị Kính tới đây thật đ. thuần túy. Không đợi Phật thọ k., chúng ta

cũng biết bà sẽ chứng quả Vô-thượng Bồ-đề.

  1. DƯỢC SƯ

LƯU LY QUANG NHƯ LAI 30-9

(Kinh Dược Sư cùng các giải nghĩa đ. in riêng)

Phương Đông là nơi b.nh minh lóe sáng phá tan đêm dài. Từ phương Đông ánh hồng

quang tia chiếu khắp làn mây, khiến cho trời đen trở thành trong xanh, sương lạnh biến thành

hạt trai, lóng lánh trang điểm khắp lùm cây bụi cỏ.

Từ phương Đông luồng điện sinh khí truyền khắp người vật, kiến sâu, hoa lá, núi

sông... nên phương Đông đứng chủ sự sinh hoạt. Hải hội Dược Sư Phật Bồ-tát từ phương

Đông tỏa từ bi lực về c.i Ta Bà. Thật ra th. tất cả mười phương đều có hằng sa Tịnh-độ, mà

Phật nào chẳng cứu tử độ sanh. Nhưng cổ lệ Á Đông từ hồi nào vẫn đặc biệt giao trách nhiệm

tiêu tai diên thọ cho đức Dược Sư ở phương Đông. C.n tiếp dẫn người mất th. đặc biệt gửi

đức A Di Đà về phương Tây. Đó là cốt cho kẻ sơ tâm có nơi y cứ và người giản dị dễ hiểu mà

thành tựu định tâm.

Đức Dược Sư tên là Lưu Ly Quang. Hai vị Bồ-tát hầu cận tên là Nhật Quang và

Nguyệt Quang. Cúng dường qu. ngài phải 49 ngọn đèn. Bởi v. cần ánh sáng trí tuệ mới có thể

cứu bệnh tận gốc. Bát Nh. Kim Cang từ tâm địa lưu ly phát ra mới có thể thanh trừ vô minh

cố tật.

Kinh dạy : “Bảy ngày thọ bát quan trai giới, thân sạch sẽ, miệng ăn chay, tâm không

tham dục, không giận hại ai, đối với hết thảy hữu t.nh khởi tâm lợi ích an vui, từ bi hỷ xả,

b.nh đẳng h.a nh., tụng kinh Bổn Nguyện Dược Sư, suy nghĩ nghĩa kinh rồi đem diễn thuyết

khai thị cho người. Thế th. tùy . cầu g. cũng được, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có

được giàu có, cho tới cầu đại Niết-bàn được đại Niết-bàn”.

Bất luận sự g. không hợp l. đều gọi là vô minh. Phật là giác sát phiền n.o, giác ngộ

giải thoát vô minh. Hễ thanh trừ vô minh th. cầu g. cũng được. Tám vạn bốn ngàn trần lao đều

từ vô minh khởi. Nên Giới Định Tuệ có thể giải tất cả oan, gỡ tất cả kết.

Nam mô tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật.

Nam mô tùy tâm m.n nguyện Dược Sư Phật.

  1. VÔ NG.

“Những bất h.a thường do thói quen dành phần phải về m.nh, c.n bao nhiêu sai quấy

đổ cho người”. Chị em đọc sách, thấy đúng như vậy, cùng nhau quyết định từ nay bất cứ vấn

đề g., trách nhiệm hàng đầu của mỗi người là phải tự giác lỗi m.nh và khám phá cho ra những

khía cạnh tốt của đối phương. Thế là yên chí h.a b.nh bảo đảm.

Nhưng lần lượt việc này việc khác xảy ra. Họ tranh nhau nhận lỗi và rốt cuộc một cơn

b.o cấp 10 xuất hiện. Họ kết luận : “Quỷ tha ma bắt tất cả những phương thức đạo đức đi! Cứ

đừng làm bậy là hơn cả”.

* * *

Không t.m được gốc của lỗi lầm th. chẳng thể thành công trong việc sửa m.nh.

Không kết quả hẳn trở lại báng các pháp môn tu là vô ích.

Hạ m.nh xin lỗi, nhường cái phải cho người là biểu tượng thánh hiền. Nhưng nếu

không biết gốc của thánh hiền là giác tỉnh, không tập quan sát vô thường, vô ng.. Cứ mải lo

dán mấy câu của sách vở vào đầu, đến nỗi bị ngay những chữ nghĩa này nó bịt mắt.

Đổi tranh chấp thế gian thành tranh chấp đạo đức. Hai tướng ng. nhân c.n đối lập th.

vẫn nuôi dưỡng tham sân si. Tư tưởng thánh hiền bị trá h.nh, người bị lừa chính là m.nh. Kết

quả là những cơn b.o cấp 10 đâu có lạ !

Trở lại tuyên bố : “Không cần biết có lỗi hay không lỗi, chỉ một việc là đừng làm bậy

nữa”. Lập trường này e nguy hiểm. Con người mấy ai sáng suốt. Phàm phu giơ tay cất bước

tội đ. ngang mày (kinh Địa Tạng). Cho nên cần thấy lỗi, cần sửa lỗi để dần dần trở thành

không lỗi. Như thân nhơ bẩn nên đi tắm. Vài ngày sau mồ hôi cáu bẩn, lại đi tắm. Cứ như thế

trọn đời, người này được coi là sạch sẽ. Tâm chúng ta cũng thế ! Hôm nay lỡ lầm một câu nói

sai, một hành động quấy, chúng ta tự giác xin sám hối. Thời gian sau lại tham lại sân, chúng

ta lại sám hối. Cứ như thế trọn đời, tu sĩ này được Phật chấp nhận là thanh tịnh. Sám là rửa

sạch việc đ. qua. Hối là tiếc đ. trót lỡ, nay cố gắng không tái phạm. Phiền n.o kết tập từ vô

thủy, như cây đa cổ thụ đâu phải một nhát búa đ. hạ được ngay. Phải tỉa dần dần. Nhưng đ.

có công mài sắt hẳn có ngày nên kim. Chúng ta vâng lời Phật, một mặt tự giác thấy lỗi lo sám

hối. Đó là đẽo chặt cành lớn cành nhỏ. Một mặt quán vô thường, vô ng. để nhổ tận gốc vô

minh. Các kết sử theo đây mà bật rễ. Trong không chấp ng., ngoài không chấp pháp, bảo đảm

b.nh an.

Nguyện cầu đại chúng thành công trong sự nghiệp Quán Tự Tại.

  1. HỮU DỤNG, VÔ DỤNG

TÙY CHỖ BIẾT DÙNG

Ngày 2-5 âm lịch (1983), được tin đích xác vào năm 1984 quyết định các chùa phải

giải tán số đông. Phân vân không biết nên cho các em tiếp tục chương tr.nh cũ hay nên dùng

nửa năm vàng ngọc này để tu học một môn cần thiết. Nh.n ra thấy cuốn Triết học phương

Đông, thử bói một quẻ. Vào bài này, ghi tạm để suy ngẫm :

Phạm L.i bỏ nước Sở, vượt biển sang làm giàu ở đất Đào, đổi tên là Đào Chu Công.

Người con trai thứ c.n lại ở nước Sở, bị bắt cầm tù.

Chu Công lấy 1000 nén vàng sai con út đi lo. Con cả đ.i đi, Chu Công không nghe.

Cậu con cả nói : “Việc quan trọng mà cha sai con út, thế ra con cả vô dụng”. Cậu toan tự sát.

Bố bất đắc dĩ cho đi, đem vàng và thư đến người bạn cũ là Trang Sinh, dặn d. : “Mặc ông ta

xếp đặt. Cẩn thận đừng tranh khôn với ông ta”.

Trang Sinh, nhà ở ngoài thành, vườn rau đơn giản. Cậu cả làm theo lời cha. Trang

Sinh nhận vật rồi đáp : “Anh nên về ngay. Em sẽ được ra. Anh đừng ở lại đây”.

Cậu cả ngầm ở lại, t.m đến một nhà quyền qu. ở Sở để nghe ngóng. Trang Sinh thong

thả vào cung, tâu vua Sở : Sao Mỗ đóng chỗ Mỗ có hại cho Sở.

— Làm thế nào ?

— Chỉ dùng Đức mới trừ được.

— Xin Thầy về nghỉ, quả nhân sẽ làm theo. Liền sai sứ giả niêm phong 3 kho tiền.

Thường lệ nước Sở, mỗi khi đại xá tù nhân, thường dùng 3 kho tiền để phát cho tù

nhân có lương thực đi về quê. Tin sắp có ân xá đồn vang.

Cậu cả cho rằng nếu có lệnh đại xá th. thế nào em m.nh cũng được tha. Ngàn vàng cho

l.o Trang Sinh phí uổng. Cậu trở lại gặp Trang Sinh. Trang Sinh giật m.nh : Anh chưa về à ?

— Thưa chưa, con tới đây v. việc thằng em. Nay nó sắp được lệnh ân xá nên con đến

chào cụ để về.

Trang Sinh biết . cậu ta muốn lấy lại vàng, liền trả lại. Hôm sau Trang Sinh lại thong

thả vào tâu vua Sở :

— Tôi trước có nói về ngôi sao Mỗ. Vua hứa sẽ sửa đức để lợi dân. Nay tôi nghe đồn

rằng : Vua không phải v. thương nước Sở mà ra lệnh đại xá đâu. Chỉ v. thằng con Chu Công

đem vàng đút lót các quan hầu vua đó thôi.

Vua Sở cả giận ra lệnh xử tử con Chu Công rồi mới đại ân xá. Cậu cả đưa xác em về.

Chu Công nói : Ta đ. biết, từ nhỏ nó chịu khổ nhọc làm ăn nên không thể dửng dưng với

ngàn vàng. C.n thằng út đẻ ra đ. giàu. Cưỡi xe rong ngựa, theo đuổi cầy cáo, phung phí tiền

bạc, nào có biết từ đâu mà có. V. thế hôm trước ta quyết định sai thằng út, chỉ v. nó biết coi

thường ngàn vàng. Thằng cả th. không thế nên đ. vô t.nh giết em.

Dùng vào việc làm giàu th. thằng cả hữu dụng. Dùng vào việc cứu đứa con thứ th.

thằng út hữu dụng. Gỗ tốt th. làm cột làm kèo, gỗ xấu th. làm củi.

Bậc trí tuệ biết sử dụng hợp t.nh hợp cảnh nên hằng được lợi ích.

IV-/ MÙA ĐÔNG

TỪ 15-10 ĐẾN 15-1

  1. ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
  2. Danh nghĩa :

Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ c.i Tây phương Cực Lạc. Tên ngài có 3 nghĩa :

1- Vô Lượng Thọ : Thọ mạng vô lượng (tánh giác thường trụ).

2- Vô Lượng Quang : Trí tuệ vô lượng (tánh giác ở khắp mười phương).

3- Vô Lượng Công Đức : Hằng sa tánh đức diệu dụng.

  1. Kinh Vô Lượng Thọ :

Thời Phật Thế Tự Tại Vương, vua Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp, liền xuất gia

làm Tỳ-kheo tên Pháp Tạng, phát 48 nguyện. Y nguyện tu hành sau thành Phật hiệu A Di Đà.

Kinh Bi Hoa : Quan đại thần Bảo Hải có con là Bảo Tạng, tướng tốt dị thường, xuất

gia thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm nghe pháp, phát tâm cúng

dường Phật và đại chúng 3 tháng. Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm Bồ-đề, cầu đạo Vôthượng.

Vua nguyện thành tựu một cảnh giới cực kỳ trang nghiêm, đầy đủ phương tiện để

giáo hóa chúng sanh. Bảo Tạng Như Lai thọ k. vua sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, thế giới tên

An Lạc. Bảo Hải sau này cũng thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.

(Kinh A Di Đà Yếu Giải đ. in riêng).

  1. Ngày 11-11

Biệt Khoa Cúng Tổ QUẢNG BÁ

Xem trong cuốn Pháp Bảo.

  1. Ngày 17-11

ĐẠI ĐÀN PHỔ TẾ

— Lễ Phật – Lễ Tổ – Khai kinh – Tán Phật A Di Đà.

Toàn chúng luân phiên ngày đêm cứ mỗi loài sau đây niệm Phật 10 tràng.

ĐỊA NGỤC

Nhị Khóa Hiệp Giải

  1. ĐỊA NGỤC VÔ GIÁN :

Thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp.

  1. TÁM ĐỊA NGỤC NÓNG :

Sức lửa mạnh, h.n đá vuông 3m3 bỏ vào tức thời tiêu tan, hết hạn lại vào các địa ngục

phụ.

1) Đẳng hoạt : Chúng sanh móng tay sắt cào nhau rớt thịt.

2) Hắc thằng : Dây sắt trói, búa sắt chặt.

3) Chúng hợp : Hai núi ép cho thịt nát xương tan.

4) Khiếu hoán : Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi.

5) Đại hô : Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt quay rán.

6) Viêm nhiệt : L. sắt rực đỏ.

7) Chúng nhiệt : Ngục tốt cầm cây thiết xoa đâm tội nhân rồi để dựng đứng trong hầm

lửa đỏ.

8) Xe lửa : Lột da rồi để dưới xe lửa, bánh xe nghiền nát.

16 ngục phụ : 1- R.u búa. 2- Chó sói. 3- Cây kiếm. 4- Rừng dao. 5- Cát đen (cháy da

thấu xương). 6- Phân tiểu (sôi nóng đổ vào miệng). 7- Đinh sắt (đóng khắp thân). 8- Nước

đồng sôi (rót vào miệng). 9- H.n sắt nóng (bắt ăn). 10- Vạc đồng (nấu sôi). 11- Nhiều vạc

đồng. 12- Cối đá (xay thân). 13- Mủ máu (nấu sôi m.nh ở trong). 14- Đấu sắt nóng (phải cầm

đong lửa). 15- Sông tro nóng (phải gieo thân vào). 16- H.n sắt nóng (tay nắm, sức lửa cháy

khắp thân).

  1. TÁM ĐỊA NGỤC LẠNH :

Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như 20 hộc mè 100 năm lấy ra 1 hột. Lấy hết là hết

tuổi thọ.

1- Án phù đà (rét ngặt thịt nát nhừ).

2- Vi lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành bọt nước).

3- A tra tra (lưỡi khua ra tiếng a tra tra).

4- A ba ba (môi đập thành tiếng).

5- Ẩu hầu hầu (từ cuống họng phát ra).

6- Uất ba la (thịt như ướp đá thành màu tái xanh).

7- Ba đầu ma (thịt đỏ tươi).

8- Phân đà lợi (lạnh chẻ xương trắng).

  1. Ngoài ra trong nhân gian có các địa ngục rải rác ở các núi, trong l.ng nước, ngoài cánh

đồng.

Kinh Lương Hoàng Sám

Các địa ngục : v.ng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm than, rừng

gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang, phun lửa.

Kinh Địa Tạng

Thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh, núi đao, bùn lầy, trâu

sắt, chó sắt, lừa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt,

tranh c.i, nhiều sân, voi lửa, chó lửa, ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa,

lột da, uống máu, treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si,

khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay, gió nóng.

QUỶ LOẠI

Ngài Anan một m.nh trong rừng thiền định. Chợt thấy một ngạ quỷ miệng phực ra lửa,

đầu tỏa khói, tay chân lóng đốt lửa cháy nổ tanh tách. Nanh và móng tay dài như gươm, xưng

tên là Diệm Nhiên Vương, nói rằng : Nếu ông đem thức ăn bá thí cho trăm ngàn ức hằng hà sa

ngạ quỷ. Và cúng dường Tam-bảo cầu cho chúng tôi siêu thoát th. ông được tăng tuổi thọ và

tu chứng quả Thánh.

Ngài Anan kinh sợ sớm mai bạch Phật. Phật dạy phương pháp xuất sanh, tr. chú biến

thực.

Quỷ có bậc thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn. Có vị không

oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao sông lớn, hưởng nhân

gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như Dạ-xoa, La-sát, lị mị hưởng cúng máu huyết.

— Quỷ chịu 2 chướng :

  1. a) Nội chướng : Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng rộng toàn lửa.

Rất khó uống ăn.

  1. b) Ngoại chướng : Ở trong cảnh lửa hoặc mủ máu, dao đâm gậy đánh.

— Quỷ có 3 phẩm chia thành 9 loài :

1- Có phước : Được ăn uống nhiều.

  1. a) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của m.nh, hoặc ở mộ địa

được bà con cúng tế (v. trước có bá thí).

  1. b) Ăn đờm d.i, phân uế, các thứ thiu thối.
  2. c) Thế lực lớn, cung điện trang nghiêm.

2- Ít phước : Được chút ít ăn uống.

  1. a) Lông kim : Tự đâm, đâm người, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ

bẩn.

  1. b) Lông thối : Cào vóc nhổ lông, rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu được ăn

chút nhơ bẩn.

  1. c) Bướu lớn : Nhức nhối chảy mủ máu hôi thối, lấy ăn cho đỡ đói.

3- Không phước : Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy.

  1. a) Miệng thối.
  2. b) Toàn thân là lửa như cây đuốc.
  3. c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.

¨

36 bộ quỷ thần

1- Vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả c.n chống cự).

2- Miệng nhỏ như trôn kim.

3- Ăn đồ mửa.

4- Ăn phân.

5- Ăn lửa.

6- Ăn hơi.

7- Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi nay đói khát chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được

tồn tại).

8- Khô khát thèm uống nước.

9- Hy vọng : Trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người).

10- Ăn khạc nhổ (đ. đem đồ bất tịnh cúng Tăng).

11- Ăn tràng hoa (đ. ăn trộm hoa của Tam-bảo).

12- Ăn máu (hay sát sanh).

13- Ăn thịt.

14- Ăn nhang.

15- Đi nhanh, lửa đốt cháy thân.

16- Mỗi lông trong m.nh đều tuôn lửa.

17- Hắc ám : Ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia v. mưu cầu tiền bạc mà vu oan).

18- Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ n.o (ăn trộm của người này đem cho

người khác).

19- Phừng cháy (giết người cướp của).

20- R.nh con nít đại tiện để ăn hơi khí bất tịnh.

21- Dâm dục (quyến rũ người làm việc này lấy tiền).

22- Ở cồn biển (lừa dối người bệnh).

23- Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác).

24- Ăn thịt con nít.

25- Ăn tinh khí người.

26- La-sát (sát sanh).

27- Ăn lửa (ăn vật của Tăng).

28- Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh.

29- Ăn gió (ưa hứa suông).

30- Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống).

31- Ăn chất độc.

32- Ở cánh đồng.

33- Ăn tro nóng chỗ thiêu thây người chết.

34- Ở dưới gốc cây (người trồng cây bá thí m.nh ác tâm chặt đi).

35- Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường).

36- Ma ra : Ma phá hoại người tu hành.

4 Thiên Vương thống l.nh 8 bộ Quỷ Thần

1- Càn-thát-bà (nhạc thần).

2- Cưu-bàn-trà (hung dữ).

3- Tỳ-xá-dà (ăn tinh khí).

4- Tiết-lệ-đa (quỷ đói).

5- Phú-đơn-na (hôi thối).

6- Dạ-xoa.

7- Quỷ truyền tống.

8- La-sát (ăn thịt người).

Kinh Địa Tạng

Quỷ vương : mắt ác, ăn thai trứng, hành bệnh, ác độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích

hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước,

chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, 3 mắt, 4 mắt, 5 mắt,

kỳ lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra, đại a na tra.

Kinh Petakkatha

1- Atthisankhalika : Chỉ có bộ xương bay trong hư không, khóc la thảm thiết, chim

đuổi theo mổ kẽ xương (đồ tể).

2- Mainsapesi : Khối thịt bị chim mổ xé (sát sanh làm kế sinh nhai).

3- Mainsapinđa : Cục thịt (thợ săn).

4- Vicchavi : Thịt đỏ, trùng rúc rỉa.

5- Asloma : Lông như lưỡi dao nhọn bay lên bay xuống đâm vào thân.

6- Sattiloma : Lưỡi kiếm bay lên bay xuống đâm vào thân.

7- Usuloma : Mũi tên lên xuống.

8- Suciloma : Kim lên xuống (đ. dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa trâu chạy nhanh).

9- Cumbhanda : Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan

người để đ.i hối lộ).

10- Gidhakhađi : Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường Tăng Ni).

11- Okilini : Than nóng xối thân.

12- Ansakabandha : Không có đầu. Mắt mũi miệng ở giữa ngực (làm nghề đao phủ).

13- Pabbazila : Thân lửa (xuất gia phá giới).

Những quỷ kể trên đ. trả quả trong địa ngục, nay chịu dư báo từ 10 đến 500 kiếp. Trai tăng

hồi hướng phước báo có thể siêu thoát.

14- Vant.s. : Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh, răng lởm

chởm, thân hôi thối, ghẻ lở, ăn khạc nhổ, ở chỗ nhơ bẩn (xả rác, nhổ bẩn trên đất chùa).

15- Xunapà : Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to

hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn r.ng máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường

những thứ cấm cho người tu).

16- Gùtha : Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người tu, bỏn sẻn với cha mẹ).

17- Aggisala : Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết (khinh báng Tăng Ni).

18- Sucimlbkha : Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn đời đói khát ở

rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói).

19- Xannaji : Uống th. nước hóa lửa, ăn th. món ăn thành lửa (đ. phá hoại vườn ruộng

chùa).

20- Nijjha : Miệng mọc đuôi dài hôi thối chẳng bao giờ được ăn uống (ác khẩu với

Tăng Ni, chế giễu người tàn tật, ly gián người giới hạnh).

21- Sabbanka : M.nh đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá, lấy móng tay nhọn như

dao, tự móc thịt ăn. Vừa ăn vừa khóc, càng ăn càng đói. Loại quỷ này rất nhiều ở các thung

lũng, núi non và cồn b.i (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân).

22- Pabbanka : Thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả triệu năm ở trên núi (chửi

oan người đức hạnh).

23- Ajagara : Thân dài như con trăn, m.nh lớn bằng con voi, nhiều đầu cọp chó mèo gà

khỉ v.v... Khắp m.nh lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu khóc. Ở núi rừng cồn b.i có

rất nhiều loại này (hung dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh).

24- Vemanika : Nửa tháng thọ vui như ở c.i trời, nửa tháng thọ khổ ở địa ngục tra

khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng (si mê ai rủ làm tội th. làm tội, ai rủ làm phước

  1. làm phước).

25- Mahiddhika : Thân đẹp như thiên tử, thần thông bay trong hư không, y phục toàn

ngọc báu, nhưng thân thể hôi thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng liền biến

thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan (xuất gia tà mạng, cầu danh lợi phá

giới).

26- Ahi : M.nh rắn đầu người. Lớn như trái núi, gi.y giụa khóc la, sống lâu trong rừng

núi (sân giận phá chùa am).

27- Nimygga : Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng mới trồi lên được, rồi

lại cắm đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con). Tội ở địa ngục, nay là dư

báo.

28- Sukara : Đầu heo miệng lở thối (ác khẩu).

29- Manguhi : Lác, cùi hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều hâu mổ cắn (mưu mô

bóc lột người).

30- Chataka : Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp, giống quỷ này rất

đông (không kính Tam-bảo).

31- Surruta : Ban ngày cầm búa đập nhau bể sọ, sưng nát m.nh mẩy. Ban đêm lửa

cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa đập nhau (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu,

chọi gà v.v...).

Từ Bi Sám Pháp

1- Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực (Sadi chia bánh cúng chúng,

ăn trộm 2 chiếc, kẹp nách).

2- Trên vai có b.nh nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối lên đầu, đau đớn than khóc (Duy

na nấu sữa, đợi khách Tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa).

Tất cả những tội trên đây đều là hoa báo, quả ở địa ngục. Chúng con cũng đ. từng

phạm những tội như thế. Vô minh che chướng không tự nhớ biết. Nay đầu thành niệm Phật

cầu xin sám hối cho bản thân, xin sám hối cho cha mẹ, Sư trưởng, đồng đàn tôn chứng thượng

trung hạ t.a, xin sám hối thay thế tất cả bốn sanh sáu đạo mà quy y thế gian đại từ bi phụ.

BÀNG SANH

Loài rồng, chim cánh vàng.

A- LOÀI CÓ XƯƠNG SỐNG :

  1. Bốn chân :

B., trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, b. tót một sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, r.ng rọc,

đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó,

chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoẵng, rái nước, heo rừng, tê

giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chàng hiu.

  1. Hai chân :

Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim.

  1. Không chân :

Rắn, trăn.

B- LOÀI KHÔNG XƯƠNG SỐNG :

Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, dán, mối, sùng, b. cạp, chấy, rận, ve

chó, tằm, giun, nhộng, ong, t. v., phù du, mạt, sán, rệp.

Không xương sống có cánh : Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù x.e, châu chấu, cào

cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẻ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ

hung.

C- LOÀI DƯỚI NƯỚC :

Cá, sứa, mực, cua, vọp, s., tôm.

LOÀI NGƯỜI

Châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, Nam cực, Bắc cực.

C.I TRỜI

Vô sắc giới, Sắc giới, Dục giới.

KẾT NGUYỆN

(Mỗi nguyện 10 tràng)

1- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát phiền n.o chướng (tham sân si).

2- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát nghiệp chướng (sát, đạo, dâm, vọng).

3- Nguyện hết thảy chúng sanh giải thoát báo chướng 6 căn, 5 ấm, oan gia đối đầu.

4- Nguyện hết thảy chúng sanh không v. miếng ăn mà tạo ác.

5- Nguyện hết thảy tà đạo trở về chánh kiến.

6- Nguyện hết thảy chúng sanh đ. hiểu đạo tiểu thừa tiến lên đại thừa.

7- Nguyện những ai tu phạm hạnh đều được đầy đủ tam tụ giới.

8- Nguyện những ai trót đ. phạm giới không đọa ác thú, biết sám hối trở về tịnh giới.

9- Nguyện tất cả tật bệnh tiêu trừ.

10- Nguyện tất cả tai nạn giải thoát.

11- Nguyện những cảnh giam cầm lao ngục chuyển thành an lạc tự do.

12- Nguyện mười phương chúng sanh thoát khỏi lưới ma cùng nhau quy y Tam-bảo.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

  1. Ngày 1-12

NI TỔ MA HA BA XÀ BA ĐỀ KIỀU ĐÀM DI MẪU

Ma-ha : Đại : Lớn. Ba Xà Ba Đề : Sanh chủ.

Ấn Độ thời xưa, những nhà quyền qu. sanh con, thường mời Thầy tướng xem tương

lai đứa trẻ. Rồi tùy đó mà đặt tên. Sanh chủ là chủ sự sinh sống. Bà nuôi thái tử Tất Đạt Đa từ

lọt l.ng đến khôn lớn. Bà là người gây dựng Ni chúng trong nhân loại. Bà cùng Ma Gia phu

nhân là hai chị em ruột, con vua nước Kô Sa La. Ma Gia : Ma Ra : Huyễn hóa. Ma Gia phu

nhân sanh thái tử Tất Đạt Đa được 7 ngày th. mất. Một người thọ mạng non yểu, chỉ thấp

thoáng hiện thân nên được tên là Ma Ra. Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề vừa là d. ruột, vừa là mẹ kế

của thái tử.

Kiều Đàm Di Mẫu. Kiều Đàm đúng chữ là Cù Đàm. Di Mẫu là mẹ kế. Đức Phật họ Cù

Đàm, tên Tất Đạt Đa.

Sau khi vua Tịnh Phạn chứng Tu-đà-hoàn rồi mất, bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề cũng chứng

Tu-đà-hoàn rồi xuất gia, được pháp hiệu là Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni.

Thuở ấy đức Thế Tôn ở nước Thích Xí Xấu, vườn Ni Câu Luật, bà cùng 500 quận

chúa tới đảnh lễ xin xuất gia.

— Này Cù Đàm Di ! Người nữ xuất gia hành đạo th. Phật Pháp chẳng thể trụ lâu.

Thế Tôn du hành tới nước Câu Tát La, thẳng đường đến nước Xá Vệ, về ở Kỳ Hoàn

tinh xá. Bà cùng 500 quận chúa, cạo tóc mặc cà sa, từ nước Ca Tỳ La Vệ đến nước Xá Vệ, đi

bộ tét chân, bụi đất đầy m.nh, đứng khóc ở cửa tinh xá. Ngài Anan thương xót vào bạch Phật

xin cho nữ nhân xuất gia.

— Này Anan ! Nhà nào con trai ít con gái nhiều th. biết nhà ấy suy vi. Ruộng lúa đang

tốt, gặp mưa đá sẽ bị hư hoại. Nữ nhân xuất gia thọ đại giới, Phật Pháp sẽ chẳng trụ lâu.

— Bạch Thế Tôn ! Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề có ân lớn, đ. thay mẫu hậu nuôi đức Thế

Tôn đến ngày nay.

— Thật thế, song ta cũng đ. đền ân, đ. khiến bà biết đến Tam-bảo. Ân này thế gian

không chi sánh bằng.

— Bạch Thế Tôn ! Nữ nhân xuất gia thọ đại giới có thể được quả Tu-đà-hoàn đến Ala-

hán không ?

— Được ! — Nếu thế th. xin cho họ xuất gia.

— Phải chịu phụng hành Bát Kính Pháp trọn đời mới được.

Bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề thưa với ngài Anan rằng : “Trọn đời đỉnh thọ phụng tr. Bát

Kính Pháp mà được giới phẩm Tỳ-kheo-ni th. có khác chi được tắm gội sạch sẽ rồi đặt tràng

hoa lên đầu. Thật là bội phần trang nghiêm”.

Như thế bà Ma-ha Ba Xà Ba Đề cùng 500 quận chúa được xuất gia thọ giới. Phật dạy :

“Chánh pháp đáng lẽ trụ thế 1000 năm. Nay v. cho người nữ vào đạo, chánh pháp chỉ c.n 500

năm”. Ngài Anan chảy nước mắt, lễ chân Phật, nhiễu quanh Phật 3 v.ng rồi lui.

TRUY MÔN CẢNH HUẤN QUYỂN 3, BÀI ĐỘ NI GIÁO . : Di Mẫu của Phật thâm

chán sanh tử, cầu xuất gia. Phật không cho v. nữ tánh hèn kém. Người đời coi thường, khiến

chánh pháp bị giảm mất một nửa. Sau ngài Anan xin hộ mới được. Lời Sớ nói : Nữ báo hoặc

sâu trí cạn, ưa lười biếng kiêu mạn nên cần Tăng Ni mỗi bộ 10 vị giới sư mới phát được thắng

tâm. Theo như các luật th. chỉ có bà Đại Ái Đạo được nương 8 Kính Pháp mà thành thọ giới.

C.n 500 Ni kia phải nương chúng 11 vị (Tăng 10 vị và bà Đại Ái Đạo làm H.athượng).

Về sau, từ khi nước Sư Tử có Tỳ-kheo-ni học thông kinh luật mới đặt ra nghi thức 2

chúng cho thọ giới. V. phải có yết ma của Đại Tăng mới đắc giới (y 8 Kính Pháp). Cho nên

Cầu Na Bạt Ma Thánh giả nói : Nếu không đủ 2 chúng th. chúng 11 vị như việc bà Đại Ái

Đạo cũng được.

Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni thường trụ ở Ca Tỳ La Vệ v. Ni luật không cho phép du

phương tham học, cũng không được đi các nơi giáo hóa (người nữ có cái lụy về h.nh hài mà

thời xưa đường giao thông rất thiếu phương tiện).

Bà chứng quả A-la-hán. Trong hội Pháp Hoa, bà được thọ k. sẽ thành Phật, hiệu là

Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai.

Chùa ta lấy ngày an vị thánh tượng ở Linh Quang làm ngày cúng giỗ hàng năm.

  1. Ngày 8-12

ĐỨC THÍCH CA THÀNH ĐẠO

Hôm nay mồng 8 tháng chạp, dưới gốc Bồ-đề, giờ sao mai mọc, chúng ta làm lễ kỷ

niệm đức Bổn Sư thành đạo.

Theo con mắt thế gian th. Phật thành đạo rồi, ngồi im lặng hưởng pháp lạc. Hai mươi

mốt ngày sau mới qua vườn Lộc Uyển, giảng pháp Tứ Đế cho 5 anh em ông Kiều Trần Như,

gọi đây là lần chuyển pháp luân đầu tiên. Theo kinh sách đại thừa th. đức Bổn Sư là hóa thân

của đức Lư Xá Na. Đức Lư Xá Na thành Phật đ. lâu lắm rồi. C.i Phật Lư Xá Na, Hoa Tạng

thế giới, h.nh giống như bông sen 1000 cánh. Đức Lư Xá Na ứng hiện 1000 thân. Mỗi ứng

thân giáo hóa một cánh sen. Mỗi cánh sen có ngàn trăm ức hóa thân. Đức Bổn Sư của chúng

ta là một hóa thân.

Trong khi người thế gian thấy ngài ngồi một m.nh ở dưới gốc Bồ-đề th. các Bồ-tát

thấy ngài đang cùng vô lượng đại chúng, gồm đủ cả bốn thánh sáu phàm, giảng về 10 Tín.

Đồng thời ở Đao Lợi thiên cung, vua Đế Thích cùng quyến thuộc dự pháp hội dạy về 10 Trụ ;

ở Dạ Ma thiên có pháp hội dạy về 10 Hạnh ; c.i trời Đâu Suất có pháp hội thập Hồi Hướng ;

Tha Hóa Tự Tại thiên cung có pháp hội thập Địa v.v... như thế khắp không gian, khắp thời

gian lúc nào con đường thành Phật cũng đang được vạch bày, tùy theo căn cơ và duyên phước

chúng sanh. Pháp môn Vô-thượng Bồ-đề đang được vang vang truyền bá, không một sát na

rảnh hở. Thật là diệu thuyết thường hằng.

Kinh Hoa Nghiêm là phương pháp tu hành thông cho cả mười phương c.i. Chẳng phải

là một giáo hóa tùy cơ nghi. Lời dạy cùng cực xứng tánh. Đây là then chốt của nhất thừa. V.

thế sau 600 năm Phật Niết-bàn, Long Thọ Bồ-tát vào long cung, được xem bộ kinh huyền áo

này, vội học thuộc đem về nhân gian truyền bá ở Ấn Độ. Chỉ cần một bài kệ cũng đủ phá địa

ngục cho chúng sanh. Cất tiếng xưng 7 chữ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh tức là

đ. có tổng danh của vô tận kinh tạng. Từ đó các sư đại thừa, trọn mạng sống hoằng truyền,

khiến chánh pháp m.i m.i thạnh huy.

Sau khi Phật thị tịch 500 năm, đạo pháp ở Ấn Độ c.n là thời chánh pháp, th. kinh này

  1. chưa cần đến nên vẫn ẩn tại long cung. Hết thời chánh pháp, các Bồ-tát mới lưu thông kinh

này, để vẽ đường thành Phật cho những khách c.n đọa đày trong tám nạn.

Trước hết kinh tr.nh bày chánh báo và y báo không thể nghĩ bàn của đức Lư Xá Na

cho chúng ta vui mừng phát tâm mong cầu. Kế là con đường tu học thập Tín, quan sát pháp

giới trùng trùng duyên khởi, vô ng., vô thường, khổ và không. Tất cả đều duy tâm tạo. Luân

hồi đ. do tâm tạo mà hiện có th. giải thoát cho đến Vô-thượng Bồ-đề cũng do tâm mà thành

biện. Được thập Tín rồi tiến lên học thập Trụ (10 trùng l. Bát Nh. từ cạn đến sâu). Có thật

hiểu đệ nhất nghĩa đế mới chịu an trụ vào chân l.. Trăng sáng, sông lặng, 3 con thuyền, 1

đ.nh trụ, 1 về Nam, 1 về Bắc. Nam thấy trăng kia ngàn dặm theo về Nam. Bắc thấy trăng kia

ngàn dặm theo về Bắc. Người đ.nh trụ thấy trăng không xê dịch. Thế là vầng trăng bất động

mà ở cả 3 nơi. Như Lai ứng hiện cũng thế. Tức thể là dụng, không đâu chẳng cùng khắp. Đi

hay ở tại chỗ là tùy duyên. Phật không động tĩnh mà vẫn khắp phó quần cơ. Như trăng kia thật

vẫn ở trên trời mà chúng sanh tự thấy có trăng Nam trăng Bắc. V. chuyên về Bát Nh. nên tịnh

hạnh là thông tu của thập Trụ.

Dùng 10 cảnh làm duyên để tác . quan sát : thân, thân nghiệp ; ngữ, ngữ nghiệp ; ., .

nghiệp ; cùng Phật Pháp Tăng và giới. Sơ Phát Tâm Trụ, công đức đ. ngang với hư không.

Trụ nơi chân tâm bản tánh rồi, thập Hạnh dùng 10 ba la mật để phát huy công dụng. Tiếp đến

đại bi khắp trùm là hồi hướng chúng sanh. Mong cầu đại trí là hồi hướng Bồ-đề. Tin, Hiểu,

Hạnh, Nguyện đ. chu viên, thân chứng chân như, tr.n đủ thập Địa, gọi là Đẳng giác. Rồi lên

Diệu giác tức là thành Phật. Cuối cùng phẩm Nhập Pháp Giới mượn một điển h.nh là Thiện

Tài, để tr.nh bày thứ lớp tu chứng, tất cả ngôi vị từ sơ phát tâm đến vô thượng quả.

Thỉnh đại chúng đọc qua vài trang chánh văn để tự thân nếm pháp vị (chúng đọc Hoa

Nghiêm kinh, phẩm Nhập Pháp Giới).

Văn Thù nêu biểu thập Tín, cũng là căn bản trí, Bát Nh. trí, vô sư trí. Trí này ai cũng

sẵn đủ, chỉ cần vẹt hết vô minh th. tự hiển lộ. Văn Thù cùng đi với vô lượng Bồ-tát, nêu biểu

Bát Nh. dẫn đường vạn hạnh.

Văn Thù từ lầu gác Thiện Trụ mà ra. . nói y vào tự lợi mà lợi tha, trước tự giác tỉnh

sau giác tỉnh cho người. Xá Lợi Phất đem 6.000 Tỳ-kheo đến yết kiến Văn Thù. Xá Lợi Phất

nêu biểu trí tiểu thừa trợ giúp đại thừa. Con số 6 nêu biểu 6 căn thanh tịnh, có thể nhập pháp

giới. Nghĩa là có căn khí đại thừa, có thể trở về chân tâm bản tánh. Văn Thù dạy 10 Hạnh xu

hướng đại thừa. Mười câu, mỗi câu đều nhắc “không chán mỏi”. V. chúng sanh vô biên, pháp

môn vô tận. Nếu chấp tướng mà tu hay sanh mỏi nhọc, thành thoái đọa. Nếu không chán mỏi

  1. Phật quả nắm chắc trong tay.

Thiện Tài nói 34 bài tụng, đại . thương thân trầm nịch, thỉnh Văn Thù cứu vớt, dạy

Bồ-đề đạo. Văn Thù đáp toàn vẹn 10 câu hỏi : Nếu thấy nhiều Phật, nghe pháp (10 Tín) tức có

thể học hiểu (10 Trụ), tu tr. (10 Hạnh), thành tựu đại nguyện (10 Hồi Hướng), sẽ chứng nhập

chân không chẳng ngại diệu hữu (10 Địa) vào biển phương tiện mà an trụ Bồ-đề. Lời đáp đại

thành tổng giáo các pháp, hiển trong 10 Tín ở văn kinh. Khuyên cầu thiện tri thức không được

do dự. Bảo t.m c.i Thắng Lạc, núi Diệu Phong, Tỳ-kheo Đức Vân.

Thắng là siêu vượt. Lạc là an vui. Bởi v. tiến lên Sơ Trụ, sự an vui thắng vượt 10 Tín.

Núi tiêu biểu sự tịch tĩnh không động. Phải lên cao mới có thể thấy khắp. Sơ Trụ tâm mới

hiểu giải, y định phát tuệ, tịch nhiên không động, trí giám không sót, thấu triệt nhân quả, quan

sát vạn loài. Tên núi Diệu Phong v. ai lên đỉnh tâm này liền thành chánh giác. Tỳ-kheo nêu

biểu đ. ra khỏi phàm phu và ngoại đạo. Tên Đức Vân nghĩa là đức như mây.

Mây có 4 . : 1) Phổ khắp. 2) Nhuận trạch. 3) Che trùm. 4) Rót mưa. Nêu biểu 4 đức

Định, Phước, Bi và Tuệ. V. Đức Vân là Bồ-tát Tỳ-kheo. Bồ-tát tâm lớn thường làm phước.

Định và tuệ là chỗ tu thiết yếu của Tỳ-kheo. Bắt phải cầu thiện bạn để làm quỹ tắc cho

tất cả hậu lai tu hành, cầu pháp không lười mỏi. Bạn lành nói pháp không sẻn tiếc. Thiện bạn

là toàn phạm hạnh như vua A Xà Thế được gặp Kỳ Bà, như vua Diệu Trang Nghiêm được

gặp Tịnh Đức và Tịnh Tạng. Tự phá ngu chấp kiêu mạn, hạ m.nh học hỏi, khắp kính phụng

sự. Trong vô cầu vẫn thỉnh cầu. Phá chấp thiên không, khiến tức sự tức hành, thà học ít mà

chứng nhập.

Thiện Tài thấy Đức Vân kinh hành chậm r.i ở một ngọn núi khác, sau 7 ngày t.m kiếm

(7 ngày nêu biểu 7 giác chi trợ đạo. Kinh hành là quán, đi chậm r.i là chỉ). Đây là ngôi Sơ

Phát Tâm Trụ. V. trí tuệ trụ ở tánh Bát Nh. đ. được bất thoái.

Đức Vân dạy : “Ta được tự tại quyết định giải lực, tín nh.n thanh tịnh trí quang chiếu

diệu”. Đây chính bày pháp giới tức là niệm Phật tam muội. Tự tại : Quán cảnh tự tại, tác dụng

tự tại. Quyết định : Trí quyết đoán, đ. được l.ng tin không do dự. Giải : Hiểu r.. L.ng tin và

trí tuệ giúp nhau. Cảnh ngoài không thể động lay gọi là lực, nghĩa là tam muội. Tín nh.n

thanh tịnh : Con mắt thấy r. nên l.ng tin chân chánh. Tu niệm Phật tam muội trước phải

chánh tín, kế dùng trí mà quyết liễu, r. thấy phân minh.

Kinh Văn Thù Bát Nh. dạy niệm Phật nhất hạnh tam muội, trước nói về chân pháp

giới bất động. Biết chân pháp giới không động dao là nghĩa hiểu giải quyết định trong đây.

Cho nên niệm Phật việc đầu tiên phải học Bát Nh.. Nhất hạnh : Hệ duyên pháp giới

một tướng tức là hệ duyên pháp giới bất động. H.a-thượng Cao Tề Đại Hạnh nói rằng : “Hai

chữ TIN NHỚ không l.a tâm, kính xưng danh hiệu Phật không l.a miệng”. Phật không l.a

miệng, không l.a tâm. Phật tức cứu hộ. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường xưng danh, thân

hành lễ kính, mới gọi là tin sâu. Cứ thế sớm chiều, trọn không tạm trụ ở các pháp sanh tử.

Thanh Lương Quốc sư đem việc này sách tấn kẻ sơ tâm, cho đây là việc rất quan trọng.

Tín nhỡn khắp quan sát không g. chẳng phải là Phật. Đây là bậc thượng căn. C.n

thông thường, người tu niệm Phật tam muội trước quán Hóa-thân, kế quán Báo-thân, sau mới

quán Pháp-thân. Đây Đức Vân quán cả 3 một lúc. Mắt tin thanh tịnh là đ. l.a tất cả chướng

(ngũ cái và chấp thủ dù ch.m dù nổi) để chứng tam muội. Kinh dạy : “Không thấy vạn pháp

như huyễn th. thấy mà không thấy, đó là kẻ lóa mắt”. Nếu c.n phân biệt, c.n chấp tướng

chẳng thể thấy Phật. Phải rốt ráo hoàn toàn l.a đắm trước mới thấy Phật. Tín nhỡn khắp quán

vạn pháp, tánh thể đều là chân như, gọi là trí quang chiếu diệu. Thấy l.a tướng như thế tức là

đầy đủ thanh tịnh nhất hạnh tam muội. V. nhất hạnh là nhất pháp giới hạnh. Trên đây là nội

dụng. C.n sau là ngoại dụng : “Đi khắp mười phương tất cả quốc độ. Cung kính cúng dường

tất cả chư Phật”. Đ. cùng cực nguồn tịch chiếu th. bất động mà đi, công dụng hẳn vô cùng.

Thường niệm tất cả chư Phật, tổng tr. tất cả chánh pháp. Thường thấy tất cả mười

phương chư Phật nghĩa là thường đến nên thấy tại chỗ. Thấy r. từng sự việc như là sắc tướng

quang minh, đạo tràng trang nghiêm, thần thông du hí, tùy tâm chúng sanh tin ưa mà thị hiện

các thứ giáo hóa v.v...

Thiện bạn đầu tiên dạy niệm Phật, v. đây là đầu vạn hạnh. Trí Độ Luận dạy rằng :

“Bồ-tát lấy Bát Nh. ba la mật làm mẹ, niệm Phật tam muội làm cha. V. có y Phật mới thành

các thắng hạnh”. Lại là ngôi Sơ Trụ duyên Phật phát tâm, vui thích cúng dường. V. niệm Phật

công cao mà dễ tiến. V. quán Phật thông cả cạn sâu nên có thể khắp nhiếp chúng sanh. Niệm

Phật tiêu diệt trọng chướng. Niệm Phật là kiêm cả niệm người và niệm pháp nên dễ gia hộ.

Luôn một lúc Đức Vân nêu ra 21 môn niệm Phật. Trước nói tên sau hiển tướng. Cả 21

môn đều là niệm thể và dụng vô ngại của Phật. Quán Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân. Mỗi thứ

đều có y báo chánh báo thành 6 pháp quán. Pháp-thân th. có pháp tánh độ. Báo-thân th. Hoa

Tạng các c.i là y báo, 10 thân tướng hải là chánh báo. C.n Hóa-thân th. 32 tướng hảo là

chánh báo, quốc độ đang thị hiện là y báo.

Cảnh trùng trùng đế v.ng là nhập Phổ Hiền niệm Phật tam muội. Môn cuối cùng này

là thông tướng. 20 môn trên là biệt tướng. Môn số 18 là tổng tướng duy tâm, thị tâm thị Phật

  1. thị tâm tác Phật. Số 19 tùy ng. tùy tâm, v. tâm có nhiều thứ nên thấy Phật có khác nhau.

Tông Tịnh-độ ở Việt Nam giản dị theo kinh A Di Đà, chuyên niệm danh hiệu Phật để cầu

v.ng sanh, thuộc về sự l. vô ngại, do Hóa-thân Phật Thích Ca Mâu Ni đề xướng.

Ngày 8-12, cách đây 2500 năm, là ngày đức Thích Ca thị hiện thành đạo, ở dưới gốc cây Bồ-

đề, hứa hẹn giải thoát vô minh cho nhân loại.

Ngày Tết Bồ-đề !

Kể từ ngày ấy, cây Bồ-đề được làm tiêu biểu cho chánh giác thế gian. Kể từ ngày ấy,

trí tuệ loài người trên trái đất này chợt le lói như sao mai lấp lánh trong màn đêm.

Từ ánh sáng của sao mai, một tia hy vọng mát mẻ, báo trước thế gian tối tăm sẽ biến

thành rực rỡ quang minh, tắm trong huy hoàng chiếu diệu của mặt trời trí tuệ. Cung thỉnh đại

chúng ngửa lên ngắm sao mai mọc mà vui mừng. Tánh của chúng ta không phải là tối đặc, là

si mê. Chúng ta là ánh sáng. Kinh Hoa Nghiêm, Phật tuyên bố câu nói lịch sử : “Lạ lắm thay !

Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ đức tướng, trí tuệ của Như Lai”.

Ngôi thập Tín là ánh sáng của sao mai. Thập Trụ là minh tướng xuất hiện. Thập Hạnh,

thập Hồi Hướng là b.nh minh. Thập Địa là thật r. ban ngày. Đẳng giác Diệu giác là mặt trời

tới đỉnh. Ai chưa đi học cho rằng mặt trời mọc để rồi lặn. Người có học biết mặt trời không hề

có mọc có lặn.

Ngày mồng 8 tháng 12 tuyên bố cho thế gian biết trí tuệ chánh giác vẫn thường trụ ở

khắp mười phương. Muôn loài ai cũng có tánh Phật và sẽ thành Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

  1. CHƯƠNG TR.NH

XẢ Y CÔNG ĐỨC (16-12)

— Lễ Phật – Lễ y – Lễ 18 A-la-hán.

— Đại chúng tạ Thầy.

— Đáp từ.

— Tặng quà thưởng Tỳ-kheo-ni tr. y.

— Bát Nh. – Hồi hướng – Tam quy.

— Chúng nhỏ giải tán.

— Chúng Tỳ-kheo-ni lưu lại yết ma xả y công đức.

— Vị tr. y ở giữa chúng bạch :

“Con Tỳ-kheo-ni... v. Tăng tr. y công đức đ. xong”.

BAN THỦ ĐÁP TỪ

Đang khóa chuyên tu, chị em chỉ có một việc theo d.i tâm m.nh. Quan sát cảm giác và

tư tưởng đến rồi đi, không để tâm dính mắc bất cứ một chuyện g.. Chú tâm tỉnh thức trước

những sự đang xảy ra dù ngoại cảnh hay trong tâm. H.nh thức tu hành tương đối khắt khe g.

bó. Năm tháng vừa qua đ. đưa chị em vào khuôn khổ oai nghi thánh hiền.

Nay m.n khóa, tạm nghỉ, chị em trở về nếp sống b.nh thường. Chớ quên mọi việc làm,

mọi tác động đều là cơ hội thực tập thiền quán. Bất cứ công việc g., quét dọn, phụ bếp, rửa

chén v.v... phải chú tâm tỉnh thức, giữ chánh niệm. Đừng nghĩ rửa nhà cầu, đổ ống nhổ chỉ ích

cho người khác. Nên biết tất cả đều là giáo pháp. Đừng nghĩ chỉ trong thời khóa mới hành

thiền. Không lẽ ngoài các khóa tu ta không thở sao ? Ta có thể đọc sách, t.m hiểu thêm giáo l.

nhưng không dính mắc vào sách vở cũng như không nên dính mắc vào định tâm. Đó là trí tuệ.

Định lực là dụng cụ để tiến xa nhưng ngồi nhiều hay ít không thành vấn đề. Thận

trọng chớ cho tu hành mục đích là đạt đến định tâm an ổn khoái lạc. Thế là phí thời giờ. Thiền

Minh Sát là phương pháp giúp ta giải thoát, do quan sát bản chất của vọng thân và vọng tâm

vô thường, vô ng.. Hiểu r. bản chất của khổ vui th. Phật pháp ở ngay đấy. Nếu ta hoàn toàn

mở rộng tầm mắt trước mọi diễn biến thế gian mà không yêu ghét th. ta với Phật là một. Thấy

được thật tướng của vạn hữu là cốt tủy của học và dạy học.

Mở cửa tịnh thất, trở ra tiếp xúc với đời sống trong chúng, chị em cần lưu tâm tránh 2

điểm : nói lời vô ích và thói tụm năm tụm ba. Đôi khi thấy ai có hành động không tốt, ta bất

b.nh, phán đoán, kể lể. Thế là ta đ. ra ngoài giáo pháp của Phật. Ta tự mua phiền n.o vô ích.

Đừng bắt mọi người phải theo đúng như . muốn của m.nh. H.y quay về xem xét

những cảm giác của m.nh. Đó là phương pháp giúp ta khai tuệ. Đang lái xe trên một con

đường nhiều khúc cong. Bổn phận ta là chăm chú chớ để xe đi lệch đường. Tai nạn nguy hiểm

đợi chờ.

Luật Sadi kể chuyện : Một tam tạng Pháp sư lên chánh điện, thấy một l.o tăng tụng

kinh giọng ồ ề, liền nói đùa : Ngài tụng kinh như chó sủa. Chỉ v. ngứa lưỡi một lời mà 500

đời sau đọa thân chó. Thân cuối cùng ăn vụng thịt, chủ nhân giận quá chặt 4 chân, quẳng

vào đống rác. Chó quằn quại đói khát mấy ngày. Ngài Xá Lợi Phất đi qua xót thương, cho

ăn và v. nói pháp. Tới khi chó chết sanh vào nhà trưởng giả, được đặt tên Quân Đề. Sau

theo ngài Xá Lợi Phất xuất gia chứng quả. Vị tam tạng Pháp sư đ. đi lệch đường nên dĩ nhiên

phải gặp tai nạn.

Cuộc đời muôn màu muôn vẻ nhưng toàn hư vọng. Phật dạy : Không nên có tâm phân

biệt, đừng phán đoán. Nên giản dị quay trí sáng về theo d.i tâm m.nh. Phát triển l.ng lành,

loại bỏ thói châm chọc khinh mạn, đừng gây đau khổ cho ai. Đây là con đường an b.nh m.i

m.i.

  1. ĐẠI CHÚNG BẠCH TẠ SƯ CÔ BAN THỦ

Kính thưa Sư cô Giám thiền !

Mùa y công đức năm nay chúng Liên Hoa thực hiện khẩu hiệu “Im lặng – Chăn trâu –

Xả ng.”. Rất may mắn cho chúng con được Sư cô hướng dẫn tận t.nh. Tuy thời gian không

bao nhiêu, nhưng chúng con được nếm chút thiền vị, tập làm quen với pháp môn Tứ Niệm

Xứ.

Thưa Sư cô ! Những ngày đầu tiên chắc Sư cô phải vất vả nhiều, v. chị em chúng con

c.n bỡ ngỡ. Sư cô phải hướng dẫn, sửa chữa từng tư thế, cách ngồi, tay, chân, vai, lưng, mắt,

điều h.a hơi thở ra vào, sao cho đúng pháp khỏi sanh bệnh. Những buổi tr.nh pháp, chúng con

được học thêm nhiều kinh nghiệm trong sự tu hành. Sư cô ân cần nhắc nhở chúng con :

— Phải ghi niệm không được lười mỏi.

— Phải giữ miệng im lặng, để tâm vào đề mục thiền.

— Phải theo d.i hơi thở, không cho vọng tưởng sanh.

— Phải cố gắng hàng phục hôn trầm.

— Luôn luôn thắp sáng trí tuệ, soi chiếu từng hơi thở, soi chiếu tiểu oai nghi v.v...

Thật qu. báu thay những giờ tu tập, chúng con đ. tiến bộ dần. Nhờ để . hơi thở,

chúng con hàng phục được vọng tâm, khắc chế miệng đỡ nói tạp, vui vẻ h.a nh. với chị em.

Nhờ để . hơi thở, chúng con thấy r. sự sanh diệt, thấy r. thân mạng vô thường,

xây dựng trên hơi thở ra vào mong manh. Mỗi khi xúc sự, tâm muốn nổi sân, thoáng thấy Sư

cô, chúng con vội nhớ lại bổn phận. Liền khởi trí quán : “Sân à ! Sân à !”, “Vọng tưởng à ?

Phóng tâm à ?”. Nhận r. bộ mặt của chúng th. chúng khắc tan.

Tuy chỉ vỏn vẹn có 5 tháng, mà chúng con cũng đ. thâm nhập được một phần nào

hương vị giải thoát. Chúng con ao ước sau khi m.n khóa lại được phước duyên tiếp tục công

phu, sâu vào hành pháp Tứ Niệm Xứ, để tiến dần đến Bát Nh. trí, chiếu kiến ngũ uẩn giai

không, độ hết thảy khổ ách.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. PHÁP TƯỚNG PHÁP TÁNH

Đạo Phật có 2 tông phái tựa hồ trái nhau. Pháp tướng tông thờ đức Di Lặc, chủ trương

vạn pháp duy thức biến. Pháp tánh tông thờ đức Văn Thù, chủ trương vạn pháp duy tâm tạo.

Vậy thế nào là tâm thức ? Thế nào là tâm tánh ? Kinh sách gọi tâm thức là vọng tâm,

tâm tánh là chân tâm.

Tâm tánh là tánh của tâm, bản chất linh tri, vô phân biệt mà diệu minh, diệu giác

không thể nghĩ bàn.

Tâm thức là phân biệt theo thức t.nh vọng động, phan duyên cảnh trần mà tính toán lợi

hại.

Tánh là thể. Thức là dụng sai lầm.

Thật ra 2 tông không trái nhau mà c.n làm sáng tỏ cho nhau. Phàm t.nh chúng ta chấp

tướng nặng, nên thường phải học Duy Thức trước, rồi vào Bát Nh. chân tâm mới dễ dàng.

Pháp tướng tông nghiên cứu đường đi sai lầm của tâm thức, chuyển thức thành trí, đưa

người tu trở về chân tâm bản tánh. Nghĩa là đánh giặc vô minh từ ngoài đánh vào.

Pháp tánh tông y tánh Viên giác lọc bỏ năm ấm sanh tử, đánh giặc vô minh từ trong ra.

Từ căn phát sanh ra thức. Hạt giống cây Long Hoa (pháp tướng tông) ở ngay sáu căn của

chúng ta. Lăng Nghiêm (pháp tánh tông) gọi là mật nhân Bồ-đề.

Đức Văn Thù khuyên quan sát kỹ vạn pháp duyên khởi không thật, để trở về tánh của

tâm thức, chính là chân tâm.

Phong tục thỉnh đức Di Lặc xông đất ngày đầu năm, có . mong 365 ngày sắp tới,

chúng ta sẽ được b.nh an vui vẻ như ngài. Muốn được như ngài phải tu theo ngài. “Mặc ai

báng, mặc ai chê, đem lửa đốt trời luống tự nhọc. Ta nghe vui như uống nước cam lồ, tiêu

dung đốn nhập khó nghĩ bàn”. H.a-thượng Thanh Từ giảng rằng : “Cầm lửa đốt hư không,

bao giờ hư không cháy ?” Trái lại, nếu tâm chúng ta làm bùi nhùi bốc cháy theo lửa sân của

họ th. chúng ta bị cháy ra tro. Người tu đâu cần hơn thua. Chẳng những b.nh tĩnh thản nhiên,

mà c.n coi như được uống cam lồ. Chê khen là thử thách để đo lường trí tuệ vô sanh, l.ng từ

bi, hạnh nhẫn nhục. Nghĩa là đo lường đạo lực của chúng ta. Để kết luận H.a-thượng cho bài

phú :

S.i tôi một dạ tu hành,

Buông xả vạn duyên.

Chí mong siêu thăng làm Phật Tổ,

L.ng nguyện độ tận chúng sanh.

Đêm đông tr. chú, dóng chuông boong boong.

Ngày hạ tụng kinh, lên m. cốc cốc.

  1. chuộng đạo đức,

Miệng chẳng nề ăn đắng ăn cay.

Bởi yêu hai chữ “Từ Bi”

Thân nào quản áo lành áo rách.

Đây là lời nhắc nhở. Đi tu quyết thành Phật thành Tổ để làm g. ?

Để cứu vớt chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ.

Với tinh thần ấy, sáu căn quản g. trái tai, gai mắt. Đức Di Lặc tươi cười trong ngũ

trược ác thế, nhờ trí tuệ biết r. 6 căn huyễn hóa, 6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm. Cổ nhân xưa

hằng tự nhắc : “Tỉnh tỉnh chớ bị lừa !” Xả thức sanh diệt trở về chân tánh vô sanh là Niết-bàn,

là mùa xuân vĩnh cửu.

  1. PHỔ CÁO ĐÓN XUÂN

Kính bạch đại chúng !

Nhập gia tùy tục ! Mỗi năm Tết đến, chùa chúng ta tuy bổn phận là chiếu kiến ngũ uẩn

giai không, nhưng vẫn cùng toàn quốc Việt Nam đón xuân mừng tuổi. Vui h.a với nhịp sống

thế gian như vậy đ. không trái đạo lại c.n là chính . Phật Tổ. Kinh dạy : Nhất thiết chư pháp

vô phi Phật Pháp. Xuất thế gian ở ngay trong thế gian là diệu dụng của Bồ-đề. Thầy chắp tay

tùy hỷ tán thán những ngày vui đầu năm của đại chúng.

Nhưng tuy vẫn thở chung một bầu không khí nhộn nhịp vui tươi của ngày năm mới,

chúng ta nên mở con mắt đạo nh.n một sự thật. Ngày Tết là ngày “bánh chưng xanh, thịt mỡ,

dưa hành, câu đối đỏ”.

Cái vui của thế gian là thế. Muốn cho loài người vui th. trâu b., heo dê, gà vịt, cua cá

phải chết. Nhà nhà bếp bếp thi nhau chặt cổ, mổ bụng chúng sanh. Vậy th. ngày Tết là ngày

vui hay ngày khổ ? Theo Phật giáo, đó là ngày loài người gieo ác nhân. Ngày chúng sanh trả

nợ máu. Đại thừa Phật giáo có mặt ở Việt Nam đ. ngót ba ngàn năm mà vẫn chưa có thể

chuyển hóa được một phong tục r. ràng không hợp l.. Chẳng phải là lỗi của Tăng Ni chúng ta

hay sao ?

Tổ dạy có 3 cách giải thoát :

1) Thượng căn tự lực giác ngộ. Đây là giải thoát bằng Tuệ.

2) Trung căn đọc tụng kinh sách, học và hiểu. Đây là giải thoát bằng Trí.

3) Hạ căn một l.ng cầu nguyện. Đây là giải thoát bằng l.ng Tin. Chưa có thể giác tỉnh

quần chúng, ta chỉ có cách đền tội bằng cầu nguyện. Nên ngày 28, 29, 30 Tết chúng ta đổi

việc sắm tết làm một đàn chay, giải oan gỡ kết cho ta và người.

Hương Sen chuyên niệm đức A Di Đà, Dược Sư chuyên niệm đức Lưu Ly Quang,

Lăng Nghiêm chuyên niệm đức Quán Thế Âm, Linh Quang chuyên sám Lương Hoàng lạy

đức Bổn Sư, Liên Hoa chuyên tụng Pháp Hoa, Viên Thông chuyên lạy Thủy Sám. Chương

tr.nh tụng niệm lễ bái tùy mỗi trụ xứ soạn thảo. Ai muốn dâng lễ phẩm chúc tết Thầy, ít nhiều

xin cứ gởi cúng vào đàn chay, trên cúng dường Tam-bảo, dưới đảnh lễ tạ ơn đại chúng.

Nguyện cầu âm siêu dương thái, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.

Nam mô Công Đức Lâm Bồ-tát ma-ha-tát.

Linh Quang 21-12 ÂL (1994)

Thầy Hải Triều Âm

Phổ cáo

  1. TIỀN THÂN ĐỨC DI LẶC

Chuyện Cổ Phật Giáo kể rằng :

Ngày xửa ngày xưa, có ông Tiên tên là Nhất Thiết Trí Quang Minh tu ở trong rừng.

Gặp năm mưa gió trái thời, cây cỏ héo khô không khai hoa kết quả, dân gian mất mùa, khắp

nơi đói kém. Một con thỏ thấy Tiên ông nhịn đói, thương quá, bèn ra trước mặt ngài để hiến

thân cho ngài. Nhưng Tiên ông chỉ vuốt ve thỏ mà không nghĩ g. đến chuyện hại thỏ. Thỏ

nghĩ : “Tối nay Tiên ông đốt lửa sưởi, ta sẽ nhảy vào tự quay nướng thơm ngon, chắc Tiên

ông sẽ dùng”.

Sương chiều lạnh buốt, ngọn lửa hồng vừa cháy đỏ th. thỏ con nhảy phốc vào, . mừng

rằng : “Đằng nào cũng chết, nay lại được chết để cúng dường một vị đại đức”.

Ngọn lửa xèo xèo reo vui, thui nướng thân h.nh Bồ-tát. Riêng Tiên ông không vui tí nào. Cảm

động ngậm ngùi trước sự hy sinh của con vật, ngài phát nguyện : “Đời đời dù chết, quyết

không nỡ l.ng ăn thịt chúng sanh”.

Từ đấy ngài có tên là Di Lặc (Từ Thị), luôn luôn mẫn từ thương xót muôn loài. Thỏ là

tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.

HÓA THÂN ĐỨC DI LẶC

Cách đây hơn ngàn năm, ở bên Tàu bỗng nhiên xuất hiện một vị H.a-thượng béo tr.n, bụng

phệ, miệng cười tươi như hoa, tay xách túi vải. Nên được tên là Bố Đại H.a-thượng (Bố Đại

là túi vải). Có ai thỉnh pháp, ngài buông tay nải xuống, chắp tay đứng im. Nếu gạn hỏi : “Chỉ

có thế thôi à ?” th. ngài vác đ.y vải lên vai đi thẳng. Một ngày kia, Bố Đại H.a-thượng ngồi

trên mỏm đá, cười mà hóa sau khi đọc kệ :

Di Lặc ! Thật Di Lặc !

Hóa thân ngh.n trăm ức,

Luôn luôn nhắc người đời,

Mà người đời chẳng biết.

Ngài giáng sanh, độ thế chỉ một nụ cười. Vậy mà cái cười ấy được truyền bá khắp tầng

lớp trong nhân gian nhiều hơn các thứ kinh luận khác.

Người Tàu ham ưa nền triết l. tươi vui của nụ cười nên khắp nơi nơi, thường thấy

bóng h.nh Bố Đại H.a-thượng hoặc khắc, hoặc vẽ, hoặc nặn, hoặc chạm trổ. Lại sợ những ai

không tinh ., không hiểu được . nghĩa sâu xa của nụ cười, người ta nặn thêm h.nh 6 chú bé

  1. bám quanh ông bụng phệ, đặt tên là lục tặc (6 tên giặc). V. các chú ngây thơ dại dột lắm,

tinh nghịch dối trá khiến cha mẹ thất điên bát đảo.

Chú thứ nhất tên nh.n thức (cái biết của mắt).

Chú thứ hai tên nhĩ thức (cái biết của tai).

Chú thứ ba tên tỵ thức (cái biết của mũi).

Chú thứ tư tên thiệt thức (cái biết của lưỡi).

Chú thứ năm tên thân thức (cái biết của thân).

Chú thứ sáu tên . thức (cái biết của .).

Chú thứ 6 bé nhất, suốt ngày ở trong nhà tối. Chú không tiếp xúc với đời nhưng 5 chú

kia luôn luôn thọt mách lẻo khiến chú cứ mừng vui, hờn giận, ham thích, uất ức... đủ các thứ

tâm sở phiền n.o kết thành màn vô minh. Chú đâm ra mù quáng. Tuy mù nhưng lanh lẹ lắm.

Tội nghiệp cho cái thân, cái lưỡi, chúng nó thật là những đầy tớ trung thành, chú bảo

sao nghe vậy. Chú sai chúng đủ thứ : sát, đạo, dâm, vọng v.v... Hết 365 ngày đi, lại 365 ngày

khác tới, 6 anh em nhà này cứ loạn xạ, cho đến bao giờ cái nhà mấy chú ở sụp đổ tiêu tan.

Câu chuyện có thế, thật là trẻ con. Chỉ là những tấn tuồng hết vui lại buồn, hết buồn lại

vui của một đàn trẻ. Bậc thức giả đâu có bị lừa mà chẳng ngồi cười.

Khốn nỗi chúng ta ai cũng tin 6 chú bé của ta thông minh, sáng suốt nhất đời. Tin đến

nỗi có 6 chú ấy th. ta sống, không có th. ta chết. Ít người tự hỏi : Vậy ta là ai ?

Nhân loại mỗi người nuôi 6 chú giặc làm con, hèn chi mà quả địa cầu này chẳng ướp

mùi khói đạn máu xương, hèn chi mà thần hạnh phúc chẳng lánh xa c.i Ta Bà.

Bồ-tát Di Lặc cười v. ngài đ. thắng trận giặc rất khó khăn, xưa nay không mấy ai

thắng nổi. Ngài đ. nắm được chủ quyền. Ngài đ. điều phục được giặc, chuyển bọn giặc thành

những bầy tôi trung nghĩa hiền lương. Nhà ngài ở vốn Thường Tịch Quang, không hề vẩn đục

chút phiền n.o.

Bởi thế, ngài c.n có tên là A Dật Đa. Tàu dịch là Vô Năng Thắng, vô địch tướng quân.

Ngài đ. toàn thắng vô minh. Bồ-tát ngồi cười v. đ. thấy r. thế gian ân ân oán oán, duyên nợ

báo đền chỉ là tr. huyễn hóa, do 6 chú “lục tặc” xóa xóa bầy bầy. Chúng ta có đại phước

duyên được thờ đức Di Lặc làm Thầy, được học pháp môn Duy Thức nên trong chùa, kẻ trên

người dưới vui h.a, cùng nhau đầm ấm sửa soạn đón xuân.

  1. KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

Tôi nghe thế này : Một thời đức Phật ngự ở núi Linh Thứu, thành Vương Xá, cùng

đông đủ các đại Tỳ-kheo.

Đại trí Xá Lợi Phất cung thỉnh Thế Tôn nói lại bài tụng thọ k. Từ Thị, bậc đại thần

thông oai đức, sẽ hạ sanh làm Phật.

— Xá Lợi Phất định tâm lắng nghe ! Hết kiếp giảm đến thời kiếp tăng, con người thọ 8

vạn tuổi, không tật bệnh, không phiền n.o, thân tướng đoan nghiêm, sức lực viên m.n, biết

trước giờ lâm chung, tự đến rừng Thi lâm.

Châu Nam Thiệm, nhân dân từ nghiệp lành sanh về, sống không h.nh phạt tai ách. Mặt

đất không gai góc, trải cỏ xanh mềm dịu, êm chân như vải bông mịn. Nếp thơm mọc tự nhiên,

thức ăn ngon lành tự có. Cây rừng trĩu những hoa trái, y phục và vật dụng để trang sức.

Kinh đô Diệu Tràng Tướng lâu đài 7 báu, hào r.nh trân châu, hoa thơm, chim qu.. Chuông

vàng, khánh bạc v.v... nghiêm sức tuyệt diệu, cùng gió vang diễn diệu âm. Nơi nơi ao hồ, tạp

sắc hoa nở thơm ngát.

Thánh vương Hướng Khư phước đức hùng mạnh, bốn biển thái b.nh, kho đầy châu

ngọc, chánh pháp thạnh trị. Đại thần Thiện Tịnh thông thạo bốn minh. Vợ là hiền nữ Tịnh

Diệu, dạo vườn xem hoa, bỗng sanh con trai thân vàng sáng chói, khuôn mặt trăng tr.n, mắt

biếc xuân sơn. Đây là Bồ-tát từ c.i trời Hỷ Túc giáng sanh, thanh tịnh như sen nở, hào quang

khắp rực rỡ. Bồ-tát đi 7 bước, 7 bông hoa đỡ gót. Giọng như Đại Phạm Vương, tuyên bố nội

trong đời này sẽ chứng Niết-bàn. Chín rồng phun nước tắm. Hoa trời rải như mưa. Thiên tử

che lọng báu. Hư không vang h.a nhạc. Thiện Tịnh biết 32 qu. tướng này, xuất gia thành

chánh giác, ở tại gia làm Chuyển Luân Thánh Vương.

Ngày Từ Tôn giáng đản, nữ nào mang thai đều sanh con an ổn. Vua Hướng Khư kiến

lập 7 bảo tràng cao 70 tầm, rộng 60 tầm, bá thí cho các Bà-la-môn, Phạm chí. Họ vui mừng

hớn hở nhưng chẳng bao lâu các tràng báu hư nát. Bồ-tát thấy vậy, tỉnh ngộ thế gian vô

thường, t.m cách thoát ly ngục tù sanh tử. Ngày Bồ-tát xuất gia, 84.000 người phát tâm theo

ngài tu phạm hạnh. Ngay đêm ấy, ngài thành chánh giác dưới gốc cây Long Hoa. Quần chúng

như mây, nhóm đông đầy vườn Diệu Hoa. Vua Hướng Khư nghe pháp, cùng 84.000 quyến

thuộc xuất gia. 84.000 đồng tử Bà-la-môn, Thiện Tài trưởng giả cùng 1000 quyến thuộc, bảo

nữ Tỳ Xá Khư cùng 4000 thị nữ, vô số thiện nam tín nữ đồng thời xuất gia.

Đại Từ Thế Tôn phán rằng : Những ai đ. thâm tâm tin chịu chánh đạo của Thích Ca

Mâu Ni Phật, nay đều sanh trong pháp ta. Cúng dường Phật Thích Ca, quy y Tam-bảo, tứ sự

phụng thờ Tăng chúng, trai giới thanh tịnh, giáo hóa chúng sanh khiến được sạch trừ phiền

n.o v.v... Những người như thế nay đều đ. sanh trong pháp của ta.

Hội đầu 96 ức Thanh-văn giải thoát.

Hội hai 94 ức Thanh-văn giải thoát.

Hội ba 92 ức Thanh-văn giải thoát.

Mỗi khi Phật Từ Thị cùng đệ tử vào thành khất thực, thiên chúng tán hương cúng

dường. Hoa thơm trải đất, nhạc âm vang trời. Bên đường phất phới tràng phan các màu. Vua

Đế Thích xưng tán : Nam mô Thiên Thượng Tôn ! Nam mô Sĩ Trung Thắng ! Lành thay Bạcgià-

phạm ! Đại bi cứu thế gian ! Ma vương c.i trời đảnh lễ quy y Đại Đạo Sư.

Nhân dân phần nhiều là A-la-hán. Trời, rồng, a-tu-la, la-sát, dược-xoa thảy đều hoan

hỷ cúng dường. Tất cả đại chúng đều thành tựu phạm hạnh. Người th. sạch chướng trừ nghi,

siêu vượt sanh tử. Người th. l.a nhiễm, xả báu, dứt ng., ng. sở. Người th. hủy lưới thân ái,

viên m.n tịch diệt.

Từ Thị Thiên Nhân Tôn thọ 6 vạn tuổi. Chánh pháp trụ thế 6 vạn năm.

Người thông tuệ nghe pháp như trên, vui mừng phát nguyện, mong gặp đức Từ Tôn.

Ai cầu giải thoát trên hội Long Hoa, h.y chăm cúng dường Tam-bảo, siêng năng tu hành. Ai

đọc tụng thọ tr. giảng nói kinh này, như pháp tu hành, hương hoa cúng dường, hoặc viết chép

lưu bố, sẽ được gặp Từ Thị hạ sanh, sẽ có phần giải thoát trong 3 hội.

Phật nói pháp xong, ngài Xá Lợi Phất cùng đại chúng vui mừng tin chịu vâng làm.

Nam mô Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh, Di Lặc Tôn Phật (3 lần).

  1. LONG HOA TAM HỘI

Long Hoa là một thứ cây to lớn sum suê, cành uốn khúc như rồng múa. Hoa màu hồng

tươi nở rực rỡ khắp cành nên gọi là cây Long Hoa. Đức Di Lặc ngồi dưới gốc cây này thành

đạo. Đức Thích Ca nói kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật :

Nhất tâm nghe cho r.

Lửa tam muội sáng soi,

Người công đức thứ nhất

Đang sắp sửa ra đời.

Người ấy nói pháp mầu

Ai nghe đều vui thỏa,

Như khát uống cam lồ

Tới ngay đường giải thoát.

Đất nước ấy bằng phẳng một làn như tấm gương lưu ly. Có bao thứ hoa, cánh hoa

mềm mại như lụa trên trời, kết quả cát tường, mùi thơm vị ngọt. Nhân dân sống 84.000 tuổi,

người cao 16 trượng. Con gái 500 tuổi mới đi lấy chồng. Đến lúc già suy, cứ tới rừng kia

niệm Phật mà v.ng sanh, hoặc đi các c.i trời, hoặc đi các c.i Phật. Nhân dân chỉ có 3 bệnh :

ăn uống, đại tiểu tiện và già chết. Đại tiểu tiện xong, đất tự nứt chôn đi, tại nơi ấy nẩy bông

sen đỏ. Không có giặc cướp, đao binh, đói khát, chết non. Ai nấy giữ g.n sáu căn, cung kính

h.a thuận nhau như con yêu cha, bà thương cháu. Người không sát sanh, không ăn thịt, được

sanh về đấy.

Gạo lúa thơm ngon, cấy một lần gặt 7 lần. Chúng nhân coi vàng ngọc như gạch ngói.

  1. chúng sanh căn khí khác nhau, đức Di Lặc mở 3 hội :

1- Gồm những đại thừa Bồ-tát đ. tu tr.n 6 ba la mật.

2- Những vị giữ tr.n 5 giới trở lên l.ng tin quyết định :

Quy y Phật, mở l.ng rộng r.i độ m.nh độ người.

Quy y Pháp, nghiên cứu kinh điển phân biệt chánh tà.

u đức lập hạnh.

3- Để vớt những mầm thiện c.n kém duyên lành, chậm kết quả.

Đức Thích Ca v. bi nguyện, không nỡ bỏ sót một chúng sanh nào đ. có duyên với

ngài. Nên nhất nhất giao phó cho đệ tử là đức Di Lặc sau này phải làm nốt nhiệm vụ giáo hóa

và thọ k. cho tất cả đều được thành Phật. Từ người lễ một lễ, tới đứa trẻ trong lúc chơi đùa,

nhác trông thấy Thánh tượng. H.nh ảnh in vào thức thứ 8. Ngày mai gặp duyên, hạt giống nẩy

mầm cũng thành chánh quả. Cả những kẻ chê bai đạo Thích Ca, cũng đ. kết duyên với Phật,

đều được Từ thệ nhiếp về tới hội này.

Nhưng bao giờ đức Di Lặc mở 3 hội Long Hoa ?

Trong kinh Di Lặc Thượng Sanh, Phật bảo ông Ưu Ba Ly rằng : “Người ấy từ đây 12 năm

nữa sẽ sanh lên trời Đâu Suất, 50 ức vạn năm nữa xuống c.i Diêm-phù-đề, ngồi dưới gốc cây

Long Hoa thành Phật quả, khua trống lớn, quay bánh xe pháp lớn”.

  1. ràng là đức Di Lặc tuy c.n ở cung trời Đâu Suất, nhưng cây Long Hoa hiện đang

nẩy mầm ở ngay nhân gian này. Chị em chúng ta h.y gánh nước đại bi tưới khắp c.i, cho rễ

cây ăn sâu suốt nơi nơi, bắt đầu từ trái tim trong trắng của đàn em bé.

Cha chúng ta đ. có lời nguyện đại bi, đại dũng như vậy, chúng ta há chẳng nên ra công

kết duyên lành cho muôn loài. Nỡ nào c.n để sót những sinh linh phiêu bạt trầm luân. C.n ai

muốn theo chân đức Di Lặc lên cung trời Đâu Suất, để sẽ cùng ngài xuống trần mở hội Long

Hoa, h.y nghe lời đại sư Thái Hư : Ngay từ bây giờ chuyên học chuyên tu Duy Thức, giữ giới

sát sanh thật tinh nghiêm, đoạn trừ phiền n.o, tỏ ngộ l. ng.-không pháp-không, hàng ngày

niệm “Nam mô Di Lặc Như Lai”. Như thế hiện tại thân tâm trong sạch, không tai nạn bệnh

tật. Lâm chung, các thiên tử, thiên nữ sẽ xuống đón lên cung trời Đâu Suất.

  1. HÁI LỘC ĐẦU NĂM

TẠI CÂY BỒ-ĐỀ LINH QUANG

SÁNG 1-1 NHÂM THÂN 1992

Sông ái ngàn thước sóng,

Khổ hải vạn trùng ba.

Muốn thoát luân hồi khổ

Mau sớm niệm Di Đà.

Giải nghĩa :

Xuất gia cắt ái từ thân. Công cha như núi thái sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn

chảy ra. Cắt đứt t.nh thâm vào chùa cầu giải thoát. Những mong có đạo xuất thế để báo hiếu

đền ơn.

Nhưng nếu không tu học Tứ Niệm Xứ để xả ng. ái. Cái ta cứ sừng sững đối lập với

mọi người. Lại c.n riêng tư bè đảng. Người này tôi hợp, người kia không ưa. Khiến cho hai

chữ Tăng Già trở thành vô nghĩa.

Thánh nhân thường nhắc : “H.y nhớ thân ta chỉ là nắm bụi”. Xuất gia là chuyển thế

giới của cái tôi thành thế giới của chúng ta. Nhà chùa gọi là chuyển cô tâm thành lục h.a tâm.

Ai nấy quên quyền lợi riêng để cùng nhau xây dựng Tam-bảo. Đức Phật thường nhắc : “Trùng

trong thân sư tử mới giết nổi sư tử”. Nghĩa là chỉ những người xuất gia, cạo tóc, đắp y, mà

không sống đúng như luật như lời Phật dạy, mới khiến cho đạo Phật suy vi. Phật Pháp Tăng là

cửa giải thoát độc nhất của muôn loài, là nơi nương tựa duy nhất của chúng ta. Mong rằng

mỗi người con Phật cố gắng tr.n bổn phận.

  1. M.N KHÓA ABHIDHARMA

Abhidharma : Tàu phiên âm là A Tỳ Đàm, dịch nghĩa là Luận tạng. Abhi là mổ xẻ để

bàn rộng, phân tách để nói r., phát triển cả chiều cao lẫn chiều sâu. Dharma : Giáo pháp.

Abhidharma là một kho luận l.. Riêng tiểu thừa (nguyên thủy) cũng có tới 7 bộ, gồm nhiều

ngàn pháp môn do Phật nói ở cung trời Đao Lợi. Ngài A Na Luật Đà đ. khéo kết tập, các Tổ

sư đ. phân khoa và giải nghĩa.

Chúng ta học hôm nay chỉ là một phần nhỏ xíu ở quyển đầu bộ thứ nhất. Tuy đ. rút đi

rút lại chỉ c.n một l.i chất thật đơn giản nhưng vẫn đủ 3 phần chánh yếu của toàn thể giáo l.,

một đời thuyết pháp của đức Bổn Sư : 1) Cảnh. 2) Hành. 3) Quả.

1- Tâm thức chúng ta tr.nh bày 3 cảnh :

  1. a) Tâm thiện, tâm ác của Dục giới.
  2. b) Tâm Sắc giới và Vô sắc giới.
  3. c) Tâm siêu thế.

2- Pháp môn tu hành có 40 đề mục thiền.

3- Quả là 4 ngôi Thánh. Tới A-la-hán là tr.n phận sự, là tốt nghiệp trường tiểu học

Phật giáo, bằng cấp là trí tuệ Niết-bàn. Chỉ có một việc là chuyển phiền n.o thành Bồ-đề.

Vinh hoa là dự hàng Thánh chúng, hưởng phước vĩnh viễn an vui.

Các em đ. học kỹ nhưng chưa tập chưa tu. Nhớ nhiều chữ, viết nhiều chữ, kể ra cũng

  1. lắm. Trong c.i Ta Bà mù l.a này mà biết chữ Phật, đ. là châu báu vô giá rồi. Nhưng .

Phật không muốn chúng ta đếm châu báu vô giá của Phật mà chỉ ao ước chúng ta thật sự thi

đỗ làm quan A-la-hán, thoát hẳn cái khổ làm dân luân hồi.

Thầy thưởng đồng đều cho mỗi em một cuốn Duy Thức. Cô Giáo Thọ sẽ đưa các em

vào rừng Luận tạng đại thừa.

Đây là lời Phật rải rác trong khi thuyết pháp ở Ấn Độ thời xưa. Đức Di Lặc soạn tập

và biện tác các nguyên l.. Ngài Vô Trước và em là ngài Thế Thân diễn đạt rộng ra. Các đệ tử

truyền nối thịnh hành.

Nước Tàu có Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ học, phiên dịch rất nhiều kinh, đặc biệt

chú trọng môn này. Khi về nước, ngài đem tài uyên bác thành lập pháp tướng Duy Thức tông.

Các đệ tử nổi danh của ngài đ. khiến cho tông phái này cực kỳ hưng thịnh, truyền bá

qua Nhật Bản, Cao Ly, Việt Nam...

Các em sẽ thấy Luận học nguyên thủy hay đại thừa đều cao không cùng, sâu không

đáy, rộng không bờ nhưng chung quy cũng chỉ nghiên cứu về cái tâm của chúng ta. Nói về

một cái tâm của chúng ta mà Phật Tổ đ. dùng cả biển mực viết m.i vẫn chưa xong. Nương

ánh sáng trí tuệ của Phật Tổ, các em sẽ có nhiều phát minh thích thú. Cả một chân trời mới lạ

hé mở. Đặc biệt Luận nguyên thủy và Luận đại thừa đồng thanh nhắc chúng ta rằng ai ai cũng

có 3 thứ hữu dư : 1) Tập khí. 2) Báo chướng. 3) Phiền n.o.

Từ lịch kiếp chúng ta đ. tạo vô biên tội ác. Những tội nặng đ. trả quả ở địa ngục, ng.

quỷ rồi. Tham ái nhẹ đ. làm bồ câu, chim sẻ, cá chép, cá bống v.v... rồi. Sân nhẹ đ. làm rắn,

mèo, hổ, báo v.v... rồi. Ngu si nhẹ đ. làm voi, heo, ruồi, kiến v.v... rồi. Nay c.n dư báo phải

trả đền :

1- V. tập khí nên xuất gia dễ phạm sát, đạo, dâm, vọng.

2- V. dư báo nên câm điếc hoặc gặp nhiều hẩm hiu, các thứ chướng nạn.

3- V. phiền n.o nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham sân si, để đời đời đi lại trong tam

đồ.

Nhưng nguy nhất là thứ phiền n.o kiêu mạn. Mười người hết chín bị nó sai sử. C.n

một người kia bất quá là chỉ v. biết dùng trí tuệ tự kiềm chế. Nhưng nó vẫn thầm thầm ở

trong. Nuôi dưỡng kiêu mạn cống cao th. quả ở đường dưới. Nếu được làm người cũng chịu

dư báo, làm thân hèn hạ quyền người sai sử. Tài giỏi sang giàu mà ít kiêu mạn là đ. tu nhiều

kiếp. Bởi thế đối với kẻ ăn xin, ta nên cảm thông nỗi khổ nhục phải kêu nài. Gặp ai cũng nên

vui vẻ chào hỏi. Đối với các vị mới xuất gia lớn tuổi nên cung kính để các ngài hoan hỷ mừng

tu...

Cho nên khiêm tốn nhún nhường là tướng mạo của trí tuệ. Đức Phổ Hiền trong kinh

Hoa Nghiêm dạy các đại Bồ-tát : Muốn an trụ nơi pháp giới thanh tịnh, đầy đủ công đức lành,

phải ba nghiệp thân miệng . niệm niệm hằng sám hối, không bao giờ chán mỏi.

  1. THƯ THĂM BỆNH (Kinh Duy Ma Cật)

Văn Thù hỏi : An ủi Bồ-tát bệnh thế nào ?

Duy Ma Cật đáp : Thân vô thường nhưng nó là cái bè đưa người tu lên cảnh thường

trụ. Thân là gốc khổ, nhưng bản chất là tánh Niết-bàn. Thân không thật, nhưng Bồ-tát cần

dùng nó để giáo hóa chúng sanh. Thân tuy rốt cuộc là không, nhưng chân diệu pháp thân, thật

không rời nó mà chứng. Biết khổ của bệnh th. thương chúng sanh đ. bao đời, đeo hết thân

này sang thân khác, chịu hết bệnh này sang bệnh khác. Biết gốc của bệnh là do nghiệp báo

nên hằng nhớ nghĩ tịnh thân miệng ., dạy người tu phước ở lành. Bồ-tát thân mang bệnh khổ

nên l.ng dạ chỉ ước mong làm sao chữa hết thân bệnh và tâm bệnh cho chúng sanh. V. thế

Bồ-tát bệnh mà vẫn phấn khởi tinh thần, vui vẻ sống với tâm Bồ-đề.

* * *

Bồ-tát bệnh, điều phục tâm m.nh thế nào ?

— Thưa, nên nghĩ thế này : Thân do đất, nước, gió, lửa giả mượn. V. cố chấp làm ta

cho nên bốn đại không h.a mới tự nhận là m.nh bệnh. Việc trước hết phải suy xét cho ra, thân

này không phải ta, cũng không phải của ta. Không ta không người, không chúng sanh, không

thọ mạng. Trở về sống với tánh thể b.nh đẳng, tánh thể này không hề có bệnh.

Thân ta đang khổ c.n chúng sanh trong địa ngục, ng. quỷ, bàng sanh giờ này đang thế

nào ? Ta tuy khổ nhưng đ. tự biết điều phục vọng tâm để giải thoát gốc khổ. Nay ta cần cố

gắng dạy chúng sanh dứt trừ gốc khổ, đừng để đến nỗi hết thống khổ này lại thống khổ khác.

Từ tối vào tối, đêm dài rên rỉ từ lịch kiếp tới nay, hỏi đến bao giờ mới cùng tận.

* * *

Thế nào là gốc bệnh ?

— Tâm vọng tưởng phiền n.o trần lao, dính níu sáu trần trong ba c.i là gốc bệnh (v.

đó là gốc luân hồi sanh tử, nhân đây có thân. Từ thân phát sanh tất cả sanh, l.o, bệnh, tử, ưu,

bi, khổ, n.o).

Làm sao dứt được ?

— Quán vạn pháp vô sở đắc (6 căn huyễn hóa, 6 trần ảo ảnh, 6 thức mê lầm). Thưa

ngài Văn Thù, Bồ-tát điều phục tâm m.nh như vậy, dứt các thống khổ sanh già bệnh chết là

d.ng m.nh của Bồ-tát.

* * *

Nếu Bồ-tát c.n thấy có ta, có người bệnh. Rồi v. ta bệnh nên thương người bệnh, đó

là ái kiến đại bi. Đ. thấy có ta th. làm lâu sẽ mỏi. Đ. thấy có người th. khi người khổ m.nh

thương, khi người xấu m.nh ghét. Tâm không b.nh đẳng sẽ có oán thân. L.ng đại bi quyết

định bị thương tổn. Nên trong khi cứu giúp mọi người. Bồ-tát luôn luôn giác tỉnh vô ng. vô

pháp. L.ng từ bi luôn luôn sẵn sàng với bất cứ ai ai, bất luận trường hợp nào, hoàn cảnh dù

nghịch dù thuận, không cần đủ duyên nên gọi là vô duyên từ.

— Có tuệ phương tiện th. giải thoát,

Không tuệ phương tiện th. trói buộc.

— Có phương tiện tuệ th. giải thoát,

Không phương tiện tuệ th. trói buộc.

Thưa ngài Văn Thù, thường quán thân vô thường, vô ng., khổ và không gọi là có tuệ.

Đủ duyên vẫn không quản khổ nhọc để độ chúng sanh gọi là phương tiện. Có tuệ phương tiện

là phương tiện có trí tuệ soi sáng. Như trên đ. nói, cứu độ chúng sanh mà vẫn giác tỉnh vô

ng., vô nhân, gặp người bội bạc vẫn làm ân, bị hiểu lầm không nản chí. Do đó mà ở hoàn

cảnh nào việc lành cũng vẫn tiến hành.

C.n phương tiện tuệ là trí tuệ trong khi đủ duyên cứu giúp chúng sanh. Đem tâm ham

muốn, nóng giận, tà kiến để vun trồng công đức là không có phương tiện tuệ.

* * *

  1. có trí tuệ nên Bồ-tát ở trong sanh tử mà không nhơ xấu, ở Niết-bàn vẫn nguyện độ

chúng sanh. Tuy cứu độ chúng sanh tận t.nh mà chẳng yêu thương dính líu. Tuy xa l.a tất cả

ràng buộc mà không diệt tận thọ tưởng. Tuy thân tâm tịch diệt mà vẫn hiện thân vào sanh tử.

Tuy rốt ráo thanh tịnh mà vẫn tùy chỗ ứng thân. Có năng lực như vậy mới có thể phát đại

hùng nguyện :

Địa ngục chưa không, thề chưa thành Phật.

Chúng sanh độ tận, mới chứng Bồ-đề.

  1. Thư gửi Ni chúng VIÊN THÔNG

Thầy đọc sách : “Tự giác, giác tha, giác hành viên m.n. Sự nghiệp vĩ đại này, chỉ dành

riêng cho những ai giản dị, khiêm tốn nhún nhường, hạ m.nh đảnh lễ đại chúng. Coi lời chê

bai như nước cam lồ. Coi quở trách như món quà sách tấn”.

Bao nhiêu tội ác, tham sân si là gốc. Cho nên Sadini mà không có Tứ Niệm Xứ, Tổ gọi

là cán cờ gỗ. Tấm y nêu biểu Giới Định Tuệ c.n cái cán gỗ th. giá trị g. ?

Chiến sĩ trước hết phải biết giặc ở chỗ nào. Tham ngon, giận dở, cứ mống ra ở cái lưỡi

trong mỗi nuốt. Anh hùng dùng gươm tuệ chém luôn. Bé Huệ Hương nhắc thêm : “Chẳng

những khi ăn mà khi c.i lộn cũng cái lưỡi này sân si”.

Thật ra đâu chỉ một cái lưỡi này có tội. Đi đứng nằm ngồi, nói nín, mắt nh.n, tai nghe,

mũi ngửi, thân xúc. Lúc nào tu sĩ chẳng phải canh gác sáu căn. Đêm khuya giặc vẫn lởn vởn

trong tâm. Không đề ph.ng kỹ, làm sao an hưởng thái b.nh.

Đang đêm Tổ ngồi dậy la lớn : “Có giặc ! Có giặc !” Trong chúng ta ai là con Phật ?

Ai phá Tam-bảo ? — Chỉ ở nơi ph.ng giữ 6 căn. Hai đức thẹn hổ vừa rời tâm liền có nạn. Cẩn

thận, trong khi đang chê bai người khác, có khi m.nh đang là giặc sân. Có người chưa đến nỗi

thế. Chỉ hôm nay bất m.n một tí. Mai bất m.n một tí. Tập quen thành giặc lúc nào không hay.

Trong khi ấy, cứ tự đánh lừa m.nh là chiến sĩ của đấng Pháp-vương.

Luật Sadini các con thuộc nhừ hơn cháo. Những điều mà trẻ thơ mấy con biết r., già

móm hết răng như Thầy vẫn chưa làm xong. Các con thật đ. được ướp kỹ Phật pháp. Con nhà

giàu đâu có sợ nạn đói.

Thân gởi các con thêm một chuyện :

Cây mít sum suê vươn cao,

Hôm nay ngày cuối tháng 2 mưa rào.

Những chiếc lá vui sướng mừng reo : Chào chào mưa hạ ! Chào nước trong veo ! Mát

quá ! Mát quá ! Cám ơn ! Cám ơn gió đưa mây về đây !

Nhưng cũng có tiếng rên : “Khổ quá ! Lạnh quá ! Vừa nắng cháy da nay lại sắp sửa

lạnh buốt thấu xương. Khổ quá ! Khổ quá !” Các bạn an ủi : Chị h.y dũng cảm đón mưa to

gió lớn. Mưa càng dữ dội bao nhiêu, chúng ta càng mạnh khỏe chóng lớn bấy nhiêu. Chị đừng

phiền trách mặt trời. Chính ông ta đ. cho cả họ nhà mít những múi ngọt ngào thơm ngon. Nếu

không có bốn mùa mưa nắng, gió sương thay nhau đan dệt, th. làm sao có những trái mít kếch

sù, khiến cho nhân loại nể v. họ mít ?

Chiến sĩ Bồ-đề cũng vậy :

Thích Ca nguyện độ chúng sanh,

Đem thân đến ở rừng xanh quản g..

Sáu năm khổ hạnh một m.nh,

Trải bao sương tuyết mà không ng. l.ng.

Quyết thành pháp ng. hai không,

Trời cao đất rộng, biển nào sánh công.

Nhờ đây đạo Phật sáng ngời !

Ngàn năm m.i m.i cho đời làm gương.

Chúc cầu Phật Pháp miên trường !

  1. CHUYỆN CỔ PHẬT GIÁO

Dưới cội Bồ-đề hùng vĩ, đức Thích Ca kết già an định. Một thanh niên tuấn tú quỳ

bạch : Con là đông cung thái tử nước Cambasa, tên là Djêta, về đây xin làm đệ tử.

— Bảy trăng sau mùa mưa này ngươi h.y trở lại.

Tới kỳ hẹn, đức Phật dạy : Này hoàng tử cao qu. ! Kiếp trước con đ. gây nghiệp. Nay

trả quả th. con đ. sa ng. như tất cả ai ai. Thế là con không đủ khả năng vào đạo.

— Xin đức Thế Tôn từ bi chỉ r. để con biết đường ăn năn.

— Vừa rồi, có người mưu đoạt ngôi vị của con nên đ. vu cáo cho con một chuyện

giữa triều đ.nh. Thay v. b.nh tĩnh đợi chờ ánh sáng chân l. hoặc nhẫn chịu lời vu khống để trả

nợ kiếp xưa, con đ. phẫn nộ quyết minh oan cho bằng được. Người tu hành làm thinh l.nh

những bất công, v. với họ thế sự không c.n quan hệ nữa : danh giá, lợi dưỡng, oai quyền, tự

ái v.v... không c.n giá trị. Họ tin chắc l. nhân quả. Trên đời không có sự ngẫu nhiên. Khổ vui,

vinh nhục đều do đ. gieo nhân.

Điều thứ hai là con đ. ích kỷ. Tên Batica muốn làm thân với bạn con là Dasa. Lửa

ganh ghét đ. bật lên trong l.ng con.

— Bạch đức Thế Tôn ! Đó là v. con biết Dasa bị lợi dụng.

— Hoàng tử cao qu. ơi ! Cái biết trong lưới thất t.nh lục dục, cái biết của mắt thịt tai

phàm, cái biết của ngũ quan vô minh, cái biết của ng. ái ganh ghét. Người học đạo cần t.m

chỗ sai của m.nh hơn là thấy cái xấu của kẻ khác, không than van phiền muộn sự phản bội bất

trung, qu. bạn không vị kỷ mà vị tha. Rộng l.ng bác ái chớ không nắm lấy một người, đó là

gốc của trí tuệ.

Điều thứ ba là con đ. thiếu l.ng nhân từ, tàn nhẫn xô đuổi thứ phi Nan Đà dù cô đ.

thiết tha xin chừa.

— Bạch đức Thế Tôn ! Cô đ. nhơ danh xú tiết. Con làm sao được phép để cho cô bôi

nhọ cả hoàng gia. Điềm nhiên trước những sai quấy như thế là khuyến khích những bại hoại

luân thường đạo l..

— Này hoàng tử cao qu. ! Bậc cầm quyền cần thưởng phạt. Người cầu đạo t.m hiểu

để cứu vớt, không v. sự thanh tịnh mà tách m.nh ra khỏi nhân loại. Con là một phần tử trong

thế gian. Nghiệp quả của con vốn vẫn dệt chặt với nghiệp quả của muôn loài. Cần t.m l. do để

tha thứ hơn là kết án. Thanh tịnh không đi đôi với từ bi dễ nhuộm độc kiêu căng tự phụ và

đưa đến l.nh đạm trước những đau khổ của kẻ kém hèn.

Djêta ơi ! Hy M. Lạp Sơn đầy tuyết trắng thật oai nghiêm hùng vĩ nhưng bốn mùa

lạnh ngắt. L.ng nhân ái như tia nắng ấm áp. Chúng sanh cần sự tha thứ và nâng giấc để phấn

khởi đi lên.

— Lạy đức Thế Tôn ! Con sẽ ráng sửa m.nh cho hợp l. đạo. Xin cho con đặc ân được

yết kiến ngài một lần nữa.

Thái tử hồi triều giúp vua sửa sang việc nước, luôn luôn nhớ rằng muốn có đức phải

có công. Mỗi mũi gai làm rướm máu là một bước vào đạo. Gốc rễ của tật xấu ăn sâu vào thâm

tâm. Nhổ nó ắt nhiều đau xót. Ta phải tập trung tất cả lực lượng của tâm hồn mới hy vọng.

  1. LÀNG ANH NHI VIỆT NAM

Nửa thế kỷ chiến tranh vừa qua, đ. đem vành khăn tang cho bao nhiêu gia đ.nh Việt

Nam. Bao nhiêu cô nhi vất vưởng, bao nhiêu phụ nữ không gia đ.nh, bao nhiêu già l.o bơ vơ.

Sư cụ Ngộ Chân Tử chùa Hoằng Pháp khai khẩn 42 mẫu đất ở Gia Định để thành lập

làng Anh Nhi Việt Nam. Nơi đây đ. xây cất nào chánh điện, giảng đường, nào trường trung

tiểu học, bệnh xá, viện dục anh, viện dưỡng l.o cho đến nghĩa trang, cơ sở công kỹ nghệ cho

các em học nghề và từng d.y nhà cho những nhân viên nông trại của làng. Sư cụ kêu gọi Tăng

Ni về hợp tác để xây dựng ở làng Anh Nhi một nền đạo đức thuần túy hiếu thiện. V. theo . Sư

cụ, con người dù tài cao học rộng đến đâu mà thiếu lễ nghĩa tàm qu. cũng là thiếu tất cả,

không thể ích lợi g. cho nhân quần x. hội. Làng Anh Nhi Việt Nam có nguyện vọng bảo vệ

những tâm hồn thanh khiết, những khối óc trong trắng khỏi bị ô nhiễm v. những thói hư tật

xấu của đường đọa lạc.

Nhân dịp đầu năm Ất M.o (1975) Sư cụ in một triệu tờ Pháp Môn Niệm Phật, khuyên

các Phật tử xa gần, thuộc nằm l.ng 6 tiếng “Nam mô A Di Đà Phật”. Đường về c.i Tịnh ngắn

nhất, giản dị, dễ dàng nhưng không nên coi thường. Miệng niệm, tâm nghe, hợp nhau mới ích

lợi. Nhiều người tu mà ít ai đắc quả, chỉ v. quá vụ sự tướng bên ngoài, không lo tu tâm bên

trong. Có người rất thành kính, sớm tối đèn nhang chuông m.. Nhưng ngoài giờ công phu, lại

buông lung thân miệng . nên không tránh khỏi vay tạo thêm nghiệp mới.

Ngoài các khóa lễ, đi đứng nằm ngồi, quét nhà thổi cơm v.v... tâm nhớ miên mật sáu

chữ hồng danh. Như dùng phèn lắng nước đục, ta tập lắng dịu l.ng trần. Định thần th. tuệ

sáng. Thất t.nh lục dục tiêu trừ, ba độc tham sân si m.n mỏng, bao nhiêu phiền n.o diệt sạch.

Được thế th. Cực Lạc hiện tiền, lo g. lâm chung không đến Tây phương. Vẫn h.a m.nh với

đời, tận lực độ sanh mà không nhiễm trần vọng. Tư tưởng giải thoát từ bi, lại được hào quang

Phật tiếp dẫn, th. con đường thánh thiện đâu có nhọc nhằn khó đi.

Niệm Phật chẳng cứ sớm chiều, giàu nghèo sang hèn, kẻ bận rộn, kẻ thanh nhàn, ai ai

cũng cần niệm Phật. Bởi v. mỗi niệm, mỗi phút giây, nương oai thần Phật, nương nguyện lực

Phật, bao nhiêu tiền oan báo chướng được băng tiêu, do đây giải thoát các tai nạn. Gia quyến

b.nh an khang thái, cửu huyền thất tổ siêu thăng. Niệm Phật đủ tín nguyện hạnh, thiện căn

vững chắc, d.ng m.nh đoạn trừ phiền n.o, một l.ng cứu khổ ban vui, gieo giống Bồ-đề, viên

thành phước tuệ, th. thiên long quỷ thần ủng hộ, A Di Đà Phật cùng Thánh chúng đón mừng.

Mau chân nhẹ gót lên thuyền, rời bến sanh tử Ta Bà ô trược, tới bờ Lạc Bang vĩnh viễn an

vui.

Ai ơi ! Niệm Phật qu. báu vô vàn !

  1. TỊNH ĐỘ

Sư Cô Tuệ Uyển, chùa Thiên Phước tỉnh Long An.

Chiêm bao thấy một vị Sư dạy 3 pháp tối thắng : Danh hiệu Phật A Súc, Thích Ca

Mâu Ni và A Di Đà.

— Con đ. niệm vài ức danh hiệu Phật A Di Đà.

— Tuy cô niệm mà không có tướng niệm trong tâm.

Tỉnh dậy không hiểu sao. Nhân kỳ nhập thất này có chút công phu nên biết được. Bèn

hành công phu lại, quả nhiên an lạc. Nên viết thành bài mong giúp kinh nghiệm cho chị em.

  1. NIỆM PHẬT THẬT TƯỚNG

Niệm Phật có 2 nghĩa quyết định :

1- Đánh thức tự tánh.

2- Nương đại nguyện lực Phật A Di Đà.

Từ vô thủy chúng ta mải sống với thân tâm sanh diệt, chưa từng một niệm phản chiếu

tự tánh. Đâu ngờ gốc của sanh là vô sanh. Niệm Phật là nhớ đến tánh Vô Lượng Quang, Vô

Lượng Thọ, Phật và ta đồng thể. Chỉ v. chúng ta sống với thức tâm sanh diệt nên Niết-bàn ẩn

mà lục đạo hiện.

— Tánh chân là thể (chủ).

— Vọng tâm là tướng dụng (khách).

Tánh và tướng hiển bày lẫn nhau.

Bội trần hợp giác đến tr.nh độ nhập lưu, sẽ thấy Phật A Di Đà, v. đ. vào được nhà vô

sanh.

Chân tâm như cái gương thường trụ bất động. Ánh sáng của gương (minh) chiếu ra

vọng cảnh sanh diệt, tướng phần của 6 thức. Chúng ta lầm nhận bóng là thật và ở ngoài, quên

chân tâm thường tịch (gương).

Người khéo niệm Phật cũng thế, dùng mà chẳng chấp có, tịch mà chẳng chấp không.

Tướng niệm và tánh vô niệm đ. chẳng trái nhau lại c.n sáng tỏ cho nhau.

Tâm an ổn thái b.nh.

  1. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Phật và chúng sanh chỉ cách nhau một cái vọng tưởng. Hữu niệm là chúng sanh, ly

niệm là Phật. Muốn được ly niệm phải tập vô niệm. Cổ đức thường nói : “Vô tâm, đạo dễ

t.m”.

Vô tâm chẳng phải không thể chất mà chỉ hết vọng tưởng. Như nói “cái b.nh không”,

là muốn nói trong b.nh không vật chớ chẳng phải không có cái b.nh.

Có 3 phương pháp :

1- Cảnh hết tâm c.n như chuyên phản văn. Áp dụng vào Tịnh-độ th. rũ sạch vạn

duyên, nhất tâm niệm Phật.

2- C.n cảnh c.n tâm. Đức Quán Tự Tại tu hành tinh thâm pháp Bát Nh. ba la mật đa,

chủ trương hư không đâu bị keo dính. Trong pháp môn Tịnh-độ, chuyên giữ một danh hiệu

Phật làm cảnh từ tâm ra tiếng. Tiếng lại rành rẽ nghe vào tâm.

3- Nhiếp cảnh vào tâm (tướng tánh nhất như). Lăng Nghiêm nói : “Cái cây không phải

tánh thấy, làm sao thấy được cây ?”

Vạn pháp quy về Như Lai Tạng. Người niệm Phật đ. tin chắc vạn pháp duy tâm, nghĩa

là pháp giới duy Phật. Pháp-thân Phật ở mười phương, ngay quanh ta, tại thân ta, không l.a ta.

Kinh dạy : “Năng niệm sở niệm tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”.

Đức Đại Thế Chí dạy : Thâu nhiếp sáu căn chuyên một tịnh niệm. Không cần phương

tiện nào khác mà cũng khai ngộ được tâm m.nh.

III. NHẬN TÁNH VÔ SANH TRONG SÁU CĂN

— A Di Đà : Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

Vô Lượng Thọ : vô sanh, thường trụ.

Vô Lượng Quang : tánh bản giác ở khắp mười phương.

— Kinh Lăng Nghiêm đích chỉ tánh thấy là tâm linh giác và nói r. tánh bản giác của

chúng ta hiện đang lưu lộ ở 6 căn. Mười phương Phật đồng nói : “Luân chuyển sanh tử cũng

từ 6 căn, mà tu chứng thanh tịnh diệu thường cũng từ 6 căn”. Đây là chỗ cổ đức bảo : Chính

nơi vọng tưởng hiện là chỗ hành của thánh trí. Chân l. cùng cực ở ngay con người mà con

người không biết, thật là đáng thương. Đức Lục Tổ dạy : “Quên tánh mà thấy nghe hay biết,

càng thấy nghe hay biết càng mê”. V. căn trần thức chẳng l.a nhất tâm. Chỉ có mê ngộ thành

ra xa cách.

Câu niệm Phật được coi là vừa song hành vừa song khiển.

Song hành là chân tục song song :

  1. a) V. khế cơ nên dùng pháp hữu vi khởi niệm.
  2. b) Vẫn khế l. v. mỗi niệm khiến nhớ tới bổn thể tự tánh quang minh vô sanh diệt.

Song khiển là buông xả cả 2 : Ngài Đại Thế Chí nói : Thâu nhiếp 6 căn chuyên một

tịnh niệm vào Tam-ma-địa.

  1. a) Thâu nhiếp 6 căn : buông xả hẳn cuộc đời thế tục.
  2. b) Vào Tam-ma-địa : vào chánh định th. không c.n phàm thánh, năng sở. Niệm

đ. tới chỗ vô niệm th. cảnh tịch diệt hiện tiền.

Ngài Trung Phong viết : “Sum la vạn tượng hiện trong đại viên kính trí như mây qua

lại trong hư không. Không phân biệt gọi là nhất tâm không loạn. Đến đây quên cả thân tâm”.

Đây là pháp như như đang tu nhân mà không nhiễm.

  1. PHÁ NG. ĐỂ SÁNG TỎ TÁNH VÔ SANH

Long Thọ dạy : “Có bệnh phải dùng đúng thuốc mới lành. Thuốc của tiểu thừa là tọa

thiền quán khổ. Thuốc của Bồ-tát là quán các pháp không buộc không cởi”.

Buộc là phàm phu vướng mắc tốt xấu.

Cởi là nhị thừa quán duyên sanh để giải ba độc tham sân si. Bồ-tát sống với tự tánh

nên không buộc không cởi.

Nay người niệm Phật, sống với tự tánh A Di Đà không buộc không cởi. Nhưng phải

uống thuốc đúng bệnh. Nếu tự xét c.n nặng nghiệp thế gian th. phải kiêm tu các pháp tiểu

thừa để thanh lọc tâm tánh.

Lục Hạnh Tập viết :

1) Phàm phu bố thí khởi tâm kiêu mạn thành tội.

2) Khởi tâm cung kính thành phước.

3) Nhị thừa bố thí quán pháp vô thường.

4) Sơ tâm Bồ-tát bố thí quán pháp vô ng..

5) Đại Bồ-tát bố thí quán tam luân không tịch.

6) Phật đ. chứng duy tâm, bố thí ly niệm thường tịch.

Một hạnh bố thí có 6 tướng khác nhau.

Niệm Phật thật dễ nhưng pháp môn này lại rất khó hiểu khó tin. Căn cơ chúng sanh

lược nói có 3 nhưng thật ra vô lượng nên hành tướng cũng vô cùng.

Đau khổ sanh tử đều do chấp ng. mà ra. Vô-thượng Bồ-đề phước tuệ trang nghiêm,

bắt đầu phải từ xả ng.. Chấp ng. mở ra các thứ chấp, chôn vùi Pháp-thân. Không phá được 5

ấm tức là không ra khỏi sanh tử. Nên thường quán thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường,

pháp vô ng.. Có trí tuệ Tứ Niệm Xứ th. niệm Phật sẽ tinh tấn và sớm kết quả.

  1. THỊ TÂM THỊ PHẬT, THỊ TÂM TÁC PHẬT

(Kinh Quán Vô Lượng Thọ)

Nắm đến chuỗi tràng, trần niệm dứt.

Nghiễm nhiên thành Phật đ. từ lâu.

Hễ cứ bỏ được trần tâm, liền sống ngay với Phật tánh, biết sắc tâm không, thành Phật

chẳng khó. Người mê tu nhân đợi quả. Người trí ngay chỗ dùng hàng ngày được vô sanh. Có

người cho rằng m.nh nhiều vọng niệm rất khó tu, đâu biết rằng đây là tại duyên nhiều cảnh.

Gương v. có tánh sáng mới chiếu soi. Vật bóng tuy nhiều nhưng sáng chiếu có một.

Thế gian có trăm ngàn đường nguy hiểm từ tâm niệm chúng ta đưa tới. Trí tuệ Phật

dạy chúng ta lọc bỏ hết đi, vạch bày một con đường thẳng tắt đưa về c.i An Lạc. Đặt chân cất

bước là phàm phu, tới cuối đường bảo đảm sẽ thành Bồ-tát vô sanh bất thoái, để tiến lên nhất

sanh bổ xứ. Chỉ cần ở chúng ta quyết tin và quyết đi. Quyết tin ngũ dục thế gian là đám bùn

chôn người không có ngày ngóc đầu ra. Ngài Đức Sơn bảo : “Mảy may hệ niệm là nghiệp

nhân tam đồ, chớp mắt t.nh sanh là gông xiềng muôn kiếp”. Há cho tu hành là việc tr. ho.n

được ư ? Cổ nhân nói : “Một câu niệm Phật mà dựa không vững, nắm không chắc, thường

ngày không chuyên, th. làm sao được tương ứng lúc trở về ?”. Bởi v. dù đ. ngộ, vẫn c.n ở

bên này bờ sanh tử. Lâm chung, chỉ có tâm tịnh biến thành cảnh tịnh, tâm nhiễm biến thành

cảnh nhiễm. Giờ phút gió phong đao xẻ thân, mấy ai c.n tự chủ ? Nên ngay bây giờ cần phải

sớm chiều niệm Phật.

V-/ MÙA XUÂN

TỪ 16-1 ĐẾN 14-4

(NGÀY 16-1)

  1. THỈNH PHÁP

I

Kính thưa Sư cô Pháp sư !

Mùa đông, mai vàng rực rỡ mừng hải hội Di Đà vừa tàn th. hôm nay mùa xuân Lăng

Nghiêm đ. trở về trên miền cao nguyên với thông xanh trúc biếc. Chúng con nô nức phấn

khởi đón mừng xuân Lăng Nghiêm, đem ánh sáng trí tuệ tăng trưởng Bồ-đề cho hàng hậu

học.

Chúng con vô cùng cảm động khi thấy ngay trên giường bệnh, Thầy vẫn hết sức cố

gắng soạn thảo ghi chép. Qu. Sư cô phụ Thầy thâu đêm suốt sáng làm việc, những mong bộ

Lăng Nghiêm hoàn hảo để truyền tới lớp trẻ chúng con.

Hôm nay trong khung cảnh trang nghiêm của bảo điện. Chúng con đảnh lễ cung thỉnh

Sư cô Pháp sư thay Thầy khai giảng bộ Lăng Nghiêm, chúng con nguyện cố gắng giúp đỡ lẫn

nhau, kiên tr. tinh tấn tu học để khỏi phụ l.ng trên Thầy và Sư cô trong muôn một. Từ bàn tay

trăm phước trang nghiêm, Thầy đ. bao năm nuôi nấng, ân cần đùm bọc để măng non thành

cứng cáp, những mong sau này vận chuyển guồng máy Tăng già, bảo tồn mạng mạch Phật

pháp.

Chúng con nhất tâm đảnh lễ mười phương chư Phật, chư đại Bồ-tát, thiên long bát bộ,

Hộ Pháp tôn thần ngày đêm ủng hộ cho lớp học Lăng Nghiêm được vuông tr.n, chúng con đủ

sức trí tuệ thâm nhập pháp môn đại thừa, hoa Bồ-tát tươi nở, quả Bồ-đề sớm viên m.n.

Nguyện cầu Thầy vô lượng thọ.

Sư cô Pháp sư vô lượng quang và toàn chúng vô biên công đức.

Nam mô Lăng Nghiêm hội thượng Phật Bồ-tát.

Nam mô Nhĩ căn viên thông đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát.

II

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Tôn Pháp.

Nam mô Khải Giáo Ananđà Tôn giả.

Một nén chiên đàn hương

Khói tỏa khắp mười phương,

Thỉnh Sư lên bảo tọa

Phật pháp rộng tuyên dương.

Hàng phục ma lực oán

Trừ kết tận không dư,

Đàn tràng rung chuông khánh

Thỉnh Pháp sư an tọa.

Chúng con cầu nghe pháp

Mong qua biển sanh tử,

Ngày nay đủ duyên lành

Khấu đầu cung kính thỉnh.

Kính bạch Sư cô Pháp sư !

Ai cũng biết từ xưa Mật tông vẫn cấm nghiệt không cho truyền bá bừa b.i giáo pháp

của m.nh. Các vua Ấn Độ hộ pháp, phạt tử h.nh những ai không tuân lệnh. Nên bộ Lăng

Nghiêm không được tự do truyền bá ra nước ngoài. M.i đến đời Đường mới có Samôn Bát

Lặc Mật Đế lấy một thứ mực không chi làm phai được, viết trọn bộ Lăng Nghiêm vào một

thứ lụa thật mỏng, rạch vế đùi nhét vào rồi khâu lại, giả làm vết thương, theo các lái buôn đi

đường biển, vào Trung Quốc. Do đây Phật giáo châu Á mới có kinh Lăng Nghiêm để ngày

nay truyền bá đến chúng con.

Như vậy các bậc tiền bối đ. v. đạo xả thân, chịu đau chịu khổ bao nhiêu để có pháp

bảo lưu truyền hậu thế. Cũng bởi v. kinh Lăng Nghiêm là ch.a khóa mở kho tàng giáo l. đại

thừa. Lại có lời huyền k. rằng : “Thời mạt pháp kinh Lăng Nghiêm sẽ mất đầu tiên, kinh A Di

Đà c.n lại đến cuối cùng”. Như vậy có nghĩa là nơi nào c.n kinh Lăng Nghiêm, nơi ấy c.n

chánh pháp.

Kính thưa Sư cô ! Khế kinh c.n dạy : “Bị thiêu đốt trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ

ngu si không biết hướng đi mới thật là khổ. V. ngu si là gốc nguồn tội”. Lại dạy : Thân người

khó được, Phật pháp khó gặp, thời khắc dễ qua, đạo nghiệp khó thành.

Nay chúng con đ. có đại phước được sanh vào một gia đ.nh giàu Phật pháp. Lại tới

thời tiết nhân duyên được quỳ trước Tổ đường thỉnh pháp. Cầu mong Sư cô khai kinh Thủ

Lăng Nghiêm, chỉ mở đường Bồ-đề cho chúng con phân biệt được cái giả và cái thật ở ngay

thân tâm m.nh, để chúng con sống hợp với lẽ phải, ng. hầu vĩnh viễn thoát khổ, hưởng vui

Thánh Hiền. Ngưỡng nguyện thiên long bát bộ Hộ Pháp tôn thần thùy từ gia hộ Sư cô Pháp sư

của chúng con pháp thể khinh an, lớp học thành tựu viên m.n.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát (3 lần).

  1. Ngày 8-2 ĐỨC BỔN SƯ XUẤT GIA

(Xem kinh BẢN HẠNH TẬP).

  1. Ngày 15-2 PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Hôm nay ngày trăng tr.n tháng 2, chúng ta làm lễ kỷ niệm đức Phật nhập Niết-bàn.

Lắng nghe lời di giáo :

“Này Anan, sau khi ta Niết-bàn, ông phải siêng năng đem diệu pháp dạy răn hậu lai.

Ai c.n thống khổ trong ba c.i, phải mau cầu giải thoát. Ngũ trược ái dục rất đáng chán.

Không có cách nào thoát được móng vuốt quỷ vô thường. Một khi mất thân người, vạn

kiếp chưa được trở lại. Phải điều phục, đưa tâm vào đạo quả. Ba nghiệp thanh tịnh mới hy

vọng sanh về cảnh giới tốt đẹp. Chớ để đời này luống qua, về sau ăn năn không kịp”.

Ngài Anan té xỉu. Ngài A Na Luật Đà an ủi : “Hôm nay dầu c.n được nghe Phật nói,

sáng mai đ. thành không. Ta chớ để mất chút thời gian vàng ngọc này, mau mau thưa Phật.

Mai đây vắng bóng Phật

1/- Chúng con thờ ai làm Thầy ?

2/- Các Tỳ-kheo ác tánh, làm sao chuyển hóa ?

3/- Chúng con làm sao cùng họ ở chung ?”

Ngài Anan bạch Phật. Đức Phật dạy :

Sau này giới Ba la đề mộc xoa là đại sư của các ông, nương đây tu hành sẽ được định

tuệ xuất thế.

Này Anan, dùng thiện phương tiện có thể cải hóa những ác tánh. Hành khổ đầy tràn ba

c.i. Cỗi gốc là vô minh. Nếu được trí tuệ Bát Nh. huân ướp th. vô minh dứt. Sanh, l.o, bệnh,

tử, ưu bi khổ n.o sẽ không c.n. Giáo pháp chánh quán 12 nhân duyên đưa các Tỳ-kheo đến

thanh tịnh thượng quả. Như Lai là đấng chân ngữ. Đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải

vâng theo.

Này các Tỳ-kheo, sau khi Phật nhập Niết-bàn, các ông phải nương Tứ Niệm Xứ mà an

trụ. Quán thân, thọ, tâm, pháp vô thường, vô ng., khổ và không, sẽ diệt hết ưu lo, viên m.n

giới định tuệ, 3 vô lậu học.

Anan lại bạch : “Sau này tín tâm đàn việt cúng dường Như Lai thời phải xử trí thế

nào?”

— Tạo tượng Phật, sắm các thứ hương đèn phan lọng. Ai lạm dụng phạm tội ăn trộm

của Phật. Anan lại hỏi : Cúng dường Như Lai hiện tiền và cúng dường tượng Phật. Phước đức

nào hơn ?

— Đáp : Như nhau không khác. Trên trời, c.i người, ai cung kính lễ bái tán thán cúng

dường Như Lai công đức vô lượng vô biên. Anan nên biết Tam-bảo vẫn thường trụ, làm chỗ

nương tựa vĩnh viễn cho tất cả chúng sanh.

* * *

Lúc đó đức Thế Tôn vạch y Tăng-già-lê để lộ ngực hoàng kim bảo đại chúng : “H.y

chí tâm nh.n kỹ thân vàng Như Lai ! Ai thấy h.nh Phật, gặp ánh sáng Phật đều sẽ được giải

thoát”.

Ba phen ân cần khuyên bảo như vậy rồi bay lên hư không, bảo đại chúng : “H.y chí

tâm nh.n kỹ thân vàng của Như Lai”. Từ hư không xuống lại bay lên, tất cả 24 lần ân cần bảo

đại chúng : “H.y chí tâm nh.n sắc thân vàng Như Lai. Người khát nước phải uống đến no.

Sau này biết bao giờ mới lại được thấy thân Như Lai. Thấy thân Như Lai th. bao nhiêu tội ác,

bát nạn, tam đồ đều được tiêu trừ”.

* * *

Giữa đêm ấy đức Như Lai nhập trí thiền, yên lặng Niết-bàn trong rừng Ta La.

Mười phương thế giới chấn động. Mười phương biển cả cuộn sóng. Đêm tối mịt mù,

gió gào khắp rừng sâu : “Thương thay, từ nay thế gian không c.n con mắt tuệ”.

Ngài Anan lại té xỉu. Ngài A Na Luật Đà an ủi : “Phật dù đ. Niết-bàn nhưng c.n xá

lợi và pháp bảo. Ông và tôi có bổn phận phải thay Phật hoằng dương đạo giải thoát. Đưa

chúng sanh ra khỏi biển khổ là báo đền ơn Phật trong muôn một”.

Xá lợi Phật được chia làm 8 phần. Tám vua thỉnh về nước m.nh xây tháp cúng dường.

Thế là c.i Diêm-phù-đề có 8 tháp thờ xá lợi.

Khi ấy chư Bồ-tát, Thanh-văn, trời rồng, 8 bộ quỷ thần, ai nấy cúi đầu đảnh lễ phụng

tr..

ỨNG TẬN HOÀN NGUYÊN

Ứng thân đức Bổn Sư đ. viên m.n sự nghiệp độ sanh. Nay nhập Niết-bàn là trở về thể

tánh chân thật, trở về Pháp-thân. Đức Thế Tôn phổ cáo đại chúng : “Ta dùng mắt Phật xem

khắp ba c.i sáu đạo chúng sanh, chánh báo y báo, tướng đều hư vọng như hoa đốm. Nhưng

thể tánh vẫn thường trụ thanh tịnh bất động như hư không”. Phàm phu không giác biết nghĩa

này, cho rằng Phật nhập Niết-bàn là mất hẳn. Sự thật Phật nhập Niết-bàn là trở về bổn tánh vô

lượng quang, vô lượng thọ.

Chúng sanh quen sống với sự tướng, khó tin được những g. mắt không thấy tai không

nghe nên đức Phật giáng thần về xứ Ấn Độ, hiện thân tu hành chứng quả. Phật giáo dạy các

đệ tử phải quan sát tánh chất thế gian vô thường, vô ng., khổ và không. Phàm có h.nh tướng

đều hư vọng. Ai lấy âm thanh, sắc tướng cầu Phật đều là tà đạo, không thể thấy Như Lai. Cho

nên đích thân Phật cũng thị hiện vô thường. Đúng pháp l. thế gian, Phật nhập Niết-bàn. Thật

ra vạn pháp chẳng chỗ nào, chẳng thời gian nào không phải là Phật. Phật bảo thường trụ ở

khắp mười phương suốt quá khứ, hiện tại, vị lai. Chỉ v. không h.nh không tướng nên thế gian

không ngờ là Phật vẫn ngày đêm ở trước mặt m.nh, ở ngay trong tâm m.nh, ở khắp quanh

m.nh. V. thế những ai cung kính cúng dường lễ bái tán thán h.nh tượng Phật, được phước như

cúng dường Phật tại thế không khác.

Ngài A Na Luật Đà hiểu r. . chỉ này nên đ. vững tâm an ủi Anan. Thân ứng hóa dù

có đổi thay nhưng Pháp-thân vẫn thường trụ. Trí thân Phật vẫn thấy r. chúng ta, hộ tr. chúng

  1. Bổn phận chúng ta phải thờ phụng xá lợi để bảo tồn phước điền cho thế gian. Chúng ta

phải thay Phật hoằng dương chánh pháp, làm chỗ quy y cho chúng sanh. Chúng sanh nương

pháp bảo tu hành, sẽ được thấy Pháp-thân Phật. Như thế mới là chân thật báo ơn Như Lai.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô đại thánh A Na Luật Đà Tôn giả.

Nam mô đại thánh Ananđà Tôn giả.

Nam mô Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát ma-ha-tát, thiên long bát bộ Hộ Pháp tôn thần thùy

từ minh chứng.

  1. Ngày 19-2

QUÁN ÂM QUẢNG TRẦN

(Đọc bài giải nghĩa trong kinh Lăng Nghiêm).

  1. Ngày 21-2

LỄ ĐỨC PHỔ HIỀN

Kinh Hoa Nghiêm nói về nhân hạnh Phổ Hiền.

Kinh Pháp Hoa nói về quả đức Phổ Hiền.

Nhân hạnh thể hiện r. nét trong phẩm Nhập Pháp Giới. Thiện Tài diện kiến người

thừa kế đức Thích Ca là Di Lặc Bồ-tát. Di Lặc giữ bảo tạng Như Lai mới đủ tư cách mở cửa

Tỳ Lư Giá Na cho Thiện Tài vào đảnh lễ đức Pháp-thân thường trụ. Thâm nhập Tỳ Lư Giá Na

tánh rồi, hành giả chấm dứt giai đoạn 1, hiểu giáo l. qua kinh nghiệm sống trên 52 chặng

đường học đạo. Qua giai đoạn 2, hành giả tự phát triển thực hiện những việc của đức Phật đ.

thành tựu. Việc này không đơn giản nên Di Lặc khuyên Thiện Tài phải t.m Văn Thù. Ở giai

đoạn 1, hành giả gặp Văn Thù, sử dụng trí tuệ, để rọi vào giáo l. Phật, vào cuộc sống bản thân

và x. hội. Ở giai đoạn 2, hành giả gặp Văn Thù, để trang bị cho m.nh trí tuệ vô lậu, thấy biết

diễn tiến sự vật bằng trực giác của bản tâm thanh tịnh.

Bấy giờ Văn Thù đứng cách 110 do tuần, vươn tay xoa đỉnh đầu Thiện Tài, nêu biểu

dù cách xa Thầy muôn dặm hành giả vẫn nghe và nhận được pháp âm vi diệu của Thầy truyền

qua bản tâm thanh tịnh. C.n giai đoạn 1 cần có Thầy ở bên cạnh để d.u dắt.

Văn Thù đưa Thiện Tài nhập pháp giới để gặp Phổ Hiền. Thiện Tài không thấy Phổ

Hiền bằng mắt. Phải quan sát Phổ Hiền hạnh mới thấy. Nhờ thiện căn phúc đức nhiều đời,

Thiện Tài thấy thân Phổ Hiền trùm khắp pháp giới. Ba đời chư Phật đều nằm trong một chân

lông của Phổ Hiền. Phổ Hiền có khả năng phân thân mười phương và thu gọn tất cả vào một

chân lông (trí phàm chỉ đứng ngoài lề, không thể nào giải thích được cảnh giới Phổ Hiền).

Phổ Hiền có khả năng chẻ các thế giới thành bụi, uống cạn nước bốn biển mà bao

nhiêu chúng sanh trong đó không hề biết là m.nh đ. vào trong bụng Phổ Hiền. Phổ Hiền Bồ-

tát tuyên bố chỉ duy nhất có một việc ngài không làm nổi là nói được hết công đức của Như

Lai. Phải vào Phổ Hiền hạnh môn, tu Phổ Hiền hạnh nguyện mới hiểu được thế nào là công

đức Như Lai. Trước hết phải ngộ Tỳ Lư Giá Na tánh.

Phổ Hiền hạnh mênh mông bát ngát trùm khắp pháp giới, thu gọn lại 10 điều. Thành

tựu 10 hạnh nguyện Phổ Hiền, chúng ta sẽ đạt quả vị Như Lai. Thực tế ta không thấy Phổ

Hiền nhưng hiện hữu tác động của ngài vô cùng, không đâu ngài không đến, tùy yêu cầu của

chúng sanh. Yêu cầu h.nh g. ngài hiện thân đó. Nếu cố chấp Phổ Hiền với một loại h.nh cố

định, chúng ta sẽ không có Phổ Hiền. Người ta thờ đức Phổ Hiền cưỡi voi sáu ngà. Theo lời

H.a-thượng Trí Quảng trong Pháp Hoa Lược Giải : “Sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo vô biên

tội. Nay tu theo lời Phật dạy, sáu căn chuyển thành sáu ngà giúp ngài tạo muôn vàn công đức.

Sáu ngà là sáu thần thông. Voi là loài có khả năng chở nặng đi ngược dốc không g.

chướng ngại. Sức mạnh của voi nêu biểu bất tư ngh. lực, hàng phục được tất cả ác thế gian,

làm được tất cả những việc khó làm”.

KINH HOA NGHIÊM

PHẨM 40- PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN

Phổ : đức trùm pháp giới.

Hiền : thuận theo hạnh lành.

Hạnh : xứng tánh tu hành.

Phổ có 10 nghĩa :

1/- Cầu chứng tất cả chỗ chứng của Như Lai.

2/- Giáo hóa tất cả chúng sanh trong pháp giới.

3/- Đoạn trừ tất cả phiền n.o, không để sót một vi trần.

4/- Không một hạnh lành nào, dù nhỏ như mảy lông dù lớn như hư không, mà không

làm với tất cả tận t.nh.

5/- Tất cả sự hạnh trên đều triệt nguồn l..

6/- Hạnh vô ngại : L. sự giao triệt.

7/- Hạnh dung thông : Mỗi hạnh dung nhiếp vô tận.

8/- Chỗ khởi dụng : Không dụng nào không biến khắp pháp giới.

9/- Chỗ hành xứ : tám môn trên như đế v.ng thiệp nhập trùng trùng.

10/- Thời gian hành : Cùng tận ba đời, không hạn kỳ.

CHÁNH VĂN KINH

Phổ Hiền đại Bồ-tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai rồi bảo Thiện Tài rằng

: Này thiện nam tử ! Mười phương Phật nói công đức của Như Lai trải số kiếp nhiều như cực

vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết c.i Phật, cũng không nói hết được. Ai muốn trọn

đủ công đức ấy phải tu 10 đại hạnh nguyện.

1- LỄ KÍNH CÁC CHƯ PHẬT

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật, tôi nương hạnh nguyện Phổ

Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều dùng ba nghiệp thân, miệng, . thanh tịnh mà lễ

kính. Tôi hóa hiện thân nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết c.i. Mỗi thân khắp lễ

các đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết c.i. Hư không kia

hết, c.i chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền n.o chúng sanh hết th. sự lễ kính của tôi

mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự lễ kính của tôi

cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng lễ kính, không bao

giờ chán mỏi.

2- KHEN NGỢI NHƯ LAI

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật. Vị nào cũng có rất đông Bồ-

tát vây quanh. Tôi nương hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều

dùng lưỡi vi diệu hơn Biện Tài thiên nữ. Mỗi lưỡi phát xuất biển âm thanh vô tận. Mỗi âm

thanh diễn xuất biển lời nói, để ca ngợi công đức Như Lai. Như thế, hư không giới, chúng

sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết thời sự khen ngợi của tôi mới hết.

Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự khen ngợi của tôi cũng

không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng khen ngợi, không bao

giờ chán mỏi.

3- RỘNG TU CÚNG DƯỜNG

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu đức Phật, vị nào cũng có rất đông Bồ-

tát vây quanh. Tôi nương hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín giải như đối trước mặt, đều

kính dâng cúng dường thượng diệu mây hoa, mây hương, mây âm nhạc, mây tàn lọng v.v...

Lại dâng cúng các thứ đèn, đèn dầu thơm, đèn tô lạc v.v... Tim đèn lớn như núi Tu-di, dầu

nhiều như nước biển cả.

Này thiện nam tử ! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng

dường là : tu hành đúng như lời Phật dạy, làm lợi ích chúng sanh, chịu khổ thay cho chúng

sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập căn lành, không bỏ hạnh Bồ-tát, không rời tâm

Bồ-đề.

Vô lượng tài cúng dường như trên sánh với một niệm pháp cúng dường, thời công đức

không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, một

phần toán, một phần số, một phần ưu ba ni sa đà. V. sao ? V. Như Lai tôn trọng chánh pháp.

  1. tu hành đúng lời Phật dạy mới thành Phật. Bồ-tát pháp cúng dường mới trọn vẹn sự cúng

dường. Pháp cúng dường mới là đại cúng dường. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới,

chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết thời sự cúng dường của tôi mới hết. Nhưng c.i

hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết, th. sự cúng dường của tôi cũng không

cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng cúng dường, không bao giờ

chán mỏi.

4- SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG

Từ vô thủy thân miệng . đ. tạo bao nghiệp ác, v. ba độc tham sân si. Những tội ác này

nếu có h.nh tướng th. khắp hư không chẳng đủ chỗ chứa đựng. Nay xin đem ba nghiệp trong

sạch, đối trước mười phương tận pháp giới chư Phật, thành tâm sám hối, không dám tái phạm.

Nguyện hằng an trụ nơi pháp giới thanh tịnh đầy đủ công đức lành. Như thế, hư không giới,

chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự sám hối của tôi mới

hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự sám hối của tôi

không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng sám hối, không bao giờ

chán mỏi.

5- TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Mười phương ba đời tận pháp giới bao nhiêu đức Phật từ sơ phát tâm cầu nhất thiết trí,

siêng tu cội phước không tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như cực vi trần trong bất khả thuyết

bất khả thuyết c.i. Mỗi kiếp đều thí xả đầu mắt tay chân nhiều như số cực vi trong bất khả

thuyết bất khả thuyết c.i Phật, làm tất cả những hạnh khó làm, đầy đủ các môn ba la mật,

chứng nhập các trí địa, viên m.n Vô-thượng Bồ-đề, cho đến nhập Niết-bàn, phân chia xá lợi.

Bao nhiêu căn lành tôi đều xin tùy hỷ.

Sáu thú bốn sanh mười phương có bao nhiêu công đức, dù nhỏ như mảy bụi, tôi cũng

đều xin tùy hỷ.

Tất cả các Bồ-tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu quả Vô-thượng chánh đẳng Bồ-đề,

bao nhiêu công đức rộng lớn, tôi đều xin tùy hỷ. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới,

chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự tùy hỷ của tôi mới hết. Nhưng c.i hư

không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự tùy hỷ của tôi không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng tùy hỷ, không bao giờ chán mỏi.

6- THỈNH PHẬT THUYẾT PHÁP

Mười phương ba đời tận pháp giới có bao nhiêu vị thành đẳng chánh giác, chúng Bồ-

tát vây quanh, tôi đều đem ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, dùng đủ phương tiện ân cần

cung thỉnh nói pháp nhiệm mầu. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp,

chúng sanh phiền n.o hết, thời sự cung thỉnh của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến

phiền n.o chúng sanh không hết th. sự cung thỉnh của tôi không cùng tận. Ba nghiệp thân

miệng . thanh tịnh, niệm niệm hằng cung thỉnh chuyển diệu pháp luân, không bao giờ chán

mỏi.

7- THỈNH PHẬT TRỤ THẾ

Mười phương ba đời tận pháp giới các đức Phật, Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác, hữu

học vô học cho đến tất cả các thiện tri thức, tôi đều cung thỉnh đừng nhập Niết-bàn. Xin Phật

trụ thế trải vi trần kiếp lợi ích chúng sanh. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng

sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, th. sự cung thỉnh của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không

cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th. sự cung thỉnh của tôi cũng không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm cung thỉnh, không bao giờ chán mỏi.

8- THƯỜNG THEO HỌC PHẬT

Đức Tỳ Lư Giá Na Phật ở c.i Ta Bà, từ sơ phát tâm tinh tấn bá thí bất khả thuyết bất

khả thuyết thân mạng, lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực, biên chép kinh

điển chất cao như núi Tu-di. Tôn trọng chánh pháp, thân mạng không tiếc, huống là ngôi vua

thành ấp cung điện vườn rừng. Bao nhiêu việc khó làm cho đến thành đại Bồ-đề, các thứ thần

thông biến hóa, hiện thân trong các chúng hội đạo tràng, Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác,

Chuyển Luân Thánh Vương, tiểu vương, cư sĩ, trưởng giả, bà-la-môn, sát-đế-lợi, hoặc các đạo

tràng của thiên long 8 bộ, tùy cơ giáo hóa. Dùng viên âm thành thục chúng sanh, như đại lôi

chấn. Tất cả hạnh đức như vậy cho đến thị hiện Niết-bàn, tôi đều học tập theo. Như hiện nay

học theo Thế Tôn Tỳ Lư Giá Na, tôi học theo mười phương ba đời các đức Phật cũng vậy.

Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời

sự theo học của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh không hết th.

sự theo học của tôi cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm theo

học, không bao giờ chán mỏi.

9- HẰNG THUẬN CHÚNG SANH

Mười phương ba đời tất cả chúng sanh trong pháp giới, loài sanh thai, sanh trứng, ẩm

thấp, hóa sanh, các thứ sắc thân, h.nh trạng, tướng mạo, các thứ tộc loại tâm tánh tri kiến, các

thứ dục lạc . hành oai nghi, các thứ ăn uống y phục cư ngụ. Cho đến thiên long 8 bộ, loài

không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, loài có tâm tưởng, không tâm tưởng, phi phi tưởng...

Tôi đều vâng thờ cúng dường như kính cha mẹ, như trọng sư trưởng, phụng sự như

đức Thế Tôn. Làm thầy thuốc với bệnh nhân, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem đuốc sáng cho

đêm tối, đem của báu cho người nghèo. Bồ-tát b.nh đẳng lợi ích chúng sanh. Bởi v. tùy thuận

chúng sanh chính là cúng dường Như Lai. Làm cho chúng sanh vui mừng chính là làm cho tất

cả Như Lai vui mừng. Bởi v. nhân chúng sanh mà khởi l.ng đại bi. Nhân đại bi mà phát tâm

Bồ-đề. Do đây thành Vô-thượng chánh đẳng chánh giác.

Trong c.i sa mạc sanh tử mênh mông này có cây Bồ-đề thọ vương. Dùng nước đại bi

tưới gốc rễ chúng sanh th. sẽ trổ bông trí tuệ Bồ-tát mà kết quả Phật toàn giác. Cho nên Bồ-đề

thuộc về chúng sanh, không có chúng sanh tất cả Bồ-tát không thể thành đạo Vô-thượng

chánh đẳng chánh giác.

Này thiện nam tử, nơi nghĩa này phải hiểu r. : Có b.nh đẳng đối với chúng sanh mới

viên m.n l.ng đại bi. Đem tâm đại bi tùy thuận chúng sanh mới thành tựu pháp cúng dường

Như Lai. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền n.o

hết, thời sự tùy thuận của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho đến phiền n.o chúng sanh

không hết, th. sự tùy thuận của tôi cũng không cùng tận. Ba nghiệp thân miệng . thanh tịnh,

niệm niệm tùy thuận, không bao giờ chán mỏi.

10- KHẮP ĐỀU HỒI HƯỚNG

Từ sự lễ kính ban đầu đến tùy thuận chúng sanh, có bao nhiêu công đức thảy đều hồi

hướng tất cả pháp giới chúng sanh. Nguyện đều an vui không bệnh khổ. Pháp ác đều không

thành. Pháp lành mau thành tựu. Đóng chặt cửa ác thú, mở rộng lối nhân thiên Niết-bàn.

Chúng sanh nào lỡ tạo nghiệp ác, phải chịu quả khổ. Tôi xin chịu thay, khiến được giải thoát,

cho đến chứng quả Vô-thượng Bồ-đề. Như thế, hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh

nghiệp, chúng sanh phiền n.o hết, thời sự hồi hướng của tôi mới hết. Nhưng c.i hư không cho

đến phiền n.o chúng sanh không hết, th. sự hồi hướng của tôi cũng không cùng tận. Ba

nghiệp thân miệng . thanh tịnh, niệm niệm hồi hướng, không bao giờ chán mỏi.

* * *

Này thiện nam tử ! Bồ-tát tu hành 10 đại nguyện như trên, có thể thuần thục tất cả

chúng sanh, có thể trọn đủ biển hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát.

Thiện nam, thiện nữ nào dùng bảy báu thượng diệu và các thứ vui đẹp của c.i trời c.i

người đầy khắp mười phương, trên cúng dường tất cả chư Phật, dưới bá thí tất cả chúng sanh,

trải vi trần kiếp liên tiếp không ngừng. So với người một phen nghe 10 điều nguyện vương,

công đức không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một

phần ưu ba ni sa đà.

Nếu đem l.ng tin sâu biên chép đọc tụng thọ tr., dù chỉ một bài kệ 4 câu, sẽ trừ năm

nghiệp vô gián. Tất cả thân bệnh, tâm bệnh, khổ n.o ác nghiệp đều được tiêu tan. Dạ-xoa, Lasát,

Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-xà, Bộ-đa v.v... các ác quỷ thần đều lánh xa. Nếu có tới gần là để ủng

hộ.

Người tr. tụng 10 nguyện vương này đi trong thế gian không bị chướng ngại, như mặt

trăng ra khỏi mây mù. Các đức Phật Bồ-tát khen ngợi, trời người kính lễ. Tất cả chúng sanh

đều nên cúng dường. Thiện nam tử này trọn đủ công đức Phổ Hiền. Chẳng bao lâu sẽ thành

tựu sắc thân vi diệu, đủ 32 tướng đại trượng phu, sanh về c.i trời, dù có ở c.i người cũng

sanh trong d.ng cao qu.. Phá hoại tất cả đường ác, xa l.a các bạn xấu, chế phục tà ma ngoại

đạo, giải thoát tất cả phiền n.o. Như sư tử vương dẹp phục bầy thú, kham l.nh thọ sự cúng

dường của tất cả chúng sanh.

Lâm chung, căn thân hư hoại, quyến thuộc xa l.a, oai thế tiêu tan, tiền của ngựa xe,

không một thứ nào đem theo được, chỉ có 10 đại nguyện vương này dẫn đường về Cực Lạc,

thấy Phật A Di Đà cùng các Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Tự Tại, Di Lặc v.v... sắc tướng

đoan nghiêm. Người này tự thấy gá sanh nơi ao sen báu, được Phật thọ k.. Từ đó trải vô số

trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, đi khắp mười phương. Dùng sức trí tuệ tùy thuận lợi ích

tất cả chúng sanh. Chẳng bao lâu sẽ ngồi đạo tràng hàng phục quân ma, thành đẳng chánh

giác, giáo hóa chúng sanh trong vi trần c.i Phật cùng tận vị lai.

Này thiện nam tử, công đức người thọ tr. đọc tụng giảng nói 10 nguyện vương này chỉ

có đức Phật mới biết r., ngoài ra không ai hiểu thấu. Thế nên ai đ. được nghe, chớ có nghi

ngờ. Phải nên thọ tr. biên chép giảng nói. Tất cả ước mong đều sẽ được như nguyện, có thể ở

trong biển khổ cứu vớt chúng sanh, đưa về c.i Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

  1. Ngày 16-3

THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ YẾU NGHĨA

Kinh Chuẩn Đề chép : Đức Phật ở thành Vương Xá, tinh xá Kỳ Hoàn, vườn Cấp Cô

Độc, 4 chúng và 8 bộ vây quanh. Thương xót chúng sanh đời mạt pháp phước mỏng nghiệp

dày, đức Thế Tôn nhập định Chuẩn Đề tam muội rồi nói thần chú : “Nam mô tát đa nẫm, tam

miểu tam bồ đề câu chi nẫm, đát điệt tha. Ám chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha”.

Phật dạy : Tr. tụng đủ 90 vạn biến có thể diệt được những tội 10 ác, 4 trọng và 5

nghịch. Bất luận tịnh hay uế, tăng hay tục, chỉ cần chí thành tr. tụng thần chú sẽ được tiêu tai

giải nạn, hết bệnh sống lâu, tụng đủ 49 ngày th. đi, đứng, nằm, ngồi đều được Tam-bảo ủng

hộ.

Muốn cầu thần thông trí tuệ cho đến Vô-thượng Bồ-đề, chỉ cần đúng pháp thiết lập

đàn tràng, tụng 100 vạn biến. Những người này sẽ được về Tịnh-độ, hầu hạ chư Phật, nghe

pháp, trọn sẽ chứng quả Bồ-đề.

Cúi đầu quy y Tô Tất Đế,

Đầu mặt đảnh lễ thất câu chi,

Con nay xưng tán Đại Chuẩn Đề,

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.

Trên đây là bài kệ của Long Thọ Bồ-tát, mở đầu tụng thần chú Chuẩn Đề.

Tô Tất Đế : Bộ kinh lớn của Mật tông. Tàu dịch là Diệu Viên Thành (khéo thỏa m.n

tất cả ước nguyện thế gian và xuất thế gian).

Khể thủ quy y Tô Tất Đế : Đem l.ng chí thành quy y pháp bảo.

Thất câu chi : 700 ức.

Đầu diện đảnh lễ thất câu chi : Thân chí thành lễ 700 ức đức Phật đ. nói bài thần chú

này. Tức là đem thân nghiệp chí thành đảnh lễ Phật bảo.

Chuẩn Đề : Tiếng Phạn gọi là Căng-đi, nghĩa là đúng với chân l., dùng đại trí để dứt

vọng hoặc (thật trí). V. vậy mới có đủ các nhân hạnh để thành thục chúng sanh (quyền trí).

Ng. kim xưng tán Đại Chuẩn Đề : Con nay đem khẩu nghiệp chí thành ca ngợi thần

chú Chuẩn Đề. Những ai tr. tụng thần chú Chuẩn Đề là Tăng bảo. Có nơi gọi là Chuẩn Đề

Phật Mẫu bởi v. 700 ức đức Phật do pháp Chuẩn Đề tam muội đ. chứng quả. Chúng sanh nào

thọ tr. thần chú này sẽ được chứng quả Phật.

(Rút trong NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI)

  1. Ngày 16-3

PHÓ PHÁP TÔN SƯ

GIỖ SƯ CỤ TUỆ NHUẬN (Văn Quang Thùy)

1

Hồi ấy Thầy chưa xuất gia, không nhớ năm tháng nào, cùng bà D. đi qua chùa Quán

Sứ. Bỗng bà nói : “Ta vào xem ông cụ kia đang nói g. mà đông người ngồi nghe thế”. Miệng

nói chân bước, bà vào chùa. Thầy đi theo. Nghe lạ lạ, hay hay, sẵn có giấy bút, Thầy ghi tất

cả, về chép lại thành một bài giảng chương Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật. Ngày hôm sau,

Thầy lại tới, được nghe thêm bài Quán Âm Quảng Trần. Thầy cũng viết thành bài. Các Sư nữ

mượn xem rất hoan hỷ. Bởi v. c.n ở thế gian, chưa học 2 chữ vô thường. Nên Thầy đâu dám

nghỉ học trường đời. V. là học sinh nội trú nên phải đợi một ngày lễ lớn mới được ra. Tới

Quán Sứ hỏi lớp Lăng Nghiêm th. cụ giáo đ. về quê, không ai biết ở đâu.

Từ đó gặp ai theo đạo Phật, Thầy cũng hỏi kinh Lăng Nghiêm nhưng ai cũng lắc đầu.

Sau gặp cụ Tú vừa có kinh vừa giỏi chữ Nho, đọc âm cho Thầy viết sang tiếng Việt. T.nh cờ

một bà mời Thầy chơi họ, mỗi tháng đóng 25$. Ngày hai buổi đi làm ở sở. Buổi trưa, cơm

xong, Thầy mải miết chép, có khi mệt quá ngủ gục. Ngày qua tháng lại lần hồi cũng xong trọn

bộ. Nhờ thư k. trong sở đánh máy. Bà cái họ cũng vừa dốc ống đem cho Thầy một số tiền hồi

đó gọi là lớn. Th. vừa hay có người mách cụ giáo từ quê lên Hà nội. Thầy đem sách và tiền

đến dâng cụ, xin cho in và khi nào có kinh chữ Việt, xin mở lớp giảng học. Tiếc rằng khi lớp

Lăng Nghiêm khai giảng ở chùa H.e Nhai Hà Nội th. Thầy đ. phải đổi đi Hải Ph.ng.

2

Hồi ấy Thầy thưa : Thời giờ con eo hẹp lắm, xin cụ cho con một bài kinh nào ngắn

nhất để con thọ tr.. Cụ cho bản Bát Đại Nhân Giác. Thầy đọc thấy hay nhưng công hạnh mênh

mông làm sao vào nổi. Thầy xin cụ cho học một điều thứ nhất thôi : “Thế gian vô thường,

quốc độ nguy biến, bốn đại khổ không, năm ấm vô ng.. Tâm là nguồn ác. Thân là rừng tội.

Như vậy quan sát, thoát dần sanh tử”.

Tuổi trẻ ham làm việc từ thiện x. hội, ngoài giờ ở sở cứ chiếc xe đạp chạy rong trong

thành phố, chỉ có hai bữa cơm là Thầy có thời giờ suy ngẫm đệ nhất giác ngộ. Riết thành thói

quen. Đến khi xuất gia, luật dạy hai bữa cơm phải quán 5 pháp. Thầy ngày nào cũng kiếm một

giờ khác để suy tư bài này, Thầy cảm thấy r. ràng 3 ngày không suy tư th. trong tâm hai thứ

tham sân bắt đầu ngọ nguậy. Nên không ngày nào Thầy dám thiếu. Về sau vào sâu kinh điển

mới biết là m.nh hàng ngày vẫn quán Tứ Niệm Xứ. Thế là vô t.nh Sư cụ đ. trao cho Thầy một

pháp môn quan trọng.

3

Người ta bảo rằng : Ai theo đạo Phật, tối nào cũng phải tụng kinh. Thầy lên Quán Sứ

thỉnh được một cuốn kinh A Di Đà chữ Nho đối chiếu tiếng Việt. Ngày nào cũng đọc một lần

suốt từ đầu đến hết. Nhờ cụ Tú giảng. Cụ dạy đúng nghĩa đúng chữ. Nghe xong, Thầy chán

quá, thốt ra miệng nhiều lần : “Thế gian này bao nhiêu trẻ mồ côi, bao nhiêu cụ già, bao nhiêu

bệnh nhân cần người chăm sóc. Bao nhiêu tù nhân trong các trại giam cần đồng quà tấm bánh,

kèm theo đôi lời chân thành khuyến thiện. Ngay đến đạo Phật cũng có bao nhiêu người c.n

bỡ ngỡ cần sự chỉ dẫn. Tín ngưỡng là món thuốc an thần đệ nhất cho thế gian, đang cần người

truyền bá v.v... Thế mà kinh lại dạy buông hết bổn phận làm người. Cả ngày chỉ niệm Phật.

C.n phải nhất tâm không loạn. Mục đích để về Cực Lạc có bờ ao 7 báu, cung điện

bằng vàng. Tôi thích ở c.i này, tự thấy m.nh có ích, c.n vui hơn về c.i ấy để tự thấy m.nh vô

dụng”. Thế là Thầy ghét cay ghét đắng kinh A Di Đà.

Bỗng cụ được mời về Hải Ph.ng giảng kinh Kim Cương. Hàng ngày Thầy tới nghe.

Đến câu : “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Thầy

bật nói : “À ! con hiểu kinh A Di Đà rồi !” Ông Cao Bá Sâm liền đứng dậy, xin phép cụ hỏi :

“Cô học sinh v. sao nghe kinh Kim Cương lại hiểu kinh A Di Đà ?”

— Thưa v. cái tâm hàng ngày đ. hư vọng, sao không buông nó đi để sống với tâm kim

cương chân thật. Nhất tâm bất loạn nghĩa là không c.n một niệm lạc về hư vọng nữa. Từ đấy

Thầy trở lại tin kinh A Di Đà và được cụ dắt dẫn dần vào tông Tịnh-độ.

Như vậy chỉ có giới luật là Thầy mới học sau khi xuất gia. C.n cả 3 môn ngày nay có

pháp trao cho các con, đều là từ cụ truyền dạy. Kinh Dược Sư các con hiện đương tụng, kinh

Di Đà Yếu Giải hiện các con đương học, đều do cụ dịch sang Việt văn. Cho nên chùa chúng

ta thờ ngài là Phó Pháp Tôn sư. Và hàng năm vào ngày này chúng ta đảnh lễ nhớ ơn. Tiểu sử

và h.nh ảnh ngài có in ở đầu kinh A Di Đà Yếu Giải.

  1. ĐỨC VĂN THÙ (4-4)

Nguyên chữ Ấn Độ là Manjusri.

Phiên âm là Mạn Thù Thất Lợi.

Mạn Thù (Manju) : Diệu.

Thất Lợi (Sri) : Cát tường.

Ngài thuộc d.ng Bà-la-môn, người nước Xá Vệ, theo đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Phật xuất gia học đạo. Nên ở Trung Hoa các nơi tăng đường, trai đường, giới đàn, đều có thờ

ngài h.nh tướng xuất gia. Bởi v. ngài chuyên về đại thừa nên thông thường người ta thờ ngài

h.nh tướng thế tục, để hiển tâm từ bi h.a quang đồng trần, lấy sự giúp ích chúng sanh, giáo

hóa muôn loài làm trọng. Tượng ngài cầm gươm cưỡi sư tử. Gươm nêu biểu trí tuệ phá phiền

n.o. Sư tử nêu biểu trí tuệ là chúa muôn hạnh.

Bồ-tát Văn Thù hầu bên trái đức Thích Ca, chủ về căn bản trí (tự lợi). Bồ-tát Phổ Hiền

hầu bên phải đức Thích Ca, chủ về hậu đắc trí (lợi tha).

I

KINH VĂN THÙ SƯ LỢI

Như vậy tôi nghe : Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc, cùng

8.000 đại Tỳ-kheo, trưởng l.o Xá Lợi Phất, đại Mục Kiền Liên v.v... làm thượng thủ.

Bồ-tát Hiền kiếp 1000 vị, đức Di Lặc làm thượng thủ. Lại có mười phương Bồ-tát đến dự, đức

Quán Thế Âm làm thượng thủ.

Cuối đêm, Phật nhập định, hào quang rực rỡ chói khắp rừng Kỳ Đà, xoay quanh vận

chuyển chiếu ngay ph.ng Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, hóa thành 7 cái đài bằng vàng. Mỗi đài có

500 hóa Phật đi kinh hành.

Bồ-tát Bạt Đà Bà La kính lễ tịnh xá Phật, đến liêu ngài Anan giục báo hiệu cho đại

chúng biết.

— Kính thưa Thánh giả, Thế Tôn chưa ban sắc lệnh, tôi làm sao dám đánh kiền chùy

họp chúng.

Tôn giả Xá Lợi Phất cũng vừa đến, bảo Anan : “Pháp đệ ! Nên tùy nghi nhóm chúng”.

Anan liền đánh kiền chùy tập chúng. Tiếng vang dội khắp cả nước đều nghe. Trên c.i trời

Hữu Đỉnh, Thích Phạm Hộ Thế Tứ Thiên Vương cùng các thiên tử vội hoa hương đến vườn

Kỳ Đà. Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định, mỉm cười, hào quang năm sắc từ miệng Phật hiện ra.

Rừng Kỳ Đà biến thành ngọc lưu ly. Thánh giả Văn Thù vào trong tịnh xá lễ Phật, dưới mỗi

đầu gối bỗng có 5 bông sen. Từ trên đầu 10 ngón tay chắp lại, hiện ra 10.000 hoa sen vàng.

Ngài Văn Thù dùng hoa này tung lên cúng dường đức Phật. Xong ngài nhiễu Phật 3

v.ng rồi lui về chỗ ngồi. Bồ-tát Bạt Đà Bà La đảnh lễ thỉnh Phật nói về Thánh giả Văn Thù.

Phật dạy : Ngài đ. từng gần gũi trăm ngàn chư Phật, nay ở c.i Ta Bà làm Phật sự. Ngài

thường biến hiện tự tại khắp mười phương thế giới, về sau lâu xa mới nhập Niết-bàn.

Phật bảo Bạt Đà Bà La và đại chúng : Thánh giả Văn Thù vô lượng thần thông. Chúng

sanh nào được nghe tên ngài, liền dứt trừ 12 ức kiếp sanh tử tội nặng. Ai lễ bái cúng dường,

đời đời thường sanh trong nhà Phật. Cho nên chúng sanh phải ân cần nhớ niệm h.nh tượng

ngài. Nếu quán không được tỏ r. (bởi v. đời trước đ. gây nghiệp chướng nặng nề) th. phải

tụng kinh Thủ Lăng Nghiêm xưng niệm danh hiệu Thánh giả từ 1 đến 7 ngày, cầu nguyện th.

sẽ thấy h.nh tượng ngài trong mộng. Muốn cầu chứng quả, lễ bái Thánh tượng một ngày một

đêm, quán tưởng thấy được h.nh ngài, sẽ chứng A-la-hán. Ai thâm tín kinh Phương Đẳng, tu

pháp thiền định, tâm c.n tán loạn, thành kính niệm danh hiệu ngài th. trong chiêm bao được

nghe nghĩa chân thật viên diệu. Tâm người này được kiên cố, bất thoái nơi đạo Vô-thượng.

Này Bạt Đà Bà La ! Ai muốn tu phước nghiệp Bồ-tát, mà thường nghĩ nhớ đến Thánh

giả Văn Thù th. ngài hiện thân bần cùng cô độc đến trước hành giả.

Các bậc trí tuệ phải nh.n xét cho kỹ Văn Thù đủ 32 tướng qu., 80 vẻ đẹp. Hằng quán tưởng

như vậy. Lại nhờ oai lực chánh định Thủ Lăng Nghiêm, sẽ mau chóng được thấy Thánh giả

Văn Thù.

Sau khi Phật diệt độ, ai được nghe danh hiệu Văn Thù, thấy h.nh tượng Văn Thù th.

trăm ngàn kiếp chẳng sa ác đạo. Ai thọ tr. danh hiệu Thánh giả, thường sanh về các quốc độ

thanh tịnh, gặp Phật nghe pháp, chứng vô sanh nhẫn.

Này Bạt Đà Bà La ! Thánh giả Văn thù chứng được thân bất hoại. Ông đ. nghe những

lời ta nói, phải khéo thọ tr., v. chúng sanh rộng bày.

Bạt Đà Bà La cùng các đại Bồ-tát, tôn giả Xá Lợi Phất cùng Thanh-văn Tăng, thiên

long bát bộ, tất cả đại chúng hoan hỷ phụng hành.

Phật nói kinh Văn Thù Sư Lợi đ. xong.

Đại Tạng Kinh. Quyển 463.

II KINH VĂN THÙ SƯ LỢI TUẦN HÀNH

(Đời Nguyên Ngụy, Tam tạng Pháp sư

Bồ Đề Lưu Chi dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.

Ni trưởng Huê Lâm Việt dịch).

Như vậy tôi nghe, một thời đức Bạc-già-phạm ở thành Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật,

cùng 500 đại Tỳ-kheo.

Mặt trời vừa mọc, đức Văn Thù cùng 500 Tỳ-kheo thứ lớp tuần hành. Trước hết đến

trưởng l.o Xá Lợi Phất, thấy ngài đang đoan nghiêm an tọa.

— Thưa ngài Xá Lợi Phất, tâm tịch tịnh sẵn đủ, sao c.n nhập thiền để cầu tịch tịnh ?

Đại đức Xá Lợi Phất y pháp thiền nào ? Y quá khứ, y hiện tại hay y vị lai ? Y nội thân hay y

ngoại cảnh ? Y tâm hay y thân mà nhập thiền ? Ngài đ. thông suốt pháp này chưa ? Ngài hành

  1. có pháp lạc chưa ?

— Nếu chưa nắm được pháp ấy làm sao tôi biết tu ? Nếu không có pháp lạc làm sao

tôi hành tr. ? Đây là pháp ly dục, Như Lai v. hàng Thanh-văn giảng dạy. Tôi y lời mà hành

thiền. Y theo quá khứ, y theo hiện tại, y theo vị lai cho đến y theo thân tâm mà hành tr.. Thiền

của tôi tu chánh niệm, gồm cả định và tuệ.

— Thưa đại đức Xá Lợi Phất !

a- Nếu y theo các pháp quá khứ, Như Lai không có. Hiện tại, Như Lai không có. Vị

lai, Như Lai không có. Pháp này như thế là không, đ. không có pháp th. không chỗ y.

b- Quá khứ Như Lai, hiện tại Như Lai, vị lai Như Lai không có người an trụ cũng

không có xứ sở để an trụ. Đ. không có chỗ an trụ th. nương nơi đâu có chỗ sở y ?

c- Nếu nói quá khứ, hiện tại, vị lai Như Lai là chỗ y hay là chẳng y, đều là phỉ báng

Như Lai. Bởi v. Như Lai vô niệm vô sở niệm. Chân như bất thoái, chân như vô tướng.

d- Quá khứ chân như bất khả đắc, hiện tại chân như bất khả đắc, vị lai chân như bất

khả đắc cho đến tâm chân như cũng bất khả đắc.

đ- Không có pháp ngoài chân như để có thể nói.

— Thưa Thánh giả Văn Thù, Như Lai an trụ chân như mà nói pháp.

— Chân như chẳng phải có, pháp ấy cũng không có. Như Lai cũng không có. “Có thể

được chánh pháp hay chẳng thể được chánh pháp”. Cả 2 lời nói này đều chẳng thể được.

— Thưa Thánh giả, sau này ai thọ l.nh được đúng nghĩa như ngài dạy ?

— Không chấp thủ pháp hữu vi, cũng chẳng trông mong nhập Niết-bàn, sẽ thọ được

pháp này. Không được các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Không biết các pháp ấy, sẽ được

pháp này. Chẳng thấy nhiễm ô thanh tịnh, không tâm thủ xả, sẽ l.nh được pháp này. Chẳng

  1. hành tr. cũng chẳng vô ng. mà hành tr., sẽ l.nh thọ được pháp này.

— Thưa Thánh giả Văn Thù, pháp này c.n chẳng phải cảnh giới của A-la-hán, huống

chi phàm phu ngu si làm sao l.nh hội ?

— Bạch đại đức ! Không trụ, không xứ, gọi là A-la-hán. Vậy A-la-hán ở cảnh giới nào

? Đối với danh sắc không phân biệt gọi là A-la-hán. Phàm ngu bất khả đắc, pháp của phàm

ngu cũng bất khả đắc. A-la-hán bất khả đắc, pháp A-la-hán cũng bất khả đắc. Đ. bất khả đắc

  1. chẳng phân biệt. Chẳng phân biệt th. không có chỗ sở hành, không sở hành th. không có
  2. luận, không h. luận mới thật là tịch tịnh. Người tịch tịnh không chấp có, không chấp

không, không chấp chẳng phải có, không chấp chẳng phải không. Không chấp thủ là chứng vô

sở đắc, nghĩa là xa l.a tất cả sở đắc, vô tâm, ly tâm. Trụ pháp Thanh-văn phải biết r. như thế.

* * *

Năm trăm Tỳ-kheo vội bỏ pháp hội ra đi, nói rằng : “Chúng ta chẳng muốn thấy mặt

Văn Thù, chẳng muốn nghe đến tên Văn Thù. Nơi nào có Văn Thù chúng ta cũng bỏ đi. V.

ông ấy nói những lời khác với phạm hạnh của chúng ta”.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất trách Thánh giả Văn Thù đ. nói pháp nghĩa quá cao, khiến

các Tỳ-kheo phạm tội phỉ báng.

— Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Các Tỳ-kheo đ. nói những lời thật hay, thật qu. hóa,

thật khéo đúng với Phật pháp. Bởi v. Văn Thù bất khả đắc th. làm sao thấy ? Làm sao nghe ?

Nơi nào c.n chấp có Văn Thù th. dĩ nhiên chúng Tỳ-kheo bỏ đi. Nhưng nếu thật không có

Văn Thù th. c.n cần g. đến những chuyện gần gũi hay bỏ đi ?

Nghe nói như thế 500 Tỳ-kheo quay trở lại. Thánh giả Văn Thù nói tiếp : Thưa các

Tỳ-kheo, pháp này chẳng do nhận thức mà biết được, chẳng do trí tuệ suy tư mà biết được. V.

chẳng phải là chỗ sở niệm. Hàng Thanh-văn đệ tử của đức Như Lai nếu học được như thế,

đức Thế Tôn sẽ khen là bậc tối thắng phước điền của thế gian, xứng đáng thọ sự cúng dường

của trời người.

Bốn trăm Tỳ-kheo l.nh đại pháp, sạch hết các kết sử hữu lậu, liền được giải thoát. C.n

100 Tỳ-kheo v. ác tâm đọa địa ngục.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất lại trách Thánh giả Văn Thù không chịu hộ niệm chúng sanh.

Đức Phật can rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Một trăm Tỳ-kheo v. tội phỉ báng, đáng lẽ phải chịu

khổ địa ngục trọn một kiếp. Nhưng v. được nghe đại pháp vô lậu thượng diệu của Văn Thù

(dù là nghe qua tai) nên chỉ thọ nghiệp rất ít rồi liền sanh lên c.i trời Đâu Suất, ở chung một

chỗ. Một trăm Tỳ-kheo này, Long Hoa đệ nhất hội của đức Di Lặc, sẽ chứng A-la-hán. Như

thế Xá Lợi Phất ! Nghe được pháp môn tối thắng này, sẽ chẳng c.n phải tu tứ thiền, tứ vô

lượng tâm v.v... mà vẫn giải thoát hết thảy sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, n.o.

Trưởng l.o Xá Lợi Phất tán thán Thánh giả Văn Thù khéo nói pháp lợi ích chúng sanh.

Thánh giả Văn Thù đáp : Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Chân như chẳng giảm bớt, chẳng tăng

thêm. Pháp giới chẳng giảm bớt, chẳng tăng thêm. Chúng sanh giới chẳng giảm bớt, chẳng

tăng thêm. Bởi v. việc này chỉ có lời nói, không có người y cứ, không có chỗ y cứ. Chẳng

phải y hay không y. Thưa đại đức Xá Lợi Phất ! Chỗ chẳng y như thế tức là Bồ-đề. Bồ-đề tức

là giải thoát. Nếu y nơi pháp là c.n phân biệt. Biết chẳng phải hữu vi (có tạo tác) chẳng phải

vô vi (không tạo tác), tức là Niết-bàn.

Đức Thế Tôn ấn chứng : Đúng vậy ! Đúng vậy ! Và muốn cho nghĩa này được tỏ r.,

kệ rằng :

Nếu phân biệt quá khứ,

Cùng hiện tại vị lai,

Các pháp, tướng, vô tướng,

Hữu vi hay Niết-bàn,

Phân biệt khiến tạo nghiệp,

Chấp thủ tức trói buộc.

Nếu dùng trí quan sát

Ấm, nhập, giới giả danh

Vô tướng không sanh diệt,

Được trí tuệ xuất thế.

Dùng trí vô phân biệt

Không chấp thủ, giải thoát,

Cảnh giới của hạnh này

Nhàn tịnh như hư không.

Của báu đầy ba ngàn

Bố thí được hưởng phước.

Nếu người nghe pháp này

Phước hơn người bố thí.

Bố thí, tr. giới, nhẫn,

Thần thông đại tự tại,

Ức kiếp thường tu hành

Chẳng bằng nghe kinh này.

Nên biết thắng pháp đây

Đức chánh biến tri nói

Những ai vui nghe kinh

Quyết sẽ chứng quả Phật.

Phật nói kinh xong, 10.000 chúng sanh xa trần l.a cấu, được pháp nh.n tịnh. Các Tỳ-

kheo đều phát tâm Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Thế Tôn thọ k. cho 500 Tỳ-kheo sẽ

thành Phật, đồng một hiệu là Pháp Hoa Như Lai, chánh biến tri... Thánh giả Văn Thù, trưởng

l.o Xá Lợi Phất, thiên long bát bộ... nghe Phật giảng thuyết, đều tín thọ phụng hành.

Đại Tạng Kinh. Quyển 14.

Bộ 4. Số 471.

  1. Mùng 8-4

CHƯƠNG TR.NH LỄ KHÁNH ĐẢN

1- Lễ Tổ – Lễ Phật.

2- Đọc bài . nghĩa đản sanh.

3- Tắm Phật – Nhiễu Phật.

4- Mừng khánh đản.

5- Lễ đức Bổn Sư.

6- Hồi hướng – Tam quy.

7- Nếu có thời giờ giảng bài tắm Phật.

. NGHĨA NGÀY ĐẢN SANH

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Cũng ngày này, 2538 năm về trước, vào một buổi b.nh minh, khu vườn Lâm Tỳ Ni

ngạt ngào hương hoa, tiếng chim ríu rít tưng bừng, đón chào vị cứu tinh muôn loại xuất thế,

đón chào thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia.

Thái tử hạ sanh dưới cây Vô Ưu. Ngài đi 7 bước, mỗi bước hoa nở dưới chân. Tay trái

chỉ xuống đất, tay phải chỉ lên trời, miệng nói : “Thiên thượng thiên hạ duy ng. độc tôn” (trên

trời dưới đất chỉ có chân tâm bản tánh thường lạc ng. tịnh mới đáng tôn qu.).

Đây là toát yếu toàn thể giáo l. Phật đà.

Ngài trưởng thành nơi cung vàng điện ngọc. Nhưng vợ đẹp con khôn, phú qu. vinh

hoa trở thành nhạt nhẽo, khi ngài thấy r. ngoài cổng thành 4 cảnh sanh già bệnh chết. Vạn

hữu thành hoại phù hư. Ngài d.ng m.nh thoát ly triền phược, quyết t.m ánh sáng chân như.

Trải 6 năm phấn đấu với muôn ngàn gian khó, nắng mưa sương tuyết cùng cám dỗ của ma

vương. Một buổi sáng, sao mai vừa ló dạng, ngài đắc quả chánh đẳng chánh giác.

Đắc quả Vô-thượng chánh đẳng chánh giác. Nghĩa là chứng được Pháp-thân chân ng.

mà ngay lúc vừa giáng sanh, ngài đ. tuyên bố là độc tôn.

Con người từ vô thủy vẫn sống vô minh, suốt ngày chỉ lo cho ta mà chưa từng để .

xem thật ta là g. ? Ta ở đâu ? Ta là thân đất nước gió lửa, hay ta là vọng tâm, bóng ảnh của 6

trần triền miên sanh diệt ? Chỉ v. quên mất chân tánh độc nhất tôn qu., lầm sống theo vọng

thức nên mới lưu chuyển trong 6 đạo luân hồi, chịu đủ khổ sở. Nay Phật từ bi giáng trần cứu

khổ, chỉ có một cách mở đường giải thoát cho chúng sanh, là vạch r. chỗ mê lầm và chỉ r.

chỗ chân thật.

Ngài vạch r. 6 căn thật huyễn hóa, 6 trần thật ảo ảnh, 6 thức thật mê lầm. Không phải

ta, không phải của ta mà là huyễn vọng vô minh.

Ngài chỉ r. Pháp-thân thường lạc ng. tịnh là tánh Phật, bản lai ta vẫn có mà vẫn

thường quên, nay quay trở về liền tới.

Một đời giáo hóa, đức Bổn Sư dù nói ngàn kinh vạn quyển, dù đặt ra 8 vạn 4 ngàn

pháp môn, chung quy cũng không ngoài mục đích trên.

“Thiên thượng thiên hạ, duy ng. độc tôn” đây là bài tựa mở đầu tam tạng kinh điển.

Tới khi sắp nhập Niết-bàn, trong thời Pháp Hoa, ngài tỏ lộ bản hoài : “Mười phương

tam thế chư Phật chỉ ra đời với một mục đích v. chúng sanh khai thị Phật tri kiến”. Phật tri

kiến tức là thấy biết “chân tánh độc tôn”. Đây là văn kết một đời đức Bổn Sư thị hiện giáo

hóa. Cho nên biết câu nói lịch sử này, chính là cửa giải thoát vô thượng. Tất cả những ai đ. tự

xưng là Phật tử, không thể không suy ngẫm kỹ càng và đỉnh đới thọ tr..

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

TẮM PHẬT

Con nay dội tắm thân Như Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ.

Ngũ trược chúng sanh l.a trần cấu,

Đồng chứng Như Lai tịnh Pháp-thân.

Thành Tỳ Gia thật chưa từng sanh.

Rừng Ta La thật chưa từng diệt.

Không sanh, không diệt, đức Cù Đàm !

Con mắt xem nh.n càng thêm vọng.

Sáng nay chính là ngày sinh nhật,

Tịnh Phạn Vương cung sanh Tất Đạt.

Chín rồng khắp tưới, mưa nước tắm.

Bảy bông nâng gót, đỡ chân đi.

Ám mâu ni, mâu ni, tam mâu ni, sa bà ha (3 lần).

MỪNG KHÁNH ĐẢN

Ngày mùng 8-4, xưa cũng như nay, là mùa hoa nở. 2500 năm về trước, ngày 8-4 trong

vườn Lâm Tỳ Ni, hoa Ưu đàm bừng nở, hương thơm tỏa khắp. Hoàng hậu Ma Gia ra vườn

xem hoa đ. đản sanh thái tử, một bông hoa Ưu đàm trong loài người.

Thái tử vừa sanh, liền đi 7 bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ xuống đất, cất tiếng viên

âm vang khắp mười phương : “Thiên thượng thiên hạ duy ng. độc tôn” nghĩa là trên trời dưới

đất chỉ có một sự nghiệp cao qu. là sống đúng thật với chân tâm bản tánh của m.nh. Cho nên

“khai nhân tánh”, mở bày tánh chất thật của con người, là mục đích của việc Như Lai ứng thế.

Vấn đề này đề cập ở khắp các kinh luận đại thừa. Chúng ta h.y nghe Tổ Thanh Lương

giảng đề kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

ĐẠI là lớn. Tâm chúng ta là bản thể hết thảy vạn vật. Vũ trụ núi sông muôn loài đều là

những pháp hiện trong tâm ta.

PHƯƠNG là vuông. Ta nói “mẹ tr.n con vuông” là cả hai đều đầy đủ sức khỏe, vạn

sự như .. Tâm chúng ta “phương” v. đủ h.nh tướng vạn pháp, 4 pháp giới Thánh và 6 pháp

giới phàm.

QUẢNG là công dụng vô cùng rộng r.i. Bồ-tát cứu khổ địa ngục, ng. quỷ. Phàm phu

bổ củi, gánh nước, đều là thần thông của tâm.

PHẬT là giác, đặc tánh linh diệu.

Chữ HOA có nhiều nghĩa :

1/ V. Đại Phương Quảng nên mới phát ra được những công hạnh rực rỡ tốt tươi như

hoa, từ bi hỷ xả, ái ngữ lợi hành, tùy thuận các căn cơ.

2/ Như hoa báo điềm kết quả, hạnh tu là duyên nhân để mai sau thành Phật.

3/ Giác tâm khai hoa, th. hương thơm khắp gần xa, huân thấm l.ng người.

4/ Hoa quang tịnh dụ cho căn bản trí minh hiển.

5/ Biết bao khôn khéo của thiên nhiên mới có một bông hồng. Bao nhiêu phước đức

nhân duyên, chúng ta mới có được một tâm sở tốt.

6/ Nước đang nhè nhẹ chảy trong gân mạch của hoa, vốn đồng một thể với thủy đại ở

khắp pháp giới. Những công hạnh vi diệu của con người, chính từ Phật trí hiện đang có ở thân

tâm khắp vạn loài.

NGHIÊM :

Trong danh đề Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh th. Đại Phương Quảng Phật

là tâm, là cảnh được nghiêm sức. C.n Hoa là những công hạnh đẹp đ. trang nghiêm tâm

m.nh. Đức Thích Ca thành công cùng cực trong sự nghiệp Hoa Nghiêm này.

Dĩ nhiên là nếu không có bản chất vàng ngọc, th. mài dũa bao nhiêu cũng chẳng thành

  1. giá. Bởi v. bản chất của tâm là Đại Phương Quảng Phật nên mới có hoa để tự trang

nghiêm. Đại Phương Quảng Phật là chánh nhân. Hoa là duyên nhân, để thành Vô-thượng Bồ-

đề là liễu nhân, vạn đức oai hùng lợi ích tận vị lai.

Ngày mùng 8-4, lễ phẩm qu. giá nhất là giác chiếu. Giác tỉnh bừng ngộ trong đêm dày

mê nặng, chiếu soi tan khỏa những u tượng vọng t.nh. Tổ Thanh Lương nhắc nhở rằng :

“Tăng Ni đem tâm ra ngoài lo học lo nghe. Thiền sinh chuyên trọng nội tâm, một bề chiếu soi

nội cảnh đều là thiên chấp. Muốn đạt chân tánh cần học đức viên dung”.

Muốn noi theo, trước hết lễ kính. Mười hạnh Phổ Hiền, lễ kính đứng đầu. Xưa vua A

Dục hằng ngày lễ Phật. Một đại thần can rằng như thế rất trái với ngôi vị một đấng quân

vương. Một hôm vua sai các quan mỗi người đem bán một cái đầu thú vật. Riêng ông đại

thần, vua giao cho đầu một tử tù. Tất cả đầu thú vật đều bán được ngay, chỉ cái đầu người cho

không cũng không ai chịu lấy. Vua quở trách, ông quan tâu rằng : “Lúc sống th. đầu người

  1. hơn đầu súc vật một trời một vực. Nhưng đ. chết, th. đầu súc vật c.n dùng được chớ đầu

người chỉ để thối nát, bẩn mắt thiên hạ, hôi s.nh lừng đất lừng trời, ai dại g. mà thọ nhận”.

Vua hỏi : “Thế đầu ta là đầu đấng quân vương th. mai sau cũng thế ư ?” Vua bắt buộc ông đại

thần phải nói thật. Thấy ông khổ sở không dám nói. Vua bật cười, kết luận rằng : “Ngươi đ.

biết đầu người là đáng chán như vậy. Sao ngươi c.n can ta, khi ta đem cái vật vô giá trị này

đổi lấy vô biên công đức”.

(Thỉnh đại chúng đứng tán :)

Đệ tử hôm nay

Gặp ngày khánh đản.

Một dạ vui mừng

Cúi đầu đảnh lễ.

Thập phương tam thế

Điều ngự Như Lai,

Bồ-tát, Thánh Hiền,

Liệt vị Tổ Sư.

Pháp giới chúng sanh

Bởi thiếu nhân lành,

Nên c.n sa đọa

Tham sân chấp ng.,

Quên hẳn đường về.

T.nh ái si mê,

Tù trong lục đạo

Trăm dây phiền n.o,

Nghiệp báo không cùng.

Nặng kiếp luân hồi,

Đêm dày tăm tối.

Phật Tổ năng nhân

Rủ l.ng lân mẫn

Thương xót sinh linh,

Đuốc tuệ rạng soi

Nguyện cứu muôn loài,

Dùng pháp phương tiện.

Ta Bà thị hiện,

Thích chủng thọ sanh.

Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,

Vua Tịnh Phạn phước sanh con thảo,

Thái tử đủ 32 tướng hảo,

Bảy hoa sen đỡ gót chân đi.

Cất viên âm, tay chỉ đất trời.

“Duy ng. độc tôn” lời lịch sử,

Năm thái tử vừa 19 tuổi.

Xin vua cha dạo 4 cửa thành,

Chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết.

Nên phát tâm lập chí xuất trần.

Sáu năm khổ hạnh ẩn rừng già.

Bốn mươi chín ngày tinh nghiêm thiền tọa,

Hàng phục ma quân, thành đạo quả.

Quang minh soi chiếu khắp Ta Bà.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ

1) A-tỳ ngục tốt, phát khởi thiện tâm.

Chúng h.a : Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (về sau mỗi số là 1 lễ như đây).

2) A-tăng-kỳ kiếp, quả m.n nhân tr.n.

3) Nhất sanh bổ xứ, trên trời Đâu Suất.

4) Ta Bà hóa độ, ứng hiện sanh thân.

5) Đâu Suất giáng thần, ứng mộng Ma Gia.

6) Hoàng cung thác chất, thị hiện đầu thai.

7) Dưới cây Vô Ưu, khánh đản giáng sanh.

8) Giả hưởng năm dục, chán cảnh vô thường.

9) Dạo chơi bốn cửa, r. già bệnh chết.

10) Nửa đêm vượt thành, t.m đường xuất thế.

11) Non xanh cắt tóc, t.m Thầy hỏi đạo.

12) Núi Tuyết tu hành, sáu năm khổ hạnh.

13) Dưới cây Bồ-đề, hàng phục ma quân.

14) Sao mai vừa mọc, đạo quả viên thành.

15) 49 năm tr.n, thuyết pháp độ sanh.

16) Tam thừa đ. đủ, hóa độ vừa xong.

17) Ta La song thọ, thị hiện Niết-bàn.

18) Lưu bố xá lợi, phước ích trời người.

19) Ta Bà giáo chủ, đại từ bi phụ.

20) Đương hội đạo tràng thiên bách ức hóa thân.

  1. TRỊ TÂM

1

Tỳ-kheo-ni Đan Ti Ka nhân lúc đi núi chứng A-la-hán, ngâm kệ :

Trên non voi tắm vừa xong,

Bỗng nhiên quản tượng ở đâu tới gần.

Tay quơ chĩa, miệng la rân,

Thét voi bắt phải quỳ chân co gi..

Voi nghe vội v. mọp b.,

Thuận t.ng sai khiến, voi ngoan ngo.n về.

Voi kia vốn chúa rừng xanh

Chủ khôn khéo dạy, hóa ra hiền lành.

À ra la thét dỗ dành,

Vật dù cứng mấy, do đây cũng mềm.

Tâm ta từ kiếp tăng-kỳ

Trần lao đắm trói, dễ g. luyện tu.

Song nhờ trí tuệ quản chu,

Dứt t.nh ham muốn ngăn ngừa sân si.

Từ đây an tịnh Niết-bàn.

An nhàn suối hát vui ngàn thông reo.

2

Ngài Budha Ghosa, một đại Tổ sư, đ. làm sáng rỡ Phật giáo Tích Lan, khi bàn về tâm

giận hờn, ngài luận rằng :

Anh ơi ! Anh đ. xuất gia lánh tục mà c.n giận hờn. Đó là anh c.n ôm việc thế tục

trong l.ng. Xin anh cho biết cái giận đứng chỗ nào mà gọi là anh giận ? Tim giận ? Phổi

giận ? Ruột giận hay gan giận ? Thật anh là thứ nào để giận hờn người kia ?

C.n kẻ kia là thứ nào đang l.nh anh giận hờn ?

— Tóc lông móng răng da ? Anh giận xương chăng ? Anh giận chất đất hay chất

nước ? Hay anh giận hơi thở ? Trong năm ấm anh giận sắc hay thọ ? Tưởng, hành, thức anh

phiền thứ nào ?

Anh giận cả 6 giác quan hay chỉ giận riêng con mắt, cái tai ? Nhỡn thức của người kia

đ. làm anh giận đến thế ư ?

Anh ơi ! Anh thấy cái giận của anh đứng chỗ nào ? Một tu sĩ phân tích toàn thân để

t.m chỗ chứa sự giận hờn, sẽ thấy không thể lấy mũi kim mà ghim hạt cải. Sân giận là một thứ

chưa hề có chỗ đứng ở trên trái đất này.

  1. ĐẠO TỪ

Của Sư bà Thiên Phước, tỉnh Long An.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

Kính thưa Ni sư viện chủ, qu. Sư cô và đại chúng !

Hôm nay là ngày tạm kết thúc khóa tu A Na Luật, viên m.n y công đức. Lời nói đầu

tiên của chúng tôi là lời chân thành cảm niệm công đức Ni sư, đ. tận tâm dạy bảo nâng đỡ Ni

chúng. Cùng chúng tôi chung sức trong những cố gắng giáo dục đào luyện đàn hậu tấn.

Việc Ni sư tổ chức khóa tu học này thật phù hợp với . nguyện của tôi. Từ lâu tôi chỉ

mong cho con em có căn bản, có thứ lớp, có đường lối vững vàng. Đối với sự xây dựng tương

lai cho Ni chúng cũng như đạo pháp, chúng tôi xin ghi nhận và tán thán công đức của Ni sư.

Trong các giờ giảng dạy kinh và luật, Ni sư không quản lao nhọc, bố thí sức khỏe và

thời giờ cho Ni chúng. Mỗi ngày ba thời. Khi bệnh cũng như khi mạnh, lúc nào cũng tận tâm,

ân cần nhắc đi nhắc lại những lời dạy khế cơ khế l.. Giác tỉnh con em nhận r. vạn pháp

duyên sanh tức vô thường và tiến lên bước nữa là toàn giả tức chân, ngộ l. chân thường.

Nhận thức sáng suốt 6 căn, 6 trần và 6 thức đều không thật, để hàng ngày lúc nào cũng

y ly. Hướng về nội tâm phản tỉnh, mới có thể bảo đảm sự giải thoát sau này.

Việc tu hành khó hay dễ đều do tâm m.nh có d.ng m.nh quả quyết hay không. Người

thế gian như ông Phạm Quỳnh đ. nói : “Đường đi khó, không khó v. ngăn sông cách núi, mà

khó v. l.ng người ngại núi e sông”. Việc thế gian c.n thế, huống chi việc xuất thế gian vô

cùng quan trọng. Tín tâm là ch.a khóa mở toang cửa đạo nhiệm mầu. Hy vọng đại chúng từ

nay phấn phát tâm thành cần cầu giác ngộ, nghĩ đáp bốn ân để khỏi phụ công lao chỉ giáo của

Ni sư. Tưởng niệm tới nỗi đau khổ của sáu đường mà dốc chí tu hành không biếng trễ.

Thưa Ni sư ! Đem đôi mắt thực tế nh.n xem t.nh trạng chung quanh chúng ta, tôi

tưởng chừng khó khăn lắm mới thực hiện được . nguyện toàn vẹn. Vậy mà chúng ta tuy chịu

ít nhiều thử thách chướng ngại nhưng nhờ hồng ân Tam-bảo thầm gia hộ nên đ. vượt qua.

Cổ đức nói rằng :

“Trần lao muốn gánh việc phi thường

Nắm chặt đầu dây giữ lập trường,

Ví chẳng một phen sương thấm lạnh

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.

Tu đạo đ.i hỏi nhiều nghị lực và nhẫn nại mới thành tựu mỹ m.n.

Ngày 29-1 Canh thân (1980)

  1. THƯ GỬI LIÊN HOA

I

  1. hội nào cũng có các nhân viên chánh trị soi xét toàn dân, bắt buộc từng cá nhân

vào quy luật. Quốc gia do đây b.nh an thịnh vượng. Một bà mẹ có nhiều con. Nếu quá cưng

chiều, muốn chi được nấy, tha hồ phóng túng buông lung, những đứa con trở thành vô dụng.

Bà mẹ về già sẽ khốn khổ v. con. Ngược lại nếu mẹ cứng rắn nghiêm minh, con sẽ nên người.

Kết quả mẹ con hạnh phúc.

Mỗi người chúng ta đều có nhiều tâm sở mừng giận, thương lo, yêu ghét, buồn tủi

v.v... Nếu để những tâm này tha hồ rông rỡ, th. tâm sở thiện ít khi đủ duyên hiện hành, c.n

các thứ cuống siểm hại kiêu v.v... sẽ mọc um tùm như cỏ dại. Từ vô thủy chúng ta đ. có biết

bao phiền n.o chướng, nghiệp chướng, báo chướng. Nếu không có trí tuệ nghiêm minh hằng

tự soi chiếu, bắt tâm viên . m. này vào khuôn khổ th. như người ta vẫn nói : “Ngọc kia không

dũa không mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi”.

Tâm nếu được trí rèn luyện th. ngôi Phật, ngôi Tổ c.n nắm chắc trong tay, huống chi

các quả vị khác.

Điểm chánh yếu là tự hiểu biết m.nh, luôn luôn tự quán chiếu, luôn luôn tỉnh thức,

nh.n thẳng vào thân tâm m.nh, theo d.i sinh hoạt của nó.

Tu theo đạo Phật, không phải để thành tựu một điều g. mà là để xả bỏ đi tất cả. Bởi v.

chân tâm bản tánh chúng ta bản lai đầy đủ hằng sa tánh đức.

Nguyện cầu chị em thân miệng . hằng thanh tịnh.

Nam mô A Di Đà Phật.

II

Con tằm nhả tơ kéo kén cố gắng vất vả một thời. Những mong mai đây kén êm dày

kín. Nằm ở trong thật an ổn chắc chắn, chẳng c.n lo cái kiến con sâu nào quấy rầy. Mặc ai

mưa gió b.o bùng sương sa gió lạnh, kén ta vẫn bền vẫn ấm.

Dè đâu chính sợi tơ óng ả bền chắc ấy, đ. xui con người bỏ tằm vào vạc dầu sôi. Cứ

như thế từ ngàn xưa là kiếp sống của tằm. Hiện tại vẫn thế, loài tằm không thay đổi tri kiến,

không thay đổi lối sống.

Loài người cũng vậy, cháu đưa đám ông, con đưa đám cha. Cứ như thế nối d.ng đào

hố vô thường. Kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri kiến, không thay đổi lối sống.

Sách kể chuyện : Con chồn đi ăn vụng, quá no căng bụng, lăn kềnh ra ngủ. Sáng sớm

chị bếp la lớn : “Ồ ! Con chồn chết, ta chặt lấy cái đuôi phơi làm chổi”. Chồn đành giả chết,

chịu chặt đuôi. Ai dè bà chủ lên tiếng : “Áo lông cừu đ. rách, lột da chồn thuộc đi, vá cũng

đẹp”. Chồn liều mạng vùng dậy, chạy biến vào rừng.

Người anh dũng nên như chồn, vùng một cái, chạy thẳng về Cực Lạc mới hy vọng an

thân vĩnh viễn.

VI-/

LỜI CÁC ĐẠI SƯ

I

  1. TRUNG ĐẠO GIẢN DỊ

Tâm linh tất cả hữu t.nh hoạt động ở 6 căn : mắt tai mũi lưỡi thân .. Con đường chúng

ta đi là vứt bỏ yêu ghét. B.nh tĩnh trước mọi cảnh, thoát ra ngoài chiến trường thế sự. Đường

giải thoát là trung đạo giữa 2 thái cực buông lung và khổ hạnh. Chỉ cần đặt tất cả khổ vui hay

dở xuống. Tin chắc thế gian này chẳng có g. hấp dẫn, chẳng có g. cần nắm giữ. Biết lạc thú

hay đau khổ đều chẳng phải ta và của ta, chúng sẽ biến dần. Thực tập xả bỏ tất cả thủ chấp.

Được thuần thục, tâm sẽ quân b.nh. Quân b.nh này là chánh đạo giải thoát.

H.y học cách nh.n tiến tr.nh của tâm. Khi bị khuấy động, tâm dấy khởi các ảo giác,

các tư tưởng. Mặc cho chúng tan đi. Kiểm soát tâm là một việc làm thích thú, bảo đảm không

bao giờ chán.

Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo : Sáu căn gặp 6 trần không phân biệt đẹp xấu thơm hôi

ngon dở nên không cảm động. Tinh tấn g.n giữ 6 căn, không để ác pháp làm chủ. Một bề an

định trong tánh thấy nghe. Cảm giác thuận nghịch phát sanh, thương ghét nhiễu loạn, không

nhận là m.nh. Đừng hững hờ để tâm duyên cảnh. Tinh tấn chế ngự tham sân si. Bảo hộ thiện

pháp như ph.ng giặc không cho vào nhà cướp của.

Có 5 pháp để thành biện việc hộ 6 căn là giới, nhẫn, trí nhớ, trí tuệ, tinh tấn. Ngược

lại : buông lung, hay quên, mê muội, nông nổi, lười biếng không hộ được 6 căn.

Lộ tr.nh tâm trong nh.n căn khi xúc trần :

1- Tâm b.nh thường (Bhavanga) rung động 1 sát na, dừng lại 1 sát na.

2- Tâm t.m kiếm cảnh trần ở 5 căn phát sanh rồi diệt.

3- Nh.n thức 1 sát na.

4- Thọ một 1 sát na.

5- Suy đạt 1 sát na.

6- Xác định 1 sát na.

7- Tốc hành tâm luôn 7 sát na.

Những sát na đầu, Tỳ-kheo chưa . thức được. M.i đến số 7 mới có hộ, nghĩa là tham

sân không áp lực chi phối. Thân như cái nhà, 6 căn như cửa mở. Trí nhớ như người gác cửa.

Năm pháp hộ như cửa cái. Một trong 6 trần dắt đường. Tham sân là kẻ cướp. Người gác quên

phận sự, không lưu tâm đến cửa cái, kẻ dắt đường dẫn cướp vào phá các thiện pháp. Thành

quách an toàn nhờ quan quân canh giữ. Tỳ-kheo hộ 6 căn mới bảo tồn được giới phẩm.

  1. HỌC VÀ HÀNH

Muốn được chân l. phải học căn bản :

1) Giới luật.

2) Tứ Niệm Xứ. Lời nói có giới hạn nên kinh điển không diễn tả được hết. Kinh

nghiệm của chính m.nh mới đem lại đức tin thật sự. Lấy lời Phật làm căn bản để nghiên cứu

tâm m.nh. Học rồi thực hành sẽ thấy giáo pháp. Nếu không, ta chỉ biết Phật pháp qua ngôn

ngữ. Việc cần học là t.m một con đường thoát khổ được an cho m.nh và người.

Tâm di động th. tư tưởng h.nh thành tham ái hay bực bội. V. không hiểu r. sự chuyển

động này, cứ theo thói quen, h.nh thành m.i tư tưởng, trở nên nạn nhân của nó. Theo d.i sự di

chuyển của vọng tâm, sẽ thấy đặc tính của nó là vô thường, vô ng. và không biết chán đủ. Khi

các pháp phát sanh, h.y chánh niệm, biết chúng. Tâm thực hiện được sự ghi nhận, giác tỉnh

này mới là tâm được huấn luyện đúng cách.

Nhiều loại tâm h.nh thành, nẩy nở liên tục. Cứ mặc chúng, tốt cũng như xấu. Phật

dạy : Vất bỏ hết. Nhưng làm thế nào vất bỏ ?

— Quan sát tâm, chỉ thấy các yếu tố khác nhau kết hợp mà không tự ng.. Cảm giác k.

ức, cả 5 uẩn đang dời chỗ như lá cuốn theo gió. Ai quan sát tâm sẽ khám phá ra điều này.

C.n dính mắc vào an tịnh vẫn là c.n dính mắc. An tịnh chấm dứt, dao động bắt đầu, ta sẽ bị

dính mắc nhiều hơn. Cho nên dù an tịnh hay động tâm, ta không nên nhận là tôi hay của tôi.

  1. có chấp thủ nên con người hết hân hoan đến thoái chí, không ngừng bước lên thiên

đường, vào địa ngục.

  1. ràng chân tâm chủ nhân ông đang chiếu soi không sanh không diệt. Trí chiếu sáng,

không g. làm bận rộn được nó cả. Ta bận rộn v. bị những hiện tượng nhận lầm là tự ng. đánh

lừa. Khi chứa đựng đồ tốt, chân tâm không trở nên tốt. Khi tiếp xúc việc xấu, chân tâm không

trở nên xấu. Tâm trong sạch biết những đối tượng này r. ràng không bản chất. Trí tuệ nh.n

chúng với tâm xả. Đây là b.nh an, vô sanh, vô ng., vượt ra ngoài thiện ác.

H.y phát triển tâm định, an tịnh và minh sát, h.y thật sự dùng nó. Gặp việc ưa thích

hay bực m.nh, ta để nó ra đi được chưa ? Bài này không phải để nghe suông, phải quyết liệt

thực hành liên tục mới được. Đáng tiếc là rất ít người nghiên cứu Phật giáo chịu thực tập. Tôi

khẩn khoản khuyên họ nên có sự tu để l. học được sáng tỏ.

  1. XẢ LÀ BÍ QUYẾT GIẢI THOÁT

Nhà khoa học đem sự vật ra xét nghiệm để r. thực chất. Tỳ-kheo quan sát con chim

xinh đẹp, thấy thân nó bất tịnh, vô thường, một dúm lông chất chứa đau khổ. Thế gian si mê,

  1. quỵ trong phiền n.o, chịu quả báo sáu đạo, gia tăng thói xấu, tạo thêm nghiệp ác. V.ng

luân hồi cứ thế xoay vần không cùng tận.

Phật đ. đích chỉ tham sân si là ba độc, dạy chấm dứt thủ chấp. Gió giác quan, nếu

không theo d.i sẽ gây b.o tố tham sân, khiến miệng nói thân làm sai quấy. Si mê thấy thiện ra

ác, ác ra thiện. Ba thứ căn bản phiền n.o này, vừa như lửa nung nấu, vừa như nước nhận

ch.m.

Đức Phật đ. thành đạo, vẫn có thân (sắc), vẫn có cảm giác khổ vui (thọ), có tư tưởng,

có suy nghĩ (hành), có tâm thức phân biệt, nhưng không nhận chúng là ta, là của ta. Ngài tách

rời 5 uẩn ra khỏi các phiền n.o, như người phá rừng phát quang những bụi cây nhỏ mà không

làm hại đến những cây lớn. Phiền n.o không c.n chỗ đứng để sanh diệt, tồn tại, nối tiếp. C.n

5 uẩn th. đến và đi, sanh và diệt, theo bản chất tự nhiên của chúng.

Bị nguyền rủa, Tỳ-kheo v. không có cảm giác về tự ng. nên câu chuyện theo âm thanh

mà thành không. Tỳ-kheo cẩn thận buông xả hết kiêu và mạn. Thong thả đi trong đời không

bị dính mắc là con đường Niết-bàn. Tất cả giáo huấn của Phật chỉ có một mục tiêu : Giải thoát

tâm khỏi mọi ràng buộc. Nguồn từ bi và trí tuệ sẽ từ đây chảy ra.

  1. B.NH AN

Nh.n mọi vật dưới ánh sáng vô thường, vô ng., khổ và không, sẽ không luyến ái cũng

chẳng ghét bỏ. Chúng ta không t.m khoái lạc, chỉ cầu b.nh an. B.nh an không có ở rừng sâu

núi thẳm. Một bậc Thầy đạo đức tối thượng cũng không thể ban cho chúng ta b.nh an. B.nh

an chỉ có ở ngay trong chúng ta, cùng một chỗ với dao động. Theo d.i tâm, thấy nguyên nhân

của đau khổ th. chấm dứt ngay. Ta sẽ không phải đương đầu với những kết quả.

Nguyên nhân của đau khổ là phiền n.o. Quan hệ nhất là biết phiền n.o không bản

chất. Không lẩn tránh phiền n.o. Không dằn ép phiền n.o mà đối diện với phiền n.o. Không

nuôi dưỡng những thứ độc ở trong tâm.

Tâm ích kỷ là mẹ đẻ của tham sân si, gốc rễ của tất cả đau khổ. Ta phải chế ngự

chúng, chiến thắng từng giờ phút để thoát sự kiềm chế và điều khiển của chúng. Cuộc chiến

đấu tranh quyền làm chủ này thật khó khăn. Khó khăn v. những người bạn thân này, chẳng

những sống với chúng ta từ thuở c.n thơ mà đ. từ vô thủy.

  1. chúng ta chỉ đắp thuốc bên ngoài, bên trong vẫn nuôi dưỡng phiền n.o, cho đến

nhận chúng là m.nh nên đâu có g. mệt nhọc. Nay mổ xẻ để trị tận gốc, tránh sao khỏi khó

khăn, một khi từ thâm tâm chúng đ. là ruột thịt của m.nh.

Muốn đề kháng phiền n.o trước hết bớt ăn bớt ngủ. Đây không phải là tự hành hạ mà

là điều cần thiết để có sức mạnh ở bên trong. Chúng ta chịu luân hồi sanh tử v. đ. dính mắc

vào thọ, tưởng, hành, thức. Mỗi mỗi nhận là ta. Ta khổ ta vui, ta yêu ta ghét, ta làm thiện ta

làm ác, ta thấy ta nghe, chỉ những ta là ta. Nhà thiền coi tâm như một con trâu rừng, đăm đăm

trông không cho nó dẫm vào lúa mạ. Huấn luyện cho nó thuần thục. Như thế chẳng những

chúng ta chấm dứt phiền n.o mà c.n thấy được chân l..

Việc này không phức tạp lắm đâu, chỉ có điều là không thể trông cậy ở sách vở và thầy

bạn, mà phải tu tập. Chính m.nh kinh nghiệm, chính m.nh giác tỉnh, l.ng tin đạo pháp mới

vững bền. Dần dần tầm tri kiến sẽ thay đổi và theo đó các thói quen chấp ng. sẽ chuyển gỡ.

Có 2 loại khổ : khổ đưa đến khổ và khổ để dứt khổ. Nếu ta sợ loại 2, nhất định ta phải

gặp loại 1. Nghiên cứu điểm này sẽ được b.nh an.

  1. TÂM PHÂN BIỆT

Mật ong ngon ngọt, ăn cơm không, thấy nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ một vị

nhưng bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu

lại là bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuộm màu vạn vật. Thế giới 6 trần chính nó tạo ra,

toàn những bất đồng.

Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh, chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh

nên vô ng., vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta tự chủ và luôn luôn sáng suốt. Những

cảm giác khởi lên, chúng ta ghi, biết rồi để mặc cho chúng tan đi với tánh cách vô thường của

chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ để ưa thích rồi chán bỏ... Giác

quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Dĩ nhiên v. có si mê đứng đấy. Nhưng với chánh

niệm th. đây là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy

rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù. Chỉ cần chánh niệm, không dính

mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và

làm chủ con khỉ. Cần th. xích nó lại. Mặc cho nó chết. Nhưng bạn ơi, bạn vẫn có con khỉ chết.

Xác nó có thối rữa hết đi nữa, bạn vẫn c.n bộ xương khỉ.

Theo kinh Lăng Nghiêm, dù có nhắm mắt bịt tai, nội thủ u nhàn, vẫn là pháp trần phân

biệt ảnh sự (con khỉ chết). Dù có chứng A-la-hán, như Tổ Ca Diếp, nghe tiếng đàn của Cànthát-

bà-vương, bất giác đứng dậy múa. Ngài Tất Lăng Già Bà Ta cứ gọi thần nữ sông Hằng là

Tiểu tỳ. Phật dạy : Tổ Ca Diếp xưa kia, 500 đời làm nghề ca múa. Ngài Tất Lăng Già Bà Ta

thật t.nh không c.n kiêu mạn. Đây là tập khí nhiều đời c.n lại. Phải tu Bồ-tát hạnh mới đoạn

hết (xương khỉ).

  1. CHÁNH KIẾN

Đức Phật khi thành đạo xem loài người như một ao sen : Một số c.n nằm trong bùn.

Một số vượt khỏi bùn nhưng c.n nằm ở trong l.ng nước. Một số vươn được lên mặt nước.

Một số vượt mặt nước đứng trong hư không, nở hoa tỏa hương. Bạn h.y xét xem m.nh là loại

nào. Nếu c.n ở dưới nước th. coi chừng, chẳng thoát được lũ cá và rùa nó rúc rỉa, c.n ở luân

hồi, dù c.i trời người vẫn không thể là chỗ b.nh an.

Cần học kỹ Phật pháp để tự có một tầm nh.n đúng. Việc này vô cùng quan trọng.

Suốt đời trau dồi tâm từ ái và tôn kính mọi người. Thận trọng lời nói và việc làm. Đấy là tài

sản của chúng ta. Sống đúng với giới luật, tâm sẽ an h.a trong sáng, giải thoát dễ dàng phát

triển trên mảnh đất này.

Nhà cửa phải quét dọn sạch sẽ, y phục tề chỉnh. Tâm chúng ta phải xả ác tu lành. Xả

ác tu lành tới cùng cực. Có nhiều hiểu biết sai lầm về sự tập trung tâm .. Có nhiều hiện tượng

bất thường xảy ra trong lúc tu hành, nên cần các bậc Thầy điều chỉnh và hướng dẫn.

Chánh tinh tấn không phải là lo việc bên ngoài mà là bền tâm giác tỉnh và ngự chế bên trong.

Có đức hạnh mà bố thí th. từ thiện được trong sáng.

Người không hiểu giáo pháp mong che giấu lỗi lầm, đâu có biết nghiệp luôn luôn theo

d.i họ. Giới luật và chánh kiến là hai bước đầu tiên phải hoàn thành. Phiền n.o sẽ tự tan biến.

Cũng như đèn thắp lên, chúng ta chẳng cần hỏi bóng tối đ. đi đâu. Muốn có chánh kiến phải

học và tu Tứ Niệm Xứ.

Giới Định Tuệ là đạo, là con đường phải đi chớ chưa phải là chân l. mục tiêu. Như từ

Sài G.n đến Hương Sen, đường đi là đạo, chỗ đến là Hương Sen. Trong tất cả lúc, tất cả nơi,

đạo lo hủy diệt Tập và Khổ. Kiên tr. không ngơi nghỉ, chịu đựng mọi khó khăn, tranh đấu với

phiền n.o cho tới cùng.

Giới Định Tuệ đem lại sự b.nh an kỳ diệu, không phải dựa vào một ai khác.

Có trí tuệ là tự m.nh thấy r. lẽ phải. Khen chê không quấy rầy được. H.y tự xét. Nếu họ nói

sai, ta bỏ qua. Nếu họ nói đúng, ta sửa m.nh. Cần g. phải giận dữ. Tự tin và nỗ lực giác tỉnh,

sẽ được thật sự b.nh an, ta chỉ cần tỉnh thức và chánh niệm.

Đừng t.m lỗi người. Nếu họ sai, ta tự khổ làm chi. Đ. chỉ chỗ sai mà họ không sửa,

đây là đường đi của họ, chớ có giận dữ mà tự mua sai quấy vào m.nh. Bất cứ việc g. cũng làm

với tâm xả bỏ, không mong cầu tiếng khen hay sự đền đáp. Xả bỏ ít sẽ có b.nh an ít. Xả bỏ

nhiều, b.nh an nhiều. Xả bỏ hoàn toàn, b.nh an hoàn toàn. Tâm ta luôn luôn hoạt động. Quét

nhà hay ăn uống ta h.y thận trọng chánh niệm. Trong những chấp tác hằng ngày, ta tự biết có

c.n lạc l.ng theo các phiền n.o không? Nhiều vấn đề ta đương đầu chính là nguồn gốc của trí

tuệ, để cuộc tranh đấu với thế gian này sớm chấm dứt.

Đạo, Quả, Niết-bàn đ.i hỏi một đối kháng với chính tâm m.nh. Trong giai đoạn đầu

t.m hiểu giáo pháp, thân ẩn cư rất cần. Nghiêm chỉnh tu hành, ta sẽ trưởng thành trong giáo

pháp. Ai t.m sẽ thấy. Ai ăn sẽ no. Chỉ người ăn mới no.

Bạn có thể bảo thân bạn đừng già được không ? Dạ dày có xin phép bạn khi nó đau

không ? Chúng ta chỉ là người thuê nhà. Tại sao không chịu t.m cho ra thật sự chủ nhân thân

này là ai ?

  1. TIẾT CHẾ BA NGHIỆP

Chỉ nói khi cần hoặc có ai hỏi. Xuất gia kiêng nói nhiều và thói quần tụ. Không cần

hoàn toàn tịnh khẩu, chỉ nói lời hữu ích.

Chớ lo tạo chùa mà chẳng nghĩ đến luyện tâm. Muốn dạy người khác, chính m.nh phải

kiểm soát được m.nh. Hằng kiểm điểm tâm m.nh, xem ta thực hành đúng hay c.n khuyết

điểm ?

Nhiều vị tu hành hay nhập thất là để dễ thanh lọc tâm, chứ không phải để tách rời mọi

người.

Nếu đời sống thế tục thuận lợi cho sự tu hành th. đức Phật đâu có khuyên chúng ta

xuất gia. Thân và tâm là hang ổ của kẻ cướp, luôn luôn nổi lửa tham sân si, ngũ dục lôi cuốn.

Ta đối trị tham ái bằng pháp đầu đà và quan sát tử thi. Tập thấy m.nh là một xác chết, một bộ

xương. Các cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là những bộ xương bọc thịt, phủ một lớp da. Cả 3 thứ

đều tanh hôi, sửa soạn để hóa d.i mủn nát.

Niệm thân để đối kháng lại chỗ thấy biết rất sai của m.nh. Đạo giải thoát bảo ta phải

nh.n cho thấy cơ thể ta và người chỉ là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải

thoát những hiểm nguy của tham ái.

Nghĩ đến cái chết, đến sự hủy diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó ta được

hoan hỷ và định tâm. Biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.

Tu hành có 3 căn bản :

1/- Nghiêm hộ 6 căn miên mật sớm chiều như người vào rừng sâu đề ph.ng rắn độc và

thú dữ, cẩn thận không để gai nhọn đâm chích. Như người có vết thương thận trọng không

cho ruồi muỗi xúc chạm. Ba nghiệp điều h.a mới có b.nh an.

2/- Ăn uống tiết độ : Ăn chay th. dễ, hạn chế miếng ăn rất khó. H.y học ăn trong

chánh niệm. Nên phân biệt muốn ăn và cần ăn. Bớt ăn bớt ngủ rất cần trong mặt trận chống

biếng nhác và tham ái. Có thiếu thốn, phiền n.o mới lộ diện để cho ta thấy mà hàng phục.

3/- Chánh niệm tỉnh thức liên tục. Niệm Phật cả đêm để cả ngày hôm sau nghỉ hay vứt

bỏ tất cả bổn phận để chuyên niệm Phật, bạn sẽ mất b.nh an. Nên nhớ ta phải tiếp tục thở bất

cứ ở hoàn cảnh nào, không thể quá gấp hoặc quá ho.n. Điều h.a là cha sức khỏe. Tu hành

cũng thế, luôn luôn theo d.i tâm như cha mẹ bảo vệ con cái, không cho chúng làm bậy.

  1. AN VUI Ở ĐÂU

Vất bỏ hết đời sống thế tục, đắp y mang bát làm một người xuất gia, hoàn toàn tự do,

không c.n một chút tư hữu nào. Thế mà nhuộm y sẫm nhạt một chút cũng không chịu. Đội

mũ không được phải đội khăn v.v... Bận tâm đến vài ba cái sở hữu, trong khi chỉ cần giác

tỉnh. Đời sống an phận thúc liễm trong tu viện, nhiều người cho là tù túng áp chế. Dù là đ.

dụng tâm quyết chí tu hành, họ vẫn thấy không thoải mái.

Tư hữu và tham luyến hoàn toàn không do hoàn cảnh sanh ra. Gốc rễ của chúng ở tim

con người. Bất luận nơi đâu, lúc nào, với một vật bé nhỏ không đáng, chúng cũng khởi dậy.

Chỉ khi nào ta biết r. chúng là gốc rễ của tất cả phiền toái th. ta mới được hưởng cái thảnh

thơi của dứt bỏ.

Luyện tâm là điều tối yếu. Phật giáo là đạo của tâm. Người nào đào luyện tâm m.nh,

người ấy tu theo Phật giáo. Tin chắc l. nhân quả, quan sát kỹ sự sanh diệt của sáu trần, làm

chủ mọi hoạt động của tâm ., chắc chắn sẽ giải thoát. Như thế ta tự lo khai mở trí tuệ. Trí tuệ

cải thiện thân tâm. H.y tỉnh dậy ! Cố gắng t.m vui ở sự tu hành. Giữ g.n giới phẩm căn bản.

Kiểm soát thân miệng .. Đừng chán nản trong khó khăn tập trung tâm .. Đạo sở dĩ qu. v. có

thể huấn luyện được tâm. Với nỗ lực đúng, chúng ta đạt được trí tuệ.

Thực hành chánh pháp là bậc xuất thế gian. Giới luật là cha mẹ của mọi sự tốt đẹp.

Nh.n thẳng tham sân khởi dậy ở các giác quan, đừng dính mắc vào chúng. Cứ thế tập, đừng

bận tâm đến kết quả. Bao giờ thành cũng được, miễn là ta tinh tấn.

Biết r. thân già bệnh chết chỉ là đất nước gió lửa, kết hợp tạm thời, th. khi bắt buộc rời

bỏ nó, ta đỡ đau khổ.

Hiểu r. vô ng. tức khắc buông gánh nặng. Không chấp ng., tầm nh.n sẽ mở rộng, mọi

việc trở nên dễ dàng. Sống với giáo pháp, an vui tự đến.

II

  1. ĐÀN GIỚI TỲ-KHEO-NI

Tỉnh Lâm Đồng, huyện Đơn Dương, chùa Giác Nguyên.

9 giờ sáng ngày 24-8 Canh Ngọ (1990).

H.a-thượng Giải Nghiêm chùa Hương Sơn chứng minh.

H.a-thượng Pháp Chiếu Yết Ma sư.

H.a-thượng Huyền Đăng Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Như Tấn Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Minh Chiếu Tôn chứng sư.

Thượng-tọa Chân Hướng Tôn chứng sư.

Đàn giới vừa xong, H.a-thượng Chứng Minh huấn từ :

Phước đức nhân duyên vun trồng nhiều kiếp, nay mới được dự đàn giới Tỳ-kheo-ni.

Cây Bồ-đề bắt đầu nẩy mầm. Đắc pháp rồi phải hết l.ng vâng giữ. Nay đ. là thời mạt pháp.

Mạt là ngọn. Đạo Phật tuyên dạy trải mấy ngàn năm, nay đ. phai nh.a, chỉ c.n chút ngọn. Hết

ngọn là đến hư không,. Chẳng c.n g. nữa. Phật huyền k. : “Sau này các kinh mất hết, chỉ lưu

lại 6 chữ Nam mô A Di Đà Phật làm chuyến đ. cuối cùng vớt kẻ có duyên. Đ. này cũng sắp

rời bến”. Mau mau lên gấp, chậm chân là tuyệt phận, không c.n chuyến nào nữa. Khuyên chớ

buông lung. Phải miên mật niệm Phật. Niệm cho tới bao giờ nh.n đâu đâu cũng chỉ thấy toàn

tánh A Di Đà, mới thể nhận được tâm chân thật của m.nh.

Kinh dạy : “Ba nghiệp thanh tịnh là Phật tại thế. Ba nghiệp không thanh tịnh là Phật đ.

nhập diệt”. Tánh Phật của chúng ta bị phiền n.o chướng, nghiệp chướng, báo chướng che

khuất như trăng bị mây phủ. Nay cầu giới phẩm để tiêu ba chướng, giải thoát tâm thức. Sanh

tử luân hồi, tuy là hoa đốm ở hư không, nhưng c.n sức thiện ác lôi kéo lên xuống th. chưa thể

hết. Bao giờ học Bát Nh. Tâm Kinh, r. nghĩa sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thể nhận

được chân tâm th. vọng tâm liền xóa sạch. Chiếu thấy 5 uẩn đều không th. cả phận đoạn và

biến dịch, 2 sanh tử đều giải thoát.

H.a-thượng Yết Ma nhấn mạnh : “Trọn đời nhớ kỹ Tứ Y là 4 điều phải nương tựa để

sống :

1- Người đánh m.nh, m.nh không được đánh lại.

2- Người mắng m.nh, m.nh không được mắng lại.

3- Người giận m.nh, m.nh không được giận lại.

4- Người giỡn cợt m.nh, m.nh không được giỡn cợt lại.

  1. ngày bố tát không nhắc lại điểm này nên học chúng dễ quên. Tứ Y vô cùng quan

trọng trong sự nghiệp thanh tịnh thân miệng .. Có diệt ba độc tham sân si, Tỳ-kheo-ni mới

như pháp, như luật, như lời Phật dạy. Song 4 pháp này chỉ là sự tu biểu lộ h.nh tướng bên

ngoài. Cần học kinh để tỏ r. l. tánh bên trong, giải thoát thật sạch những phiền n.o mới hy

vọng thánh quả. Sự nghiệp này đ.i hỏi công phu tỉ mỉ. Chủng tử hiện hành lại huân tập thành

chủng tử, khiến nghiệp thức nặng nề mê ám. Giác tỉnh được chỉ có những bậc siêu quần. Lắng

l.ng niệm Phật như người lọc bột. Gạn lấy bột nhất, bỏ nước chua đi. Các con nay như hoa

c.n trong nụ. Phải cố gắng thuận theo thánh duyên hiện tại để mai đây tới thời tiết, tỏa đủ 5

phần hương Pháp-thân.

Khi trao phần thưởng học vấn, H.a-thượng Pháp Chiếu răn dạy :

Biển học bao la, chớ lấy đây làm thỏa m.n. Phần thưởng chỉ là phương tiện để khích lệ, để

sách tấn. Hiện nay văn hóa loài người đ. tiến triển. Khắp 5 châu Âu Á đều đ. biết tôn sùng tín

nhiệm đạo Phật. Song đó là phần rộng, công đức của đông tây kim cổ liệt vị pháp sư đ. khiến

cho lợi ích lan xa. Riêng chúng ta, muốn thành cho người, trước phải tự thành. Trong Phật

học phải dùng trí quan sát. Sự vật hiện tại đang sống, mỗi mỗi đều là đối tượng tu quán. Tuệ

như mắt thấy đường đi. Hạnh như chân tiến bước. Phước trí nhị nghiêm mới kết quả Bồ-đề.

Khi trao phần thưởng đức hạnh, H.a-thượng Giác Nguyên huấn từ : Hạnh đứng đầu

trong Tăng là pháp lục h.a. Nhất là bên Ni lại càng cần lắm. Lục h.a là sức mạnh của đoàn

thể. Có lục h.a không ai phá được đạo Phật. Hạnh cần xuất phát từ tâm. Nếu do đè nén th.

sáng hiền chiều ác. Nếu xuất phát từ tâm th. trong mọi đối tượng, mọi thời khắc, hạnh đều có

mặt. Không phải g. ép h.nh tướng bên ngoài, khúm núm trước mặt, sau lưng lại khác. Hạnh

xuất phát từ tâm th. hoàn cảnh càng khó xử, ng. ái càng bị châm chích nặng, thật hạnh càng

được phô bày.

Sống trong chúng, gặp trái . nghịch l.ng nên kiên nhẫn để t.nh huynh đệ đỡ tổn

thương, guồng máy Tăng già không bị suy sụp. Một người ở địa vị thấp nhưng có trí tuệ biết

tiền và vật là thứ giả tạm, không tham không giận. Người này ai cũng kính nể v. tư cách cao

thượng. C.n ở địa vị cao mà gặp cảnh cũng phùng mang trợn mắt như những kẻ tầm thường,

  1. chỉ được sự cung kính bên ngoài. Người ta không thật l.ng trọng phục.

Cần tu sửa tâm niệm. Tâm niệm hay th. hành động đẹp. Ở cảnh nào cũng an vui. Thí

dụ : Hẹn bạn 2 giờ chiều cùng đi nghe pháp. Đợi đến 2 giờ rưỡi, bạn vẫn không đến. Thế là

nhỡ việc. Ta phiền tức, định gặp bạn quở trách. T.nh bạn sẽ tan vỡ. Nếu ta nghĩ bạn m.nh

đang khổ sở lê chiếc xe đạp nổ lốp đi t.m tiệm chữa xe. Ta sẽ thương bạn.

Trong cuộc đời trùng trùng duyên khởi, tâm vẫn làm chủ. Hễ tâm niệm lành th. hành

động lành. Hành động lành, quả báo sẽ lành. Việc này ai cũng biết. Nhưng tỉ mỉ soi xét nội

tâm để sáng suốt hành động th. ít ai để .. Năng lực tự trị đ. hiếm, tự giác lại càng khó. Thứ trí

tuệ này phải tập hàng ngày hàng giờ từng niệm, đức hạnh không phải phút chốc thành được.

Đây là tài sản của chúng ta, không châu báu nào sánh kịp.

Giáo Thọ Ni bê 22 quyển Luật Tứ Phần Lược Ghi tới trước đại Tăng, cung kính quỳ

bạch : Nam mô A Di Đà Phật ! Đức Thích Tôn dạy đệ tử phải thờ Ba la đề mộc xoa làm Thầy.

Mười phương Phật lấy đây làm đệ nhất minh hối. Tỳ Ni tạng trụ th. Phật Pháp c.n. Nơi nào

Tỳ Ni không được hoằng dương th. Phật Pháp tùy diệt. Phật đ. diệt độ hơn 2500 năm. Ngôi

Tam-bảo vẫn c.n hưng long ở thế gian. Chính nhờ liệt vị Tăng Ni nghiêm tr. giới luật, thanh

trừng ba độc tham sân si. Biển khổ luân hồi, thuyền từ cứu vớt, Phật trao chèo lái về ngôi

Tăng bảo. V. thế chúng con nguyện đem hết tâm hồn quy y trụ tr. Tam-bảo. Ngưỡng mong

chư tôn H.a-thượng giới sư, từ bàn tay trăm phước trang nghiêm, bá thí luật điển, mở cửa cho

chúng con vào Thánh đạo.

Các giới sư lần lượt phát sách. Mỗi giới tử lại được thêm một huấn từ. Thí dụ : Phổ

Minh được câu : “Phật dạy lấy giới luật làm Thầy nhưng phải nhớ sách chỉ là phương tiện.

Lời Phật . Tổ phải thấm nhuần vào tạng thức, h.nh dung trong ba nghiệp khi động khi tĩnh,

chớ khư khư ôm suông chữ nghĩa”. Thanh An được câu : “Thanh-văn giới tuy gọi là cụ túc

nhưng muốn thật đầy đủ, phải tiến lên đại thừa, cầu Bồ-tát giới”.

Hương Quang mừng rỡ cầm cuốn Luật xá. H.a-thượng nghiêm sắc mặt : “Khoan,

đứng dậy ! Đặt cuốn sách lên bàn, chắp tay xá. Luật Sadi có dạy r. ràng không được cầm kinh

xá người”. Hương Quang vội vàng y giáo phụng hành.

Phát Luật xong, H.a-thượng Huyền Đăng ngâm kệ :

Khi xưa Phật nhập Niết-bàn,

Để lời di chúc r. ràng chẳng sai.

Ai là đệ tử Như Lai,

Phải lấy giới luật làm Thầy chớ quên.

* * *

Giới tử sửa soạn ra xe về, một l.o Tăng trong chùa tiễn chân một câu chuyện, dặn bỏ

túi đem về làm quà cho chị em : “Hai lái buôn chung vốn chung sức. Đến khi chia l.i, A dành

phần hơn, B vui vẻ. C đứng ngoài tức hộ : “Tội g. m.nh cũng công cũng của mà chịu thiệt”.

— V. anh tôi có mẹ già nên cần tiêu nhiều.

Lời nói cắt đứt xoi mói của C, khiến A cảm động, bội phần qu. B. Thế là một câu nói

đem lợi ích cho cả 3. Thế gian buôn bán, chuyên tâm tính toán hơn thua mà c.n ăn ở với nhau

như vậy. Đạo t.nh phải làm sao cho chị em đối với m.nh, đi th. nhớ ở th. thương”.

Dọc đường xe chạy từ Đơn Dương về Phú An, đại chúng thi nhau niệm Phật vang trời.

Lại thêm chú Thiện và chú Tiến, 2 thị giả của đại l.o H.a-thượng tiếp sức. Tới bến sang

Thiện Chí để về Hương Sơn, H.a-thượng lên đ. : “Chúc qu. cô thường lạc ng. tịnh”.

SỐNG TỈNH THỨC

Tối rồi sáng !

Tối rồi sáng !

Vui mừng ta đón ngắm ánh b.nh minh.

Trên cành cây, chim hót lá rung rinh.

Trời trong mát, thanh b.nh trong nắng mới.

Thương yêu muôn vật, chúng ta vun xới.

Mầm từ bi, cầu trí sáng vô biên.

Không ng. nhân, ảo tưởng với n.o phiền.

Muôn tướng trạng thảy đều vô sở đắc.

Nương Bát Nh. thuyền, không không sắc sắc,

Thôi từ nay một dạ quyết chuyên tu.

Tánh chân như nào đâu có trí ngu,

Bớt phân biệt, tâm đỡ bao chướng ngại.

Tự tại rồi nào c.n khôn với dại.

Ngày tháng qua, đâu quản ngại thời gian

Đi trong đời an ổn, thật Niết-bàn.

(Ưu-bà-di Viên Không)

III

NỒI CƠM NHAN HỒI

Đức Khổng Tử dẫn học tr. đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Thời Đông Chu, chiến tranh

liên miên, chư hầu loạn lạc, dân chúng đói khổ. Thầy tr. Khổng Tử rau cháo cầm hơi. Nhưng

không một ai kêu than thoái chí. Tất cả quyết tâm theo Thầy đến cùng.

Ngày đầu tiên đến đất Tề, một nhà hào phú từ lâu đ. nghe danh Khổng Tử, đem biếu ít

gạo. Khổng Tử phân công : Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau. Nhan Hồi đảm nhận

việc thổi cơm.

Nhà trên cách bếp một cái sân nhỏ. Khổng Tử đang đọc sách, bỗng nghe tiếng động

mạnh từ bếp vọng lên. Khổng Tử nh.n xuống bếp, thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm cho vào

tay, nắm từng nắm nhỏ, đưa lên miệng ăn. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời, than rằng :

Chao ôi ! Học tr. nhất của Khổng Tử mà đi ăn vụng ! Chao ôi ! Bao nhiêu hy vọng ta đặt vào

Nhan Hồi nay thành mây khói !

Mọi người mang rau về, luộc rau, dọn cơm ở nhà trên, cùng chắp tay mời Khổng Tử.

Khổng Tử nói : Trong cảnh loạn lạc, từ Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm, nắng mưa đói khổ,

các Thầy vẫn một dạ theo ta. Hôm nay, bữa cơm đầu tiên trên đất Tề, các Thầy h.y cùng ta

hướng về quê hương xứ Lỗ, tưởng niệm cúng dường cha mẹ.

Nhan Hồi chắp tay thưa : Cơm đ. ăn trước rồi không nên cúng. Bởi v. khi con mở

vung ra xem thử cơm đ. chín chưa. Chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên mái

rơi xuống. Con nhanh tay vội đậy vung lại nhưng không kịp. Con xới lớp cơm bẩn ra định vứt

đi. Nhưng cơm th. ít mà anh em lại đông. Chúng sẽ mất một suất ăn. Con đ. mạn phép Thầy

và anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy. Như vậy là hôm nay con đ. ăn cơm rồi. Bây giờ con

xin phép chỉ ăn phần rau.

Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời, than rằng : Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những

việc chính mắt m.nh trông thấy rành rành mà vẫn không phải là sự thật.

Chao ôi ! Su.t t. nữa, Khổng Tử này đ. là một kẻ hồ đồ.

TÂM TA LÀM PHẬT - TÂM TA LÀ PHẬT

Cương l.nh của Quán Kinh, câu này c.n là tông yếu của một đời Bổn Sư thuyết pháp.

Chân pháp nhiễm tịnh tùy duyên, hiện thành 10 pháp giới. Mười pháp giới toàn thể là chân.

Cho nên kẻ tin sâu l. nhân quả, chính là người sẽ đại minh tâm tánh. Chúng sanh và Phật vốn

ở khắp nơi, tuyệt đ.i, viên dung, không thể nghĩ bàn. Hành giả nên tin đây mà vào. Tự tánh

hiện tiền của một tâm niệm tức là cái bổn hữu chân tâm. Vô minh hiện hành của chúng sanh

tức là cái thể bất động trí của Phật. Tr. danh hiệu Phật là lấy duy Tâm tức là duy Phật làm

tông.

Hiểu như trên th. r. ràng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Việc trước hết của người

niệm Phật là tinh nghiêm giới sát sanh. Phóng tâm sát hại, kết oán thâm sâu. Sát tâm m.nh

liệt, sát nghiệp nặng nề, chứa góp thành quả báo đại kiếp đao binh. Tin l. nhân quả là hiểu r.

lẽ cảm ứng. Ta ác tâm cảm, người sẽ ác tâm ứng. Thiện tâm cảm th. thiện tâm ứng. Cảm ứng

chẳng những hiện đời mà thông cả quá khứ vị lai. Cảm ứng chẳng những trong loài người mà

thông cả sáu đạo. Trong 3 đời 6 đạo này, tất cả chúng sanh đ. từng làm cha mẹ anh em lẫn

nhau.

Pháp môn niệm Phật như trời khắp che, đất khắp chở. Kinh Hoa Nghiêm lấy 2 chữ

nhân quả gồm suốt 54 ngôi Thánh. Vạn hạnh trang nghiêm nhất thừa Phật quả th. vạn hạnh há

không phải là hạnh niệm Phật hay sao ?

Kinh Pháp Hoa từ đầu đến cuối, một bề khai thị Phật tri kiến cho chúng sanh ngộ

nhập, há không phải là một pháp môn niệm Phật sao ?

Kinh Lăng Nghiêm chỉ cái mật nhân để thành Phật. Nếu hướng về th. giải thoát năm

ấm ma, trải 55 Thánh vị mà viên m.n Vô-thượng Bồ-đề. Nếu không th. trầm luân bảy thú.

Kết kinh, Phật minh bạch nói : “Phạm 4 trọng 10 baladi, quả báo đáng đọa A-tỳ địa ngục.

Kiếp hoại, trái đất tan, c.n phải đi chịu tội ở các địa ngục vô gián khắp mười phương. Nếu

phát tâm đem kinh Lăng Nghiêm khai thị cho thời mạt pháp kẻ chưa học, ứng niệm trọng tội

liền tiêu diệt, được sanh về Tịnh-độ của chư Phật”.

Như vậy, một đời thuyết pháp, Phật chỉ hiển thị duy tâm tự tánh viên thành vô thượng

diệu giác, quy tất cả về một đại pháp môn niệm Phật.

Tu tịnh nghiệp cần 7 điều :

1- Thật v. sanh tử, phát tâm Bồ-đề (gieo giống).

2- Tin sâu nguyện thiết tr. danh (chánh tông).

3- Nhiếp tâm chuyên niệm (phương tiện).

4- Chiết phục các phiền n.o (yếu vụ).

5- Nghiêm tr. luật nghi (căn bản).

6- Nhẫn khổ, thiểu dục tri túc (trợ đạo).

7- Nhất tâm bất loạn (mục đích).

KHẢI HOÀN CA

Kỷ yếu của Sư bà Diệu Ấn.

Sống hiền thiện, thác b.nh an.

Thỉnh Thầy về c.i Tây phương hưởng nhàn.

Ở c.i ấy Niết-bàn tự tánh,

Toàn nhân dân nhập Thánh siêu phàm.

Đường đi cây báu thẳng hàng,

Chư thiên trỗi nhạc nhịp nhàng khúc ca.

Ca thân Phật bao la rộng r.i,

Ca trời quang, đất trải gấm hoa,

Ca mừng hải hội Phật đà,

Ca hoa sen báu là cha mẹ m.nh.

Trên đài vàng hóa sanh thác chất,

Nghiệp duyên dù chồng chất cũng tiêu.

V.ng sanh đới nghiệp rất nhiều,

Pháp âm thức tỉnh, sớm chiều nhắc răn.

Thân tứ đại trả về tứ đại,

Tánh thông minh nhập thể linh minh.

Sang bờ giác chứng vô sanh,

Lên thuyền Bát Nh., tâm t.nh nhẹ không.

Thể linh minh muôn hồng ngàn tía

Tùy chân như ứng hóa hiện bày.

* * *

Đức càng rộng, đạo càng cao.

Thỉnh Thầy nhẹ gót về ao sen vàng.

Diện kiến Phật, tâm quy y,

Oai nghi quang chiếu từ nay sạch trần.

Rửa sạch hết chướng duyên sanh tử

Nghe Phật âm, thanh tịnh lâng lâng.

Gió reo, chim hót, chuông ngân,

Ngày đêm diễn xướng pháp phần chánh y.

Chánh báo Phật thân vàng sáng rỡ,

Phóng từ quang tiếp đón quần sanh.

Y báo c.i nước nghiêm minh,

Cơm thiền, sữa pháp, chúng sanh đức nhuần.

Bạn Bồ-tát hằng sa vô số,

Bạn Thanh-văn thơm ngát hạnh lành.

Ngũ căn, ngũ lực viên thành,

Thần thông quảng đại dụng hành trang nghiêm.

Mười phương Phật đồng thùy tiếp độ,

Đồng gia tr. khế ngộ tánh chân.

Bấy giờ Thầy sẽ trở về

Việt Nam d.u dắt sinh linh vạn loài.

MỤC LỤC

— Lời tựa

I-/ KHOA TIẾT CẦN YẾU :

1- Tán lễ Tổ sư.

2- Huấn từ xuất gia.

3- Bát kính pháp.

4- Lục h.a.

5- Tịnh-độ Ni viện.

6- Thanh quy.

7- Thanh niên học Phật.

8- Cảnh sách hàng ngày.

9- Ngũ quán.

10- Thể dục.

11- Ba phẩm Liên Hoa.

12- H.a-thượng Pháp chủ huấn từ.

13- Lớp Phật Học Phổ Thông.

14- Lớp Thập Tín.

II-/ MÙA HẠ TỪ 15-4 ĐẾN 15-7 :

1- Chương tr.nh an cư.

2- Lễ tưởng niệm H.a-thượng Trí Thủ – Đệ ngũ luật sư.

3- Tổ Quảng Bá huấn từ.

4- Cung an chức sự.

5- Kết hạ khai thị chúng.

6- Thỉnh pháp học Luật.

7- Quy Sơn Cảnh Sách.

8- Lễ đức Quán Thế Âm chùa Hương.

9- Tín nguyện lực.

10- Lời nói trong gió.

11- Chương tr.nh tán hạ.

12- Lễ đức Đại Thế Chí Bồ-tát.

13- Chương tr.nh tự tứ.

14- Kinh Tự Tứ Thanh Lương.

15- . nghĩa tự tứ.

16- Huấn từ ngày tán hạ.

17- Lễ Vu Lan.

18- Khánh tuế Thầy.

19- Ân đức tam sư.

20- Chúc thọ qu. cụ.

21- Hiếu trong đạo Phật.

22- Tiếng nói của gà.

23- Gia đ.nh Phật hóa phổ.

III-/ MÙA THU TỪ 16-7 ĐẾN 15-10 :

1- Chương tr.nh thọ y công đức.

2- Chương tr.nh tu học.

3- Kính đệ H.a-thượng Già Lam Viện chủ.

4- Tứ Niệm Xứ và Phản Văn phát nguyện.

5- Có minh tâm mới kiến tánh.

6- Thiền Minh Sát.

7- Quán bất tịnh.

8- Kinh Niết Bàn, phẩm Ca Diếp.

9- Lễ đức Địa Tạng Bồ-tát.

10- Giỗ Tổ Huệ Viễn.

11- Giỗ Tổ Ưu Ba Ly.

12- Giỗ Tổ Anan.

13- Bánh trung thu.

14- Trăng Lăng Nghiêm.

15- Biệt khoa giỗ Tổ Phùng Khoang.

16- Quán Thế Âm Thị Kính.

17- Dược Sư.

18- Vô ng..

19- Hữu dụng vô dụng tùy chỗ biết dùng. IV-/ MÙA ĐÔNG TỪ 15-10 ĐẾN 15-1 :

1- Đức Phật A Di Đà.

2- Biệt khoa cúng Tổ Quảng Bá.

3- Đại đàn phổ tế.

4- Ni Tổ Ma-ha Ba Xà Bà Đề.

5- Đức Phật Thích Ca thành đạo.

6- Chương tr.nh xả y công đức.

7- Đại chúng bạch tạ Sư cô Ban Thủ.

8- Pháp tướng pháp tánh.

9- Phổ cáo đón xuân.

10- Tiền thân đức Di Lặc.

11- Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật.

12- Long Hoa tam hội.

13- Hái lộc đầu năm.

14- M.n khóa Abhidharma.

15- Thư thăm bệnh.

16- Thư gửi Ni chúng Viên Thông.

17- Chuyện cổ Phật giáo.

18- Làng Anh Nhi Việt Nam.

19- Tịnh Độ.

V-/ MÙA XUÂN TỪ 16-1 ĐẾN 14-4 :

1- Thỉnh pháp.

2- Đức Bổn Sư xuất gia.

3- Đức Bổn Sư nhập Niết-bàn.

4- Quán Âm Quảng Trần.

5- Lễ đức Phổ Hiền.

6- Thần chú Chuẩn Đề yếu nghĩa.

7- Phó pháp Tôn Sư.

8- Đức Văn Thù.

9- Chương tr.nh lễ khánh đản.

10- Trị tâm.

11- Đạo từ.

12- Thư gửi Liên Hoa.

VI-/ LỜI CÁC ĐẠI SƯ :

I)

1- Trung đạo giản dị.

2- Học và hành.

3- Xả là bí quyết giải thoát.

4- B.nh an.

5- Tâm phân biệt.

6- Chánh kiến.

7- Tiết chế ba nghiệp.

8- An vui ở đâu.

  1. II) Đàn giới Tỳ-kheo-ni.

III) 1- Nồi cơm Nhan Hồi.

2- Tâm ta là Phật.

3- Khải hoàn ca.__

Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Pháp thoại

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm