KINH SÁM HỐI SÁU CĂN
(Tụng ở trai đường trước khi dùng cơm trưa)
Vầng ô vừa hé sáng, mặt đất rạng dần dần
Mắt lóa bao màu sắc, tâm vương mọi cảnh trần
Đừng tham ôm thân xác, hãy sớm cất đầu lên
Sáu niệm luôn luôn nhớ, mong cầu hợp nẻo chân.
Kính tâu đại giác mười phương
Hùng sư tam thế, từ sáu căn ngộ được tánh linh
Nhiếp chín loài về sen chín phẩm
Giờ này vầng hồng chiếu đỉnh.
Trời quang nắng sáng
Nhưng mặt trời lên cao để rồi lặn
Con người có thịnh, ắt có suy
Hình thể chẳng lâu bền.
Sang giàu đâu còn mãi
Ngày nay chẳng tạo nhân lành
Mai sau đi về đường khổ
Cầu khai tâm Phật, bừng sáng chiếu soi
Vô minh tan hết.
Chúng con từ vô thỉ kiếp đến nay
Quên mất bản tâm, không biết đường chánh
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn sai
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau. (o)
- NGHIỆP CĂN MẮT LÀ:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang
Loà mắt chưa sanh, bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mãi nhìn
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần;
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi
Những tội như thế, vô lượng vô biên
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người
Dù được làm người, lại bị mù chột. (o)
- NGHIỆP CĂN TAI LÀ:
Ghét nghe chánh pháp, thích lắng lời tà
Mê mất gốc chơn, đuổi theo ngoại vọng
Sáo đàn inh ỏi, bảo khúc Long ngâm
Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái.
Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ
Lời kinh câu kệ, không chút lắng tai
Thoảng nghe khen hảo, khấp khởi mong cầu
Biết rõ lời lành, đâu từng ưng nhận.
Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi
Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích
Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo đinh ninh
Những điều hiếu trung, che tai bỏ mặc.
Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm
Nghe nửa câu kinh, liền như tai ngựa
Những tội như thế, vô lượng vô biên
Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết
Sau khi mạng chung, rơi ba đường ác
Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc. (o)
- NGHIỆP CĂN MŨI LÀ:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào
Chẳng thích chân hương, năm phần thanh tịnh
Lan xông sạ ướp, chỉ thích tìm tòi
Giới định hương huân, chưa từng để mũi.
Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài
Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói
Theo dõi hương trần, Long Thần chẳng nể
Chỉ thích mùi xằng, trọn không chán mỏi.
Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa
Cây giác hoa tâm, xoay đi không đoái
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau
Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt
Chẳng ngại tanh hôi, không kiêng hành tỏi
Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch
Hoặc say nằm ngủ, điện Phật phòng Tăng
Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ tượng.
Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm
Không biết không hay, đều do nghiệp mũi
Những tội như thế, vô lượng vô biên
Sau khi mạng chung, đoạ ba đường khổ
Trải nghìn muôn kiếp, mới được làm người
Dù được làm người, quả báo bệnh mũi. (o)
- NGHIỆP CĂN LƯỠI LÀ:
Tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở
Nếm hết các thứ, biết rõ béo gầy
Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng thân mình
Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú.
Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông
Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu
Hoặc đến đàn chay, cầu Thần lễ Phật
Cố cam bụng đói, đợi lúc việc xong.
Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều
Giống hệt người đau, gắng nuốt thuốc, cháo
Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan
Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi.
Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con
Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi
Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm
Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi.
Chửi mắng Tam Bảo, nguyền rủa mẹ cha
Khinh khi Hiền thánh, lừa dối mọi người
Chê bai người khác, che giấu lỗi mình
Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ.
Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo
Xua đuổi Tăng-Ni, chửi mắng tôi tớ
Lời dèm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn
Tô vẽ điều sai, nói không thành có
Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông
Tán dóc Tăng phòng, ba hoa Phật điện.
Những tội như thế, vô lượng vô biên
Ví như cát bụi, đếm không thể cùng
Sau khi mạng chung, vào ngục Bạt thiệt
Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi
Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh
Dù được làm người lại bị câm bặt. (o)
- NGHIỆP CĂN THÂN LÀ:
Tinh cha huyết mẹ, chung hợp nên hình
Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp
Chấp cho là thật, quên mất pháp thân
Sinh dâm, sát, trộm bèn thành ba nghiệp.
- Nghiệp sát sinh là:
Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ
Giết hại bốn loài, đâu biết một thể
Lầm hại cố giết, tự làm dạy người
Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối.
Hoặc làm thuốc độc, để hại sinh linh
Chỉ cốt hại người, không hề thương vật
Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối
Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim
Thấy nghe tuỳ hỷ, niệm dấy tưởng làm
Cử động vận hành, đều là tội lỗi. (o)
- Nghiệp trộm cắp là:
Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà
Phá khoá cạy then, sờ bao mò túi
Thấy của thường trụ, lòng dấy khởi tham
Trộm của nhà chùa, không sợ Thần giận
Không những vàng ngọc, mới mắc tội to
Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm. (o)
- Nghiệp tà dâm là:
Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son
Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục
Hoặc nơi đất Phật, chánh điện phòng Tăng
Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn.
Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai
Khoét ngạch trèo tường, đều là dâm nghiệp
Những tội như thế, vô lượng vô biên
Đến lúc mạng chung, đều vào địa ngục
Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng
Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo. (o)
- NGHIỆP CĂN Ý LÀ:
Nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng
Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng
Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền
Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh
Não loạn tâm thần, đều do ba độc. (o)
- Tội keo tham là:
Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ
Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ
Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy
Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét
Lụa là chất đống, nào có giúp ai
Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều
Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn.
Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí
Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo
Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp. (o)
- Tội nóng giận là:
Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu
Quắc mắt quát to, tiêu tan hoà khí
Không riêng người tục, cả đến thầy tu
Kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích.
Chê cả sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy
Buông lời hại vật, cất tiếng hại người
Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm
Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu
Dầu ở cửa Không, chưa thành vô ngã
Như cây sinh lửa, lửa cháy đốt cây
Những tội trên đây, đều do nghiệp giận. (o)
- Tội ngu si là:
Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm
Chẳng hiểu tôn ti, không phân thiện ác
Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay
Mắng Phật chuốc ương, phun Trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân
Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp
Những tội như thế, rất nặng rất sâu
Đến lúc mạng chung, rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được thọ sanh
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo
Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối. (o)
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần) (o)
(Phật Hoàng Trần Nhân Tông –Trúc Lâm Sơ Tổ)
--- o0o ---