(History of Buddhism in Australia)
Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
- Lời Thưa Của Người Dịch
- Lời Giới Thiệu của HT Thích Huyền Tôn
- Lời Giới Thiệu của HT Thích Như Điển
- Lời Giới Thiệu của TK Khantipalo Thera
- Chương 1: Những Chiếc Bình Trống
- Chương 2: Cứ Như Là Từ Một Xứ Khác: 1910-1952
- Chương 3: Lối Thoát Độc Nhất: 1952-1956
- Chương 4: Trồng Sen Trên Tảng Đá 1956-1971
- Chương 5: Những Người Đánh Trống Pháp 1971-1975
- Chương 6: Bờ Bên Kia 1975-1988
Mục Lục
Lời người dịch. TT Thích Nguyên Tạng
Lời giới thiệu. HT Thích Huyền Tôn
Lời giới thiệu.HT Thích Như Điển
Lời giới thiệu. TT Khantipalo Thera
Chương 1: Những chiếc bình trống
Chương 2: Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952
Chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956
Chương 4: Trồng sen trên tảng đá: 1956-1971
Chương 5: Những Người Đánh Trống Pháp 1971-1975
Chương 6: Bờ bên kia: 1975-1988
Phụ lục:
- Phật Giáo tại Úc
- Đại Hội Khoáng Đại Kỳ IV...
- Tu Viện Quảng Đức trên đất Úc
- Đôi nét về tác giả và dịch giả
Lời thưa của người dịch
TT Thích Nguyên Tạng
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóa và tâm linh của người Úc. Cuốn sách này theo dõi quá trình hình thành của Phật Giáo từ giai đoạn sơ khai vào thế kỷ 19, đến khi những Hội Phật Giáo đầu tiên được thành lập vào đầu thập niên năm mươi của thế kỷ 20;các phong trào học Phật của người Úc và sau đó là những người tị nạn đến từ châu Á. Giống như một bức tranh lịch sử, không chỉ nói về những người Phật tử bình thường tại xứ sở Nam Bán Cầu này, cuốn sách đã hấp dẫn hơn với những nhân vật lập dị, những kẻ giả danh, những người nổi tiếng và các bậc thánh thiện.
Paul Croucher, tác giả tập sách, sinh năm 1961, sinh trưởng ở Sydney, lần đầu tiên tiếp xúc với sách Phật Giáo và Lão Giáo trong thời gian làm việc ở một tiệm sách vào năm 1979. Tuy chú tâm vào Thiền học nhưng các vị Thầy đầu tiên của ông lại là Lạt Ma Tây Tạng, đó là Lạt Ma Geshe Nyawang Leyden và Lạt Ma Yeshe. Năm 1983, ông viếng thăm Nhật Bản, Thái Lan, và những nơi có người Tây Tạng lưu vong ở miền Bắc Ấn Độ. Từ năm 1984, ông nghiên cứu lịch sử Á Châu và học tiếng Nhật ở đại học Monash (Melbourne). Những quan tâm khác của ông là chơi bóng squash, đi dã ngoại và đọc sách của Henry David Thoreau (1817-1862), một nhà văn Mỹ thuộc phái tự nhiên. Hiện tại ông đang sống tại Melbourne và viết luận án tiến sĩ về lịch sử Thiền Tông.
“Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi” được xuất bản tại Sydney vào năm 1989, với gần 150 trang, bao gồm sáu chương: chương 1: Những chiếc bình trống; chương 2: Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952; chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956; chương 4: Trồng sen trên tảng đá: 1956-1971; chương 5: Những người đánh trống Pháp 1971-1975; và chương 6: Bờ bên kia: 1975-1988.
Như vậy, tập sách “Lịch sử Phật Giáo Úc” chỉ giới hạn trong khoảng thời giantừ lúc khởi nguyên đến năm 1988, tất nhiên từ năm 1981, Phật Giáo Việt Nam đã có mặt tại xứ sở này, và ít nhiều, Paul Croucher đã ghi lại những gì mà ông biết được, cảm nhận được về Phật Giáo Việt Nam, kể ra cũng rất lý thú. Nhưng thôi, đó là chuyện sẽ được đề cập ở chương cuối của tập sách.
Tôi được đạo hữu Kerry Trembath và Swee Beng Toh, Thư Ký của Hội Phật Giáo New South Wales trao tặng cuốn sách "Buddhism in Australia 1048-1988”, nguyên tác Anh ngữ của tác giả Paul Croucher vào đầu tháng 4 năm 1998 ngay sau khi tôi đặt chân đến nước Úc. Trước đây, tôi từng liên lạc thư từ với đạo hữu Kerry Trembath từ đầu những năm 1990 khi nghiên cứu đề tài “Phật Giáo Thế Giới”, lúc ấy đạo hữu Kerry Trembath đã cung cấp nhiều tài liệu quý báu về Phật Giáo Tây Phương và đặc biệt là Phật Giáo Úc Châu, chúng tôi đã viết một bài ngắn về Phật Giáo Úc Châu đăng trên Đặc San Giác Ngộ vào năm 1996 (xem bài này ở phần phụ lục cuối sách). Năm 1998, nhờ sự bảo lãnh của bào huynh là Thượng tọa Thích Tâm Phương, tôi đến Úc theo diện Minister of Religion (Nhà Truyền Giáo), được đạo hữu Kerry Trembath mời đến Sydney thăm trụ sở của Hội Phật Giáo New South Wales, tại đây tôi đã có dịp tiếp xúc và nói chuyện với đạo hữu Graeme Lyall, là một Phật tử lão thành người Úc và được xem là một chứng nhân sống của lịch sử Phật Giáo của xứ Úc này, ông là đệ tử quy y Tam Bảo của Ni Sư người Mỹ Dhammadina vào đầu thập niên 50. Giờ đây ông đã 80 tuổi, nhưng vẫn cống hiến hết sức mình cho Phật Giáo, ông hiện đang giúp Hòa Thượng Tịnh Không phổ biến kinh sách tiếng Anh miễn phí cho hệ thống thư viện cộng đồng trên toàn liên bang Úc Châu. Đạo hữu Graeme Lyall vốn là người sáng lập và là cựu Chủ tịch của Hội Phật Giáo New South Wales. Ông từng gieo duyên xuất gia làm Sa Di (Samanera) ngắn hạn với Hòa Thượng Dhammananda ở Kuala Lumpur, Malaysia vào năm 1984. Hiện nay ông đang là Chủ tịch Hội Phật Đà New South Wales, Chủ tịch Quỹ Giáo dục Đại Học Phật Giáo và là một nhân viên Tuyên uý Phật Giáo làm việc thiện nguyện tại các trại giam ở tiểu bang New South Wales. Tôi rất vui mừng vì đã có duyên gặp những nhân vật có công trong việc đóng góp cho sự phát triển Phật Giáo tại Úc Đại Lợi. Trong cuộc gặp gỡ ông Graeme Lyall lần này, hai vị chánh phó thư ký Kerry Trembath và Swee Hin Toh đã gởi tặng tập sách “Buddhism in Australia 1048-1988” và yêu cầu tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt để giúp cho cộng đồng người Việt, vốn là một trong những cộng đồng sắc tộc đông đúc nhất tại Úc, hiểu biết thêm về quá trình hình thành và phát triển của Phật Giáo tại xứ sở này.
Tôi bắt đầu dịch tập sách này từ đầu năm 2000 nhưng mãi đến nay mới hoàn tất. Sở dĩ việc dịch tập sách này kéo dài hơn mười năm, vì trong khoảng thời gian đó tôi đã ưu tiên cho các tác phẩm khác như Phật Giáo Khắp Thế Giới, Chết và Tái Sanh, Pháp Ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không, Sức Mạnh Của Lòng Từ...; Một lý do khác là vì tác phẩm lịch sử này có phần khô khan và cách viết của tác giả dễ bị hiểu lầm cũng như dễ làm mích lòng người đọc, nhất là những người không có cảm tình với Phật Giáo, khi đọc tác phẩm này sẽ có phần khó chịu khi tìm thấy những giai đoạn thăng trầm của Phật Giáo Úc, những phe nhóm, hội đoàn của người Úc da trắng xung đột, chống báng nhau. Âu cũng là thói thường của nhân thế. Dịch giả có lúc muốn bỏ ngang dịch phẩm này, nhưng bỏ thì thương, vương thì tội, cuối cùng đành phải cố gắng tiếp tục đi tới trang cuối của tác phẩm. Vì là một tác phẩm lịch sử nên phản ánh sự thật những giai đoạn khó khăn của lịch sử mà bất kỳ giáo hội nào, quốc gia nào cũng không thể tránh khỏi, mong độc giả hoan hỉ không chấp mắc, chỉ nên đọc lịch sử Phật Giáo Úc để soi chiếu bản thân và sinh hoạt hiện tại của mình, cố gắng không đi vào vết xe đổ của lịch sử. Đó là mục tiêu dịch phẩm này ra đời.
Chân thành cảm ơn Đạo Hữu Kerry Trembath và Swee Beng Toh, Chánh Phó Thư ký Hội Phật Giáo New South Wales đã gởi tặng tập sách tiếng Anh này.
Chúng con chân thành cảm tạ Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, Tăng Giáo Trưởng GHPGVN Thống Nhất Hải Ngoại tại UĐL-TTL, người có công soạn thảo Hiến Chương và thành lập Giáo Hội PGVN Thống Nhất tại Úc Đại Lợi vào đầu thập niên tám mươi, và là một chứng nhân của những thăng trầm PGVN tại đất nước này, đã viết lời giới thiệu thứ nhấtcho tập sách. Chúng con cũng xin cảm tạ Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, đã duyệt lại bản thảo và viết lời giới thiệu thứ hai cho tập sách trong thời gian Hòa Thượng về giảng dạy tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 11 tại Victoria. Người dịch cũng xin chân thành cảm tạ bào huynh, TT Thích Tâm Phương đã tạo mọi thuận duyên cho công việc nghiên cứu dịch thuật trong một thập niên qua.
Dịch giả cũngxin ghi lại nơi đây lời tán dương công đức của Quý Phật tử gần xa đã đóng góp tịnh tài để ấn tống tập sách này.
Xin chắp tay nguyện cầu cho Chánh Pháp được trường tồn, chúng sanh được an lạc. Nguyện cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ, Cha Mẹ nhiều đời của chúng ta sớm tái sinh về cõi giới an lành.
Melbourne, mùa Phật Đản 2636, Tây lịch 2012
Dịch giả cẩn chí
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
của Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
Lịch sử Phật Giáo Úc Ðại Lợi của tác giả Paul Croucher, qua bản Việt dịch với văn phong hiện đại, xuất sắc, gãy gọn và trung thực của Thượng tọa Thích Nguyên Tạng. Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đến Úc từ năm 1998, ngoài công việc làm website Phật Giáo, Thầy đã vui thích trong công việc phiên dịch, và cứ như thế những bản dịch của Thầy mỗi ngày mỗi xuất sắc hơn. Chính nhờ vậy mà qua “ Lịch Sử Phật Giáo Úc Ðại Lợi”, chúng ta được thấy tác giả Paul Croucher đã phác họa cho Phật Giáo có một bộ mặt tựa như “Người tìm đất khai khẩn” hơn là Người chân tu đi truyền đạo.
Bất cứ ai đọc tác phẩm lịch sử này của ông Paul Croucher đều biết rằng, ông đã rất đau lòng mà họa lên đường nét thật trong thời kỳ đầu của lịch sử Phật giáo Úc, với những tấm lòng muốn phát huy Phật đạo nhưng sự hiểu Đạo của họ có lẽ cũng rất sơ nguyên. Văn gốc đã như vậy rồi thì dịch giả có cao siêu đến mấy cũng không sao làm khác được.
Thượng tọa dịch giả cũng thấm thía khi cho rằng: “Bỏ thì thương, vương thì tội, cũng mong độc giả hoan hỷ không chấp mắc, chỉ nên đọc Lịch sử Phật Giáo Úc Châu để soi chiếu bản thân”. Vì “tiền xa ký phúc, hậu xa giới chi” (Xe trước ngã đổ, xe sau nên cảnh giác),mà Thượng tọa đã tiếp tục hoàn thành dịch phẩm này.
Đọc lại “Lịch sử Phật Giáo Úc Ðại Lợi” chợt như mình bị chao đảo trong nguồn sống chống đối, thị phi. Trong đó tác giả cũng đã đề cập đến các vị chức sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ từ 1980 đến 1988. Tác giả cũng đã rành rẽ và hiểu rõ những câu mở đầu trong bản Hiến Chương của Giáo Hội và đã nghĩ rằng văn bản này do những người đứng đầu tổ chức soạn thảo. Tuy nhiên thời ấy nay đã qua rồi…. Tôi mong trong tương lai Thượng tọa viết kỹ lại Lịch sử Phật Giáo Việt Namtại Úc Châuđể cho Tăng Tín đồ Phật tử Việt Nam biết rõ hơn về sự hình thành, ổn định và phát triển của Phật Giáo tại xứ sớ Nam Bán Cầu này.
Cảm ơn Thượng Tọa đã trân trọng coi tôi là một chứng nhân của lịch sử Phật Giáo Úc! Còn tôi vẫn luôn quí mến Thượng Tọa là người đã dầy công đức với Giáo Hội, với văn hoá Phật Giáo, với nhiều tác phẩm dịch thuật.
Xin thành tâm giới thiệu với chư quí độc giả gần xa. Hãy hoan nghinh và đón đọc tác phẩm dịch thuật của Thượng tọa Thích Nguyên Tạng, Phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức, cũng là người chủ biên Trang nhà rộng lớn quangduc.com
Viết tại Chùa Bảo Vương, Mùa Phật Ðản 2636 (2012)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôncủa Hòa Thượng Thích Như Ðiển
Cuối năm 2011 và đầu năm 2012, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan tổ chức khóa tu học Phật Pháp kỳ thứ 11 tại Kyneton, thuộc tiểu bang Victoria, nằm cách thành phố Melbourne khoảng 120 cây số. Có trên 30 chư Tôn Đức và 385 học viên từ khắp các tiểu bang trên nước Úc về đây chứng minh tham dự, giảng dạy Phật Pháp và tham gia khóa tu. Đặc biệt lần này có trên 100 em thanh thiếu niên đã cùng với Ba Mẹ về đây tu học. Nhân cơ hội này tôi cũng đã đến đây tham gia với Giáo Hội tại Úc và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đã nhờ tôi đọc bản dịch cuốn sách “Lịch sử Phật giáo Úc Đại Lợi” do Thượng tọa dịch sang tiếng Việt từ tác phẩm tiếng Anh của tác giả Paul Croucher, đồng thời viết lời giới thiệu cho dịch phẩm này. Tôi đã nhận lời và đọc ngấu nghiến hơn 120 trang A4 đánh máy trong vòng hai ngày để có thể viết lời giới thiệu gởi đến quý độc giả.
Đọc hết 6 chương của tác giả Paul Croucher viết về Phật giáo nước Úc, tôi có những nhận định sau đây:
- Tuy tác giả không tự giới thiệu quyển sách này như là một luận văn cao học về Tôn giáo, nhưng người đọc cũng có thể tự hiểu ra rằng đây là một nấc thang cần thiết để tác giả chuẩn bị cho luận án Tiến sĩ của mình.
- Tác phẩm này đã giới thiệu một cách cặn kẽ, có tính cách khoa học về Tôn giáo, nhưng chỉ tiếc là tác giả nhìn ở khía cạnh thụ động của Phật giáo vào buổi bình minh, khi Phật giáo được truyền vào đất nước này chỉ mới gần 200 năm lịch sử. Trong khi đó mặt tích cực của Phật giáo Úc đã góp công được gì cho xã hội đa văn hóa này, thì tác giả Paul Croucher dường như đã cố tình làm ngơ. Ở phần cuối quyển sách có một vài đề nghị có thể giúp cho người đọc có một cái nhìn thực tế hơn, nhưng đây cũng chỉ là những dấu hiệu bước đầu thử thách của Phật giáo của người phương Tây tại xứ có đất đai rộng rãi này.
- Tác giả đã nói lên được cái nhìn của người da trắng đa phần theo đạo Phật, là những người bước ra khỏi ngưỡng cửa thần linh của Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo ở phương Tây và không nhập cuộc trực tiếp với giáo lý từ bi, trí tuệ của Phật giáo, mà phải qua Thông Thiên Học của Ấn Độ hoặc triết gia Krishnamurti là những dấu ấn ban đầu của Phật giáo tại xứ Úc này.
- Kế tiếp là những người đến từ Á Châu như: Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan và sau năm 1975 có các dân tộc khác di dân đến đây như: Việt Nam, Lào, Campuchia, Tây Tạng v.v… Người Trung Hoa mang vào xứ Úc tôn giáo đa thần, nặng phần cầu nguyện lễ bái, người Nhật từ năm 1828 đã có mặt tại xứ Úc này và họ là giống dân đã tiêu thụ được nguyên chất Thiền của Ấn Độ, Tích Lan; Vipassana trở thành Ch'an của Trung Hoa và đặc biệt là Zen của Nhật Bản. Zen không là một phép lạ, nhưng đây là sự thành công của người Nhật khi tiêu thụ giáo lý của Phật Đà. Trong khi đó người Tích Lan, người Thái, người Lào, người Cam bốt vì giữ truyền thống nguyên thủy của mình và vấn đề giới hạn của ngôn ngữ, khiến cho một đạo Phật thực sự của người Úc chưa được mở cửa để gọi mời. Trong khi đó Việt Nam và Tây Tạng đã xây dựng cho cộng đồng của mình vững mạnh hơn qua những hình ảnh chùa chiền được xây cất, cũng như những vị đại sư nổi tiếng, nhưng người Úc vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa bên ngoài của hành trình từ bi và trí tuệ ấy; chứ chưa có người Úc nào thâm tín tuyệt đối để dấn thân vào những truyền thống Phật giáo này.
Những người cư sĩ Phật tử Âu Mỹ như: Đại tá Henry Olcott hay bà Blavatsky là những người Phật tử tiên phong có tâm ý muốn khôi phục và phát huy về Phật giáo cổ truyền này, vốn đã có mặt hơn 2400 năm trên quê hương xứ Ấn Độ và Tích Lan thuở bấy giờ, kế đến là những người Âu Mỹ xuất gia như: Ni sư Dhammadina (người Mỹ), Ngài Nyanatiloka (người Đức), Thầy Dhammika (người Úc), Ni sư Ayya Khema (người Đức gốc Do Thái) và Ni sư Chi Kwang (người Úc tu theo Phật giáo Trung Hoa và Đại Hàn) v.v... họ là những người Âu Mỹ chính gốc, thực sự chối từ niềm tin chính thống Thiên Chúa giáo hay Tin Lành của mình để dấn thân vào con đường từ bi, trí tuệ và cởi bỏ mọi sự ràng buộc của Đạo Phật để tự hướng đời mình về con đường giác ngộ giải thoát ấy.
Đây là niềm tự hào của Phật giáo, vì ở nơi Đạo Phật, họ có một cơ quan truyền giáo chính thức, mà người nào muốn đến với Đạo Phật bất luận là Âu, Mỹ hay Á, Phi,… Tất cả đều do tự nguyện, chứ không do một sự ép buộc nào hay một quyền lợi nào có sẵn được đặt để ở phía trước. Đây là điểm son của Phật giáo nói chung và các truyền thống Phật giáo khác nói riêng hiện có mặt khắp nơi trên thế giới ngày nay. Dĩ nhiên là khi đọc tác phẩm này, chúng ta không mong mỏi gì hơn là tìm hiểu ngọn ngành về lịch sử của Phật Giáo tại xứ Úc này, Nếu ai đó muốn đi tìm một giáo lý căn bản để thực hành Phật Pháp, thì nội dung của sách này không chứa đựng vấn đề ấy. Đa phần những người Âu Mỹ không muốn chấp nhận thần linh, nên mới đi tìm một tôn giáo không tôn sùng cá nhân. Do vậy khi chạm phải với vấn đề truyền thống của một vài nước có nền Phật giáo cổ truyền vốn có mặt ở đó lâu đời như: Tích Lan, Ấn Độ, Thái Lan, Phật tử người Úc tân thời đã không muốn có sự hiện diện của chư Tăng Ni, nhưng đây có thể là sự hiểu lầm của những người mới làm quen với đạo Phật. Vì để có một tôn giáo với đầy đủ ý nghĩa của nó, phải có ba yếu tố quan trọng. Đó là: Giáo chủ, Giáo lý và Giáo hội. Đã là Giáo hội thì phải có đủ Tăng và tục gách vác bánh xe Giáo Pháp truyền thừa này. Nếu chỉ một thành phần đảm đang, thì không thể nào chuyển di được sự phát triển giáo lý của Đức Phật được sâu rộng vào quần chúng. Nếu bảo rằng: Phật giáo ở giai đoạn ban đầu truyền đến Trung Quốc vào thời Hán Minh Đế (năm 48) do Đạo Lão đã rộng mở con đường để thâu nhập thì Việt Nam ngược lại do Nho Giáo đã tiếp nhận Phật Giáo. Trong khi đó Phật Giáo tại Nhật do Thần Đạo dang rộng vòng tay để đón mời Phật Giáo vào thì tại Úc châu này Thông Thiên Học đã là chiếc cầu nối liền giữa những người Á và Úc châu Phật giáo tại đây. Đây là những dấu mốc quan trọng để Phật Giáo đi vào từng dân tộc trong các quốc gia trên hoàn vũ này.
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng, phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne là dịch giả của tác phẩm này từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thầy ấy đã chuyển dịch suốt 6 chương bằng văn từ lưu loát, khiến cho người đọc dễ tiếp nhận quan điểm của từng người trong tác phẩm này khi họ quan niệm và thực hành về Phật giáo, dầu cho đó là tư tưởng cá nhân riêng lẻ của từng vị một.
Ngày nay những người chưa làm quen được nhiều với ngoại ngữ, thì đã có những bản dịch ra Việt ngữ lưu loát như thế này, quả là điều đáng tán dương cho cả dịch giả lẫn độc giả. Vì lẽ nếu bản dịch có hay cho mấy mà người đọc lạnh lùng không lưu tâm đến thì cũng tội nghiệp cho một tác phẩm mà cả tác giả lẫn dịch giả đều đã cưu mang và muốn đem một cái gì đó gởi gắm vào nơi tâm khảm của người đọc. Riêng tôi, đoán chắc rằng tác phẩm này sẽ làm hài lòng với một số quý độc giả, dầu cho người ấy có khó tính cách mấy đi nữa, khi mà người ấy chỉ muốn đi tìm dấu vết của đàn chim di, khi mang giáo pháp nhiệm mầu của Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni từ Đông sang Tây, từ Á Châu sang xứ Úc này.
Tôi xin trang trọng giới thiệu dịch phẩm giá trị này của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đến với tất cả quý độc giả khắp nơi và mong rằng sau khi đọc sách xong, gấp sách lại, quý độc giả sẽ nhận chân được giá trị của tác phẩm này.
HT. Thích Như Điển
Phương Trượng chùa Viên Giác Hanover, Đức Quốc viết lời giới thiệu này vào ngày 02 tháng 01 năm 2012 tại Kyneton, tiểu bang Victoria, Úc Châu, nhân khóa tu học Phật Pháp kỳ thứ 11 được tổ chức tại đây (do TT Thích Nguyên Tạng làm Trưởng Ban Tổ Chức)của TK. Khantipalo Thera
Phật Giáo đã lan truyền khắp Á Châu một cách chậm chạp, do bị hạn chế những khoảng cách địa lý lớn và những khó khăn trong việc ấn hành kinh sách. Tuy nhiên, sự phát triển của tôn giáo này cũng rất đáng chú ý, từ A Phú Hãn (Afghanistan) đến Nhật Bản, và từ Mông Cổ đến Nam Dương (Indonesia). Những tài liệu lịch sử ở các nước khác nhau như Tích Lan (Sri Lanka), Tây Tạng (Tibet) và Nhật Bản viết rằng các Tăng Ni của Phật Giáo du hành đã gây được sự quan tâm của triều đình ở những xứ này, và tiếp theo sau là sự quy y theo Phật Giáo của những người thuộc giai cấp thượng lưu.
Chỉ ở Trung Hoa khi được truyền vào, Phật Giáo gặp nền văn minh đã đạt trình độ cao rồi, tiếp đó Phật Giáo cũng đã lan tỏa khắp nơi, đặc biệt là trong đời nhà Đường (T’ang dynasty). Sự kiện này có thể được xem là sự phát triển chính thức của Phật Giáo, nhưng còn có nhiều hình thức truyền bá khác, có tính cách dân dã hơn, qua các Tăng Ni và Phật tử tại gia làm việc cách xa triều đình và những hoạt động của họ không được ghi nhận lại trong sử sách. Sự truyền bá Phật Giáo ở Úc Châu cũng giống sự truyền bá này, nhưng có một điểm khác biệt quan trọng là trong thời đại của chúng ta, sách được sản xuất một cách dễ dàng và rẻ tiền. Trước thập niên 1970, như tác giả Paul Croucher cho thấy, đa số những người Úc chú ý đến Phật Giáo đã chỉ được biết về Phật Giáo qua những cuốn sách, mà những cuốn sách này thì không giải đáp được những câu hỏi quan trọng của họ.
Các tín đồ Phật Giáo Úc đầu tiên và những người có cảm tình với Phật Giáo thường được thu hút qua phương diện duy lý – nhân bản của giáo lý Phật Giáo hay ngang qua sự trình bày đầy nghệ thuật của nền giáo lý này. Điều này có nghĩa là những phương diện lớn khác của Phật Giáo đã bị bỏ quên hoặc bị hiểu lầm. Chẳng hạn như giáo lý luân hồi đã bị những người quá duy lý xem là một giáo thuyết Á Châu không cần thiết, cùng với điều này, tất cả các nghi lễ đều bị chê là dấu hiệu của sự thoái hóa, và những nghi thức Phật Giáo thông thường như cúi lạy để tỏ lòng tôn kính, sự khiêm hạ và sự biết ơn đã bị xem là những việc không quan trọng được đặt thêm vào triết lý của Đức Phật. Pháp môn Thiền của Phật Giáo và công dụng giải trừ tính kiêu căng ngã mạn của những pháp này cũng bị hiểu sai, và được dành cho rất ít thời giờ thực hành. Thật vậy, Phật Giáo vẫn chỉ là những lời nói để cho người ta trích dẫn khi cần thiết chứ không dẫn tới việc nhiếp phục tâm tán loạn. Kết quả là cuốn sách này bao gồm cả những giai đoạn đáng buồn của lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu. Có điều đáng khen là tác giả, tuy là tín đồ Phật Giáo, đã không che đậy những giai đoạn này, vì ông chỉ quan tâm tới tính chính xác về mặt lịch sử chứ không tô điểm thêm cho những sự kiện.
Tôi nhớ lại hai sự việc mà tôi đã gặp, có thể minh họa khuynh hướng sai lầm trong thời kỳ đầu của Phật Giáo Úc châu. Thứ nhất là có lần một người ồn ào, thích coi truyền hình và không bao giờ tham thiền, bảo đảm với tôi là người ta có thể đắc Niết Bàn vào lúc qua đời. Tất nhiên tôi mong người này nói đúng, nhưng trong tận thâm tâm, tôi thấy ý kiến này không phù hợp với lời dạy của Đức Phật rằng muốn chứng đắc Niết bàn, người ta cần phải tinh tấn tu tập. Sự việc thứ hai là trong một cuộc họp của một tổ chức Phật Giáo mà tôi được mời tham dự, phiên họp kéo dài từ tám giờ đến mười một giờ đêm, mọi người cãi nhau dữ dội, và điều đáng ngạc nhiên nhất là những người tham dự không có ai được mời một ly nước nào cả. Vì đã sống ở Thái Lan nhiều năm, một xứ mà người dân rất hiếu khách, nên tôi đã ngạc nhiên vì sự vô tâm này. Tất cả mọi pháp môn tu tập theo giáo lý của Đức Phật đều bắt đầu với hạnh bố thí, hay lòng từ bi quảng đại, và nếu hạnh bố thí không phải là một phần của đời sống tu tập thì người ta khó có thể thành tựu được bất cứ pháp môn nào khác.
Trong thập niên 1980, quang cảnh đã thay đổi đáng kể, ngày nay có hơn tám mươi ngàn tín đồ Phật Giáo ở Úc Châu, thuộc hơn một trăm tổ chức Phật Giáo khác nhau. Các vị Thầy Phật Giáo có khả năng đã định cư ở xứ này, và các nhóm đệ tử đã tụ tập xung quanh các vị, vì vậy bây giờ đa số các tín đồ chú tâm vào việc học và thực hành giáo lý một cách sâu xa. Tương lai tốt đẹp của Phật Giáo ở Úc Châu tùy thuộc vào việc sẽ có bao nhiêu vị Thầy bản địa sẽ xuất hiện ở xứ sở rộng lớn này để chiếu ánh sáng Giáo Pháp cho những người có mắt được thấy.
Viết tại Chùa Buddha Dhamma, tháng Mười năm 1988.
Tỳ Kheo Khantipalo TheraNhững chiếc bình trống
Rất có thể những tín đồ Phật Giáo đầu tiên đặt chân lên bờ biển Úc châu đã đến đây mấy trăm năm trước hai nhà thám hiểm người Anh Dampier và James Cook (1770). Một số nhà nhân chủng học hàng đầu cho rằng không những trong nhiều thế kỷ các thương gia Á Châu đã đến thăm Arnhem Land (Bắc Úc) mà họ còn có thể được xem là đã để lại một ấn tượng lâu bền. Thí dụ, trong cuốn “Aboriginal Men Of High Degree” giáo sư A. P. Elkin nói rằng ông nhận thấy có ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Giáo-Phật Giáo thời ban đầu của Nam Dương. Sau khi nghiên cứu những kinh sách Phật Giáo do bà Alexandra David – Neel và W. Y. Evans – Wentz phiên dịch, ông lý luận rằng những phương pháp luyện tâm và tin vào những hiện tượng tâm lý cũng như thuyết tái sinh của người Thổ Dân Úc “chỉ có thể được hiểu dưới ánh sáng Đông Phương”. Như vậy huyền học Thổ Dân Úc đã không phát triển một cách độc lập mà đã xuất hiện như một phần của sự truyền bá văn hóa Ấn Độ trong khu vực. Ở giữa những ý kiến táo bạo hơn cho rằng có những tranh vẽ trên đá của người Thổ Dân Úc mô tả Đức Phật, thuyết của Elkin có lẽ không quá xa xôi một chút nào cả. Vì vậy, có thể lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu đã bắt đầu từ lâu hơn là bất cứ nhà nhân chủng học và sử học nào dám tưởng tượng, trừ vài người táo bạo. Tuy nhiên vì bằng chứng cụ thể đó có tính cách suy luận nên điều này chỉ có thể là một giả thuyết hấp dẫn mà thôi.
Theo lời những bài hát của người Thổ Dân Úc thì các thương gia người Macassar ở Nam Dương, được xem là đã tiếp xúc sớm ít nhất là trong thế kỷ mười bảy, chỉ đến sau một giống người có màu da nhạt hơn có tên là “Baijini”, thiết lập một nền nông nghiệp tạm thời ở Arnhem Land. Những tranh vẽ trên vỏ cây cho thấy những chiếc tàu rất khác tàu của người Macassar đang thả neo. Sự tiếp xúc ban đầu với người Á Châu này chỉ được mô tả một cách mờ nhạt, nhưng từ lâu người ta đã nghĩ rằng các nhà hàng hải từ các xứ khác nhau có thể đã dễ dàng đổ bộ lên bờ biển miền Bắc Úc. Các thủy thủ xứ Gujerat, miền Tây Ấn Độ, mà trong số đó ắt có nhiều người theo Đạo Phật, đã thiết lập trước hết liên hệ thương mại với bán đảo Java vào năm 75 Tây lịch, trong khi một truyền thuyết ở Nhật Bản nói rằng một nhà phiêu lưu Samurai thuộc đầu thế kỷ mười bảy là Yamada Nagamasa đã đi xa hơn quần đảo Nam Dương xuống hướng Nam. Tuy nhiên, những chiếc tàu có khả năng đổ bộ Úc Châu nhất đó là tàu của người Trung Hoa, những chiếc thuộc hạm đội lớn của Đô Đốc Cheng Ho. Trong khoảng thời gian từ năm 1405 đến năm 1433, các hoàng đế nhà Minh rất chú ý đến việc thám hiểm đường biển. Những chuyến hải hành lớn của họ bao gồm không dưới sáu mươi hai chiếc tàu lớn. Trong số đó có những chuyến đi đến quần đảo Aru, cách Arnhem Land 480 km về hướng Bắc vào khoảng năm 1408 và một lần nữa khoảng năm 1414.
Bằng chứng cụ thể về sự có mặt sớm của người Trung Hoa là những mảnh sứ và một bức tượng cao 13cm. Tuy nhiên, người ta không đồng ý với nhau là bức tượng Ông Thọ (Shou Lao/ the spirit of longevity) này có thể được xem là cùng thời với đô đốc Cheng Ho hay không. Bức tượng được ông Strawbridge thuộc bộ Công Chánh Úc tìm thấy ở gần hải cảng Darwin (Bắc Úc) năm 1879. Ông Strawbridge nói rằng bức tượng ở sâu dưới đất một thước, nằm ở giữa những rễ của một cây đa già (banyan). Russel Ward viết rằng chính cây đa này là bằng chứng của sự liên hệ với Á Châu vì trước đó Úc Châu không có giống cây đa, mà người Trung Hoa thì thường lập những cái miếu nhỏ ở dưới gốc những cây đa già. Nhưng đồng thời cũng có những ý kiến khác, Geoffrey Blainey cho rằng bức tượng Ông Thọ làm bằng loại đá steatite mịn không thể bền đến 450 năm trong điều kiện như vậy. Có lẽ bức tượng đã được các thương gia Macassar hoặc người Trung Hoa đưa đến Úc trong thế kỷ mười chín, dù điều này không giải thích được tại sao nó bị chôn ở dưới đất, và rồi sau đó không được ai nhận quyền sở hữu.
Có thể nói những tín đồ Phật Giáo đầu tiên đến Úc Châu là vào năm 1848, và họ là một nhóm công nhân người Trung Hoa. Tôn giáo phổ thông của Trung Hoa là một loại tín ngưỡng thờ những vị thần được ghép thêm những tín ngưỡng khác của Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo. Người Trung Hoa mang theo với họ một thứ tín ngưỡng pha trộn, không có sự phân biệt rõ rệt và chỉ với một chút ảnh hưởng của Phật Giáo. Ở Trung Quốc, những người tự nhận mình là người Phật tử có lẽ không đến một phần trăm dân số. Đa số thỏa mãn với hình thức “mão Khổng Giáo, áo Lão Giáo và hài Phật Giáo", (a Confucian crown, a Taoist robe and Buddhist sandals) và khi được hỏi thì họ khó trình bày về đạo của mình. Thí dụ một người Hoa ở Darwin chỉ nói: “Đạo của tôi cũng giống như ở Trung Quốc”. Vì vậy trong tờ thống kê của chính phủ Úc, những người Hoa nào không phải là tín đồ Ca Tô Giáo thì đều được xem là theo “Phật Giáo/Khổng Giáo”.
Người ta được biết rất ít về đời sống tôn giáo của người Hoa ở Úc Châu trong thế kỷ XIX. Họ giống như một loài chim di trú, chỉ ở lại một nơi khoảng năm năm, và như vậy họ không có ý định hòa nhập vào cộng đồng địa phương, do đó ảnh hưởng của họ không lớn, và những điều ghi nhận về họ cũng không có nhiều. Ngay cả những đền miếu ở đâu cũng có của họ cũng thường chỉ có tính cách tạm thời. Ở khắp các tiểu bang miền Đông, đền miếu của họ chỉ là những cái lều hay những kiến trúc thô sơ bằng gỗ, và thường có tính cách thương mại. Trong công việc đào vàng khó nhọc, nhiều người vui lòng chịu tốn tiền cúng cho các vị Thần mong các Ngài phù hộ để được gặp may mắn. Những ngôi đền được thiết lập lâu dài hơn thường là những công trình phụ của các hội từ thiện hay các hội bí mật. Thí dụ, đền Nam Melbourne (South Melbourne temple) đã được hội Sze Yap xây dựng năm 1856. Theo một bài trong tờ báo “Australian Sketcher” năm 1875 thì “những buổi lễ cúng kiến ở ngôi đền này thường được các thương gia tổ chức, những người hay cầu nguyện Đức Phật, vào những thời gian đã được định sẵn mỗi năm, dự lễ ở đền mặc áo dài lụa Trung Hoa sang trọng, cúng tế và cầu Phật ban phước”.
Có một thiểu số người Hoa ở Úc tự xem mình là tín đồ Phật Giáo, nhưng không có gì cho thấy tranh tượng Phật là một thành phần trong tôn giáo của đền thờ ở đây. Vị Thần trung ương trong đền Nam Melbourne có lẽ là Ngài Quan Công (Kuan Kung), một viên tướng được phong làm Thần Chiến tranh và Công lý, hoặc Thần Tài (Tsai Shen). Cả hai vị này đều không liên quan gì đến Phật Giáo, dù có những lúc các vị Thần phổ thông như vậy được thay thế bằng các hình tượng Phật Giáo. Chẳng hạn, người ta thấy có tượng Bồ Tát Quan Âm (Kuan Yin) trong đền Nam Melbourne vào năm 1883, và người ta nghĩ rằng những vị khác như Phật A Di Đà (Amitabha) và Phật Di Lặc (Mi Lo/Maitreya) cũng có thể được thờ phụng. Cách trang hoàng cầu kỳ trong những ngôi đền được thiết trí vững chắc thường là bàn thờ kiểu Phật Giáo, chữ Vạn, và cả những lá cờ in những câu thần chú của Phật Giáo.
Việc bói toán phổ thông và việc tổ chức cúng tế thường được vị thủ từ (temple attendant) phụ trách. Tất nhiên không phải là tu sĩ, người này được chỉ định làm công việc quản lý đền, thường là luân phiên với những người khác. Người ta không thấy có tu sĩ Trung Hoa nào đến Úc Châu để đảm nhiệm một công việc gì, và chắc chắn G. C. Bolton đã lầm lẫn khi ông viết rằng “một tu sĩ Phật Giáo" đến sống ở Herbert, miền Bắc Queensland vào năm 1886 để đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng người Java ở đó. Nếu có những tu sĩ Phật Giáo nào ở đảo Java trong thế kỷ mười chín thì họ phải là một số ít, và hầu như không có lý do gì để họ đi đến miền Bắc Queenland để phục vụ cộng đồng người Java Hồi Giáo.
Người Hoa ở Úc được gọi là “những người cõi trên” (celestials) đã xây đền miếu của họ trong một khung cảnh nghi ngờ và thù địch, không thuận lợi cho việc giao tiếp văn hóa. Bóng ma “hiểm họa da vàng” đã phát khởi, và sự bài ngoại của người da trắng đã loại bỏ mọi ý định đối thoại thực sự. Có người xem việc xây đền Nam Melbourne là “bằng chứng của một kế hoạch khổng lồ và thâm hiểm để phá hoại Ca Tô Giáo”. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có những người biểu lộ sự thông cảm, thí dụ như một ký giả của tờ “Queenslander” viết những lời bóng bẩy và với giọng bề trên về ngôi đền Brisbane: “Ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi, ở trên bàn thờ Phật cũng như ở trong nhà thờ Ca Tô giáo”. Khi số người Hoa sụt giảm và trong số những người còn lại có nhiều người theo Ca Tô giáo thì tôn giáo Trung Hoa ở Úc lâm vào tình trạng suy thoái. Đền miếu không được tu bổ, và là mục tiêu của bọn trộm cắp nhiều hơn trước. Cho đến nay, những ngôi đền ở hầu hết những thành phố lớn được xem là có tính chất tín ngưỡng phổ thông của người Trung Hoa, và có một mối liên hệ rất xa với Phật Giáo.
Những người nhập cư Nhật Bản và Tích Lan thường tự xem mình là tín đồ Phật Giáo thuần túy. Có lẽ những người Nhật đầu tiên ở Úc Châu là một nhóm người làm trò xiếc đi lưu diễn vào năm 1867. Giống như người Tích Lan, từ cuối thập niên 1870 trở đi có nhiều người Nhật hoạt động trong kỹ nghệ ngọc trai ở suốt miền Bắc Úc Châu. Một thí dụ là ở Thursday Island (tiểu bang Queensland) vào giữa hai thế kỷ 19 và 20, đã có 3.600 người Nhật vượt qua số người gốc Âu Châu ở đó. Tài năng của những người thợ mò ngọc trai làm cho chính sách Úc Châu Da Trắng phải tránh can thiệp vào kỹ nghệ này, và những người Nhật có hợp đồng lao động được phép nhập cảnh Úc Châu cho đến năm 1941. Vì vậy, những cộng đồng nhỏ người Nhật ở Broome, Darwin, và Thursday Island có nghĩa trang Phật Giáo và tổ chức những nghi lễ Phật Giáo. Mỗi năm, người Nhật cử hành lễ Vu Lan với sự tham dự của toàn thể cộng đồng, đặc biệt là ở Broom, cảnh tượng mới lạ này đã hấp dẫn cả những người du lịch cũng như người bản xứ.
Năm 1982, các nhóm Phật Giáo Theravada làm lễ kỷ niệm một trăm năm Phật Giáo Tích Lan ở Úc Châu. Thật ra ngay từ năm 1870 đã có những người Tích Lan làm ở những đồn điền mía ở Queensland và cộng đồng Phật Giáo Tích Lan được xem là đã có trễ nhất cũng từ năm 1876. Năm 1882 được chọn để kỷ niệm có lẽ vì lý do sau đây: Khoảng 500 người Tích Lan rời thủ đô Colombo của xứ này để đi đến những đồn điền ở miền Bắc Queensland, Úc Châu. Có lẽ đây là đoàn người Tích Lan đầu tiên tự nguyện đi khỏi xứ sở của mình để sinh sống ở xứ khác. 275 người đến bến Mackay ở Queensland ngày 16 tháng 11, còn những người khác thì đến Burnett hai ngày sau đó. Ở đây họ bị ngăn cản không được lên bến để đi đến Bundaberg bởi 50 người thuộc Đoàn Chống Cu Li (Anti-Cooli Leaguers) liệng đá vào họ. Những gì tiếp diễn sau đó đã được gọi là “Trận Burnett” khi những lời thóa mạ lẫn nhau đưa đến bạo động, với những người Tích Lan rút dao đánh đuổi phe kia. Không bao lâu sau đó, đa số những người Tích Lan này bỏ việc vì đồng lương quá thấp, nhưng một số vẫn ở lại vùng này. Có lẽ đã có những người Tích Lan mang theo kinh sách Phật Giáo vì người ta tường thuật rằng một người tên là Bastian Appi đã tuyên thệ với một cuốn “Kinh Phật Giáo" (Buddhist Bible) ở một tòa án ở Mackay năm 1885 khi kiện một người Úc về tội hành hung.
Chắc chắn nhiều người Tích Lan trong số này đã tìm đến đảo Thursday với một cộng đồng Phật Giáo nhỏ đang được thành lập ở đó. Cộng đồng này đạt đỉnh cao trong thập niên 1890, khi có khoảng 500 người Tích Lan. Họ trồng hai cây Bồ đề được xem là hậu duệ của cây Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo. Hai cây Bồ đề này hiện nay vẫn còn sống, nhưng ngôi chùa nhỏ mà họ đã xây dựng thì không còn nữa. Những ngày lễ như lễ Phật Đản (Vesak Day) được cử hành nghiêm trang, và theo ông Peter Warnakulasuriya (sinh năm 1888) thì vào đầu thế kỷ 20 có một tu sĩ Phật Giáo đến hòn đảo này để trụ trì ngôi chùa, nhưng khi “Đạo Luật Hạn Chế Nhập Cư” (Immigration Restriction Act) được ban hành năm 1901 thì cộng đồng này dần dần tan rã, theo đúng như một chân lý Phật Giáo được ghi trên một tấm bia đá ở đảo Thursday: “Sable sankhara anicca” có nghĩa là “Các pháp hữu vi đều vô thường”.
Ít nhất là một trong những gia đình Tích Lan này đã ở lại Queensland và vẫn giữ đạo Phật, chịu đựng được áp lực mạnh và sự khuyến dụ theo Ca Tô Giáo. Trong nhiều năm gia đình Mendis bán kinh sách Phật Giáo ở tiệm kim hoàn của họ, và đã xây Chùa Phật Giáo Brisbane năm 1982. Một nhà kim hoàn khác, được xem là người giàu nhất ở Broome, Tây Úc có lẽ là tín đồ Phật Giáo độc nhất ở Úc Châu còn giữ được bản sắc dân tộc trong những năm giữa thế chiến thứ I và thế chiến thứ II, đó là Tudagala Badalge Ellias, còn được người địa phương gọi là T. B. Ellies. Ông này đến Broome năm 1888, và trong hơn bốn mươi năm được xem là chuyên viên rửa ngọc trai giỏi nhất thế giới. Ông có tài loại bỏ những vết bẩn trên ngọc trai đến mức trong hai giờ làm việc ông có thể kiếm được một trăm bảng Anh thời đó. Năm 1917 ông cúng dường tài chánh để xây dựng một tu viện ở Bope, quê hương của ông, gần thành phố Galle. Với giá mười ngàn bảng Anh, phần bên trong của ngôi tu viện được làm bằng gỗ lim trắng, có một pho tượng Phật bằng bạc ròng nặng 306 kg, do chính Ellies đúc. Là một nhân vật huyền thoại, những điều về ông được ghi nhận trong tất cả những sách báo viết về kỹ nghệ ngọc trai và về thành phố Broome.
Năm 1911, không kể những người theo “tôn giáo Trung Hoa”, có 3269 người khai tôn giáo của mình là Phật Giáo. Chúng ta chỉ có thể đoán là con số này phải cao hơn trong những năm cuối thế kỷ mười chín. Trong giai đoạn giữa hai thế chiến, số người Phật Giáo giảm dần cho đến con số thấp nhất 411 người năm 1947. Chắc chắn những tín đồ Phật Giáo tự nhận này là những người Trung Hoa và Tích Lan đã ở lại Úc, những người Nhật làm nghề ngọc trai, và có lẽ cả một ít người có cảm tình với Thông Thiên Học (Theosophy).
Vào năm 1891, ba năm sau khi xảy ra những vụ biểu tình bài ngoại chống người Trung Hoa, có lẽ đó là sự kiện tệ hại nhất trong lịch sử Úc Châu, Đại Tá Henry Steel Olcott, đồng sáng lập viên của Hội Thông Thiên Học, và là tín đồ Phật Giáo, đến Úc để diễn thuyết về minh triết Đông Phương. Nhiều thính giả của ông sẵn sàng tin rằng có lẽ Á Châu có nhiều lời giải đáp có thể lấp được hố sâu phân cách giữa khoa học và tôn giáo. Có thể còn có những người đồng ý với Gilbert Elliot, hội viên Thông Thiên Học đầu tiên của Úc Châu, trong bài báo viết về cuốn “Esoteric Buddhism” (Mật tông Phật Giáo) của A. P. Simmett năm 1883 đã nói rằng “người Âu Châu hầu như không biết gì về con người thực sự được cấu tạo với những thể siêu vật chất”. Phong trào hướng về Đông phương huyền bí và quan tâm đến Phật Giáo như một sự thay thế cho Ca Tô Giáo góp phần tạo nên một sự sôi động về văn hóa và tôn giáo. Phần tư cuối cùng của thế kỷ 19 là một thời kỳ không giống thời đại của chúng ta ngày nay. Lúc đó các thành phố ở Úc Châu, có đầy những người thuộc các phái Siêu Nghiệm, Tâm Linh Học, Thông Thiên Học, và phái chống lại việc giải phẫu những con vật để thí nghiệm. Chủ nghĩa lý tưởng trước 1974 không có nhiều thời giờ cho cái được xem là sự bảo thủ đến mức nhàm chán của giáo hội Anh Giáo. So với thời kỳ này thì những năm giữa hai thế chiến có vẻ rất buồn tẻ, và như Jill Roe kết luận trong cuốn sách của bà về Thông Thiên Học ở Úc, điều này cho thấy rõ ràng “phong trào đối kháng văn hóa truyền thống có lịch sử dài hơn là chúng ta tưởng”.
Có thể nói thành tố Phật Giáo trong phong trào rộng rãi này có nguồn gốc là tình cảm của những người thuộc phái Tâm Linh Học dành cho các tín đồ Phật Giáo Tích Lan sau cuộc “Tranh Luận Lớn Panadura” năm 1873 giữa các nhà truyền giáo Ca Tô Giáo và một tu sĩ Phật Giáo. Tiến sĩ J. M. Pecbles thuộc hội Tâm Linh Học Mỹ đã ghi lại và xuất bản cuộc tranh luận này, và theo tạp chí “Harbinger of Light” của hội Tâm Linh Học Úc thì ông cho rằng “các xứ Phật Giáo có trình độ đạo đức cao hơn và có những hoạt động từ thiện hơn là những xứ Ca Tô Giáo”. Những lời này không chỉ là sự biểu lộ tình cảm đầu tiên dành cho Phật Giáo được đăng trong một tạp chí Úc, mà còn là quan điểm của vị chủ bút tờ tạp chí đó, W. H. Terry, được xem là “một người chữa bệnh bằng từ lực” và “nhà nghiên cứu dược thảo có tuệ nhãn”. Không bao lâu sau đó, tiệm sách Tâm Linh Học của ông ở đường Russell, Melbourne, đã chứa đầy những cuốn sách Phật Giáo nào có thể có được, trong đó có Kinh Pháp Cú, Lịch sử Đức Phật, và cuốn đầu tiên trong loạt sách của Max Muller, “Kinh Điển Phật Giáo" xuất bản năm 1879.
Những tác phẩm này và những cuốn sách của Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali ở Luân Đôn mới được thành lập năm 1881 đã tạo ra sự chú ý đến Thông Thiên Học, cũng như mở rộng rất nhiều ý thức về lịch sử của người dân Úc, nhưng nếu có một cuốn sách nào gây sự chú ý rộng rãi đến Phật Giáo thì đó là cuốn sách rất phổ thông của Sir Edwin Arnold nói về cuộc đời và giáo lý của Đức Phật “The Light Of Asia” (Ánh sáng Á Châu). Dù ngày nay cuốn này có vẻ quá hoa mỹ và có một số điểm không chính xác, lẫn lộn một số điều của Ấn Giáo và triết lý Phật Giáo, nhưng Arnold đã thành công trong việc giải trừ nhiều ý kiến thời đó cho rằng Phật Giáo có tính chất hư vô chủ nghĩa, và ông tin tưởng vững chắc rằng “lẽ nào một phần ba nhân loại tin vào sự trừu tượng trống không, hay tin rằng hư vô là nguyên nhân và kết thúc của sự sống”. Trong tạp chí “Harbinger of Light”, ở mục điểm sách, khi nhận xét tác phẩm này, C. W. Rohner viết rằng “Đức Phật của Ấn Độ không những xưa hơn năm trăm năm, mà ở nhiều điểm lại còn vĩ đại hơn và ít dao động hơn Chúa Jesus của chúng ta”.
Tuy nhiên, bản thân Đức Phật không phải là nguyên nhân chính của phong trào hướng về Đông Phương này. Phái Tâm Linh Học (Spiritualism) là những người đầu tiên trong nhiều người đã nhắm vào Phật Giáo, vốn được xem là duy lý và hợp với khoa học, để dùng làm một thứ vũ khí chống lại Ca Tô Giáo chính thống. W. H. Terry, người cổ động hàng đầu của Phật Giáo ở Úc Châu trong thập niên 1880, tuyên bố “sự cứu chuộc từ Ca Tô Giáo mù quáng đến Phật Giáo duy lý”. Phái Tâm Linh Học tự cho mình là duy lý và khoa học, tất nhiên đã chú ý đến Kinh Kalama, triết lý của cuốn kinh này đã được giải thích trong cuốn “Buddhist Catechism” (Phật Giáo Vấn Đáp)của H. S. Olcott. Trong kinh này Đức Phật dạy rằng không nên tin những điều gì theo truyền thống hay do một vị Thầy nào đó truyền dạy, mà chỉ tin sau khi đã xét bằng lý trí và kinh nghiệm của mình. Có lẽ điều này giống như một thứ thuốc bổ, và với sự bảo đảm của Arnold, các nhà diễn thuyết Tâm Linh Học Úc bắt đầu so sánh Niết Bàn với Thiên đường: “Niết Bàn, như một số người hiểu lầm, không phải là chấm dứt hiện hữu, mà là lần đầu tiên thực sự hiện hữu” (Nirvana, as some vainly imagine, is not to cease to be, but for the first time to really be). Tuy nhiên, khi được biết về thuyết vô ngã, “anatta”, họ đã lùi lại, vì không chịu nổi ý tưởng “sự hiện hữu không có linh hồn” (an existence without a soul).Nhưng những người Tâm Linh Học vẫn phải được xem là đã đắp con đường cho Thông Thiên Học, và do đó cho Phật Giáo Tây Phương.
|
|
Ít nhất thì Emma Layman cũng đã có lý một phần khi cho rằng Phật Giáo Hoa Kỳ bắt đầu có từ khi Hội Thông Thiên Học được thành lập ở New York vào năm 1875. Sau này Thông Thiên Học đã đi theo hướng khác với lúc ban đầu. Lúc đó hai nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học là Helena Petrova Blavatsky (1831-1891) và Henry Steel Olcott (1832-1907) có quan niệm thường được xem là đã tuyên dương Phật Giáo như một thứ vũ khí chống lại Ca Tô Giáo. Thí dụ, bà Blavatsky đã viết về “hậu quả điên cuồng của giáo lý Tin Lành” (the maddening effect of Protectantism),và Đại Tá Olcott nói về Ca Tô Giáo như “địch thủ lớn của chúng ta” (our great enemy).Sự ra đời của Hội Thông Thiên Học chính yếu là kết quả của việc những người Tâm Linh Học được gặp Phật Giáo và những triết lý tôn giáo khác của Ấn Độ. Họ tìm thấy một hệ thống tư tưởng bao quát có khả năng cung cấp một cái gì sâu xa hơn giáo lý Tin Lành mà lại không đối nghịch với khoa học. Theo Olcott, những lời dạy của Đức Phật trong Kinh Kalama có đủ những điều kiện này. Ông viết: “Tôi là người theo Phật Giáo, vì trong Phật Giáo không có một chút chủ thuyết nào cả, nếu có thì tôi sẽ bỏ Phật Giáo ngay ngày mai” (I am a Buddhist, because there is no scrap of doctrine in Buddhism. If there were I would give it up tomorrow).Bà Blavatsky nói rằng ý tưởng thành lập Hội Thông Thiên Học không phải của bà mà là của các vị chân sư Tây Tạng mà bà đã theo học và vẫn còn truyền thông liên tục. Bà viết: “Phật Giáo Bắc Tông dạy tất cả những gì mà ngày nay được gọi là giáo lý Thông Thiên Học. Thông Thiên Học đã được trình bày bằng những từ ngữ Phật Giáo, và trong một thời gian đã được xem là đồng nghĩa với “Phật Giáo Bí Truyền”, vì “Phật Giáo vẫn giữ được sự thân cận với giáo lý bí truyền hơn bất cứ một tôn giáo phổ thông nào khác”. Năm 1888, bà viết: “Ngay cả Phật Giáo công truyền cũng là con đường chắc chắn nhất đưa người ta đến chân lý bí truyền duy nhất”.
Bà Blavatasky và Đại Tá Olcott không phải là những người tự nhận mình là tín đồ Phật Giáo. Vào tháng 5 năm 1880, ở Tích Lan hai vị đã làm lễ quy y. Như vậy, có lẽ họ là những Phật tử Tây Phương đầu tiên kể từ khi người Hy Lạp ở thành phố Gandhara, Ấn Độ trở thành những tín đồ Phật Giáo một cách chính thức. Tất nhiên, thực sự hai vị thuộc hạng người Phật tử nào thì đó là chuyện khác, dù họ có vẻ không có những động lực thầm kín nào cả. Olcott là người thích du lịch khắp nơi và đã hiến thân cho lý tưởng Phật Giáo, bênh vực cho công cuộc phục hưng Phật Giáo ở Tích Lan bằng cách tranh đấu cho quyền bình đẳng tôn giáo và thành lập những trường học Phật Giáo ở Á Châu nói chung, và trong nhiều năm đã cố gắng tái lập sự thống nhất của tôn giáo này. Ngày nay, ngày tưởng niệm Olcott vẫn còn được cử hành một cách trọng thể ở Tích Lan (Sri Lanka), nơi ông được xem như một vị Bồ Tát (Bodhisattva) giúp khôi phục tín ngưỡng của họ sau nhiều thế kỷ ở trong bóng tối thuộc địa Anh quốc. Mặc dù bà H. P. Blavatsky chịu nhiều sự công kích của báo chí, hai vị đã là những người mở đường thênh thang cho Phật Giáo, vì người ta cần phải xét đến nỗ lực của họ thì mới có thể hiểu lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu.
Lần đầu tiên người Úc được biết đến Thông Thiên Học là do cuộc du hành diễn thuyết của một hội viên Hội Thông Thiên Học người Mỹ, Emma Harding Britten, vào năm 1878. W. W. Terry gia nhập Hội ngay sau đó và dùng tờ báo của mình làm diễn đàn trình bày tư tưởng Thông Thiên Học. Tâm Linh Học cung cấp đoàn thể hội viên chính yếu cho Hội Thông Thiên Học. Jill Roe nhận thấy hội viên Thông Thiên Học Úc tiêu biểu là người gốc Ca Tô Giáo và Tin Lành, đã trải qua một thời kỳ bất khả tri (agnostic), và sau đó là một thời kỳ chú ý đến Tâm Linh Học trước khi gặp Thông Thiên Học. Tuy nhiên, chi hội đầu tiên của Hội Thông Thiên Học quốc tế chỉ được thành lập vào năm 1889 ở Tasmania. Hội Thông Thiên Học Melbourne được thành lập một năm sau bởi Elise Pickett, một người Nga mới đến từ New Zealand, và theo Jill Roe thì bà này tự nhận mình là Phật tử. Nếu quả thật như vậy thì Elise Pickett rất có thể là “tín đồ Phật giáo da trắng” đầu tiên đặt chân lên Úc Châu.
|
Như vậy có lẽ Đại Tá Olcott là người thứ hai. Vào đầu năm 1891, ông đi khắp nước Úc để diễn thuyết trong mấy tháng, đặc biệt về “Thông Thiên Học và Phật Giáo". Ông nói rằng mục đích chính yếu của Thông Thiên Học là truyền bá triết lý Phật Giáo mà ông cho là có tính cách duy lý và do đó rất thích hợp với những người có tư tưởng tự do. Trong một cuộc phỏng vấn của tờ “Daily Telegraph” ông tuyên bố Phật Giáo là “một hệ thống tâm lý học hoàn hảo có từ thời cổ” (a perfect system of psychology dating back to antiquity).Là diễn giả đầu tiên từ nước khác đến truyền bá Phật Giáo một cách có hiệu quả, Olcott nhận thấy người Úc là những thính giả rất đáng kính và sẵn lòng nghe diễn thuyết. Ông thấy họ “đơn giản”, nhưng cũng có rất nhiều “thiên hướng và khả năng huyền bí”. |
Cuộc viếng thăm của Đại Tá Olcott chỉ gây ra một phong trào nhỏ, nhưng không có tính cách cuồng tín một chút nào. Jill Roe đưa ra những số liệu thống kê ở Victoria cho thấy Hội Thông Thiên Học bao gồm những phụ nữ trí thức thuộc nhiều tín ngưỡng, tiếp theo là những thành phần có học thuộc nam giới, và sau đó là những người vô thần. Như vậy, Thông Thiên Học có những hội viên thuộc hạng người có tư tưởng cao nhất của thời đại, chỉ có điều con số hội viên nhỏ không nói lên được sự tác động đáng kể của Thông Thiên Học lên văn hóa Úc. Đi đến đâu Olcott cũng mang theo mình bức thư giới thiệu của một cựu tổng thống Hoa Kỳ, và ông rất thích khi thấy Thông Thiên Học Úc Châu được sự chú ý của những người thuộc giai cấp thượng lưu, thí dụ như ông đã dự tiệc với thống đốc tiểu bang New South Wales và đến thăm ngôi nhà Nhật Bản của Thẩm Phán Paul thuộc tòa án thành phố Brisbane. Chuyến du hành diễn thuyết của Đại Tá Olcott cho thấy rõ phong trào thời thượng lúc đó là thích tất cả những gì lãng mạn liên quan đến “Đông phương huyền bí” (Mystic East),kể cả các giáo sĩ, như Olcott đã viết trong hồi ký của ông: “Ngày 17 tháng 5, ở Melbourne, tôi được hưởng một một niềm vui hiếm có là nghe một giáo sĩ Ca Tô Giáo, Mục Sư Tiến Sĩ Buchanan, thuyết giảng trước 1500 thính giả về “Phật Giáo và Ca Tô Giáo”, ca tụng Hội của chúng ta. Tôi nghĩ người xưa đã nói không sai “không bao giờ thiếu phép lạ!”. ( On the 17thMay, at Melbourne, I enjoyed the rare pleasure of hearing a Christian clergy, the Rev. Dr. Buchanan, in preaching to an audience of 1500 people on “ Buddhism and Christianity”, praise our Society. Well, I thought, the old saying is true – wonders will never cease !)
Tờ The Ageở Melbourne viết rằng trong thời đó có sự không thỏa mãn về tâm linh, vì vậy người Úc nói chung cảm thấy là họ có thể “học được nhiều điều từ các nhà hiền triết Đông Phương, mà từ xưa đến giờ một nửa nhân loại đã hầu như không được biết đến trí huệ của các Ngài”. Một ký giả khác của tờ The Age, Alfred Deakin lúc đó mới từ Ấn Độ trở về, có lẽ cũng đồng ý như vậy: là một hội viên năng động của Hội Thông Thiên Học, ông đã chủ tọa những buổi diễn thuyết của Olcott ở Melbourne.
|
|
|
Về nhiều mặt, Alfred Deakin (1856–1919), đã thu tóm được tinh thần của thời đại. Về sau ông làm thủ tướng nước Úc ba lần. Manning Clark xem Deakin là một anh hùng vĩ đại của Úc Châu (dù ông thuộc phái tư sản tự do) vì ông đã “có can đảm đối diện câu hỏi:nếu Thượng Đế đã chết thì điều gì xảy ra?” (If God is dead, what then?).Nói cách khác, ông đã có can đảm đối diện với cái mà Manning Clark gọi là “vương quốc hư vô” (Kingdom of nothing).Lúc còn nhỏ, cũng giống như nhiều người khác cùng thế hệ, óc tưởng tượng của ông đã được kích thích bởi xứ Ấn Độ và bởi tất cả những gì kỳ lạ của Đông Phương. Ông luôn luôn ưa thích “huyền học”,và vào năm 1878, là năm ông đọc cuốn “Isis Unveiled” (Gỡ Bỏ Tấm Mạng Của Nữ Thần Thiên Nhiên Isis) của bà H. P. Blavatsky, ông trở thành chủ tịch của Hội Tâm Linh Học Melbourne. Người viết tiểu sử của ông là J. A. La Nauze bình luận một cách quá đáng rằng “có lẽ ở tuổi hai mươi hai ông nên chú tâm chơi môn criket thì hơn”. Có thể người ta không ngạc nhiên khi thấy rằng những người chú ý đến sự nghiệp chính trị của Deakin đã khó dung hòa phương diện này với phương diện tôn giáo của ông, vì chính ông cũng khó làm được như vậy. Ông có hai đời sống rất khác nhau, đời sống chính trị thời Victoria vào ban ngày và “Phật Giáo Bí Truyền” vào ban đêm. Ông đọc nhiều về Phật Giáo, triết học Vedanta của Ấn Giáo, và Thông Thiên Học, và luôn luôn bị tác động bởi “sự phô diễn rẻ tiền, lòe lẹt, và dễ dãi của đời sống phàm tục”. Về Ca Tô Giáo, ông viết: “Tôi không chống Ca Tô Giáo về mặt tôn giáo, mà chỉ chống lại giới giáo sĩ, giáo điều, và sự không khoan dung” (What I detest is not religion but priestcraft, dogma and intolerance). Ông là người có bản tính trung dung, và luôn luôn sợ “người có thế lực uy hiếp những người nào tin vào sự huyền bí ở trong lòng vạn vật”.
Từ tháng 11 năm 1890, Deakin viếng thăm Tích Lan và Ấn Độ trong ba tháng. Sau đó ông viết cuốn “Đền Chùa Và Lăng Tẩm Ở Ấn Độ” (Temple and Tomb in India),trong đó có ba chương dành cho Phật Giáo. Về Đức Phật, Deakin viết: “Lòng từ bi vô lượng của Đức Phật đã chắp cánh cho những lời dạy của Ngài, và làm cho Ngài trở thành vị chúa tể của mọi sinh linh”.(It was an all-pervading pitym an infinite tenderness, and boundless compassion, which winged the words of the Buddha Gautama and made him a sovereign of souls).Phật Giáo là “thánh kinh sinh ra trong thiền định”, làm cho người Ấn Độ được phong phú, và ban cho những cộng đồng dân chủ ở giữa một xã hội phong kiến”. Ông than thở vì sự suy tàn của tinh thần này:
“Ở khắp nơi Phật Giáo đang bị mất bản sắc của mình. Tín đồ Phật Giáo đang bị lôi cuốn bởi những tín ngưỡng mạnh hơn, thô kệch hơn và kích thích hơn. Chắc chắn đó là vì khởi thủy Phật Giáo là một niềm tin mà cũng là một sự nghi ngờ - một triết lý hơn là một tín điều”. (Everywhere Buddhism is losing its identity, and its followers are being merged in other stronger, coarser, and more stimulating creeds. This is doubtless because, it was in its origin almost as much a doubt as a belief – a philosophy rather than a creed).
Nhận xét rất hay này làm cho ông tin rằng Schopenhauer và các nhà nghiên cứu Phật Giáo người Tây Phương khác đã có may mắn nắm được tinh túy của tôn giáo này nhiều hơn là đa số người Á Châu, do không sống trong tầm ảnh hưởng của Ấn Giáo trong nhiều thế kỷ. Giống như Olcott, Rhys Davids, và các nhà Đông Phương học khác của cuối thế kỷ 19, Deakin cũng phấn khởi với triển vọng Phật Giáo đích thực sẽ được khôi phục. Tuy nhiên, ông có một sự thông cảm nào đó dành cho Phật Giáo đương thời ở Á Châu, vì “chắc chắn là đối với một tín ngưỡng có ý nguyện hiền lành và tốt như vậy, những sự thái quá và những sự thiếu hụt cần phải được tha thứ”. (surely to a creed so gentle and good in its aspirations much extravagance and much failure must be forgiven).
Khi trở về Melbourne, Alfred Deakin hoạt động mạnh trong Hội Thông Thiên Học, và lập một chi hội có chỗ hội họp là nhà của ông ở South Yarra. Tuy nhiên, phương diện đời sống này về sau đã phần nào gây khó khăn cho việc bầu cử của ông, khi báo chí châm biếm ông là “người ma” và “cựu Tâm Linh Học, cựu tín đồ Phật Giáo, cựu hội viên Thông Thiên Học”. Có lẽ một phần vì việc này mà ông đã rời khỏi Hội Thông Thiên Học vào năm 1896, sau khi viết thư cho Đại Tá Olcott về “tính cách khó hiểu” của bà Blavatsky. Sau đó ông trở nên u uất, và ông viết trong nhật ký là mình cảm thấy “trống rỗng” (empty) một cách lỳ lạ. Theo Manning Clark thì ngay cả khi chiến thắng trong chính trị ông cũng bị dằn vặt bởi ý nghĩ cho rằng sự trống rỗng của con người bên trong tương ứng với sự trống rỗng của xã hội bên ngoài. Đến một mức độ nào đó, ông đã chịu ảnh hưởng của xã hội xung quanh, nơi tiền bạc ngự trị, và đời sống tâm linh thường bị xem là một sự sai lầm. Rốt cuộc Thông Thiên Học cũng như Phật Giáo của ông có lẽ đã bị thiếu sự thực hành. Người ta cũng có thể đặt câu hỏi là những cảm tình dành cho Phật Giáo có ảnh hưởng gì đến chính trị của ông hay không, vì chính Deakin là người đưa ra Luật Hạn Chế Nhập Cư vào năm 1901. Nhưng có điều lạ là ở giữa sự phân biệt chủng tộc thô kệch nhất, ông cũng khen ngợi người Á Châu khi nói rằng “những khả năng cao và phẩm chất tốt của những người ngoại chủng này làm cho họ nguy hiểm đối với chúng ta” (good qualities of these alien races that make them dangerous to us). Như vậy ông chỉ sợ sự cạnh tranh về kinh tế, vì ông đã quá quen thuộc với văn hóa Đông Phương để tin vào sự siêu đẳng vốn có của người Âu Châu. Có lẽ việc nghiêng về một Úc Châu Da Trắng là không thể tránh được, và ít nhất Deakin cũng đã đưa ra được một lý lẽ cho khuynh hướng này.
Sự kiện Thông Thiên Học xa rời căn bản Phật Giáo ban đầu trong hai thập niên trước năm 1914 cũng không thể tránh được, với sự lãnh đạo mới của Annie Besant và C. W. Leadbeater. Vào đầu thập niên 1890, sau khi bà Blavatsky qua đời, khuynh hướng Phật Giáo vẫn còn khá mạnh. Thí dụ như sau chuyến du hành diễn thuyết của Olcott, một số người Thông Thiên Học Úc đã đi Tích Lan để dạy ở những trường Phật Giáo. Có lẽ cô Kate, con gái của Elise Pikett, là người đầu tiên làm công việc này vào năm 1891. Trong cuốn hồi ký, Đại Tá Olcott kể như sau:
“Tôi đưa cô Pikett đến thăm vị Sư Trưởng và trường học của Ngài, và vì cô ta rất mong muốn được trở thành tín đồ Phật Giáo nên Sư trưởng và tôi sắp xếp một cuộc họp ở đại điện vào tối hôm sau để cô ta làm lễ quy y. Mọi người đến tham dự đông nghẹt và vỗ tay thật lớn sau khi cô ta trải qua nghi lễ quy y đơn giản. Do được yêu cầu, tôi diễn thuyếtvề những sự kiện liên quan đến Phật Giáo trong chuyến đi thăm Úc Châu của tôi”.
Cô J. M. Davies và người em gái, từ Brisbane, cũng dạy học ở viện mồ côi Colombo do Hội Thông Thiên Học Phật Giáo Tích Lan thiết lập. Cô trở về Sydney năm 1900 để thuyết trình về Phật Giáo Tích Lan và tổ chức những khóa học tiếng Sanskrit chính thức. Tất nhiên, vào đầu thế kỷ hai mươi đã có mối liên hệ địa lý chính trị giữa Úc và Tích Lan mật thiết hơn là ngày nay, vì vậy không nên xem những sự kiện nói trên là đặc biệt.
Trong thập niên 1890, các chi hội Thông Thiên Học ở khắp Úc Châu thường tổ chức những cuộc diễn thuyết về cuộc đời của Đức Phật, và vào “Ngày Hoa Sen Trắng” kỷ niệm ngày bà Blavatsky qua đời, người ta tuyên đọc cuốn “ Ánh Sáng Á Châu” (The Light Of Asia) một bản thiên trường ca về Đức Phật của thi hào người Anh, Arnold. Năm 1898 ở Hobart, cô Octavia Susman xuất bản một cuốn sách mỏng tựa đề “Đức Phật và Phật Pháp" (Buddha & Buddhism), đây có lẽ là tập sách hoằng dương Phật Giáo đầu tiên được xuất bản. Nhưng nói chung thì thập niên này đánh dấu một sự xa rời rõ rệt khỏi Phật Giáo trong xã hội Úc. Giống như những người Tâm Linh Học trước họ, những người Thông Thiên Học đã gặp khó khăn lớn trong việc chấp nhận ý niệm vô ngã (anatta) và thuyết vô thần, tức không-Thượng Đế của Phật Giáo. Có lẽ những thuyết này quá thực tế đối với nhiều người lãng mạn và tình cảm được thu hút đến Thông Thiên Học. Có một thời gian người ta tự ý đặt ra những thuyết như “Đức Phật dạy rằng con người có linh hồn bất tử”. Rốt cuộc, dù Hội Thông Thiên Học vẫn “được làm cho sống động bởi giáo lý của các nhà hiền triết Đông Phương, những vị đã thấu triệt sâu xa được chân tính của vạn vật", nhưng những vị này được khoác áo Ấn Giáo hơn là trang phục Phật Giáo.
Năm 1897, Đại Tá Olcott trở lại Úc và New Zealand trong năm tháng, nhưng lúc này ông đã trở nên mờ nhạt so với Annie Besant. Dưới sự lãnh đạo của bà này, Hội Thông Thiên Học đã quay về hướng Ấn Giáo, và cả Ca Tô Giáo. Từ lâu hội này đã bị tố cáo là bình phong cho “một cuộc tái phát Phật Giáo". Và nhận thức này có lẽ đã gây tai hại. Nhiều người như Alice Cleather đã than thở về sự đổi hướng của Hội Thông Thiên Học, dù ít ai trông thấy trước là hội sẽ trượt dài vào thuyết Đấng cứu thế xuất hiện, thuyết Tam Điểm (Co-masonry) và Giáo Hội Công Giáo Tự Do.
Anagarika Dharmapala (1864-1933), một người Tích Lan được Đại Tá Olcott bảo hộ và là người sáng lập Hội Maha Bodhi năm 1890, cũng chống lại ý định phối hợp tôn giáo của bà Besant cũng như ý định chung “Ki Tô hóa bà Blavatsky và giảm thiểu sự quan trọng của Đức Phật". Vào đầu thế kỷ 20, trong chiến dịch phát triển Phật Giáo trên toàn thế giới của ông, Dharmapala viết một bài về Phật Giáo ở Úc Châu đăng trong “Tạp Chí Maha Bodhi”. Rõ ràng là ông đã trao đổi ý kiến với những người Úc nào đã viết bất cứ một điều gì về Phật Giáo trong báo chí. Bài viết của ông đăng trên những tờ báo địa phương nhỏ như “Albury Banner”, “Hay Standard”, và “Healesville Guardian”. Tác giả của bài viết trong tờ “Healesville Guardian” chỉ ký tên là “Người Rảnh Rỗi”(An Idler) đã thật sự bị mất việc sau khi viết rằng những người nào soạn thánh kinh Ca Tô Giáo chắc chắn đã phải tham khảo kinh sách Phật Giáo. Dharmapala cũng được những người trao đổi thư tín với mình cho biết rằng Thủ Hiến tiểu bang Victoria, Lord Brassey, đã tham dự những cuộc họp của một Hội Phật Giáo ở London, và rằng một người “học rộng và hùng biện” là Tiến Sĩ Worthington đã thiết lập khắp Úc Châu và New Zealand một Hội được gọi là “Những Người Tìm Hiểu Chân Lý” (The Students of Truth)và được mô tả là có tính chất “Phật Giáo Thiên Chúa” (Christian-Buddhism),nhưng cuốn “Những Vụ Tai Tiếng Lớn Ở Úc Châu"(Great Australian Scandals)của Blaikie viết rằng Mục Sư Tiến Sĩ Arthur B. Worthington thật ra là một người Mỹ có tên là Sam Crawford bị kết án tù 7 năm vào năm 1901 sau khi lừa bịp nhiều bà giàu có đến “Đền Thờ Chân Lý“(Temple of Truth)của ông ta để xem ông ta hóa trang làm Thần Osiris. Việc những người liên lạc với Dharmapala xét người sai lầm không phải là điều đáng ngạc nhiên vì thời đó có rất nhiều những người đi truyền đạo và những kẻ lừa gạt.
Số hội viên Hội Thông Thiên Học gia tăng liên tục trong hai thập niên trước và sau thế chiến thứ I, nhưng những người liên lạc thư tín với Dharmapala không có gì nhiều để nói về hoạt động Phật Giáo. Chính phủ Úc và Chính Sách Úc Châu Da Trắng có vẻ đã ngăn trở ảnh hưởng nơi khác. Trong nửa đầu của thế kỷ 20, đa số những người nghiên cứu Phật Giáo là những cá nhân đơn độc ở giữa một môi trường văn hóa khác biệt về nhiều mặt.
Đa số người Thông Thiên Học chống lại Chính Sách Úc Châu Da Trắng, và thi sĩ Bernard O’ Dowd thường dùng tờ tạp chí của hội làm diễn đàn trình bày ý kiến của mình cho rằng người Úc không thể sống thành thực với “chân ngã” hay “lý tưởng dân chủ” của họ, trừ khi họ biết “tôn trọng, tìm hiểu và yêu mến Đông Phương trầm tư vĩ đại”.O’ Dowd nói rằng ông đã đọc “hai cuốn sách rất hay viết về Cổ Thư Trung Hoa của Legge, và đọc một cách thành kính giống như một em bé đọc Thánh Kinh”. Sinh ra ở gần Ballarat năm 1886, lúc còn nhỏ, O’ Dowd đã bị lôi cuốn bởi khu Chinatown của thành phố. Giống như Deakin, sau đó ông quen biết W. H. Terry và Tâm Linh Học, nhưng khi có cảm tình với Thông Thiên Học, quan điểm của ông về Phật Giáo và triết học Ấn Giáo Vedanta chính yếu là quan điểm của một người thuộc phái Siêu Nghiệm (Transcendentalist), Ông đọc nhiều văn học tôn giáo Đông Phương, và với những tác phẩm của Whitman, Emerson, Blake và Nietzsche có ảnh hưởng lớn nhất đến thi ca của ông. Hoàn toàn có nhãn quan chủ nghĩa thế giới, ông nói rằng mình “khai thác các vị thần thánh” cho một nước Úc mới. Những bài thơ của ông chứa đầy mô thức Phật Giáo, nhưng cũng giống như Deakin, sự quan tâm của ông có tính cách chiết trung sâu rộng. Nước Úc của ông phải là “người thừa kế của toàn thế giới", trong đó con đường sáng của Đức Phật và đạo của Jesus trầm buồn có vị trí ngang nhau. Thơ của ông có tính chất Siêu Nghiệm rõ rệt, và là một sự phản đối dài và mạnh chủ nghĩa duy vật của nước Úc. Ông viết cho thần tượng Walt Whitman quá cố của mình để nói rằng mình rất chú ý đến văn hóa Nhật Bản. Ông chấp nhận thuyết “Linh Hồn Phổ Quát” của Emerson, và gọi “hồn chung” này là “Cõi Im Lặng” ( The Silent Land). Ông cũng hoàn toàn đồng ý với thuyết đa thần của Emerson.
Tính chất Siêu Nghiệm trong văn học Úc bắt đầu có từ Charles Harpur, và thường chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Tất nhiên những tác phẩm của Emerson và Thoreau chứa đầy triết lý Đông Phương. Thoreau nói riêng, rất chú ý đến Phật Giáo và đã chuyển bản dịch một phần đầu tiên của Kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra)sang tiếng Anh (từ bản tiếng Pháp của Eugene Burnouf), và viết về “Đức Christ của họ được nói đến bên cạnh Đức Phật của tôi”. Có lẽ đệ tử lớn nhất của ông ở Úc Châu là ẩn sĩ phái tự nhiên E. J. Banfield, tác giả của bốn cuốn sách có khá nhiều độc giả quốc tế. Sinh năm 1852, Banfield trưởng thành ở Ararat, Victoria, nơi gia đình của ông có một tờ báo địa phương. Sau khi làm ký giả cho tờ The Age và tờDaily Telegraph,năm 1897 ông bị suy nhược thần kinh, và chuyển ra Dunk Island, ngoài khơi bờ biển miền Bắc Queensland, sống một cuộc đời mới trong ba mươi năm. Sau khi đã thực sự phân ly với Úc Châu, Banfield quyết định thí nghiệm trí huệ của “nhà hiền triết”, vị ấy đã dạy: “Nếu gia tăng hạnh phúc thì đừng gia tăng tài sản mà hãy giảm thiểu dục vọng” (If you wish to increase a man’s happiness seek not to increase his possessions, but to decrease his desires).Đối với Banfield thì “sự hấp dẫn thông thường của thế giới muôn màu muôn vẻ” đã cho thấy là vô mục đích, vô vị, và không đáng thỏa mãn một chút nào cả”. Ông viết sách là chỉ để ca tụng thế giới tự nhiên và trình bày về “những nỗ lực yếu ớt để sống như chính mình”.
Cuốn sách đầu tiên của Banfield, “Lời Trần Tình Của Một Người Lang Thang Trên Bãi Biển”, được tài trợ bởi một thi sĩ phái tự nhiên người Anh, Sir Walter William Strickland, có lẽ cũng là nguồn kiến thức Phật Giáo đầu tiên của Banfield ngoài những gì ông lượm lặt được trong những tác phẩm của Thoreau. Tốt nghiệp Đại Học Cambridge và thừa hưởng một tài sản khá lớn, Strickland quyết định chỉ đi du lịch với vé hạng ba “trong bộ quần áo xập xệ và cái túi xách cũ kỹ”. Trong hai năm ông sống “như người bản xứ” ở miền Nam Ấn Độ và Tích Lan, cho rằng Ca Tô Giáo chỉ là “cái bóng phản chiếu mờ nhạt và không lành mạnh” của Phật Giáo. Ông cũng xem Luận Tạng của Phật Giáo Miến Điện là bằng chứng cho thấy người Á Châu đã tiến hóa đến một kiểu suy nghĩ cao hơn người Âu Châu trung bình. Năm 1903 Banfield nghe nói có “một người khùng bờ biển” (Walter Strickland), và ngay sau đó hai người gặp nhau và kết bạn với nhau, rồi Strickland cùng đến thăm Dunk Island trong mấy tuần. Theo người viết tiểu sử của ông là Michael Nooman thì Banfield bị “thôi miên” bởi Strickland, và ngược lại tác phẩm của Banfield gây ấn tượng với Strickland đến mức ông bỏ tiền ra để giúp việc xuất bản qua một công ty ở London. Chẳng bao lâu sau, Strickland biến mất, và vào năm 1921 như một hành động phản đối Đế Quốc Anh, ông trở thành công dân Tiệp Khắc. Báo chí Úc đăng tin ông qua đời vào ngày 7 tháng tám 1939: “Sir Walter Strickland, có một thời gian sống ở Úc, đã qua đời hôm nay. Ông để lại phần thu nhập tài sản của ông, 16,000 bảng, để dùng vào việc truyền bá Phật Giáo”.
Strickland chấp nhận “niềm tin phổ quát vào tinh thần của thiên nhiên”, đó là niềm tin của “ những người sống tự nhiên cũng như nhiều chủng tộc được cảm ứng mạnh nhất”. Theo ông thì trong số những chủng tộc này không có người Anh Ca Tô Giáo với ý niệm vô lý trong Thánh Kinh về Đấng Tạo Hóa của họ. Khó có thể biết chắc là Banfield có đồng ý với Strickland đến mức độ này hay không, nhưng có một điều rõ ràng là ông có cảm tình sâu xa và bền vững với Phật Giáo, đặc biệt là trong một truyện ngắn viết năm 1914, tựa đề “Vượt Mọi Hiểu Biết”. (Passeth All Understanding).Truyện này kể về một người làm vườn Trung Hoa tên là Hu Dra, “tín đồ của Đức Phật cứu khổ”, xem xứ sở kỳ lạ và dễ làm giàu này chỉ là một giấc mộng, nhưng đã bị tù oan. Là một “người Phật Giáo trầm tư”, Hu Dra làm cho mảnh đất khô cằn trở thành một ốc đảo xanh tươi, và sau đó biến “chất đất thô kệch” của sân nhà tù thành xà lách, cứ như làm phép lạ. Trong khi được đưa đến nhà tù, Hu Dra niệm “Om Mane Pade Om”(Án Ma Ni Bát Di Hồng), và người lính gác cũng niệm theo một cách vô tâm, “thế là người Ái Nhĩ Lan lực lưỡng, thô kệch và người Trung Hoa hiền lành xa quê hương bước đi mà hầu như không có ý thức gì về những dặm đường bụi bặm, cùng nhau mơ màng ca tụng viên ngọc trong bông sen”. Chắc chắn Banfield đã dùng hoàn cảnh khó khăn của Hu Dra để nói lên cảm nghĩ của mình về nước Úc. Ông đã cố gắng gây dựng “Một ý thức giác ngộ về những gì ở xung quanh mình, xa cách những cảm xúc thân xác thô kệch”. Rõ ràng sự cố gắng này là một phần của thuyết Siêu Nghiệm đặt theo kiểu vô thần, và như vậy gần với tôn giáo của Hu Dra hơn là với Ca Tô Giáo.
Nếu có một điều gì làm cho Banfield nghiêng về phía Phật Giáo thì đó là một người bạn ở Sydney năm 1921, ông viết: “Nếu phải chọn một trong hai tôn giáo này thì tôi sẽ vui lòng chấp nhận Phật Giáo. Ít nhất thì tôn giáo này cũng thanh tịnh, còn tôn giáo của chúng ta thì có đầy những chỗ nói đến máu, hay như một trong những vị giáo sĩ trưởng của chính tôn giáo này đã nói “sặc mùi lò sát sinh”. (If one had to make a choice between the two religions I for one would gladly accept Buddhism. At least it is clean. Ours teems with reference to blood or as one of its own Ministers said, “ reeks of the abattoirs”)
Hòn đảo Dunk nơi ông ẩn cư là chỗ trú của đủ giống chim mà ông nhất quyết cho rằng cần phải được bảo vệ. Như vậy Banfield đã đi trước nhiều nhà hoạt động bảo vệ môi sinh trong những thập niên 1970 và 1980 chịu ảnh hưởng của Phật Giáo với sự tôn trọng sinh vật của tôn giáo này, chủ trương sự tương liên giữa vạn vật. Có thể thấy ở đây phương diện quan trọng thứ hai của Phật Giáo có ảnh hưởng đến người Úc. Ngoài tính chất duy lý và hợp với khoa học, Phật Giáo cũng hấp dẫn được những người theo chủ nghĩa hòa bình và những người cho rằng ý niệm con người thống trị thiên nhiên của Ca Tô Giáo đã gây ra tai họa về sinh thái. Như vậy phái Đa Siêu Nghiệm và Thông Thiên Học là nơi mở ra sự gặp gỡ và thông cảm với Phật Giáo. Câu viết trên bia mộ của Banfield là những lời nổi tiếng của Thoreau “Nếu một người không đi cùng nhịp với những người đồng hành thì đó là vì y nghe thấy một tiếng trống khác. Cứ để cho y bước theo điệu nhạc mà y nghe thấy, dù khác bao nhiêu hay xa bao nhiêu”.
Nhiều người Úc quan tâm đến Phật Giáo và sinh thái học, thí dụ như thi sĩ Robert Gray, đã nói rằng D. H. Lawrence là một ảnh hưởng đầu tiên của họ. D. H. Lawrence (1885-1930), một trong những nhà văn vĩ đại của nền văn học Anh. Lawrence cho rằng có một “liên hệ sinh động giữa con người và thiên nhiên”, và “chấp thủ” là nguyên nhân của đau khổ. Như vậy tư tưởng của ông hoàn toàn phù hợp với những giáo lý chính yếu của Phật Giáo. Từ lâu ông đã chú ý đến những tôn giáo Đông Phương và Thông Thiên Học, và vào năm 1922 ông đi Tích Lan để nghiên cứu Phật Giáo với hai người bạn Mỹ là Earl và Achsah Brewster. Nhưng ông thất vọng vì cảm thấy tình trạng suy thoái của Phật Giáo ở đây: “Tôi rất nghi ngờ rằng sự khoa trương của Phật Giáo hầu như chỉ có ở trên những trang sách, và sự chối bỏ linh hồn làm cho tôn giáo này luôn luôn khô khan, dù có thể về mặt triết lý và những mặt khác tôn giáo này hoàn hảo hơn.”. Giống như những người Tâm Linh Học và Thông Thiên Học trước ông, cuộc tranh chấp riêng tư của Lawrence với Phật Giáo tập trung vào thuyết vô ngã, một cuộc tranh chấp đạt đến mức cao nhất của nó ở trên đất Úc Châu.
nhà văn Lawrence
D. H. Lawrence khét tiếng về tính xao động, hay thay đổi, và đã có lúc lại sẵn sàng đi theo cặp Brewster đến Ấn Độ để hành thiền. Xét cho cùng thì sự hiểu biết về Phật Giáo của ông chỉ có tính cách vụn vặt, và lại còn nhuốm màu một số thành kiến thực dân thời bấy giờ; nhưng tín đồ Phật giáo Úc Châu có thể xem là may mắn đã có một số vấn đề nan giải của mình được trình bày trong bối cảnh Úc Châu bởi một trong những nhà văn vĩ đại của thế kỷ hai mươi như thế.
Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952
Sự kiện đầu tiên có thể được kiểm chứng về một Tăng sĩ Phật Giáo, hay ít nhất một người tự xưng là tu sĩ, đặt chân lên xứ Úc, được xem là vào đầu năm 1910. Đó là Đại Đức U Susana Dhaja (Lá Cờ Chân Lý),một Tăng sĩ thuộc “Dòng Áo Vàng” (Order of the Yellow Robe) ở vùng đồi Sagaing, Miến Điện, vị này còn được biết với tên E. H. Stevenson, một người Anh sinh năm 1863 ở Yarmouth. Ông nói rằng Phật Giáo Miến Điện đã gây ấn tượng cho mình trong khi làm công việc kinh doanh ở đó, và không thỏa mãn với cuộc sống thế gian, nên đã quy y thọ giới vào tháng 9 năm 1908. Ông đến Úc Châu là để truyền giáo, theo lời đề nghị của những người bạn Miến Điến, và cũng để dưỡng bệnh sau khi bị bệnh sốt rét nặng.
Sau một chuyến diễn thuyết trước rất đông thính giả ở Perth, ông đến Adelaide vào đầu tháng 5 năm 1910, tuyên dương Phật Giáo như một “hệ thống phát triển tâm trí, giống như sân vận động là hệ thống phát triển thân thể”(Buddhism as a system of mental development just as a gymnasium is a system of physical development). Như vậy, “người ta có thể vừa là tín đồ Ca Tô Giáo lại vừa sống theo lối sống của tu sĩ Phật Giáo một cách tự nhiên cũng như một người có thể vừa là sinh viên vừa là một vận động viên thể dục cùng một lúc”.
Ngày 31 tháng 5, ông diễn thuyết ở Ballarat City Hall, với sự chủ tọa của ông thị trưởng. Hôm đó trời rất lạnh, nhưng ông chỉ mặc chiếc áo vàng, đi chân không với cái đầu cạo trọc, và Nhật báo “Ballarat Star” đã ghi nhận rằng ông “nói chuyện một cách rất hùng biện và nhiệt thành”. Ông đã tô điểm thêm cho bài diễn thuyết của mình với “màu sắc và những giai thoại Đông phương để hấp dẫn thính giả”. Nhưng về chính Phật Giáo thì ông không có gì nhiều để nói, và ông kết luận rằng Đức Phật là ánh sáng của Á Châu, và Đức Christ vẫn là ánh sáng của thế giới.
Ông đã nói là chỉ đến Úc Châu trong một thời gian ngắn, nhưng vào ngày 16 tháng 12 Stevenson vẫn còn diễn thuyết ở Sydney. Theo tờ báo “Adelaide Advertiser” thì mấy năm trước ông đã làm một chuyến diễn thuyết ở Úc rồi và với một cái tên khác, vì vậy người ta nghi ngờ về nhân vật mờ ám này. Người ta cũng được biết là ông có một danh thiếp kinh doanh và đang tài trợ cho chuyến đi của mình bằng cách bán những bức tượng Phật làm bằng thạch cao mà ông nói là xưa cũ 700 năm, vì một bức tượng với tờ chứng nhận kèm theo về sau đó đã lọt vào tay của Leo Berkeley, người sáng lập Hội Phật Giáo New South Wales.
Năm năm sau chuyến diễn thuyết của Stevenson, một nhóm tu sĩ Phật Giáo khác đã đến Sydney trong hoàn cảnh rất khác. Đứng đầu là Thượng tọa Nyantiloka, năm Tăng sĩ này đều là người Đức đã thọ giới ở Tích Lan, và từ đó họ được đưa đến Trại Tập Trung Holdsworthy ở Liverpool như những tù nhân thời chiến. Là một trong những người tiên phong thực sự của Phật Giáo Tây Phương, Ngài Nyantiloka có tên tục là Anton Gueth, sinh năm 1878 ở Wiesbaden, nước Đức, là một tay đàn vĩ cầm có tài (sau Allan Benett, người Anh), là người Âu Châu thứ hai trở thành tu sĩ Phật Giáo, ở Rangoon, Miến Điện, năm 1903. Cuốn “Lời Đức Phật" (The Word of the Buddha) của ông xuất bản lần đầu tiên năm 1906 đã làm cho ông nổi tiếng, và cuốn này được xuất bản lần thứ mười sáu vào năm 1988.
Năm Tăng sĩ Nyantiloka, Vappo (Ludwig Stolz), Mahanama, Kondanna, và Vimaha, cũng như hai sinh viên cư sĩ đến bến Sydney vào đầu tháng 8 năm 1915 cùng với ba trăm người Đức khác. Một người chứng kiến mô tả hoàn cảnh của họ ở trại tập trung như sau: “Các tu sĩ Phật Giáo mặc áo vàng và áo nâu vừa mới đến trại đã trở thành đề tài chế giễu. Họ được gọi là chim yến, và trong mấy ngày sau đó, chỗ nào họ đi đến cũng có tiếng huýt sáo giả tiếng chim yến ... Việc ăn mặc của họ rất dễ dàng, họ không nhận một món vật dụng thông thường nào mà trại cấp phát, cũng không cần chăn mền, còn về gối thì họ xin phép được đi lấy những cục đá lớn ở bên ngoài trại để gối đầu khi nằm ngủ. Nhưng về sau đa số những người trong nhóm đã bỏ đạo của mình, có lẽ vì sự chế giễu, họ mặc trở lại quần áo bình thường và ăn đủ ba bữa mỗi ngày”.
Họ thay đổi có lẽ vì bị chế giễu và vì lạnh, chỉ có Ngài Nyantiloka và Vappo là vẫn mặc áo tu sĩ. Theo đệ tử nổi tiếng của Ngài là Nyanaponika Thera thì Đại Đức Nyantiloka vẫn giữ những ký ức không vui về thời gian ở trong trại tập trung đó. Nhưng có một người Ý nhớ rằng Ngài là một người “mập, hay nói chuyện và dễ làm quen ... lúc nào cũng đi quanh trại để tìm người theo đạo”. Còn Vappo thì “không nói gì cả, làm lơ những người chế giễu mình, kết quả là họ cụt hứng và ngượng nghịu”.
Sau đó ít lâu, “Tăng đoàn” nhỏ những tu sĩ và cư sĩ này được đưa đến chỗ ở tốt hơn ở Trial Bay, phía Bắc thành phố New Castle, tiểu bang NSW. Ở đây, Nyantiloka làm một cái nhà tranh nhỏ ở gần bờ biển, và có thể viết sách mà không bị làm rộn. Ngài được cho phép đi Hawaii vào tháng 11 năm 1916, còn Vappo thì ở lại đây cho đến khi thế chiến thứ I chấm dứt (1918). Ngay sau đó Ngài tìm được chỗ dạy học ở Đại Học Tokyo và trở lại Tích Lan năm 1926. Có điều đáng ngạc nhiên là báo chí Sydney không nói gì về việc Ngài đến hay đi khỏi thành phố này, và sự có mặt của Ngài cũng không được tạp chí của Hội Thông Thiên Học ghi nhận. Có lẽ điều này cho thấy Hội Thông Thiên Học đã xa rời căn bản Phật Giáo lúc đầu của mình. Khi F. L. Woodward đến Úc Châu năm 1915, ông được xem là tín đồ Phật Giáo thứ hai đến đây, sau Đại Tá Olcott.
Thượng tọa Nyantiloka và năm Tăng Sĩ vừa đến Vịnh Trial (Sydney) từ Tích Lan
Frank Lee Woodward sinh năm 1871 ở Norfolk, Anh Quốc, con trai thứ ba của một giáo sĩ Anh Giáo. Tốt nghiệp trung học, và sau đó ở Sydney Sussex College, Cambridge, ông là một tay chơi thể thao nổi tiếng, nhưng vào khoảng năm mười chín tuổi, ông trải qua một thời kỳ “u trầm” về tâm lý (psychological distress), đưa ông đến triết lý khắc kỷ của Marcus Aurelius, là người mà ông gọi là “cột trụ vững chắc cho những người sống nội tâm” (a pillar of strength to those who live inwardly). Từ năm 1898 ông dạy học ở Stamford trong năm năm, nhận bằng Tiến sĩ ở Đại Học Cambridge vào năm 1901. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra Thông Thiên Học (Theosophy), lúc đầu là qua thuyết luân hồi (reincarnation) của Plato. Ông gia nhập Hội Thông Thiên Học năm 1902, và rất tin vào Đại Tá Olcott và loại hình Phật Giáo của ông này. Dù ngay từ lúc đó đã là một điều lỗi thời, nhưng như một người theo Phật Giáo Thông Thiên Học, Woodward vẫn tuyệt đối tin vào các vị Mahatmas vùng Hy Mã Lạp Sơn mà bà Blavatsky đã nói đến. Về sau ông viết cho một người bạn: “Đừng chê giáo lý Thông Thiên Học chỉ vì mình không nắm được hay vì có sự thiên về một mặt, tức là thiên về Ấn Giáo. Đức Bồ Tát Di Lặc đang quán sát thế giới này” (Do not repulse Theosophy Society’s teachings because you cannot grasp them or because on side is prominent i.e Hinduism… the Bodhisatava Maitreya is watching over this world).
Là một người Thông Thiên Học thuộc phái cũ, ông sẵn sàng làm theo ý Đại Tá Olcott. Năm 1903, Olcott công cử cho ông chức vụ hiệu trưởng Trường Makinda của Hội Thông Thiên Học Phật Giáo ở Galle, Tích Lan.
Ở đây ông làm việc không mệt mỏi trong mười sáu năm, đạt một địa vị huyền thoại gần ngang với Đại Tá Olcott. Không nhận tiền lương, ông dùng nhiều tài sản của mình để xây dựng những cơ sở mới và nghĩa cử này làm cho ông phải sống nghèo khó vào cuối đời. Tuy là một thầy giáo nghiêm khắc, ông vẫn được 350 nam sinh của trường này xem là thần tượng.
Ngoài công việc điều hành trường, ông đích thân giảng dạy với nhiều lớp khác nhau. Ông biết rõ tên của từng học sinh và nhớ cả tên lóng mà chính ông đặt cho từng đứa theo tên của nhân vật trong các vở kịch của Shakespear. Woodard cũng dạy những lớp Phật Học cao cấp. Ông thường mặc áo sơ mi trắng và thọ trì tám giới cấm vào ngày trăng tròn, ông cũng thường đích thân rửa chân cho nhiều vị Tăng khi họ đến trường khất thực. Trong một thời gian ông làm chủ bút tờ “Buddhist”, tạp chí Phật Giáo hàng đầu của Tích Lan, và năm nào cũng đi Madras, Ấn Độ, để tham dự hội nghị hàng năm của Hội Thông Thiên Học. Tuy nhiên, khí hậu nhiệt đới bắt đầu có ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe của ông, vì thế năm 1919, trang bị với trọn một tấn sách và những “xá lợi”, tặng phẩm của các Tăng sĩ ở quận Galle, ông về hưu ở Tasmania (Úc châu) và sống phần đời ba mươi năm còn lại của mình và dịch kinh sách tiếng Pali.
Frank Lee Woodward
Wooward mua một vườn táo nhỏ cùng với ngôi nhà tranh của một hội viên Thông Thiên Học. Tọa lạc ở bờ sông Tamar cách Launceston bốn mươi cây số, ngôi nhà của ông nhìn ra phong cảnh hùng vĩ của núi Ben Lemond, một trong những đỉnh núi cao nhất ở Tasmania, cách đó 65 cây số. Trong khung cảnh thơ mộng này, ông bắt đầu thực hiện công trình thực sự của đời mình, ở tuổi gần năm mươi. Ngoài việc thỉnh thoảng đóng góp bài vở cho tạp chí “Theosophy in Australasia”, công việc chính của Woodward là dịch thuật cho Hội Kinh Điển Pali (Pali Text Society), do Tiến sĩ Rhys Davids thành lập năm 1881 ở Luân Đôn. Tính từ năm 1916 trở đi, số kinh sách đóng góp của ông không dưới mười sáu cuốn, trong đó có các kinh như Trường Bộ Kinh(The Digha Nikaya, or "Collection of Long Discourses"), Trung Bộ Kinh(The Majjhima Nikaya, or "Middle-length Discourses),Tương Ưng Bộ Kinh(The Samyutta Nikaya or The Grouped Discourses), Tăng Chi Bộ Kinh (The Anguttara Nikaya, The "Further-factored" Discourses). Đáng kể nhất là tuyển tập “Lời Dạy của Đức Phật” (Some Sayings Of The Buddha), có lẽ là cuốn này làm cho ông được nhớ đến nhiều nhất. Chirstmas Humphreys, một tín đồ Phật Giáo Thông Thiên Học nổi tiếng ngang với Woodward, viết vào năm 1972 rằng ông xem cuốn này vẫn là tuyển tập về Kinh Điển Pali hay nhất đã được xuất bản. Cuốn này cũng được đưa vào loạt sách “Cổ Thư Của Thế Giới” (World’s Classics Series) với lời giới thiệu của Sir Francis Younghusband. Đối với nhiều người Tây Phương, kể cả những tín đồ PG Úc nổi tiếng sau này, thì cuốn “Lời Dạy của Đức Phật”vẫn là ngưỡng cửa để bước vào Phật Giáo, và dù ngày nay văn phong của cuốn này có vẻ hào nhoáng, nó vẫn làm cho Wooward được đặt ngang hàng với Rhys Davids và Nyanatiloka như một học giả kinh điển Pali.
Đời sống của F. L. Wooward ở Tasmania có tính cách đơn sơ và thôn dã. Ông sống cho những tác phẩm dịch thuật của mình và Tasmania cung cấp sự tịch tĩnh cần thiết cho ông. Tuy những người trong làng này xem ông là có phần lập dị, ông vẫn giao tiếp thân mật với những người láng giềng gần nhất và được trẻ em địa phương yêu mến. Mỗi khi đến tiệm tạp hóa ông lại mua kẹo phân phát cho chúng. Ông cũng lập những lá số tử vi (astrological charts) cho các em, và đây là một thú giải trí Thông Thiên Học. Là người ăn chay trường và yêu súc vật, ông làm cho hàng xóm ngạc nhiên khi họ thấy ông thích loài rắn trong vùng, trong đó có những con rắn được ông đặt tên riêng.
Trong những năm cuối đời của ông, khu vườn không được chăm sóc, và lối sống “ thiểu dục tri túc” của ông không tiện nghi gì hơn đời sống của một tu sĩ Phật Giáo, với số tiền trợ cấp khoảng 70 bảng một năm, nhưng ông vẫn xem là luôn luôn khá “vui vẻ và sôi nổi” rồi. Ông hành thiền mỗi đêm, và trở nên xao lãng với trang phục của mình, ngoài những dịp rời khỏi “bán kính đạo viện” ông thường chỉ mặc “một cái quần pyjamas, một cái bao giấy thay cho áo sơ mi, và cái khăn đội đầu màu trắng”, theo lời kể của ông. Những người láng giềng nói rằng trong một chuyến đi dạo, ông tình cờ gặp Sir Robert Menzies lúc đó đang đi thăm người bạn trong vùng, và đã mời ông đến nhà mình uống trà. Woodward chỉ đi thành phố Launceston hai hay ba lần mỗi năm, thường là để tham dự những hoạt động của chi hội Thông Thiên Học địa phương. Ông tuyên bố rằng mình luôn luôn “tin tưởng vào phương diện tốt đẹp của bất cứ sự việc gì xảy ra”. Có lẽ sự nhiệt thành này đã giảm bớt phần nào khi ông giao tiếp với những Phật tử Úc mỗi lúc mỗi đông hơn trong mấy năm trước khi ông qua đời vào năm 1952.
Một người khác thuộc Hội Thông Thiên Học của Olcott cũng sống ở Úc nhiều năm là Charles Webster Leadbeater (1847-1934), cánh tay phải của Annie Besant, và theo ý kiến của Jill Roe, có lẽ cũng là “gót chân Achilles” tức “nhược điểm" của bà. Leadbeater là một giáo sĩ Anh Giáo bất mãn với giáo phái của mình, đi theo Olcott và Blavatsky đến Tích Lan, ở đây vào năm 1884 ông chính thức trở thành tín đồ Phật Giáo như một phần công việc của mình cho Hội Thông Thiên Học. Trong số những tác phẩm của ông là cuốn “Sơ Lược Giáo Lý Phật Giáo" (Smaller Buddhist Catechism), nhưng có lẽ ông không bao giờ cảm thấy tự nhiên với Phật Giáo. Ông là người thuộc phái bảo thủ trung kiên, và theo John Cooper thì ý tưởng của ông về “người tiến hóa” có lẽ luôn luôn là một “gentleman người Anh”. Leadbeater đến Úc vào năm 1914, ngay khi thế chiến thứ I nổ ra, và ở lại Úc cho đến năm 1929. Cuộc chiến tranh này làm nối lại liên hệ mật thiết với nước Anh và từ đó phát sinh một loại thân Anh (Anglophilia) mà lý thuyết Thông Thiên Học của ông phù hợp một cách kỳ lạ. Leadbeater là tác nhân chính yếu ở phía sau nhiều thay đổi lớn về chiều hướng của Hội Thông Thiên Học trong thời kỳ này. Leadbeater là người khám phá ra Krisnamurti và do đó đặt ra “Dòng Ngôi Sao Đông Phương” (Order of the Star of the East). Ông cũng là người dựng lên Giáo Hội Công Giáo Tự Do ở Sydney (Liberal Catholic Church) và Giảng Đường Ngôi Sao (Star Amphitheatre) ở Balmoral nơi “Đức Christ Tái Lâm” được xem là sẽ xuất hiện. Leadbeater thu hút một số lớn hội viên Thông Thiên Học đến Úc, kể cả Giáo Sư Ernest Wood, sống ở Úc một thời gian, và là tác giả của cuốn “Từ Điển Thiền Học” (Zen Dictionary) xuất bản năm 1957. Trong thập niên 1920, nhờ có Leadbeater mà Hội Thông Thiên Học Sydney là chi hội lớn nhất và giàu nhất thế giới.
Nhiều người đả kích cũng như báo chí Sydney hay nói rằng Leadbeater có lẽ cũng là một người không đứng đắn, và hình như điều này còn là một phần trong chương trình học của trường Thông Thiên Học ở Sydney. Người ta không thấy ông bác bỏ lời tố cáo này,vì vậy mà cảnh sát có một hồ sơ về ông và công luận cũng có những lời phê bình nặng nề. Đa số tác giả xem Leadbeater là người thủ đoạn, gần như một mình làm cho phong trào Thông Thiên Học bị mang tiếng - chỉ có một điều thắc mắc là làm sao một nhân vật như bà Annie Besant lại chấp nhận Leadbeater. Gandhi xem ông là “một kẻ lừa bịp” (humbug), còn cuốn “Australian Dictionary of Biography” thì viết “ Có lẽ ông ta đã sống cả đời của mình trong vùng bóng tối ở giữa chủ nghĩa tôn giáo vô nguyên tắc và hoang tưởng tự đại” (He seems to have lived out his life in the shadowy borderlands between antinomianism and clinical megalomania).
Vào năm 1922, khi Alice Cleather, đệ tử của bà Blavatsky cũng như của Ngài Panchen Lama đang ở Úc, có một phong trào thuộc loại “Trở Về Với Blavatsky” nổi lên ở Sydney để chống lại cái mà nhiều người nghĩ là “những hoạt động nhỏ mọn giống như đỉa hút máu” do Leadbeater chủ trương, và cũng chống lại việc bà Annie Besant thay đổi chiều hướng của Hội Thông Thiên Học “dưới ảnh hưởng của Ấn Giáo”. Các hội đoàn Phật Giáo rốt cuộc được thành lập vào đầu thập niên 1950 có ý kiến chung là Thông Thiên Học đã trở thành một “tín ngưỡng pha trộn không phải thế này mà cũng không phải thế kia”. Ở trong quan điểm này những giáo thuyết kỳ cục của Thông Thiên Học vẫn không bị bác bỏ, vì một lý do là Thông Thiên Học đã trở thành một mớ ý tưởng hỗn tạp mà không ai hiểu nổi, và một lý do nữa là đa số hội viên Thông Thiên Học thuộc giai cấp trung lưu trên. Như vậy không muốn nói rằng nhiều người trong Hội Thông Thiên Học không nhận ra rằng lúc đầu phong trào này đã mắc nợ Phật Giáo. Khi các hội đoàn Phật Giáo được tổ chức, họ đã được các hội viên Thông Thiên Học giúp đỡ rất nhiều, thường là về phương diện vật chất. Dù đã bị mất nhiều sức mạnh kể từ năm 1929, khi Krishnamurti bất ngờ chối bỏ bất cứ một vai trò đấng cứu thế hay nhà tiên tri nào người ta gán cho mình, những tiệm sách của Hội Thông Thiên Học Úc vẫn là nơi chứa nhiều sách Phật Giáo nhất có thể có được ở Sydney và Melbourne, và như vậy tiếp tục đóng góp vào việc quảng bá thông tin về Phật Giáo, giống như ý nguyện của Đại Tá Olcott.
Chắc chắn việc phản đối Thông Thiên Học đã có ảnh hưởng đến ý kiến của công chúng về tôn giáo Đông Phương nói chung trong những năm giữa hai thế chiến. Tình cảm “thân Anh” được tái lập và Chính Sách Úc Châu Da Trắng(White Australia Policy) tạo ra một không khí văn hóa không thuận lợi cho việc ca tụng những thành quả vĩ đại của nền văn minh Á Châu. Úc Châu không chỉ là một lục địa trống không, mà phần lớn lại còn không được phòng vệ, và điều này làm phát sinh bóng ma những đạo quân xâm lược người Á Châu. Hậu quả là sự quan tâm đầy cảm tình dành cho Đông Phương đã suy giảm, và cuộc khủng hoảng kinh tế có lẽ đã tạo thêm sức mạnh cho chủ nghĩa duy vật. Thập niên 1930 là những năm khó khăn cho Phật Giáo ở Úc Châu. Sách báo Thông Thiên Học và báo chí nói chung hiếm khi viết về Phật Giáo, và con số những tín đồ Phật Giáo hoạt động không phải là người Á Châu có thể chỉ đếm được trên một bàn tay.
Năm 1926 các đại biểu Úc Châu tham dự hội nghị của Hội Thông Thiên Học ở Madras, miền Nam Ấn Độ, đã mang về cùng với họ một cậu bé chín tuổi, người Anh, tên là Peter Finch. Peter đã được bà Nội của mình, một tín đồ Phật Giáo lập dị, dắt đi khắp Ấn Độ và Tích Lan, và rồi sau đó ở hội nghị đã mất tích mấy ngày. Cậu ta đi theo một Tăng sĩ Phật Giáo nhiều tuổi và được vị này cho mặc áo vàng. Có lẽ chuyện này không đáng được nhắc đến nếu không có một sự kiện là suốt đời mình Peter Finch luôn luôn nói mình là Phật tử. Những lời dạy bảo của bà Nội và kinh nghiệm làm tu sĩ của Peter đã để lại ấn tượng lâu bền:
“Tôi không phải đi giày. Tôi cảm thấy tự do và mát mẻ một cách kỳ lạ ... Tôi thích đi vào chùa nơi có nhiều bóng tối, nơi có một bức tượng Phật lớn, ngồi khoanh chân, hai tai dài, nói chuyện với Ngài và hỏi đủ thứ câu hỏi. Người ta sẽ ràng buộc vào những hình nào đó, nếu những hình đó là một phần của cuộc đời khi người ta còn nhỏ”.
Peter Finch
Sau khi học Thông Thiên Học ở Sydney, một phần là với Leadbeater, Peter Finch trở thành một Tỳ khưu, hay một tu sĩ khất thực ở Úc, sống bằng những việc tạm thời với thái độ kiêu kỳ. Một trong những người viết tiểu sử của ông cho rằng dù đã là một diễn viên thành công lớn, một phần con người của ông vẫn luôn luôn muốn trở thành tu sĩ lần nữa. Chắc chắn ông đã nói nhiều về Phật Giáo, đến mức làm cho nhiều người bạn của ông phát ngán. Ông ghét tất cả mọi loại bạo động, và như vậy có lẽ Phật Giáo đã có ảnh hưởng đến ông ở mặt này cũng như đã ảnh hưởng đến ý kiến của ông về diễn xuất: “Cái ta” không có thật. Có một ngàn cái “ta” khác nhau. Một diễn viên giỏi có thể trình bày hàng ngàn cái “ta” của mình đã quan sát một cách tinh tế”. Vật sở hữu giá trị nhất của ông là một bức tượng Phật lớn màu đen. Có lần ông nói: “Tôi nghĩ rằng một người chết trên thập giá là một biểu tượng kinh dị cho một tôn giáo. Tôi nghĩ rằng một người ngồi dưới gốc Bồ đề và giác ngộ là một biểu tượng đẹp” (I think a man dying on a cross is a ghastly symbol for a religion. And I think a man sitting under a bodhi tree and becoming enlightened is a beautiful one). Ông thường nói với mọi người rằng mình là tín đồ Phật Giáo, như vậy theo tiêu chuẩn nào ông cũng phải được xem là một trong vài người Phật Giáo Úc Châu đơn độc trước thế chiến thứ II.
Năm 1926, năm Peter đến Úc Châu, David Maurice lên đường đi Á Châu để nghiên cứu Phật Giáo. Có thể xem Maurice là tín đồ Phật Giáo đầu tiên sinh ra ở Úc và không có liên hệ gì với Hội Thông Thiên Học. Ông ra đời ở Maclean, New South Wales, năm 1899. Cha của ông là một tín đồ Presbyterian nghiêm khắc, nhưng lại có một thư viện với nhiều loại sách khác nhau. Khoảng năm 12 tuổi, David Maurice đã đọc cuốn Trường Bộ Kinh(Digha Nikaya) bản dịch tiếng Anh của Giáo Sư Rhys Davids, và ông cho biết: “Dù không hiểu trọn vẹn, nhưng tức khắc tôi biết đây chính là mình” (though not able fully to understand it all, at once I knew, this is me). Sau hai năm học y khoa ở Đại Học Sydney, ông nghỉ học và trở thành một nhà văn, đi theo những nhóm “Bohemian” thuộc thành phố Sydney. Trong số những người bạn thân của ông vào đầu thập niên 1920 là Walter Burley Griffin, Rosaleen Norton, họa sĩ “huyền bí”, và Dulcie Deamer, “Nữ Hoàng Bohemian”, nổi tiếng về mặc một tấm da beo xuất hiện trước mọi người. Khoảng năm 1925, Maurice gặp thi sĩ Max Dunn sinh ở Ái Nhĩ Lan, mới đến Úc được một năm, và có lẽ ông còn gặp một, hai người nữa quan tâm đến Phật Giáo. Có lẽ họ đã thảo luận thân mật với nhau, và trong một phút nổi thi hứng, Dunn đã gọi đây là “Hội Đoàn Nhỏ Những Người Gặp Giáo Pháp”. Max Taylor và M. Johnstone, có khi được viết là Johnson, cũng được xem là thuộc nhóm này. Người ta nói rằng Max Taylor đã thọ giới một thời gian ở Miến Điện, còn Johnstone quy y ở Thái Lan. Khi Sư trưởng người Thái Phra Dharmmadhiraraja Mahamuni đến thăm Úc năm 1956, Ngài nói rằng có một người Úc đã quy y trước thế chiến thứ II, như vậy có lẽ đây là Johnstone. Tuy nhiên như chúng ta sẽ thấy, người ta nghi ngờ rằng không có một nhóm tín đồ Phật Giáo người Úc nào xuất hiện năm 1925, với lý do là Max Dunn thường “thêu dệt quá khứ của mình”.
David Maurice (giữa) & hai người bạn Miến Điện
Giống như Dunn và một số người Phật Giáo Úc khác sau đó, Maurice là một đảng viên của Đảng Cộng Sản Úc (Communist Party of Australia). Suốt đời ông mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc thuộc bất cứ loại nào, và có lẽ điều này góp phần giải thích việc ông yêu mến nước Miến Điện. Ông có một cách giải thích khác, đó là luân hồi. Ông đã viết rằng mình không bao giờ cảm thấy thoải mái ở Úc, còn khi đến Miến Điện thì “cảm tưởng trở về quê hương mạnh thêm với mỗi bước chân của tôi”. Thật ra khi mới rời khỏi Úc Châu ông đã có ý định nghiên cứu Phật Giáo ở Trung Hoa, nhưng sau khi hết tiền ở Singapore, ông nghe nói ở Rangoon, thủ đô Miến Điện, có nhiều việc làm hơn. Ông sống ở Miến Điện 34 năm, chỉ vài lần trở về Úc trong thời gian ngắn.
Khi mới đến Miến Điện, ông rất bất mãn vì thấy các tu sĩ Phật Giáo lui tới trong các chợ để khất thực, và vì vậy ông “nhập bọn với những người làm chính trị”. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1981, ông đã nói với giọng nửa đùa nửa thật rằng lúc đó ông là “người tả phái thứ hai độc nhất ở Miến Điện”. Ông biết nhiều người trong nhóm “Thakin” sau này lãnh đạo nước Miến Điện, trong đó có U Nu, là người mà trong thập niên 1950 đã dành cho ông một tiếng nói quan trọng trong chính trường Đông Nam Á. Ở Miến Điện, lúc đầu ông làm một công việc khiêm nhường trong ngành quảng cáo, rồi làm cho xưởng chất nổ của Nobel, cho ICI, và sau khi chính quyền Anh ra lệnh cho một người chủ đuổi việc ông, ông đã dùng kiến thức về hóa học của mình để chế tạo mực viết và dầu bóng từ những nguyên liệu địa phương Miến Điện. Ông luôn luôn sống rất đạm bạc, như một người Miến Điện, ở trong một cái nhà tranh rộng 4m2, dài 4m8. Nhưng ông vẫn luôn luôn là chính mình, không bao giờ “trở thành người bản xứ”, và có rất nhiều bạn bè người Âu là những công chức hay làm việc ở những sứ quán.
Ông David Maurice và quý Sư Miến Điện
Đã đến lúc ông nghĩ rằng mình phải đi tìm những vị cao Tăng am tường Giáo Pháp, và ông bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo Miến Điện. Ông học tiếng Miến Điện và làm bạn với các tu sĩ trong xứ. Ông cũng nghiên cứu những kỹ thuật thiền định của Mahasi Syadan và các vị khác, dù không bao giờ là một học giả tiếng Pali giống như F. L. Woodward, ông vẫn đọc kinh điển một cách trọn vẹn và kiến thúc tổng quát của ông về Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) trở nên rất đáng khâm phục. Ông luôn luôn muốn trở thành tu sĩ, mà U Nu và những người khác cũng thúc đẩy ông xuất gia, nhưng do tôn trọng ý muốn của mẹ mình, ông đã không làm như vậy. Vì vậy mà ông chỉ là “một tu sĩ mặc thường phục” ( a monk in mufti).
Trong trận oanh tạc Rangoon đầu tiên của thế chiến thứ II, David Maurice đã góp phần chống lại chủ nghĩa phát xít Nhật với một số hành động can đảm. Trong cuốn “Bom Rơi Trên Đất Miến” (Bombs over Burma) người bạn cộng sản của ông là Wilfred Burchett kể rằng có lẽ ông đã cứu được bến tàu Rangoon bằng việc tổ chức một nhóm công nhân đang sững sờ vì bom, trút bỏ hàng chiếc tàu chở thuốc nổ trong khi máy bay địch oanh tạc mà biển đang bốc cháy ở xung quanh. Burchett cũng kể rằng vì Maurice là tín đồ Phật Giáo và là một trong vài người Tây Phương nói giỏi tiếng Miến Điện nên ông được mọi người ở Rangoon ưa thích thực sự, và họ thường đến hỏi ý kiến ông về mọi việc. Khi quân Nhật sắp tiến chiếm Miến Điện, ông đi đến Trung Hoa bằng đường bộ rồi từ đó đến miền Bắc Ấn Độ. Ở Ấn Độ ông gia nhập một nhóm người Miến chống Nhật trước khi về làm cho đài phát thanh Úc ở Melbourne, đọc bản tin tiếng Miến. Năm 1945, ông bí mật trở lại Miến Điện, và là người không phải gốc Á độc nhất tham dự cuộc Đại Diễn Hành Tự Do do Tướng Aung San tổ chức để đòi độc lập cho Miến Điến. Như chúng ta sẽ thấy khoảng thời gian tốt đẹp nhất của Maurice là thập niên 1950, với việc đại diện Miến Điện trong những cuộc họp với các quốc gia Phật Giáo khác, làm chủ bút tạp chí Phật Giáo bằng tiếng Anh “ Ánh sáng của Chánh Pháp” (Light of the Dhamma) được đọc khắp thế giới, và soạn cuốn “ Tiếng rống của Sư Tử” (The Lion’s roar), một tuyển tập kinh văn Pali được nhà Rider xuất bản năm 1962. Theo bất cứ tiêu chuẩn nào thì những thành tựu này cũng làm cho ông được xem là một trong những quan trọng nhất đóng góp cho việc phát triển Phật Giáo Tây Phương. Chắc chắn ông cùng với Harold Steward và Marie Byles, là những tín đồ Phật Giáo độc nhất cho đến ngày nay đã đạt được danh tiếng quốc tế. Marie Byles là người tập hợp một nhóm nhỏ những người chú ý đến Phật Giáo ở Sydney và Melbourne, và do đó làm nảy sinh tổ chức Phật Giáo ở Úc Châu.
Nỗ lực nghiêm chỉnh đầu tiên thiết lập một hội đoàn Phật Giáo ở Úc năm 1938 là của Len Bullen, một kiến trúc sư ở Melbourne. Sinh năm 1908 ở Anh Quốc và được đưa đến Úc lúc còn nhỏ trước thế chiến thứ I, Bulllen gặp Phật Giáo sau khi đi từ thiên văn học đến chiêm tinh học rồi đến Thông Thiên Học. Ông bắt đầu liên lạc với Chirstmas Humphrey thuộc Hội Phật Giáo ở London năm 1932, và sau đó với F. L. Woodward ở Tasmania. Người ta cũng nói rằng ông giúp đỡ các đệ tử người Đức của Ngài Nyanatiloka ở Tích Lan bằng cách dịch một số tác phẩm của họ sang tiếng Anh. Là hội viên của Hội Thông Thiên Học, nhưng về căn bản ông là một người duy lý Theravada, không chấp nhận một điều dị đoan thuộc bất cứ đạo nào. Phật Giáo của ông là một loại tâm lý thực hành, được lột bỏ những đặc điểm tôn giáo. Đối với ông thì những câu hỏi về những nghi lễ cổ truyền, những tục lệ dị đoan, và về tu viện” tốt hơn nên “được gửi đến những tòa đại sứ liên quan”. Quan điểm cứng rắn làm cho ông đụng chạm với nhiều người trong Hội Phật Giáo khi hội này rốt cuộc được thành lập.
Vào giữa thập niên 1930, Len Bullen bắt đầu diễn thuyết ở phòng trà Tudor ở Flinders Walk, Melbourne. Những người chủ của phòng trà này tổ chức cho ông diễn thuyết là để kiếm tiền, với một cô gái Trung Hoa bán những tượng Phật nhỏ giá 2 si linh 6 xu và một người khác xem bói bằng bã trà. Nhưng công việc này không lâu dài. Năm 1938 ông tổ chức một nhóm nghiêm chỉnh và phát tờ truyền đơn có nội dung như sau: “Nhóm Nghiên Cứu Phật Giáo Melbourne. Mục đích của nhóm nghiên cứu Phật Giáo là khuyến khích việc tìm hiểu Phật Giáo như một môn tâm lý học thực tiễn có thể thích ứng với những vấn đề của thời đại. Những cuộc họp được tổ chức mỗi tháng một lần ở Martell Library, tầng thứ hai, số 149 Swanston Street, Melbourne, để thảo luận thân mật, và vì các hội viên không nhất thiết phải là tín đồ Phật Giáo nên những đề tài khác như Yoga hay tâm lý học Tây Phương có thể được thảo luận. Kính mời quý vị tham dự cuộc họp sắp tới. Mrs. C. Ross, thư ký”.
Có lẽ thế chiến thứ II đã cắt ngang hoạt động của nhóm này trước khi họ thực sự làm việc, và Leonard Bullen được đưa đến một đơn vị ngụy trang ở Darwin. Elizabeth Bell viết rằng trong mấy năm đó, sự quan tâm đến Phật Giáo là “lẻ tẻ và phân tán”, và những lời này cũng được dùng để mô tả chính Bullen. Là người chủ trương hòa bình, có sự hấp dẫn và được nhiều người hâm mộ (đa số là phụ nữ), ông cũng là người mơ mộng. Giống như nhiều người Phật Giáo tiên phong của Úc Châu, ông có cái nhìn xa xôi, hay như D. H. Lawrence mô tả một nhân vật của ông, cái nhìn xa vời “cứ như là từ một xứ khác”.
Nếu F. L. Woodward, David Maurice và Len Bullen có vẻ lạc lõng ở Úc Châu trong những năm giữa hai thế chiến thì số ít những họa sĩ chú ý đến triết lý và mỹ thuật Phật Giáo cũng vậy. Nói chung thì giới làm văn hóa thường lưỡng lự trong việc đưa huyền học vào nghệ thuật, nhất là đối với huyền học Đông Phương. Như chúng ta sẽ thấy, Godfrey Miller và Ian Fairweather là hai họa sĩ năng động ở Úc trong thập niên 1930, nhưng lúc đó hai người chưa nổi tiếng. Một số họa sĩ Thông Thiên Học như Ethel Carrick Fox và Frank Hinder ít nhất cũng gián tiếp chịu ảnh hưởng của Phật Giáo, còn Lionel Lindsay thí nghiệm loại tranh thủy mặc Trung Hoa. Nhưng người nhiệt thành nhất với mỹ thuật Đông Phương là Margaret Preston, một nhân vật trung tâm trong hội họa hiện đại Úc Châu. Bà được biết về tranh Nhật Bản năm 1905, và học với con trai của họa sĩ Hiroshige ở Nhật năm 1934 trước khi đến Trung Quốc, nơi mỹ thuật và kiến trúc Phật Giáo gây ấn tượng mạnh cho bà. Bà viết những lời nồng nhiệt về các họa sĩ Trung Hoa, là những người cho rằng “tranh phong cảnh phải có sự huyền diệu”, phải là sự biểu lộ những ý tưởng, chứ không chỉ là một “nơi” hay “cảnh”.
Bà đưa ra loại tranh pha trộn của mình, vay mượn các loại mỹ thuật Lập Thể, Bản Địa, và Đông Phương, và bà tin rằng nếu người Úc muốn “được hướng dẫn mà không còn bị điều khiển “bởi ảnh hưởng hải ngoại nữa thì họ nên “nghiêng về phương Đông”.
Cuốn sách viết về Margaret Preston “Con Thiên Nga Đen Xâm Nhập” ( The Black Swan of Trespass) của Humphrey McQueen có tựa đề lấy từ một bài thơ của “Ern Malley”, một thi sĩ không có thật được dựng lên trong một vụ giả mạo văn học nổi tiếng mà có người cho là “làm chậm lại chủ nghĩa hiện đại ở Úc một thế hệ”. Một trong những bài thơ của “Ern Malley” có những câu sau đây:
“Tôi thấy các sách viết rằng nghệ thuật không dễ,
Nhưng không ai cảnh cáo rằng do vô minh
Tâm trí lập lại quan kiến của người khác,
Tôi vẫn là con Thiên nga đen xâm nhập vùng nước lạ”.
Điều đáng nói ở đây là trong hai người dựng lên vụ giả mạo, Harold Stewart, cũng quan tâm đến Đông Phương ngang với Margaret Preston. Cả hai chịu sự tác động mạnh của “vương quốc hảo huyền" (kingdom of nothingness), sự trống rỗng về văn hóa và tâm linh ở Úc Châu. Họ đều nghĩ rằng chủ nghĩa địa phương, tôn thờ vật chất, và chính sách tinh thần của xứ này đã bưng bít nhãn quan mỹ thuật, và do đó họ hướng về Á Châu, nơi họ thấy Phật Giáo và triết lý Đông Phương hứa hẹn một sự tái hợp nhất của con người và thiên nhiên, một môn huyền học mà trong Ca Tô Giáo hầu như đã bị xem là dị giáo. Nhưng có lẽ khuynh hướng chính trị không làm được gì cho việc này, vì trong khi Margaret Preston là người cấp tiến thì Stewart lại thuộc hạng người chính thống, và còn được mô tả là “Bảo Thủ bốc lửa”, là người dùng vụ giả mạo “Ern Malley” để phá hoại trường phái thí nghiệm trong mỹ thuật và thi ca Úc Châu.
Năm 1944, Stewart cùng với người đồng mưu cũng chính thống và bảo thủ ngang với mình là James Mc Auley đưa một tập thơ mà họ bảo là do “Ern Malley” viết cho “Angry Penguins”, một tạp chí đăng loại thơ tự do. Ý định của họ là bôi lọ chủ nghĩa hiện đại. Về sau hai người nói rằng những bài thơ này tuyệt đối không có ý nghĩa hay nghệ thuật gì cả, mà cũng không có giá trị như một văn bản ghi lại một giòng tâm thức liên tục, vì họ thay phiên nhau viết mỗi người một câu. Tuy nhiên chủ bút tờ “Angry Penguins” đã cắn câu, và cho đăng những bài thơ này trong số Mùa Thu 1944, tin rằng mình đã khám phá ra một nhà thơ mới. Vấn đề là khi Stewart và Mc Auley tiết lộ danh tánh của họ thì một số người, trong đó có cả Sir Herbert Read nổi tiếng, một người thuộc phái vô chính phủ, đã chạy đến bênh vực cho ông chủ bút, nói rằng những bài thơ đó có giá trị thực sự, và lại còn “rõ ràng siêu đẳng hơn bất cứ bài thơ nào mà hai người đã viết riêng rẽ”. Mọi người vạch trận tuyến trong vụ giả mạo này, và theo ý kiến của A.D. Hope thì đây là vụ hay nhất “kể từ khi Francis Bacon viết những vở kịch của Shakespeare”. Cuộc tranh luận trở thành tin tức loan truyền khắp thế giới, được đăng trong tạp chí “Time” của Mỹ và nhật báo “Times” ở London. Mọi người đồng ý cho rằng vụ này là “tiêu điểm của văn hóa Úc hiện đại”. Stewart rất hãnh diện với vụ giả mạo và cú đánh mạnh mẽ của nó vào thơ tự do, và chính chủ nghĩa truyền thống này đã được ông đưa vào Phật Giáo của mình, vì trong năm 1944 có ai ngờ rằng một nửa Ern Malley sẽ có ngày trở thành tu sĩ Phật Giáo?
Giống như David Maurice, Stewart viết rằng ông luôn luôn cảm thấy mình là “người lưu vong ở chính nơi mình đã sinh ra” (exile in the land of my birth). Tuy nhiên, hai người chỉ giống nhau ở chỗ cùng theo Phật Giáo, còn ở những điểm khác thì họ rất khác nhau, vì Stewart là bằng chứng cho thấy người Phật Giáo Úc Châu trước đầu thập niên 1970 đã không có ý tưởng chống văn hóa. Sinh năm 1916 ở Sydney, Stewart bắt đầu chú ý đến Phật Giáo và Lão Giáo khi đọc những tác phẩm của nhà tâm lý học người thụy Sĩ C. G. Jung vào năm 1939. Từ đó ông viết về phong trào ưa chuộng thi ca Trung Hoa trong thời gian diễn ra thế chiến thứ II (1939-1945), nhưng ông nói rằng mình không bao giờ nhắm đến cái tạm thời mà chỉ quan tâm đến cái vô thời gian. Nguyên nhân gây ra phong trào này là Trung Hoa trở thành đồng minh đáng ngưỡng mộ trong thế chiến thứ II, và từ đó sách của nhà văn Lâm Ngữ Đường (Lin Yu Tang) trở nên phổ thông, cùng với những bài thơ như bài “Lư Hương Trở Về Quê Nhà” của Frederic Macartney. Trong khung cảnh như vậy, Stewart trở thành nhà thơ Úc quan trọng đầu tiên đưa ý niệm Phật Giáo vào thi ca, kể từ những tác phẩm của Bernard O’Dowd xuất hiện gần nửa thế kỷ trước. Tư tưởng Thiền đặc biệt thâm nhập vào tinh thần của những bài thơ đầu tiên thuộc loại này như “Ba Người Nếm Thức Ăn”, “Feng Lên Cao”, “Đối Thoại Về Đạo”, và “Chuyến Bay Của Đàn Ngỗng”. Bạn của ông là nhà phê bình văn học Dorothy Green thấy ảnh hưởng này không phải là do một sự hướng về Đông Phương cần thiết “để thơ phải luôn luôn có vẻ xa xôi’”, mà là do “ý thích sự mờ ảo riêng tư” tìm thấy “sự dung nạp” trong Phật Giáo.
Vào đầu thập niên 1950, Stewart làm những bài thơ Phật Giáo về đề tài Ấn Độ, như trong bài “Muchalinda”:
“Ngài hy sinh đầu của mình trong rừng,
Ngài là người mà trong cuộc đời đã chết,
Nhưng vẫn sống trong an lạc bất tận, trong Hiện Tại vĩnh cửu.
Chìm xuống với sự trì giới lâu dài,
Hai mắt nhắm, không Mù Quáng, mà quay vào nội tâm,
Con mắt thứ ba thấy Niết Bàn,
Trong khi môi Ngài vẫn nở nụ cười chiến thắng”.
Những người phê bình Stewart có thể nói rằng tài làm thơ của ông rất đáng nể, còn khuynh hướng dùng chữ hoa của ông thì gợi nhớ Sir Edwin Arnold, và người ta cảm thấy chữ hoa được quý trọng nhất là chữ ‘T’ trong “Tradition”, “Truyền Thống”. Ông phản đối những người như Len Bullen có ý định đưa ra một “bản soạn lại” của Phật Giáo để làm “phương thuốc tâm lý trị liệu cho người Tây phương". Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, cống hiến lớn nhất của Stewart cho việc nghiên cứu Phật Giáo chính thống phần lớn thuộc về thời kỳ sau năm 1966, khi ông rời Úc Châu sang Nhật sống ở Kyoto.
Như Dorothy Green nhận xét, sự quan tâm đến văn hóa Á Châu, đặc biệt là văn hóa Nhật Bản, được gây dựng bởi A. L. Sadler, giáo sư Ban Đông Phương Học của Đại Học Sydney từ năm 1922 cho đến sau thế chiến thứ II. Ông rất có cảm tình với Phật Giáo, và thực hành trà đạo theo kiểu thiền. Do ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của ông, nhiều người Úc trong ngành tình báo quân đội làm việc ở Nhật sau chiến tranh đã rất thông thạo Phật Giáo và văn hóa Nhật Bản. Một trong những người này, Les Oates, có thể được xem là người Úc đầu tiên thực hành Thiền tông một cách chính thức, và sau đó giúp việc thành lập và duy trì Hội Phật Giáo ở Victoria. Sinh năm 1926, ông bắt đầu học tiếng Nhật vào năm 1939 ở trường University High School ở Melbourne. Cũng trong thời gian này ông đọc cuốn “Ánh Sáng Á Châu" (The Light of Asia), và chịu ảnh hưởng của “sự thực tế không tình cảm” trong cuốn “Lời Phật Dạy" (Some Sayings of the Buddha) của F. L. Woodward.
Như vậy, với số vốn Phật Giáo căn bản, Les Oates đã đến nước Nhật, và bị lôi cuốn bởi “sự hòa hợp về mỹ thuật và sức mạnh trong tất cả những vật đơn sơ” mà Thiền tông Nhật Bản cống hiến. Kết quả là ông theo học ở một tu viện Soto Zen (ThiềnTào Động) gần thành phố Hiroshima, và tham dự những khóa “sesshin” (nhiếp tâm) cuối tuần trong khoảng bốn năm. Trong cùng thời gian này, một thanh niên Úc khác là Len Henderson làm việc ở một bệnh viện trên một hòn đảo trong Vịnh Hiroshima, và dù không gặp Les Oates lúc này, cũng đã chú ý đến Zen. Len Hendersen viết rằng ông đã có cảm tình sâu đậm với Á Châu từ thời thơ ấu, khi xem cuốn sách nói về cuộc nổi loạn ở Ấn Độ “Nhớ Lại Lawnpore”. Trong khi ở Nhật Bản và gần như không biết gì về Phật Giáo, ông đã đến thăm những ngôi chùa và đã ghi lại những cảm tưởng đầu tiên của mình một cách thành thực:
“Tôi đã không biết rõ là mình đang ở trong một loại đền chùa nào, chỉ được nghe nói rằng Zen là một giáo thuyết về “trí huệ". Tôi nghĩ “trí huệ" nghe có vẻ được với mình, và thế là trong sự kiêu kỳ như vậy, tôi bắt đầu nghiên cứu về Thiền. Lúc đó tôi không biết trí huệ là trí huệ về cái gì, vì vậy tôi đã bắt đầu với ý tưởng hoàn toàn sai lầm".
Ông xem kinh sách một cách đơn độc cho đến khi Hội Phật Giáo ở Victoria được thành lập vào năm 1953. Trong nhiều năm, hai người, một Les Oates rất trí thức và một Len Henderson rất tinh tế, là lực vận hành của hội.
Thế chiến thứ II làm cho chủ nghĩa Thân Anh giảm bớt sức mạnh, và cũng làm giảm nỗi sợ về “hiểm họa da vàng” (yellow peril). Với sự chấm dứt của chủ nghĩa thực dân, mặc cảm “Gánh Nặng Của Người Da Trắng” dịu đi phần nào, và một thế hệ mới những người Úc lý tưởng thoát khỏi chủ nghĩa duy vật chất của thời kỳ Suy Thoái Kinh Tế đã có thể nhìn văn hóa và triết lý Đông Phương với một nhãn quan khác. Phong trào dành độc lập dân tộc và chiến tranh Triều Tiên đã làm nổi vị trí của Úc Châu ở bên cạnh Á Châu, giống như Việt Nam đối với thế hệ tiếp theo sau. Vì vậy, có lẽ không đáng ngạc nhiên khi trong mười năm cho đến khoảng năm 1956, ở Úc bộc phát một sự quan tâm đến Phật Giáo để rồi đi vào một thời kỳ yên lặng khác, chỉ chấm dứt vào đầu thập niên 1970. Nhưng lúc đầu, theo một số điều kể về người Úc gặp gỡ Phật Giáo trong cuối thập niên 1940 thì sự quan tâm mới này có những tính chất trái ngược nhau, vừa khen vừa chê.
Trong lời kể của tiểu thuyết gia George Johnston về việc ông đến thăm một số tu viện Tây Tạng vào cuối năm 1945, người ta thấy một thí dụ tiêu biểu về tính kiêu ngạo thực dân nhường chỗ phần nào cho chủ nghĩa lãng mạn. Johnston là bạn thân của Peter Finch, và theo người viết tiểu sử của ông, Gary Kinnane, thì ông vẫn chú ý đến triết học Đông Phương. Ông đến miền Đông Tây Tạng trên một chiếc máy bay với mấy người Mỹ muốn đổi một máy bay đầy loại mũ mềm vành rộng ( slouch hats) của người Úc để lấy ngựa Tây Tạng. Johnston và các bạn dâng tặng vị Sư trưởng của tu viện địa phương một đĩa hát “Cái Này Chắc Chắn Là Thạch’, Vì Mứt Trái Cây Đâu Có Run Rẩy Như Vậy” (‘It Must Be Jelly’ Cause Jam Don’t Shake Like That), và khi cái máy hát cũ phát ra tiếng nhạc “nó liền được hưởng ứng nhiệt liệt, vị Phật Sống gật gù theo điệu nhạc Jazz nóng bỏng, hai mắt nhắm và trên mặt hiện lên nét hoan hỷ”. Khi nhạc đã lắng xuống, Johnston gợi chuyện vị Lama hóa thân về luân hồi và về những điểm khác nhau giữa Phật Giáo và Ca Tô Giáo. Trước khi trả lời những câu hỏi của ông, vị Lama lại “mỉm cười lặng lẽ, và tôi lại cảm thấy mình giống như một em bé mẫu giáo khờ khạo”. Kinnane cho rằng trước đây khó có thể có một người Úc nào lại có một cuộc hội kiến cao trọng như vậy. Ý kiến này không đúng lắm vì đã có một số nhà truyền giáo Úc đến Tây Tạng, nhưng có lẽ đây là cuộc đối thoại đầu tiên mà ở trong đó người hỏi thực sự sẵn lòng nghe. Trong một chuyến đi phụ, Johnston và một người bạn đến thăm mấy ngày tu viện Konda Gomba ở trên độ cao gần bốn ngàn thước, được xem là bối cảnh thật của cuốn tiểu thuyết “Shangri-la” của James Hilton. Ý kiến chung của ông về việc tu tập của các tu sĩ ở đây là “làm cho họ trở thành con két nhắc lại những giáo lý, với một chút thực hành bên ngoài”. Johnston không hiểu ý nghĩa của những bức tranh mật giáo trong tu viện, nhưng ông rất khâm phục một nữ hành giả người Trung Hoa đang thực hiện một kỳ nhập thất ba năm. Nét mặt an lạc của bà ta làm cho ông ngạc nhiên, và có lẽ hình ảnh của bà ta đã được đưa vào cuốn tiểu thuyết “Thung Lũng Trên Cao” (The High Valley) của ông mà trong đó nhân vật chính là Salom.
Một cuộc gặp gỡ Phật Giáo khác với ít ấn tượng trái ngược hơn, được kể lại trong cuốn tiểu sử của một đại biểu 23 tuổi tham dự hội nghị thế giới Thanh Niên Ca Tô Giáo ở miền Nam Ấn Độ năm 1952, Robert J. Hawke. Ông đã rất bất mãn với thái độ của nhiều người ở hội nghị, và sau đó ông đã đi Colombo, nơi ông trú với một người bạn Tích Lan mà ông đã quen trong khi học đại học ở Perth. Năm 1982 ông nói về chuyến đi này với Blanche d’Alpuget như sau:
“Họ là những người Phật Giáo, có nhà ở trong khu đất của chùa. Không khí trong nhà rất an lạc và hiền hòa đến mức không thể tin được. Tôi nói nhiều về Phật Giáo với họ, và họ đưa tôi đến một ngôi chùa trên đồi ở Kandy, nơi tôi gặp các tu sĩ và nói chuyện với vị Sư trưởng rất già. Ngài giảng giải thêm về giáo lý cho tôi ... Sau kinh nghiệm đáng bất mãn ở Ấn Độ, thì sự duy lý hấp dẫn của Phật Giáo làm cho tôi bất mãn thêm. Tôi chưa bao giờ đi đến chỗ chấp nhận Phật Giáo, nhưng tôi đã thấy và vẫn thấy Phật Giáo đáng thỏa mãn hơn là triết lý Do Thái- Ca Tô Giáo”.
Một năm trước khi Hawke đến Tích Lan, một doanh gia giàu có người Sydney tên là Leo Berkeley đã có những cuộc thảo luận tương tự với Đại Đức Narada Thera thuộc tu viện Vajirarama ở Colombo. Sinh năm 1902 ở Hòa Lan, Leo Berkeley đến Úc năm 1947 sau hơn hai mươi năm trông xem một tiệm sách cũ ở London. Vào đầu năm 1951, trên một chuyến tàu trở về Anh Quốc, ông gặp Sir Lalita Rajapakse, lúc đó là bộ trưởng tư pháp của Tích Lan, và được ông này giới thiệu Phật Giáo. Berkeley đặc biệt chú ý đến tư tưởng trong Phật Giáo là người ta có thể kiểm soát được vận mệnh của mình. Khi tàu ghé Colombo, Rajapakse giới thiệu ông với Đại Đức Narada. Đại Đức đưa cho ông một số sách Phật Giáo và mời ông đến thăm Ngài lần nữa trên đường trở về Úc. Hai tháng sau ông trở lại thăm Đại Đức Narada, và khi Ngài đề nghị ông lập một Hội Phật Giáo ở Sydney, ông đã rất phấn khởi. Ngay sau khi trở về Úc vào giữa năm 1951, ông đọc một bài báo viết về Marie Byles trong tờ “Sydney Morning Herald”, và đã liên lạc với bà để nói về việc thành lập một Hội Phật Giáo. Lúc đầu bà này lưỡng lự, cho rằng Úc Châu chưa sẵn sàng chấp nhận Phật Giáo, nhưng sau đó cũng đồng ý, vì sức quyến rũ không ít của Berkeley. Vào ngày thứ sáu trong tuần đó, Leo Berkeley cho đăng thông báo việc lập hội trên các nhật báo, và sau hai tuần đã có mười hội viên họp ở nhà của ông ở East Roseville. Một tổ chức Phật Giáo trên quy mô lâu dài đã ra đời.
Đến năm 1951, Marie Byles đã tiến xa trên con đường trở thành một nhân vật huyền thoại. Bà là phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp luật khoa ở New South Wales và là một người tiên phong trong việc bảo tồn thiên nhiên, leo núi, đi rừng, chống chiến tranh, ủng hộ phong trào nữ quyền, và Phật Giáo. Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Nhiều Kiếp Sống Của Một Người” (Many Lives in One) chưa xuất bản, bà viết rằng dù vẫn sống thân thiện với xã hội chính thống, nhưng đa số những điều mưu cầu khác của bà được hướng về phía “góp phần một cách vô thức trong việc phá hoại xã hội đó”. Bà nói rằng mình là người “không tim” bẩm sinh, có cha mẹ là tín đồ bất mãn của giáo phái Unitarian, ra đời ở gần thành phố Manchester, Anh Quốc vào tháng tư năm 1900, và được đưa đến Úc năm 1911. Cha của bà là người theo chủ nghĩa xã hội Fabian, và Mẹ của bà cho bà ăn chay hoàn toàn, vì vậy 1957 bà nói rằng mình chưa bao giờ ăn thịt.
Từ khi còn nhỏ Marie Byles đã là người có ý chí mạnh mẽ, và cha của bà đã gọi bà là “Mrs Mahabili Pushbar”, “bà làm được mọi việc”. Khi lớn lên, các bạn của bà thấy bà là “người tự lập” và “có tính thích cô độc”. Bà tự mô tả mình là “người độc thân tự nhiên”, và như vậy tất cả những năng lực của bà được dùng để hướng về những mục tiêu khác nhau. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Sydney năm 1924, bà góp phần thành lập hội người đi rừng ở Sydney (Sydney Bushwalkers) năm 1927 và đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động cho khu vực Bouddi được công nhận là công viên quốc gia. Trong thập niên 1930 bà dành nhiều thời giờ cho việc leo núi, dù chỉ cao 1m57 và lúc nào cũng rất mảnh mai; Cho xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình “Bằng Tàu Chở Hàng Và Núi” (By Cargo Boat and Mountain). Năm 1936 bà khởi hành trong một chuyến thám hiểm đã được hoạch định từ lâu để chinh phục Núi Sansato cao hơn sáu ngàn thước ở miền Tây Trung Quốc, nhưng quả núi đã không để cho bị chinh phục, và cuộc đời của bà có một sự thay đổi lớn. Đây là lần đầu tiên bà cảm thấy mình thất bại và không vững chắc, trong một thời gian ngắn bà đọc tác phẩm của Gandhi và cả đi lễ nhà thờ nữa, nhưng việc làm theo tập quán xã hội như vậy không thích hợp với bà, bà sợ bị người khác khám phá ra mình không phải là người cấp tiến.
Do hoạt động trong phong trào hòa bình vào cuối thập niên 1930, bà có nhiều bạn thuộc giáo phái Quaker và thường tham dự những cuộc họp của họ, nhưng có lẽ bà đã không bao giờ có thể tin vào một Thượng Đế (God); như một nhà báo về sau đã viết rằng luôn luôn chỉ có “sự hùng vĩ của trái đất làm cho bà sững sờ”. Mùa xuân năm 1941 bà chịu thêm một tai họa khiến chân của bà bị thương, không thể đi rừng được nữa. Với những viễn cảnh bên ngoài không còn, bà quay vào bên trong, đọc cuốn “Lời Đức Phật" của F. L. Woodward trong một thời kỳ quan trọng, vào khoảng lễ Giáng Sinh 1941. Bà tiếp tục tham dự những cuộc họp của các tín đồ Quaker, và một người bạn ở đó dạy bà tham thiền với thế ngồi hoa sen, nhưng bà thường dùng những dịp như vậy để trình bày những quan điểm Phật Giáo và Gandhi của mình. Bà xin gia nhập giáo phái Quaker, nhưng sau sáu tháng cứu xét, bà là một trong số rất ít người bị từ chối. Bà cho rằng nguyên nhân là vì “như thường lệ, tôi đi trước người khác hai mươi năm”, còn các bạn Quaker của bà thì nghĩ rằng một lý do không nhỏ là bà mặc quần mà không mặc váy.
Hệ quả của việc bị từ chối này là bà chú ý đến Phật Giáo nhiều hơn, và bắt đầu nghiêm chỉnh nghiên cứu kinh điển Pali, cũng như liên lạc với F. L. Woodward, David Maurice, và Hội Phật Giáo ở London. Có người nói rằng bà không bao giờ xem mình là tín đồ Phật Giáo, mà thích thảo luận về Phật Giáo khi gặp những Ca Tô Giáo, và thảo luận về Ca Tô Giáo với người Phật Giáo. Đúng như vậy, bà là người chiết trung, nhưng những người bạn Quaker thân nhất của bà cảm thấy rằng bà luôn luôn là người Phật Giáo ở trong tâm. Khi viết cho những tạp chí Phật Giáo như tờ ‘Trung Đạo’ (The Middle Way), bà dùng câu “Người Phật tử chúng ta” (we Buddhists), và vậy có thể nói rằng lý do chính mà bà thảo luận về tư tưởng Ca Tô Giáo và Gandhi với Phật Giáo là để mang lại sự khoan dung trong số không ít người chống Ca Tô Giáo một cách vô lý. Như chúng ta sẽ thấy, sự kiện bà ở Ấn Độ một năm, ba lần đến thăm các tu viện ở Miến Điện, hai lần đi Nhật Bản để nghiên cứu Zen, và Itteen, viết bốn cuốn sách về Phật Giáo, và tiên phong trong việc thành lập Hội Phật Giáo New South Wales, cho thấy Phật Giáo là ảnh hưởng quan trọng nhất trong đời bà, nếu không phải là ảnh hưởng quan trọng độc nhất.
Ngay từ 1946 Marie Byles đã bàn tính xây dựng Trung Tâm Tu Tập Phật Giáo với tiến sĩ Chalmers, một nhà thiên văn học thuộc đài thiên văn Mount Stromlo cùng bà vợ của ông, có 364 ha đất trên một cao nguyên cao hơn 900 thước, gần Shelley, Victoria. Họ thông báo kế hoạch này trên tạp chí “The Middle Way” số tháng 5 năm 1946, và Marie đã mời một số bạn đi rừng của mình tham dự, nhưng vì nguyên nhân nào mà kế hoạch này bị hủy bỏ thì không rõ. Giống như Marie, vợ chồng Chalmers là những người thuộc phái tự nhiên nhưng họ có khuynh hướng Thiền tông, vì vậy có thể có một sự bất đồng ý kiến nào đó trong vụ này, vì Marie Byles thiên về Phật Giáo Theravada. Có lẽ nguyên nhân có lý hơn là họ đã thảo luận với nhau về việc thành lập trung tâm này qua thư từ, và khi ông bà Chalmers gặp mặt marie Byles thì họ bất mãn về lối xử sự có phần độc đoán của bà.
Có lẽ phải đến năm 1951, Marie Byles mới lại liên lạc với những tín đồ Phật Giáo ở Sydney. Trong một cuốn sổ tay nhan đề “Phật Giáo ở New South Wales” được tìm thấy trong những cái thùng đựng tài liệu chưa xuất bản của bà ở Thư Viện Mitchell, mục đầu tiên nói đến một “Khóa Tu Tịnh Khẩu” (Silent Retreat), gồm tám người tham dự vào ngày 20 tháng 5 năm 1951, ở nhà một người bạn ở Lindfield để kỷ niệm lễ Phật Đản. Lúc đó Marie Byles có lẽ không phải là người tụng kinh niệm Phật, nhưng có thể bà đã đọc một đoạn kinh, và như vậy đây là lễ Phật Đản đầu tiên được cử hành bởi một nhóm người Úc không phải là người gốc Á Châu. Mục thứ hai đề ngày 9 tháng 9, nói đến một nhóm mười người, gồm cả Leo Berkeley, tụ tập để gặp David Maurice ở nhà của Marie Byles ở Cheltenham. Trong tháng 11 năm 1951, Maurice hướng dẫn một nhóm nhỏ về Pháp Thiền Miến Điện. Trong chuyến viếng thăm này ông cũng diễn thuyết về Phật Giáo ở Đại Học Melbourne, và dành được sự chú ý của một số người trong nhóm bạn cũ của Len Bullen.
Trong khi đó ở Sydney, trong khoảng từ hai đến ba tháng sau khi ông thông báo việc thành lập một Hội Phật Giáo, những cuộc họp tối chủ nhật của Leo Berkeley thu hút được đến ba mươi người. Như vậy, đến cuối năm 1951, Phật Giáo có tổ chức đã hoạt động tốt ở Úc Châu. Tuy nhiên theo một thuyết vẫn được mọi người nói chung chấp nhận thì một Ni sư người Mỹ có pháp danh là Dhammadinna đã đưa Phật Giáo đến Úc Châu vào cuối năm 1952. Tất nhiên tất cả các truyền thống tôn giáo đều có những huyền thoại của mình, và đây là huyền thoại lớn nhất trong lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu. Huyền thoại này đã xuất hiện vì vào năm 1956, một phái mới với lối tiếp cận Phật Giáo rất khác đã nắm quyền điều khiển Hội Phật Giáo ở New South Wales, đẩy Leo Berkley ra khỏi địa vị của ông và trục xuất Marie Byles. Lịch sử thời kỳ đầu của hội đã bị viết lại, dù có lẽ một cách vô thức, và Ni sư Dhammadinna được nâng lên địa vị “Người Sáng Lập Phật Giáo Úc Châu" một cách không xứng đáng. Huyền thoại này có tính chất phức tạp vì những người tạo ra nó đã biết rất ít về Ni sư Dhammadinna hay về quá khứ của bà.
Lối thoát độc nhất: 1952-1956
Natasha Jackson, chủ bút tạp chí hai tháng một kỳ “Metta” ( Từ Bi), là tiếng nói hàng đầu trong Phật Giáo Úc Châu từ 1955 tới 1971. Sinh năm 1902 ở Moscow, thủ đô của nước Nga, bà Natasha Jackson được bà mẹ cấp tiến, chống Nga Hoàng của mình đưa tới Úc vào năm lên sáu tuổi. Bà học ngành y tá và làm giáo viên, gia nhập Đảng Cộng Sản (Communist Party)một thời gian ngắn trong thập niên 1930. Cuộc hôn nhân của bà lâu dài nhưng không hạnh phúc, có lẽ vì vậy mà bà chú ý rất nhiều tới lịch sử và triết học. Là người biết nói chuyện một cách quảng bác, nhưng theo con trai của bà và những người khác thì bà không có nhiều kinh nghiệm thực tế về thế giới hàng ngày. Bà là người trí thức về mặt triết học, và không chấp nhận những việc không nghiêm chỉnh. Natasha Jackson dễ gây bất hòa, và lối cư xử thẳng thừng của bà gây ra liên hệ xấu giữa bà và nhiều hội viên của Hội Phật Giáo New South Wales.
Ni Sư Dhammadinna
Năm 1953, Natasha Jackson tham dự một số buổi diễn thuyết của Ni Sư Dhammadinna ở Centre Club, đường George. Dù chỉ gặp Ni Sư Dhammadinna trong vài lần này, qua thời gian vị nữ tu đã trở thành gần như một thần tượng trong tâm trí của bà: “Nếu có người nào hỏi rằng tôi coi ai là nhân vật đáng ghi nhớ nhất mà mình đã gặp tôi sẽ trả lời ngay đó là Ni Sư Dhammadinna. Từ ngữ “charisma” hay sức thu hút người khác đã bị lạm dụng tới mức nhàm chán, nhưng dù từ ngữ này hàm ý tính chất gì đi nữa thì Ni Sư cũng có tính chất đó. Sức thu hút này không tùy thuộc vào vẻ bên ngoài, đức hạnh, trí huệ, hay tính kiên định, mà là sự dễ cảm mến. Ni Sư dù đã cạo đầu và không mặc y phục hợp thời trang nào cả, vẫn có một vẻ đẹp siêu phàm với nước da trắng sáng gần như trong suốt, thêm vào là đôi mắt xám đem màu đá phiến. Dù là người thành tâm tu học Phật Giáo, Ni Sư vẫn có một chút vẻ ‘Femme fatal’, (người đàn bà nguy hiểm), mà bà hoàn toàn không lưu tâm tới”.
Ni Sư Dhammadinna là người hùng biện, và nhất là một phụ nữ, vì vậy đây là một sự giới thiệu Phật Giáo mạnh mẽ đối với Natasha Jackson. Sau đó, vì những lý do mà chúng ta sẽ thấy, bà đã hạ giá vai trò tiên phong của Leo Berkeley và Marie Byles rồi đặt ra huyền thoại Ni Sư Dhammadinna đã một mình đưa Phật Giáo tới bờ biển Úc Châu.
Đối với Natasha Jackson thì một phần quan trọng trong huyền thoại Dhammadinna là vị nữ tu này nói rằng mình đã từ chối thừa hưởng một gia tài lớn để đi tu. Sự thật về phần đầu cuộc đời của Ni Sư Dhammadinna là một bí mật. Sinh năm 1881, có lẽ ở San Francisco, và hình như tên là Pearce hay Van Stemn gì đó, bà đã làm cho người ta tin rằng bà là người thừa kế một đế quốc dầu hỏa. Người ta nghe nói bà học ở Thụy Sĩ và ở Đại Học Sorbonne ở Paris, sau đó lấy một Nam tước người Nga, nguyên là một viên tướng trong quân đội của Nga Hoàng. Họ đã đi du lịch khắp Á Châu, và sau khi ông ta qua đời hoặc ly dị gì đó, bà trở thành một Tỳ khưu Ni ở Thượng Hải. Gần như chắc chắn đây là chuyện dã sử, vì thật ra bối cảnh của bà có lẽ rất “trung lưu”, và lần đầu tiên bà tiếp xúc với Phật Giáo là qua những khóa Thiền của Nyagen Senzaki ở San Francisco, bắt đầu vào năm 1922. Người ta được biết là bà thọ giới với một vị Thầy người Âu ở Thượng Hải vào cuối thập niên 1920. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ “Argus” ở Melbourne năm 1952, bà nói rằng vị Thầy này là người Đức, và bà gặp lần đầu tiên năm 1928. Vị này chỉ có thể là Ignatz Trebitsch, có sự nghiệp rất nhiều thăng trầm được Holmes Welch kể lại trong cuốn “Phật Giáo Phục Hồi Ở Trung Hoa" (The Buddhist Revival in China).
Trước kia Ignatz Trebitch đã lần lượt là giáo sĩ thuộc các giáo phái Lutheran, Presbyterian, và Anh Giáo, nhưng công việc cả đời thực sự của ông là gián điệp quốc tế, mà rốt cuộc vào năm 1916 đã đưa ông vào một nhà tù ở Anh Quốc trong ba năm vì tội làm giấy tờ giả. Năm 1925 ông được làm lễ thọ giới ở Tích Lan, và từ năm 1926, ông truyền đạo trong hai năm ở San Francisco. Có lẽ ông đã gặp Ni Sư Dhammadinna ở đây. Sau đó bà đi theo vị Thầy đến Thượng Hải, nơi ông thành lập một “Niệm Phật Đường”(Buddha House) ở Tô Giới Pháp, làm cố vấn cho một số tướng lãnh Trung Hoa, và viết những cuốn sách về những vấn đề quốc tế. Lúc này ông tự gọi mình là Triệu Công (Chao-k’ung). Năm 1933, ông đi khắp Âu Châu để truyền đạo và trở về với tám nữ và bốn nam đệ tử. Nhưng nhóm tu sĩ này dần dần tan rã, khi hai người tự tử, một người qua đời, và những người còn lại bị Trebistch đuổi đi trong những cơn nổi giận của ông. Trong số những người này chắc chắn có Ni Sư Dhammadinna.
Sau năm năm ở Thượng Hải, Ni Sư Dhammadinna đến Ba La Nại (Sarnath) ở miền Bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật Chuyển Pháp Luân. Ở đây bà viết cho tạp chí “Maha Bodhi Journal” và học với một Tăng sĩ người Tích Lan tên là Matiwella Sanghratana. Gần bốn mươi năm sau vị này chỉ có một từ ngữ để mô tả bà: “gàn dở”. Có người nói rằng bà đã cố gắng thiết lập một nữ tu viện ở Los Angeles vào năm 1938, nhưng sau khi việc này không thành, bà đi Tích Lan và ở đó mấy năm. Đại Đức Nyanaponika, đại đệ tử của Đại Sư Nyanatiloka, nhớ lại rằng vào cuối thập niên 1930 bà sống trong một ngôi nhà tranh thuộc một trường Phật Học gần Kanty, rồi đến “Tịnh Thất Rừng” là nơi mà Đại Sư Nyanaponika cũng tới ở vào năm 1988. Ni Sư Dhammadinna biết Ngài Nyanatiloka, nhưng Ngài là người bảo thủ về hầu hết mọi mặt, vì vậy có lẽ Ngài đã xem bà là người mới nổi lên do đòi quyền mặc áo vàng và được đối xử bình đẳng với các Tỳ Kheo. Vì dòng Tỳ Kheo Ni thuộc hệ Theravada đã không còn từ mấy thế kỷ trước rồi nên bất cứ đẳng cấp nào mà bà có thể có cũng là do Phật Giáo Trung Hoa ban cho hoặc do bà tự đặt ra. Bà thường đòi hỏi quyền lợi ngang với các Tỳ Kheo, và người ta còn nói rằng bà tranh đấu để có phòng vệ sinh kiểu Tây Phương ở bất cứ nơi nào mình đến, như vậy có thể bà đã xúc phạm tinh thần bảo vệ truyền thống của người Tích Lan. Sau khi có chuyện bất hòa với người bảo trợ độc nhất của mình là Lady de Silva, bà được Tiến Sĩ Malalasekera, chủ tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới, cung cấp địa chỉ của Ernie Dadswell và Marie Byles. Ông này cũng trả tiền mua vé tàu cho bà và chắc chắn cũng mừng vì đã loại bỏ được một vấn đề khá gai góc.
Khi Ni Sư Dhammadinna đến Úc Châu vào ngày 30 tháng 8 năm 1952, bà được giới truyền thông ở khắp nước này chú ý tới. Bà nói rằng trước đây mình là người hoạt động xã hội, và là cháu của một đại gia dầu hỏa, và bây giờ muốn thiết lập một trung tâm nghiên cứu “Khoa Học Phật Giáo". Nơi đến đầu tiên của bà là Melbourne, bà đã ở đây vài tuần trong ngôi nhà nhỏ của ông bà Dadswell ở Bắc Melbourne, được báo chí phỏng vấn, và diễn thuyết vài buổi ở Hội Thông Thiên Học. Tuy nhiên bà Dadswell không vui lòng vì chế độ ăn uống nghiêm khắc của Ni Sư và lời dạy của bà rằng các cặp vợ chồng người Phật Giáo phải “trừ bỏ sự cám dỗ của xác thịt” và kết quả là ông chủ nhà in Ernie Dadswell không muốn làm một hoạt động Phật sự nào nữa.
Về sau, trong những bài xã luận của bà trên tạp chí “Metta” của Liên Hiệp Phật Giáo Úc Châu, Natasha Jackson viết rằng Ni Sư Dhammadinna đã tới Sydney “không báo trước và không có sự đón rước”. Natashsa Jackson tin rằng vị nữ tu sĩ đã viếng thăm bà Marie Byles mà không cho biết trước, và được cho ngủ trên hai tấm mền trải trên sàn kho chứa đồ. Sự thật là Marie Byles đã biết trước việc Ni Sư Dhammadinna sẽ tới thăm và đã cho một thư ký của mình tới đón bà ở phi cảng. Tuy nhiên, tất cả những năm đọc kinh sách Phật Giáo của Marie Byles đã không sửa soạn tâm trí cho bà đối phó với Ni Sư Dhammadinna và trong cuốn tiểu sử tự thuật của mình bà viết rằng những gì xảy ra tiếp theo là “một màn bi hài kịch”.
Marie Byles có một ngôi nhà nhỏ tọa lạc trên mấy mẫu đất rừng rất đẹp ở Cheltenham. Các ngôi nhà khoảng hai mươi thước bà cho xây “Am Điềm Lành” để làm nơi tham thiền và cũng làm chỗ ngủ cho khách. Tất nhiên bà đã nghĩ rằng đây là chỗ tốt cho một vị Tỳ khưu Ni tới thăm mình, và bà cũng ra công sửa sang con đường đưa tới nhà vệ sinh. Khi Ni Sư Dhammadinna tới, trước hết Marie Byles ngạc nhiên vì “hết va li này tới rương hành lý khác của bà ta, và sau đó bà bất ngờ khi vị nữ tu ngó cái “Am Điềm Lành” rồi “đưa hai tay lên chán ngán”. Dù Ni Sư Dhammadinna nói rằng mình đã sống trong những hang đá ở Tích Lan, ngôi nhà này vẫn làm cho bà e ngại đáng kể. Còn về chuyện Ni Sư đến thăm không có một xu trong túi thì những người láng giềng của Marie Byles nhớ rất rõ bà nói với họ: “Tôi không cần tiền, tôi xài thẻ tín dụng du lịch”. Tuy nhiên Marie Byles đã tôn trọng tuổi tác của Ni Sư, và vì bà ta phải đeo đai sắt ở lưng nên đã dành ngôi nhà nhỏ của mình cho bà, nhưng khi Ni Sư Dhammadinna được mời nói chuyện với các bạn Phật Giáo và Quaker của bà, Marie Byles lại một lần nữa sững sờ: “Bà ta diễn thuyết cho nhóm bạn của tôi nghe với những lời lẽ giống như của một người Thiên Chúa Giáo hẹp hòi nhất và giáo điều nhất. Trước đó tôi đã rất muốn bà ta sẽ gây ấn tượng mạnh cho những người bạn Thiên Chúa Giáo có đầu óc rộng rãi của tôi!”.
Sau đó Leo Berkeley đến cứu Marie Byles bằng cách mời Ni Sư Dhammadinna về nhà của ông và nói chuyện trong những cuộc họp tối chủ nhật. Những cuộc nói chuyện của vị nữ tu từ phương xa tới đã lôi cuốn được khoảng năm mươi người, nhưng Leo Berkeley thấy bà ta là người không thể chịu nổi, vì không những bà ta tìm cách phá hoại cuộc hôn nhân của ông mà còn rất “đòi hỏi”. Ông không tin chuyện “đại gia dầu hỏa”, và nghĩ rằng bà ta đã dùng cái áo vàng của mình để gây ấn tượng rồi “dần mò tới với những người nào mà bà ta biết là có tiền”. Con trai của ông, Hartog, năm 1988 là cố vấn tư pháp tiểu bang Victoria, nói rằng Ni Sư Dhammadinna là một Phật tử thành tâm, nhưng bà ta có một sự “khó hiểu” nào đó, và “nói chung là thiếu tâm bình đẳng”. Tuy nhiên, bà vợ của Leo Berkeley và một số bạn của ông lại thích Ni Sư Dhammadinna, vì vậy ông thu xếp cho bà ta ở trong một căn nhà, nơi độc nhất mà bà ta thấy có thể chấp nhận được: Double Bay. Tất cả những cuộc diễn thuyết sau đó đều được tổ chức ở Centre Club, và Ni Sư hầu như không còn liên quan gì tới Hội Phật Giáo New South Wales – đó là công trình của Leo Berkley, và hai người không ưa gì nhau. Vì vậy những lời nói sau này cho rằng hội được thành lập “dưới sự bảo hộ của Ni Sư” là rất sai lầm.
Đúng hơn, Ni Sư Dhammadinna chọn một nhóm tám đệ tử nhiệt thành của mình, gồm cả vợ của Leo Berkeley, Lummechien, Lyn và Eric Penrose, và Graeme Lyall, rồi dạy họ tụng niệm bằng tiếng Pali. Họ là tám người mà bà ta cho rằng đã “sẵn sàng thọ nhận Giáo Pháp”, nhưng “Giáo Pháp” mà bà dạy họ khá khác biệt với giáo lý Theravada thuần túy mà bà tuyên xưng trong những bài thuyết pháp của mình. Bà thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, và nói với các đệ tử ruột của mình là vị Nữ Bồ Tát đã hiện ra trong một số buổi thuyết pháp, cũng như vua trời Đế Thích xuất hiện trong những dịp khác. Bà cũng nói rằng mình có thần thông, và thường la lên trong khi tham thiền để cho các đệ tử thấy là mình đang đạt “chứng nghiệm”. Nhóm đệ tử này tụ họp ở căn nhà của bà mấy lần một tuần, người nào tới trễ sẽ không được vào. Ni Sư yêu cầu họ phải tuyệt đối tuân lời mình, vì vậy họ gọi bà là “Hitler của Phật Giáo". Trong những thư từ gởi các đệ tử, bà viết “Guru của con, tức “Thầy của con”. Graeme Lyall là người quyết định không chấp nhận đường lối độc đoán của Ni Sư, sau khi bị bà khiển trách nặng nề vì vắng mặt cuối tuần mà không xin phép bà trước. Nhưng Lummechien, Berkeley và vợ chồng Penrose vẫn là những đệ tử trung thành, và sau khi Ni Sư Dhammadinna rời Úc Châu vào giữa năm 1953, họ vẫn gửi cho bà một món trợ cấp mỗi tháng trong mấy năm.
Lúc đầu bà trở về Los Angeles, và ở đây Robert Aitken, về sau là “sơ tổ” Thiền ở Úc Châu, nhớ lại là bà đã cãi nhau với vị Thầy cũ của mình, Nyogen Senzaki, trong cuộc tụ họp của các đệ tử kỳ cựu nhất của ông. Sau đó Ni Sư được cộng đồng người Hoa ở San Francisco bảo trợ, và rồi vào tháng 8 năm 1957, Lyn và Eric Penrose đưa bà trở lại Úc. Họ dành một “phòng bà ngoại” cho bà trong ngôi nhà của họ ở Bilgola, và vì bà nhập cảnh bằng hộ chiếu du lịch nên không được diễn thuyết. Lyn Penrose nói rằng trong lần tới Úc này, Ni Sư không tiếp xúc gì với Hội Phật Giáo New South Wales . Bà trú ở Sydney một năm rất lặng lẽ rồi đi Hawaii vào tháng 10 năm 1958. Robert Aitken cũng biết bà ở đó và nhớ lại rằng lối cư xử “khó chịu” làm cho bà gặp khó khăn trong việc tìm người bảo trợ, vì vậy bà không được vui lắm. Năm 1962 bà bị bể xương hông, phải nằm một chỗ mấy năm cho tới khi qua đời vào tháng mười một năm 1967. Những người bảo trợ của bà ở Hawaii nói rằng lúc bà qua đời có những điềm lạ như sấm và chớp xuất hiện.
Ni Sư Dhammadinna là người hùng biện và có cá tính mạnh. Sự hiện diện của bà gây nhiều chú ý trong lúc các hội đoàn Phật Giáo đang nổi lên. Tuy nhiên, theo đa số những người biết về bà thì bà cũng là một người kỳ cục, với những lời khoe về quyền năng tâm linh của mình, về những lễ truyền pháp đáng nghi ngờ, và quá khứ đầy vẻ huyền thoại của bà. Bà sống một loại đời sống mờ ảo của những người đi theo một tôn giáo mà lúc đó vẫn thuộc vòng ngoài ở Tây Phương. Bà đã sống hai năm ở Sydney, nhưng chỉ thu nhận được vài đệ tử, như vậy chỉ có ít ảnh hưởng tới con đường của Phật Giáo Úc Châu.
Trong lịch sử được chấp nhận chung của Phật Giáo ở Úc Châu, Ni Sư Dhammadinna nổi lên lớn như vậy là do bà đã trở thành một nhân vật có tầm vóc huyền thoại trong tâm trí của Natasha Jackson, là người đã không được biết nhiều về bà. Cũng giống như Đại Sư Liên Hoa Sanh, tức Padmasambhava, đưa Phật Giáo từ Ấn Độ tới Tây Tạng, và Bồ Đề Đạt Ma đưa Thiền Tông tới Trung Hoa, Natasha tin rằng Ni Sư Dhammadinna đã “đưa Phật Pháp đổ bộ lên bờ biển của chúng ta”, nơi mà cho tới năm 1952, Phật Giáo đã chưa được biết tới”. Jackson tin rằng Ni Sư là tín đồ Theravada nghiêm khắc, và có lẽ không biết gì về bối cảnh Đại thừa cũng như tính lập dị của Ni Sư. Nhưng cùng lúc Natasha Jackson nói rằng Ni Sư đã kể ra cho bà nghe những chuyện quá khứ của bà, những điều mà bà không bao giờ nghĩ là mình sẽ nói cho ai biết, dù là người đáng tin cậy nhất. Theo lời các bạn của bà thì Natasha Jackson là người rất thành thật, như vậy việc bà nâng Ni Sư Dhammadinna lên địa vị cao nhất của Phật Giáo Úc Châu có thể có động lực mà chính bà đã không có ý thức trọn vẹn tới. Người ta nhận thấy rằng ngay cả những người tinh tế nhất cũng có thể tin vào những điều bịa đặt của chính mình. Nếu không có Ni Sư Dhammadinna thì Natasha Jackson cũng đặt ra một nhân vật giống như Ni Sư để biện minh cho vị trí của mình ở trong Hội Phật Giáo New South Wales, và trong những năm từ 1953 tới 1956, thái độ và lối tiếp cận Phật Giáo rất trí thức của bà đã gây ra bất hòa giữa bà và Leo Berkeley với Marie Byles, là những người chú ý nhiều tới thực hành thiền định. Hậu quả là một sự phân hóa, và vì hầu như tất cả những hội viên kỳ cựu dần dần rời khỏi hội nên chỉ còn lại Natasha Jackson nắm quyền điều khiển hội và được tự do đưa ra huyền thoại Dhammadinna.
Dù dần dần bị đẩy ra khỏi lịch sử “chính thức” của hội, Leo Berkeley là chủ tịch sáng lập và người bảo trợ chính yếu của Hội Phật Giáo New South Wales, và đã hoạt động nhiệt thành cho hội từ 1951 tới 1956. Các hội viên ban đầu đã họp với nhau trong mười tám tháng, nhưng Hội Phật Giáo New South Wales chỉ được chính thức thành lập vào ngày 4 tháng 5 năm 1953. Leo Berkeley dành một căn phòng trong cơ sở kinh doanh của mình ở Oxford Street, Darlinghurst để làm văn phòng ghi danh của Hội, còn vợ ông thì trông coi một thư viện mà về sau trở nên khá lớn. Những buổi diễn thuyết và thảo luận được tổ chức vào tối thứ sáu ở đại sảnh của Hội Thông Thiên Học. Chính sách của hội là “do phép lịch sự thông thường, tránh những lễ nghi hay nghi thức thực hành một cách công khai”, vì vậy những khóa thiền hay tụng niệm được tổ chức cho những nhóm nhỏ ở nhà riêng của Leo Berkeley hoặc của Marie Byles.
Tháng 6 năm 1953, hội quyết định rằng cần phải có một ấn phẩm của riêng mình, vì vậy “Bản Tin Phật Giáo" được ra đời, với vị chủ bút đầu tiên là Gordon Lishman, một nhân vật nổi tiếng của đài phát thanh Sydney. Khuynh hướng của ông này chính yếu là Đại thừa, và những bài viết của ông được điểm xuyến với những tư tưởng Thiền Tông, vì vậy sau một thời gian ngắn ông đã gặp rắc rối với những hội viên đang dần dần có nhiều quyền lực và là những người đã viết vào hiến chương của hội rằng “Hội tập trung và giới hạn việc nghiên cứu của mình vào những văn phẩm và xuất bản phẩm nói về Phật Giáo Nam Tông”. Vì đa số những hội viên đầu tiên của hội cho rằng việc thảo luận về giáo lý của các tông phái Phật Giáo chỉ gây xao lãng mà không có ích lợi gì cả nên chức vụ chủ bút của tờ “Bản Tin Phật Giáo" được giải cứu khỏi bàn cờ của những người trí thức” sau ba số phát hành và được giao cho Leo Berkeley. Gordon Lishman vẫn còn là một hội viện hoạt động trong một vài năm nữa, nhưng mọi tiếng nói Đại thừa trong hội đã bị đàn áp hoàn toàn trong gần hai mươi năm.
Ở Melbourne thì ngược lại, bốn trong sáu hội viên đầu tiên năng động nhất của Hội Phật Giáo ở Victoria là tín đồ Đại thừa, và dù không phải là không có một sự tranh chấp tông phái nào đó, đường lối của hội là chiết trung và khoan dung. Lực phát động đầu tiên cũng là của Len Bullen. Ông cùng với một nhà huyết học trẻ tuổi tên là Syd Hill và vài người nữa họp mỗi tuần một lần, bắt đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 1953, ở quán cà phê “The Windjammer” ở Swanton Street, và như vậy đã cho ra đời Hội Phật Giáo ở Victoria. Họ cho đăng quảng cáo ở mục “Church Notices” trong các nhật báo, nhưng chỉ khi Les Oates mới từ Nhật Bản trở về gặp hai nhà tổ chức vào tháng 9 năm đó thì nhóm này mới được tiếp sinh khí mới. Vào ngày 6 tháng 10 cuộc họp công khai đầu tiên được tổ chức ở một phòng họp của giáo phái Presbyterian ở Melbourne, với mười lăm người tham dự. Những cuộc họp được tiếp tục hai tuần một lần vào ngày thứ ba, và trong tháng 11 nhóm này thành lập một ủy ban, với Len Bullen làm chủ tịch, và với mục đích của Hội là “nghiên cứu, thực hành, và chứng ngộ Giáo Pháp”. Len Henderson, nhớ lại rằng trong cuộc họp đầu tiên mà ông tham dự vào tháng 12, có tất cả là hai mươi hai người, trong đó có hai sinh viên du học ở Úc theo kế hoạch Colombo, hai “bà già bé nhỏ thích sưu tầm tôn giáo", và những người khác, đa số là thanh niên. Ông cũng nhớ là người ta đọc những đoạn trích trong cuốn “Lời Đức Phật" của F. L. Woodward.
Từ 1954 tới 1956 là thời kỳ thịnh vượng của Phật Giáo Úc Châu, với các vị khách quan trọng diễn thuyết trong những hội trường đầy chật thính giả và được giới truyền thông chú ý tới, với một số người Úc trở thành Tăng sĩ ở các nước Á Châu, và với các hội đoàn tăng trưởng đáng kể. Không phải ngẫu nhiên mà đây cũng là những năm đánh dấu 2,500 năm Phật Giáo và cuộc Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Sáu. Những tín đồ Phật Giáo Úc Châu gắn liền với cuộc phục hưng của Phật Giáo Á Châu, như những cá nhân, và đặc biệt là Chính Phủ Miến Điện sẵn lòng bảo trợ những chuyến diễn thuyết ở hải ngoại. Như vậy mối liên hệ chặt chẽ nhất đã được thiết lập với hai quốc gia liên quan tới nước Úc về mặt địa lý chính trị và một lịch sử qua Đế Quốc Anh và là hai quốc gia rất có thể có những vị Cao Tăng giỏi tiếng Anh, đó là Miến Điện và Tích Lan. Trong khi đó Phật Giáo ở nước Mỹ vẫn luôn luôn nghiêng về các tông phái Nhật Bản, và trung tâm Theravada đầu tiên ở Mỹ chỉ được thành lập vào năm 1966.
U Thittila tới Úc Châu lần đầu tiên trong ba lần vào tháng 4 năm 1954, mang lại nhiều sức mạnh cho các hội đoàn Phật Giáo vừa mới được tổ chức ở đây. Sinh năm 1886 ở miền Trung Miến Điện, ông đã giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Anh Quốc, nơi ông sống trong mười bốn năm, từ năm 1938. Ông đã được nổi tiếng khi làm tài xế xe cứu thương ở London trong thời kỳ có những cuộc oanh tạc dữ dội nhất của không quân Đức. Sau đó ông diễn thuyết trên đài BBC trong hai năm trước khi trở thành giảng viên về Luận Tạng ở Đại Học Rangoon năm 1952. David Maurice, một người bạn thân, đã giúp việc tổ chức chuyến đi Úc của ông, với sự tài trợ của Hội Đồng Phật Giáo (Buddha Sasana Council). U Thittila được tiếp đón nồng nhiệt ở Úc, vì ông biểu lộ sự phối hợp hiếm có của hai phẩm tính khiêm tốn và bác học. Ông là người có lòng khoan dung rộng rãi, những năm sống ở Anh Quốc giúp cho ông có khả năng trình bày Phật Giáo bằng thuật ngữ Tây Phương. Ngay cả Natasha Jackson với khuynh hướng chống giáo sĩ mạnh mẽ của bà cũng có lời khen U Thittila: “Ông mang tới cho chúng ta một tấm gương trí huệ và thánh thiện thực sự”.
Mọi hoạt động của U Thittila trong chuyến thăm viếng này đều được báo chí ghi nhận và được thu vào những cuốn phim thời sự, và ông được coi là tu sĩ Phật Giáo đầu tiên tới Úc Châu; tất nhiên đây là một nhận xét sai lầm. Một sự kiện gây sôi nổi là ông đã một lần thiền định trong hai mươi hai giờ liền. Những bài diễn thuyết của ông có chủ đề là “Phật Giáo Cho Tây Phương” và “Thành Quả Của Thiền Định”, và ông cũng hướng dẫn những nhóm nhỏ thực hành minh sát quán, tức “Vipassana”. Khi một ký giả hỏi tại sao lại cần phải có sự hướng dẫn như vậy, Len Bullen trả lời rằng nếu không được hướng dẫn “hành giả sẽ phát khùng”. Vì vậy đối với những người e ngại việc hành thiền gây ra hậu quả không tốt thì “pháp tĩnh tâm” được công nhận rộng rãi của U Thittila là an toàn.
Số hội viên tăng lên tới khoảng bốn mươi người ở Sydney và một trăm người ở Melbourne, phần lớn là vì có cuộc viếng thăm kéo dài một tháng này. Khác với khuynh hướng chống văn hóa của Phật Giáo Úc trong thập niên 1970, nhóm hội viên này bao gồm những người Úc có giáo dục thuộc loại cao, và việc họ chú ý tới Phật Giáo có những nguyên nhân khác nhau. David Maurice cho rằng “hầu hết những người Tây Phương theo Phật Giáo có lý do là tình cảm chứ không phải lý trí, hoặc chỉ để chứng tỏ mình là người trí thức”. Đây là một nhận xét cực đoan, nhưng như Natasha Jackson cho thấy, đúng là những cuộc thuyết pháp công cộng thu hút những người theo đạo một cách phù du, không ít người trong số đó “thích những gì có tính chất lãng mạn, những người lập dị thuộc vòng ngoài của xã hội”. Thật vậy, khá nhiều người chỉ quan tâm tới “con mắt thứ ba” hay quyền năng tâm linh, và chỉ muốn biết là hành giả Phật Giáo có thể “kích thích tùng quả tuyến (pituitary gland) để mở huệ nhãn” được hay không.
Natasha Jackson là người theo triết lý bình đẳng giữa mọi người trong xã hội nên bà không thích khi thấy Leo Berkeley thường nói với báo chí và với phần nào hãnh diện rằng “các giáo sư ở các trường đại học ở Sydney và Canberra là tín đồ Phật Giáo. Các bác sĩ, kiến trúc sư nổi tiếng và một số chính trị gia ở Sydney và những thành phố khác cũng bí mật tôn thờ Đức Phật". Như những cuộc khảo sát ở Hoa Kỳ cho thấy, từ trước tới nay những người chú ý tới Phật Giáo và các tôn giáo Đông Phương khác thường là những người có trình độ học vấn cao. Nền móng giáo dục vững chắc làm cho họ chú ý tới những tư tưởng mới lạ và quan tâm hơn tới việc phát triển văn hóa. Vì vậy trong thập niên 1950 nhiều người Úc chú ý tới Phật Giáo là do tính tò mò trí thức, do muốn tìm một phương thức trị phiền não và đau khổ, do muốn chứng tỏ mình là người “giác ngộ", hoặc do thành tâm tìm cầu chân lý. Nhiều người có triết lý hòa bình, duy lý, ăn chay, nhân bản, và bảo tồn thiên nhiên nhận thấy trong Phật Giáo có những tư tưởng giống với những quan điểm mà họ đã có sẵn, và cũng có không ít người dùng Phật Giáo làm một thứ võ khí để chống lại Thiên Chúa Giáo. Đối với nhiều người thì sự hấp dẫn lớn nhất của Phật Giáo là ở một bình diện Phật Giáo có vẻ giống như một tôn giáo, nhưng ít nhất trên giấy tờ Phật Giáo không đòi hỏi người ta phải có điều kiện tiên quyết là niềm tin. Phật Giáo thu hút nhiều người mà đối với họ giáo thuyết Thiên Chúa Giáo đã đòi hỏi niềm tin quá nhiều, những người mà một thế hệ trước có thể đã trở thành tu sĩ Công Giáo, người Quaker, hay hội viên Hội Thông Thiên Học.
Người ta nhận thấy đa số những người tham dự các buổi thuyết pháp của Phật Giáo là đàn ông. Sự kiện này có thể được giải thích là do kinh sách Phật Giáo thường nói tới sự tự lực của cá nhân. Ngoài những điểm nói trên thì có thể nói rằng trong thập niên 1950 các tín đồ Phật Giáo Úc không có khuynh hướng chống lại xã hội truyền thống. Họ thường là những người thán phục một triết lý mới lạ hơn là hạng người muốn làm khác xã hội hay hạng người cấp tiến. Khác với thập niên 1970, nhiều người trong thập niên 1950 chấp nhận Phật Giáo như một thú tiêu khiển, và không ứng dụng Phật Giáo trong mọi mặt của đời sống. Phật Giáo có cùng một sự hấp dẫn đối với cả hai thế hệ này, chính yếu là sự phong phú về triết lý, sự khoan dung, phẩm tính từ bi, và tinh thần tự tu sửa, nhưng trong thập niên 1950, người ta tương đối ít cố gắng thực hành những điều này.
Sự xuất hiện đột ngột của các hội đoàn Phật Giáo làm cho xã hội nghi ngờ, dù không gây ra sự thù địch thực sự nào, thí dụ như trong năm 1954 hai nhân viên của Cục Điều Tra Hình Sự tới hỏi Leo Berkeley là có thật Người Phật Giáo ủng hộ Cộng Sản hay không. Ông liền nhiệt thành trình bày sơ lược giáo lý Phật Giáo cho họ, và theo ông thì họ gần như đã tin theo Phật Giáo. Cũng có lần một người Tin Lành nói với Les Oates rằng không nên theo một tôn giáo nào khác tôn giáo của tổ tiên mình, ông đáp rằng nếu từ xưa tới nay mọi người đều làm theo điều này thì người Úc đã vẫn là những tín đồ của tín ngưỡng Druid có từ thời xa xưa ở Anh Quốc chứ không phải là người Thiên Chúa Giáo. Chắc chắn người Tin Lành kia đã bỏ đi một cách bực bội mà không biết nói gì hơn.
Ngày 1 tháng hai năm 1955, Đại Đức Narada Thera tới Sydney trong một chuyến thuyết pháp ba tháng ở Úc. Năm 1951, Ngài đã khuyến khích Leo Berkeley thiết lập một Hội Phật Giáo. Sinh năm 1898 ở Tích Lan, Đại Đức Narada đã đi khắp thế giới, và dù không kém hùng biện hơn U Thittila, nhưng vẫn có người nói rằng Ngài có những tính chất huyền thoại. Lúc đó báo chí nói nhiều về việc Ngài đã mang mấy nhánh cây Bồ Đề để trồng ở Đại Học Berkeley (Berkeley’s?) và một số “xá lợi” của Đức Phật đựng trong một hộp giấy nhỏ trên đường tới Việt Nam. Ở Sydney, Ngài thuyết pháp về đề tài “Pháp Tu Tâm” và “Nghiệp Quả” cho hơn năm trăm thính giả. Cũng như trong chuyến viếng thăm của U Thittila, đa số những buổi thuyết pháp được tổ chức miễn phí ở đại sảnh của Hội Quán Thông Thiên Học, vì vậy Leo Berkeley đã hết lòng ca ngợi những người “anh em tinh thần” của ông. Đại Đức Narada cũng hướng dẫn thiền định hai buổi mỗi tuần và tổ chức những cuộc tham vấn riêng ở Đại Học Berkeley.
Ở Melbourne, Đại Đức thuyết pháp về Luân hồi, Nhân quả, và thực hành tu tập. Có nhiều tính chất chính thống hơn U Thittila, Ngài bắt đầu mỗi cuộc thuyết pháp bằng việc tụng niệm mà theo một ký giả thì “lần nào cũng dường như sắp trở nên trầm bổng, nhưng không bao giờ như vậy". Ngài cũng dạy tiếng Pali, làm lễ vào ngày rằm, và làm lễ cúng ở một miếng đất ở Templestowe, vừa mới được hiến cho Hội. Trong một buổi lễ, Les Oates đọc mấy câu Kinh Pháp Hoa của Đại thừa, “vì sự thống nhất của Phật Giáo”, hậu quả là Đại Đức Narada trở về Sydney sớm, nơi Ngài “cảm thấy chắc chắn hơn về tính chất nguyên thủy của Hội Phật Giáo".Cuộc viếng thăm Melbourne của Ngài làm nổi rõ thêm một số tranh chấp về giáo thuyết nhân sự và tổ chức trong Hội, đưa tới việc rời bỏ Hội của một số hội viên quan trọng vào ngày 5 tháng 5. Cũng như ở Sydney trong năm sau đó, sự chia rẽ này phát sinh từ việc hưởng dụng đất của Hội, nhưng mức độ thì rất khác. New South Wales vượt xa Victoria về sự tranh chấp giữa những cá nhân, và không bao giờ đạt được sự hòa giải hoàn toàn, còn ở Melbourne thì đây chỉ là một sự ngưng trệ tạm thời.
Với những hội viên mới và năng động như thi sĩ Max Dunn có khuynh hướng Thiền Tông và David McKay; một tín đồ Kim Cương Thừa đã từ lâu liên lạc với W. Y. Evans-Wentz, học giả nổi tiếng về Phật Giáo Tây Tạng, chẳng bao lâu những người thuộc phái Theravada “chính thống” như Syd Hill cảm thấy mình trở thành thiểu số. Dù là người khá chiết trung, Len Bullen cũng cho rằng màu sắc tôn giáo đã xuất hiện ở trong Hội, và thế là hai người đầu tiên vận động việc thành lập Hội tách ra lập một nhóm khác lấy tên là Trung Tâm Thông Tin Phật Giáo. Len Bullen cố gắng giữ cho nhóm này hoạt động như một phần phụ thuộc của Hội cho tới khi ông qua đời vào năm 1984, nhưng nhóm này chưa bao giờ có hoạt động nào đáng kể . Ông tiếp tục tiếp xúc với Hội, nhưng theo một người bạn thì chiều hướng mà Hội đã đi theo là “nỗi đau của đời ông”. Một điều làm cho Syd Hill bất mãn là chỉ có Les Oates và David McKay là được quyền biết danh tánh của vị hiến tặng đất, theo ý muốn của vị này, và điều này làm cho ông quyết định rời khỏi Hội, không bao giờ trở lại. Những người khác rời bỏ Hội vì không đồng ý về lệ phí cố định, nhưng sau đó thì ít có những tranh chấp về tông phái. Một viên chức Miến Điện ở Melbourne có lần ngỏ ý sẽ mua cho Hội một khu đất nếu Hội tuyên bố mình thuộc phái Theravada, nhưng đề nghị này bị từ chối và Hội vẫn làm theo chính sách bao dung đối với tất cả các phái.
Chuyến viếng thăm của Đại Đức Narada cũng đưa tới việc thành lập Hội Phật Giáo ở Tasmania và việc củng cố một hội đã có từ trước ở Brisbane. Ngài tới thăm Tasmania một tuần, kích thích sự chú ý tới Phật Giáo, và để lại đây một nhóm mười bảy người đầu tiên. Họ họp mỗi tháng một lần trong năm năm trước khi giải tán. Vị thủ quỹ đầu tiên của Hội Phật Giáo này là Ken Wriedt, về sau là thủ lãnh Đảng Lao Động ở Quốc Hội trong thời Thủ Tướng Whitlam, và thủ lãnh đối lập ở Tasmania trong thập niên 1980. Ông được biết về Phật Giáo trong khi làm nghề buôn bán đường biển, và sau đó đọc sách của Christmas Humphreys. Ken Wriedt vẫn còn hành thiền và xem kinh sách Phật Giáo. Ông nói rằng trong chính trị của mình có những nguyên tắc khoan dung và từ bi của Phật Giáo: “Tôi thích sự hiền hòa của những ý niệm này - không phải là những điều luật để người ta phải làm theo mà cho phép mỗi người tự tìm hiểu theo cách của mình”.
Cuộc họp công cộng đầu tiên của Hội Phật Giáo Queensland được tổ chức ngày 28 tháng 5 năm 1953. Hội đoàn nhỏ này được tiếp thêm sinh lực bởi chuyến viếng thăm Úc Châu của Đại Đức Narada mà họ đã góp phần tổ chức, nhưng hội sớm suy tàn, và chỉ gồm một nhóm người tự gọi mình là “những người bạn của Hội Phật Giáo". Sau khi vị sáng lập là ông E. V. John Siepen qua đời vào đầu thập niên 1960 thì hội cũng không còn. “Nhóm Phật Giáo Nam Úc” dù không được hưởng một cuộc thuyết pháp nào cũng hoạt động trong một thời gian ngắn vào khoảng năm 1958, và xuất bản một bản tin có tên là “Góp Nhặt Phật Pháp”.
Chuyến đi Úc của Đại Đức Narada được tài trợ bởi một cựu học sinh trường Makinda, Tilak Narayaha, để tưởng niệm vị Thầy của mình, F. L. Woodward. Người ta cũng nói nhiều về một tu viện sẽ được thiết lập ở Sydney trong tương lai gần mà các nhà buôn trà giàu có người Tích Lan đã hứa với Đại Đức Narada là sẽ tài trợ. Leo Berkeley nói với báo “Sydney Morning Herald” rằng: “những thương gia này muốn trả lại cho Úc Châu những gì mà họ đã lấy ra từ xứ này”. Graeme Lyall nhận thấy ý kiến cho rằng người Tích Lan muốn giảm bớt mặc cảm tội lỗi đã trục lợi những người uống trà đáng thương của nước Úc bằng cách xây chùa cho họ là kỳ cục. Phí tổn xây dựng ngôi tu viện được phỏng định là 14,000 bảng, và Anthony Miles, được coi là tu sĩ Phật Giáo đầu tiên của Úc Châu, sẽ là vị trụ trì.
Anthony Miles là một sinh viên y khoa người Anh tới Úc Châu năm 1950, và đã quyết định trở thành Tăng sĩ sau khi đọc một số sách về Phật Giáo. Là hội viên của Hội Phật Giáo New South Wales, ông đi Tích Lan thọ giới Tỳ Khưu với pháp danh là Anoma Mahinda vào tháng 11- 1953. Ông đóng góp đều đặn những bài rất trong sáng cho tạp chí “Buddhist News”, và đã viết cuốn sách được đánh giá cao, “The Blueprint of Happiness”. Sau đó ông đi Miến Điện và Thái Lan, và rất nổi tiếng ở những nước này. Tháng hai năm 1957, tạp chí “People” của Úc đăng một bài về ông với đầu đề “Một Vị Thánh Phật Giáo Người Anh”, nói rằng ông đã “trở thành một trong những vị hiền giả được yêu mến và kính trọng nhất Á Châu”. Tháng 7- 1957, một bản tin của thông tấn xã AAP-Reuter cho biết ông vừa mới chấm dứt một kỳ nhập thất bốn tháng ở “Hang Ẩn Tu” trên “Núi Rắn”, cách thủ đô Bangkok 130 cây số về hướng Bắc, “sống trong hang cùng với năm trăm con dơi, mấy triệu con kiến và một đàn quạ”. Người ta nói rằng Quốc Vương Thái Lan đã đích thân ghé thăm ông. Vì vậy các Phật tử người Úc đã nóng lòng chờ đợi đại hành giả Miles trở về. Nhưng khi ông về tới Sydney thì họ rất bất mãn vì thấy ông đã rời bỏ phái Theravada sau khi gặp một người Mỹ tên là Robert Stuart Clifton, và đã mặc cà sa của “Bộ Phái Tây Phương". Dường như sự thay đổi này chưa đủ, thời gian nhập thất đơn độc ở trong hang có lẽ làm cho ông có phần loạn trí, vì ông tuyên bố với báo chí rằng kiếp trước mình là Vua Chulalongkorn của Thái Lan. Hội Phật Giáo coi đây là “nỗi đau lớn nhất” của mình. Hình như chẳng bao lâu sau Miles thân mật với Rosaleen Norton, họa sĩ “huyền bí” bạn cũ của David Maurice, và có hình chụp trong một bài báo, trên một trang là hình ông mặc áo Tăng sĩ và ở trang kế là hình ông mặc trang phục phù thủy, dưới đầu đề “Phù Thủy Thủ Lãnh Của Hội Đồng Phù Thủy Úc Châu".
Robert Stuart Clifton, “vị Thầy” của Anthony Miles, thật ra đã ở Úc mấy tuần trong tháng 4-1956. Ông đã theo Thiền Tông Tào Động và Tịnh Độ Tông, sáng lập “Western Buddhist Order” hay “Tây Tông” theo đường lối liên phái vào năm 1951. Tuy nhiên ông tới Úc Châu trong màu áo của Phật Giáo Nam Tông Theravada, với pháp danh Phra Sumangalo và đi cùng với một Tăng sĩ cao cấp người Thái Lan là Phra Dhammadhiraraja Mahamuni. Ở Sydney, Clifton diễn thuyết bốn buổi ở rạp Conservatorium, và ở Melbourne ông diễn thuyết ba buổi ở Kelvin Hall, với số thính giả là hơn hai trăm người. Ông cũng diễn thuyết ở Hội Thông Thiên Học Melbourne, kêu gọi các hội viên Thông Thiên Học trở về với chiều hướng Phật Giáo của bà Blavatsky. Khi báo chí hỏi về phương diện “thờ thần tượng” của Phật Giáo thực hành, ông trả lời rằng tượng Đức Phật đối với người Phật Giáo cũng giống như “tượng của Thuyền Trưởng Cook đối với những người Úc yêu nước”.
Robert Stuart Clifton đã tới thăm Sứ Quán Hoa Kỳ một vài lần, vì vậy mà Natasha Jackson cho rằng ông là nhân viên CIA. Theo Natasha Jackson thì còn một điều tệ hại hơn nữa là Clifton đã cấp “giấy chứng nhận thọ giới Đại thừa bất hợp pháp cho các thí chủ nam nữ của mình với vẻ uy quyền”. Đúng là ông đã làm lễ “thọ giới" cho năm người theo Tây Tông, nhưng việc này đã được làm trước khi ông tới Úc Châu, và chắc chắn đã có sự chấp thuận của phái Tào Động ở Nhật Bản. Người ta nói rằng vị Sư trưởng người Thái đã tham dự lễ thọ giới này, hoặc vì không rành tiếng Anh nên đã không biết việc gì đang diễn ra cho tới khi đã ở Úc lâu ngày và khi đó Ngài đột ngột rời khỏi Úc, mang Clifton trở về Bangkok để chịu khiển trách.
Robert Stuart Clifton gây cảm hứng cho Graeme Lyall và Les Oates ở Melbourne thành lập những Hội Thanh Niên Phật Tử, với đa số hội viên là các sinh viên người Á Châu, nhưng mỗi hội đoàn chỉ bền được một hay hai năm.
Một việc đáng ghi nhận khác trong chuyến viếng thăm Úc Châu của Clifton là ông đã có ảnh hưởng dị thường tới Tiến Sĩ Raymor C. Johnson thuộc Đại Học Melbourne trong hai lần hai người gặp nhau ở nhà của ông này. Johnson rất chú ý tới “khả năng tâm linh” (các hội viên của Hội Phật Giáo nghĩ ông thuộc hạng người “quái đản”), và ông ta thán phục “quyền năng dị thường “ của Clifton tới mức hai người đã liên lạc với nhau lâu dài. Kết quả là Johnson viết một cuốn sách “nghiên cứu tính chất" của Clifton có tên là “The Light And The Gate”. Johnson còn xuất bản sáu tác phẩm nữa về nghiên cứu tâm linh và triết học Đông Phương. Cùng với mấy người khác, ông thiết lập giáo phái khét tiếng “The Family” mà sau khi ông qua đời năm 1987 đã bị cảnh sát tới khám xét.
Clifton làm lễ thọ giới cho nhân vật nổi tiếng của đài phát thanh Sydney, Gordon Lishman và vợ của ông ta, cùng với ông bà Chalmers ở Canberra, là hai người vừa mới thành lập một Hội Phật Giáo và một nhóm Thiền Tông. Người thứ năm thọ giới là Max Dunn, tác giả của khoảng mười lăm cuốn sách về tâm lý học, máy bay, kịch và thơ. Cuốn “The Oxford Companinon To Australiaian Literature” mô tả ông là “một người đa dạng bí mật, và trí thức đáng khâm phục, với bối cảnh có phần không rõ ràng". Sinh năm 1895 ở Dublin, Ái Nhĩ Lan, có lẽ Max Dunn đã được biết về Phật Giáo từ thời còn nhỏ qua một vị giáo viên đã từng sống ở Ấn Độ một thời gian. Sau khi phục vụ trong Không Quân Hoàng Gia Anh trong thế chiến thứ I, ông tới Úc Châu năm 1924 sau khi đi qua miền Bắc Ấn Độ, là nơi mà ông nói rằng mình đã được làm lễ truyền pháp của dòng “mũ đỏ” và dòng “mũ vàng” thuộc Phật Giáo Tây Tạng. Ông cũng nói rằng mình đã tham dự “Pháp Hội Nhỏ” với David Maurice vào năm 1925. Về sự thật của những lời nói này thì theo một số bạn của ông, Max Dunn “thường hay thêu dệt quá khứ của mình”, và có lẽ điều này liên quan tới chứng bệnh động kinh của ông. Ông là người “có nhiều tính cách khác nhau", mỗi tính cách có một nét thơ riêng. Người ta biết là sau khi quản lý những phòng triển lãm mỹ thuật, viết bài cho báo chí, và cũng có lần đã tìm cách tự tử, ông dành tất cả cho việc làm thơ vào năm 1945. Công việc này hầu như chỉ đủ sống, và ông phải nương tựa nhiều vào những người bạn lãng tử “bohemian”, những bạn văn chương và những người bạn cũ theo Cộng Sản và theo giáo phái Unitarian. Nếu có những đề tài Phật Giáo trong những bài thơ thuộc thời kỳ đầu của ông thì những đề tài này không được trình bày rõ ràng, nhưng trong bài “Lá Ngọc” làm năm 1952 người ta thấy có ý tưởng hâm mộ thi ca Trung Hoa:
“Những đàn chim bay qua trên trời,Một đám mây trôi. Tôi ngồi một mìnhVới đỉnh núi Chim Ting trên kia.Chúng tôi không bao giờ chán nhau, núi và tôi”.Harold Stewart và Max Dunn quen biết nhau vì cùng là hội viên của Hội Phật Giáo Victoria, nhưng về mặt thi ca cũng như tính khí thì họ là hai thái cực, với tính hiện đại và lối sống của Dunn mà Stewart rất kiêng kỵ.
Max Dunn tham dự cuộc họp đầu tiên của mình ở Hội Phật Giáo vào tháng 10 năm 1954, và rồi với sự hỗ trợ của Les Oates và Len Henderson, ông được bầu làm chủ tịch Hội vào cái ngày định mệnh có sự bùng nổ giữa các phái tranh chấp nhau, ngày 5 tháng 5 năm 1955. Có một điều hiển nhiên là ông theo Thiền Tông, và vì vậy mà ông đã đi từ ý thơ kiểu Trung Hoa tới những câu thơ kiểu công án Thiền, thí dụ như “Tôi nhảy múa trước khi có hai chân”. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông “Chân Dung Một Xứ Sở” (Potrait of a country) được so sánh với bài thơ “Đất Hoang”(Waste Land) của thi sĩ người Anh, T.S. Eliot, rằng người ta dần dần tiếp nhận những đặc tính của xứ mà mình sinh sống, “cho tới khi đối với nhà địa lý học của linh hồn, đất và người trở thành biểu tượng của nhau”. Giải pháp Phật Giáo của ông dành cho cái mà Patrick White gọi là “Hư Không Lớn Úc Châu" được trình bày rõ nhất trong bài “Chuỗi Ngọc Của Bipankara” và bài “Đi Vào Quang Minh”, được in mỗi câu một trang với số in giới hạn vào cuối năm 1955 để mừng việc ông sắp được thọ giới Tỳ khưu Thiền Tông.
“Hãy coi chân khôngVốn là đất, hạt giống, hoa và trái của vạn vật,Mà lại không bị giới hạn bởi danh sắc,Yên lặng hơn núi trước khi bình minh,Lặng lẽ hơn sự lặng lẽ sau những âm thanhHay ý nghĩ yên lặng.Chỉ có cái không hoàn hảo mới chuyển động:Hãy coi con người, hạt cát di chuyển trong thời gian,Vọng tưởng của y,Sa mạc cô đơn của y.Nhưng người đã tới thì đã vượt quaẢo ảnh của ái, và thủ, của thị và phi.Quán sát chân không,Không có sự trống rỗng”.Ngay cả những người bạn không theo Phật Giáo của Max Dunn cũng nghĩ rằng, việc thọ giới của ông là một sự ổn định hóa, và họ sung sướng khi thấy ông “hoan hỷ bước vào đời sống của một bậc cao trọng”. Ông đã đăng ký tu sĩ kịp lúc để trở thành người đầu tiên được chính thức chỉ định làm tuyên úy Phật Giáo trong một Thế Vận Hội. Báo chí ở Melbourne ghi nhận sự kiện này, vì người ta nhận thấy rằng cứ mười vận động viên tham dự Thế Vận Hội thì có ít nhất một người là tín đồ Phật Giáo. Trong mấy năm cuối đời ông thiết lập “Học Viện Thiền Tông Úc Châu" ở Richmond, gồm một thư viện nhỏ, phòng nghiên cứu, và điện thờ, như một sơ sở phụ thuộc Hội Phật Giáo. Ông diễn thuyết về Phật Giáo cho Hội Đồng Giáo Dục Tráng Niên và các hội đoàn khác, tổ chức những “khóa hướng dẫn riêng”, đi thăm người bệnh và người già như một phần của “Dịch Vụ Phật Giáo Tại Nhà”. Một người bạn gọi ông là người “đã tới nơi”, và điều này được phản chiếu trong một số bài thơ sau cùng của ông:
“Tôi ca tụng chân lý với môi và mắt cườiÂm nhạc của cái hiện tại"Ông qua đời vào ngày 4 tháng 9 năm 1963.
Vào tháng 5 năm 1956, vài tuần sau khi Clifton đi khỏi, U Thittila trở lại Úc Châu, viết bài phát thanh và diễn thuyết trước những cử tọa có khi đông tới tám trăm người. Cũng như chuyến viếng thăm Úc trước, chuyến này có sự phối hợp công việc của David Maurice, bây giờ là một viên chức cao cấp trong chính phủ Miến Điện. Là người ủng hộ mạnh mẽ “Chủ Nghĩa Xã Hội Phật Giáo" của Miến Điện, Maurice soạn những bài diễn văn cho bạn của mình là thủ tướng U Nu, và ông cũng có một ảnh hưởng nào đó đối với U Thant, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Năm 1954, khi Thái Lan vào giờ chót quyết định không tham dự lễ Phật Đản do thủ tướng U Nu bảo trợ, ông được cử làm sứ giả của chính phủ Miến Điện ở Thái Lan. Người ta cho rằng trong vai trò trung gian, ông đã thuyết phục được vị Tăng Đoàn Trưởng của Phật Giáo Thái Lan thay đổi quyết định của mình. Có lẽ vì thành công này mà cũng trong năm đó chính phủ Miến Điện đã tặng ông huy chương cao quý “Wunnakyawhtin”, có nghĩa là “người hoạt động xuất sắc vì lợi ích của người khác”. Nhưng vai trò chính yếu của ông trong chính phủ Liên Bang Miến Điện là trưởng ban dịch thuật kinh điển Pali sang tiếng Anh cho Hội Đồng Phật Giáo. Với bút danh Miến Điện, U Ohn Ghine, ông cũng là chủ bút của tạp chí “Ánh Sáng Giáo Pháp”, xuất bản tác phẩm Phật Giáo bằng tiếng Anh được phân phối rộng rãi nhất thế giới. Ông còn là phó chủ tịch Hội Phật Tử Toàn Cầu được thành lập ở Hoa Kỳ vào đầu thập niên 1950. Khi nhà xuất bản Rider ở London đề nghị ông viết một cuốn hồi ký thì ông từ chối, nhưng ông đưa cho họ xuất bản cuốn “Sư Tử Hống”, gồm những bản dịch kinh điển Pali của ông. Ông trở về Úc Châu năm 1959 và bị cưỡng bách phải rời Miến Điện khi “một cựu nhân viên bưu chính thường bán tem thư cho tôi ở quầy trở thành Tướng Ne Win và giải tán chính phủ”. Người thay ông giữ chức vụ chủ bút tờ “Ánh Sáng Giáo Pháp” là người bạn của U Thittila.
Năm 1954, Maurice khuyên chính phủ Miến Điện tài trợ lộ phí cho một người bạn khác là Syd Hill để Úc Châu có đại biểu của mình ở cuộc Kết Tập Thứ Sáu được tổ chức ở thủ đô Rangoon. Hill giao tiếp thân mật với một số người Cambodia ở cuộc Kết Tập, và vào tháng 8 năm 1955 ông thọ giới Sa Di ở Phnom Penh, thủ đô của Cambodia. Đây là trường hợp có thể được kiểm chứng đầu tiên một người sinh ra tại Úc Châu trở thành tu sĩ Phật Giáo, và ông đã luôn luôn mặc áo cà sa trong một năm. Vì biết nói tiếng Pháp nên ông không gặp khó khăn nào trong việc truyền thông với người Cambodia, nhưng ông chỉ được họ coi như một “màn trình diễn phụ”, với nhiều người từ khắp vùng kéo tới để ngó ông. Ông cũng hơi bất mãn vì bị lợi dụng để dạy tiếng Anh cho sáu trăm tu sĩ ở tu viện. Là người thực tiễn, giống như Maurice, ông có quá nhiều tính độc lập, để làm một người Đông Phương giả hiệu, khác với nhiều người Úc Phật Giáo ngày nay, ông không ngượng vì nguồn gốc văn hóa của mình một chút nào, ông nói rằng việc Mẹ ông gửi cho ông bản thành tích của đội bóng Collingwood mỗi tuần không có gì là kỳ cục cả. Syd Hill luôn luôn là tín đồ Phật Giáo trung thành, dù không có liên hệ gì với các hội đoàn Phật Giáo.
Có ít nhất là bốn người Úc thọ giáo trong năm 1956, tức năm 2500 Phật Lịch. Hai hội viên của Hội Phật Giáo Victoria là Bob Shackleton và Fred Whittle đã làm Tăng sĩ trước khi bị bệnh, một người được năm tháng và người kia được mười hai tháng. Fred Whittle cùng lúc là hội viên của Hội Tâm Linh Học, Hội Thông Thiên Học và các hội Phật Giáo, đã có những lúc làm chủ tịch của những hội này, và như vậy có thể coi con người ông là toàn thể lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu, kể từ W. H Terry trong thập niên 1880. Ông là nơi hội tụ tất cả giáo lý của những hội đoàn đó, và theo lời các bạn của ông thì ông có một khả năng hiếm có là phân loại những ý tưởng của mình tùy theo các loại cử tọa, vì vậy ông rất hân hoan khi diễn thuyết ở Hội Phật Giáo về đề tài con người không có “linh hồn”. Và sau đó diễn thuyết ở Hội Thông Thiên Học về điều người ta có thể có tới bảy lớp hồn vía! Ông thọ giới Sa Di ở chùa của Đại Đức Narada ở Colombo, Tích Lan trước khi đi Miến Điện tham dự khóa thiền của Mahasi Sayadaw. Ở đây, giống như Shackleton, ông cảm thấy một sự dị biệt về văn hóa nào đó, và có lẽ đã mừng khi bệnh tiêu hóa mang lại cho ông một cái cớ để rút lui.
Trong số những người Úc gia nhập Tăng đoàn ở Đông Nam Á thì đáng kể nhất là trường hợp hai vợ chồng Lishman, quyết định bổ túc cho Thiền Tông của họ với việc thọ giới Theravada. Sau khi bán ngôi nhà ở North Shore, họ ra đi vào tháng 10 năm 1956, và được đăng tin trên báo với đầu đề lớn: “Nhân Viên Đài Phát Thanh Trở Thành Tu Sĩ Phật Giáo". Joyce Lishman dự định sẽ hoạt động ở Indonesia trong hai năm, còn Gordon Lishman thì sẽ thọ giới ở miền Bắc Thái Lan. Sau khi thọ giới ít lâu ông làm một “chuyến thuyết pháp tăng tiến” với một thông dịch viên. Nhật báo “Sydney Morning Herald” gọi đây là “Sứ Mạng Phật Giáo Của Cặp Vợ Chồng Người Úc” đầu tiên ở hải ngoại, nhưng hoạt động này chấm dứt trong sự thất vọng sau ba hay bốn tháng. Gordon Lishman nói rằng người Thái Lan chỉ quan tâm tới “lễ nghi và hình thức bên ngoài, như tụng niệm, tranh tượng Phật, những ngôi chùa trang trí cầu kỳ”. Ông cũng thấy kỷ luật tu viện không thích hợp với mình. “Kỷ luật là điều rất tốt, nhưng sẽ có lúc người ta tự trói buộc mình vào kỷ luật”. Vợ ông từ Indonesia tới Bangkok khi ông đang làm công việc quảng cáo cho một công ty sữa.
Tạp chí “Buddhist News” mà Lishman đã có lần làm chủ bút được đổi tên thành “Metta” (Từ Bi) vào tháng năm 1955. Natasha Jackson nhận chức vụ chủ bút trong tháng 11 năm 1955,với số bán giảm dần, năm sau đó có một người bạn từ Queensland tới, đó là Charles F. Knight, người mà Natasha Jackson đã truyền giáo lý Phật Giáo khi bà đi nghỉ hè ở đó vào năm 1954. Cùng với nhau, hai người hoạt động gần như toàn thời gian cho Phật Giáo Úc Châu cho tới năm 1971. Charles F. Knight sinh năm 1890 ở một nông trại ở Gippsland, và trước khi ông đi Âu Châu chiến đấu trong thế chiến thứ I, một người thuộc Hội Tâm Linh Học nói rằng một ông bác đã qua đời của ông nhờ người đó chuyển lời tiên tri rằng ông sẽ bị thương nặng. Về sau, ông thề là điều này đã xảy ra đúng như vậy, vì khi tham dự cuộc đổ bộ ở Gallipoli, Thổ Nhĩ Kỳ vào người 25 tháng 4 năm 1915, ông bị trúng mảnh đạn, những mảnh vải áo vùi vào lưng của ông và không được lấy ra bằng giải phẫu cho tới cuối thập niên 1960. Người ta nói rằng vết thương đau đớn này làm cho ông chú ý tới Phật Giáo Theravada với giáo lý chính yếu “đời là khổ”.
Charles Knight còn là đại diện công đoàn Đường Sắt Queensland. Người ta được biết ông cũng có lúc đi truyền đạo ở vùng rừng núi, nhưng ông đã thất vọng với Thiên Chúa Giáo sau khi bị khiển trách vì đã chôn một người tự tử trong nghĩa địa của nhà thờ. Hoặc do việc này hoặc vì bị đau tim nặng vào năm 1946, ông đã để lại tài sản cho vợ và con gái ở Bundaberg rồi sống như một ẩn sĩ ở miền Bắc Queesland. Trong một thời gian ông không sở hữu một vật nào cả và không mặc quần áo, nhưng dần dần ông trở lại với đời sống văn minh, lúc đầu là trao đổi vỏ ốc với những nhà sưu tầm nào đi tới bãi biển cô quạnh của ông. Trong số những nhà sưu tầm vỏ ốc này có một bà tự gọi mình là nhà nhuyễn thể học, vì đã có một số vỏ ốc được đặt tên theo tên của bà, đó là Natasha Jackson. Chắc chắn bà đã nói Charles Knight là theo Phật Giáo thì việc ông từ bỏ đời sống gia đình là việc hoàn toàn tự nhiên. Nhưng nếu vậy thì “hạnh xả ly” này của ông đã thất bại, vì ít lâu sau Natasha Jackson mời ông tới Sydney sống ở nhà của bà ở Anzat Porade, Kensington. Charles Knight là người dễ mến, nhưng ông có “lớp vỏ cứng” trái ngược với cá tính của Natasha Jackson, vì vậy liên hệ của hai người đã luôn luôn khó khăn. Tuy nhiên, ông nhận được tiền trợ cấp xã hội, và với năng lực chung của hai người, họ hoạt động để truyền bá loại Phật Giáo của họ. Họ đánh dấu giai đoạn từ 1956 tới 1971 với cá tính mạnh mẽ của họ để rồi bà trục xuất ông khỏi Hội sau khi một vụ bất hòa nữa xảy ra trong Hội.
Theo cách nhìn của đa số người Phật Giáo Úc thì lối tiếp cận của họ là một giai đoạn mà Phật Giáo Tây Phương phải trải qua trong tiến trình thích ứng về mặt văn hóa của mình. Charles Knight và Natasha Jackson tuyên bố rằng họ còn có nhiều tính chất Theravada hơn những người Theravada của Đông Nam Á, nhưng điều mà họ thực sự cống hiến là diễn dịch Phật Giáo một cách hiện đại. Năm 1957, Knight đã đi xa tới mức viết cho Đại Đức Narada (một trong những người có thẩm quyền nhất thế giới về giáo thuyết Theravada) để nói rằng một trong những tập giới thiệu Phật Giáo của Đại Đức có nội dung “không phù hợp với Giáo Pháp thuần túy” và do đó những bản in của tập giới thiệu này mà Đại Đức gửi cho Hội đã được đưa thẳng tới “nhà máy làm bột giấy”. Malcolm Pearce, chủ tịch của Hội vào năm 1988, mô tả những bài diễn thuyết của Natasha Jackson là “một sự trình bày hấp dẫn về giáo thuyết Theravada cải cách, nhấn mạnh tới những điểm duy lý, vô thần (atheism), và phê bình xây dựng". Giống như nhiều người thời đó, họ coi Phật Giáo là một sự chiến thắng của chủ nghĩa duy lý, và dùng Phật Giáo như võ khí để đả kích Thiên Chúa Giáo. Đây là lối tiếp cận được trí thức hóa một cách mạnh mẽ, ra sức chứng minh rằng Phật Giáo hoàn toàn phù hợp với tư duy khoa học. Nắm vào truyền thống duy lý và thực tiễn trong Kinh Kalama(Kalama Sutra), họ giảm thiểu phương diện tôn giáo của Phật Giáo để làm nổi bật sự khác biệt giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Natasha Jackson coi Đức Phật là một triết gia duy lý, giống như Socrates của Hy Lạp, và một nhà cải cách xã hội. Bà tấn công dữ dội loại Phật Giáo tình cảm, nghĩ tới chuyện từ bi với loài vật trong khi người ta đang phải chịu đau khổ và đang bị bóc lột, và bà tuyệt đối không có liên hệ nào với loại Phật Giáo Thông Thiên Học, không cả với những giáo thuyết “đáng nghi” như thuyết luân hồi.
Tất nhiên, sự hướng ngoại chua chát và sự chú trọng về nhân bản này phát xuất từ chủ nghĩa xã hội của bà. Nhân vật lý tưởng của bà là Ashoka, vị vua Phật Giáo vĩ đại có tư tưởng cải cách, còn lối sống ẩn dật của các Tỳ khưu thì bà không thích, và coi họ là “nhược điểm của Phật Giáo". Vì vậy mà bà chống lại những chuyến viếng thăm của các Tăng sĩ, cho rằng họ sẽ gây xúc động và “sự trổi dậy của những phần tử xấu”. Người Úc có những điều kiện tốt hơn người Á Châu để truyền bá Giáo Pháp, vì “sự hiểu biết của trí năng Tây Phương thì giá trị hơn khả năng tụng Kinh Từ Bi bằng tiếng Pali”. Với khuynh hướng chống giới giáo sĩ như vậy, đối với bà ý tưởng xây một tu viện cho các Tăng sĩ là chuyện vô lý, vì người Úc Châu sẽ “thắc mắc và nghi ngờ những người nào không tự kiếm sống bằng sức lực của chính mình”, và trong bất cứ trường hợp nào các Tăng sĩ cũng có thể thấy mình “bị bắt vì tội vô gia cư, vô nghề nghiệp”. Nếu có những “người sống nhờ tâm linh” ở xã hội tại những cuộc họp của Hội để trình bày những ý tưởng hoa mỹ của mình về Phật Giáo và các tu sĩ Phật Giáo thì bà nghĩ rằng cách tốt nhất để sửa chữa họ là “từ chối”. Bà còn cho rằng giống như mình, “Đức Phật không chịu nổi những kẻ vớ vẩn”. Những bài viết của bà trong tạp chí “Metta” thường ca tụng “những người tiên phong can đảm trong việc vạch trần những sai lầm của xã hội", từ triết gia người Pháp Voltaire cho tới triết gia người Anh Bertrand Russel, so với họ thì nhiều người Phật Giáo chỉ là “những con cừu”. Khẩu hiệu của bà là “Phê Bình Cao Hơn”, và châm ngôn của bà là một câu của thi sĩ triết gia người Mỹ Emerson: “Có hai con đường dành cho tâm trí: sự thật và ngừng suy nghĩ. Mỗi người hãy tùy ý chọn một. Không bao giờ có thể có cả hai”. Tuy nhiên, đa số người Phật Giáo thường cho rằng người ta không thể có điều này mà không có điều kia.
Ban đầu, Phật Giáo phát sinh từ truyền thống chiêm niệm, hay tham thiền trong rừng của Kinh Upanishad của Ấn Giáo. Như vậy, lời dạy của Đức Phật trong Kinh Kalama rằng đừng tin bất cứ điều gì cho tới khi chính mình chứng nghiệm và thấy đó là sự thật, được đưa ra cùng với việc hành thiền một cách tinh tấn. Mặt khác, Natasha Jackson, Charles Knight, và nhiều người Phật Giáo Tây Phương khác nghĩ rằng khi Đức Phật nói “chỉ có người khôn ngoan mới hiểu được Giáo Pháp” thì đó là Ngài muốn nói tới những người đọc sách nhiều. Jackson bắt đầu theo Phật Giáo trong tuổi năm mươi, còn Knight thì trong tuổi sáu mươi, nghiên cứu có lẽ đây là một loại Phật Giáo ngồi ghế bành đọc sách. Natasha Jackson hiểu “chánh niệm” là “suy nghĩ rõ ràng", và bà không có thời giờ dành cho việc hành thiền. Đối với những người cho rằng thiền là đề tài hấp dẫn nhất của Phật Giáo, bà luôn luôn khuyên rằng “muốn vượt lên trên lý trí thì trước hết phải phát triển một lý trí đáng để vượt lên trên”. Bà nghĩ rằng người ta nên thực hành trọn vẹn bảy điều đầu tiên của Bát chánh đạo trước khi thực hành chánh định. Về câu hỏi đã có ai đạt “giác ngộ" chưa thì câu trả lời của bà là “không biết”.
Lối tiếp cận Phật Giáo của Leo Berkeley thì có tính cách trực giác hơn nhiều. Giống như Marie Byles và một số hội viên ban đầu khác, ông quan tâm nhất tới thiền định, phối hợp với một chút đọc kinh sách và đi rừng (bushwalking). Vì vậy vào tháng 6 năm 1955, ông tổ chức một “quỹ tín dụng tu viện” để có tiền xây dựng một Thiền viện. Vào cuối năm đó, Marie Byles tìm thấy một khu đất 1.8 mẫu với cảnh rừng thơ mộng ở Pennant Hills, không xa ngôi nhà của bà. Việc mua khu đất với giá 450 bảng được tuyên bố trong một cuộc họp đặc biệt của Hội vào tháng giêng 1956, và mọi người cảm ơn bà đã làm thủ tục mua đất. Họ nghĩ rằng Thiền viện sẽ được thiết lập ở đó, với Anthony Miles hay một Tăng sĩ trụ trì nào khác tụng kinh và hướng dẫn hành thiền. Nhưng Natasha Jackson đã có ý kiến khác, và khu đất trở thành nơi tập trung những đặc biệt lớn về cá nhân, giáo thuyết và chính trị.
Nói chung thì những người duy lý với đường lối trí thức của họ chống lại những người có khuynh hướng thực hành tu tập quan tâm hơn tới phương diện chứng nghiệm bản thân của Phật Giáo. Natasha Jackson không thích tu viện với những tu sĩ và những khóa thiền, nhưng bà che giấu điều này bằng cách nói rằng Hội chỉ có khoảng một trăm hội viên thì không thể thực hiện một chương trình lớn như vậy. Khi U Thittila báo cáo với Miến Điện rằng Phật Giáo Úc Châu đang phát triển mạnh, bà đã tố rằng lời nói của ông không phải là “chánh ngữ”. Nền móng trí thức của Hội chưa được thiết lập trọn vẹn, vì vậy bà cũng đặc biệt tố Leo Berkeley là “hăng hái một cách sai lầm". Leo Berkeley đã dùng nhiều tiền để mua khu đất, nhưng sự quảng đại của ông chỉ làm cho Natasha Jackson bực bội, vì vào năm 1956 Leo Berkeley đang trở thành người giàu nhất Sydney (năm 1987 doanh nghiệp của gia đình ông thu về ít nhất là bảy mươi triệu đô la Úc), và Natasha Jackson coi ông là một quái vật tư bản. Trong một bài của tạp chí “Metta”, bà đả kích những “Phật Tử gạo” chỉ coi trọng những người giàu có, như vậy bà ám chỉ nhiều người tới họp ở nhà của Leo Berkeley chỉ vì nghĩ tới bữa tiệc mà họ sẽ được hưởng sau cuộc họp.
Có những người trong Hội nhớ rằng bà đã đặt ra những điều luật kiểm duyệt ở những cuộc họp hội đồng trị sự để cấm Loe Berkeley nói với báo chí mà không có sự chấp thuận của Hội trước, và bà thường cố gắng hết sức vận động mọi người chống lại điều mà bà gọi là đường lối độc tài của Berkeley. Bà nói với Berkeley về đời tư của mình với những chuyện luôn luôn làm cho ông khó chịu khi có sự hiện diện của bà, và lại còn buộc tội vợ của ông tự ý dùng tiền trong két sắt của Hội. Leo Berkeley nói rằng vì những “hành vi nhỏ mọn” như vậy, lòng nhiệt thành của ông dành cho Hội dần dần suy giảm. Nhiều năm sau đó Natasha Jackson công nhận là đã có một kế hoạch “loại bỏ Leo”, nhưng không nhận là mình liên can gì tới kế hoạch này. Leo Berkeley vẫn ở trong Hội, nhưng chỉ thỉnh thoảng tham dự một cuộc họp, nhường công việc quản trị Hội cho “nhị đầu chế” Jackson-Knight. Trong một cuộc họp với tính vô chính phủ của bà, Marie Byles đề nghị “cứ để cho Hội suy tàn, còn các hội viên thì họp không chính thức với nhau”. Sự việc đã diễn ra đúng như vậy. Vợ chồng Berkeley, Penrose, Marie Byles, Graeme Lyall, và những người khác, chán ngán những chuyện tranh chấp và lối quản trị độc đoán trong hội, vẫn tiếp tục họp đều đặn ở nhà riêng của họ để tham thiền cùng với nhau. Trong tạp chí “Metta”, Natasha Jackson viết rằng “một số người thuộc thành phần lung lay đã rời bỏ chúng ta để tìm sự an tĩnh tâm trí của họ ở nơi khác”. Tuy nhiên, họ đã mang theo với họ nhiều năng lực vốn đã được tích lũy từ 1952 tới 1956, và trong năm 1957 một kỳ tạp chí “Metta” đã không được xuất bản vì thiếu tài chính. Sự chia rẽ này nặng nề tới mức cho tới ngày nay Hội Phật Giáo New South Wales vẫn chưa hoàn toàn hồi phục.
Leo Berkeley vẫn nghĩ tới việc lập tu viện trên khu đất ở Pennant Hills, nhưng Natasha Jackson và Charles Knight đòi ông phải nhường chủ quyền đất cho Hội, và tiếp theo sau đó là một cuộc tranh chấp về pháp lý kéo dài trong năm năm. Rốt cuộc năm 1961 Leo Berkeley đưa giấy chủ quyền cho Hội sau khi họ dọa đưa vụ này ra tòa. Marie Byles đã bảo đảm rằng ông là chủ nhân hợp pháp của khu đất, nhưng ông muốn tránh việc làm xấu danh nghĩa Phật Giáo ở tòa án. Malcolm Pearce lúc đó theo phe Jackson và Knight cũng nói rằng sau mấy năm ông đã nhận ra đây “chính là một hành động ăn cắp” và họ đã tự coi mình có quyền sử dụng khu đất.
Năm 1963, khu đất vốn đã được xếp vào hạng “Vành Đai Xanh” nay được đổi thành hạng “Phát Triển Tạm Thời”, và mọi người tranh luận với nhau là Hội có nên bán khu đất hay không. Marie Bbyles huy động những người bạn đi rừng và bảo tồn sinh thái của mình để chống lại những người thuộc phe phát triển, và Leo Berkeley khuyến khích mọi người gia nhập Hội Phật Giáo để có thêm “nhân số”. Tuy nhiên không việc nào thành, thí dụ như Graeme Lyall đã phải nộp đơn xin gia nhập hội lại. Trong trường hợp của Marie Byles thì Natasha Jackson gửi một bức thư trục xuất bà khỏi Hội. Có lẽ Marie byles là người đầu tiên và độc nhất trên thế giới bị trục xuất khỏi một hội đoàn Quaker cũng như một Hội Phật Giáo. Trong những năm sau đó, như được trình bày trong tạp chí “Metta”, tình trạng của Hội đã đi tới chỗ “bắt buộc phải” bán khu đất cho một công ty phát triển nhà đất. Marie Byles và nhóm bạn của bà đã sửng sốt khi thấy khu đất được bán cho Công Ty Hooker với giá mười ngàn bảng, hơn hai mươi lần tiền mua khu đất của Leo Berkeley. Khỏi cần phải nói là Hội Phật Giáo Victoria đã sững sờ khi trông thấy những hoạt động của Hội Phật Giáo New South Wales.
Natasha Jackson có sức mạnh trí thức đáng kể, và có phong cách xuất sắc không kém Marie Byles, nhưng bà không phải là loại người đảm trách một hội đoàn, càng không thể đảm nhiệm một Hội Phật Giáo. Có một số hội viên khác bị bà trục xuất khỏi Hội chỉ vì đã không cùng ý kiến với bà. Dù bà đã cống hiến hai mươi năm trong đời của mình cho Hội nhưng khi nhìn lại từ thập niên 1980 người ta không thể nào không đi tới kết luận là bà cũng đã làm hại Hội trong nhiều cách.
Tới năm 1975 thì chính bà bị đẩy ra khỏi Hội và như vậy đánh dấu sự chấm dứt một giai đoạn nữa trong lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu. Nhiều người cảm thấy có lẽ đây là nghiệp quả xấu của Natasha Jackson. Trong thập niên 1980, những người giống như bà có khuynh hướng không gia nhập một hội đoàn Phật Giáo nào cả. Một người bạn thân của bà, Paul Boston, bây giờ là Đại Đức Dhammika thuộc Theravada, nghĩ rằng “bà có nhiều cảm tình với một số phương diện của Phật Giáo, nhưng xét cho cùng thì bà không bao giờ thực sự là tín đồ Phật Giáo". Tất nhiên người ta khó có thể xác định “Phật Giáo thực sự” nghĩa là gì, nhưng có điều chắc chắn là Phật Giáo có tổ chức ở Úc Châu trước đầu thập niên 1970, sau khi tự gỡ mình ra khỏi Thông Thiên Học, đã thường trở nên rất giống một Hội Nhân Bản hay Duy Lý.