Mục tiêu chính của đạo Phật có mặt trên cuộc
đời này là chỉ bày con người thấy ra được bản chất
thật của mọi sự vật hiện tượng nhằm giúp con người
định hướng, điều chỉnh, nâng cao, phát triển… cuộc
sống của mình để mình được viên mãn nguyện ước,
bình an, vui vẻ, tự tại, giải thoát trong hiện tại và
tương lai. Nhìn mọi khía cạnh: từ hiện tượng cho
đến bản thể, từ tục đến chân đế, từ hình thức đến nội
dung, chúng ta thấy giáo lý đạo Phật luôn chứa đựng
những yếu nghĩa vừa cao thâm huyền diệu mà lại vô
cùng đơn giản thiết thực, giống như những dòng
nước cam lồ mát mẻ, ngọt dịu, ấm áp mà mọi hạng
người, mọi giới tính, mọi tầng lớp ai cũng có thể
lãnh hội, áp dụng, tu tập và đều có kết quả tốt đẹp
như nhau. Bởi lẻ quả vị Vô thượng Bồ đề không
phải sở hữu của riêng ai mà bất cứ ai cũng có phần
trong đó khi hoàn tất công phu tu tập của mình. Lẽ
dĩ nhiên là khi hiểu đúng, nhận thức đúng và hành trì
đúng lời Phật dạy thì người tu tập cảm nhận ngay
được hương vị giải thoát của Pháp bảo ngay trong
đời sống hằng ngày và ở ngay tại tâm mình; chạm
trán được với mặt mũi xưa nay của mình (bản lai
2
diện mục) thì chẳng khác nào người đi tìm gỗ trầm
hương mà gặp ngay được gỗ trầm hương, người đi
tìm thuốc quý mà trúng được loại thuốc quý cần tìm.
Trên cơ bản, dù tu tập theo nền tảng nào, pháp
môn nào, hệ phái nào nào đi chăng nữa thì cốt tủy
của đạo Phật vẫn không nằm ngoài ba cương lĩnh
chính, đó là tam vô lậu học Giới - Định - Tuệ. Giới
định tuệ là đúc kết của con đường Thánh đạo tám
nghành (bát Chánh đạo) và Đạo đế trong tứ Thánh
đế và là tâm điểm tối thượng người tu học Phật
hướng tới. Giới là những học giới, những điều luật
do Đức Phật chế định nhằm ngăn ngừa những hành
vi sai trái, phát huy những động tác thiện lành; Định
là sự tập trung, nhất tâm, chuyên chú; Tuệ là tuệ giác
siêu tuyệt nhờ quá trình tu tập, rèn luyện thân tâm
mà có được. Ba vô lậu học này bổ sung cho nhau, hổ
tương nhau, làm nhân làm duyên cho nhau theo tiến
trình nhân quả, trong giới có định, trong định có tuệ,
giống như khi cây xoài ra hoa thì chúng ta gọi là hoa
xoài, rồi hoa trở thành trái xoài non thì chúng ta gọi
là xoài non, xoài non trở thành xoài chín thì chúng ta
gọi là trái xoài chín nhưng tất cả đều nằm trong quả
xoài.
3
Tam học ấy và kho tàng phước báu bảo hộ được
ví như bảo vật vô giá thách thức bao thăng trầm vinh
nhục, sóng gió ba đào, bão táp vô thường có thể xảy
ra bất cứ lúc nào và ở đâu cho bất cứ ai. Trên đường
đi đến bảo sở thì có nhiều lối đi, nhiều phương tiện
dẫn dắt nhưng khi đã đến nơi rồi thì tất cả các
phương tiện đó đều quy về một mối, chính là giải
thoát tất cả mọi ràng buộc, khổ đau, vượt lên trên tất
cả mọi phạm trù nhị nguyên đối đãi để phát triển khả
năng sống an lạc và tỉnh thức tối hậu .
Đối với những người không có niềm tin tôn giáo,
không tin nhân quả - nghiệp báo - thiện ác - tội
phước thì họ cho rằng những ai tìm đến các cơ sở
tôn giáo đều là những người có vấn đề: trong công
ăn việc làm, liên hệ tình cảm, già yếu bệnh tật, yếm
thế chán nản… chứ những người làm ăn bình
thường, giàu có phát đạt, trẻ trung tươi đẹp thì hà cớ
gì phải tốn thời gian, công sức để đến Chùa chiền
mà tu học, làm phước, tích đức? Lối suy nghĩ cạn
cợt quy chụp đó thiết nghĩ cũng nên hỏi lại: thực sự
ai là người có vấn đề!
Trong khi đó, chúng ta cũng thường thấy nhiều
người lúc gặp chuyện bất như ý, chuyện đau buồn
4
sầu muộn thì họ tìm đến tôn giáo chỉ với mục đích là
mong được cứu rỗi, tha tội, ban ân sủng, còn khi vui
sướng, bình yên thì ít ai ý thức được sự vô thường
thay đổi nhanh chóng của kiếp người và vạn vật, ít ai
biết kiệm đức, tích lũy phước điền, sống với chính
mình trong từng giây phút; để rồi, khi sự việc bất
ngờ xảy đến thì trở tay không kịp, giống như khi
khát nước mới đi đào giếng, khi nước tới chân mới
chịu nhảy thì làm sao mà kịp. Người Phật tử thuần
thành, hiểu Phật Pháp thì may mắn hơn rất nhiều. Đó
là họ chuẩn bị tư thế sẳn sàng, sửa soạn hành trang
cho đời mình, làm những việc lợi ích và ý nghĩa cho
mình và giúp cho ai đó được tốt lành hơn thì họ sẽ
làm theo khả năng của họ, sống được với chân tâm
bản thể của họ thì giả sử việc thình lình có ập đến thì
họ cũng đi theo lối đi mà họ đã chọn lựa, việc làm
tốt của họ sẽ đưa họ đi đến những nghiệp quả tương
ưng, ví dụ một cái cây đã nghiêng về một hướng, khi
gió mạnh thổi đến thì cây đó sẽ ngả theo chiều
hướng mà nó nghiêng.
Tâm lý chung của con người hiện nay là khi đối
diện với những khó khăn hay thất bại trong cuộc
sống, con người thường không chịu ngồi xuống để
5
nhìn lại mình, học ra được bài học gì từ sự thất bại
đó mà khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì ai cũng
muốn có ngay liền một phép mầu nào đó để cứu
giúp mình trong lúc mình đang gặp hoạn nạn, tai
ương mà họ không cần biết phép mầu đó từ đâu mà
đến, họ có chút phước lực nào để trông cậy vào?
Phép mầu, phép lạ, sự cầu nguyện của con người có
được đáp ứng hay không, chủ đề này được bàn luận
rất nhiều trong các tôn giáo xưa nay, và có thể nói
rằng: những tôn giáo nhất thần tôn thờ Thượng Đế
nói chung thì họ rất chú trọng về phép mầu, thậm chí
mục tiêu chính mà họ chủ trương rao giảng là truyền
bá phép mầu, thuyết phục chiếc “bánh vẻ” phép mầu
“quyền năng” để tìm cách chiêu dụ nhiều người tin
tưởng một cách ngây thơ, mù quáng và cực đoan.
Riêng trong Phật Giáo, giáo lý đạo Phật dạy con
người ý thức được tinh thần tự giác, tự nguyện, từ bi,
trí tuệ; dạy con người ý thức rằng: thành quả, sản
phẩm của mình do chính mình tạo tác; dạy con
người nhận thức sáng suốt về phương diện hiểu biết
và cách thức hành trì để giúp cho mình sống đúng,
sống tốt, đem lại lợi ích cho mình, cho người trong
sự tu tập.
6
Cầu nguyện là điều cần thiết, là phương thuốc
kịp thời để hóa giải những bất an sầu khổ của con
người trong lúc khủng hoảng nhất nhưng người học
Phật không dừng lại ở việc cầu nguyện, van xin, ai
oán, rên rỉ…một đấng quyền năng nào đó một cách
thụ động, máy móc mà khi hiểu được lời Đức Phật
dạy một cách sâu sắc và thấu đáo thì chúng ta phải
chủ động làm gì đó, nghĩa rằng: tự mình tìm cách
vượt qua những giai đoạn khó khăn, tự mình chữa
lành được căn bệnh của mình, tự mình mang lại sự
bình an cho mình bởi vì đôi khi càng nuôi dưỡng
phép mầu bao nhiêu thì người cầu xin càng đau khổ
bấy nhiêu vì cầu mà không được toại nguyện, càng
hy vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu,
càng mơ hồ những chuyện trên mây trên gió bao
nhiêu thì con người càng bế tắc, tuyệt vọng, đau khổ
bấy nhiêu.
Phép mầu được hiểu nôm na là sự mầu nhiệm, là
điều kỳ diệu, là những năng lực siêu hình… mà một
người bình thường không thể nào có được. Phép
mầu có liên quan đến thần thông. Trong kinh điển có
ghi lại rằng, sau khi thành đạo, Đức Phật chứng
được tam minh lục thông. Tam minh là quá trình tư
duy của Đức Phật trong đêm ngài thành đạo, đánh
7
dấu sự chuyển đổi quan trọng từ Sa Môn Cồ Đàm
dấn thân đi tìm đạo trở thành bậc tỉnh thức hoàn toàn
đầy đủ các phương diện về phước và trí. Tam minh
gồm có túc mạng minh, thiên nhãn minh và lậu tận
minh. Minh có nghĩa là tuệ giác sáng suốt. Túc
mạng minh là tuệ giác mà Đức Phật thấy biết rõ về
vô biên đời kiếp trong quá khứ của ngài. Thiên nhãn
minh là Đức Phật thấu suốt nhân quả, nghiệp báo
của chúng sanh trong vô lượng kiếp. Lậu tận minh là
Đức Phật ngài biết rõ những nguyên nhân nào nhận
chìm chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi.
Lục thông là khi tâm thanh tịnh tròn đầy thì sáu
căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, thân, ý chuyển
thành sáu thông. Tâm bị ô nhiễm, bất tịnh thì sáu căn
chính là sáu tên giặc luôn khiến tâm bị giao động,
vọng tưởng, quấy nhiễu đời sống làm cho con người
không bao giờ yên ổn được, không bao giờ hài lòng
và thỏa mãn được những tham cầu của mình nhưng
điều kỳ diệu khi sáu căn được điều phục, chế ngự rồi
thì sáu căn đó nó trở thành sáu thứ thần thông diệu
dụng. Ở đây chúng ta cũng có thể rút ra được một
bài học: nơi nào xuất phát khổ đau thì cũng chính
nơi đó sẽ chấm dứt khổ đau; đừng bao giờ chạy trốn
với hành vi thái độ nhận thức của mình mà hãy sống
với nó, nuôi dưỡng nó vì không ai ngoài mình có thể
8
giải quyết được vấn đề của mình. Sáu thông bao
gồm: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm
thông, thần túc thông, túc mạng thông và lậu tận
thông được giải thích đại khái trong Kinh Luận như
sau:
“Thiên nhãn thông là khả năng nhìn của mắt, có
sức nhìn không hạn chế, không bị trở ngại bởi
khoảng cách, chướng ngại vật, thậm chí còn nhìn
xuyên thời gian, nhìn thấy những sinh vật ở thế giới
khác và bắt sóng được những sắc chất ở tần số khác
mà người bình thường không thể thấy được.
Thiên nhĩ thông là khả năng nghe của tai, không
bị trở ngại của ngôn ngữ, giống loài, có thể nghe
được mọi âm thanh trên thế gian, hiểu được tiếng
muôn loài.
Tha tâm thông là khả năng biết được suy nghĩ của
kẻ khác. Bộ não con người ví như một đài thu và
phát sóng, mọi tâm tư, ý nghĩ của chúng ta đều tỏa ra
xung quanh dưới dạng sóng. Nhờ tu tập Thiền định,
hoặc một phép luyện tinh thần nào đó, con người cải
thiện được sức thu của não bộ, thì khi đó con người
có thể thu được sóng não của người khác và hiểu họ
đang nghĩ gì.
9
Thần túc thông là khả năng nhìn thấy được trăm
ngàn kiếp quá khứ của mình và người khác.
Túc mạng thông là khả năng di chuyển không hạn
chế, có thể tàng hình, hiện thân to, nhỏ tùy ý.
Lậu Tận Thông là khả năng làm chủ bản thân
tuyệt đối, ý nghĩ được kiểm soát, không còn vọng
tưởng, không còn nghi ngờ, không bị nhiễm ô dù
trong hoàn cảnh nào, tâm thức tỉnh lặng, xóa bỏ mọi
nghiệp chướng (tốt hoặc xấu)”.
Trong sáu loại thần thông thì những người luyện
phép hoặc tu tiên đều có thể đạt được năm loại thần
thông trước ngoại trừ lậu tận thông là không đạt
được. Lậu tận thông chỉ có Đức Phật và các vị
Thanh Văn, A La Hán mới đạt được bởi vì lậu tận
thông là mục đích cuối cùng của người tu học theo
đạo Phật, là kết quả của quá trình đạt đến sự giác
ngộ giải thoát. Chưa chứng được lậu tận thông thì
vẫn bị phiền não tác động và vẫn còn khổ đau, vẫn
còn luân hồi sinh tử.
Trong Kinh có ghi lại một câu chuyện là, có một
lần một người biểu diễn phép thần thông đi trên mặt
nước từ bờ bên này sang bờ bên kia sông Hằng và
thách thức Đức Phật làm như vậy có được không.
Đức Phật hỏi vị kia tu luyện bao lâu mà có được
10
thần thông như thế. Vị đó đáp rằng ông ta phải mất
ba mươi năm tu luyện mới có được khả năng phi
hành trên mặt nước. Đức Phật mỉm cười bảo rằng:
“ta chỉ cần ba xu để đi đò là qua được bờ bên kia
sông Hằng!”
Chúng ta thấy có nhiều người thường hay thích
biểu diễn, thích thể hiện những chuyện phi thường
để chứng tỏ mình là hay hơn người, giỏi hơn người,
kích động tâm lý tò mò, hiếu kỳ với điều khác lạ;
những phô trương trình diễn này chỉ làm tăng thêm
bản ngã, đưa cái tôi của mình lên, dính mắc vào loại
thần thông này thì chỉ làm chướng ngại trên đường
tu tập mà thôi chứ không đem lại lợi ích gì cho việc
hóa giải khổ đau.
Đức Phật dạy rằng, trong tất cả các loại thần
thông thì loại thần thông có năng lực giáo hóa con
người, giúp con người tỉnh ngộ mà tu tập, thành tựu
đạo quả giải thoát mới là loại thần thông đáng được
tán thán, ca tụng. Có nghĩa rằng, bằng sự tu tập,
bằng khả năng thuyết giảng làm sao mà độ cho được
mọi người quay về với Chánh Pháp, quy hướng Tam
Bảo, tịnh hóa thân tâm, xây dựng xã hội, xây dựng
đời sống tốt cho mình và mọi người, làm tròn bổn
phận và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã
hội mà không bị bản ngã chi phối, đó là loại thần
11
thông mà Đức Phật đề cập cho chư vị Tỳ Kheo sử
dụng để chuyển bánh xe pháp vào cuộc đời.
Đức Phật luôn cảnh tỉnh hàng đệ tử xuất gia của
ngài là không sử dụng chiêu trò gì dưới bất kỳ hình
thức nào để lôi kéo, thu hút dân chúng đến với mục
đích cho đông đảo về số lượng. Nhiệm vụ của người
xuất gia là thắp sáng tâm lành của người tu học Phật,
đáp ứng nhu cầu học pháp và hành pháp cho người
hữu duyên với Phật pháp, đồng thời nổ lực đem đạo
vào đời, giúp người gieo trồng nhân duyên lành trên
con đường đạo với người chưa đủ duyên để thiết lập
bà con quyến thuộc từ bi của nhau.
Trên lộ trình giáo hóa độ sanh, Đức Phật cùng
giáo đoàn của Ngài đến bất cứ nơi nào, đều là tấm
gương điển hình cao quý nhất, vận dụng tinh thần từ
bi, đoàn kết, hòa hợp, tôn trọng sự thật, để chuyển
hóa mọi người đi theo con đường thánh thiện.
Sự hiện hữu và những ảnh hưởng tốt đẹp của đạo
Phật trên thế gian này trải qua hơn hai ngàn năm
trăm năm đã là sự khẳng định đúng đắn rằng Phật
giáo chính là chất liệu nuôi dưỡng và duy trì đời
sống hòa bình, an lạc, phát triển và thăng hoa tâm
linh cho nhân loại. Có thể nói rằng ngày hôm nay
12
giáo lý Phật giáo đang đáp ứng cho con người thời
đại mới những nhu cầu tâm linh vượt bực, nâng
phẩm chất của tâm thức lên trình độ cao xa, các
phẩm chất đó chẳng những không bị giáo điều ràng
buộc, mà luôn giúp cho tinh thần con người được
vững chãi, kiên định trước mọi đổi thay của nhịp
sống mất phương hướng trong vòng xoáy của nền
văn minh vật chất hiện đại. Đạo Phật đi vào đời bằng
rất nhiều phương tiện khác nhau, nhưng luôn hài hòa
và thích nghi theo từng quốc gia, từng phong tục tập
quán địa phương, giúp cho con người nhận chân
được thế nào là cuộc sống có ý nghĩa, hiểu được mối
tương quan tồn tại mật thiết giữa mình với tha nhân,
với cuộc đời, với muôn loài, để từ đó xây dựng nếp
sống lợi ích cho mình, cho người, vì sự phát triển an
bình cho xã hội, cho cộng đồng nhân loại, cho ngôi
nhà chung toàn cầu và cho tất cả các loài hữu tình và
vô tình hiện hữu trên trái đất này.
Con người ở thời Phật tại thế cách đây hơn hai
ngàn năm trăm năm và con người thời hiện đại đều
có những nỗi khổ chung về vật chất và tinh thần; nếu
không muốn nói là con người thời nay gánh chịu
nhiều khổ đau hơn, vì ngoài một số dữ kiện khách
quan thì nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng bất
an bắt nguồn từ "Tâm”, yếu nghĩa này đã được Đức
13
Phật tóm gọn trong một câu của kinh Hoa Nghiêm
"Vạn pháp duy tâm tạo” (tâm con người như thế nào
thì họ sẽ nhìn cảnh vật thế ấy). Và kinh Pháp Cú
cũng dạy rằng: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ
tạo tác, nếu nói hay hành động, với tâm niệm bất
tịnh, khổ não liền theo sau, như xe theo bò vậy. Tâm
dẫn đầu các pháp, tâm là chủ tạo tác, nếu nói hay
hành động, với tâm niệm thanh tịnh, an lạc liền theo
sau, như bóng chẳng rời hình”.
Khi khoa học phát triển thì nghành công nghệ
thông tin đã mang lại cho con người rất nhiều điều
kỳ diệu mà chúng ta có thể tạm gọi là “thần thông, là
phép mầu”. Ví dụ, khoảng 100 năm về trước làm gì
có điện thoại liên lạc quốc tế hay mạng lưới toàn cầu
của điện tử, nhưng kể từ năm 1953 thì năm đó bắt
đầu cho cuộc bùng nổ cách mạng kỷ thuật, bây giờ
con người có thể liên lạc được với nhau, nhìn thấy
nhau trong tích tắc cho dù không gian cách xa nhau
nghìn trùng hoặc con người có thể bay lên không
trung, đi trong lòng đất, du hành dưới đáy biển…Tất
cả những thành tựu đó đem đến cho khoa học đỉnh
cao rực rỡ của sự thành công và hầu như hiện nay
khoa học đã và đang chi phối toàn bộ đời sống con
người. Những điều mà khoa học đem lại cho con
14
người đó là làm cho đời sống con người đầy đủ tiện
nghi hơn, đáp ứng được chủ nghĩa tiêu thụ, sự hưởng
thụ của con người. Mặt trái của chủ nghĩa hưởng thụ
một cách sa đà, quá độ là động lực để kích động và
đốt cháy ngọn lửa ái dục bên trong của con người,
làm cho con người bị sa ngã vào cạm bẫy của sự
cám dỗ, tiêu cực một cách thái quá.
Với dòng xoáy của cuộc sống hiện đại, nhiều
người trở thành những người máy, tính khí trở nên
cộc cằn, đầy căng thẳng và phiền muộn, thậm chí
lạnh lùng và rất tàn bạo, mất hết sự tự chủ. Nguyên
nhân chính của những nỗi khổ này không phải là do
chúng ta có mặt trong cuộc sống hiện đại, cũng
không phải là do chúng ta chưa đạt tới kỉ nguyên
hạnh phúc, mà do trái tim con người ta ngày càng trở
nên khô cằn sỏi đá, bầu năng lượng yêu thương ngày
bị vơi kiệt đi; thay vào đó là thành trì bản ngã được
giáo dục, nhồi nhét, quảng bá, xây dựng một cách
tinh vi và chắc chắn.
Chủ nghĩa thực dụng đang hướng con người đến
lối sống hưởng thụ vật chất, khiến con người trở nên
tầm thường, ích kỷ, nhỏ nhen, thèm muốn cuồng
loạn, không bao giờ biết đủ, không bao giờ biết chia
sẻ đến những người đau thương, mất mát, bất hạnh,
15
kém may mắn hơn mình. Kết quả của đời sống thực
dụng là sự băng hoại các giá trị tinh thần, đánh mất
con người thật của mình và con người sẽ rơi vào tình
trạng chịu đựng không ít những đỗ vỡ trầm trọng từ
trong tâm thức do chính đời sống của con người gây
ra. Một khi ngọn lửa tham dục - sân hận sôi sục thì
con người chỉ quay cuồng trong thế giới hoang
tưởng, ảo mộng chứ con người không sống một đời
sống thực tế, không định huớng được cho đời sống
của mình, không hiểu được bản thân mình, không
nhận ra mình là ai và phải sống như thế nào, giống
như đang đi mà không biết mình đi đâu và đi đường
nào. Từ khía cạnh của đời sống dục lạc và hưởng thụ
đó, càng ngày trên thế giới càng có nhiều người trầm
cảm, tâm thần, tự tử, tâm thần, và rất nhiều căn bệnh
quái dị xuất hiện.
Đạo của Phật là một bộ môn khoa học mà môn
khoa học này là môn khoa học về tâm hồn, dạy cho
chúng ta biết rằng chìa khóa của sự bình an trong
cuộc sống là chúng ta phải biết vừa đủ, biết dừng lại
đúng lúc với những tiện nghi vật chất mà nền công
kỹ nghệ mang lại. Vai trò chính của khoa học là nổ
lực tìm hiểu thế giới bên ngoài, khám phá thế giới
bên ngoài nhưng khoa học rất non trẻ trong việc tìm
16
hiểu nguyên nhân cơ bản của những tâm trạng bất
an, sầu khổ bên trong nội tâm con người để tìm ra ý
nghĩa thực thụ cho đời sống con người. Khi khoa
học không thể đáp ứng được những nhu cầu về vấn
đề tâm linh và đời sống tinh thần thì con người tìm
đến với tôn giáo. Có rất nhiều tôn giáo chủ trương
rằng: con người chỉ cần đặt niềm tin tuyệt đối vào
đấng giáo chủ của tôn giáo đó thì họ sẽ đón nhận
nhiều phép mầu do đấng tối cao của tôn giáo đó ban
tặng, con người hoàn toàn bị động, con người không
cần đầu tư vào việc tu luyện mà chỉ cần phó thác
cuộc đời mình cho đấng giáo chủ thì mới biểu lộ
niềm tin một cách tuyệt đối bởi vì chỉ có cách đó
mới được cứu rỗi. Ngày xưa trình độ của con người
còn phôi thai, khoa học chưa phát triển thì đâu đâu
cũng đều có bóng dáng của thần thánh ẩn núp cho
nên không có gì khác hơn mà nhất thần giáo nhất
quyết cho rằng là con người phải cúi đầu quỳ lạy các
đấng tạo hóa thần linh thì mới được tha tội và ban
phước. Niềm tin này đã vô tình khiến không ít người
nhắm mắt nhắm mũi chạy theo và rơi vào tình trạng
“hứa hẹn” hão huyền mà không biết đặt giá trị sự
sống trên bàn cân của nguyên lý sự thật. Chư vị
Thánh giả đệ tử đức Thế Tôn thì ngay quả vị chứng
đắc cao nhất mà các ngài còn không mong cầu và
17
bám víu (đó chỉ là trạng thái trở về với ngôi nhà
uyên nguyên của tâm giác ngộ); người Phật tử chân
chính thì họ sẽ không sợ hãi gì với những hù dọa vu
vơ với chủ thuyết: bị đọa đày xuống hỏa ngục (nếu
không tin, không theo) mang tính cách áp đặt và thọ
hưởng những thú vui nơi thiên đàng (nếu tin và theo)
mang tính cách quảng cáo rỗng tuếch. Một số lý luận
cho rằng sự hù dọa cũng như dụ dỗ trong tôn giáo
phần nào răn đe những thành phần xấu ác nhưng đó
không phải là mẫu số chung mà con người phải
khuất phục để tuân hành theo mệnh lệnh trong tinh
thần chân thiện mỹ.
Đạo Phật cũng có nói đến sự cầu nguyện, nói đến
những sự nhiệm mầu và có rất nhiều câu chuyện về
sự linh ứng khi hành giả thiết tha thành tâm cầu
nguyện cho những mục tiêu chính đáng của mình.
Tuy nhiên, sự cầu nguyện và đức tin của đạo Phật
được đặt trên nền tảng của luật nhân quả, của tinh
thần phước báu, của sự tự chủ chứ không phải tin
một cách mù quáng, không có cơ sở. Bằng con
đường thực nghiệm tâm linh, bằng con đường tự
thân tu tập, đạo Phật giúp con người có được đời
sống tự do tự tại, đời sống làm chủ bản thân mà
không bị lệ thuộc, không bị khống chế, không bị ám
18
ảnh, sợ hãi bởi một đấng thần linh nào cả. Điều đó
có nghĩa rằng khi áp dụng lời Phật dạy đúng phương
pháp thì chúng ta sẽ có phép mầu ngay lập tức chứ
không phải nhọc công chạy quanh chạy quẩn đi tìm
cầu ở đâu xa xôi.
Trước lúc Đức Phật xuất thế, xã hội Ấn Độ bị
kìm hãm trong tư tưởng về sự phân biệt và kỳ thị
giai cấp, chủng tộc một cách khốc liệt. Con người
không có quyền được nói lên tiếng nói của họ, đời
sống của con người được quyết định bởi những yếu
tố của thần linh. Đức Phật dạy rằng: “Con người là
chủ nhân ông, là kẻ thừa tự tất cả những nghiệp dĩ
mà con người đã gây tạo.” Lời dạy đó là một phép
mầu vi diệu đã giải phóng con người một cách triệt
để, thoát khỏi vòng vây của thần linh và Thượng đế.
Có một lần trên đường đi du hành thuyết pháp, Vua
A Xà Thế cho bầy voi say rượu từ trong cung thành
chạy ra để ám hại Đức Phật. Nhưng khi bầy voi say
kia chạy đến đối diện với Đức Phật thì chúng dừng
lại và quỳ mọp xuống dưới chân Đức Phật một cách
im lặng và biết lỗi. Vua A Xà Thế thấy thế thì ông
bực tức vô cùng rồi ông hỏi các quan rằng: “Có phải
ông Cồ Đàm kia có phép mầu không? Nếu không có
thì tại sao bầy voi say của ta không ám hại được ông
ta?” Mặc dầu Đức Phật đầy đủ sức thần thông để
19
chinh phục bầy voi say của vua A Xà Thế nhưng
ngài dạy rằng ngài đã không sử dụng thần thông để
điều phục bầy voi say đó mà ngài chỉ “rải tâm từ vô
biên” để tỏa chiếu đến đàn voi cho nên đàn voi đã
quy ngưỡng và hoàn toàn kính phục ngài.
Như vậy, đến đây chúng ta có thể nói thêm rằng
từ bi là phép mầu tuyệt vời nhất trong đạo Phật.
Nước Mỹ đã lưu lại một câu chuyện thật rất đẹp
về vị Bác sĩ lỗi lạc tên là Dr. Howard Kelly, ông là
người sáng lập khoa Ung thư tại trường đại học John
Hopkins ở Baltimore, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ
vào năm 1895. Câu chuyện được ghi lại với nhan đề
là “Giá Trị Một Ly Sữa”.
Đó là câu chuyện của một cậu bé nghèo phải đi
bán hàng rong để kiếm tiền học. Một hôm, dạ dày
cậu trống rỗng đói đến lả người. Thò tay vào túi, cậu
thấy chỉ còn sót lại duy nhất có một đồng xu. Nhưng
đó là đồng tiền cậu hứa mua bánh cho mấy đứa em ở
nhà. Sau một lát lưỡng lự thì cậu bé quyết định ghé
vào ngôi nhà phía trước để xin chút gì đó bỏ bụng.
Thế nhưng, người trong nhà mở cửa ra đó là một
thiếu phụ trẻ đẹp. Khi nhìn thấy người thiếu phụ này
thì cậu bé hơi bối rối và ngại ngùng cho nên thay vì
hỏi xin cái gì để ăn thì cậu bé chỉ mở lời xin một ly
nước. Thấy dáng vẻ nghèo khổ và đói lả của cậu bé,
20
người phụ nữ thay vì rót cho cậu một ly nước thì Cô
đã vào trong nhà pha một ly sữa lớn đem ra cho cậu
bé. Cậu chậm rãi nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi:
- Cháu nợ cô bao nhiêu ạ ?
Người phụ nữ trả lời:
- Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không
bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt.
Cậu bé cảm kích đáp:
- Cháu biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu.
Cậu bé cho biết đó là ly sữa thơm ngon nhất mà
cậu chưa từng được uống. Khi ra đi, cậu bé cảm thấy
khỏe khoắn hơn và niềm tin vào con người và cuộc
sống mãnh liệt bắt đầu được trổi dậy trong cậu bởi vì
trước đó, cậu bé như muốn đầu hàng số phận. Nhiều
năm sau, người phụ nữ này bị bệnh nặng. Các bác sĩ
địa phương đều bó tay. Họ chuyển bà đến thành phố
lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng
này. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn.
Khi ông nghe tên thị trấn nơi người phụ nữ này ở thì
Ông nhận ra ngay đó là ân nhân của ông năm xưa và
ông khoác áo choàng đi đến phòng hội chẩn, ông
quyết định sẽ dốc hết sức để cứu sống bệnh nhân
này. Và cuối cùng nỗ lực của ông cũng được thành
21
công và bệnh người phụ nữ đã thuyên giảm và sau
đó khỏi hoàn toàn. Tiến sĩ Howard Kelly đề nghị
phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân
nhân để ông xem lại. Ông viết vài chữ bên lề của tờ
biên lai và cho chuyển tờ hóa đơn đó đến người phụ
nữ. Khi nhận hóa đơn, người phụ nữ hồi hộp mở ra
đọc. Bà dự đoán rằng số tiền phải trả rất cao, có lẽ
bà sẽ phải làm việc cật lực cả đời mới trả hết và bà
ngạc nhiên hết sức khi bà đọc thấy bên lề hóa đơn
một hàng chữ rằng “Hóa đơn đã được thanh toán
bằng một ly sữa. Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.”
Đây là một câu chuyện không thể tưởng tượng
nổi nhưng nó đã thực sự xảy ra trong cuộc sống.
Hằng ngày trong phim ảnh sách báo chúng ta rất
nhiều thông tin về những tệ nạn xã hội đầy dẫy khắp
nơi trên thế giới, nào là chém giết, phá hoại, cướp
giựt tiền của v.v…nhưng bên cạnh những điều xấu
ác trong xã hội thì đâu đây vẫn còn những tấm lòng
ưu ái nhân hậu, sự giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống
hữu hạn này.
Theo quan điểm của Phật giáo thì cả hai hành
động trên đều mang một ý nghĩa lớn lao, đó là tinh
thần bố thí ba la mật, tinh thần vô ngã vị tha, tinh
thần thọ ơn mà không bao giờ quên ơn, giúp đỡ mà
không cần trả ơn. Mình trao tặng cho ai cái gì đó
22
nhưng mình không nghĩ rằng mình là người cho,
không nghĩ đến phẩm vật cho và không mong đợi
người nhận trả ơn mình mà thuật ngữ Phật Giáo gọi
là “tam luân không tịch” thì người trao tặng hưởng
trọn vẹn được phước báu. Cho với một tình thương
chân thành mà không mong cầu người nhận phải đền
đáp thì đó là việc làm của tinh thần vô ngã và kết
quả thật tốt đẹp sẽ đến một cách tự nhiên. Trong câu
chuyện này chúng ta thấy trong lúc định xin một ly
nước mà cậu bé được nhận một ly sữa thơm ngon và
phong cách đầy tình người, đầy tình thương từ người
phụ nữ đó thì trường hợp đón nhận sự ưu ái của
người phụ nữ này chúng ta cũng có thể gọi là một
phép mầu đến với cậu bé. Nhân nào thì quả nấy,
nhận được hóa đơn với dòng chữ là hóa đơn đã được
thanh toán bằng ly sữa thì đó cũng là một phép mầu
vi diệu đối với người phụ nữ này. Như vậy chúng ta
thấy rằng một khi trái tim được rộng mở, thì toàn bộ
cuộc sống trở nên tốt đẹp và hài hòa, một việc làm
rất đơn giản như vậy nhưng làm với một tấm lòng
chân thành, với tâm niệm trân quý thì việc làm đó sẽ
đem lại kết quả thù thắng vô cùng.
Chỉ cần một tình yêu thương chân thật thôi thì
cũng đủ cho mỗi cá thể tìm lại được dòng năng
lượng tươi mát có khả năng trị bệnh cho mình đồng
23
thời cũng giúp cho mọi người trong gia đình, trong
xã hội và trên thế giới có thể nắm tay lại và vui sống
với nhau để giữ gìn hành tinh xanh này.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Phật giáo Tây
Tạng, bậc Đạo Sư tâm linh vĩ đại nhất trên thế giới
thời hiện đại luôn bảo rằng: “Tôn giáo của ngài là
lòng từ bi”. Lòng từ bi được mở ra thì phép mầu sẽ
được tuôn chảy. Vài gợi ý và chia sẻ:
- Nếu gặp một gã ăn xin đui mù bẩn dơ, hèn hạ
đói lã ngã quỵ bên đường mà chúng ta cho
người đó một chén cơm thì có thể giúp người
đó giữ lại mạng sống, đó chính thật là phép
mầu! Một người đang bị đau mắt, họ rất cần
người giúp đỡ để được mổ mắt mà nếu chúng
ta giúp cho họ được mổ mắt để đem lại ánh
sáng cho họ thì đó là một phép mầu. Dân
chúng lụt lội bão tố lầm than cơ cực trong màn
trời chiếu đất mà mình động lòng thương đem
đến cho họ thức ăn, nước uống, mền gối, dược
phẩm..., đó là một phép mầu.
- Hai người đang cãi nhau, hai nước đang giao
tranh với nhau mà nếu chúng ta có khả năng
thì chúng ta giúp cho hai bên giải hòa, kết giao
với nhau trở lại thì đó là phép mầu.
24
- Dòng đời xuôi ngược, cuộc sống bon chen với
đầy dẫy những thử thách, cam go và cám dỗ,
con người mãi trôi nổi trên những làn sóng
biến dịch luân hồi cho nên tâm thường bị xao
động, dong ruỗi theo cảnh duyên, vì thế nổi
khổ niềm đau không hề thuyên giảm mà càng
ngày càng gia tăng, khi thấy những tình cảnh
như vậy mà chúng ta có những lời khuyên
chân thành, kịp thời, bổ ích, đúng lúc và
hướng những người đó đến con đường Phật
Pháp để giúp con người vượt qua khó khăn thì
đó là một phép mầu.
Trong đời thường có biết bao cơ hội mà bất cứ ai
trong chúng ta cũng có thể đem lại phép mầu cho
nhiều người thì tại sao chúng ta không bắt tay vào
làm ngay để thực hiện tâm nguyện: “Kiếp kiếp
thường hành Bồ tát đạo”.
Tâm của mình rộng lớn thì mình làm được nhiều
việc lớn, tâm mình nhỏ thì mình làm những việc
nhỏ, còn những người không có tâm thì sẽ không
làm được những việc gì tốt để cứu giúp đời. Trái tim
của chúng ta rất vi diệu, khi tâm chúng ta mở ra là
mùa xuân của đời sống có mặt, khi trái tim của
25
chúng ta rộng lớn là sức sống mảnh liệt bùng dậy
trong mạch sống của chúng ta.
Tóm lại, trái tim từ bi là phép mầu vi diệu, cứu
giúp mọi người là phép mầu vi diệu, tuệ giác là phép
mầu vi diệu, đời sống tỉnh thức là phép mầu vi diệu,
được sống, tu học trong Chánh pháp đức Phật là
phép mầu vi diệu, mắt còn sáng để thấy được ánh
sáng mặt trời, mưa rơi tí tách, tai, mũi, lưỡi…còn có
khả năng cảm nhận đời sống xung quanh là một
phép mầu. Tất cả những phép mầu đó không phải là
những lý tưởng xa vời, những luận lý tơ tưởng mông
lung mà nó rất thực tế, là vấn đề của con người và
do con người; cho nên con người phải là chủ nhân
trong tất cả mọi hình thái của cuộc sống chính mình.
Trên đời này không có cái gì tự nhiên mà có hết, cái
gì cũng có nguyên nhân của nó, chúng ta không thể
ngồi đó mà cầu cho phép mầu đến với mình mà
người xưa thường nói là “ngồi chờ sung rụng”,
chúng ta phải là người tạo ra phép mầu để mình tận
hưởng. Nguyện cầu ngọn đèn Phật Pháp luôn rực
sáng trong tâm thức mọi người.