Bà và mẹ tôi bắt đầu mỗi ngày vào khoảng 5 giờ sáng, ngay cả trước khi gà trống gáy. Chúng tôi không có điện, nhưng mẹ tôi luôn đánh thức chúng tôi một cách nhẹ nhàng và lặng lẽ đưa chúng tôi đi bộ ra ngoài để ngửi không khí trong lành trong sương mai, và ngước nhìn sao mai dan dan bien dang tren bau troi dang lap loa anh sang cua binh minh.
Vào thời đó, hầu hết phụ nữ đều nói với trẻ em rằng: “Dậy sớm, ngủ sớm sẽ giúp bạn thông minh và khỏe mạnh.” Tôi luôn thích đi học và mặc dù đời sống của chúng tôi rất đơn giản và tôi nhớ không lầm là tôi chưa nghỉ học ngày nào vì đau bịnh. Về tới nhà, khoảng một giờ rưỡi và chào Bà tôi, người luôn ngồi trên một chiếc divan Việt Nam làm bằng gỗ gụ rắn ăn trầu thay vì ngủ trưa. Nhai trầu là một hình thức thư giãn sau vài giờ bận rộn việc bếp núc.
Bên cạnh bà, có những trụ cột gỗ gụ tròn lớn, trên đó có treo một cuốn lịch lớn được viết bằng ba thứ ngôn ngữ: chữ Pháp, chữ Nom và chữ Việt hiện đại. Mỗi ngày bà yêu cầu tôi đọc phần chữ Việt , bao gồm các ý niệm về tuần trăng trong mỗi tháng hay những vần thơ ngắn liên quan đến tam giáo đồng nguyên truyền thống của Việt Nam (Phật giáo, Nho giáo, và Lão giáo), và trong đó có những lời khuyên thiết thực trong ngày. Nhiều lần lời khuyên dường như cứ lặp đi lặp lại: hôm nay “đừng đi về phía đông”; ngày mai “đừng đi về phía tây”, một ngày khác “đừng đi về phía nam” và một ngày nữa thì “đừng đi về phía bắc”. Tôi cũng không bao giờ hỏi bà về ý nghĩa của câu nói ấy, tôi cứ giữ bí mật trong tâm của mình rằng: “Vì sao có quá nhiều ngày không nên đi ra khỏi nhà và dù có đi theo hướng nào, bạn cũng có thể gặp xui xẻo hoặc gặp vấn đề hoặc một trở ngại nào đó?” Những ngày tốt nhất để đi ra ngoài là những ngày của trăng mới mọc, trăng khuyết và trăng tròn. Quý Phật tử, theo thông lệ thường đi chùa vào những ngày trăng tròn và giữ ăn chay kỳ 10 ngày mỗi tháng. Ngoài việc ăn chay, chúng tôi còn làm những việc tốt khác như phóng sanh chim, cá, tôm, rùa, v.v… rồi hồi hướng công đức cho tất cả mọi người và mọi chúng sanh. Tổ tiên của gia phả nhà tôi có cái nhìn xa, chọn đất tốt cho ngôi nhà mới của họ khi vào thời Vua Gia Long, họ tiên phong đi khai khẩn đất hoang dại ở miền Nam Việt Nam để định cư và dọn đất để canh tác. Khi những người phụ nữ trong gia đình muốn thư giãn, hoặc ông tôi muốn làm thơ và chơi nhạc cụ, họ sẽ ngồi trước nhà nhìn ra những cánh đồng lúa xanh ngát lan rộng tận phía chân trời. Xa xa là những hàng tre và cây dừa nước mọc dọc theo con sông nhỏ. Thỉnh thoảng những con chim Hạc (dân quê miền nam gọi nó là chim Sếu) đến thăm khu ruộng đất đai phì nhiêu, tĩnh mịch và rất gần ngôi nhà thời thơ ấu của tôi. Chao ôi, tôi nhớ làm sao những hình ảnh đẹp tuyệt vời của vài chục con chim Sếu đâu đỏ với đôi cánh trắng xóa đáp xuống ruộng lúa hay bay lượn với những điệu vũ thật duyên dáng, được lồng trong khung cảnh với hai hàng cây phượng vĩ, với những cánh hoa đỏ rực rỡ dưới bầu trời xanh chấm phết với những cụm mây trắng mịn, mỏng, nhẹ như tơ. Quả thật là một bức tranh đẹp tuyệt vời như trong chuyện phim. Người lớn nói với tôi rằng những con chim sếu (mà sau này tôi biết là sếu Đông Sarus) nếu đứng thì cao bằng chiều cao của tôi, nếu sải cánh thì bằng chiều dài của hai cánh tay vươn ra của một cô bé 7 tuổi như tôi. Chúng đến các cánh đồng lúa đã gặt xong để lượm lặt những hạt lúa còn sót lại, cây thủy sinh, cua nhỏ, ốc, cá, v.v ... Nông dân và điền chủ rất mến chúng, coi chúng là những con chim linh thiêng. Chim sếu không chỉ giúp đất xới ngược để ăn rễ lúa chết, chúng còn ăn côn trùng có hại, chuột đồng v.v. (Vào thời đó, vùng đồng bằng này là vùng trồng lúa năng suất cao nhất của Việt Nam, là quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới!). Người dân địa phương thực sự tin vào câu nói phổ biến “Đất lành chim đậu”. Điều này có nghĩa là “Sếu, là hiện tượng linh ứng, chúng sẽ đến và ở lại nếu chỗ nào có đất, nước và thức ăn màu mỡ cho chúng.” Sẽ là điềm xấu cho người dân nếu Sếu biến mất hoặc không đến. Tôi thường thích ngắm nghía chim Sếu với những bước đi thanh lịch, thong thả mà oai nghi, những vũ điệu múa của Sếu, những bước nhảy vọt, nhưng chuyển động xoay tròn, quả thật là thú giải trí không tốn xu nào của ngườ dân quê miền này. Quan sát điệu nhảy tango của những con chim Sếu này, với cổ cong cong thật trang nhã, nghe và thấy những tiếng gọi đồng thanh lớn và song ca của chúng khi chúng tái khẳng định mối quan hệ gắn bó suốt đời của chúng và cố gắng củng cố ranh giới lãnh thổ giống như có một chỗ ngồi trong đền thờ của thiên nhiên. Người Việt Nam xem những hành động này như một lời cảm ơn với Trời, với Đất và cảm ơn lẫn nhau.Nếu trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần, bà tôi không thấy con sếu nào trên ruộng lúa, bà yêu cầu tôi đếm số ngày cho đến khi trăng tròn, khi nào bà có thể đi chùa. Như thế, để bà dự đoán của ngày trăng tròn là ngày hạnh phúc, tu an phận tại ngôi nhà của chính mình để giúp bà tự kiểm soát cơn sốt cabin vì nó không ngừng thúc đẩy bà hay đi đến những nơi này, di nơi khác. Đến chùa, bà có thể nghe các bài giảng, tụng kinh và cầu nguyện; nhìn thấy nhiều cây cảnh đẹp, cây và hoa cỏ lạ mắt; tham gia các cuộc trò chuyện xã hội với những người bạn cũ và mới; và hương vị ngon của ẩm thực chay. Bà và mẹ tôi cũng được nghe những tin tức mới nhất về giá gạo, những người đã rời làng để tham gia Mặt trận Giải phóng hoặc những người đã rời khỏi làng quê để gia nhập Pháp hoặc các lãnh chúa ở thành phố. Tôi nghe người lớn trong gia đình thảo luận về việc họ sẽ bán gạo cho ai, và họ kiên quyết không bán gạo cho các lãnh chúa Bình Xuyên, những người hợp tác với các quan chức Pháp và thương nhân Trung Quốc, những người điều hành mại dâm, rượu, thuốc phiện và đánh bạc ở Sài Gòn. Việc làm và lợi nhuận từ các hoạt động này trái với quan điểm của Phật giáo và lòng yêu nước.Chỉ sau này, khi tôi có cơ hội đọc thêm về nhiều phong tục phức tạp của Việt Nam, tôi mới nhận ra rằng trí thức Việt Nam, những nhà thông thái có thể tác động đến hành vi công cộng và định hình lối sống của họ liên quan đến quản lý tài nguyên cho lợi ích của quốc gia, đã tạo ra những lịch phổ biến này để nhắc nhở những người bình thường tôn kính ba hệ thống tín ngưỡng châu Á vượt thời gian: Phật giáo Nho giáo và Lão giáo. Họ hy vọng công chúng sẽ tin tưởng mạnh mẽ vào những lời dạy của những truyền thống này, khiến cho cuộc sống của mọi người được hạnh phúc hơn, tiết kiệm hơn và đạo đức hơn bằng cách kiềm chế những nhục dục liên tục trong con người để quá bận rộn với thế giới bên ngoài trong khi bỏ bê công việc gia đình và tự cải thiện – vì những thái độ này có thể dẫn đến rất nhiều đến năng lượng, cảm xúc và thể chất vô dụng cũng như lãng phí tài nguyên thiên nhiên.Như vậy, tự do của bản thân cũng như của quốc gia sẽ bị mất và quốc gia sẽ dễ dàng bị chi phối bởi các thế lực nước ngoài. Vào thời điểm đó, các nhà lãnh đạo đã hiểu sự không phù hợp giữa văn hóa phương Tây và truyền thống Việt Nam, và cũng quan tâm để tránh sự thống trị của Trung Quốc đối với tài nguyên thiên nhiên phong phú của Việt Nam. Quyết tâm này không phụ thuộc vào các ảnh hưởng bên ngoài để giành lấy chủ quyền quốc gia đã dẫn đến một mô hình về trật tự, uy tín của các nghề nghiệp khác nhau, được ghi lại trong cụm từ phổ biến: ‘Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương (đầu tiên là nghề giáo dục, thứ hai là nông nghiệp, thứ ba là thợ công nghệ và thứ tư là doanh nhân). Những ý tưởng này đã được thúc đẩy mạnh mẽ ý chí làm tri thức, nho sĩ khi tôi còn trẻ ở tuổi đi học.Là một nhà giáo trong thời chiến tranh Việt Nam, ước vọng rèn luyện kỹ năng sư phạm cho thế hệ tương lai, tôi chấp nhận một học bổng du học tại Hoa Kỳ và cuối cùng tôi đã kết hôn với một người Mỹ và định cư ở quốc gia này. Kinh nghiệm của tôi được mở rộng nhờ cơ hội đi du lịch cùng chồng để sống trong thời gian dài ở nhiều nước châu Á. Vì tôi thấy rằng không có nền văn hóa nào có giải pháp hoàn hảo để tổ chức xã hội loài người, tôi nhận ra rằng văn hóa Mỹ tiên tiến về công nghệ không nhất thiết là làm tốt hơn văn hóa Việt Nam truyền thống của tôi. Để giải quyết vấn đề nan giải cá nhân của tôi với tư cách là một công dân sanh sống ở Mỹ, quá nhiều cách suy nghĩ cận kẽ, tôi tự tạo cho mình một lập trường về các giá trị đạo đức cá nhân, chọn lựa cách sống sao cho được tương đối an lạc mà không bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh, người Việt gọi nôm na là Hòa hợp nhưng không hòa tan. Tôi cảm thấy thoải mái, trung thực, thực tế và đúng với bản thân mình hơn khi quay trở lại các giá trị của sự giáo dục mà tôi đã lãnh hội tại Việt nam từ thời thơ ấu trong việc tìm ra cách ứng xử, cách làm giảm tội lỗi của tôi trong cuộc sống trần gian này. Nhìn chung, tôi cảm thấy nó lành mạnh, hiệu quả, tiết kiệm và dễ chịu khi tôi chịu trách nhiệm về các quyết định về cuộc sống của chính mình, thay vì bận rộn đi đây đó và làm theo ý tưởng, cảm xúc của các nhóm đồng đẳng hoặc chính trị gia. Kết quả là, tôi cố gắng tập trung sự chú ý của mình vào những thứ liên quan đến những trải nghiệm và giá trị của thời trẻ tuổi. Ngoài những hiểu biết thông thường, tôi thích học tham khảo về cách ngừa bịnh hơn là chữa bịnh, tệ nạn môi trường sinh thái trong thời đại, vai trò của chim Sếu, lý tưởng Phật giáo trong vai trò đánh thức tinh thần giác ngộ, lý tưởng cao đẹp của Đức Phật để lại cho chúng sanh.Trong vài ngàn năm, chim Sếu, văn hóa Phật giáo ở Á Châu, đã đặt nhiều dấu ấn, đã viết nhiều bài thơ, câu chuyện, âm nhạc, tranh vẽ và tục ngữ để tôn sùng phong cách đẹp đẽ, tánh chất trung thành, trang nghiêm của con người và truyền đạt những lời chúc tốt đẹp lâu dài và cuộc sống hạnh phúc cho mọi người ở mọi lứa tuổi. Hình ảnh được sử dụng như một biểu tượng cho tất cả các loại vật chất và ý tưởng: váy cưới, đồ trang trí gia đình, gói quà tặng, quảng bá thực phẩm chay lành mạnh, quan tâm đến môi trường sanh sống và bảo vệ hòa bình.
Trong nhiều bối cảnh Phật giáo châu Á, đặc biệt là ở Việt Nam, tượng hai con chim Sếu đứng yên với đôi cánh khép lại trên ao sen được sử dụng để thể hiện cho giáo lý Phật giáo về tâm hồn tĩnh lặng, viên mãn, không lao xao bồn chồn, không nhị nguyên, không tham lam ham muốn hay não phiền, không kiêu ngạo, và do đó không cần màn hình sặc sỡ - tất cả đều biểu hiện cho trạng thái thiền định (Samadhi), một trạng thái hợp nhất lý tưởng giữa con người và thế giới vũ trụ rộng lớn hơn. Tâm trạng này có thể giúp cuộc hành trình tìm hạnh phúc trên trái đất này êm ả hơn, hạnh phúc hơn, bình yên hơn và bớt tội lỗi hơn. Người châu Á tin rằng những con chim Sếu đang khép kín linh hồn chúng ta dưới đôi cánh của chúng.Trong các bài viết về trí tuệ Phật giáo, tôi đã gặp một câu chuyện kỳ diệu liên quan đến những con chim linh thiêng đóng vai trò biểu tượng quan trọng như vậy trong sự giáo dục văn hóa của tôi. Trong những năm 1960, khi chiến tranh ở Việt Nam đang lan rộng, U Thant (người Miến Điện) là Tổng thư ký Liên Hợp Quốc đã hợp tác với một kiến trúc sư Nhật Bản để thiết kế Khu vườn linh thiêng ở Lumbini, Nepal, nơi Hoàng tử Sĩ Đạt Đa (Siddhartha Gautama tức Đức Phật) được sinh ra khoảng 560 BCE. Ý tưởng là tạo ra một nơi hành hương thiêng liêng để mọi người từ khắp nơi trên thế giới có thể đến để học hỏi và đánh giá cao giáo lý của Đức Phật, từ đó thúc đẩy hòa bình và hòa hợp giữa các quốc gia.Lúc đầu dự án này không tiến triển lắm. Có một câu nói của người Việt: “Thời gian sẽ đúng lúc, khi mỗi người và quốc gia trên trái đất này sẽ có cơ hội trải nghiệm những ngày nắng ấm và ngay cả những ngày tăm tối”. Mãi đến năm 1978, lúc đó một người chưa được biết đến nhiều là Giáo sư Lâm Trung Quốc (cũng là một tu sĩ Phật giáo được gọi là Hòa thượng Thích Huyền Diệu), tốt nghiệp Sorbonne ở Pháp, giáo sư lịch sử và quan hệ quốc tế, đã đi hành hương đến Vườn Lumbini của Nepal. Trong chuyến đi này, Hòa thượng cảm nhận sâu sắc rằng dự án Lumbini quốc tế có thể được thực hiện nhiều hơn nữa. Hòa thượng được nhà vua Nepal cho phép xây dựng một ngôi chùa Việt Nam trên 4 mẫu đất bên cạnh trụ đá của Vua A Dục, lịch sử và vườn thượng uyển Lâm Tì Ni, nơi Hoàng tử Sĩ Đạt Đa (Siddhartha) được sinh ra vào một ngày trăng tròn. Lòng tín thành và kỹ năng quản lý xây dựng ngôi chùa Phật giáo nước ngoài đầu tiên với thiết kế kiến trúc mỹ thuật của Phật giáo Việt Nam đã giúp thu hút nhiều khách hành hương và nâng cao các dự án từ thiện xã hội, đã hoạt động tích cực cho nền kinh tế địa phương cũng như bảo tồn và dưỡng nuôi các loài chim Sếu. Rồi một ngày nọ, không biết từ đâu, hai con Sếu khổng lồ đáp xuống trú tại Ngôi chùa Phật Giáo của Việt Nam, ngôi chùa Phật lần đầu tiên tại xứ Nepal.Sự kiện bất ngờ nhưng thuận lợi này đã tạo ra nhiều thông tin đáng kể, không chỉ ở Nepal mà trên toàn thế giới, bởi vì vào thế kỷ 20, chim Sếu đã bị đe dọa do các hoạt động thiếu quy tắc của con người (bao gồm cả việc phá hủy các khu vực sinh sản quan trọng trong Đồng bằng lau sậy ở Đồng bằng khu vực đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, không xa nơi tôi lớn lên). Sự xuất hiện của những chim Sếu ở Lumbini dẫn đến sự hỗ trợ ngày càng tăng, đặc biệt là ở nhiều quốc gia Phật giáo, đã hỗ trợ phong trào của Tiến sĩ Hòa thượng Huyền Diệu nhằm thúc đẩy dự án Lumbini của Nepal. Ngày nay có 15 quốc gia, chủ yếu ở châu Á, những chính phủ tự hào và hãnh diện vì các kiến trúc ngôi chùa Phật giáo nước họ đã hiện diện ở Vườn Thượng Uyển Lumbini này. Hiện nay có các chương trình quốc tế để thúc đẩy du lịch vì hòa bình thế giới, nghiên cứu Phật giáo và thông qua các hoạt động của Tổ Chức Quốc Tế Bảo Tồn Loài chim Sếu, tổ chức nghiên cứu và giáo dục về loài chim Sếu và bảo tồn môi trường thiên nhiên cả thế giới, nâng cao ý thức hệ về vai trò con người với thiên nhiên và vũ trụ.Tôi tin rằng điều đó đã đúng trong suốt lịch sử loài người, cuộc sống kỳ diệu thiêng liêng của chim Sếu, khao khát trí thông minh nội tâm của con người và thiện chí bẩm sinh của các nhóm công dân có trách nhiệm từ khắp nơi trên thế giới, khi thời gian được đúng lúc hoặc đủ khẩn cấp, sẽ phối hợp với nhau truyền bá thông điệp về hòa bình cho nhân loại và đạo đức cho người dân vì lợi ích riêng của họ để tự bảo tồn. Tôi hy vọng khu vườn Lumbini của Nepal sẽ phát triển vì lợi ích cho các thế hệ tương lai, bao gồm các cháu của tôi - cháu chắt của người phụ nữ đã giúp thấm nhuần vào tôi những giá trị truyền thống của Việt Nam khiến tôi đánh giá cao về lý tưởng Phật giáo, chim hạc và thế giới tự nhiên.
Loan Anh: <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.;
Thích Nữ Giới Hương: <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.;
The Magic of Cranes: An Asian Perspective
By Loan Anh Small
My grandmother and mother started each day at about 5 in the morning, even before the rooster crowed. We did not have electricity, but my mother always woke us up gently and quietly taking us to walk outside to smell the air fresh with the morning dew, and to look up at the last fading morning stars. In those days, most women told children that “Early to rise, early to bed will make you smart and healthy.” I always enjoyed school, and even though our living standards were simple, I do not remember any childhood sickness causing me to miss school days. Each day I came home from school around 1:30 p.m. to greet my grandmother, who would always be sitting on a Vietnamese “divan” made of solid mahogany, where, instead of taking an afternoon nap, she would prepare her own snack of betel nut to chew as a form of relaxation after several hours of busy house work.
Beside her, hanging from one of the big round mahogany house pillars, was a big calendar written in three languages: French, traditional Vietnamese characters and the modern Romanized Vietnamese script. Every day she asked me to read the modern Vietnamese part, which included the phases of the moon, poems related to the three traditional religions of Vietnam (Buddhism, Confucianism, and Taoism), and practical advice for the activities of the day. Many times the advice seemed very repetitious: today “don’t go east;” tomorrow “don’t go west;” another day “don’t go south;’ and on yet another “don’t go north.” I read these to her, but never asked her the question that I kept secretly in my mind: “How come there are so many days when it says that no matter in which direction you go, you may encounter bad luck or problems or some kind of obstacle?” The only good days to go out were days of the new moon, the quarter moon and the full moon. Full moon days were particularly auspicious for going to the temple, and many of the 10 days per month that our Buddhist practice call for eating only vegetarian food were concentrated around the time of the full moon. Not only was our diet to be vegetarian at the time of the full moon, but we were also to do good deeds both to other people and to other sentient beings (by freeing birds, fishes, shrimp, turtles, etc.)
My ancestors must have had good visual taste, choosing a beautiful area for their new homestead when they came as pioneers to southern Vietnam to settle and clear land for farming. When the women in my household wanted to relax, or my grandpa wanted to make poems and play musical instruments, they would sit in front of the house looking out on the vast green rice fields far beyond. In the distance were rows and rows of bamboo and water palm trees along the small river. From time to time cranes would visit this tranquil area of my childhood homestead. Oh how I remember the wonderful and pretty sight of several dozen of them with the white wings landing or flying gracefully, framed by the brilliant red flowers of the two large flame trees in front of the house, and set off by the beautiful blue sky filled with white fluffy clouds.
Adults told me the cranes (which I later learned were Eastern Sarus cranes) were about my height, with a wing span equal to the length of the outstretched arms of a 7-year old girl like me. They came to the fields to glean left over rice kernels, aquatic plants, small crabs, snails, fish, etc. Farmers and land owners considered them to be sacred birds. Not only did they loosen up the soil filled with dead rice roots, they also ate harmful insects, field rats and mice. (In those days, this delta region was the most productive rice growing area of Vietnam, which itself was the second largest rice exporting country in the world!) Local people really believe the common saying “Đất Lành Chim Đậu” would apply to our area. This means “Sacred cranes will come and stay if there is good soil and water and food.” It was a bad omen for the people if they disappeared or did not come. I always enjoyed watching their many elegant, slow trance-like strutting, followed by leaps and spinning movements. Observing the courtship tango–like dance of these birds, with their meticulous preening, arched necks and very low gracious bows, and hearing their loud unison calls and synchronized duets as they reaffirmed their faithful life-long pair-bonding and attempted to firm up their territorial boundaries was like having a seat in nature’s temple. The Vietnamese viewed these acts as a “Thank You” to Heaven, to Earth and to each other.
If for many days or weeks my grandma did not see any cranes on the rice fields, she would ask me to count the number of days until the full moon, when she could go to the temple. It was in anticipation of the happy full moon day at the temple that helped her control her cabin fever and restless impulse to go to other places. At the temple she could hear sermons, chanting and praying; see many pretty bonsai, topiary, exotic plants and flowers; enjoy social chats with old and new friends; and taste delicious varieties of vegetarian cuisine. She and my mother would also hear the latest news about rice prices, who had left the village to join the Liberation Front or who had left to join the French or the warlords in the cities. I heard adults in the family discuss to whom they would be selling rice, and how they firmly agreed not to sell rice to the Binh Xuyen warlords who cooperated with the French officials and Chinese merchants who operated the prostitution, alcohol, opium and gambling houses in Saigon. Employment and profits from these activities were contrary to their Buddhist and patriotic viewpoint.
It was only later, when I had a chance to read more about many complex Vietnamese customs, that I realized that the Vietnamese intellectuals, the wise men in a position to influence public behavior and to shape their life styles in relation to resource management for the benefit of the nation, had created these popular calendars to remind the common folks to venerate the three timeless Asian belief systems: Confucianism Buddhism, and Taoism. They hoped the public would believe strongly in the teachings of these traditions, making people’s lives happier, more economical and moral by restraining the constant human impulses to be too busy with the world outside the home environment while neglecting domestic chores and self-improvement – attitudes which could lead to a lot of useless emotional and physical energy as well as waste of natural resources. As such the freedom of the self as well as of the nation would be lost and the nation would more easily be dominated by foreign powers. At that time the leaders understood the mismatch between Western and traditional Vietnamese culture, and were also concerned to avoid Chinese domination over the rich natural resources of Vietnam. This determination to be independent from external influences in order to gain national sovereignty led to a paradigm of the ordering of the prestige of various careers, captured in the popular phrase “nhat si, nhi nong, tam cong, tu thuong” (first scholars and teachers; second agriculture and farmers; third craftsmen and technicians, fourth merchants and businessmen). These ideas were promoted heavily when I was young at school age.
As a school teacher during the Vietnam war, my ambition to do my job well and my eagerness to learn and to improve my skills led me to accept a scholarship to study in the U.S., which ultimately led me to marry an American and settle in this country. My experiences were broadened by the opportunity of travelling with my husband to live for extended periods in various Asian countries. As I found that no culture had a perfect solution to organizing human society, I came to realize that the technologically advanced American culture was not necessarily doing any better than my traditional Vietnamese culture. To solve my personal dilemma as a citizen, I take my own stand regarding ethical values of life style and environmental issues. I feel more comfortable, honest, practical and true to myself when I go back to the values of my upbringing in figuring out how to behave in ways that reduce my sins in this earthly life. Overall, I feel it is healthy, efficient, economical and pleasurable when I take responsibility for decisions about my own life, rather than being busy going here and there to follow the ideas of peer groups or politicians. As a result, I try to focus my attention on things that link to the experiences and values of my youth. Among other things, I became interested in learning more about cranes, and their relationship to Buddhist ideas.
For several thousand years, Vietnamese and other Asian cultures have personified the character of cranes, writing many poems, stories, music, paintings and proverbs to venerate their beautiful, faithful, dignified human-like mannerisms, and to convey magical good wishes for a long and happy life to people of all ages. The image of the crane is used as an icon for all kinds of physical things and ideas: wedding dresses, household decorative items, gift packages, promotion of healthy vegetarian food, environmental concerns, and peace advocacy. In many Asian Buddhist settings, especially in Vietnam, the statues of two cranes standing still with folded wings on the lotus pond are used to represent the Buddhist teachings of tranquility, contentment, no restlessness, no duality, no greed or desire or disturbed emotion, no arrogance, and therefore no need for showy displays – all of which represent the state of Samadhi which is an ideal state of union between humans and the larger cosmic world. This state of mind can help make life’s journey on this earth much smoother, happier, more peaceful and less sinful. Asians believe the cranes cart our souls under their wings.
In my readings about Buddhist wisdom, I encountered a magical story related to those sacred birds that played such an important symbolic role in my cultural upbringing. During the 1960s, when the war in Vietnam was raging, U Thant of Burma, who was the Secretary-General of the United Nations, cooperated with a Japanese architect to design the Sacred Garden in Lumbini, Nepal, where Prince Siddhartha Gautama (the Buddha) was born about 560 BCE. The idea was to create a place of pilgrimage so that people from all over the world could come to learn and appreciate the teaching of Buddha, thereby promoting peace and harmony among the nations.
At first this project did not progress very far. There is a Vietnamese saying: “When the time is right, every person and nation on this earth will have a chance to experience days of sunshine and days of darkness.” It was not until 1978 that the little-known Vietnamese Dr. Lam Trung Quoc (who was also a Buddhist monk known as Venerable Thich Huyen Dieu), a graduate of the Sorbonne in France and a professor of history and international relations, went on a pilgrimage to the Nepalese Lumbini Garden. On this trip he felt deeply in his heart that the Lumbini project could be carried out further. He was given permission by the Nepalese king to build a Vietnamese temple on 4 acres of land next to the historical pillar and eternal flame located where Prince Siddhartha was born on a full moon day. His faith, sincere attitude and skill in managing to build the first foreign Buddhist temple with a beautiful Vietnamese Buddhist architectural design helped bring more tourist income and positive activities to the local economy. Then one day, out of nowhere, two huge Eastern Sarus Cranes landed in his monastery for shelter. This unexpected but propitious event generated considerable publicity, not just in Nepal but all over the world, because during the 20th century, cranes had become endangered due to the activities of humans (including the wartime destruction of important breeding areas in the Plain of Reeds in the Mekong delta region of Vietnam, not far from where I grew up). The arrival of the cranes in Lumbini resulted in increased support, especially in many Buddhist countries, for Dr. Quoc’s campaign to promote the Nepalese Lumbini project. Today there are 15 countries, mostly in Asia, whose governments have been proud to build Buddhist temples, using their finest architectural designs, in the Lumbini garden. There are now international schemes to promote tourism for world peace, the study of Buddhism, and, through the activities of the International Crane Foundation, research and education about cranes and the preservation of the world’s natural environment.
I believe that as has been true throughout human history, the sacred magical life of cranes, the yearning of human inner intelligence and the innate goodwill of responsible citizen groups from all over the world, will, when the time is right or urgent enough, align together to spread the message of Peace, Humanity and Moral rightness to the people for their own benefit for self-preservation. I hope the Nepalese Lumbini gardens will flourish for the sake of future generations, which include my grandchildren – the great-grandchildren of the woman who helped instill in me the traditional values of Vietnam that led me to appreciate Buddhism, cranes and the natural world.
Loan Anh: <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.;