Dưới đây xin phép tạm liệt kê tôn hiệu của một số Cao Tăng Việt Nam trong lịch sử, và một số Chùa Cổ danh tiếng còn lưu lại.
*Tì ni đa lưu chi (?-594), cũng được gọi là Diệt Hỉ, là Thiền sư Ấn Độ sang Trung Quốc tham vấn tu học, môn đệ đắc pháp của Tam tổ Thiền tông Tăng Xán và là người khai sáng thiền phái Tì ni đa lưu chi tại Việt Nam.
Sư là người nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà la môn. Thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói (biểu tượng: thiền vô ngôn). Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quỳ xuống lạy ba lạy (biểu tượng: cung kính Tam Bảo Phật Pháp Tăng). Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.
Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỷ thứ 6 (~580), cư trú tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tỉnh Hà Bắc. Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ Tượng đầu tinh xá kinh tại Trung Quốc.
*Thiền sư Pháp Hiền (?-626) họ Đỗ, người huyện Chu Diên nay là huyện Gia Lâm (Hà Nội) thuộc thế hệ thứ nhất dòng Pháp của Thiền sư Tì ni đa lưu chi. Sư tu chùa Pháp Vân, hương Cổ châu, huyện Long biên.
Ban đầu sư xuất gia thọ giới cụ túc với đại sư Quán Duyên ở chùa Quán Vân. Sau khi nhận được yếu chỉ thiền từ Thiền sư Tì ni đa lưu chi bèn đến núi Thiên Phúc tu tập thiền định, quên hết cả vật lẫn bản thân mình khiến cho chim chóc, dã thú tới tự do vui đùa; người đời hâm mộ danh tiếng đến học đạo nhiều nên sư cho dựng chùa Chúng Thiện làm nơi lưu trú. Dòng Thiền Nam phương hưng thịnh từ đó.
Tùy Cao tổ bèn cho đem xá lợi Phật sang ban cho sư Pháp Hiền để xây tháp cúng thờ. Sư đem chia cho các chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và ở các châu: Phong Châu, Hoan Châu, Trường Châu để dựng tháp thờ.
* Vô Ngôn Thông (759?-826), là một vị thiền sư Trung Quốc, đệ tử của thiền sư nổi tiếng Bách trượng Hoài hải. Năm 820, Sư qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Sư mất năm 826, và phái Thiền của Sư kéo dài được 17 thế hệ. |
Dòng thiền Vô Ngôn Thông có những thiền sư quan trọng là Khuông Việt (?-1011), Thông Biện (?-1134), Mãn Giác (?-1096), Minh Không (mất 1141) và Giác Hải. Thế hệ cuối cùng là khoảng cuối thế kỷ thứ 13. Phái Vô Ngôn Thông theo đúng dòng Thiền của Huệ Năng, chủ trương đốn ngộ (giác ngộ nhanh chóng). Các vị Thiền sư dòng Vô Ngôn Thông đều có tâm hồn thi sĩ. Riêng thiền sư Không Lộ vừa được cho là thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, nhưng cũng thuộc thiền phái Thảo Đường.
*Khuông Việt (933-1011) trước tên là Ngô Chân Lưu, tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc. Sư là người Cát Lợi, họ Ngô thuộc đời (hay thế hệ) thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị Tăng thống đầu tiên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
*Trúc Lâm Yên Tử là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm cũng là pháp hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỷ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này có được những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải, một vị Thiền sư xuất sắc đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.
*Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) tên thật là Trần Tung (hay Trần Quốc Tung), là một thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương và là một thiền sư Việt Nam danh tiếng. Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông.. Ông tham dự cả ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1258, 1285 và 1288 cùng Hưng Đạo Vương. Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp thiền.
Thời trẻ, ông học đạo với thiền sư Tiêu Dao; vừa thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua Trần Thánh Tông nể vì do kiến thức uyên bác về đời lẫn đạo, được vua tôn làm đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ; một số được kiết tập trong "Thượng Sĩ Ngữ Lục" rất nổi tiếng.
*Trần Nhân Tông (1258-1308), tên thật là Trần Khâm là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông). Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất lịch sử Việt Nam.
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam nói trên. Về sau ông được tôn xưng là “Phật Hoàng” nhờ các việc này.
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.