TRỤ TRÌ TỊNH XÁ NGỌC NGUYÊN - TIỀN GIANG
(1913 - 1997)
I. THÂN THẾ
Ni trưởng Thiện Liên, thế danh Võ Thị Chức, sinh năm 1913 (Quý Sửu) tại huyện Đồng Xuân, Tuy Hòa, Phú Yên. Ni trưởng là con một trong gia đình nhuần triêm đạo đức.
Thân phụ là cụ ông Võ Đôn Luân, thân mẫu đã quy tiên lúc Ni trưởng vừa tròn ba tuổi. Nhờ tình thương yêu, chăm sóc và giáo dưỡng của hai người bác từ thuở ấu niên, chính vì thế mà hai người bác rất yêu thương quý như con ruột.
Với độ tuổi 12 mà đã được hai người bác giao trọng trách quản lý gia tài của nhà Quan Án Võ thời đó. Vốn sẵn tâm hạnh thương người như thể thương thân, Ni trưởng thường đem tiền của giúp người nên được người nghèo trong làng mến thương, kẻ giàu có nể vì.
Sau khi hai người bác (cha mẹ nuôi) cỡi hạc quy tiên, Ni trưởng thường đến chùa lập đàn cầu siêu cho mẹ và hai người bác. Sau khi nghe thời pháp “Mục Liên tầm mẹ chốn u đồ”, Ni trưởng quyết chí thoát trần lập thân hành chánh đạo, thấm nhuần giáo lý Phật đà noi gương đại hiếu của Tôn giả Mục Kiền Liên.
“ Quyết chí ra đi phủi bụi trần,
Tầm thầy học đạo dưỡng tâm chơn,
Lợi danh giũ sạch gìn cấm giới,
Đắc pháp quay về độ thế nhân.”
Trên bước đường tìm cầu đạo lý, chốn đầu tiên Ni trưởng đặt chân là miền đất Sài Gòn và học nghề Đông y với anh chị bà con. Được một năm thì anh chị đều qua đời, từ đó Ni trưởng xem mạch bốc thuốc miễn phí cho mọi người, lúc rảnh rỗi thường đến chùa Giác Lâm làm công quả, tụng Kinh niệm Phật. Để tránh sự tìm kiếm của người thân, Ni trưởng thay tên đổi họ, nên có tên mới Huỳnh Thị Kim Hoa nhằm để thuận bề xuất gia học đạo.
II. THỜI KỲ XUẤT GIA TU HỌC
Dầu lắm nỗi truân chuyên nơi đất khách quê người nhưng với ý nguyện dõng mãnh, quyết xa trần tục đã tạo nên một ý chí kiên định vượt mọi khó khăn.
Năm 1946, Ni trưởng được Hòa thượng trụ trì chùa Giác Lâm tiếp độ, làm lễ thế phát xuất gia và ban cho Pháp danh là Diệu Thiện. Sau khi xuất gia, ngoài công việc chấp tác, công quả, Ni trưởng chuyên tâm nhiếp niệm tu học theo thời khoá được một năm thì Hòa thượng Bổn sư viên tịch.
Năm 1947, Ni trưởng tầm thầy học đạo lần hai. Duyên phước hội đủ, Ni trưởng đến chùa Thích Ca - Phú Nhuận được sư Tư và sư Bảy khai thông tuệ trí, Ni trưởng như thấm nhuần mưa pháp từ hai bậc thầy khả kính. Với sự giác ngộ chân lý vô thường nên trong từng tâm niệm luôn tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật để không phụ lòng các bậc thầy đã dày công giáo dưỡng. Càng thương thầy, Ni trưởng càng nỗ lực cần tu, chánh niệm tĩnh giác trong từng sát-na, hằng an trú tâm trong giáo pháp Phật đà.
Dòng thời gian thấm thoát trôi nhanh, vào một ngày 22 tháng 04 năm 1949, Ni trưởng lại hữu duyên gặp đức Tổ sư Minh Đăng Quang tại đình Phú Lâm khi Ngài thuyết giảng giáo lý. Như khơi lại hạnh đạo từ ngàn xưa, nhân duyên thầy trò từ bao kiếp nay được gặp lại, Ni trưởng đảnh lễ xin nhập đạo và được đức Tổ sư chứng minh nhận làm đệ tử thuộc hàng thứ mười trong thập đại đệ tử Ni của đức Tổ sư Minh Đăng Quang.
Ngày 28 tháng 04 năm 1949 tại tịnh xá Ngọc Lâm (Phú Lâm - Chợ Lớn), đức Tổ sư trao truyền giới pháp Sa-di-ni cho Ni trưởng. Rạng rỡ pháp y, ngạt ngào hương giới thể.
Nhờ tín tâm kiên cố, nhẫn nhục kiên trung, tánh hạnh vững bền, Sa-di-ni Liên Thiện luôn nỗ lực tiến tu để có một ngày được trực tiếp học đạo nghe pháp với đức Tổ sư. Qua những bài chân lý thực sống động, bằng những thử thách gay go trên đường học đạo và hành đạo, Ni trưởng đã rèn luyện ý chí, trau giồi phẩm hạnh hầu tiến tu đạo nghiệp.
Đến ngày Tự tứ, Rằm tháng 7 năm Tân Mão (1951), Ni trưởng được đức Tổ sư truyền trao Cụ túc giới tại tịnh xá Ngọc Viên - Vĩnh Long, ban Pháp hiệu là Thiện Liên và giao việc vân du hành đạo nhưng Ni trưởng thấy mình sự tu học còn non kém nên xin được nương cùng quý Ni trưởng tôn túc và mong hầu cận đức Tổ sư để sớm chiều thính pháp văn Kinh. Đức Tổ sư dạy: “Thầy chứng minh là được con cứ đi hành đạo, lấy giới luật làm thầy, muôn sự sẽ được thành tựu như nguyện”. Kể từ đó, Ni trưởng luôn nhiếp niệm dấn thân hành đạo để góp phần làm cho đầm liên hoa của hệ phái Ni giới Khất sĩ thêm ngào ngạt hương vị giải thoát.
“ Sen thiền nhuần đượm đức từ,
Cánh thơm giới hạnh, chơn như tâm vàng,
Rạng ngời phước tướng phong quang,
Trang nghiêm đuốc tuệ soi đàn thế nhân. ”
Ni trưởng vâng lời Tổ sư, thoăn thoắt du phương, tâm Kinh nở giữa tình thương muôn loài, đầu trần chân đất nêu gương khất thực hóa duyên, làm khách viễn phương nay đây mai đó, cuộc sống đạm bạc giản đơn nhưng tâm vui niềm đạo pháp.
III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO
Hàng ngày Ni trưởng đem giáo lý Phật đà rao giảng khắp các tỉnh thành, châu quận, khua chuông giác ngộ, gióng trống từ bi thức tỉnh muôn người.
Trên bước đường du hóa gặp rất nhiều chướng duyên thử thách nhưng Ni trưởng luôn giữ vững tinh thần trau giồi phẩm hạnh, tinh tấn tu trì, tinh nghiêm đạo hạnh và thiết thực cứu khổ chúng sanh không mệt mỏi. Lúc nào Ni trưởng cũng tinh tấn phát huy những đức tánh cao thượng, làm gương lành dạy đạo Ni chúng và Phật tử.
Thường luân chuyển du hóa các nơi theo lời dạy của đức Tổ sư và Đệ nhất Ni trưởng Huỳnh Liên, Ni trưởng trụ trì rất nhiều nơi khi thì ở thành thị, lúc xuôi ngược sông Tiền, mảnh y vàng phất phới khắp Nam, Trung, thể nhập vào biển cả đại nguyện để lại lạc nhân sanh.
Từ 1950 đến 1954, Ni trưởng trụ trì tịnh xá Ngọc Mỹ - Mỹ Tho, luân chuyển đến Củ Chi, hành đạo ra miền Trung, rồi trở về trụ trì tinh xá Ngọc Hòa (nay là tịnh xá Ngọc Quang - Gò Công) hoặc ngược lên trụ trì tịnh xá ở Tây Ninh.
Vào năm 1954, đức Tổ sư vắng bóng biết bao chuyện tang thương dồn dập đến cho hệ phái Khất sĩ. Ni trưởng phát đại bi tâm kề vai sát cánh cùng quý Ni trưởng gánh vác Phật sự, chuyển xe pháp làm sáng đạo đẹp đời.
Từ 1954 đến 1960, Ni trưởng được Đệ nhất Ni trưởng bổ xứ hành đạo từ Thủ Dầu Một đến Tây Ninh, ngược về trụ trì ở tịnh xá Ngọc Thanh - Cai Lậy, tiếp tục lên Thủ Đức rồi trở ra Phan Thiết.
Năm 1961, Ni trưởng Huỳnh Liên điều Ni trưởng về trụ trì tịnh xá Ngọc Nguyên - Cái Bè, Tiền Giang. Nơi đây là đồng ruộng hoang vắng, chung quanh toàn là ao vũng… vì hạnh nguyện lợi tha, Ni trưởng không màng nắng táp mưa sa, ngày đi khất thực nêu gương lành, trưa chiều thuyết pháp giảng Kinh hướng dẫn thiện nam tín nữ tu tập. Cũng vào năm này, Ni trưởng trở về Tổ đình tịnh xá Ngọc Phương xin phép Đệ nhất, Đệ nhị Ni trưởng chứng minh cho được về trụ trì tại tịnh xá Ngọc Nguyên để tinh chuyên tu hành cho đến ngày viên tịch.
Đời sống của Ni trưởng rất giản đơn, tao nhã, đối với đệ tử rất nghiêm nghị nhưng lòng từ luôn rộng mở.
Dáng người mảnh mai song ý chí thì hùng lực, bước chân giác ngộ du hành khắp nơi với hoa giác nở theo từng nhịp bước. Ni trưởng hành đạo đến đâu thì ở đó có những hạt giống Bồ-đề phát tâm xuất gia, vô số Phật tử hướng về Tam Bảo thọ trì Tam quy Ngũ giới.
Ni trưởng luôn sách tấn đại chúng, trong những mùa An cư Kiết hạ tại Tổ đình tịnh xá Ngọc Phương “Quý vị cần lo khắc chế tâm mình, chuyên tu thiền định để đạt được sự an tịnh của tâm hồn trong mọi lúc, đứng trước bát phong mà lòng không xao động, ứng dụng trí tuệ vào cuộc sống; khi nói, làm, suy nghĩ, đi, đứng, nằm, ngồi đều phù hợp với Chánh pháp. Không có gì quý báu bằng sự tu hành, chỉ có thật học chân tu mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Đồng thời nên thừa tự Chánh pháp, không nên thừa tự tài vật, học và hành luôn đi đôi nhau mới xứng đáng là bậc mô phạm của trời người”.
Các Phật sự do Giáo hội giao phó, Ni trưởng đều hoàn thành tốt đẹp, đồng thời Ni trưởng còn thường giúp đỡ cho những người nghèo khó neo đơn, san sẻ niềm vui cho mọi người trong tinh thần hoan hỷ không phô trương.
Suốt thời gian xuất gia hành đạo, Ni trưởng biết mình là phận nữ lưu nên luôn khép mình trong giới luật, sống đời phạm hạnh tri túc, trang nghiêm đại nguyện lợi tha, vui trong cảnh thiền na, sữa pháp; nhiệt tâm giáo dưỡng chúng Ni, dấn thân hành Bồ-tát đạo, phục vụ muôn loài.
Với tinh thần phụng sự đạo pháp, trùng hưng Tam Bảo là điều Ni trưởng hằng tâm nguyện.
Vào ngày 29 tháng 10 năm 1997, được sự cho phép của chính quyền địa phương và Giáo hội, Ni trưởng tiến hành trùng tu tịnh xá Ngọc Nguyên. Trong lúc đang thi công thì Ni trưởng lâm trọng bệnh nhưng tinh thần vẫn minh mẫn. Ni trưởng luôn nhắc nhở trong hàng đệ tử: “Sau khi thầy viên tịch, huynh đệ phải đùm bọc lẫn nhau, tu hành tinh tấn, thức tỉnh trong mọi lúc, làm chủ lấy mình, nên hành trì giới luật đúng như pháp ”.
IV. THỜI KỲ VIÊN TỊCH
Trong những ngày cuối đời, mặc dù thân tứ đại đang mang bệnh nhưng Ni trưởng vẫn an nhiên, như người đã nhận rõ lối về của tâm thức, luôn chánh niệm tỉnh giác, đức tinh cần bao giờ cũng rọi sáng tâm không, như người đã nắm chắc sự an lạc đường về.
Ngày 18 tháng 12 năm 1997, Ni trưởng thuận thế vô thường an nhiên viên tịch lúc 4 giờ sáng tại tinh xá Ngọc Nguyên - Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Trụ thế 84 năm, hạ lạp 48 năm, môn đồ pháp quyến đã xây bảo tháp tôn thờ trong khuôn viên tinh xá Ngọc Nguyên.
Cuộc đời tu hành của Ni trưởng rất giản đơn mà đức độ lại thanh cao, mãi để lại trong lòng những người con Phật tấm gương mô phạm, đức hạnh trang nghiêm. Lấy việc nghiêm trì giới luật làm thân giáo để sách tấn hàng môn đồ đệ tử. Đây là đức quý hạnh lành nổi bật ở Ni trưởng.
Gần 50 năm với công huân dong thuyền lướt sóng, vững tay chèo vượt sóng gian lao, Ni trưởng đã hội nhập vào lòng người, xứng đáng là ngọn đuốc soi đường cho hậu thế, là tàng cây che mát kẻ bộ hành, con thuyền từ đưa người qua bể khổ sông mê. Quả thật !
“ Hương giới lan xa miền Thiếu Thất,
Đức từ phổ cập khắp quần sanh,
Đạo vàng quyết chí, lòng kiên định,
Dẫu gặp gian truân, há nản lòng,
Một đời hóa chúng nêu bi hạnh,
Nửa kỷ hoằng dương ngọn đuốc vàng.
Mãn nguyện Ta-bà về cõi Phật
Hạnh lành lưu lại chốn trần gian”
(http://nigioivietnam.com/Hanh-trang-Chu-ni-Viet-Nam/67/ni-truong-thuong-thien-ha-lien.html)