Tủ Sách Bảo Anh Lạc 73
Thơm Ngược Gió Ngàn
Nguyên Hà
Liên lạc:
HUONG SEN BUDDHIST TEMPLE
19865 Seaton Avenue, Perris, CA 92570, USA Tel: 951-657-7272 Cell: 951-616-8620
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Fanpage: Huong Sen
(https://www.facebook.com/Huong.Sen.Riverside) Web: www.huongsentemple.com
First edition © 2023 Huong Sen Buddhist Temple
Ni sư - Tiến sĩ Thích Nữ Giới Hương
MỤC LỤC
Ý KIẾN CỦA THÂN HỮU 15
- Nhà Văn Cư Sĩ Phan Tấn Hải 15
- Tiến sĩ Khoa Phạm 19
- Thuở Thiếu Thời-Ước Mơ Thánh Thiện 23
- Hạt Giống Bồ Để 26
- Hoa Giới Hương Chớm Nở 30
- Giới Hạnh & Công Phu Tu Tập 35
- Nỗ Lực Tinh Cần 45
- Nữ Giới & Qui Luật Phật Giáo 49
- Những Cống Hiến Qua Sáng Tác 60
- Đức Hạnh của Người Xuất Gia 69
- Hương Thơm Lan Tỏa 79
- Kết Luận 85
- Nhạc: Hoa Giới Hương Tâm Khúc 91
Công Đức của Người Xuất Gia – Thích Nữ Giới Hương 98
Phạm Hạnh của Người Xuất Gia – Nguyên Hùng 104
Lời Tựa
|
uộc đời của mỗi con người đều là một căn phần do thiên định từ trước. Từ lúc sinh ra góp mặt ở trần gian cho đến khi chấm dứt cuộc hành trình dù có
dài hay ngắn, dẫu có vui buồn hay sướng khổ, thành công hay thất bại, thăng trầm hay vinh nhục, đi trên con đường đạo hay trên con đường đời, nhất nhất đều phải trải qua một tiến trình duy nhất là thành, trụ, hoại, diệt theo thời gian năm tháng để có thể đạt đến được một mục đích như mong muốn, để có thể xem cuộc đời của mình đã được thành đạt, xứng đáng hay chỉ là một thân giá áo túi cơm vô nghĩa.
Tuy nhiên, không ai giống ai, không một ai cả đời đều gặp những điều hanh thông may mắn hay suốt đời phải đối diện với những bất hạnh rủi ro.
Mỗi người vốn là một đơn vị riêng tư độc lập, tự mình phải tự biết cách khắc phục, hay tự hành xử lấy cuộc sống riêng biệt của mình, tự bước đi bằng chính bước chân của mình như lời Đức Phật đã dạy. Chúng ta chỉ khác nhau ở căn phần nghiệp thức hay lý trí sáng suốt mà người đời thường gọi đó là nhân quả hay căn phần. Bậc thức giả thì cho đó là sự tinh tấn, mức tiến hóa trong tỉnh thức, sáng suốt và khôn ngoan trong tri, hành.
Tất cả, chỉ khác nhau ở điểm này.
Ni Sư Giới Hương - Trụ trì chùa Hương Sen ở quận Riverside, miền nam California từ tháng 04 năm 2010.
Năm 2018, chúng tôi có hữu duyên đươc may mắn góp chút phần vụ công sức rất bé nhỏ cho chùa là lo viết báo giới thiệu và kêu gọi tiếp tay trong công trình xây dựng chùa Hương Sen; năm 2019 mời gọi quý Phật tử tham dự cuộc hành hương Phật tích tại Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal và phổ nhạc album nhạc “Về Chùa Vui Tu (Volume 12 của chùa Hương Sen) từ thơ của Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Từ đó, dần dần được trực tiếp chứng kiến và hiểu biết đến Ni Sư là một vị nữ tu đã sớm có học vị Cử nhân Văn tại TP. Hồ Chí Minh vào năm 1994 lúc đó Ni sư còn rất trẻ; rồi năm 2003 Ni Sư đã tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi Ấn Độ và năm 2015 Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Đại học Riverside Hoa Kỳ.
Từ khi tuổi đời còn rất trẻ, Ni Sư đã là một vị giảng sư, thường về dạy môn Anh Văn Phật Pháp cho Học Viện Phật Giáo Việt Nam ở TP Hồ Chí Minh.
Tới năm mới 37 tuổi (từ năm 1963 đến năm 2000) Ni sư đã tự đứng ra thành lập được chùa Hương Sen ở Bình Chánh Việt Nam.
Năm 2005, định cư tại Hoa Kỳ và hoằng pháp ở tiểu bang Wisconsin, Từ tháng 04 năm 2010 Ni sư về quận Riverside, Miền Nam California, thành lập Chùa Hương Sen trên vùng đất rừng sa mạc cằn cỗi hoang vu quanh năm nắng cháy gió thổi cát bay. Lúc ban đầu chỉ rộng có 3 mẫu đất, vậy mà chỉ ít năm sau, nhờ ơn Tam bảo và Phật tử xa gần, chùa mở rộng thành 10 mẫu tây. Rồi từ đó, Ni Sư đã cùng với chúng ni đệ tử tỳ kheo ni chuyên cần tu tập,tụng niệm, trồng cây, xây dựng đạo tràng ngày càng trang nghiêm để phụng sự Phật tử vùng xa.
Kính thưa quý độc giả,
Cuốn sách này được viết ra không phải để xưng tụng một cá nhân theo cách nhìn thiên vị, hiểu theo lẽ thông thường, mà là để ghi nhận lại trung thực những sáng kiến, những công trình khó nhọc, những sự bền gan trì trí vượt qua mọi gian lao thử thách, nhất là về những đức hạnh, phẩm cách cao quý của một nữ nhi chân yếu tay mềm nhưng ý chí và trí lực thì vô cùng vượt trội,
đã đạt nhiều thành tựu và cống hiến đáng kể như Ni sư Thích Nữ Giới Hương.
Chúng tôi, người viết, cùng một số thân hữu xa gần đã rất may mắn và hân hạnh biết tới Ni sư là một nữ tu tài đức nổi trội. Chúng tôi chỉ là những phàm nhân còn rất sơ cơ kém cỏi, thường tự vấn rằng, Ni Sư Giới Hương là một vị Tỳ Kheo Ni với đức tài thiên bẩm như căn nghiệp thường nói hay người là một biểu tượng của một tấm gương đức hạnh cao quý tự nhiên, rồi tự nhiên long lanh chiếu sáng với nhiều đức tính cao đẹp, từ sự thùy mị dịu dàng, trở thành kiên cường, chăm chỉ, mạnh mẽ, độc lập, cho đến nhiều công hạnh đạo đức, tinh tấn trau dồi, sáng tạo, trì chí, khiêm cung, nhân hậu, chuyên cần, nhất là những sự hy sinh chịu đựng nhẫn nại với nhiều trải nghiệm thực tế rất đáng cho chúng tôi được học hỏi, noi theo, dù là thuộc phái nam hay phái nữ, dù là trẻ tuổi hay đã trưởng thành.
Nếu tất cả những ai có duyên đọc quyển sách “Giới Hương
- Thơm Ngược Gió Ngàn” bình dị đơn sơ này muốn tự vun quén cho bản thân của mình một cuộc đời hành đạo và muốn được thật sự thành đạt trên con đường đạo lẫn đời, thì cuốn sách bé nhỏ và mộc mạc này đích thị sẽ đem lại cho chúng ta những chia sẻ cần thiết, xuất phát từ tấm gương đức hạnh và trí huệ mẫn tiệp của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương.
Sau nhiều tháng năm chúng tôi được làm việc cận kề, âm thầm chiêm nghiệm và thực chứng những hình ảnh thanh cao, những cốt cách lãnh đạo từ bi và khiêm nhượng từ Ni sư, cuối cùng cuốn sách nhỏ bé và khiêm tốn này được thành hình như một món quà tuy thật bé nhỏ nhưng lại rất cần thiết để minh chứng cụ thể về một vị nữ chân tu. Thật ra, không cần phải là người có sức dài vai rộng, không cần là một người quyền hành cao cả, giàu sang phú quý bậc nhất trong thiên hạ, mà một nữ nhi vẫn đủ ý chí mãnh liệt và kiên trì gánh vác sự nghiệp tu trì. Ni sư Giới Hương minh mẫn, can đảm, tinh tấn hết lòng hiến dâng trên con đường tìm cầu chân lý giác ngộ, nguyện cống hiến tất cả trí lực, thời gian và tâm huyết cho tha nhân. Đây là một trái tim vĩ đại, một tấm gương sáng ngời cho bất cứ những
ai muốn thành đạt trên đường đạo lẫn đường đời theo dấu ni sư.
Có nhiều tấm gương cao đẹp của nhiều bậc chân tu Việt Nam ở khắp mọi nơi, trong đó, Ni sư Thích Nữ Giới Hương là một điển hình. Người đã nghiêm trì tu đạo sau hơn 40 năm kiên trì, vượt qua nhiều thử thách mà chúng tôi may mắn có duyên được biết tới. Cuộc đời của Ni sư là động lực thôi thúc để người viết mạnh dạn và mạo muội thực hiện cuốn sách bé nhỏ này để phục vụ, trước hết cho sự tu tập bản thân, thứ hai là để lưu lại cho thế hệ con em của chúng ta dễ dàng lấy đó làm tấm gương trong sáng để rèn luyện đức hạnh và trau dồi đạo đức, trí huệ của bản thân.
Rất mong các bậc cao minh và quý độc giả đồng cảm, sẵn lòng hoan hỉ đón nhận sách và chỉ dẫn thêm cho những thiếu sót. Chúng tôi sẽ bổ khuyết điều chỉnh cho những lần tái bản sau.
Xin cung kính cảm tạ!
Mùa hạ Westminster, ngày 15 tháng 05 năm 2022, Kính bút,
Tác giả: Nguyên Hà – Dennis H Nguyen
(This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.)
Ni Giới
Tủ Sách Bảo Anh Lạc 73 Thơm Ngược Gió Ngàn Nguyên Hà
Liên lạc: HUONG SEN BUDDHIST TEMPLE19865 Seaton Avenue, Perris, CA 92570, USA Tel: 951-657-7272 Cell: 951-616-8620 Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Fanpage: Huong Sen (https://www.facebook.com/Huong.Sen.Riverside) Web: www.huongsentemple.com First edition © 2023 Huong Sen Buddhist Temple Ni sư - Tiến sĩ Thích Nữ Giới Hương MỤC LỤC Ý KIẾN CỦA THÂN HỮU 15
Công Đức của Người Xuất Gia – Thích Nữ Giới Hương 98 Phạm Hạnh của Người Xuất Gia – Nguyên Hùng 104
Lời Tựa
uộc đời của mỗi con người đều là một căn phần do thiên định từ trước. Từ lúc sinh ra góp mặt ở trần gian cho đến khi chấm dứt cuộc hành trình dù có dài hay ngắn, dẫu có vui buồn hay sướng khổ, thành công hay thất bại, thăng trầm hay vinh nhục, đi trên con đường đạo hay trên con đường đời, nhất nhất đều phải trải qua một tiến trình duy nhất là thành, trụ, hoại, diệt theo thời gian năm tháng để có thể đạt đến được một mục đích như mong muốn, để có thể xem cuộc đời của mình đã được thành đạt, xứng đáng hay chỉ là một thân giá áo túi cơm vô nghĩa. Tuy nhiên, không ai giống ai, không một ai cả đời đều gặp những điều hanh thông may mắn hay suốt đời phải đối diện với những bất hạnh rủi ro. Mỗi người vốn là một đơn vị riêng tư độc lập, tự mình phải tự biết cách khắc phục, hay tự hành xử lấy cuộc sống riêng biệt của mình, tự bước đi bằng chính bước chân của mình như lời Đức Phật đã dạy. Chúng ta chỉ khác nhau ở căn phần nghiệp thức hay lý trí sáng suốt mà người đời thường gọi đó là nhân quả hay căn phần. Bậc thức giả thì cho đó là sự tinh tấn, mức tiến hóa trong tỉnh thức, sáng suốt và khôn ngoan trong tri, hành. Tất cả, chỉ khác nhau ở điểm này. Ni Sư Giới Hương - Trụ trì chùa Hương Sen ở quận Riverside, miền nam California từ tháng 04 năm 2010.
Năm 2018, chúng tôi có hữu duyên đươc may mắn góp chút phần vụ công sức rất bé nhỏ cho chùa là lo viết báo giới thiệu và kêu gọi tiếp tay trong công trình xây dựng chùa Hương Sen; năm 2019 mời gọi quý Phật tử tham dự cuộc hành hương Phật tích tại Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ, Nepal và phổ nhạc album nhạc “Về Chùa Vui Tu (Volume 12 của chùa Hương Sen) từ thơ của Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Từ đó, dần dần được trực tiếp chứng kiến và hiểu biết đến Ni Sư là một vị nữ tu đã sớm có học vị Cử nhân Văn tại TP. Hồ Chí Minh vào năm 1994 lúc đó Ni sư còn rất trẻ; rồi năm 2003 Ni Sư đã tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi Ấn Độ và năm 2015 Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Đại học Riverside Hoa Kỳ. Từ khi tuổi đời còn rất trẻ, Ni Sư đã là một vị giảng sư, thường về dạy môn Anh Văn Phật Pháp cho Học Viện Phật Giáo Việt Nam ở TP Hồ Chí Minh. Tới năm mới 37 tuổi (từ năm 1963 đến năm 2000) Ni sư đã tự đứng ra thành lập được chùa Hương Sen ở Bình Chánh Việt Nam. Năm 2005, định cư tại Hoa Kỳ và hoằng pháp ở tiểu bang Wisconsin, Từ tháng 04 năm 2010 Ni sư về quận Riverside, Miền Nam California, thành lập Chùa Hương Sen trên vùng đất rừng sa mạc cằn cỗi hoang vu quanh năm nắng cháy gió thổi cát bay. Lúc ban đầu chỉ rộng có 3 mẫu đất, vậy mà chỉ ít năm sau, nhờ ơn Tam bảo và Phật tử xa gần, chùa mở rộng thành 10 mẫu tây. Rồi từ đó, Ni Sư đã cùng với chúng ni đệ tử tỳ kheo ni chuyên cần tu tập,tụng niệm, trồng cây, xây dựng đạo tràng ngày càng trang nghiêm để phụng sự Phật tử vùng xa. Kính thưa quý độc giả, Cuốn sách này được viết ra không phải để xưng tụng một cá nhân theo cách nhìn thiên vị, hiểu theo lẽ thông thường, mà là để ghi nhận lại trung thực những sáng kiến, những công trình khó nhọc, những sự bền gan trì trí vượt qua mọi gian lao thử thách, nhất là về những đức hạnh, phẩm cách cao quý của một nữ nhi chân yếu tay mềm nhưng ý chí và trí lực thì vô cùng vượt trội,
đã đạt nhiều thành tựu và cống hiến đáng kể như Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Chúng tôi, người viết, cùng một số thân hữu xa gần đã rất may mắn và hân hạnh biết tới Ni sư là một nữ tu tài đức nổi trội. Chúng tôi chỉ là những phàm nhân còn rất sơ cơ kém cỏi, thường tự vấn rằng, Ni Sư Giới Hương là một vị Tỳ Kheo Ni với đức tài thiên bẩm như căn nghiệp thường nói hay người là một biểu tượng của một tấm gương đức hạnh cao quý tự nhiên, rồi tự nhiên long lanh chiếu sáng với nhiều đức tính cao đẹp, từ sự thùy mị dịu dàng, trở thành kiên cường, chăm chỉ, mạnh mẽ, độc lập, cho đến nhiều công hạnh đạo đức, tinh tấn trau dồi, sáng tạo, trì chí, khiêm cung, nhân hậu, chuyên cần, nhất là những sự hy sinh chịu đựng nhẫn nại với nhiều trải nghiệm thực tế rất đáng cho chúng tôi được học hỏi, noi theo, dù là thuộc phái nam hay phái nữ, dù là trẻ tuổi hay đã trưởng thành. Nếu tất cả những ai có duyên đọc quyển sách “Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn” bình dị đơn sơ này muốn tự vun quén cho bản thân của mình một cuộc đời hành đạo và muốn được thật sự thành đạt trên con đường đạo lẫn đời, thì cuốn sách bé nhỏ và mộc mạc này đích thị sẽ đem lại cho chúng ta những chia sẻ cần thiết, xuất phát từ tấm gương đức hạnh và trí huệ mẫn tiệp của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Sau nhiều tháng năm chúng tôi được làm việc cận kề, âm thầm chiêm nghiệm và thực chứng những hình ảnh thanh cao, những cốt cách lãnh đạo từ bi và khiêm nhượng từ Ni sư, cuối cùng cuốn sách nhỏ bé và khiêm tốn này được thành hình như một món quà tuy thật bé nhỏ nhưng lại rất cần thiết để minh chứng cụ thể về một vị nữ chân tu. Thật ra, không cần phải là người có sức dài vai rộng, không cần là một người quyền hành cao cả, giàu sang phú quý bậc nhất trong thiên hạ, mà một nữ nhi vẫn đủ ý chí mãnh liệt và kiên trì gánh vác sự nghiệp tu trì. Ni sư Giới Hương minh mẫn, can đảm, tinh tấn hết lòng hiến dâng trên con đường tìm cầu chân lý giác ngộ, nguyện cống hiến tất cả trí lực, thời gian và tâm huyết cho tha nhân. Đây là một trái tim vĩ đại, một tấm gương sáng ngời cho bất cứ những
ai muốn thành đạt trên đường đạo lẫn đường đời theo dấu ni sư. Có nhiều tấm gương cao đẹp của nhiều bậc chân tu Việt Nam ở khắp mọi nơi, trong đó, Ni sư Thích Nữ Giới Hương là một điển hình. Người đã nghiêm trì tu đạo sau hơn 40 năm kiên trì, vượt qua nhiều thử thách mà chúng tôi may mắn có duyên được biết tới. Cuộc đời của Ni sư là động lực thôi thúc để người viết mạnh dạn và mạo muội thực hiện cuốn sách bé nhỏ này để phục vụ, trước hết cho sự tu tập bản thân, thứ hai là để lưu lại cho thế hệ con em của chúng ta dễ dàng lấy đó làm tấm gương trong sáng để rèn luyện đức hạnh và trau dồi đạo đức, trí huệ của bản thân. Rất mong các bậc cao minh và quý độc giả đồng cảm, sẵn lòng hoan hỉ đón nhận sách và chỉ dẫn thêm cho những thiếu sót. Chúng tôi sẽ bổ khuyết điều chỉnh cho những lần tái bản sau. Xin cung kính cảm tạ! Mùa hạ Westminster, ngày 15 tháng 05 năm 2022, Kính bút, Tác giả: Nguyên Hà – Dennis H Nguyen (This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.)
Ý KIẾN THÂN HỮU
Ni Sư Giới Hương Hoằng Pháp Thân Tâm Lỗi Lạc Cư sĩ Nhà Văn Cư Sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Tháng 9/2022 hời gian gần đây, thỉnh thoảng tôi nhận email của anh Nguyên Hà, anh không đọc hay viết những thứ vô ích, những thứ không cần thiết. Anh đọc văn của những người tôi cũng quan tâm, cũng chú ý. Đặc biệt, anh đọc các bài về Phật học của Ni sư Thích Nữ Giới Hương, của nhà nghiên cứu Lê Sỹ Minh Tùng… Nghĩa là, anh có sự lựa chọn, không phải đọc hay viết những thứ sôi động của thị trường. Và tuổi của anh lớn rồi, lẽ ra như người khác là đã nghỉ ngơi từ lâu. Nhưng không, anh vẫn làm truyền thông theo kiểu cách của anh. Có những gì hay hơn để một người trong làng cầm bút như anh để anh phải phát tâm tận tình xưng tụng? Có lẽ, đây là điều tôi muốn thưa về anh Nguyên Hà trong cuốn sách anh đang viết: “Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn” - Thật xứng đáng biết bao, và hãy để đồng bào mình đọc được những gì do anh viết về một vị Ni Sư khả kính. Đúng vậy, anh đã viết về Ni Sư Giới Hương là từ tim óc và trái tim chân thành của anh : “Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy
nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư. ... Làm thế nào viết được nhiều như thế. Nói viết nhiều là nói viết những đề tài độc đáo, viết về những gì người khác chưa viết, hoặc chưa nói hết ngọn ngành các vấn đề. Chứ không phải kiểu luộc sách, kiểu đạo văn, hay kiểu cóp nhặt sách của người đi trước rồi sửa lại làm bản mới của mình. Viết cho thật từ trong tâm, tự trong văn phong riêng, lúc nào cũng gian nan. Do vậy, tôi vẫn kinh ngạc và thán phục mỗi khi đọc sách của Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Hiển nhiên Ni sư là một hình ảnh trái nghịch với đa số. Tôi có một thắc mắc từ lâu, không dám trực tiếp hỏi ai, vì sợ bị suy luận là ám chỉ vào một vị nào. Đó là, các vị tăng ni tốt nghiệp học vị Tiến sĩ Phật Học rất nhiều, có thể là đã có vài trăm vị, đã học và tốt nghiệp ở Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ, Thái Lan, và nhiều nước khác, nhưng không thấy nhiều bài viết từ các vị này. Hình như ai cũng bị bận rộn. Không bận chuyện này thì chuyện kia. Xây chùa thì bận. Hay là đủ thứ chuyện khác. Nhưng về chữ viết, chỉ có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là viết và ấn hành sách nhiều nhất, tôi rất mực kính trọng người viết. Hình như trước Ni sư Giới Hương, trong hàng Ni giới chỉ có Ni Trưởng Trí Hải là viết và dịch rất nhiều, viết liên tục, viết độc đáo, viết siêu xuất, và cuối đời là làm thơ cũng rất mực tuyệt vời. Trong thế hệ trước, phần lớn các vị tăng hoằng pháp là phải viết, và viết rất nhiều. Thời đó, chưa có TV, chưa có YouTube, chưa có email. Tôi mang ơn rất lớn nhờ đọc sách từ các vị sư viết nhiều, như quý ngài Thanh Từ, Nhất Hạnh, Thiện Siêu, Minh Châu, Tuệ Sỹ, và nhiều nữa. “Trường hợp Ni sư Thích Nữ Giới Hương cũng là khác thường. Tôi có một niềm tin theo kiểu nhà quê của ông bà mình là, những người làm được chuyện phi thường (hầu hết)
đều có tính tiền định. Ni sư xuống tóc, xuất gia năm 15 tuổi với Sư Bà Hải Triều Âm cũng là một cơ duyên lớn. Nhưng nỗ lực cá nhân mới là cực kỳ phi thường. Hoàn tất Cử nhân Phật học và Cử nhân Văn chương tại Sài Gòn; tốt nghiệp Tiến sĩ Phật Giáo ở Ấn Độ. Khi sang Hoa Kỳ, tốt nghiệp Trợ lý Điều dưỡng Y tá, hoàn tất nhiều chứng chỉ Vi tính. Năm 2015, tốt nghiệp Cử nhân Văn chương Anh tại Đại học Riverside, Calif. Năm 2017, học Cao học Văn. Đồng thời đã viết và dịch 43 tác phẩm Anh và Việt, trong đó Ni sư đã chọn một số chủ đề rất khó, như luận giải Kinh Kim Cang (Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, đã tái bản lần thứ 3 - năm 2015&2016) và Kinh Lăng Nghiêm (bản tiếng Việt: Luân Hồi Trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, tái bản lần thứ 4 – 2008, 2012, 2014, 2016; bản tiếng Anh: Rebirth Views in the Surasgama Sutra, 2018). Ni Sư miệt mài Sáng Tác - Dịch thuật - Ấn Hành. Tôi vẫn ưa thích Kinh Lăng Nghiêm một cách đặc biệt. Văn phong Lăng Nghiêm nhiều lý luận, rất mực phức tạp. Trong khi đó, Ni sư Thích Nữ Giới Hương chú giải Kinh Lăng Nghiêm về một phương diện Phật tử nào cũng quan tâm : luân hồi, tái sanh… Viết là một hành vi nặng nhọc. Không say mê sẽ không viết nhiều được. Nhưng tôi đoán, Ni sư không viết vì say mê, nhưng viết vì tâm nguyện. Đó là Bồ Tát hạnh, vì thương chúng sinh, nên Ni Sư cầm bút để ghi lại lời Phật, để làm dễ hiểu hơn Kinh điển, và để độc giả tăng thượng tín tâm, kiên cố tu học. Trong 3 tác phẩm mới ấn hành đã nêu đầu bài này, cuốn thứ 43 trong Tủ sách Bảo Anh Lạc của Ni sư Giới Hương, nhan đề “Sharing the Dharma: Vietnamese Buddhist Nuns in the United States” là khó viết nhất, vì là bản dịch tiếng Anh của tuyển tập tiếng Việt nhan đề “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp Tại Hoa Kỳ” (Tủ sách Bảo Anh Lạc 40). Bản Anh văn “Sharing the Dharma…” của Ni sư Giới Hương in trên giấy khổ lớn (khổ tạp chí), dày 446 trang. Viết tiếng Việt đã mệt rồi, mà lại viết tiếng Anh thì cực nhọc biết chừng nào.
Một điểm để chú ý : tâm lượng của Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Bởi vì, trong khi một số vị tranh cãi về Nam Tông với Bắc Tông, hay về Thiền Tông với Tịnh Độ, và vân vân, Ni sư trong hai bản Anh và Việt trên, đã viết về nhiều truyền thống trong Phật Giáo Việt Nam. Để kết, xin bày tỏ lời kính phục Ni Sư Thích Nữ Giới Hương về các nỗ lực viết sách, dịch sách bất kể cương vị trụ trì một ngôi chùa rất là bận rộn. Và sau cùng, trân trọng mời độc giả tìm đọc Tủ Sách Bảo Anh Lạc với tác phẩm mang số thứ tự 73 “Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn” do anh Nguyên Hà sáng tác.
Đọc sách Nguyên Hà viết về một Vị Chân Tu Đức Hạnh qua sách
“Giới Hương-Thơm Ngược Gió Ngàn”
Tiến Sĩ Khoa Phạm
ất tình cờ, sau nhiều năm chúng tôi bị xa cách nhau theo vận nước nổi trôi, mỗi người lưu lạc theo một chân trời. Tôi từ trời Tây ghé thăm người anh em cũ, đó là anh Nguyên Hà nhà báo ký giả ngày xưa ở Sài Gòn. Anh vẫn sinh động và tận tụy trong trường văn trận bút như khi chúng tôi còn chung học Văn Khoa ngày nào. Ngay cả khi đã ra tới nước ngoài, anh cũng tham gia và tích cực theo đuổi con đường chữ nghĩa “ăn cơm nhà đi viết chuyện thiên hạ”, không màng tới lợi, danh. Sau bao chuyện hàn huyên kỷ niệm, Nguyên Hà mở ra cho tôi đọc qua một cuốn sách do anh vừa viết : “Giới Hương - Thơm Ngược Gió Ngàn”, tôi mới được biết đến một vị nữ tu còn rất trẻ nhưng tài hoa và đức hạnh hơn người cùng những lý tưởng siêu việt đang theo đuổi thì vị nữ tu này đang ở ngôi vị hàng đầu : Sư đi tu từ khi còn rất nhỏ. Tự chọn lấy con đường xuất gia. Kham nhẫn chấp nhận tất cả những thử thách cam go thiếu thốn từ vật chất ch đến tinh thần để trở thành một ni cô đạt tới học vị cao cấp khi tuổi còn nhỏ, văn chương thi phú hơn người. Suốt đời lo
chuyện phát huy, xây dựng, chia sẻ với mọi người theo gương đức hạnh từ bi. Tự thành lập và trở thành người nữ trụ trì một ngôi chùa ở ngay giữa vùng sa mạc hoang sơ thanh vắng, thật là can đảm xiết bao. Rồi vị Ni Cô này viết bao nhiêu là cuốn sách, làm biết bao nhiêu vần thơ đạo đức, làm nhạc, giảng pháp, phát triển về các mặt tâm linh với cả một tủ sách khổng lồ... Đọc xong cuốn sách, tôi “nể” người viết thì ít mà bái phục vị nữ chân tu đức hạnh này thì nhiều. Tôi chân thành cầu chúc sẽ có nhiều người may mắn đọc được cuốn sách này để có cơ hội học hỏi thêm về giáo lý nhà Phật, đồng thời noi theo được tấm gương dức hạnh của vị nữ chân tu trụ trì này để thăng tiến thêm phần hạnh đạo. Cám ơn bạn tôi, ngòi bút Nguyên Hà.
Vào Truyện
uê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta đã bao đời nay được xem như là một quốc gia địa linh nhân kiệt, được tồn tại qua bao thăng trầm thử thách và vẫn hiên ngang trải qua từng thời kỳ biến chuyển, đồng thời sản sinh ra không biết bao nhiêu là bậc anh thư hào kiệt, từ đạo đến đời. Cuốn sách bé nhỏ này được hình thành như một dấu mốc quan trọng và cũng có thể xem đó như là sự cần thiết để ghi lại một phần nào những giai thoại đặc biệt về một con người đức hạnh với nhiều năng lực phấn đấu sáng ngời, một tấm gương cao đẹp của vị nữ tu đương đại mà vị nữ tu này vẫn đã, và sẽ còn đang tiếp tục bước đi trên cuộc hành trình nhiều thử thách qua từng ngày, từng giai đoạn, tỏa ra làn hương thơm bao la bát ngát giữa đại ngàn không gian ngay giữa kỷ nguyên mà chúng ta đang sinh sống, đang cùng nhau hiện diện, để theo đó như là một mẫu mực để cùng ngưỡng mộ và noi theo. Đó lạ vị nữ chân tu có mỹ danh là : GIỚI HƯƠNG – THƠM NGƯỢC GIÓ NGÀN
Cô bé Ngọc Dung trước khi xuống tóc (Hình do Ni sư Giới Hương cung cấp)
1. Thuở Thiếu Thời, Ước Mơ Thánh ThiệnNăm ấy, 1963 cô bé Phạm Thị Ngọc Dung, còn có tên là Sunyata Phạm đang còn trong tuổi thiếu thời, tâm hồn rất ngây thơ trong trắng, cô được sanh ra và lớn lên trong một gia đình gia phong đạo đức, một gia đình Phật giáo thuần thành. Ni sư Thích Nữ Giới Hương, thế danh Phạm Thị Ngọc Dung sinh năm 1963 - Quý Mão - tại Bình Tuy - Lagi - Bình Thuận Ni sư xuất thân từ một gia đình nông dân tại Bà Điểm, Hóc Môn, Sài Gòn. Gia đình có tất cả 8 anh chị em thì đã có 2 vị trong số đó đã xuất gia. Một vị là Sư cô Trí Minh xuất gia với Hòa thượng Thích Thanh Từ, còn Ni Sư Giới Hương có duyên lành xuống tóc xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm vào năm 15 tuổi tại Tịnh Thất Liên Hoa - Lê Quang Định, Bình Thạnh, Sài Gòn. Trong dòng họ còn có thêm 3 người xuất gia nữa là một người Dì - Tỳ Kheo Ni Tâm Diệu, người em họ là Tỳ Kheo Ni Thanh Đức và người cháu ruột là Thức Xoa Ma Na Viên Khuông. Suốt thời gian nhập chúng Liên Hoa, Ni sư được học kinh, luật, luận đầy đủ dưới sự hướng dẫn của Tôn sư Hải Triều Âm. Mùa Xuân học Tứ Niệm Xứ, mùa Hạ học Luật, mùa Thu học Lăng Nghiêm và mùa Đông học Kinh A Di Đà. Ni sư thọ Tỳ Kheo Ni ngày 12 tháng 10 năm 1983 tại Giới đàn Chùa Long Hoa, Bà Rịa, Vũng Tàu, do Hòa thượng Thích Như Mậu (Hòa Thượng Đàn đầu), Hòa thượng Thích Huệ Hải (Yết Ma) và Hòa thượng Thích Thanh Đức (Giáo thọ). Bên Ni giới tại Tịnh Thất Liên Hoa do Sư Bà Như Nguyện (làm Hòa Thượng Ni Đàn đầu), Tôn sư Hải Triều Âm (Yết Ma) và Ni sư Như Lý (Giáo thọ). Năm 1989, Ni sư Giới Hương rời chúng Liên Hoa vào học
lớp Cao Cấp Phật Học tại Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Trong 4 năm nội trú tại đây, Ni sư được học với nhiều Hòa thượng Cao Tăng thạc đức cũng như giáo sư nổi tiếng như HT Thích Minh Châu, HT. Thanh Từ, HT Trí Quảng, HT Phước Sơn, HT Chơn Thiện, HT Thiện Nhơn, HT Thiện Siêu, Ni trưởng Trí Hải, Giáo sư Trần Phương Lan, Hoàng Như Mai, Nguyễn Khuê, Trần Tuấn Mẫn, vv... Năm 1989, ni sư học Văn Khoa tại Đại Học Tổng Hợp (Đình Tiên Hoàng, Sài Gòn). Năm 1994, tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học và Cử Nhân Văn Chương tại Sài Gòn. Năm 1995-2005 du học tại Ấn Độ 10 năm, tốt nghiệp Tiến sĩ Triết Lý Phật giáo tại Đại học Delhi năm 2003 và các chứng chỉ về tiếng Trung và tiếng Nhật (Intensive Advanced Diplomas in Chinese and Japanese – 4 năm). Năm 2005, Ni sư đến định cư tại Hoa Kỳ. Hòa Thượng Thích Mãn Giác cử về làm Trụ Trì Chùa Phước Hậu, Wisconsin, và sau đó Ni sư theo học trường Cao đẳng Milwaukee Area Technical College, tốt nghiệp Trợ Lý Điều Dưỡng Y tá (Nursing Assitant) và các chứng chỉ Anh văn và Vi tính. Năm 2010, Ni sư rời Wisconsin, về tiểu bang nắng ấm California và thành lập Chùa Hương Sen cũng như theo học môn Xã Hội Học ở trường Cao Đẳng Riverside Community College và sau đó là Moreno Valley College. Năm 2015, học và tốt nghiệp Cử nhân Văn Chương Mỹ tại Đại học Riverside, California. Năm 2017, Ni sư theo học chương trình Cao học Văn chương tại trường cũng như đang là giảng viên của Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn. Năm 2000, Ni sư thành lập chùa Hương Sen, Bình Chánh, Sài Gòn (Việt Nam). Năm 2010 cho đến nay, Ni sư đã khai sơn thành lập và Trụ Trì chùa Hương Sen, thành phố Perris, tiểu bang California, Hoa
Thức Xoa Ma Na Giới Hương
Tỳ kheo ni TN Giới Hương
Kỳ. Ni sư đã độ hơn 10 đệ tử Ni xuống tóc xuất gia là Tì Kheo Ni Viên Bảo, Tì Kheo Ni Viên Như, Tì Kheo Ni Viên Tuệ, Tì Kheo Ni Viên Quang, Tì Kheo Ni Viên Chân, Tì Kheo Ni Viên An, Tì Kheo Ni Viên Trang, Thức Xoa Ma Na Viên Quý, Thức Xoa Ma Na Viên Nhuận, Thức Xoa Ma Na Viên Hiếu, Sadini Viên Hoàng, Sadini Viên Đàm, và Sadini Viên Từ... Ni sư là trang chủ của Website: huongsentemple.com và thành lập tủ sách Bảo Anh Lạc, đã viết và chuyển ngữ 77 tác phẩm Anh và Việt, cũng như phát hành 11 đĩa ca nhạc Phật giáo từ năm 2004 đến nay (2023). (Tiểu Sử trích từ sách “40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương”, trang 6-7, Ban Biên tập Hương Sen) (Tiểu Sử trích từ sách “40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương”, trang 6-7, Ban Biên tập Hương Sen và website: https://huongsentemple.com/index.php/vn/gioi-thieu
2. Hạt Giống Bồ ĐểTrong sinh hoạt thường ngày của cô học trò bé nhỏ Ngọc Dung, một thiếu nữ ngây thơ trong trắng với lứa tuổi đuổi bướm hái hoa, sống trong vòng tay thương yêu bao bọc của gia đình, tâm tư chưa bao giờ vấn vương chuyện đời phàm tục cho tới một ngày, Ngọc Dung tình cờ trông thấy một cuốn sách có tiêu đề “Thóat Vòng Tục Lụy” đề tên tác giả là Hòa Thượng Tinh Vân, bản dịch của Hòa Thượng Quảng Độ. Ngọc Dung cầm cuốn sách lên đọc ngấu nghiến từ trang đầu cho tới trang cuối từ lúc nào cô cũng không hay. Qua nội dung câu chuyện với những lời đối đáp qua lại giữa thầy Ngọc Lâm và Thiên Kim Tiểu Thư bỗng nhiên tác động mạnh mẽ đến tâm tư tình cảm thuần khiết thánh thiện của Ngọc Dung. Không bao lâu sau đó, cô đã tự nguyện xin cắt đi hai bím tóc mây dài óng ả, rồi cô gởi tặng cho bà Ngoại (vì bà Ngoại hay bị rụng tóc) và mạnh dạn nói lên ý định cô muốn xuất gia đi tìm nơi cửa Phật. Rồi Ngọc Dung cùng với cô em họ tên là Phượng (con gái của Dì Mười trong cùng một gia tộc) đều đồng tâm phát nguyện xin phép gia đình để xin nương thân vào chốn Thiền môn. Khi cả hai quyết định một việc cực kỳ quan trọng như vậy, thì sự việc sẽ có thể trở nên rất phức tạp. Ngọc Dung cảm thấy có một sự pha trộn tạo ra niềm lo lắng, bất định, cùng với sự hoang mang, và ngay cả thấp thóang đâu đó cũng có cả niềm hân hoan hy vọng. Cô cảm thấy có niềm xôn xao về những điều đổi mới và chưa biết chắc chắn về một tương lai sắp sửa sẽ diễn ra như thế nào trong cuộc đời. Cô cũng cảm thấy có một chút sợ hãi về những rủi ro mới hoặc những thách thức mới mà sự việc đi tu của hai chị em cô sẽ có thể gây ra. Nhưng cô lại vô cùng mong muốn với niềm hy vọng mênh mông về những cơ hội mới sắp tới với những trải nghiệm tuyệt vời mà việc đi tu, vốn là một hạnh nguyện khát khao thầm kín bao lâu nay sẽ mang lại cho hai chị em cô. Cũng rất có thể coi việc xin đi tu của hai cô gái còn trẻ sẽ tạo
ra một sự trầm trồ thán phục từ những người trong gia tộc hoặc những bà con quen biết xa gần chung quanh, nhưng đồng thời cũng khiến cho Ngọc Dung cảm thấy có một sức mạnh kỳ bí với niềm tự tin hơn vì tận sâu trong đáy lòng, lúc nào cô cũng thấy dâng tràn lên bao điều cảm xúc lẫn nỗi niềm háo hức không tên, nhất là cả hai cô gái đều được cả hai gia đình đồng tâm ủng hộ, bởi lẽ cả dòng họ của hai cô gái đều là các Phật tử thuần thành, đều nhận biết rằng “tu là cội phúc”, là “một người xuất gia là cứu vớt được cả cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp’ và sẽ mang lại sự an ổn bình yên tu tâm dưỡng tánh cho chính mình và xã hội xung quanh. Trong khối óc tinh khôi của hai cô bé chưa tròn tuổi lớn, nhưng nhờ đã sớm được hấp thụ một truyền thống đạo đức lâu đời của toàn thể gia đình ngay từ khi các cô còn thơ ấu, cho nên hai cô gái nhỏ đó đã sớm tự có sự quyết định sáng suốt hơn người, đã tự biết định hình ra một con đường sống đạo đức trong tương lai, cả hai cô đều lãnh hội được những ý nghĩa cao quý của việc xuất gia là đi ra khỏi con đường của thế tục, là sẵn sàng bỏ đi hình hài của tục giới để thay vào đó là hiện thân của người nữ tu thanh cao đức hạnh bằng việc chấp nhận cạo tóc, mặc áo nhà chùa, xa rời những hệ lụy đầy oan trái của thế gian. Với cùng một quan niệm đi tìm giải thóat là các cô nhanh chóng nhận ra rằng nên đi tìm một con đường để tránh khỏi những hệ lụy thất tình (vui, giận, buồn, yêu, ghen, ghét và ái nhiễm), lục dục (tài, sắc, danh, lợi, ăn, ngủ), ra khỏi ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, đồng nghĩa với lý tưởng sớm tìm cầu ra được sự giải thóat và chứng ngộ. Với hạnh nguyện thanh thóat tự nhiên đó, hai cô gái thơ ngây thánh thiện tuổi còn đang độ trăng tròn, cũng chưa hề biết được rằng ai sẽ là minh sư của đời mình và nơi chốn nào sẽ là một nơi đốn ngộ chân tu để cho hai cô có thể tìm đến xin được nương tụa vào chùa tu học, cho đến khi hai cô gặp được duyên may chừng như đã được định đoạt bởi thiện căn sâu dày từ trước, khi tình cờ gặp được một sư cô rồi vị sư cô đó đã hoan hỉ hướng dẫn cho hai cô gái nhỏ này được đến xin bái kiến Tôn
sư Hải Triều Âm tại chùa Liên Hoa tọa lạc ở số 466 đường Lê Quang Định - Phường 11 Quận Bình Thạnh để xin được Sư Bà xem xét và chấp thuận cho việc xuất gia của hai cô. Và đó là điểm khởi đầu của bước đi trên con đường tìm cầu học đạo, xuất thế của hai cô bé Ngọc Dung và Phượng.
Xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh (Ni sư Giới Hương đứng bên trái thứ hai, hàng sau)
Ni sư Giới Hương cùng ni chúng đệ tử về thăm Sư phụ Hải Triều Âm tại Chùa Dược Sư, Đại Ninh, năm 2016
Đảnh lễ Giác linh Thầy Hải Triều Âm tại Chùa Dược Sư, Đại Ninh, năm 2019 (từ phải sang: Sư cô Viên Quang, Sư cô Viên Nhuận, Ni sư Giới Hương, Ni sư Vĩnh Lạc, Ni sư Hạnh Quang, Ni sư Bồ Đề và Sư cô Viên Tiến)
3. Hoa Giới Hương Chớm NởLúc nhận được quyết định chấp thuận cho việc xuất gia từ Tôn Sư Hải Triều Âm, hai cô gái nhỏ với pháp danh của nhà Phật là Thích Nữ Giới Hương và Thích Nữ Thanh Đức vui mừng sao kể xiết đến không ngăn được dòng nước mắt vui mừng trào ra như một nỗi niềm tự nhiên bộc phát. Ngày hai cô gái bước chân ra khỏi gia đình thân yêu để đi tới chùa bắt đầu một cuộc sống mới với nhiều thử thách và hứa hẹn mới cho một tương lai như hai cô từng mơ ước, bỏ lại sau lưng bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, bình yên với những người thân yêu ruột thịt trong suốt mười mấy năm tháng thiếu thời đã trôi qua rồi kể từ ngày hôm nay, là cái ngày mà rồi đây, bao kỷ niệm thơ ấu sẽ tuần tự lui dần vào trong dĩ vãng. Nhưng chắc chắn sẽ không thể nào quên lãng được ở tương lai, chắc chắn sẽ không thể nào mờ phai được trong tâm tư tình cảm đã in sâu trong suốt cuộc đời còn lại của hai người. Tất cả, sẽ trở thành những kỷ niệm đẹp đẽ khó quên. Thời gian trước mặt ở trong ngôi chùa hiền hòa bình dị này như đang mở ra cho hai cô gái một chân trời mở rộng với bao nhiêu điều hoàn toàn khác lạ so với trước đây, cả hai cô đều bỡ ngỡ với những sinh hoạt, những qui luật, những tập huấn chặt chẽ không giống như với đời sống thường nhật ở bên ngoài đời thường. Nhưng tất cả mọi điều dường như đã được chuẩn bị sẵn sàng, tất cả hình như đã được thể hiện thật rõ ràng trong tâm tư tình cảm, cả hai cô đều sẵn sàng tiếp nhân cách sống ở chốn thiền môn rất nhanh chóng và thích hợp. Tuy mọi điều đều có phần nghiêm túc nhưng lại rất thanh tịnh an hòa, vốn là bản chất căn tu dường như đã sẵn có trong tâm trạng của hai cô nữ sinh bé nhỏ ngoan hiền. Trước tiên là thói quen về ăn uống. Cả chùa Liên Hoa đều dùng ngọ, nghĩa là chỉ ăn sáng và trưa đúng vào giờ ngọ. Buổi chiều không ăn. Lúc mới vào chùa, hai Ni cô Sadini này chưa thật sự làm quen được với giờ giấc ăn uống như vậy cho nên có
đôi lúc buổi chiều bị cơn đói cồn cào thúc bách, hai cô chỉ mong sao sớm được ăn cho no cái bụng như khi còn sinh sống ở nhà của lứa tuổi còn đang trong tình trạng phát triển cơ thể, tràn đầy sức sống, ăn hoài chưa no, lo hoài không tới. Nhưng trong lòng thì lúc nào Ngọc Dung cũng mong ước được học hỏi những lời Phật dạy, lại thêm từ tận đáy lòng, cô bé vốn yêu thích cách sống tịch tịnh, tĩnh lặng và nhất là với những thần thái an nhiên tự tại thánh thóat thường toát ra từ quý Ni sư đang tu hành ở tại chùa, cho nên cả hai chị em cũng dễ dàng tuân thủ tòng chúng và theo kịp được với các thời khóa và giữ đúng được các qui tắc nghiêm khắc của chùa y như các Ni chúng lớn.
Tinh cần học Kinh Phật tại Trường Cao Cấp Phật Học, Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, năm 1989
Dâng hương cầu nguyện. Từ trái: Ni sư Giới Hương, Sư cô Viên Chân, Viên Bảo An, Viên Bảo Tuệ và Viên Bảo Hương
Từ phải: Diệu Tâm (chị hai của Ni sư Giới Hương, Ni sư Giới Hương, Sư cô Trí Minh (em gái Sư Giới Hương) và một sư cô bạn
Niệm Phật trước Phật Bà Quan Âm sân trước Hương Sen
Kinh hành Niệm Phật sân sau Hương Sen
4. Giới HạnhVà Công Phu Tu Tập (Tài liệu hướng dẫn này xin được phép trích từ tác giả Ni Sư Giới Hương để giúp cho quý độc giả am hiểu về những qui luật nghiêm cẩn của một vị xuất gia, đồng thời cũng là để giúp cho quý vị nào muốntham khảo để tìm cầu học đạo.)
Luật của nhà Phật đối với người mới xuất gia (chú điệu tập sự) như hai Ni cô Giới Hương và Thanh Đức là phải ở trong chùa ít nhất là 2 năm để tập sự làm quen với cách sống, cách sinh hoạt của nhà chùa là bắt buộc phải ăn chay và chỉ ăn vào giờ ngọ, đồng thời phải thuộc nằm lòng 3 bài tụng công phu chiều, công phu khuya và các bài kệ Tỳ Ni Hương Nhũ.
(Độc giả nếu muốn, có thể tham cứu tài liệu Công phu khuya của chùa Hương Sen do Ni sư Thích Nữ Giới Hương biên soạn
tại địa chỉ : website www.huongsentemple.com).
(Độc giả nếu muốn, có thể tham cứu tài liệu Tỳ Ni Hương Nhũ tại địa chỉ website www.tuvienquangduc.com.au/ luat/42tynihuongnhu). Thi kệ là những bài thơ ngắn mà chúng ta có thể học thuộc lòng để đọc trong các sinh hoạt hàng ngày để giúp trở về với giây phút hiện tại và an trú trong chánh niệm. Đây là sự hòa quyện giữa thiền tập và thi ca. Thi kệ cũng là một phần thiết yếu và đã có lâu đời trong truyền thống thiền tập của đạo Phật. Thi kệ được áp dụng mỗi khi chúng ta thức dậy, rửa mặt hay trong các bữa ăn, rửa bát, uống trà,... Người tập sự thực tập thi kệ như hai chú điệu Giới Hương và Thanh Đức trong suốt cả ngày để giúp cho hai cô thật sự có mặt trong giây phút hiện tại và còn giúp chánh niệm, điềm tĩnh, bình an và niềm vui trong mỗi tư thế và các động tác hằng ngày. (1)- Để giúp các độc giả có thêm những hiểu biết về con đường tu tập nhiều thử thách và nhiều công hạnh rất đáng noi theo của người xuất gia, chúng tôi xin phép bổ sung các tài liệu tóm lược sau đây được Ni sư Giới Hương hoan hỉ chỉ giáo).
CÁC KỆ HẰNG NGÀY
Từ lúc sớm giờ Dần thẳng đến tối, Tất cả chúng sanh tự giữ mình. Nếu lỡ dưới chân mất thân hình,
Nguyện ngươi tức thời sanh Tịnh-độ.
2- Khi Làm Vệ Sinh
Cùng Phật vãng Tây phương.
Tụng mỗi kệ xong trì chú 7 lần: “Ám chủ ca ra da sa ha”.
3. Khi Nghe Chuông
Nguyện tiếng chuông này vang khắp pháp giới, Thiết vi tăm tối thảy đều nghe. Nghe trần thanh tịnh chứng Viên thông, Hết thảy chúng sanh trở thành chánh giác.
Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ, Trí tuệ trưởng Bồ-đề sanh, Lìa địa ngục thóat hầm lửa, Nguyện thành Phật độ chúng sanh. Và còn nhiều vô số những qui tắc bắt buộc người xuất gia phải thực hành đúng đắn mỗi ngày. Chẳng hạn như khi đã thành thục và đã vượt qua 3 cửa ải (Công phụ khuya, Công phu chiều và các Tỳ Ni) này rồi thì sẽ được làm lễ thọ giới đắp y Sadini tức là phải giữ 10 giới, bắt đầu từ năm 1978 đến năm 1980. Lúc chưa cạo tóc thì là Phật tử tại gia giữ năm giới là không sát sanh, không trộm cắp, không nói láo, không tà dâm và không uống rượu. (Độc giả có thể tham cứu thêm sách Tam Quy Ngũ Giới do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương đã biên soạn, hiện có trên website của chùa Hương Sen: www.huongsentemple.com .) Tập tu tới năm 1981, tức là vào năm Ni sư Giới Hương vừa đúng 18 tuổi, đã được thọ giới Thức Xoa Ma Na, tức là đã giữ được 250 giới trong suốt thời gian 2 năm theo qui định. Đến năm 1983 thì được thọ Tỳ Kheo Ni tức là phát nguyện giữ 348 giới, vốn là những thử thách không hề dễ dàng và đơn giản, nhưng đối với Tì Kheo Ni Giới Hương lúc bấy giờ thì những thử thách này có thể vượt qua, vì ở trong chúng, nương đức tôn sư Hải Triều Âm và Ni chúng giám sát nâng đỡ (và có thể đã nhờ vào thiện căn tu từ nhiều kiếp). Con đường tu hành của Ni
Sư càng ngày càng tinh tấn, càng lúc càng đem đến thêm nhiều khinh an lợi lạc và hoan hỉ. Mỗi một ngày, một tháng qua đi đều là những kết quả hỉ lạc khinh an của giới định tuệ vô ngần mà Ni sư luôn luôn mong đợi. Ni sư bước đi những bước thong dong trên con đường tu học mà mình đã tự chọn. Giới là giới luật, phép tắc đạo hạnh giúp cho người xuất gia đi đường chân chánh (không rơi vào tà hạnh), là nền tảng của đạo Phật, là vai trò mấu chốt trong đời sống Tăng đoàn. Người muốn xuất gia đầu tiên phải giữ giới (Sadini giới, Thức-xoa-ma- na giới và Tỳ-kheo-ni giới) để trau dồi giới hạnh và theo năm tháng dần dần sẽ trở thành bậc thầy mô phạm của thế gian, ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Giống như việc chúng ta ngồi trên một chiếc xe hơi, cần phải thắt dây an toàn để giữ thân thể an toàn, không bị những ảnh hưởng tổn thương khi lỡ gặp phải tai nạn. Con số 348 giới mà Tỳ Kheo ni phải tuân giữ cũng giống như 348 cái dây xích cột chặt lại, giúp cho người tu hành không bị sa ngã rớt ngã vào con đường sanh tử luân hồi, không còn nhiễm phải những điều khiếm khuyết và trở thành bậc tịnh hạnh cao thượng. Ni sư cũng đã kể tới có vài trường hợp có vị hoàn tục ra khỏi chùa trở về sống với gia đình vì không chịu đựng được những thử thách kham khổ như phải thức khuya dậy sớm, phải ngồi thiền, phải công phu hoặc chấp tác cực khổ bản thân. Trái lại, đối với người có thiện căn tu tập thì lại khác, quý vị xuất gia đó sẽ cảm thấy vô cùng an lạc trong nếp sống thanh đạm nơi cửa chùa, cũng như cách ăn uống, cách sinh hoạt, cách tu tập kinh kệ, giữ giới định tuệ. Từng ngày đến với Ni sư Giới Hương là từng ngày nội tâm yên tĩnh, an lạc nhẹ nhàng tinh khiết thích hợp hơn là cách sống đua đòi trang điểm, ăn mặc quần áo nữ trang kiểu cọ, đầu tóc uốn quăn, móng tay móng chân sơn phết lòe loẹt rườm rà… Đối với Ni sư Giới Hương thì tất cả những thứ đó chỉ là những cái đẹp ở bên ngoài, rất phù du ngắn ngủi, không quý bằng nét đẹp nội tâm thánh thóat giác ngộ và thần thái. Mỗi ngày chùa sắp xếp cho chú điệu Giới Hương làm hương đăng, tức là thường lau dọn bàn thờ Phật, chưng trái cây trên
các bàn thờ là những công việc dễ làm, sạch sẽ mà Giới Hương lại thích làm những việc khó, thử thách, ít ai chịu làm, nên lại nhường những công việc đơn giản đó cho các tỷ đệ mang sức vóc ốm yếu, để Ni sư xin được làm những công việc khác như dọn dẹp lau chùi bồn cầu toilet, dọn rác rưởi, đổ đầy nước vào các lu vại (vì chùa dùng nước giếng), chà rửa nền nhà tắm không bị rong rêu bám đầy để cho việc đi lại không bị trợt ngã… Ni sư tự nguyện làm như vậy trong suốt ba năm. Ở chùa từ năm 1978, Việt Nam lúc đó còn nghèo, Phật tử quanh vùng thời đó cũng không có tiền để cúng dường. Chùa phải sống bằng cách đi khất thực ở chợ Cầu Muối, xin các loại rau, bắp cải, khoai lang, các loại hoa củ bị hư thối không ai mua thì họ cúng cho chùa. Cứ mỗi tuần một lần, lúc 4 giờ sáng, quý sư cô thay phiên đi xe bus lên chợ Cầu Muối để khất thực rau cải như vậy. Có nhiều khi khất thực có quá nhiều đu đủ, cả chùa sẽ ăn sáng toàn bằng trái đu đủ cho nên khi đi tiêu ra phân có màu vàng tươi như cà rốt, hay là nếu xin được bơ nhiều quá thì cả chùa lại ăn toàn trái bơ thay thế cho cơm. Gạo lúc đó không có để ăn, tất cả chỉ ăn bobo trộn với rau lang, khoai sắn… Sư Giới Hương cũng thường hay xung phong xin đi khất thực, vì quý sư cô trong chùa nói rằng mỗi khi sư Giới Hương đi xin, người bán hàng hay cho nhiều (Đức Phật dạy nếu mình hay bố thí thì kiếp này được nhiều người cúng dường lại), vì thế mỗi tuần sư Giới Hương được đi chợ Cầu Muối một lần rất vui. Ni sư kể rằng tuy cực mà rất hoan hỉ rồi cảm thấy rất thương quý các sư cô trong chùa vì được sống ăn đơn giản, ai cúng rau củ gì thì ăn nấy, không đòi hỏi và sống trong sự đùm bọc, giáo dưỡng với tinh thần tinh tấn tu học kinh kệ mỗi ngày dưới tình thương yêu hướng dẫn trí tuệ của Thầy – Tôn sư Hải Triều Âm. Mỗi ngày đều được tắm mát trí tuệ và dần dần, mỗi ngày nhận thấy con đường xuất gia, sống trong sự thanh bần với lý tưởng anh minh là đúng, là hạnh phúc vô ngần, cho nên đối với Ni sư Giới Hương chưa hề có ý chán nản hay bị lung lạc bên ngoài. Tự bản chất, Ni sư Giới Hương đã mang sẵn một tâm hồn an hòa, ẩn tu (lắng nghiệp lại), và trong sáng của một người có căn
tu đồng chơn xuất gia. Hằng ngày được sinh hoạt tu học nhịp nhàng theo đúng thời khóa biểu trong chùa. Mọi công việc chấp tác đều được phân chia thứ tự rõ ràng theo người, theo việc, nhất là dưới sự hướng dẫn sáng suốt của Tôn Sư Hải Triều Âm, một bậc thầy khả kính, minh mẫn, thanh cao, nhân hậu, đức độ và bao dung. Ai được ở gần tôn sư thì các sự phiền não, sân si đều tự nhiên giảm dần và biến mất như kinh Hoa Nghiêm đã chỉ dạy: «Phàm có chúng sanh nào thân cận với ta, tất cả đều lìa tham dục mà được nhập Bồ tát nhất thiết trí, hiện tiền giải thóat vô ngại. Do nghe pháp cho nên được môn giải thóat pháp quang minh phá tối tăm phiền não...» Nhiều sư cô huynh đệ cũng xác nhận như vậy. Thầy Hải Triều Âm là vị đại sư có đầy năng lực thanh tịnh tỏa ra, khiến những ai có cơ hội được ở gần ngài thì đều dốc lòng chuyên tâm tu tập mà quên đi các bản ngã cá nhân nặng nề. Những lời giáo dưỡng của ngài luôn là những lời thấu suốt hầu như ai cũng có thể tiếp nhận được tâm ý này và cũng sẽ sẵn sàng tự hy sinh những lợi ích cá nhân để hướng về sự phục vụ hữu ích cho đại chúng, bởi lẽ mỗi cá nhân rồi sẽ đều tan đi theo vô thượng, còn những công hạnh nhằm phục vụ cho đại chúng, hết thảy, đều là nghiệp lành, nghiệp thiện, nghiệp bồ tát, nghiệp Phật, sẽ đi theo chúng ta mãi mãi. Khi có những người mang trái tim xuất gia cao thượng thì sẽ có năng lực khiến cho ngôi chùa, cho xã hội hay đất nước được trở nên an bình và thánh thiện hơn. Đạo Phật là đạo của nhập thế, tức là đạo đi vào xã hội để độ đời, vì có quá nhiều chúng sanh đau khổ. Muốn độ đời hay trợ giúp một xã hội nào đó thì chúng ta phải có nhiều kiến thức về thế tục, về văn hóa của xã hội đó. Văn hóa của Việt Nam và văn hóa của Hoa Kỳ có nhiều điểm tương đồng và nhiều điểm khác biệt, chúng ta phải học hỏi để có thêm nhiều kiến thức căn bản để hiểu con người và hoàn cảnh của người đó, thì sự tiếp cận giúp đỡ của chúng ta sẽ có hiệu quả hơn. Và ngược lại, người bản xứ sẽ kính nể về khả năng hiểu biết và kiến thức của mình,thì họ sẽ bằng lòng quy phục lắng nghe và thực hành theo những điều mà chúng ta nói.
Điều đó, được gọi là tục đế. Còn Chân đế là phương pháp học và phương pháp thi hành thực nghiệm, trải nghiệm giác ngộ trong đường đạo. Có được những kết quả cụ thể về tâm linh thì mới có thể giúp cho những người đang đau khổ ở bên ngoài xã hội dừng lại các tiêu cực không tốt, dừng lại được những bước đi rong ruổi mà làm cho tâm được ổn định lại, trở thành người tốt, không còn bướng bỉnh quấy phá, gây rối. Việc tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền là phương cách giúp cho người tu hoặc giúp hướng dẫn đưa giúp người đời tìm lại được sự bình tâm ổn định. Việc truyền trao giới luật, hay ăn chay niệm Phật đều giúp cho xã hội xoay được về hướng tâm linh, làm cho đời sống con người bớt đi rất nhiều đau khổ. Đó là những công việc mà Ni sư Giới Hương đã, đang và sẽ còn làm từng mỗi ngày cho đến khi nào còn hơi thở. Những lần Ni sư xốc vác, dấn thân, tìm đủ mọi phương cách để đích thân đi vào các nhà tù ở Mỹ để giảng đạo, dạy thiền, trao đổi thư tín chứa đựng những lợi ích thiết thực của Phật pháp với các tù nhân để giúp họ hóan chuyển tâm tư tình cảm, suy nghĩ, quan niệm sai lầm mà biết cách trở về với đường ngay nẻo chánh. Ni sư Giới Hương đã nhiệt tình chia sẻ biếu tặng nhiều kinh sách Phật (do Ni sư biên soạn) vào nhiều nhà tù đề chia sẻ thông điệp hạnh phúc của đức Phật đến cho các tù nhân và giúp tù nhân có phương tiện tu tập, biến nhà tù nhỏ hẹp thành cõi tịnh độ lý tưởng giữa thế gian này. Tù nhân cảm thấy an lạc, chấp nhận sự hiện hữu và ứng dụng tinh tấn tu tập trong bất cứ hoàn cảnh môi trường nào. Từ Phật tánh lưu xuất, Ni sư Giới Hương như một bông hoa nhỏ tỏa năng lượng của Pháp Phật nơi giới thân huệ mạng và rồi lan tỏa ra những diệu dụng để độ sanh. Hay nói một cách dễ hiểu là đốn ngộ được những tinh hoa của những lời Phật dạy, đem ứng dụng chúng trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi được an nhiên tự tại để nhẹ nhàng giúp người và tự giúp mình để đi ra ngoài bến mê, giống như từ bao lâu nay, chúng ta thường đi từ mê vào mê, từ khổ vào khổ. Bây giờ sẽ cùng nhau, nương lực Phật, từ mê sẽ trở thành giác ngộ.
Về các phương tiện để độ sanh thì Ni sư tùy duyên, hiện có được một cơ sở vật chất là một ngôi chùa ni Hương Sen ở quận Riverside, với những phương tiện tương đối tạm được để giúp cho ni chúng đủ mọi lứa tuổi, đủ duyên, cùng quy tụ nhau về nơi đây học Phật, không còn rong ruổi nổi trôi ở bên ngoài. Thời gian trôi qua rất nhanh. Con người sẽ rất mau già, sẽ mau bệnh hoạn và sẽ mau chết. Mọi người hãy sớm biết dừng lại và tìm về bên cửa đạo được rồi. Ai muốn lắng nghiệp, dừng rong ruổi và an tịnh suốt đời, hãy tìm về Hương Sen.
Tốt Nghiệp Cử Nhân Phật Học năm 1993
Nhóm Ni sinh Khóa Cao Cấp Phật Học (từ phải, hàng sau, Ni sư Giới Hương đứng thứ hai)
5. Nỗ Lực Tinh CầnSau này, cả trên bước đường hành đạo, tiếp tục chuyên tu cho đến việc hoằng hóa đạo pháp, hóa độ nhân sinh, không chỉ với những Phật tử đồng hương người Việt, mà Ni sư Giới Hương còn trải rộng sự quan tâm của mình đến với các cộng đồng bạn, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, bên cạnh vai trò lãnh đạo ni đoàn và tăng chúng thuộc chùa Hương Sen. Ni Sư Giới Hương không chỉ là bậc chân tu thuần túy, người còn sở hữu một ngòi bút phong phú với tài năng viết lách rất sáng tạo chuyên nghiệp. Ni Sư từng viết nhiều tác Phẩm Phật Giáo, sớ giải nhiều kinh sách, đưa ra những lời giáo dưỡng thực tiễn dành cho Phật tử các giới cũng như cho những người người có ước nguyện sống đời đức hạnh hoặc sau cùng, muốn đi tu, và từ đó, vô hình chung, ngày tháng qua đi như sức sống của địa cầu, đã làm giàu thêm nguồn văn chương sáng tác của người xuất gia qua hạnh nguyện cao quý mà người từng ước nguyện là mong sao phổ độ quần sanh, tiêu biểu là những sáng tạo đa dạng cùng với một kho tàng trí tuệ chứa đựng trong tủ sách với tên gọi là Bảo Anh Lạc (mời xem Website : Huongsentemple. com, có 56 tác phẩm kinh sách và 11 volume âm nhạc trong Tủ sách Bảo Anh Lạc). Để có thêm nhiều tiện ích cho những người có định tâm muốn đi tu và cũng là cách để cho chúng ta, trong đó có cả Nguyên Hà (tác giả của cuốn sách khiêm tốn này), có thể hiểu biết được phần nào những khó khăn thử thách của người mới xuất gia đi tìm chân lý cứu độ và con đường giác ngộ như Ni Sư Giới Hương. Quả thật, nó không hề đơn giản và dễ dàng chút nào. Trong cuốn sách nhỏ bé này, mặc dù người viết đã có may mắn được Ni sư Giới Hương hướng dẫn cho rất nhiều điều cao thâm mà chỉ có người xuất gia, hoặc mới xuất gia để vào chùa, mới có thể am hiểu cũng như mới có thể kinh qua để trải nghiệm và hiểu biết một cách tường tận. Nhưng chúng tôi vẫn xin được
phép dẫn chứng một số bài viết, một số trải nghiệm đã được Ni Sư Giới Hương sẵn sàng cho phép, chia sẻ, tiêu biểu như câu chuyện giữa thầy Ngọc Lâm với Vương Kim Tiểu Thư và dưới đây là một tư liệu giá trị đã được Ni Sư giới thiệu, trích từ một quyển sách mang tựa đề “Tự Truyện Một Người Tu” của Thượng Tọa Thích Hạnh Nguyện như sau : “Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 1997, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những thăng trầm xảy ra trong một đời người. Sự thăng trầm ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo, thầy đã dạy tôi rằng: “Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã bị lui sụt, thóai hóa. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ”. Đời sống của một người xuất gia là một đời sống cao đẹp nhưng đầy dẫy những thử thách và cám dỗ. Người xuất gia ở Việt Nam phải chịu đựng sự thử thách với những cái khó khăn và nhiều khổ cực trong chùa. Người xuất gia ở hải ngoại thì lại chịu đựng nhiều cái quá tiện nghi và bề bộn công việc trong chùa. Ở hai mặt đều có những tính chất tiêu cực của nó, vì theo tôi đời sống của người xuất gia là đời sống của văn, tư và tu. Văn là sự học hỏi Phật pháp, tư là sự tư duy và chiêm nghiệm những điều đã nghe và học và tu là thường xuyên quán tưởng và đem áp dụng những điều mình đã tư duy chiêm nghiệm ấy vào sự tu tập hành trì của mình trong đời sống hàng ngày. Ba pháp văn tư và tu ấy đòi hỏi bên cạnh một thời gian thư thái, quang cảnh nhẹ nhàng và một vị thầy đầy lòng bi mẫn, thương xót khuyên nhắc đệ tử gắng công tu học. Người ta có thể cho rằng tu thì trong trường hợp nào tu cũng được, dù cực khổ, khó
khăn hay bận rộn đến đâu. Nhưng dẫu biết rằng chịu khổ cực cũng là tu, khó khăn cũng là tu, bề bộn công việc cũng là tu, cái gì cũng là tu hết nhưng biết cách tu hơn một chút, có thời gian tu hơn một chút, sống nhẹ nhàng thanh thóat hơn một chút, được nghe Phật pháp, được dạy bảo, khuyên răn nhiều hơn một chút thì sự tu hành có lẽ sẽ tốt đẹp hơn, đỡ nhàm chán hơn và người đó sẽ đủ vững niềm tin hơn để có thể đi suốt đoạn đường tu hành của họ. Rồi bên cạnh là trăm thứ cám dỗ khác mà người tu phải giáp mặt trong đời sống hằng ngày giữa một xã hội vật chất Tây phương. Cám dỗ thì vô vàn, nhưng đại loại không ngoài những cái chính như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, tình yêu, tình dục.v.v... Đây là những thứ làm cho ngươi tu sa ngã và thất bại nhiều nhất trong đời sống tu hành của họ dù người đó có chính thức hoàn tục hay không, nhưng nếu bị đắm nhiễm và vướng vào thì cũng xem như là thất bại rồi. Những thứ cám dỗ mà tôi viết ra trong sách này không phải là những chỉ trích : chê bai khi mà tất cả con người chúng ta đang sống và đắm nhiễm trong đó. Tôi chỉ viết với những nhận định và cảm tưởng cá nhân của một người tu như tôi khi nhìn về nó. Đây là cách nhìn và quán chiếu để tu tập, giữ tâm hầu tránh sự việc là bị đắm nhiễm và vướng mắc vào. Dĩ nhiên trong sự tu hành của một người tu tôi cần phải nhìn những thứ cám dỗ ấy càng tiêu cực, càng xấu xa càng tốt vì như vậy nó sẽ không che mắt được tôi và quyến rũ tôi dưới bất cứ hình thức nào. Vậy nên cái nhìn và sự quán chiếu những thứ cám dỗ ấy là xấu xa, tội lỗi sẽ không phải cái nhìn, quán chiếu và xem những người đang vướng vào những cám dỗ ấy là xấu xa, tội lỗi và đáng khinh thường. Một khi biết rằng tôi đã và đang tróc vây trầy da khi cố gắng vượt thóat những cám dỗ ấy và bao nhiêu người chưa thể vượt thóat được, thì tôi sẽ có lòng cảm thông để tìm cách chia eẻ, khuyên lơn và ban bố những kinh nghiệm khó khăn mà tôi đã vượt qua. Lời thầy Nhất Hạnh nói: “có hiểu mới thương” có lẽ rất đúng trong trường hợp này. Mục tiêu tối hậu của đời sống xuất gia là sự giải thóat, giải
thóat ngay trong đời này chứ không phải là chỉ qua những lời cầu nguyện giải thóat và nghĩ rằng giải thóat chỉ có thể đến với mình vào những kiếp sống tới. Một người xuất gia mà không tin mình có khả năng giải thóat và có thể giải thóat ngay trong đời này là một người xuất gia đáng bị la rầy và khiển trách. Nhưng đối với mục tiêu tối hậu là giải thóat của người xuất gia thì trên con đường đi đến mục tiêu ấy, những công việc mình làm mình nói, mình suy tưởng cũng phải mang những ý nghĩa, những giá trị và những lợi ích cho mục tiêu giải thóat của mình. Không hàm mang tất cả những điều này thì có thể là ta đã đi chệch hướng mà ta từng phát nguyện lúc ban đầu. Tôi muốn trình bày nơi đây trong tập sách này một chặng đường đã đi qua với bao thử thách cam go, mà tôi nếu không nhờ có sự hộ trì của chư Phật, của những nhân duyên lành trong quá khứ thì tôi đã sa ngã tự bao giờ. Sa ngã để trở về đời sống phàm tục như xưa thật ra cũng chẳng xấu; nó chỉ nói lên sự thất bại của mình đối với con đường thánh thiện mà mình một thời đã nhất quyết chọn cho được. Kinh nghiệm là một bài học cho ta học hỏi nhất là kinh nghiệm của nhiều sự sai lầm. Nhưng không hiểu sao cuộc đời tu của chính tôi lại có quá nhiều kinh nghiệm sai lầm. Thế nhưng trong nhiều cái sai ấy, tôi được đạo, được các bậc thầy soi sáng để nhìn lại, thấy mình hơn và trong sự nhận chân qua những ăn năn hối cải đó, tôi quyết chí muốn trở thành một con người lương thiện hơn, chân chánh và có phạm hạnh hơn trong đời sống xuất gia tu học của mình...” Với những bộc bạch đầy chân tình, tác giả Thượng tọa Thích Hạnh Nguyện đã thật lòng chia sẻ với chúng ta những điều thầm kín đôi khi rất khó nói, nhưng cuối cùng, Thầy đã vượt qua được tất cả chông gai thử thách, nhờ gặp được duyên lành, nhờ tâm hồn có một định lực mạnh mẽ, một lý trưởng cao đẹp và quan trọng hơn cả là nhờ vào sự gia hộ độ trì của Chư Phật thì mới mong đạt đến được một kết qủa khả quan. Đối với Ni sư Giới Hương, như tôi biết, bên ngoài là một dáng dấp điềm đạm hiền hòa đạo hạnh ít nói như vậy đó, nhưng tiềm ẩn bên trong thì ý chí mạnh mẽ như một nam nhi trượng
phu và hạnh nguyện xuất trần thượng sĩ luôn hướng về những lợi ích cho đời và đạo, tất cả dành cho tha nhân, nên tâm hồn của Ni Sư luôn luôn có một sức sống hướng thượng, một chánh kiến sáng suốt, một tấm lòng đại từ đại bi và nhất là đã có sẵn một thiện căn tu tập nhiều đời, cho nên nếu có phải đối diện với những khó khăn, những thử thách trùng điệp đến đâu như Thầy Hạnh Nguyên đã viết thì ni sư Giới Hương cũng vẫn kiên trì và giữ vững lập trường để có thể vượt qua một cách dễ dàng. Kính mời quý độc giả, nhất là các vị cư sĩ có chí xuất thế, hằng ấp ủ ý định tìm cầu học đạo, muốn có thêm sự hiểu biết, tiện dụng cho việc tìm cầu tham khảo, có thể đọc qua một trong nhiều bài tham luận hoằng pháp có giá trị do Ni sư Giới Hương trình bày sau đây.
6. Nữ GiớiVà Giới Luật Phật Giáo (Tài Liệu Hướng Dẫn Bởi Ni Sư Giới Hương) “Giới luật Tỳ kheo ni gồm 348 giới điều, được gọi là “ngũ thiên thất tụ” (5 thiên và 7 nhóm).Trong các xã hội phụ hệ Đông phương, vai trò của nữ giới được xem là thấp kém hơn so với nam giới, nhưng định kiến như vậy không thể chấp nhận trong một xã hội văn minh. Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên đã nhận ra tiềm năng của nữ giới và tạo nhiều cơ hội cho nữ giới phát huy khả năng tâm linh và hoạt động xã hội của họ. Chúng ta biết rằng sau khi giác ngộ, lúc đầu Đức Phật cũng đã miễn cưỡng ngần ngại độ người, giai đoạn đó gọi là giai đoạn “im lặng” của ngài. Nữ giới cũng như thế, lúc đầu không được gia nhập tăng đoàn, Tôn giả A-Nan và Di Mẫu Kiều-Đàm-Di (Mahapajapati Gotami) đã tha thiết cầu xin Đức Phật. Với sự đảm bảo của tôn giả A-Nan, Di Mẫu Kiều-Đàm-Di (Mahapajapati Gotami) đã chấp nhận tuân thủ tám kính pháp, Đức Phật đã chấp nhận cho bà cùng với 500 cung phi mỹ nữ gia nhập vào tăng đoàn. Tám kính pháp đó như sau: Tỳ-kheo-ni dù cho thọ đại giới 100 năm cũng phải cung kính chắp tay, đảnh lễ và xử sự đúng pháp đối với một tân tỳ kheo dù mới thọ giới một ngày. Một tỳ-kheo-ni không được an cư nơi không có tỳ kheo tăng. Mỗi nửa tháng tỳ-kheo-ni cần hỏi thỉnh chúng tỳ kheo tăng ngày đến giáo giới. Sau mùa an cư kiết hạ, tỳ-kheo-ni cần phải làm lễ tự tứ trước hai bộ tăng già để cầu thỉnh chỉ lỗi nếu có thấy, nghe và nghi. Tỳ-kheo-ni phạm trọng tội, nửa tháng phải hành pháp Ma-
Na-Đoả trước cả hai bộ tăng già. Sau khi học tập sáu giới pháp trong hai năm, vị ni ấy phải đến trước hai bộ tăng già cầu xin thọ cụ túc giới. Không vì duyên cớ gì, một tỳ-kheo-ni có thể mắng nhiếc hoặc chỉ trích một tỳ kheo tăng. Tỳ-kheo-ni không được phê bình tỳ kheo, nhưng tỳ kheo tăng có quyền phê bình tỳ-kheo-ni. Trong quy luật thiền môn của ni chúng những pháp này được tuân thủ nghiêm ngặt. Luật Dharmagupta (bản Hán) so sánh tám kính pháp này như nhánh cầu bắc qua sông lớn để hành giả có thể đi đến bờ bên kia giải thóat. Nhiều kinh nói rằng tất cả 500 tỳ-kheo-ni này đều đạt được an lạc giải thóat. Đức Phật cũng đã chế giới bổn tỳ-kheo-ni và nghi thức truyền giới tỳ-kheo-ni cho ni chúng. Điều này cho thấy rõ rằng ni chúng được làm giới tử thọ giới và phải trải qua hai giai đoạn: đầu tiên thọ giới trong ni bộ, rồi sau đó qua tăng bộ. Ni giới có nhiều trách nhiệm và bổn phận hơn khi họ phát nguyện thọ giới Tỳ kheo ni. Họ được phép bố tát tụng giới tỳ- kheo-ni (Bhikkhuni Patimokkha) trong đó bao gồm các giới điều và oai nghi của ni. Trong luật tạng Pali nói có 227 giới cho tăng, trong khi có 311 giới cho ni gồm trong 7 phần. Giới bổn tỳ-kheo-ni được kết tập tại Sravasti. Trong luật tạng Pali có đề cập 305 trường hợp của tăng và 59 trường hợp của ni. Như vậy tỷ lệ trường hợp nữ giới được đề cập là 16,2% trong tổng số nam giới. Điều này có nghĩa là Đức Phật đã mở cánh cửa đón nhận nữ giới và nữ giới hoan hỉ gia nhập đời sống phạm hạnh, nhưng thái độ của xã hội đối với phụ nữ dường như biến chuyển quá chậm chạp và vị trí phụ nữ vẫn bị coi là thấp và còn giới hạn. Mặc dù vậy một số lớn ni giới trong thời của Đức Phật đã tỏ ra rất xuất sắc trong nhiều lãnh vực khác nhau. Có ba nguồn tư liệu chính nói về huyền thoại và các mẫu chuyện của nữ giới là kinh Apadana (tác phẩm thứ 13 của Tạp Bộ kinh), Tăng chi bộ kinh (Anguttara-Nikaya) và Trưởng lão
ni kệ (Therigatha). Trong đó, Trưởng lão ni kệ kể lại rất rõ các công hạnh khác nhau của nữ giới, những người đã tự nỗ lực tu tập để chứng đắc Niết-bàn. Kinh Manorathapurani (thuộc Tăng chi bộ kinh) đề cập danh sách các bậc trưởng lão ni, sa-di-ni và các cận sự nữ thanh tịnh và đức độ. Được phép của Đức Phật cho thành lập giáo đoàn ni, Di Mẫu Kiều-Đàm-Di đã tạo nhiều điều kiện tu tập cho ni giới thậm chí ngay cả nhiều phụ nữ bất hạnh, đau khổ cũng đều được giải thóat khỏi sự ràng buộc. Chẳng hạn trong một số kinh ở Tăng Chi Bộ và Tương Ưng Bộ, Đức Phật đã tuyên bố như vậy: “Này các con, nếu các con có thể xuất gia sống đời sống không nhà, các con có thể trở thành như khất sĩ ni Khema và Uppalavanna”. Nàng Khema (Khema có nghĩa là ‘an lạc’ hoặc ‘niết-bàn’) là một cận sự nữ thuần thành và ủng hộ Phật pháp trong thời Đức Phật Padmottara. Trong thời Đức Phật Ca-diếp, nàng là con gái của vua Kiki xứ Varanasi, tên là Samani, sống đời sống thanh tịnh và đã xây một tịnh xá cúng dường cho Đức Phật. Kế tiếp trong thời Đức Phật Tỳ-Bà-Thi, nàng đã thuyết giảng chánh pháp. Trong thời Đức Phật Kakusandha và Konagarnana, nàng đã xây dựng nhiều đại tinh xá cúng dường cho Đức Phật và chư tăng. Trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nàng sanh ra trong hoàng tộc Sagala xứ Madradesa và là hoàng hậu của vua Bình- sa-vương (Bimbisara), nước Ma-Kiệt-Đà (Magadha). Kinh kể lại rằng nàng không bao giờ xuất hiện ở trước Đức Phật, bởi vì nàng nghĩ rằng Như lai không bao giờ quan tâm đến vẽ đẹp phụ nữ. Nhưng vào một ngày nọ, vua Bình-Sa-Vương thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng tăng và đã mời các ca nữ đến vườn thượng uyển Trúc Lâm. Lúc đó, nàng Khema xuất hiện trước Đức Phật. Để giáo hóa lòng kiêu ngạo của nàng, Đức Phật thị hiện thần thông biến ra một tiên nữ tuyệt đẹp đứng cạnh hầu quạt cho ngài. Tiên nữ đột nhiên biến hiện, đầu tiên là một phụ nữ trung niên rồi trở thành một bà lão da nhăn, răng rụng và tóc bạc khiến cho Khema rất đổi kinh ngạc. Lòng kiêu ngạo về vẻ đẹp yêu kiều của mình tan biến khi nàng nghe bài kệ sau:
“Ai nô lệ cho lòng tham dục khát ái, Như con nhện không rời mạng nhện do mình tạo ra. Người trí dứt trừ khát ái, lìa xa trần tục, thóat khỏi lo âu, để lại đằng sau mọi sầu muộn”. Lời bình trong Trưởng Lão Ni Kệ nói thêm rằng khi Đức Phật nói kệ xong, nàng Khema liền chứng quả Alahán. Nàng trở thành một trong các đại đệ tử xuất chúng về mặt trí tuệ tinh thông. Trưởng Lão Ni Kệ còn mô tả sự giác ngộ chứng đắc của nhiều trưởng lão ni. Trong đó, các trưởng lão ni này kể lại kinh nghiệm sống, tu tập và bộc lộ trạng thái hỉ lạc của họ với niềm tin vào con đường giải thóat của đức Thế Tôn. Chẳng hạn, nàng Uppalavanna trong nhiều đời là một vị ni thông thái, đức hạnh, thường cúng dường thức ăn cho Đức Phật và nàng đã đạt được năng lực thần thông do nỗ lực tu tập. Vào thời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nàng Uppalavanna sinh làm con gái của một trưởng giả ở Sravasti. Nàng có tướng mạo xinh đẹp trong trắng như hoa sen xanh tinh khiết. Khi đến tuổi cập kê, nhiều hoàng tử và vua chúa đã đến cầu hôn, nhưng vì lòng chánh tín nàng muốn thế phát xuất gia. Một ngày nọ, người anh họ Ananda đã bày mưu lừa gạt và cưỡng hiếp nàng trong rừng. Vì việc này, từ đó nàng đã lánh xa nhà và sống một đời sống của nữ tu yên tĩnh. Sư cô siêng tu thiền định dùng ngọn đèn làm đối tượng để thiền quán. Sư cô đã đạt được bốn thiền (tejokasina) và Vô ngại Giải Đạo (patisambhida), cuối cùng chứng được quả A-la-hán và trí tuệ (abhijana). Tỳ-kheo-ni Sanghamitra là con gái của hoàng đế A-dục cùng với anh nàng là tỳ kheo Mahendra đã giáo hóa vua Tissa của xứ Sinhala (bây giờ là Tích Lan) và sư cô Sanghamitra đã thành lập giáo đoàn ni qua việc truyền giới cho hoàng hậu Anula và 500 cung phi mỹ nữ. Vào thế kỷ thứ IV, công chúa Hemamala (con gái của vua Kalinga) và phò mã Dantakumara đã mang răng xá lợi (danta-dhatu) của Đức Phật tới đảo quốc này. Hoàng hậu Kumaradevi của vua Govindachandra, xứ Kanyakujia và Varanasi đã trùng tu tượng Đức Phật (dharmacakrajina) và xây một đại tịnh xá rất trang nghiêm cho ni giới ở Sarnath. Điều này
chứng tỏ Phật giáo thịnh hành vào thế kỷ XI. Giáo đoàn ni tồn tại suốt một ngàn năm ở Tích Lan và truyền thống này đã tiếp tục phát triển không ngừng, bởi vì được truyền thừa sang Trung Quốc mà ngày nay chúng ta có thể hồi sinh giáo đoàn ni ở Nam và Đông Nam Á và cuối cùng đã phục hồi được giáo đoàn ni như một tổ chức năng động tại các nước như Tích Lan, Miến điện, Thái lan, Tây Tạng, Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam... Từ thời cổ đại cho đến thế kỷ thứ XI, ni chúng đã tiếp tục tu tập và thực hành công hạnh bố thí cúng dường, tạo tượng và xây chùa. Có nhiều tiểu sử của các bậc ni và cận sự nữ sống đời sống thánh thiện, chói sáng thế gian với phạm hạnh cao thượng của họ. Chính trong thời của Đức Phật Thích Ca, chúng ta đã có nhiều thành tựu chứng đắc của các bậc ni như Di Mẫu Kiều-Đàm-Di, Da-du-đà-la (Yasodhara), Khema, Uppalavanna, Kundalakesi, Kapilani, Soma, Ubbiri, Rohini, Patachara, Anupama, Nandi và nhiều vị khác. Chúng ta cũng biết trong biên niên sử Vamsa của Tích Lan (Sinhala), có ghi lại sự xuất chúng các ni giới thời sau này như Sanghamitra, Dhammapala, Sudhamma, Malla, Aggomitta, Uttara, Hema và nhiều phụ nữ khác. Các nữ cư sĩ ngày nay cũng đã đóng vai trò quan trọng trong xã hội và phát triển tôn giáo. Chẳng hạn ở Tích Lan, bà Bandaranayike làm thủ tướng và con gái là bà Chandrika Kumaratunga làm tổng thống. Vào năm 280, giáo đoàn ni được thành lập ở Trung Quốc và Chen Chien là vị tỳ-kheo-ni đầu tiên. Năm 429, tỳ-kheo-ni Devasara với bảy vị ni khác được vua Meghavanna phái tới Trung Quốc và giáo đoàn ni dần dần gia tăng số lượng. Trải qua nhiều thế kỷ, ni giới Trung Quốc đã tích cực đóng góp cho nền hoà bình và an sinh xã hội. Trong lịch sử Việt Nam, các tỳ-kheo-ni như sư bà Đàm-soạn, Diệu-không, Hải-triều-Âm, Như –thanh, Huỳnh-liên… là những bậc ni sư đại tài đóng vai trò tích cực năng động trong nhiều lãnh vực như hoằng pháp, giáo dục, văn hóa và từ thiện xã hội… Trong thời đại chúng ta, có nhiều nữ lãnh đạo Phật giáo trong
các nước Tây Tạng, Nepal, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Đài Loan… đang tiến hành xây dựng nhiều tu viện độ ni tu tập và trung tâm Nghiên cứu Phật giáo. Có một sự khích lệ to lớn là nhiều phụ nữ trong các tổ chức ở Châu Âu và Châu Mỹ đã bắt đầu thiết lập các tu viện cho ni giới. Những vị này đóng vai trò quan trọng trong việc làm thăng bằng xã hội đang trên đà suy đồi đạo đức mà những sự kiện này đi ngược lại lợi ích của phụ nữ. Vấn đề căn bản ngày nay là nam và nữ làm thế nào thích ứng với sự phát triển trong trật tự xã hội mới đang bị chi phối bởi sự lãnh đạm, bạo lực và bất an. Các ý tưởng khoa học văn minh hiện đại đã khuyến khích tư duy phân tích, nhưng rủi thay sự tự do phóng khóang của xã hội mới cũng có thể là kết quả đưa đến kết quả làm suy đồi giá trị đạo đức. Hậu quả là có một nhu cầu bức thiết để tạo dựng cơ cấu xã hội hỗ trợ cho đời sống tinh thần, chống đói nghèo, bảo vệ nhân quyền, đề cao giá trị đạo đức và phục hồi các truyền thống văn hóa… Tất cả những điều này hiện nay chỉ tạm thời cân đối thôi. Vấn đề to lớn nhất hiện nay là làm thế nào để chuyển giao những giá trị tích cực cho thế hệ tương lai. Để hoàn thành công việc này, điều thích hợp nhất là hiện thực hóa quan niệm nam nữ bình quyền. Toàn thể nhân loại, nam và nữ đều có trong chính mình tư chất cả nam lẫn nữ. Đức Phật đã không phân biệt năng lực trí tuệ và tâm linh giữa nam và nữ. Mặc dù thái độ của Phật giáo đối với phụ nữ đôi khi dường như mâu thuẫn hoặc thậm chí tiêu cực, thái độ này đã thay đổi và dễ dàng thấy rằng ảnh hưởng tích cực của phụ nữ đã hiện diện trong giới Phật giáo ngày nay, cụ thể như năng lực của phụ nữ từ khắp mọi miền của trên 30 nước trên thế giới đã tập trung ở đây, hiện diện ở đây trong Hội nghị Phụ Nữ Phật giáo Thế giới Sakyadhita lần thứ VIII tại Đại Hàn là một bằng chứng rõ rệt. Đó là nội dung bài tham luận của tôi. Kam-sa-ham-nida (Tiếng Đại Hàn nghĩa là cám ơn.) Song-bul-ha-ship-si-o (Nguyện cho tất cả chúng ta đều thành Phật).
Thân phụ Chánh Đức Minh tiễn sư Giới Hương ở sân bay Tân Sơn Nhất qua Ấn Độ học, năm 1995
Ni sư Giới Hương tốt nghiệp Tiến sĩ Triết Học
Ni sư Giới Hương tốt nghiệp Tiến sĩ Triết Học tại trường Delhi năm 2003 (đứng thứ sáu tính từ trái qua)
Phạm Bá Hải (em trai Ni sư Giới Hương) cùng Ni sư Giới Hương trong lễ Tốt nghiệp tại Trường Đại Học Delhi, 2003
Ni sư Thích Nữ Giới Hương chụp tại Ấn Độ năm 2003
Ni sư Giới Hương tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương tại trường Đại Học Riverside, California, 2016
Mừng Ni sư Giới Hương tốt nghiệp Từ trái qua: Thân phụ Ni sư Giới Hương, Viên Bảo Luân, Viên Bảo Hương, Viên Bảo Sen, Ni sư Giới Hương và Viên Bảo An, 2016
7. Những Cống Hiến Qua Sáng TácTỦ SÁCH BẢO ANH LẠC do Ni Sư Tiến Sĩ TN Giới Hương biên soạn
Lạc, 2008.
- Vietnamese Buddhist Nuns in the United States), Thích Nữ Giới Hương, Hồng Đức Publishing. 2020.
Donating Food to Hungry Ghosts), Thích Nữ Giới Hương biên soạn, Hương Sen Press, USA. 2021.
Hồng Đức Publishing. 2020.
Thích Nữ Giới Hương, Hồng Đức Publishing. 2020.
Dr. Thich Hanh Chanh and Ven. Dr. Bhikṣuṇī TN Gioi Huong. Eastern Book Linkers: Delhi 7. 2023.
Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020.
Publishing. 2020.
từ THƠ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG
Mời xem Tủ Sách Bảo Anh Lạc tại website: http://huongsentemple.com/index.php/en/about-us/b-o-anh-l-c- bookshelf
Một số tác phẩm do Ni sư TN Giới Hương Biên soạn
Bằng Xác lập Kỷ lục Ni sư TN Giới Hương là “Nữ tiến sĩ người Mỹ gốc Việt viết và dịch nhiều tác phảm Phật giáo nhất”
Lễ trao bằng Xác lập Kỷ lục cho Ni sư TN Giới Hương tại Đại hội Khóang đại I (2020-2024) và Đại lễ Đức Phật thành đạo do Giáo hội Phật giáo Liên hữu Mỹ - Việt tổ chức ngày 15/12/2019 tại thành phố Anaheim, California, Hoa Kỳ
Từ trái: Sư cô Viên Tiến, Ni sư Giới Hương, Ni sư Hạnh Quang và Sư cô Liên Hiếu
8. Đức Hạnh Của Người Xuất GiaChẳng bao lâu sau ngày đến Mỹ vào năm 2005 với những nỗ lực phi thường, đưa đến những thành công vượt trội, cả về đường tu lẫn đường đời, Ni Sư Thích Nữ Giới Hương đã sớm vang danh là một ni sư có tài năng và đức hạnh đáng kính ngưỡng trong cộng đồng Phật tử không chỉ ở thành phố Perris, California, mà còn có thể nói là ở khắp nơi. Về tài năng, Thích Nữ Giới Hướng là người đã được đào tạo trong nhiều lĩnh vực của Phật giáo, bao gồm triết học Phật giáo, kinh tịnh và pháp bảo. Ni sư cũng đã hoàn thành nhiều khóa học về yoga, thực hành Thiền và các phương pháp cảm thụ khác để giúp cho đời sống tinh thần của mọi người được cải thiện. Với kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng, Ni sư đã đào tạo và hướng dẫn nhiều đệ tử, giúp cho họ đạt được sự giác ngộ và động viên họ trong việc tìm kiếm ra con đường đích thực để giải thóat của cuộc đời. Ngoài tài năng, Ni sư còn được biết đến với những đức hạnh xuất phàm. Người có một cuộc sống bình dị và đơn giản. Thường xuyên dành thời gian cho việc thực hành Thiền và thực hiện nhiều lần giảng dạy Phật pháp, ngay cả trên mạng lưới toàn cầu. Bằng cách sống theo những giá trị của Tam Bảo, của Phật giáo và dày công cống hiến cho cộng đồng, có thể nói, người đã trở thành một người hùng trong cộng đồng Phật tử ở thành phố Perris, California nói riêng và ở khắp nơi nói chung. Ni sư một thân một mình đặt nền móng cho ngôi chùa Hương Sen trong một hoàn cảnh rẫy đầy những thử thách khó khăn với hai bàn tay trắng để trở thành một vị trụ trì ngôi chùa Hương Sen đơn thân độc mã ở thành phố Perris, California. Với năng lực và ý chí phi thường, Ni Sư làm việc ngày đêm với một quyết tâm hiếm người có được, chùa Hương Sen giờ đây đã trở thành một nơi thờ tự linh thiêng, thu hút rất nhiều người tìm đến tham dự
các khóa tu học và các sinh hoạt về tôn giáo khác. Tóm lại, Ni sư Giới Hương là một vị Ni sư tài năng và đức hạnh tràn đầy, luôn luôn dành sự quan tâm và tất cả tâm huyết cho đạo pháp, cho cộng đồng và thường xuyên giúp đỡ mọi người trong việc tìm kiếm sự an lạc và giác ngộ. Có thể nói về giai thoại xuất gia của Ni Sư Giới Hương, từ ngay lúc khởi đầu, với quyết định dứt khóat của một thiếu nữ tuổi mới chưa tròn mười lăm, còn đang trong tuổi trăng tròn, đã là một hiện tượng hiếm hoi, nói lên một căn nghiệp đặc biệt cao quý, bởi lẽ, ai cũng biết rằng người xuất gia là người sẽ phải từ bỏ cuộc sống hiện tại, đi tìm một con đường tu tập để đạt được sự giải thóat khỏi vòng luân hồi tục lụy, mà không phải ai cũng có thể làm được. Đây chính là một đức hạnh phi phàm, một tấm gương sáng ngời, thể hiện rõ nét đức hạnh của một người như Ni sư Giới Hương, vốn đã có sẵn căn tu từ bao nhiêu tiền kiếp. Người viết, với tấc lòng tôn kính đặc biệt nên đã cảm nghiệm được hạnh nguyện của Ni sư qua nhiều dịp phụng sự cho chùa Hương Sen, chúng tôi đã cố gắng tìm tòi qua các tài liệu trong đạo Phật, mới biết được rằng đức hạnh của một người xuất gia như Ni sư Giới Hương đã thể hiện, thật rất giống với các thuật ngữ như “bát quan trúc lâm”, “tứ trúc lâm” và “tám pháp nhị độc” đều là những thuật ngữ kinh điển đề cập tới các phẩm chất và tư tưởng cao sâu mà một người xuất gia hiếm có như Ni sư Giới Hương bắt buộc phải trau dồi và phải tu hành một cách rốt ráo mới mong đạt được đến những thành quả giải thóat hay những thành quả xuất sắc ở ngay trong hiện đời, vô hình chung tạo nên những tấm gương vô cùng cao đẹp, trong sáng, những hương thơm tỏa ngát bao la, ngược bay theo gió ngàn. Cũng qua các tài liệu quí giá này cho biết, “Bát quan trúc lâm” là tám phẩm chất mà người xuất gia như Ni sư Giới Hương bắt buộc phải trau dồi, bao gồm cả lòng kính ngưỡng đức Từ Phụ, đấng tối cao, khôn ngoan, thăng trầm tâm trí, sự kiên nhẫn, sự cố gắng, sự tập trung, sự tinh tấn cùng với sự tự do. Tiếp đến là “Tứ trúc lâm”, là bốn mục tiêu mà người xuất gia cần phải hướng tới, bao gồm cả sự am tường, tìm hiểu đúng đắn về sự thật, phát triển
lòng từ bi, tránh xa các vấn đề về vật chất và dành nguyên vẹn thời gian cho sự tu tập. Rồi đến “Tám pháp nhị độc”, tức là tám phương cách để đối phó với những thử thách trong cuộc sống, cụ thể như lòng kiên nhẫn, không ủy mị, tâm thái lúc nào cũng phải bình an thanh thóat vô sự và không bị vướng mắc tới các bệnh tật về tâm lý, cảm nghiệm tự tại và không bị vướng vào sự cảm xúc, mạnh mẽ kháng cự lại các vấn đề thấp hèn gợi dục và không bị lôi kéo, sa ngã vào những thèm muốn. Ngoài ra, người xuất gia như Ni sư Giới Hương cũng cần phải hết lòng hoàn thiện về đạo đức và tránh xa những hành vi xấu xa, nhỏ nhen, tham lam, bao gồm cả các việc nằm trong ngũ giới, cụ thể như độc ác, không giết người, không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không có hành vi tà dâm, không xử dụng các chất gây nghiện với hàng trăm giới luật vô cùng nghiêm ngặt của bậc tu hành như Ni sư đã từng viết, đã từng giảng pháp, đủ cho thấy ngay từ lúc bắt đầu con đường tu hành, Ni sư Giới Hương đã là một con người như thế, dù cho lúc bấy giờ người chỉ là một cô gái ngây thơ bé nhỏ, cho đến khi được may mắn diện kiến trước một vị thày đức độ và cao cả như Sư Bà Hải Triều Âm, thì Ni sư đã nghiễm nhiên được Sư Bà ban cho sự ưng thuận để cho Ni sư được trở thành người đệ tử ngay từ giây phút khởi đầu. Đây đích thực là một ân phước vô cùng to lớn không phải ai cũng có thể có được như Ni sư Giới Hương. Đức hạnh của người xuất gia chính là một sự kết hợp của các phẩm chất đạo đức, tư tưởng và tu luyện thực tế. Những phẩm chất này càng được trau dồi và tu tập nghiêm cẩn thì người xuất gia càng tiến gần đến con đường giải thóat giác ngộ và đạt tới được ranh giới vô cùng khó khăn của đức hạnh. Cũng có thể hiểu rằng con đường tu hành của Ni Sư Giới Hương, mặc nhiên đã đạt tới sự giải thóat ngay trong hiện tiền và đức hạnh ngay khi người còn đang trên cuộc hành trình tại thế với bao nhiêu là hạnh nguyện cần phải chu toàn, đúng như tất cả những gì chúng ta đã thấy và đã thể hiện qua phần mục Mưa Pháp Nhũ trong sách 40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Giới Hương. ***
Trong gần mười năm qua, thỉnh thoảng chúng tôi đã có cơ hội được góp chút công sức phục vụ và được gần cận với Ni Sư Giới Hương để từng tháng, từng năm qua đi với từng sự việc lớn nhỏ, tất cả chúng tôi đều nhận thấy đây đích thị là một vi chân tu hiếm thấy, một con người có phong độ nhân hậu và cao quý phi thường, một tấm gương thượng thừa tỏa ra cả một trời hương thơm bay ngược gió. Ai cũng biết, dù Ni sư tuổi còn rất trẻ, nhưng lại là người học cao hiểu rộng cho nên trong cung cách cư xử thường ngày, Ni sư luôn tỏ ra là một người rất giàu tình cảm, dư thừa sự càm thông, đồng cảm để hòa đồng, để chia sẻ mọi điều mọi việc với tất cả những người chung quanh, lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe, lúc nào cũng hoan hỉ giúp đỡ người khác mỗi khi cần. Bên cạnh phong thái điềm đạm nghiêm túc là như thế, nhưng Ni sư lại là người luôn luôn tôn trọng và đối xử với những người cộng sự với đầy tình thương nhân hậu với mọi người, bất kể đẳng cấp, giới tính hay tuổi tác. Lúc nào Ni sư cũng khoan dung, hiền hòa và độ lượng, không bao giờ coi thường bất cứ một ai. Với tấm lòng hiền hòa thông cảm, Ni sư luôn luôn hiểu biết và chấp nhận quan điểm của người khác, đồng thời không bao giờ hồ đồ phán xét hay chỉ trích bất kỳ một ai. Với lòng tốt và sự bao dung, tâm hồn của Ni sư là cả một tấm gương vô tư trong sáng, luôn luôn kín đáo tìm cách giúp đỡ người khác. Chưa bao giờ chúng tôi chứng kiến Ni sư nói hay làm điều gì tổn thương tới người khác, trái lại Ni sư còn luôn luôn tìm cách mang lại niềm vui, hạnh phúc cho bao người. Những dịp lễ lạc diễn ra tại ngôi chùa Hương Sen xa xôi hẻo lánh, nhưng lại thường được nhiều quý Phật tử xa gần tìm đến, kể cá các tiểu bang xa. nhiều gia đình Phật tử phát tâm cúng dường rất nhiều thức ăn thức uống dùng cho ngày lễ, nhiều đến cả hàng mấy trăm người tham dự mà thức ăn thức uống vẫn còn lại rất nhiều. Những người đến tham gia công quả như chúng tôi trước khi ra về cũng thường được Ni sư, dù bận rộn như thế nhưng người vẫn luôn ân cần chu đáo trao tận tay những thức ăn và thức uống đem về chia sẻ với gia đình trong tâm tình thương yêu đùm bọc.
Ni sư là một người học thức, đọc rộng hiểu nhiều, viết sách chưa bao giờ tỏ ra mệt mỏi, quả nhiên Ni sư Giới Hương là một người uyên thâm và lòng nhân hậu cao quý, luôn có lòng tự tôn và tự trọng. Ngài tôn trọng bản thân và giữ vững giá trị của bản thân mình. Không bao giờ Ni sư bị cuốn hút vào những thói quen hay tục lệ cần phải được giữ gìn nghiêm cẩn, nhất là nếu trong một vài khi có xảy ra các cuộc tranh luận vô nghĩa và người luôn giữ được phẩm chất nghiêm cẩn của mình. Và với một tinh thần trách nhiệm, Ni sư luôn có trách nhiệm với chính bản thân và với tất cả những người, những việc xung quanh và cũng không bao giờ trốn tránh trách nhiệm hoặc né tránh các sự việc khó khăn. Người luôn luôn tìm ra mọi cách để giải quyết các vấn đề và trách nhiệm với hành động khôn ngoan hòa nhã của mình. Với một tấm lòng nhân ái, Ni sư luôn có tình yêu và sự đồng cảm với tất cả mọi người, đặc biệt là với những người có những hoàn cảnh khó khăn hơn. Ni sư luôn tìm cách giúp đỡ và trong khả năng hạn hẹp, Ni sư hỗ trợ những người đó và làm mọi thứ để giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn. Ni sư Giới Hương đúng là một tấm gương sáng về bao nhiêu điều đức hạnh mà tất cả chúng đều nên học hỏi trau dồi, nên có trong đời. Đây chính là động lực chính đã thúc đẩy và khuyến khích người viết cố gắng thực hiện cuốn sách khiêm tốn này để mong ước lưu truyền lại một tấm gương sáng ngời dành cho mọi người soi chung, đặc biệt là món quà tinh thần quý giá này dành cho những thế hệ tiếp nối, các giới trẻ hay ngay cả những người có dụng ý tìm cầu học đạo để học hỏi, để noi theo cách sống, cách học, cách vượt qua, khắc phục những khó khăn trở ngại, cách làm việc, cách xử thế, tinh thần đạo hạnh thơm ngát của Ni sư Giới Hương, hoặc cụ thể là phải biết cách chế ngự những đức tính tham lam, ích kỷ. Ni sư thường đặt mình vào những hoàn cảnh khó khăn của người khác để giải quyết những khó khăn. Nếu Ni sư vô tình biết được có một ai đó đang gặp sự gì nguy hay hiểm hoặc khó khăn thì với tấm lòng nhân hậu sẵn có, người sẽ kín đáo ra tay giúp đỡ, không bao giờ so đo tính toán điều
thiệt hơn mà thật ra hoàn cảnh của Ni sư cũng chẳng lạc quan hơn gì. Người sẽ tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khó khăn để đồng cảm với sự không may của người khác. Người chỉ suy nghĩ cho người khác, chỉ biết rằng bản thân của mình có thể làm được điều gì đó ích lợi cho người khác thì Ni sư ra sức làm ngay. Ni sư là người lúc nào cũng nhớ ơn và báo ơn người khác. Người viết sách này và rất nhiều các cộng sự viên khác đã góp tay góp sức tổ chức buổi lễ phát giải viết văn Phật Pháp Ứng dụng, được tổ chức rất thành công vào ngày 11 tháng 12 năm 2022 tại Seafood World đều nhận thức rõ về việc nhớ ơn này. Sự việc là Ni sư với mối lo canh cánh đêm ngày trong tâm tư phải làm sao để sớm xây dựng lên ngôi chánh điện cho chùa Hương Sen, sau bao đêm ngày Ni sư dốc hết công sức ra tổ chức một buổi gây quỹ, đem lại thành công ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên về phần chi phí điều hành cho dịp này cũng không phải là một con số chi tiêu nhỏ, nhưng với tất cả những người đã đóng góp công sức cho ngày hôm đó, cũng như với tấm lòng nhân hậu sẵn có, sau buổi lễ, Ni sư đã làm cho tất cả những người cộng sự đều không khỏi sững sờ ngạc nhiên về việc Ni sư không quên sự nhớ ơn dành cho những người đã từng giúp đỡ mình bằng một sự đền ơn rất bất ngờ khó tả. Bản chất nhân hậu của Ni sư là như vậy đã từ bao lâu nay, người không chỉ thường xuyên ghi nhớ ân nghĩa của họ trong lòng mà người còn thường xuyên thăm hỏi tất cả những người này trong thời gian lâu dài sau đó. Ni sư Giới Hương với tấm lòng bao dung và độ lượng. Duyệt qua những văn từ, văn bản mà Ni sư Giới Hương vốn là một cây bút lão luyện, người đã từng thể hiện cho thấy, ở nơi người, là cả một tấm gương trong sáng về đức tính khiêm nhường, nhất là về sự kiêu ngạo và tinh thần tự mãn, nếu là một người vốn có sẵn những đức tính đó thì thường thường họ rất khó dành sư bao dung được cho người khác. Một người độc đoán khi nghe thấy lời phê bình của người khác cũng sẽ khó chịu, thậm chí lập tức đối đầu. Người nhân hậu mang tấm lòng bao dung như Ni sư, thì có một tâm thái cao thượng, ở đâu cũng khiến cho không khí trở nên hòa hoãn, an hòa như tấm gương cao đẹp mà Ni Sư đã từng hấp thụ từ tấm gương sáng ngời của Sư Bà Hải Triều Âm.
Chưa bao giờ chúng tôi thấy Ni Sư Giới Hương tỏ ra trách móc, hay giận dỗi bất cứ một ai. Ở nơi người là sự chu toàn qua cung cách làm tròn bổn phận của bản thân và cũng là cả một đại dương vô ưu, thương yêu hoan hỉ, cho nên trong mọi công việc, người luôn luôn hăng hái, cầu toàn, nhưng lại là một tiến trình hoàn toàn thoải mái, chỉ cần làm cho xong một công việc trong một tình huống hoàn toàn chu đáo. Một số hình ảnh sinh hoạt của Ni sư cùng Chư ni tại chùa Hương Sen:
Cùng Chư Ni làm sân đậu xe, dọn dẹp sân vườn
Chư Ni san đất làm bãi đậu xe
Cùng Chư Ni và Phật tử làm hàng rào
Ni sư Giới Hương (phải) cùng chư Ni đệ tử cắt cỏ sân sau Chùa Hương Sen
9. Hương Thơm Lan Tỏa Từ Một Vị Nữ Tu Kỳ TàiChỉ trong một thời gian chưa tới mười năm tính từ năm 2014 cho tới hôm nay nếu người viết nhớ không lầm thì ngày đó, ở một nơi sơn cùng thủy tận giữa chốn sa mạc vắng vẻ hoang vu, chỉ có một căn nhà hiu quạnh nằm chơ vơ giữa vùng sa mạc đầy gió cát. Căn nhà đơn sơ mộc mạc đó chính là ngôi chùa Hương Sen bây giờ do Ni Sư Giới Hương, một tu sĩ khiêm nhu bé nhỏ tự thân tìm tới cư trú rồi thành lập với hai bàn tay trắng, với một đoàn Ni chúng chỉ có năm bảy vị tất cả là phận nữ nhi chân yếu tay mềm, căn nhà nằm trên một khu đất nhấp nhô núi đồi rộng chừng 03 mẫu đất. Từ xa nhìn tới, bên cạnh con đường quanh co gập ghềnh đá sỏi cát bay bụi mù vào những ngày hè nắng cháy nơi vùng quê hẻo lánh, không ai có thể mường tượng ra được hình ảnh uy nghi sau này của một ngôi chùa mọc lên lừng lững với lá đạo kỳ tung bay phất phới. Đó là ngôi chùa Hương Sen. Vị trụ trì là Ni Sư Giới Hương - Người lãnh đạo còn rất trẻ. Sau thời gian dài anh em chúng tôi đến tình nguyện phục vụ, chúng tôi dần dần nhận ra nhiều đức tính cao quý của vị Ni sư trẻ ngoài phong thái đạo hạnh an hòa, Ni sư còn tỏa ra tiêu biểu với một tính tình trung thực. Ni sư là một người lãnh đạo gương mẫu và chưa bao giờ Ni sư nói sai sự thật, luôn luôn làm đúng và đứng đắn trong tất cả mọi tình huống, đặc biệt là trong những tình huống khó khăn và có nhiều căng thẳng phải lo lắng. Thêm vào đó còn là tinh thần làm việc tập trung tận tụy. Ni sư lãnh đạo từ Ni chúng cho đến mọi sự việc trong ngôi chùa bé nhỏ cho đến sau này có thêm nhiều vấn đề hệ trọng thì Ni sư lại tỏ ra có nhiều tinh thần trách nhiệm cùng với sự tận tụy trong tất cả mọi công việc để giữ cho mọi công việc được luôn ổn định và tốt đẹp. Ni sư là một nhà lãnh đạo quan tâm đến sự việc biết lắng nghe. Người lắng nghe những ý kiến của tất cả mọi người,
từ gần tới xa, từ thân cận cho đến những vị đối tác để có thể đưa ra những quyết định luôn luôn đúng đắn và thích hợp. Có rất nhiều trường hợp thường xảy ra những bế tắc bất ngờ nhưng Ni sư tỏ ra là một người có ưu điểm sáng tạo. Người có đầy đủ khả năng đưa ra những ý tưởng mới, những sáng tạo đổi mới để đưa mọi việc Phật sự đi đến thành công. Ni sư là bậc đầy khả năng quản lý thời gian. Người phân chia thời gian thích hợp để giúp hoàn thành công việc sao cho đúng với thời hạn ấn định nên thường tránh được tình trạng bị quá tải công việc. Điển hình là sự kiện tổ chức buổi phát giải thưởng Phật Pháp Ứng Dụng từ phân bổ việc đọc bài chấm thi, sửa lỗi chính tả, xếp hạng, phân phối khách mời kể cả các thí sinh, khách mời từ những tiểu bang rất xa, diễn văn, ẩm thực, văn nghệ, thù tiếp các giới báo chí truyền thông, các nhà mạnh thường quân, xổ số, v.v và v.v, nhiều vô số kể. Nhưng Ni sư với bản chất điềm đạm, kiên nhẫn và nhất là với tinh thần hòa đồng, tất cả cũng diễn ra tuần tự lớp lang không hề có bất cứ sự cố nào với một buổi tiệc chay có hơn bảy tám khách tham dự. Thật là một nhà lãnh đạo kỳ tài. Tính tình của Ni sư luôn luôn linh hoạt trong vai trò quản lý lãnh đạo, giải quyết thích nghi qua mọi tình huống, để đáp ứng nhanh chóng với các thay đổi trong môi trường nhiều phức tạp và tế nhị. Tóm lại, với một khả năng lãnh đạo kỳ tài Ni sư am tường cung cách thúc đẩy các cộng sự viên, giúp đem tới cho họ phát triển được bản thân và đóng góp tích cực cho những nhu cầu cần thiết cùng với tính công bằng, Ni sư còn là một nhà lãnh đạo dồi dào tính công bằng và trung thực trong quản lý và đối xử với tất cả hàng đệ tử, không phân biệt, đối xử bất công tạo ra những ngộ nhận hiểu lầm. Ni sư Giới Hương quả là một nhà lãnh đạo kỳ tài. Bên cạnh đó, không thể không đề cập đến các hạnh nguyện chuyên cần tu đạo, cùng với thiện tâm cứu đời, thương người và quan trọng hơn hết là sở nguyện mong ước về việc kiến tạo và xây dựng được một ngôi tam bảo hoàn bị cho chùa Hương Sen mà Ni sư ngày đêm ấp ủ, luôn luôn canh cánh bên lòng. Hạnh nguyện tu đạo, cứu đời và thương người này vốn là những giá
trị quan trọng trong tâm nguyện của Ni sư, tuy người không bao giờ nói ra, nhưng ai cũng biết Ni Sư có một ý thức vô cùng sâu sắc của một người trí thức lúc nào cũng chỉ mong chăm lo cho chúng sinh, cho con người. Bản thân của Ni sư sống đơn sơ mộc mạc, coi thường những giá trị hay nhu cầu bình dị thường ngày và người chỉ mong muốn sống đạo và thực hiện tất cả những công việc thiện lành theo gương sáng và lời dạy của đức Thế Tôn trên con đường giải thóat khỏi đau khổ và đạt tới được sự giác ngộ. Cứu đời và thương người là việc làm quan trọng không chỉ riêng của một Phật tử, nó lại càng quan trọng hơn tất cả của một vị chân tu như Ni sư nhằm hướng đến việc giúp đỡ người khác thóat khỏi những đau khổ, hệ lụy vây quanh cuộc đời, đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh. Các sở nguyện về việc kiến tạo và xây dựng ngôi chùa Hương Sen của Ni sư là một hạnh nguyện lớn lao đại sự không phải ai cũng có thể thực hiện. Nhưng đối với Ni sư Giới Hương thì đó chính là mục đích cao cả mà người sẽ chắc chắn hoàn tất được trong một ngày xa để giúp cho Phật tử và những người có nhu cầu tìm hiểu về đạo pháp có một nơi chốn linh thiêng để cầu nguyện, để học tập và để rèn luyện tâm hồn. Tuy nhiên, việc xây dựng một ngôi chùa tươm tất có thể sẽ gặp phải một số các trở ngại như vấn đề về ngân sách bắt buộc phải biết cách dự liệu tới sự đòi hỏi một chi phí lớn. Điều này Ni sư là người am tường hơn ai hết và người sẽ có kế hoạch để giải quyết trong tương lai. Rồi đến các vấn đề về pháp lý, cần phải đáp ứng các yêu cầu qui định bởi chính quyền địa phương như việc xin cấp giấy phép xây dựng, việc tuân thủ bảo vệ môi trường, việc đảm bảo an toàn khi tiến hành xây dựng. Tiếp đến là các vấn đề về xã hội. Xây dựng một ngôi chùa qui mô có thể sẽ gây ra một số những sự tranh cãi trong cộng đồng địa phương, đặc biệt là nếu dự án đòi hỏi sử dụng một diện tích đất lớn như chùa Hương Sen trước đây chỉ có 3 mẫu, giờ đây diện tích đã lên tới cả 10 hecta. Do đó, lại cần phải tìm cách thuyết phục hoặc sự hòa giải với cộng đồng địa phương để đạt được sự ủng hộ. Tiếp theo là vấn đề về
thời gian cũng là một thử thách rất cần phải lưu ý. Xây dựng một ngôi chùa mới không thể diễn ra trong một sáng một chiều, nó phải đòi hỏi một kế hoạch chu toàn với một năng lực chỉ đạo với trí thông minh, bản lãnh. Ni sư Giới Hương có thừa đủ những yếu tố cần thiết cho việc này. Đó chính là một viễn cảnh đẹp đẽ của một tâm hồn tỏa sáng của Ni sư.
Bố thí cho chim ăn trên Sông Hằng Ấn Độ
Cùng các em học sinh Ấn Độ
Quây quần bên Tháp Chuông Hương Sen
Chư ni Học trò dâng hoa tặng Ni sư Giới Hương nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2027
10. Kết LuậnTrước khi cuốn sách hạn hẹp này khép lại, người viết ước mong được gởi tới quí độc già xa gần, cho dù người đọc thuộc các tôn giáo khác nhau về những chứng tích, những dữ liệu sống động, có thể là chưa được hoàn toàn đầy đủ về tài năng, về công hạnh Đạo - Đời, về tinh thần tuyệt đối vì tha nhân cống hiến và sáng tạo cùng những gương sáng được từng ngày thể hiện của Ni Trưởng Thích Nữ Giới Hương qua một chặng đường chưa dài nhưng không quá ngắn mà Ni sư Giới Hương đã miệt mài đi qua từ năm 1978 đến năm 2022 và hầu như sẽ còn tiếp tục đi mãi trong cuộc sống tu hành đầy kham nhẫn, với một hạnh nguyện hoàn toàn qua nhiệt tình cống hiến, mà chưa bao giờ Ni sư màng tới điều gì tư lợi cho bản thân của Ni sư khiến cho không phải chỉ riêng người viết vô cùng kính ngưỡng mà còn biết bao người đã từng có cơ hội tiếp xúc với Ni sư cũng đều có cảm quan ngưỡng mộ như vậy. Nói một cách chân thành, Ni sư là người sẵn có một căn phần nhiều phước báu và có thuận duyên hoằng pháp. Người viết xin tóm lược lại những ý chính về Ni Sư khả kính Giới Hương như sau: * Tự thân của Ni sư Giới Hương là người được các giới Tăng, Ni khắp nơi vinh danh là đồng chơn nhập đạo (xuất gia từ bé). Vì ngay từ khi còn tấm bé, tự ý Ni Sư đã nảy sinh ra tư tưởng xin phép song thân phụ mẫu để xin xuất gia, xuống tóc nương cầu cửa Phật và thật là may mắn, Ni sư đã nhận được sự đồng ý của tất cả mọi người trong gia tộc và họ hàng, tất cả, vốn nổi tiếng đều là những Phật tử thuần thành đạo hạnh, cho nên việc xin phép xuất gia của Ni sư cũng chính là sự mong cầu của tất cả mọi người. * Bản chất của Ni Sư là người lúc nào cũng nhu hòa hiền dịu, hòa đồng và khiêm cung từ ái, thích sinh sống ở những nơi xa xôi tĩnh lặng, thanh thóat, hòa nhập và gần gũi với núi non cây cối thiên nhiên như trong cảnh giới thóat tục, không động
loạn... Tâm hồn lúc nào cũng hướng thượng với một quan niệm an bần lạc đạo, suy nghiệm sâu dầy tín lý Phật Đà.
* Ni sư thành lập Tủ sách Bảo Anh Lạc: uyên bác thâm sâu kinh, luật, luận từ năm 2004 đến nay. Năm 2000, Ni sư đã thành lập chùa Hương Sen, Bình Chánh, Sài Gòn (Việt Nam) và năm 2010 - đến nay, Ni sư đã khai sơn thành lập và Trụ Trì chùa Hương Sen, thành phố Perris, tiểu bang Cali, Hoa Kỳ. Ni sư Giới Hương thích trầm tư Phật pháp và đã thành lập tủ sách Bảo Anh Lạc. Tính đến năm 2023, tủ sách đã có 73 tác phẩm và dịch phẩm song ngữ Anh Việt, cũng như phát hành nhiều đĩa ca nhạc Phật giáo từ năm 2004 đến nay. Chương 7 “Những Cống Hiến Qua Sáng Tác” đã giới thiệu về Tủ Sách Bảo Anh Lạc hoặc quý độc giả có thể xem chi tiết ở link này: http://www.huongsentemple.com/index.php/kinh-sach/tu- sach-bao-anh-lac
Sân trước Hương Sen
Ni sư Giới Hương (ngồi) và Chư Ni đệ tử
Khóa tu học mỗi chủ nhật đầu tháng
Thiền hành dưới nắng mai (Ni sư Giới Hương đi đầu)
Qua cầu Giác Ngộ
11. Nhạc Hoa Giới Hương Tâm KhúcTrước khi thay cho lời cuối, tác giả xin mạn phép phổ một bản nhạc kính ngưỡng dâng lên Ni Trưởng Thích Nữ Giới Hương, Trụ Trì Chùa Hương Sen, California, Hoa Kỳ, cũng như thành tâm kính tặng tất cả Chư tôn đức Ni và Nữ Phật tử trên khắp thế giới: Hoa Giới Hương Tâm KhúcSáng tác : Nguyên Hà Trình bày : Ngọc Quy & Phạm Khánh Ngọc Hòa Âm : Quang Đạt Back Round : Cadillac Music Group E-mail : This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Trước khi cuốn sách mộc mạc mang tựa đề là “Giới Hương- Thơm Ngược Gió Ngàn” này khép lại, người viết mong có ước nguyện duy nhất là ghi lại được phần nào rất nhỏ những cảm nghĩ chân thành của bản thân về một vị nữ chân tu luôn sống một cuộc đời gương mẫu, bình dị cho bản thân, nhưng với những lý tưởng về đạo pháp, về cuộc đời, Ni Sư đã tận tâm cống hiến và thực hành tất cả những điều tốt đẹp nhất cho những lý tưởng nói trên, nhất là cho cuộc đời và cho cả nhân loại (nếu có thể được gọi là như thế vì chúng tôi thiết nghĩ, hạnh nguyện cao cả của Ni sư kinh qua từng đó năm tháng tu hành, vốn dĩ đã là như thế) mà trong thời gian ngắn ngủi vừa qua chúng tôi được tận mắt chứng kiến và hân hạnh được chia sẻ chỉ với một phần nào trong trọn cuộc sống hy sinh, thanh bạch và cống hiến của Ni Sư. Đó cũng chỉ là qua một vài sự kiện tiêu biểu.
Cho đến hiện tại hôm nay (tháng Hai năm 2023) quả nhiên Ni sư Giới Hương là một trong những nhân vật nổi tiếng và được tôn vinh trong cộng đồng Phật giáo không chỉ ở Hoa Kỳ, mà còn ở khắp nơi trên thế giới. Với đức hạnh, tài năng và nỗ lực không ngừng nghỉ của mình, Ni Sư đã dẫn dắt chùa Hương Sen trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hóa đáng kính ngưỡng mộ trên đất Mỹ. Ni sư Giới Hương đã dành trọn cả cuộc đời để đề cao và khuyến khích sự tôn trọng, yêu thương và giúp đỡ những người cần được giúp đõ. Người đã tận tâm truyền đạt các giá trị Phật giáo đến với người Mỹ và ngay cả những người nước ngoài, đồng thời còn tạo ra những chương trình giáo dục tân tiến, từ thiện và văn hóa có ảnh hưởng lớn lao đến cả xã hội. Ni sư cũng là một trong những nhân vật nữ có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Phật giáo, bởi vì người luôn luôn tìm cách giúp đỡ và truyền đạt niềm cảm hứng cho hàng ngàn phụ nữ khác theo đuổi con đường tâm linh và đạt được sự giải thóat giác ngộ. Mặc dù Ni sư đã có nhiều thành quả đáng kính trong cuộc đời của mình, nhưng người vẫn luôn giữ một phong thái khiêm nhu khả kính, một trái tim nhiệt thành và một tinh thần phục vụ hăng hái phi thường với những ước nguyện tương. Ni sư tâm nguyện và hy vọng rằng ngôi Tam bảo Hương Sen sẽ được tiếp tục phát triển và cho dù sớm hay muộn, ngôi chùa này sẽ trở thành một ngôi chùa qui mô hơn, hoàn bị hơn, rộng lớn hơn, một nơi chốn tâm linh mà tất cả mọi người đều có thể tìm ra niềm an lạc, sự an ủi, niềm hy vọng và niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Với những đóng góp vĩ đại cho đạo pháp, cho cộng đồng và cho lòng từ bi với sự tận tâm cống hiến cho giáo đồ, Ni sư Giới Hương đã trở thành một biểu tượng vàng son lộng lẫy của lòng nhiệt tâm và đức hạnh. Cuốn sách “Giới Hương-Thơm Ngược Gió Ngàn” là một bức tranh tuyệt đẹp về sự sống động và sáng tạo của một người nữ chân tu tuyệt vời và là một tấm gương trong sáng cao đẹp cho tất cả chúng ta.
Đây chính là một tấm gương vô tiền khóang hậu chứa đựng một mục tiêu duy nhất trong cuốn sách đơn sơ bé nhỏ này, hy vọng sẽ đem lại đôi điều tốt đẹp để chúng ta cùng soi chung. Tuy nhiên trong bất cứ tác phẩm nào cũng có thể có những điều sai sót. Vì vậy, nếu có điều gì không được hoàn bị hay thiếu chính xác, ước mong quí vị hoan hỉ bổ khuyết và niệm tình thứ lỗi. Tác giả, Nguyên Hà.
Lễ Vu Lan tại Chùa Hương Sen
Tăng đoàn Châu Âu cùng Chư Ni và Phật tử Chùa Hương Sen chụp trước sân Chùa Hương Sen của Chùa Hương Sen
Ni sư Thích Nữ Giới Hương
1. Công Đứccủa Người Xuất Gia (Thích Nữ Giới Hương sưu tầm)
KINH HIỀN NGU“Công đức của sự xuất gia cao hơn Tu-di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Tại sao như vậy? Vì xuất gia quyết định thành Phật”. KINH ÚC-GIÀ TRƯỞNG GIẢ“Tại gia thì ô nhiễm, xuất gia thì thanh tịnh; tại gia neo buộc, xuất gia giải thóat…” KINH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI VẤN“Tại gia thì tăng thêm phiền não, xuất gia thì giải thóat. Tại gia là vào trong rừng chông gai gươm giáo, xuất gia là ra khỏi rừng chông gai gươm giáo…” KINH TÂM ĐỊA QUÁN“Sự xuất gia khó nhất là giữ giới. Giữ giới được mới gọi là xuất gia.” LUẬT THIỆN KIẾN“Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật còn thì Phật pháp còn.”
Giới là cửa ngõ đi đến giải thóat, là năng lượng duy trì, bảo vệ cộng đồng Tăng-già. Một vị xuất gia giới hạnh thanh cao là hình ảnh, là tín hiệu cho sự sống còn của Giáo đoàn dù bất cứ nơi đâu, hay ở xứ sở nào. TÂM NGUYỆN XUẤT GIA CỦA TÔN GIẢ A NAN“Thế giới độc ác đầy cả năm trược, con thề bước vào trước hết. Nếu còn một chúng sanh chưa thành Phật, thì con thề không bao giờ hưởng lấy niết-bàn.” KINH DIỄN ĐẠO TỤC NGHIỆP“Người xuất gia là người tôn quý cao nhất, là người vô thượng, người không ai sánh bằng, người không ai ngang vai: người ấy là bậc đại hùng lực giữa thế gian, độc bộ vô lữ.” KINH CÔNG ĐỨC NGƯỜI XUẤT GIA(Abhiniṣkramaṇa-guṇa-sūtra, quyển 1, phụ lục thời Đông Tấn (Tam Tần), Đại Chánh 16, số hiệu 707, trang 813) Kinh kể về một vương tử tên là Dũng Quân (tên phiên âm Tỳ- la-tiễn-na ‘Vīrasena’) thuộc giai cấp qúy tộc Lê-xa (Licchavi), cư ngụ tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśāli). Ví như ở cõi trời, chư thiên và thiên nữ vui chơi thì đời sống chàng vương tử này cũng vậy, ngày đêm sống hưởng lạc, vui chơi đam mê sắc dục cùng các mỹ nữ. Nhân một hôm đến giờ thọ trai, đức Phật vào thành khất thực, Ngài dùng Nhất thiết trí mà nghe được âm thanh vui đùa của vương tử Dũng Quân và các mỹ nữ đang vui chơi trên lầu. Đức Phật biết vương tử Dũng Quân sau bảy ngày nữa thì mạng chung sẽ đọa địa ngục. Ngài mới dạy A-nan đến nhà Dũng Quân khuyên bảo nên sớm giác ngộ xuất gia để lúc mạng chung tránh sự đọa lạc. Vâng lời chỉ dạy của Phật, A-nan đến gặp vương tử
Dũng Quân khuyên: “Này bạn! Sau bảy ngày nữa bạn sẽ chết. Nếu bạn ở trong ngũ dục không giác ngộ, không xuất gia, thì lúc mạng chung bạn sẽ đọa địa ngục. Phật là bậc Nhất thiết trí, chánh ngữ chánh thuyết đã nói về bạn như thế. Ví như ngọn lửa thiêu đốt mọi vật, thảy đều không sai. Bạn nên suy nghĩ cho kỹ.” Vương tử Dũng Quân nghe nói vậy quá lo sợ, buồn rầu, sầu muộn không vui rồi nói: “Theo lời chỉ dạy của Tôn giả, tôi phải xuất gia nhưng tôi muốn thọ hưởng khóai lạc thêm 6 ngày nữa, đến ngày thứ 7 tôi sẽ giã từ người thân, quyết định xuất gia.” Đến ngày thứ 7, vương tử Dũng Quân xin Phật xuất gia. Qua một ngày một đêm Dũng Quân tu trì tịnh giới rồi mạng chung. Sau khi hỏa thiêu hương khói xong, A-nan cùng thân quyến của Dũng Quân đến hỏi Phật, thần thức của vương tử Dũng Quân đi về đâu? Phật dạy: vương tử Dũng Quân trong một ngày một đêm tu trì tịnh giới xả bỏ cõi đời này sinh về trời Tứ thiên vương… vui chơi thọ 500 tuổi, rồi mạng chung sinh về cõi trời Ba mươi ba… tuổi thọ kéo dài 1000 tuổi; số tận sinh về Diệm thiên… thọ 2 ngàn tuổi... sinh về cung trời Đâu-suất… thọ 4 ngàn tuổi. Sinh lên Tự tại thiên… thọ 8 ngàn tuổi. Hết 8 ngàn tuổi mạng chung sinh về trời Tha hóa tự tại… thọ một vạn sáu ngàn tuổi. Thọ lạc như vậy qua lại 7 lần trong 6 cõi trời dục. Do một ngày một đêm xuất gia nên mãn 20 kiếp, không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; thường sinh thiên, nhơn, thọ phước tự nhiên. Trong loài người kiếp cuối cùng sinh vào nhà giàu có sung sướng, tài sản phong phú, chân bảo đầy đủ… song Dũng Quân nhàm chán ở đời, xuất gia cạo bỏ râu tóc, thân khóac pháp phục, siêng tu tinh tấn, giữ 4 oai nghi, thường hành chánh niệm, quán ngũ ấm, khổ, không, vô ngã, hiểu pháp nhân duyên, thành Bích-chi Phật, hiệu là Tỳ-lưu-đế; lúc ấy Ngài phóng hào quang lớn có nhiều người, chư thiên được thiện căn và giúp các loài chúng sanh trong ba thừa được giải thóat. A-nan lại thưa hỏi đức Phật, nếu có người độ người xuất gia, người ấy xuất gia gánh vác mọi việc thì được bao nhiêu phước đức? Và nếu có người gây trở ngại người khác xuất gia thì thọ
tội báo gì? Phật dạy, công đức của người xuất gia không thể nói hết, nếu họ sinh thiên, hay trong loài người thường làm quốc vương, thọ hưởng hạnh phúc nhơn, thiên. Nếu ai giúp người xuất gia vào trong pháp Sa-môn thì dù ở trong sinh tử người ấy vẫn hưởng an lạc, hạnh phúc… Còn nếu gây trở ngại phương hại chuyện người khác xuất gia thì người đó bị cướp mất kho tàng vô tận thiện tài phước báu… thọ vô lượng tội. Phật lại bảo A-nan: Nếu có các bậc A-la-hán trong bốn cõi nhiều như lúa cỏ, rừng rậm, rồi có người nào ở trong đó đủ 100 tuổi tận tâm cúng dường những vị A-la-hán này những thứ như: y phục, thức ăn, nước uống, thuốc thang… cho đến sau khi các vị ấy niết-bàn, lại xây dựng tháp miếu, dùng đủ loại chân bảo, hoa hương, châu ngọc… cúng dường, và dùng kệ tụng tán thán, thì công đức này không bằng người xuất gia thọ giới dù chỉ một ngày một đêm tu trì. Công đức xuất gia được 16 phần, công đức trước chỉ một phần. Khi ấy, cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp không ai mà không nhàm chán cảnh đời; họ xuất gia trì giới, có người đắc Tu-đà-hoàn, thậm chí có người đắc quả vị A-la-hán, có người gieo hạt giống Bích-chi Phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ- đề. Mọi người rất vui mừng đảnh lễ phụng hành. Ý NGHĨA TĂNG ĐOÀNPhải bốn người xuất gia trở nên lên cùng sống chung hòa hợp thì mới gọi là Tăng đoàn. Ðó là “hòa giai cộng trụ,” không tranh không chấp. Một người xuất gia sống đơn độc không thể gọi là Tăng.
ra Giang bắc, một xuôi về Giang nam.
“Tinh lực dồi dào thì không cảm thấy lạnh. Khí lực sung túc thì không cảm thấy đói. Thần lực đầy đủ thì không cảm thấy mệt.”
năm mươi ấm ma kéo đi.
“Chuyên nhất thì linh. Phân tán thì bị ngăn ngại”.
(Nguồn: Internet)
2. Phạm HạnhCủa Người Xuất Gia Nguyên Hùng
VÌ SAO BẠN XUẤT GIA? Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống thế tục để xuất gia là do bị rơi vào một trong bốn trường hợp: bệnh tật ốm đau, già nua lụn bại, phá sản và gia đình đổ vỡ. Thế nhưng, vua Koravya quán sát thì Tôn giả Raṭṭhapālo xuất gia hoàn toàn không phải rơi vào một trong bốn trường hợp kia. Vậy thì vì lý do nào, vì một suy vi nào khả dĩ khiến Raṭṭhapālo, con nhà hào phú, cha mẹ nuông chiều, lại quyết chí xuất gia? Lại-tra-hòa-la (Raṭṭhapālo), một thanh niên con nhà giàu, ở thôn Thâu-lô-tra, trong một lần đi nghe Phật thuyết pháp đã phát tâm xuất gia, nhưng gặp sự chống đối của gia đình. Lại- tra-hòa-la đã phải tuyệt thực để tỏ ý chí quyết tâm xuất gia của mình. Gia đình đã huy động hết người thân quyến thuộc và cả bạn bè của Lại-tra-hòa-la đến để khuyên anh từ bỏ ý định xuất gia, sống đời dục lạc mà bố thí, sung sướng tu phước nghiệp, nhưng Lại-tra-hòa-la nhất định không thay đổi lập trường. Cuối cùng gia đình phải nhượng bộ, chấp nhận cho anh xuất gia với hy vọng anh sẽ không thể sống nổi đời sống phạm hạnh mà bỏ đạo hoàn tục. Thế nhưng, Lại-tra-hòa-la không những không bỏ đạo mà còn thành tựu được lý tưởng, đạt đến mục đích mà một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, là chỉ cầu hoàn thành vô thượng phạm hạnh, ở ngay đời hiện tại này tự tri, tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ, chứng quả A-la-hán. Khoảng chín, mười năm sau,
Lại-tra-hòa-la xin phép Thế Tôn trở về quê thăm cha mẹ. Trong lần trở về quê thăm gia đình, cha mẹ Lại-tra-hòa-la lại đem tài sản chất đống giữa nhà và một lần nữa khuyên Tôn giả bỏ đạo. Tôn giả khéo léo thuyết pháp độ cho cha mẹ rồi ra đi. Từ đó, danh thơm khắp cõi, khiến vua Koravya ngưỡng mộ muốn được thân cận, đảnh lễ. Trong cuộc diện kiến ấy, Tôn giả Lại-tra-hòa-la cho biết, do thấy, nghe, hiểu biết từ Như Lai bốn tướng của thế gian: Thế gian này không được bảo vệ, không đáng nương tựa; thế gian này nhất thiết phải đi đến sự già nua; thế gian này không thường, cần phải bỏ đi; thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là tôi tớ của ái, nên đã xuất gia. Vua Koravya sau khi nghe Tôn giả Lại-tra-hòa-la phân tích về bốn tướng của thế gian thì cũng muốn nhẫn lạc như Tôn giả!1 Lại-tra-hòa-la trước khi đi tu đã ý thức rằng sống tại gia bị tù hãm trong những sự phiền tỏa, không thể trọn đời thanh tịnh tu hành phạm hạnh được. SỐNG ĐỜI PHẠM HẠNHXuất gia là để trọn đời thanh tịnh tu hành phạm hạnh, tức là suốt đời giữ giới, phòng hộ căn môn, nuôi mạng thanh tịnh và chánh niệm tỉnh giác. Đó là những phẩm tính cao thượng của một thánh giả A-la-hán. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, quý thầy quý cô mà chúng ta thấy hàng ngày, chưa có ai chứng quả thấp nhất, nhưng nếp sống hàng ngày của họ là sống noi theo nhân cách, phạm hạnh của một bậc thánh Vô sanh. Nhân cách ấy bắt đầu bằng đời sống khép mình vào giới luật. Giới luật và các thiên oai nghi chính là những cầu phao nâng đỡ những bước chân yếu đuối tiếp tục đứng vững và đi tới trên đường về bảo sở, vượt trùng dương sanh tử, luân hồi. Biển sanh tử ở đâu? Ở trong con mắt! Mắt là biển lớn của con người và sắc kia là sóng cả. Nếu người nào chịu nổi sắc ba đào thì sẽ vượt qua bờ bên kia của biển cả của mắt, với các
sóng cả, các dòng xoáy, sâu trùng độc hại và nữ quỷ La-sát. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý; chúng là biển cả của con người, âm thanh, mùi hương, vị, xúc chạm và pháp là sóng cả. Nếu ai kham chịu nổi pháp ba đào này thì sẽ vượt qua bờ bên kia của biển cả của mắt, với các sóng cả, các dòng xoáy, sâu trùng độc hại và nữ quỷ La-sát. Những ai “đối với sắc được nhận thức bởi mắt mà có ái niệm, đắm nhiễm; do ái niệm, đắm nhiễm, thường y trên thức và bị nó trói buộc, bị nó giữ chặt, nên không thể nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.”2 Cho nên, chúng ta phải luôn luôn hộ trì 6 căn, đừng để 6 cảnh đắm nhiễm, gọi là phòng hộ căn môn. Cũng như con rùa sống trong bụi cỏ ven sông. Hôm nọ, có một con dã can đói đi tìm thức ăn, vừa thấy con rùa, nó vội nhảy tới vồ lấy. Con rùa thấy vậy, liền thu hết đầu đuôi và bốn chân vào trong mai. Dã can canh đợi con rùa thò đầu, chân ra là chụp ăn liền. Nhưng chờ lâu quá, mà nhất định rùa không thò đầu và chân ra. Dã can đói quá, tức tối bỏ đi. “Này các Tỳ-kheo, ngày nay các ông cũng lại biết như vậy. Ma Ba-tuần luôn luôn dò xét tìm cơ hội bên các ông. Mong đợi mắt các ông đắm sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhớ pháp mà xúi giục sanh tâm đắm nhiễm sáu trần. Cho nên Tỳ-kheo, các ông phải luôn luôn giữ gìn luật nghi của mắt. Khi đã giữ gìn an trụ nơi luật nghi của mắt rồi, dù mắt có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa thì ác Ma Ba-tuần cũng không thể tìm được cơ hội. Tai mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Dù sáu căn kia có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa, thì chúng cũng không thể tìm được tiện lợi. Giống như con rùa, dã can không thể tìm được cơ hội nào.” 3
NUÔI MẠNG THANH TỊNHMỗi người trong xã hội ai nấy đều có vai trò, trách nhiệm, công việc, nghề nghiệp của mình để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và xây dựng xã hội. Còn người xuất gia nuôi sống thân mạng bằng cách nào? Vua Ajātaśatru đã từng hỏi Đức Thế Tôn: “Những người xuất gia làm gì? Kết quả thiết thực hiện tại của Sa-môn là gì?”4 Người xuất gia không cần phải cấy cày, không dệt vải mà vẫn có cơm ăn, có áo mặc, đó là lợi ích của người xuất gia sao? Không những thế, họ có cả chùa to, nhà lớn, phòng ốc tiện nghi, đó là lợi ích của người xuất gia? Có người được quốc vương đại thần ủng hộ, tín đồ thí chủ cung kính, trên không bị quan bắt đi lính, dưới không bị thứ dân quấy nhiễu mà lại được tự nhiên vui vẻ, thanh nhàn, phóng khóang, đó là lợi ích của người xuất gia? Người xưa có bài kệ rằng: “Hạt gạo của thí chủ Lớn tựa núi Tu di Nếu đạo lớn không thành Mang lông đội sừng trả”. Xem đây đủ thấy, người xuất gia nếu vì cơm áo, chỗ ở, danh lợi mà đi tu thì đang ở trong đại họa mà không biết! Cái gọi là lợi ích của người xuất gia chính là có thể giải thóat được phiền não, dập tắt được vô minh, chứng được vô sanh pháp nhẫn, liễu thóat sanh tử luân hồi, đó mới là việc làm tối thắng, cao quý hơn hết, trong loài trời, người. Nếu không được như vậy, dù có giàu có đến thiên vàng vạn bạc, cho đến được vinh hiển làm quốc sư cho bảy đời hoàng đế đi nữa cũng chẳng có lợi ích gì để bàn! Thực ra, phương tiện nuôi sống sinh mạng của người xuất gia đơn giản là theo truyền thống của chư Phật. Dòng họ chư Phật có bốn sự truyền thừa, đó là che thân bằng ba y phấn tảo, duy trì nhục thân bằng một bình bát, ngủ nghỉ dưới gốc cây, đồng hoang, rừng vắng, hang động, nghĩa địa và vui vẻ đoạn trừ phiền não.5 “Này A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về
bốn Thánh chủng. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nhận được cái y thô xấu mà biết hài lòng, tri túc, không phải vì y áo mà mong thỏa mãn ý mình. Nếu chưa được y thì không u uất, không khóc than, không đấm ngực, không si dại. Nếu đã được y áo thì không nhiễm, không trước, không ham muốn, không tham lam, không cất giấu, không tích trữ. Khi dùng y thì thấy rõ tai hoạn và biết sự xuất ly. Được sự lợi như vậy vẫn không giải đãi mà có chánh trí. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trụ nơi Thánh chúng cựu truyền. Về ẩm thực và trụ xứ cũng như vậy. Mong muốn đoạn trừ, vui thích đoạn trừ, mong muốn tu, vui thích tu. Vị ấy nhân muốn đoạn trừ, vui thích đoạn trừ, muốn tu, vui thích tu nên không quý mình, không khinh người. Sự lợi như vậy, không giải đãi nhưng chánh trí. Đó gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chân chánh an trụ nơi Thánh chúng cựu truyền.”6 TÀI BỒI PHẨM CHẤTThuở xưa, Liên Trì đại sư7 từng nêu mười thiện hạnh của người xưa để người sau soi lấy mà học tập, rèn luyện cho xứng đáng phẩm chất của người xuất gia. Theo đó, người xuất gia phải tự xác định bản thân mình đã từ bỏ mọi sự nhiễm ô của thế tục, nên phải tập sống cho thanh cao, cho giản dị. Nhưng thanh cao mà không nghiêm chính thì chỉ là cái thói làm cao của kẻ cuồng sĩ. Người học Phật nhất định phải thâu nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thanh tịnh thì mới có cơ hội thành tựu đạo nghiệp, cho nên điều thiện hạnh thứ hai phải học là nghiêm chính. Hành vi nghiêm chính cần phải nương nhờ thầy chỉ dạy mới tránh khỏi sai lầm. Người thầy là bậc mô phạm, nuôi dạy ta thành người, cho nên điều thiện hạnh thứ ba là phải kính tôn sư. Có cha mẹ sanh ta, nuôi ta lớn khôn, sau mới có thể tiếp nhận sự giáo dục của thầy, quên mất công ơn cha mẹ là bất hiếu, vong bản. Vả lại, giới hạnh luật nghi tuy rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hiếu hạnh, cho nên, thiện hạnh thứ tư là hiếu thân. Kẻ trung thần xuất thân từ người con hiếu. Đạo lý trung hiếu phải vẹn toàn, chỉ biết có tình thân, không biết có ân quân chủ, quốc gia thì đó là hành vi của người tự tư tự lợi.
Trong sách có ghi: “Một người có phước, vạn dân đều nhờ”, là ý nói khi có một bậc quân chủ đức độ nhiếp chính thì quốc thới dân an, chúng ta nhờ vậy mà có thể được xuất gia, tự do đi lại khắp núi rừng sông suối để ẩn cư tu tập. Ân quốc gia cũng thật lớn thay! Cho nên, điều thiện hạnh thứ năm là phải trung thành với đất nước. Nhưng nếu chỉ biết đến đạo lý trung quân, tức là chỉ giao tiếp qua lại với các cấp chính quyền lãnh đạo, mà không quan tâm đến nhân dân, những người tín chủ đã ủng hộ mình tu tập thì cũng không tròn đạo lý. Nên cần phải nghĩ nhớ đến những người chân lấm tay bùn, nghèo khổ bần cùng, đó là điều thiện hạnh thứ sáu, từ vật. Từ và ái rất gần gũi. Người xuất gia mà sinh lòng ái nhiễm là một điều chướng ngại lớn cho việc tu hành, vì vậy, điều thiện hạnh thứ bảy là phải sống cho cao thượng. Nhưng cao thượng không có nghĩa là cô phương tự phụ. Người xuất gia giữ khoảng cách với mọi người là để yên thân tu tập, một mặt là để trau dồi bản thân, hoàn thành sứ mạng tự độ của mình, sau đó, khi công phu tu tập đã cao thâm rồi thì tự nhiên đạo hạnh sáng rỡ muôn phương, khi ấy là lúc trở lại hóa độ chúng sanh. Đó là điều thiện hạnh thứ tám, cẩn trọng. Cẩn trọng là cẩn thận mà ẩn cư, tìm chốn thanh nhàn vô sự như thế chẳng qua cũng là bất đắc dĩ, vì đạo hạnh chưa thâm, cho nên phải chịu gian khổ, đó là điều thiện hạnh thứ chín. Tuy nhiên, cũng có người sợ sự gian khổ ở ngoài đời mà tìm đến núi rừng, chùa viện để ẩn cư, trốn tránh việc đời, trở nên những kẻ vô công, ăn nhờ cửa Phật, đó không phải là hành vi gian khổ mà là mượn đạo tạo đời, đạo tâm đã thui chột. Một khi đạo tâm đã thối lui rồi thì không việc ác nào lại không dám làm. Kỳ thật, đạo lý nhân quả báo ứng không chừa một ai, dù nhỏ như sợi lông hạt bụi vẫn chưa bao giờ sai khác. Cho nên, người xuất gia không thể không nghĩ đến nhân quả báo ứng, đó điều thiện hạnh thứ mười, cảm ứng, tức là phải luôn luôn ghi nhớ luật nhân quả. Mười điều thiện hạnh trên đây nếu tu tập đầy đủ thì đạo hạnh mới hoàn thiện, mới trở thành nhân tài có thể kham nhận Phật pháp. Cũng giống như đất đai đã được cải thiện phì nhiêu, màu
mỡ rồi sau đó mới có thể trồng cây, gieo hạt được tốt tươi. Đất tâm cũng vậy, một khi đã được tinh thuần rồi thì đạo lý mới có thể tin hiểu, thọ trì; đạo lớn Bồ-đề chí cao vô thượng mới có thể kỳ vọng thành tựu. Nếu không như lời trên đây để tu hành thì chỉ là một phường phàm phu bỉ lậu mà thôi! ĐỜI SỐNG BẨNHàng phàm phu bỉ lậu nấn ná trong chùa gọi là hạng ‘mượn đạo tạo đời’, mà nói theo kinh điển là hạng ‘ố đạo Sa-môn’. Ấy là hạng tuy mang hình thức Sa-môn nhưng tâm chẳng phải Sa- môn, thường chạy theo ngũ dục, đắm chìm trong danh văn, lợi dưỡng, vậy mà tự xưng mình là Tỳ-kheo, là Thượng tọa, Hòa thượng… “chẳng khác nào giống lừa, vào trong bầy bò mà tự xưng: ‘Tôi cũng là bò! Tôi cũng là bò!’ Nhưng hai lỗ tai của nó xem ra lại không giống bò, sừng cũng không giống, đuôi cũng không giống, âm thanh đều khác.”8 Hạng người xuất gia này cũng như vậy, dù được tôn xưng với bất kỳ danh vị nào, họ cũng chẳng phải là Sa-môn. Giả sử có Tỳ-kheo nào nương vào thôn ấp mà sống, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo mang y ôm bát vào thôn khất thực mà không thủ hộ thân, không thủ hộ các căn, không an trú chánh niệm, nhưng vị ấy lại vào nhà người mà thuyết pháp; những pháp hoặc do Phật thuyết, hoặc do Thanh văn thuyết, nhờ đó vị ấy được lợi, như được áo chăn, đồ ăn, thức uống, giường nệm, thuốc thang, đầy đủ các nhu cầu cho sự sống. Sau khi được lợi, vị ấy càng đắm trước xúc chạm mềm mại, không thấy tai họa, không thể xả bỏ, mặc tình thọ dụng. Tỳ-kheo ấy thực hành ác giới, thành tựu ác pháp, đứng sát bờ mé, trở nên tệ mạt, hủ bại, không phải phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, không phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn. Ấy là Tỳ-kheo có đời sống bẩn, sống như loài rái cá, như chim cứu- mộ, kên kên, chim ăn bã, con sói, con quạ. 9
KHÔNG PHẢI VÌ BẦN CÙNG MÀ XUẤT GIALối sống như loài rái cá, như chim cứu-mộ, kên kên, chim ăn bã, con sói, con quạ là sống vì miếng ăn! Xuất gia như thế là vì không sống nổi ở đời bằng chính sức lao động của mình cho nên mới tìm đến cửa chùa sống nhờ tín thí. Với tâm tư như vậy thì không thể nào có hạnh nguyện ‘trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh’. Một người mà tự thân mình không có khả năng nuôi sống thì làm sao có được cái chí nguyện cao cả ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’? Có chăng là tự lừa dối mình, lừa dối thiên hạ?! Thuở ấy, ở Sa-kê-đế có ba thiện gia nam tử là Tôn giả A-na- luật-đà, Tôn giả Nan-đề và Tôn giả Kim-tì-la đều là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu. Cả ba Tôn giả đều là con nhà danh gia vọng tộc, sống trong nhung lụa, giàu sang tột bậc. Khi Thế Tôn đến thăm, Ngài liền hỏi “Tỳ-kheo tu tập có an lạc không”? Vì sao Ngài hỏi vậy? Bởi vì, tất cả các đệ tử của Thế Tôn đều là những người xuất gia học đạo không phải vì sợ giặc cướp, không phải vì sợ nợ nần, không phải vì sợ khủng bố, không phải vì sợ bần cùng, cũng Không phải vì sợ không sống được ở đời mà phải xuất gia học đạo. A-na-luật-đà, Nan- đề và Kim-tì-la là Tam tộc tánh tử10 chắc chắn phải vì lý tưởng cao thượng mà xuất gia, vì nhờm tởm sự sanh, sự già, bệnh tật, sự chết, khóc lóc, sầu khổ, hoặc vì muốn đoạn tận khối khổ đau vĩ đại này nên xuất gia học đạo. Đức Thế Tôn vì mục đích sống an lạc ngay trong đời hiện tại, và vì thương xót chúng sanh đời sau mà sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa. Đệ tử xuất gia và tại gia của Thế Tôn có rất nhiều, rất nhiều người chứng thánh quả. Nhưng không phải vì xu hướng của người mà nói, cũng chẳng phải vì lừa gạt người, cũng chẳng phải vì muốn vui lòng người mà khi đệ tử lâm chung, Như Lai ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sanh chỗ kia. Sở dĩ Như Lai tuyên bố sự chứng đắc quả thánh, hoặc sanh chỗ này, chỗ kia
của các đệ tử là để mọi người biết như thật rằng, nếu những ai thực hành đúng Chánh pháp thì chắc chắn có được lợi ích, có an lạc, giải thóat; và sự tuyên bố đó nhằm để mọi người noi theo, để phần nào sống trong sự an lạc thoải mái, chứ không phải vì danh văn, lợi dưỡng, hay được nổi tiếng. Xuất gia là chấp nhận đi khất thực, đi xin ăn, một sự nuôi sống thấp kém nhất, cùng biên nhất, người đời thường húy kỵ. Vì mục đích gì? Vì mục đích, vì lý tưởng đoạn tận biên tế của khổ đau; vì nhàm tởm, ghê sợ sự sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khóc than, ưu, khổ, áo não. Với tâm như vậy mà xuất gia học đạo, nhưng lại sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu Sa-môn, không phát triển rộng lớn, đó là hạng người lấy máu rửa máu, lấy dơ chùi dơ, lấy bẩn trừ bẩn, lấy phân trừ phân, chỉ tăng thêm ô uế mà thôi, bỏ chỗ mờ mịt để vào chỗ mờ mịt, bỏ chỗ tối tăm để vào chỗ tối tăm.
GIỚI HƯƠNG - THƠM NGƯỢC GIÓ NGÀN Tác giả: Tủ sách Bảo Anh Lạc 73 - Nguyên Hà NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO 53 Tràng Thi – Hoàn Kiếm - Hà Nội ĐT: (024)37822845 Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc ThS. Nguyễn Hữu Có Chịu trách nhiệm nội dung Tổng Biên tập Lê Hồng Sơn
Biên tập: Nguyễn Thị Thanh Thủy Trình bày: Vũ Đình Trọng Sửa bản in: Vũ Đình Trọng
Số lượng in: 1.000 bản, Khổ: 14 x 20 cm In tại: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ In ấn Trâm Anh, 159/57 Bạch Đằng, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Số ĐKXB: 2620-2023/CXBIPH/01-104/TG Mã ISBN: 978-604-61-9717-1 QĐXB: 494/QĐ-NXBTG ngày 07 tháng 8 năm 2023 In xong và nộp lưu chiểu quý III năm 2023 Please read all books: 73-Giới_Hương_-_Thơm_ngược_gió_ngàn-Inside_1.docx
Tủ sách Bảo Anh Lạc
Thư việnÂm nhạc
Pháp âm |