Home Page by K2 Home Page by JSN PageBuilder

 Bài 18. Ứng Dụng Ba Đặc Tính: Vô Thường (anicca), Khổ (dukkha), Vô ...

Trong cuộc sống, cảm nhận buồn vui luôn vây quanh chúng ta; Buồn vui, tốt xấu,
hên xui…đều là những hạt giống tiềm ẩn trong tạng thức, gặp thuận duyên chúng
phát khởi.Cảm thọ đứng vị trí thứ bảy trong thuyết Mười hai nhân duyên, nó ở vị
trí thứ hai trong năm uẩn tạo thành con người.
Những hiện tượng thuận ý hay nghịch lòng luôn xảy ra, thường đem đến vui thích
hoặc đau khổ, đó là những cảm thọ trực khởi.Chúng ta không xét sâu vào nguyên
nhân gốc rễ của chúng; cứ chạy theo hiện tượng khởi sanh cảm thọ, từ cảm thọ tạo
tiếp hạt giống vui buồn, sướng khổ…gieo vào tạng thức, tiếp tục làm nhân cho quả
khi đủ duyên xuất hiện. Trong kinh Chánh kiến (Kaccayanagotta - Ca Chiên
Diên thị, thuộc Tương ưng bộ), Phật dạy chánh kiến là cái thấy trung đạo, duyên
sinh, không rơi vào cực đoan này hoặc rơi vào cực đoan kia.Có nghĩa phải xét
những yếu tố đã tạo nên những nguyên nhân của cảm thọ, mà không chối bỏ trốn
chạy khổ đau, bất toàn hay hoan hỷ chấp nhận những cảm thọ thỏa thích vui
sướng.
Kinh Trung bộ số 135, Ngài cũng khẳng định với thanh niên Tô Đề Đa Tử
rằng bệnh là do thói quen (nghiệp) làm đau đớn và tổn hại các loài động vật, và tử
vong khi có bệnh là do tánh hay tắm máu, sát hại các loài chúng sanh. Ngược lại,
người có thiện nghiệp như hiếu sanh, vị tha, thương yêu các loài hữu tình sẽ không
hoặc ít mắc bệnh, khỏe mạnh và trường thọ.
***
Thiên tai, dịch bệnh, nhân họa…đều là quả trổ sau khi duyên đủ yếu tố hỗ trợ.
Người Phật tử thấm nhuần giáo lý như Kinh Chánh kiến trên đây Phật dạy – không
nên cực đoan chỉ biết phòng chữa bệnh hoặc bỏ mặc cho số phận vì tin rằng mọi sự
đều được an bài.Cái khác của người tin Phật là nhìn sâu vào tính chất nhân quả của
một hiện tượng; hiểu được nguyên nhân để đoạn trừ thì quả sẽ tự diệt. Sự khác biệt
giữa chúng sanh và hành giả Bồ Tát khi Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh chỉ sợ quả.
Thái độ người tu Phật, không trốn tránh cầu khấn lúc quả đến, không than thở
trước nghịch cảnh khổ đau, phải chấp nhận, an nhiên đối diện để nhìn thấy nguyên
nhân sâu xa của hiện tượng do chính ta tạo. Đó là bài học cho sự tiến hóa. Mọi
nghịch cảnh, chướng duyên, khổ đau, bệnh hoạn cùng cực đều là bài học cho học
nhân cần đối diện để làm chất liệu tiến hóa, nếu không muốn nói khổ đau là một ân

huệ cho bài học làm người; chỉ có hưởng thụ dục lạc, không biết tạo phước, không
gặp khổ đau thì chúng ta trầm luân mãi đến khi hưởng hết phước sẽ bị đọa lạc vào
tam đồ ác đạo, đôi khi phước đó cũng là họa nếu không nhìn sâu vào bản chất của
nó.Một khi ý thức được bản chất của phước và họa, ngay đấy là bài học cho sự tiến
hóa tâm linh, đưa đến an bình giải thoát.
Nếu không sát hại sinh vật, không gây đau thương cho mọi loài thi làm gì có quả
báo đau thương, mệnh yểu đến với chúng ta. Nếu không sa đọa ô nhiễm thì cơ thể
làm gì có mầm móng phá hoại nội tạng. Tất cả hiện tượng bất như ý đến với chúng
ta có thể từ nguyên nhân hiện thời hay nguyên nhân quá khứ lâu xa.
Nghiệp do cá thể hay do cộng đồng tích lũy; nếu là ác nghiệp thì tương thích với
chu kỳ sanh hóa của vũ trụ đến một thời điểm thích hợp nó sẽ phát trổ; chu kỳ có
thể đại hạn 10 năm hay hơn, Thiện nghiệp cũng thế, trãi qua những chu kỳ bất toại
thì nhân thiện nghiệp sẽ trổ sanh trong đại hạn 10 năm hoặc hơn thế nếu phước
nghiệp sâu dầy. Có những cộng đồng xã hội an lành thạnh vượng lâu dài là do tích
lũy phước báu của một cộng nghiệp sanh loại; Một cộng đồng chuyên sát sanh hại
vật, lường gạt chiếm đoạt đem lại khổ đau cho nhau, hành xử toàn việc ác thì chắc
chắn cộng đồng đó sống bất an, luôn lo sợ, ngờ vực lẫn nhau, nguồn sinh khí nơi
đó không thể an lành, và bất hạnh thường xuất hiện.
Một cá nhân khó chuyển hóa nghiệp lực của một tập thể, nhưng có thể cảm hóa
một tập thể theo chiều hướng tích cực.Đó là cách làm theo nguyện lực của các vị
giáo chủ, chư vị minh sư, thánh nhân khi xuất hiện trong cỏi trần này. Việc giáo
hóa của các Ngài không ngoài giúp con người ý thức được việc làm và ý tưởng
trong tâm thức gieo nhân lành.
Không thể ngồi đó nguyền rủa bóng đêm, thì cũng không nên than thân trách phận
những hậu quả do chính mình gieo tạo. Trong trận đại dịch, người có tâm từ cùng
chia sẻ những kinh nghiệm phòng ngừa và giúp nhau phòng ngừa, ngược lại, có
tâm đố kỵ thì muốn mọi người phải chịu mang bệnh như mình, tìm cách lây nhiễm
truyền bệnh cho xã hội, hoăc vui mừng chúc tụng khi thấy người mắc bệnh như
ta..Với tinh thần con Phật, đối diện trước nghiệp quả bất thiện, không trốn chạy,
không phó mặc cuộc sống đưa đẩy, cũng không an phận như phần số đã an bài. Cái
tinh thần tích cực của một hành giả là chấp nhận và chuyển hóa. Không có gì phải
phân vân giao động; không thể ngăn chận nghiệp quả khi nhân đã gieo thì phải có

giải pháp chấp nhận những gì đang có và nhìn thấu suốt tiến trình nhân quả của sự
việc với sự an nhiên, có như thế mọi người chung quanh cũng được ảnh hưởng một
phần trước thái độ tự tại, không lo lắng sợ sệt; Hãy an nhiên xem đó là bài học để
tâm linh tiến hóa theo chiều hướng tích cực.
Giao động, lo sợ hay trạng thái tiêu cực đều là tần số âm dễ chiêu cảm âm tính,
cuộc sống sẽ luôn bất an, dễ gặp bất trắc. Một hành giả lạc quan, tâm thức luôn
phấn chấn thì tần số giao động tích cực cao, hỗ trợ sản sanh hồng cầu, tinh thần
minh mẫn, sức khỏe tốt, không một vi khuẩn nào có thể xâm nhập.
Hành giả có một nội lực sung mãn, do tiếp thu thực dưỡng thanh khiết tạo một
năng lượng sinh học tốt (rượu bia thịt cá không thể tạo một năng lượng sinh học
thanh khiết).Hành trì pháp môn tương thích để có một năng lượng sinh thức tốt, sẽ
đưa đến một kết quả tuệ giác của năng lượng siêu thức; từ đó do ly dục sanh hỷ
lạc.Vì thế người tu luôn an lạc vui vẻ, khỏe mạnh.
Cảm thọ có ba dạng – thọ khổ - thọ lạc – cảm thọ không khổ không lạc.Thọ khổ
hay thọ lạc đều bị tác động gieo nhân khổ lạc, nhưng không khổ không lạc thường
hiểu là trạng thái vô ký, mà là trạng thái của thiền thứ tư. Sự thật về khổ, sự thật về
khổ tập, sự thật về khổ diệt và sự thật về con đường đưa đến khổ diệt, không thể
hiểu nó là cảm thọ mà phải hiểu là nhận diện bản chất và tiến trình của cảm thọ qua
bốn giai đoạn.Hành giả cần xả niệm lạc trú, xả niệm thanh tịnh, xả niệm hỷ lạc..tức
xả mọi cảm thọ tránh mọi ràng buộc để tiến đến giải thoát.Tuy xả mọi cảm thọ
nhưng lạc thọ vẫn tồn tại phát triển theo năng lượng sinh thức và năng lượng siêu
thức khi bản ngã triệt tiêu; cảm thọ đây không còn là cảm thức vọng tưởng vô
minh.
***
Con người từ lúc có mặt trên cõi trần, cảm thọ xuất hiện ngay lúc đó. Đứa bé vừa
sanh đã khóc vì cảm nhận môi trường khác biệt với thời gian nằm trong bụng mẹ;
chấn động lực trong bào thai khác với chấn động lực bên ngoài, cảm thọ sự bất an
cho bé. Như thế không ai và không động vật nào không có cảm thọ.Trước việc
sanh-già bệnh chết, cảm thọ chung của mọi người là lo sợ, than oán, tìm cách trốn
chạy…nhưng Đức Phật có khác...” (Tăng Chi I, trang 162-163). Thái tử có một
thái độ khác hẳn. Ngài cũng bị già, cũng bị bệnh, cũng bị chết, nhưng Ngài không
có bực bội hổ thẹn, ghê tởm đối với già, đối với bệnh, đối với chết. Ngài không có

ghê tởm đối với chúng, Ngài nhìn chúng với cặp mắt thật khách quan. Và với cái
nhìn ấy, Ngài đoạn trừ được ba sự kiêu mạn, kiêu mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của
không bệnh, kiêu mạn của sự sống. Ngài nói: “Ta cũng bị già, không vượt khỏi già,
sau khi thấy người khác già... Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi
thấy người khác bệnh... Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy
người khác chết..., Ta có thể não phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không
xứng đáng cho Ta. Sau khi quan sát như vậy, này các Tỷ kheo, sự kiêu mạn của
tuổi trẻ trong tuổi trẻ... sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh... sự kiêu
mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.”
Trước khổ đau, sanh già bệnh chết, Đức Phật nhận diện được cảm thọ chính minh,
đã tránh những cảm thọ cực đoan lo sợ hay tự mãn thường có của con người, từ đó
ngài phát tâm truy tìm chân lý để giải thoát cho nhân sinh.
Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ I, trang 163: “Này các Tỷ kheo, rồi Ta suy nghĩ như
sau: “Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... tự mình
bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Vậy Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự
nguy hại của cái bị sanh, hãy tầm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các
khổ
(Tăng III, A, 152) Đức Phật nhắc nhở: “Này các Tỷ kheo, xưa cũng như nay, Ta
chỉ nói lên hai vấn đề, sự khổ và sự đoạn diệt đau khổ.” Có nghĩa bắt đầu cảm thọ
khổ và kết thúc cảm thọ khổ.
Ngay trong trạng thái Thiền định, mọi cảm thọ tuần tự từ sơ thiền cho đến tứ thiền,
Ngài vẫn biết , nhận diện mọi cảm thọ nên cảm thọ đó không thể chi phối Ngài
được. “Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại
nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana,
như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm
lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi
Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này
Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta.”

Do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sãu thức có cảm thọ, từ vô minh vọng
tưởng dẫn cảm thọ tiếp tục triền miên tác động ngược trở lại tâm thức.
“Này các Tỷ kheo, do thấy vậy, vị đa văn Thánh đệ tử nhàm chán mắt, nhàm chán
các sắc, nhàm chán nhãn thức, nhàm chán xúc, nhàm chán thọ, nhàm chán ái. Vị ấy
nhàm chán tai, nhàm chán các tiếng... nhàm chán mũi, nhàm chán các hương...
nhàm chán lưỡi, nhàm chán các vị... nhàm chán thân, nhàm chán xúc... nhàm chán
thọ, nhàm chán ái. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát.
Trong sự giải thoát là tri hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Và vị ấy biết: “Sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành. Các việc nên làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái này
nữa.”
Như vậy pháp hành đưa đến giải thoát, hành giả lấy cảm thọ làm đối tượng để quán
chiếu.khi nhận diện và làm chủ được cảm thọ thì an lạc từ đó hiện diện, không mơ
ước tầm cầu, không trốn chạy chối bỏ…luôn sống với thực tại.
***
Giáo lý Đức Phật không phải là một học thuật, một triết lý, một nền tảng khoa học
hay bất cứ gì do đứng một góc độ cá biệt để nhìn. Mục đích xuất hiện của Đức
Phật trên cõi đời là chấm dứt mọi nguyên do đưa chúng ta đến sáu nẽo trầm luân;
do vậy, giáo lý Phật giáo đa dạng để tương thích với căn cơ nhân loại, từ đó pháp
hành cũng đa dạng, trong đó, nhận thức bóng dáng chấp thủ của cảm quan tạo nên
hạt giống tiềm ẩn vào tạng thức.Trong thực tế hiện nay, khi mà cộng nghiệp của
nhân loại tích lũy quá mức lũy thừa của bất thiện nghiệp, đã xuất hiện ôn dịch đe
dọa cho nhân loại; thay vì bình tĩnh nhận diện sâu vào nguyên nhân của ác nghiệp,
bình tĩnh tìm cách chấp nhận và chuyển hóa nghiệp lực, bởi lẽ, giao động, sợ hải,
hoảng loạn không giải quyết được gì mà còn tạo thêm một cảm thọ bất an cho tâm
thức; một hành giả tĩnh tọa nhìn sâu vào hiện tượng biến dịch, xem đó là bài học
đáng giá để thức tỉnh trên đường tiến hóa. Dưới cái nhìn của Duy Thức học:
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhứt thiết Duy thức

 Do các thức chuyển biến sinh khởi ra các năng phân biệt và sở phân biệt; lại chính
các pháp nầy đều không, cho nên tất cả là Duy thức.
Thế thì -Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu cũng chỉ là bóng dáng tất yếu của cảm thọ. Vì thế,
để giải quyết những mắc mứu từ mấu chốt cố chấp cảm thọ của con người
  Đức Phật: “Hãy là hải đảo của ta, không ai giải thoát cho ta và không có nơi nào
làm cho ta giải thoát”



Lịch sự kiện trong tháng

Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 thứ 7 Chủ nhật
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Tủ sách Bảo Anh Lạc

Thư viện

Pháp âm