Cung kính niệm ân và tạ lỗi cùng Ni Sư – TS Thích Nữ Giới Hương vì Nguyên Tánh & Nguyên Hạnh không dự Lễ Vu Lan ở Hương Sen ngày 02 tháng 9 năm 2018, theo lời dăn dò của Ni Sư.
Nguyên Tánh chọn một ít bài trong các Tuyển tập Vu Lan mấy năm trước, thêm ít bài mới để cung kính tặng Ni Sư.
Tình Hiếu Báo La
Thích Nữ Giới Hương
Ngoài sân lá nhuốm vàng
Báo hiệu Vu-lan sang
Gió thì thầm khẽ nói
Hạnh Tứ Ân dâng Phật.
Ân Tam Bảo giải thoát
Ân Cha Mẹ sinh thành
Ân Đàn Na bảo trợ
Ân Đất Nước cưu mang.
Vô số hạt mưa rơi
Thi báo Tứ Trọng Ân
Noi gương hiếu Mục Liên
Đáp tạ lòng của đất
Mưa tan trong lệ nóng
Cây nghiêng mình báo ân
Trân châu thấm lòng đất
Ôi Tình Hiếu Bao La!
Mưa thu Milwaukee, 19/7/2009
GƯƠNG SÁNG MỤC LIÊN
THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG
Mỗi rằm tháng bảy vào thắng hội Vu Lan hầu như chùa nào cũng tụng kinh Phụ Mẫu Báo Ân, Kinh Vu Lan, Sám Vu Lan để nhớ đến công hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên hiếu thảo với thân mẫu quá vãng và bảy đời cha mẹ quá khứ. Ngài đã vâng lời Phật dạy cúng dường trai tăng, cầu thập phương thường trụ Tam bảo gia hộ cho thân mẫu buông xả lòng tham, sân, si, ích kỷ, độc ác và được nhẹ nhàng siêu sanh tịnh độ. Từ đó, tôn giả được tôn vinh như một tấm gương sáng về hạnh Đại hiếu.
Tôn giả Mục Liên dáng người cao lớn, phương phi và sáng rỡ. Ngài rất là công bình, nghĩa khí hay xiển dương chánh pháp, dẹp phá tà bậy mà không ngại mất lòng. Trong những năm đầu mới xuất gia, Mục Liên cùng với ngài Xá Lợi Phất là hai thị giả hầu cận đầu tiên của Đức Phật. Chỉ xuất gia mới một tuần, Mục Liên đã dứt hết lậu hoặc, chứng a-la-hán và được thiên nhãn thông (mắt nhìn thấy xa tận cõi trời, địa ngục...). Thật là một tấm gương sáng cho chúng ta suốt đời học hỏi.
Chẳng những là bậc đại hiếu, tôn giả Mục Liên còn nổi bật về những công hạnh khác như với nghĩa khí hiên ngang, ngài đã cảm hóa rất nhiều ngoại đạo cang cường trở về Phật pháp. Với thiên nhãn nhìn thấu cõi địa ngục, ngạ quỷ, ngài đã hoá độ rất nhiều loài ngạ quỷ. Công đức hóa độ, trí tuệ thần thông và oai lực của ngài thật vô biên khó nghĩ bàn như câu chuyện dưới đây (phỏng theo truyện Mục Liên trong Thập Đại Đệ Tử Truyện) là một minh chứng.
Một hôm Mục Liên Tôn Giả đang ngồi thiền bên bờ sông Hằng. Lúc ấy hoàng hôn đang buông xuống và trời bắt đầu tối nhá nhem. Bằng thiên nhãn, ngài thấy vô số loài quỷ đang từ các hướng tập trung tại bờ sông Hằng để uống nước. Nhưng gặp một con quỷ hung ác giữ mé nước, cầm gậy sắt xua đuổi không cho uống. Bọn quỷ chạy tán loạn và đến quỳ lạy khóc lóc trước Tôn Giả cầu khẩn ngài giải đáp về những nổi khổ nhân duyên tội báo của chúng.
Quỷ thứ nhất hỏi: «Thưa Tôn giả! Đời trước chúng con là người nay bị đọa làm thân quỷ đói, thường bị đói khát ngày đêm. Nghe nói nước sông Hằng trong mát, nên chúng con mỗi ngày tụ đến để lấy uống thì bị quỷ giữ sông Hằng xua đuổi không cho. Nếu lén uống nhanh được hớp nào thì nước vào bụng trở thành như lửa nóng, đốt cả ruột gan chúng con. Kính xin Tôn giả từ bi cho chúng con biết ác nghiệp gì mà chúng con thọ khổ báo này? »
Mục Liên dùng định lực quán sát nhân quả ba đời của chúng và đáp: «Đời trước các ngươi làm thầy bói số. Khi nói tướng kiết hung cho người, thường nói dối nhiều hơn nói thật. Vì cầu lợi dưỡng, không thương người mê muội và còn khiến họ vào đường mê mờ, mới thọ nghiệp báo này ».
Quỷ thứ hai hỏi: «Thưa tôn giả, con thường bị một con chó hung dữ nhai nuốt thân thể con, ăn hết thịt con. Con đau đớn vô cùng. Khi ấy một cơn gió lớn bất ngờ thổi qua, thì bộ xương con như được ráp và sống trở lại. Rồi con lại có cảm giác bị chó ăn nuốt nhai xương con, rồi gió thổi xương thành sống trở lại... Cứ thế thân tâm con trải qua bao điều vô cùng đau đớn khủng hoảng như vậy hoài không dứt. Con không biết vì nhân duyên gì?
Mục Liên đáp: «Vì đời trước hay giết heo, dê, gà, vịt... cúng tế trời thần khiến thân tâm của gà vịt bị đau đớn. Nên nay làm quỷ phải bị cảm giác thân tâm đau đớn như vậy hoài mãi».
Quỷ thứ ba hỏi: «Thân con bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng thể ăn được, thèm đến chảy nước miếng. Con không biết con vì tội báo gì? »
Mục Liên đáp: «Đời trước làm quan oai quyền, giàu có, tự ý tung hoành theo ý thích và khinh khi người. Tài sản người do mồ hôi nước mắt tạo ra, ỷ mạnh chiếm đoạt, nên nay chịu quả báo này».
Quỷ thứ tư: «Lưỡi con dài đến chân và máu huyết cứ vọt ngược từ dưới đầu lưỡi lên trên dồn lại khiến đầu to bằng cái đấu lớn. Con cảm thấy như bị nghẹt thở, mạng căn như sợi chỉ mành sắp đứt, chẳng biết vì nhân duyên gì mà thọ tội khổ này?
Mục Liên đáp: «Đời trước hay nói chuyện thị phi, tốt xấu của người khiến cho người nghe đau mình nhức óc, tăng khổ não. Nên nay bị thọ khổ báo đó».
Mỗi quỷ lần lượt thưa hỏi tội nghiệp đã tạo từ trước và nhân duyên của quả báo này. Tôn giả đều mỗi mỗi từ tốn trả lời cặn kẽ. Nghe xong, các quỷ cải hối, vô cùng ăn năn về những ác nghiệp quá khứ của mình. Chúng thành tâm sám hối và sau đó chúng được thoát kiếp đọa đầy thân quỷ đói, địa ngục khổ sở của mình.
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Tội nhơn giải thoát
Tịnh Ðộ hóa sinh
Phúc huệ mãi an lành.
Nam Mô Tịnh Ðộ Phẩm Bồ Tát Ma Ha Tát
Vu Lan PL 2553, ngày 19/7/2009
Thích Nữ Giới Hương
Đi chợ mua bông sen. Tranh Bé Ký
SỢI TƠ NHỆN
CAO HUY THUẦN
Mùa hạ qua rồi, dưới trần gian, sen đã tàn, nhưng trên cung trời Đâu Suất sen bốn mùa vẫn nở. Sen trắng, sen hồng vươn trên mặt hồ, nhuỵ vàng hé mở, tỏa hương thơm ngát.
Bên bờ hồ, Mục Kiền Liên bâng khuâng nghĩ đến mẹ vì bây giờ là Rằm tháng Bảy trên trái đất. Trong thoang thoảng hương sen, bồ tát nghe vọng lên từ cõi thế tiếng tụng kinh nhắc nhở đến ngài, đến mẹ ngài, đến bát cơm mà ngài dâng cho mẹ dưới địa ngục. Ngài thấy lại mẹ lúc bà vội vàng lấy tay che bát cơm để các quỷ đói khác đừng giành. Ngài thấy lại bát cơm bốc lửa. Vì lòng tham khi sống, mẹ ngài bị đọa thành quỷ đói. Vì lòng tham khi chết, tham vẫn tham, nên đói vẫn đói, cơm thành lửa.
Mục Kiền Liên thấy lại khu lâm viên trong thành Xá Vệ khi ngài đến bạch Phật về nghiệp nặng không cứu được của mẹ. Bên tai, ngài còn nghe Phật dạy: chỉ có uy đức của tăng chúng mới cứu được mà thôi. Phật dạy rõ: tăng chúng ở đây là tăng chúng đã sám hối sach tội. Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua rồi, Mục Kiền Liên vẫn thấy Phật ngồi, vẫn nghe Phật nói. Mẹ ngài bây giờ đây không còn chỉ là một: đó là hình ảnh cụ thể của mẹ trong nhiều kiếp, tất cả mẹ của chúng sinh. Như sen giữa hồ vươn lên thơm ngát, mẹ của ngài là một đóa sen trong muôn đóa sen.
Bất giác, Mục Kiền Liên nảy ra ý nghĩ đặt chân xuống trần thế, làm một Phật tử như muôn triệu Phật tử, để tụng một bài kinh Vu Lan tạ ơn Phật, tạ ơn tăng chúng, tạ ơn cha mẹ trong nhiều kiếp, tạ ơn chúng sinh. Ngài vụt nghĩ, ngài vụt đi. Với thần thông, trong chớp mắt ngài nghe trái đất nát dưới lòng chân. Ngài trộn lẫn trong hàng hàng lớp lớp áo lam tập hợp trước sân chùa. Một tiếng chuông… nhiều tiếng chuông. Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên bồ tát. Trời tháng Bảy nóng. Cây bồ đề trong sân chùa tỏa bóng in xuống nền đất. Đây là cây bồ đề đến từ xứ Phật. Nhớ khi Thế Tôn tĩnh tọa dưới gốc cây, Mục Kiền Liên đến ngồi trong bóng mát. Không ai biết ngài là Mục Kiền Liên.
Không ai biết ngài là bồ tát, trừ một con nhện. Từ trên cành, con nhện đu tơ xuống đậu trên áo ngài.
- Bạch ngài, mắt người không thấy hào quang trên trán ngài, nhưng mắt con thì thấy lấp lánh. Con người chỉ biết có bồ tát khi bồ tát đã đi rồi, nhưng con thì biết bồ tát khi bồ tát đến. Bao nhiêu sợi tơ trong bụng con là bấy nhiêu rung động của linh cảm, mỗi sợi tơ ngân lên như một dây đàn. Nhạc trong bụng con đang tấu lên bản hoan ca hạnh ngộ bồ tát.
Mục Kiền Liên đáp, không ngạc nhiên:
- Còn trong bụng ta đang hoan ca lời kinh Rằm tháng Bảy. Trong bụng ta cũng đầy tơ đàn. Bao nhiêu đường gân nơi lá bồ đề này là bấy nhiêu sợi đàn của lời kinh trong lòng ta. Đạo hữu tìm đến ta chắc có chuyện gì chăng? Tơ của đạo hữu muốn xe duyên gì với tơ của ta?
Con nhện vui mừng khôn xiết. Hai mắt nó sáng rực lên như hai đốm lửa.
- Bạch ngài, hôm nay là ngày xá tội vong nhân. Ví thử một người phạm nhiều tội ác, nhưng về sau làm được một việc lành, việc lành đó có cứu được người ấy chăng?
Mục Kiền Liên đáp:
- Đạo hữu hãy nghe ta kể chuyện này. Xưa kia có một tôi nhân đọa trong địa ngục, một hôm thấy cai ngục hành hạ một tội nhân khác đau đớn quá, động lòng thương xót, vái xin cai ngục nhẹ tay, bao nhiêu nặng tay cứ đổ xuống trên thân xác mình. Cai ngục nổi giận giết chết người đó tức khắc. Chỉ nhờ một niệm phát bồ đề tâm mà tội nhân ấy chấm dứt được cái tội trăm kiếp đọa ngục, mở đầu cho con đường đi đến cội bồ đề. Tội nhân ấy chính là đức Phật trong một tiền thân.
Con nhện hớn hở:
- Vậy thì con xin kể ngài chuyện này, chuyện của con. Kiếp trước, con là người, là người đánh đàn giỏi nhất nước. Nhờ đàn hay, con mê hoặc bao nhiêu phụ nữ, hết người này đến người khác, từ con gái đến đàn bà có chồng. Con phạm tội giết người cũng vì vậy, giết người để lấy vợ người ta. Con bị hóa kiếp làm nhện vì mỗi sợi tơ trong bụng con là một cái bẫy, giống như cái bẫy nơi tơ đàn của con ngày trước. Nhưng tơ của con bây giờ không còn là bẫy nữa vì con đã phát bồ đề tâm dùng tơ để cứu người và cứu mình. Con cầu nguyện gặp được bồ tát và quả nhiên hôm nay con gặp ngài. Tơ trong bụng con cũng quý như máu trong thân người, con xin hiến dâng ngài tất cả. Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy, ngài là đệ tử có thần thông bậc nhất của đức Phật, xin ngài dùng tơ này dể cứu một tội nhân dưới địa ngục. Đây là việc lành duy nhứt của con.
Con nhện nằm rạp mình sát bụng, như muốn quỳ lạy. Với thiên nhãn, Mục Kiền Liên quan sát địa ngục. Ngài để ý đến một tội nhân đang quằn quại rên xiết và thấy kiếp trước của tên tướng cướp khét tiếng tên là Kandata này. Suốt đời tàn ác, anh ta chỉ làm được một việc lành, việc lành duy nhất ở cuối đời. Hôm ấy, bị vây đuổi trong rừng trước khi bị bắt, anh ta thấy một con nhện đang bò giữa đường. Trong cơn cùng quẫn, anh ta toan dẫm nát con nhện, bỗng chợt nghĩ: “Con nhện kia, tuy bé nhỏ, cũng có đời sống của nó, giết chết đời sống ấy là việc không nên làm”.
Mục Kiền Liên rút tơ trong bụng nhện ra, thả một sợi vào địa ngục. Như nghe một tiếng đàn vọng ra từ sợi dây, Kandata ngừng rên la, chăm chú nhìn sợi dây bạc từ từ thòng xuống. Lấp lánh từ trên phía cao của sợi dây, cái gì như một tia nắng, ánh nắng mà lâu lắm rồi Kandata chưa được thấy lại. Trên cao kia là đời sống chăng? Là cây, là gió, là nắng, là chim muông, là xe chạy, là cười nói, là giải phóng chăng? Lập tức anh ta nắm lấy sợi dây, vui mừng thấy sợi dây bền chắc. Với tất cả sức lực, anh ta hăm hở leo lên. Mỗi lúc mỗi cao, càng cao ánh sáng dường như càng tỏ hơn. Trên đầu, vòm trời bắt đầu như có màu xanh. Không khí bắt đầu nhè nhẹ như có gió. Nhưng tay anh ta đã quá mỏi, sức đã kiệt. Kandata ngừng leo, nhìn xuống phía dưới. Dưới xa, thật xa, mờ mờ trong bóng tối của địa ngục, ba bốn tội nhân cũng đang bám vào sợi dây để leo lên. Hoảng hốt, Kandata la lớn: “Buông ra! Dây này là của tôi! Đừng làm đứt dây. Buông ra!” Nói chưa dứt lời, sợi dây đứt phụt, phát ra một tiếng chát chúa như dây đàn bị đứt. Rụng như một trái cây thối, Kandata rơi xuống một vũng bùn lầy lội máu.
Mục Kiền Liên thấy lại bát cơm của mẹ. Giá như mẹ đừng tham ăn… Giá như Kandata đừng ích kỷ… Chỉ một khởi tâm, anh ta suýt thoát đọa kiếp. Chỉ một khởi tâm, kiếp kiếp đọa đày. Mục Kiền Liên lại thấy mình bất lực. Bất lực như đã bất lực khi bát cơm bốc lửa. Bất lực vì địa ngục nằm ở trong tâm. Trong tâm của mẹ. Trong tâm của Kandata.
Như một Phật tử bình thường, Mục Kiền Liên hòa tiếng tụng kinh của mình vào tiếng tụng kinh đang vang vọng khắp sân, bài kinh Vu Lan mà chính đức Phật đã dạy ngài. Không ai biết ngài là Mục Kiền Liên. Trên áo ngài, con nhện không còn đó nữa. Sợi tơ cũng đã biến mất. Chỉ ngài biết con nhện đã biến đi đâu. Ngài thấy nó hóa thân thành một người áo lam bình thường như bao nhiêu người áo lam khác trong sân, đang hòa tiếng tụng kinh của mình vào tiếng tụng kinh của mọi Phật tử. Không ai biết con nhện đang là người tụng kinh. Trừ Mục Kiền Liên. Bởi vì chỉ bồ tát nhận ra bồ tát.
Từ miệng con nhện, tiếng kinh vang vọng xuống tận địa ngục. Vang vọng lên tận cung trời Đâu Suất, ở đó sen trắng sen hồng đang hé nhuỵ vàng, tỏa hương thơm ngát.
Cao Huy Thuần
Sợi tơ nhện, tr. 18-23
Hộ niệm Sư Bà Hải Triều Âm
Trên đây là bài kệ do Sư Ông Làng Mai viết để xưng tán công hạnh của Sư bà Hải Triều Âm, một vị chân tu mà trong nước ai cũng thương kính. Nói chuyện với Sư Ông Làng Mai, chúng tôi được nghe Sư Ông cho biết là bài kệ cũng có mục đích an ủi học chúng của các đạo tràng do Sư Bà thành lập và giáo huấn, trong đó có các vị ni trưởng, ni sư và hàng trăm vị Nữ khất sĩ, Thức xoa ma na và Sa di ni, nhiều vị trẻ trong số đó đã tiếp nhận giới pháp ở Đại Giới Đàn Phương Bối năm 2007. Đồ chúng của Sư Bà còn là hàng chục ngàn vị Phật tử cư sĩ. Hình ảnh dòng sông là hình ảnh tăng thân gồm có tất cả quý vị ấy. Những con suối nhỏ đã tìm tới với nhau để tạo thành dòng sông và do sự giáo huấn, hướng dẫn của bậc nữ đạo sư là Sư Bà mà dòng sông ấy đã lên đường đi về tương lai của Đạo pháp. “Đi như một dòng sông” là hình ảnh của một tăng đoàn rất đẹp, có hòa điệu, có hạnh phúc, không hề có chia rẽ, có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời. Tu tập và độ đời đem lại rất nhiều niềm vui và sự thảnh thơi. Do đó có hình ảnh “dòng sông nay đã lên đường rong chơi”. Hải Triều Âm là pháp hiệu của Sư Bà và Cát Tường Lan là bút hiệu của Sư Bà sử dụng để viết những bài về Phật pháp cho tuổi trẻ trên tạp chí Bồ Đề hồi Sư Bà còn trẻ. Cát Tường Lan là phiên âm của Catallan, tên thân phụ Sư Bà. Hồi còn trẻ, Sư Bà cũng hay được gọi là chị Ni, vì tên Pháp của chị là Eugénie. Ban Biên Tập chúng tôi đã tìm cách gửi bài kệ này về đạo tràng Dược Sư, nhưng không biết có tới được kịp không. Nếu có vị thân hữu nào ở gần đạo tràng, xin giúp chúng tôi mang bài kệ này tới và dâng lên cúng dường.
Ban Biên Tập Trang nhà Làng Mai
NHỮNG LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
VỀ CHA MẸ, CON CÁI VÀ GIA ĐÌNH
WALPOLA RAHULA
Kinh Sigàla (số 31 của Digha-nikàya) chứng tỏ Đức Phật đã coi trọng cuộc đời cư sĩ, gia đình và xã hội của họ, như thế nào.
Một người trẻ tuổi Sigàla, thường lễ bái sáu hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, thượng, hạ vì vâng lời và thực hành theo lời trăng trối của cha. Đức Phật bảo anh ta rằng trong luật của bậc Thánh (ariyassa vinaye) sáu phương ấy có nghĩa khác. Theo “luật” của Ngài, sáu phương là: Đông: cha mẹ; Nam: thầy; Tây: vợ con, Bắc: bạn bè quyến thuộc, láng giềng; hạ: tôi tớ, người làm công và thợ thuyền; thượng: những vị tu sĩ, Bà-la-môn.
“Người ta nên lễ bái sáu phương ấy”, Đức Phật dạy. Ở đây chữ lễ bái (namasseyya) rất ý nghĩa, vì người ta chỉ lễ bái một cái gì thiêng liêng, khả kính. Đạo Phật xem sáu nhóm gia đình xã hội trên đây là thiêng liêng, đáng sùng mộ kính trọng và lễ bái. Nhưng lễ bái cách nào? Đức Phật dạy rằng người ta có thể “lễ bái” bằng cách làm tròn bổn phận của mình. Những bổn phận ấy Đức Phật giảng rõ trong bài thuyết pháp cho Sigàla.
Thứ nhất: Cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Đức Phật dạy: “Cha mẹ chính là Thượng đế” (Bramàti màtàpitaro). Danh từ Brahma (Thượng đế) chỉ quan niệm cao cả thiêng liêng nhất trong tư tưởng Ấn giáo, và trong đó Đức Phật đã bao gồm cha mẹ. Bởi thế ngày nay trong những gia đình theo Phật thuần thành, con cái thực sự “lễ bái” cha mẹ hằng ngày, sáng và tối. Họ phải làm một vài bổn phận đối với song thân theo luật của Phật: Phải săn sóc cha mẹ khi già, phải làm bất cứ cái gì cần làm cho cha mẹ, phải giữ danh dự của gia đình, và tiếp nối truyền thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và làm tang lễ sau khi cha mẹ chết. Đối lại, cha mẹ phải có một số bổn phận đối với con cái: Họ phải giữ con cái tránh xa những đường tà, phải khiến chúng làm những việc thiện và lợi ích, phải giáo dục chúng đầy đủ, phải cưới gả chúng vào những gia đình tử tế, và phải chia tài sản cho công bằng.
Thứ hai: liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng vâng lời thầy, phải lo cho thầy nếu thầy có điều chi cần thiết, phải học hành chăm chỉ. Và thầy đối lại, phải huấn luyện học trò một cách thích đáng, phải dạy kỹ lưỡng, phải giới thiệu bạn bè cho nó, và phải cố kiếm sự bảo đảm việc làm cho nó sau khi học xong.
Thứ ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa chồng và vợ được xem gần như tôn giáo hay thiêng liêng. Nó gọi là Sadàra-brahmacariya “đời sống gia đình thiêng liêng”. Ở đây cũng thế, ý nghĩa của từ Brahma cần được lưu tâm: Đạo Phật dành cho mối liên hệ này sự kính trọng cao cả nhất. Vợ chồng phải trung thành, kính trọng và tận tụy với nhau, và họ có vài bổn phận đối với nhau. Chồng phải kính nể đối với vợ, phải đảm bảo đời sống và tiện nghi cho vợ, và phải làm vợ vui lòng bằng cách tặng nàng áo và đồ trang sức. (Sự kiện Đức Phật đã không quên nhắc đến cả những món quà một người chồng nên tặng vợ, đủ chứng tỏ tình người thắm thiết của Đức Phật, thiện cảm tế nhị của Ngài đối với những tình cảm của người thường). Đối lại, người vợ phải coi sóc việc nhà, phải làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân thuộc và những người làm công, phải yêu thương, trung thành với chồng, phải giữ gìn tiền của chồng kiếm được, phải khôn khéo và nghị lực trong mọi công việc.
Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, láng giềng. Họ phải tử tế nhân từ đối với nhau, phải nói lời hòa nhã dễ nghe, phải làm cho nhau lợi ích, phải hòa hiếu với nhau đừng gây gỗ nhau, phải giúp nhau khi cần, và đừng bỏ nhau trong khi hoạn nạn.
Thứ năm: liên hệ giữa chủ và tớ. Người chủ nhà có nhiều bổn phận đối với tôi tớ hay người làm công: phải giao công việc tùy theo khả năng và sức khỏe, phải trả lương thích đáng, phải cung cấp thuốc men, thỉnh thoảng phải nên tặng quà. Đổi lại, người giúp việc hay làm công phải chuyên cần không được biếng nhác, phải lương thiện, vâng lời và đừng lường gạt chủ, phải siêng năng trong công việc làm.
Thứ sáu: liên hệ giữa những người ẩn sĩ, Bà-la-môn với người thế tục. Những người thế tục phải coi sóc những nhu cầu vật chất của những tu sĩ Bà-la-môn, ẩn sĩ, với lòng thương yêu kính trọng; những vị tu sĩ phải ban bố với lòng lân mẫn, kiến thức và hiểu biết cho người thế tục, và dẫn dắt họ theo đường chánh, xa đường tà.
Như vậy, ta thấy rằng đời sống thế tục, với những liên hệ gai đình, xã hội, cũng được bao hàm trong “kỷ luật cao cả”, và cũng nằm trong khung của lối sống Phật giáo như đức Phật đã quan niệm.
Walpola Rahula. Tư tưởng Phật học
Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải. NXB Văn hóa Sài Gòn, 2009, tr. 171-175
ƠN NGHĨA CHA MẸ
Trích Kinh Bốn Ân Lớn
SA MÔN THÍCH NHẬT TỪ
Soạn dịch
“Này các đệ tử, cha có “từ ân”, mẹ có “bi ân”. Bi ân của mẹ, nói trong một kiếp cũng không hết được. Tình thương của mẹ trên thế gian này không có cái gì có thể sánh bằng. Từ lúc mang thai, suốt mười tháng trường, đi, đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu đau khổ, kiêng cữ mọi thứ, không màng bản thân. Dù hưởng dục lạc, ăn uống, trang sức, mẹ không ưa thích. Lòng mẹ lúc này luôn nghĩ đến con, không chút quên lãng.
Đến khi sinh nở, mẹ đau đớn hơn, như nghìn mũi nhọn cắt xé thân thể, không thể kể xiết. Có khi bất hạnh, mẹ phải qua đời để con được sống. Khi sinh nở rồi, mẹ mừng khôn tả, như kẻ nghèo khó được ngọc như ý. Con khóc chào đời, lòng mẹ như nghe một bài giao hưởng. Mẹ dùng ngực mình làm nơi con ngủ. Vòng tay của mẹ ôm ấp đời con. Bầu sữa của mẹ như suối cam-lộ nuôi lớn đời con. Ơn đức nuôi dưỡng của đấng mẹ hiền không gì sánh được. Trên thế gian này, núi là cao nhất, ơn đức của mẹ còn cao hơn nhiều. Trên thế gian, quả đất nặng nhất, ơn nghĩa của mẹ còn nặng hơn nhiều.
Bổn phận làm con, dù trai hay gái, nếu ai bội ân, bất hiếu cha mẹ, làm cha mẹ buồn, oán hận trong tâm, thốt ra lời ác, thì bị tổn đức, sa đọa đường xấu. Trên thế gian này, không gì nhanh hơn sức gió vũ bão. Một niệm oán giận của đấng sinh thành còn nhanh hơn gió. Bổn phận làm con không thể trái nghịch ân đức mẹ cha.
“Này các đệ tử, bất cứ người nào vâng lời cha mẹ, không hề trái nghịch, làm điều lợi lạc thì được thiên thần thường theo bảo hộ, được phước báu lớn. Làm con hiếu thảo đền ơn cha mẹ, mỗi ngày ba lần, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ cũng không trả được công ơn sinh thành của mẹ và cha. Khi còn trong thai, tất cả người con, miệng nút cuống vú, sống nhờ sữa mẹ; khi đã chào đời, hơn một ngàn ngày, tiếp tục uống sữa ngọt ngào của mẹ. Tất cả chất bổ trong cơ thể mẹ đều nuôi con trẻ. Sinh con đần độn, dị tật bẩm sinh, thân thể tật nguyền, tình thương của mẹ không hề thay đổi. Ngày xửa ngày xưa, có một bà mẹ du lịch phương xa, lưng bế đứa con, lội qua sông Hằng, vì nước dâng cao, dòng chảy lại mạnh, sức bà yếu dần, vì thương con quá, không nỡ bỏ con nên hai mẹ con đều bị chết chìm. Tình mẹ là thế, bao la như biển, không thể tính đếm, sẵn lòng chịu chết vì thương con mình.
“Này các đệ tử, có mười ân đức của bậc từ mẫu, bổn phận làm con phải lo đáp đền. Một là ơn mẹ như trái đất; vì cơ thể mẹ là chỗ nương tựa sự sống của con. Hai là ơn nghĩa ban tặng sự sống; mẹ phải trải qua nhiều đau khổ để được sinh con làm phận người. Ba là ơn nghĩa nâng đỡ con cái; tay mẹ vuốt ve, uốn nắn vóc hình cho con khỏe đẹp. Bốn là ơn nghĩa nuôi dưỡng con cái; mẹ phải tảo tần bốn mùa lao khổ, cho con ăn học, nuôi con khôn lớn. Năm là ơn nghĩa dạy dỗ con cái; mẹ dùng phương tiện, truyền hết kinh nghiệm, trao con tri thức lập nghiệp chân chính. Sáu là ơn nghĩa làm đẹp cho con; mẹ hy sinh mình, làm đẹp cho con với quần áo đẹp và trang sức phẩm. Bảy là ơn nghĩa giúp con bình an; mẹ ôm ấp con, cho con nghỉ ngơi, an lành sức khỏe, khỏi phải lo toan những điều gian khổ. Tám là ơn nghĩa dạy con nên người; mẹ dùng kiến thức và các kinh nghiệm hướng dẫn đời con, giúp con nên người hữu dụng trong đời. Chín là ơn nghĩa dạy con đạo đức; mẹ sống gương mẫu, dạy con lánh ác, làm các việc lành, trau dồi đạo đức, sống đời thanh cao. Mười là ơn nghĩa gây dựng gia nghiệp; mẹ trao gia tài, tất cả cho con, để con thừa hưởng và phát huy thêm.
“Này các đệ tử, ai còn cha mẹ được gọi là giàu, ai mất song thân được gọi là nghèo. Mẹ hiền còn sống như trời giữa trưa, ánh sáng chiếu soi không hề thiên vị. Mẹ hiền mất đi như mặt trời lặn, bóng tối phủ trùm. Cha hiền còn sống như núi vĩ đại, cha mất đi rồi như dưới vực sâu. Vì thế mọi người phải sống ơn nghĩa, hiếu dưỡng cha mẹ như thờ Phật pháp thì được phước đức không thể kể hết.
Kinh Phật cho người tại gia
Sa môn Thích Nhật Từ soạn dịch
- 277-298
TRĂNG RẰM VU LAN
CAO HUY THUẦN
Chúng tôi nghe kể câu chuyện sau đây đã xảy ra trong một chùa tại Mỹ.
Sau một ngày sinh hoạt chủ nhật thường lệ, một bà cụ già chờ con đem xe đến đón về. Đây là lần đầu bà cụ đi chùa từ khi ra ngoại quốc. Cũng là lần đầu đứa con của bà bước vào cổng chùa. Chờ mãi không thấy con đến, bà ở lại chùa ăn cơm tối, ngồi đợi đến khuya. Hôm sau lại đợi, rồi hôm sau nữa, và hôm sau nữa. Quý Thầy và các đạo hữu trong chùa dọn cho bà cụ một chỗ ở tạm để đợi. Cứ thế, một tháng trôi qua, bốn chủ nhật sinh hoạt. Bà cụ lo bếp núc trong chùa, xới mấy luống rau, học kinh kệ. Vào lúc không ai chờ đợi gì nữa, người con gọi điện thoại hỏi thăm tình hình và hẹn ngày đến đón. Bà cụ thản nhiên trả lời: khoan đã, mẹ đang bình yên nơi đây.
Báo chí ở đây thường kể những chuyện về các bà mẹ trẻ bỏ con sơ sinh ngoài đường. Chứ chưa hề nghe kể chuyện con bỏ quên cha mẹ trong chùa. Ở nơi khác, có thể cụ già sẽ tìm cách trở về nhà bằng phương tiện giao thông công cộng. Ở Mỹ, không có xe cũng như cụt chân. Vả chăng, bỏ quên cha mẹ ở chùa là cách bỏ quên thông minh nhất, yên tâm nhất, bảo đảm nhất. Người ta thường nói: nước Mỹ là thiên đường của giới trẻ và địa ngục của người già. Trong địa ngục đó, chùa chắc hẳn là cánh cửa mở ra vườn.
Kể câu chuyện thật này trong ngày Vu Lan để chúng ta thấm thía ý nghĩa cao đẹp của Vu Lan trong gia tài văn hóa dân tộc. Dân tộc Việt Nam may mắn có Vu Lan để mỗi người đừng quên cái gốc của mình và xã hội đừng đánh mất ý niệm liên đới. Vu Lan đem lại thiêng liêng cho cái rốn sinh thành, và ý nghĩa cái rốn là nối kết giữa cha mẹ trong đời này và cha mẹ trong những đời khác, nối kết giữa người sống và người chết, nối kết giữa con người với thập loại chúng sanh. Giữa sa mạc khô cạn nhân tính của những xã hội vật chất, Vu Lan mưa xuống những hạt mưa xuân. Chừng nào đức Phật còn ngồi với cha mẹ trên bàn thờ trong mỗi gia đình, chừng đó dân tộc Việt Nam còn hiểu tai sao cha mẹ là thiêng liêng, tổ tiên là thiêng liêng, sống chết là thiêng liêng, cõi người, cõi trời, cõi súc sinh ngạ quỷ là thiêng liêng, tình thương là thiêng liêng, và từ bi trải rộng ra cho đến các cô hồn vất vưởng là thiêng liêng.
Vu Lan là một ngày vui. Đó là ngày mẹ của đức Mục Kiền Liên bắt đầu biết mình sẽ ăn được bát cơm. Đó là ngày mà kẻ đói được no. Cả mặt trăng cũng no cái no của Vu Lan, bởi vì đó là trăng rằm tháng bảy, trăng tròn nhất trong năm.
Cao Huy Thuần
Thấy Phật.
NXB Tri Thức, tháng 4/2009, tr. 61-63
GIÁO DỤC VU LAN
CAO HUY THUẦN
Vu Lan là ngày báo hiếu. Chữ hiếu trong đạo Phật quan trọng đến nỗi chính đức Phật là người làm gương. Phật nói: Phật ra đời là để làm năm việc: chuyển pháp luân, độ cha mẹ, đem đức tin lại cho những kẻ không có đức tin, ai chưa có chí nguyện bồ tát thì làm cho họ có, và thọ ký làm Phật cho bồ tát. Phật nói như thế để trả lời cho tôn giả Ưu Tỳ Ca Diếp khi tôn giả thấy Ngài xoay người lại, ngồi hướng về kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Phật sắp trở về lại vương quốc để thuyết pháp cho cha sau khi chuyển pháp luân. Phật sẽ lên cung Đao Lợi để thuyết pháp cho mẹ.
Kinh Vu Lan kể chuyện ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông tìm mẹ và thấy mẹ đang lâm vào cảnh đói khát của ngạ quỷ dưới địa ngục. Ngài dâng bát cơm cho mẹ, cơm chưa đến miệng đã biến thành lửa. Chuyện ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ ở địa ngục đã đi vào máu huyết của văn hóa Việt Nam. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc lại một chi tiết ít thấy ai nhắc đến bởi vì tưởng như không có gì. Đây, kinh Vu Lan ngay đoạn đầu;
Khi ấy tôn giả
Đại Mục Kiền Liên
Mới thành tựu được
Sáu thứ thần thông
Muốn cứu cha mẹ
Đền đáp ân đức
Sinh thành dưỡng dục
Mới thành tựu được… Ngài Mục Kiền Liên vừa thành tựu được thần thông thì nghĩ ngay đến cha mẹ. Đây không phải là chi tiết. Lại càng không phải là lòng ích kỷ, tham lam riêng cho cha mẹ mình. Đây chính là căn bản của đạo Phật và ngài Mục Kiền Liên làm chính cái việc mà Phật làm và Phật nói. Tại sao chữ “mới” quan trọng như thế trong câu kinh? Tại vì rất nhiều lẽ mà sau đây là hai lẽ chính. Thứ nhất, trong đạo Phật, thân người là rất quý, bởi vì chỉ làm người mới có thể giải thoát được, mà ai đem lại thân người cho ta nếu không phải là mẹ cha? Thứ hai, trong đạo Phật, ngoài cha mẹ ở đời này, còn có cha mẹ trong vô số kiếp trước, bởi vậy hiếu với cha mẹ tức là hiếu với chúng sanh. Đức Phật hiếu như thế với chúng sanh. Các bồ tát cũng vậy, mà ngài Mục Kiền Liên là hình ảnh. Chúng sanh của các ngài không phải chỉ ở trần gian mà còn ở trong cả địa ngục. Bởi vậy, đừng thấy dân gian cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy mà cười dân gian mê tín. Hãy nhìn nắm tay đang vãi thức ăn tưởng tượng trước sân nhà với cái nhìn của trí tuệ và của lòng thương, và hãy chắp thêm cho trí tuệ và lòng thương đôi cánh của tưởng tượng để bay theo thần thông của ngài Mục Kiền Liên vào chén cơm đang bốc lửa, hãy nhìn như vậy và sẽ thấy thần thoại có khi còn thực hơn cả thực tại sờ sờ trước mắt.
Ngày rằm tháng bảy là ngày Vu Lan báo hiếu. Ngày rằm tháng bảy còn là ngày Phật Hoan Hỷ. Tại sao Phật vui trong ngày đó? Bởi vì đó là ngày tăng chúng tự tứ. Sau ba tháng an cư, Phật họp chúng tăng lại để “tự tứ”, nghĩa là để sửa lỗi cho nhau và cùng sám hối lỗi. Sám hối như vậy thì tâm thanh tịnh; thấy chúng tăng thanh tịnh, làm sao Phật không vui?
Ở đây, chính Phật cũng là người làm gương. Nói theo thuật ngữ bây giờ, Phật là người… dân chủ số một. Kinh Tăng A Hàm kể như sau, xin tóm tắt:
Bấy giờ, là ngày rằm tháng bảy, đức Thế Tôn trải cụ tọa ngồi giữa chỗ đất trống. Các vị tỷ kheo ngồi chung quanh Ngài. Ngài bảo tôn giả A Nan đánh kiền chùy lên. Ngài dạy: hôm nay là ngày tự tứ và tự tứ là làm sạch thân miệng ý. Cứ hai vị tỷ kheo đối diện với nhau mà tự trình bày nhược điểm của hành vi và xin tha thứ lỗi lầm. Thế Tôn nhìn tăng chúng và nói: hôm nay tôi tự tứ: tôi có lỗi với ai không? Thân ý miệng của tôi có phạm lỗi gì không? Đức Thế Tôn hỏi ba lần như vậy. Tôn giả Xá Lợi Phất đứng đậy: Bạch đức Thế Tôn, tăng chúng quan sát Như Lai, không thấy có lỗi gì về thân miệng ý. Như Lai cũng không có lỗi gì với ai. Còn về phần con, con xin hướng về Như Lai mà tự trình bày: con có lỗi với Như Lai và tăng chúng không? Đức Thế Tôn bảo: Xá Lợi Phất, tôn giả không có hành động gì phi chánh pháp nơi thân miệng ý. Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa: Bạch Thế Tôn, tất cả tỷ kheo ở đây cũng muốn tự tứ: tất cả tỷ kheo ở đây có lỗi gì với Như Lai không?
Phật và các vị A La Hán quanh Phật là những bậc đã sạch thân miệng ý, vậy mà các ngài còn đem chính mình ra để tất cả xét lỗi. Không biết có vị giáo chủ nào khác hành động như vậy chăng? Có cách nào khác làm sạch ngã mạn giản đơn mà rốt ráo như thế hay không? Tứ tự là ngày làm sạch đã đi vào giới luật. Làm sạch thì giải thoát. Đạo Phật chỉ nhắm mỗi mục đích đó thôi.
Ngày nay, mỗi khi bàn đến vấn đề giáo dục, chúng tôi không khỏi nghĩ đến tinh thần tự tứ. Nền giáo dục được quan niệm một cách chật hẹp, như là chuyển giao kiến thức, tự tứ vẫn có thể là mẫu mực như thường. Bởi vì kiến thức là gì nếu không được đánh giá thường xuyên để trút bỏ cái sai, lọc khỏi cái lầm? Tinh thần khoa học là gì nếu không phải là luôn luôn tự nghi ngờ, tự chất vấn, tự phê phán? Có ai chẳng biết khoa học xã hội phân biệt rất rõ kiến thức khoa học với kiến thức ý thức hệ.
Nếu giáo dục được quan niệm rộng rãi hơn, như có liên quan đến vấn đề rèn luyện nhân cách, tinh thần tự tứ lại càng mẫu mực hơn nữa. Ngày trước, luân lý Nho giáo của Quốc Văn Giáo Khoa Thư có kể chuyện nhà hiền triết và hai lọ đậu đen, đậu trắng. Hễ ông làm điều gì xấu thì ông bỏ vào lọ một hạt đậu đen; hễ ông làm điều gì tốt, ông thả vào lọ kia một hạt đậu trắng. Lúc đầu đậu đen nhiều hơn đậu trắng; dần dần đậu trắng nhiều hơn đậu đen. Tự tứ cao hơn thế nhiều lần, bởi vì cả triết lý tương quan của đạo Phật nằm trong đó: tương quan giữa cá nhân và đoàn thể, tương quan giữa bên trong và bên ngoài, tương quan giữa hình thức và nội dung, tương quan giữa mình và người, người sửa lỗi mình, mình sửa lỗi người, mình sửa lỗi mình, giúp nhau để giúp chính mình, để sống sáng như gương với mình và với người. Và như thế để làm gì? Để giải thoát, mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo.
Suy nghĩ rộng ra từ tứ tự đến giáo dục, Vu Lan cũng là tấm gương giáo dục của Phật giáo.
Cao Huy Thuần
Thấy Phật
NXB Tri Thức, tháng 4/2009, tr. 65-70
VU LAN, MÙA TƯỞNG NHỚ
THÍCH MÃN GIÁC
Cuối năm 1947, sau một thời gian dài loạn lạc, người góc bể, kẻ ven rừng lũ lượt hồi cư về thành phố Huế. Chiến tranh khói lửa, máu và nước mắt, hiểm nguy đến chết choc đã phủ trùm lên đầu lên cổ con người Cố Đô Huế từ cuối năm 1946 nối qua năm 1947. Cảnh loạn ly đã làm cho lòng người hoang mang thất hướng đến tột cùng. Nhưng từ cuối năm 1947 sang đến năm 1948, thành phố Huế trở lại thanh bình. Cảnh thanh bình có được sau baonhiêu mất mát tang thương, sau bao nỗi đoạn trường gain nan với gió bụi thực dễ xui lòng người lắng xuống cho những trầm tư về nỗi sống và chết hơn là cho con người những rộn ràng tươi vui. Nhờ đó mà nhiều người đã tìm về với ánh Đạo như tìm về chỗ nương tựa cuối cùng còn lại. Đạo Pháp đã ươm lại được mầm trên đống tro tàn.
Rồi chiến tranh lại tiếp nối. Nhưng nầm Đạo đã ươm. Trong cơn khói lửa, những mầm non Đạo Pháp đã bắt đầu mọc lên. Tổ chức Gia Đình Phật Tử ra đời. Giữa mùa Vu Lan năm đó, trong trầm hương tưởng nhớ ơn nghĩa sinh thành, trong buổi non trẻ của tổ chức GĐPT, anh Đỗ Kim Bảng sáng tác bản nhạc Mục Kiền Liên. Ngày đó, Kim Bảng còn trẻ, đôi mắt sáng tươi và tâm hồn cũng sáng tươi như mắt, cầm đàn guitar ra sân khấu hát: “Đìu hiu gió, bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vẩn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ… Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan. Nhớ mẹ xót xa tâm hồn…” Bao nhiêu người nghe đã ngậm ngùi, đem lòng chơi vơi theo cùng tiếng hát của anh mà hình dung ra hình ảnh của Ngài Mục Kiền Liên, mà tưởng niệm đến hình ảnh những bà mẹ một đời nhọc nhằn vì con…
Hội Quán Quảng Tri. Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên trình diễn văn nghệ. Hình bóng chiến tranh thấp thoáng xa gần. Hơn 40 năm đã trôi qua, hình ảnh chiều văn nghệ với tiếng hát của người nhạc trẻ Kim Bảng đã còn mãi âm vang với tôi hôm nay, hình ảnh ấy như đối nghịch lại với những thảm cảnh kinh hoàng, hãi hùng, đổ nát tang thương của loạn ly triền miên trên quê hương. Hình ảnh ấy sống động như tình non nghĩa biển cỏa con người Việt Nam, dù bị vùi dập đến đâu cũng vẫn còn đó để còn đó niềm Hy vọng cho quê hương. Hình ảnh ấy và tiếng gọi Tình Thương của người nhạc sị Phật Tử trẻ tuổi áy đã là những gì mà người Phật Tử Việt Nam muốn nói lên chi mình, cho quê hương trong đêm đen của thời thế. Thời thế. Chiến tranh. Tiếng bom đạn tả tơi. Cảnh chia lìa ruột thịt… Nhưng bến cũ vẫn đợi chờ - “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò. Cây đa bến cũ…” Bến cũ của quê hương là đâu? Là chốn thanh bình muôn thuở; ở đó, có mẹ có cha, có trăng soi bóng, có chùa xưa vang những hồi kinh…? Người ta đồn, ông cựu Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng trong những ngày tàn gần đây đã lên chùa. Để sám hối? Để tu tâm? Về bến cũ, nếu được như thế chẳng phải là điều đáng ngac nhiên, chỉ tiếc là muộn màng, cho ông đã đành. Mà trên hết là cho nỗi đồ thán của dân sinh.
Vu Lan như một tiếng gọi. Giữa thời tao loạn tiếng bấc tiếng chì của hơn 40 năm trước, Vu Lan với Kim Bảng đã là một tiếng gọi mời thiết tha con người trở về bến cũ của nước non, với mẹ, với cha đã triền miên thống khổ. Thống khổ vẫn triền miên đê cho khi “bóng chiều rơi theolá thu,” lời kinh siêu độ vẫn âm vang như tiếng gọi mời, không chỉ với những oan hồn vất vưởng ở bên kia cõi chết mà là thiết yếu hơn, với những kẻ ở bên này cõi sống-những kẻ mải mê với quyền lực và bạo lực để cho lịch sử oan khiên cứ mãi trói buộc người dân. Cho nên, thời trước, trong tiếng gọi Vu Lan, người ta trông chờ những cởi trói để cho người tù tọi được thở chút không khí tự do. Phật Giáo mang đến cho dân tộc cái đạo lý nhân tính và nhân tính và nhân tình là vậy. Cũng cho nên, thời nay, nghĩ đến cái đạo lý nhân tính và nhân tình này mà hắng năm, đến khi Vu Lan về, chúng tôi đều gởi thơ về nhà cầm quyền Hà Nội để kêu gọi họ trả tự do cho các vị lãnh đạo Phật Giáo, các Tăng Ni, Phật tử, đồng bào bị giam cầm. Thơ gởi đi, trong tiếng gọi Vu Lan của dân tộc, chúng tôi cầu nguyện, mong cho chút nhân tính, nhân tình nào còn lại. Nhưng năm này rồi năm khác, những bức thư kêu gọi đó đều như đi vào sa mạc…
Thế giới đã lắng nghe những tiếng nói của lương tâm đã nói lên bằng cả sinh mệnh của những Nguyễn Chí Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Doãn Quốc Sỹ… Cả những tiếng nói của kẻ ở bên kia, từng say mê và tôn thờ chủ nghĩa, những Bùi Tín , Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Minh Chính, Phan Đình Diệu…
Thế giới đã nghe và đã thấy, đã quá rõ lẽ thời băng rã không phương cứu vãn của chủ nghĩa cộng sản ở khắp nơi. Sự dối trá đâu thể mãi hoành hành như chỗ không người…
Thế mà lạ, giới cầm quyền Hả Nội như chẳng nghe chẳng thấy gì cả! Cửa lao tù trên mảnh đất Việt Nam vẫn đóng kín! Cửa lao tù trên mảnh đất Việt Nam vẫn đóng kín! Vọng ra bên ngoài, có chăng, chỉ là những tiếng kêu gào của lương tâm…
“Trăng đã lên trên đỉnh nhà tù,
luồn qua khe cửa sắt, trải một vệt trắng ngà
trên thân thể ta trong xà lim tăm tối…
Ôi ánh trăng đã từng làm ta đắm đuối
Suốt những đêm dài trong tuổi đôi mươi
Suốt những tháng năm còn đầy nuối tiếc
Đã từng cùng ta ươm mộng xanh tươi…
Vẫn ngọt ngào như dòng sữa mẹ
trên quê hương còn phủ ngập tang thương
vẫn tươi mát bao tâm hồn son trẻ
đang âm thầm chiến đấu cho quê hương…”
Tôi đọc khúc ca này của Đoàn Viết Hoạt trong một bài viết mới đây trên tờ Người Việt. Đoàn Viết Hoạt, một tài năng trẻ tuổi của Việt Nam đã chôn đời trong ngục tù Cộng Sản. Nhưng từ trong ngục tù đóng kín đó, lời ca anh thoát ra, đẹp như ánh trăng quê hương! Đoàn Viết Hoạt, người đã cùng làm việc với tôi một thời dưới mái trường Đại Học Vạn Hạnh, đã một thời khai thông Học Vụ, trông coi tờ Tư Tưởng. Tư Tưởng, trước đó là tiếng nói của Đông Phương trong cuộc song thoại với Tây Phương giữa những điêu tàn của thế kỷ; đến Đoàn Viết Hoạt, là tiếng nói của dân tộc trong hoài vọng trở về bến cũ. “Về Nguồn”, tôi nhớ đâu đó. Đoàn Viết Hoạt viết trong Tư Tưởng, như là ý thức chủ đạo của anh. Nó xuất hiện trong khung cảnh Đại học bấy giờ như một nỗ lực nối kết nền học vấn trí thức vốn từng bị đóng khung trong tháp ngà với cái nền tảng cụ thể của một dân tộc đang bị “vong thân” vì chiến tranh ở anh, giờ nghĩ lại, tôi mới thấy nó là một sự gắn bó đầy ý thức và hoài bão. Tốt nghiệp Đại Học ở Mỹ trở về nước, tâm hồn anh mang ý thức và hoài bão đó quả là điều đáng quí. Những gì anh làm sau này thái độ và hành động yêu nước của anh biểu lộ cả trong chốn ngục tù, tiếng nói của anh trong “Diễn Đàn Tự Do” cho một đất nước Việt Nam tự do dân chủ thực sự… Rồi Cộng sản đem anh vào tù giam như đã đem Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát vào tù… Tôi ngồi đây mà tưởng đến hình bóng anh, người trí thức Phật Tử tài hoa một lòng một dạ thủy chung với đất nước. Hình bóng đó đẹp như ánh trăng quê hương. Hình bóng đó là tiếng gọi trở về bến cũ, chốn thanh bình muôn thuở của quê hương, có người ca hát. Vẫn chỉ mà những kẻ đang cầm quyền như chẳng hề nghe tiếng gọi, như chỉ biết đạp trên khát vọng của sinh dân đế cố bảo vệ thứ quyền lực đang đến hồi thoái hóa, rã tan.
Vu Lan, từ Đỗ Kim Bảng năm xưa đến Đoàn Viết Hoạt ngày nay. Trước và nay, người Phật Tử Việt Nam cũng chỉ một tiếng gọi trở về.
Trước đây mấy tuần, tôi đến Honolulu làm Phật sự. Ở đây, Phật Tử Tâm Bảo đưa tôi đên viếng Pearl Harbor và coi lại trận không chiến của Nhật ngày 7 tháng 12 năm 1941. Qua màn ảnh, ngày xưa 7/12/1941 là một biển lửa kinh hoàng của bom đạn và chết choc. Ngày ấy đã qua rồi. Nhưng bầu trời xanh, biển xanh và mây trắng thong dong vẫn mãi muôn đời nơi đây.
Bạo lực rồi cũng sẽ qua. Chế độ rồi cũng sẽ tàn. Chỉ là muộn màng quá đỗi. Nhưng tâm hồn trong sáng của Đoàn Viết Hoạt trong khúc ca giữa chốn ngục tù sẽ vẫn vằng vặc như ánh trăng muôn thuở.
Los Angeles, Vu Lan Tân Mùi, 1991
NÉN HƯƠNG BÊN MỘ MẸ
THÍCH MÃN GIÁC
Gửi Trí Hải (Chùa Hải Đức - Huế) với tình quê hương
Đi Việt Nam về, Như Liên và Ronald gửi cho tôi cuộn video ghi lại những dấu tích quê hương. Bùi ngùi thấy lại hình ảnh thân thương trìu mến của đất nước, những dáng làng mộc mạc muôn thuở, vẻ tiêu sơ và ảm đạm của đất và người quê, tôi thấy lòng quặn đau tha thiết.
Từ dạo bỏ quê đi, đã năm, sáu mươi năm, cảnh cũ dường như chẳng hề thay đổi. Tôi thấy thương vô cùng những giấc mơ nhỏ bé của người dân làng tôi, đã qua nhiều thế hệ, vẫn chỉ là những giấc mơ không đạt. Có gì đâu, một gian nhà nhỏ, mấy luống rau lang xanh, lúa mùa no vụ, cảnh sum họp ấm áp dưới mái gia đình… Phương Lang ấy, quê làng tôi, vẫn những mẫu ruộng cằn quanh năm, vẫn những luống trâu cày lầy lội, vẫn những con người nhỏ thó khép mình nhẫn chịu trước nghịch cảnh của đất trời… Cảnh đó, người đó, trong cơn mưa phùn gió bấc, lạnh lẽo thấu xương, nhìn mà thấy vẻ thê lương muôn đời.
Chính giữa cảnh quê hương điêu tàn nghèo khổ ấy, giữa đất trời mưa gió quạnh hiu ấy, mộ phần của mẹ tôi nằm giữa bãi cát trắng trơ vơ,, buồn tủi,lạnh lung. Như Liên và anh Ronald từ West Palm Beach đến, trong một phút giây yên lặng, đã đốt dùm tôi nén hương tưởng niệm bên phần mộ người quá cố. Tôi thấy mùi hương bay tỏa khắp mộ phần, hương thơm lan khắp đầu thôn cuối xóm, như một nhắn gửi bao nhớ thương từ muôn xa.
Tôi biết mẹ tôi đã trọn một đời khổ vì con. Như bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác, đã một đời quằn quại. Khi còn sinh tiền, cha tôi thường nói, mỗi con người ta ai cũng có một bà mẹ. Người đã mang nặng đẻ đau và bất kỳ ai cũng trải qua chín tháng mưới ngày phải nằm trong bụng mẹ. Đó là điều ai cũng phải hiểu rõ và thương yêu mẹ ruột của chính mình. Hiểu và thương để chẳng bao giờ làm khổ mẹ.
Tuổi ấu thơ, tôi chưa từng rời mẹ. Mẹ tôi đã dẫn tôi đi lang thang từ Huế ra Trung Kiên, từ Thâm Triều vào Phương Lang và trở lại Huế. Tôi nhập Đạo lúc chưa tròn mười tuổi, cái tuổi thơ mộng nhứt để được đeo mẹ. Chẳng biết cái gì đã làm cho tôi đành đoạn dứt áo ra đi, xa đời sống có mẹ thân thương, lìa sự che chở săn sóc quyến luyến của mẹ để vào chùa học Đạo. Tuổi thơ tôi lớn lên theo với câu kinh tiếng kệ, theo với tiếng chuông mõ sớm chiều, theo với khói trầm hương bát ngát một đời. Chùa Thiên Minh ở gần nhà cụ Phan Bội Châu. Sau khi công quả và kinh kệ xong, khoảng 8g tối, chúng tôi, một số chú tiểu, qui tụ lại nhà Cụ Phan, trong phòng anh Đanh để học tập. Người phụ trách hướng dẫn chúng tôi là anh Đanh, một đồng chí thanh niên Tây học của Cụ. Chính nhờ sự cố gắng học tập đó, sau một thời gian là chúng tôi thi đỗ Tiểu Học và vào Đệ Thất Quốc Học. Trong thời gian đó, thỉnh thoảng mẹ đến chùa thăm tôi hoặc tôi đi ngược lên Nam Giao thăm mẹ. Biết bao ấm áp thân tình cho mỗi lần thăm, để khi từ giã, bóng con vướng trong mắt mẹ, bóng mẹ vướng vào mắt con với những ngậm ngùi. Cứ thế, cho tới ngày khôn lớn đi xa.
Bây giờ, lăn lóc gần sáu chục năm trời, tháng ngày dài đã đi qua, tuổi thơ ấu không còn nữa. Nhưng xúc động vẫn còn đầy khi nhìn lại cảnh quê nghèo với nấm mồ mẹ nguyên vẹn đó. Gió mưa nắng chướng với thời gian, mộ phần mẹ vẫn thanh thản nằm giữa đất trời cát trắng quạnh hiu. Tên họ mẹ tôi được khắc đơn sơ lên bia đá, nét chữ có khi đã thấy mòn mỏi với tháng năm. Bây giờ, Mẹ là Đất, Đất là Mẹ. Bây giờ trong niềm nhớ của tôi về mẹ có cả lượng bao dung của đất trời. Càng thương mẹ, càng thương đất, tôi mong ước được tiếp tục làm cho Đẹp lòng Đất, cho lành lòng Mẹ.
Cảm ơn vợ chồng Như Liên và Ronald Mierau đã đến đó, đã đứng lặng nhìn làn khói hương bay tan giữa buổi chiều quê vắng lặng. Làn khói hương đã nối lại nhịp cầu xúc động trong tôi với những thân thiết tưởng đã nghìn trùng.
Los Angeles, mùa Vu Lan Ất Hợi, 1995
PHƯƠNG PHÁP HÀNH XỬ VỚI CUỘC ĐỜI
THÍCH NHẤT HẠNH
(Đức Phật giáo hóa vị sa di La Hầu La. Năm ấy sa di La Hầu La được mười bảy tuổi, đã có khả năng tiếp nhận giáo lý sâu sắc).
Bụt dạy
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của đất. Dù người ta có đổ và rải lên đất những thứ tinh sạch và thơm tho như hoa hương, nước ngọt và sữa thơm, hoặc người ta có đổ lên đất những thứ hôi hám và dơ dáy như máu mủ, nước tiểu, đàm giải và phân rác thì đất cũng tiếp nhận những thứ ấy một cách rất thản nhiên, không vướng mắc tự hào cũng không oán hờn hay tủi nhục. Tại sao? Tại vì đất là địa đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng tiếp nhận và chuyển hóa. Nếu tâm con rộng lớn, vô lượng như đất thì con cũng có thể tiếp nhận chuyển hóa tất cả mọi người, bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể làm cho con khổ đau và buồn tủi.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của nước. Dù người ta có đổ xuống nước những chất thơm tho đẹp đẽ hoặc giặt rửa trong nước những thứ dơ bẩn và hôi hám, thì cũng không phải vì thế mà nước bị vướng mắc, tự hào hoặc cảm thấy oán hờn và tủi nhục. Tại sao? Tại vì nước là thủy đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng lưu chuyển, có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả những gì đã tiếp nhận. Nếu tâm con rộng lớn, bao la, vô lượng như nước, thì con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể làm cho con khổ đau và buồn tủi.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của lửa. Lửa có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù là những cái xấu xa dơ bẩn, mà lửa cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Tại sao? Tại vì lửa là hỏa đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả những gì người ta đem tới. Nếu tâm con không kỳ thị, không vướng mắc, con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể nào làm xáo trộn được hạnh phúc và bình an trong con.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của gió. Gió có thể tiếp nhận, thổi đi và chuyển hóa mọi mùi hương, dù thơm, dù thối, mà không bị vướng mắc, tự hào hoặc buồn khổ hay tủi nhục. Vì sao? Vì gió là phong đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng di động phi thường. Nếu tâm con rộng lớn, nếu tâm con có khả năng chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức mà kẻ khác trút lên con, và những thứ ấy sẽ không thể nào làm xáo trộn được sự bình an và hạnh phúc trong con được”.
Những bài kinh mà hòa thượng trú trì đọc lên có âm hưởng của những bài kệ mà ngày xưa sư chú Kính Tâm đã xướng lên mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều trong những giờ thỉnh đại hồng chung. Những lời kinh ấy như nước cam lồ tưới xuống trái tim của mọi người. Châu, em trai của sư chú Kính Tâm sau khi nghe kinh đã quỳ xuống dưới chân hòa thượng để cầu xin xuất gia tu học tại chùa. Thiện Sĩ cũng đến quỳ lạy dưới chân ngài để cầu xin xuất gia. Thị Mầu cũng đến quỳ lạy dưới dưới chân hòa thượng. Nàng bạch với hòa thượng là khi ngôi chùa sư nữ đầu tiên được thành lập, nàng sẽ xin xuống tóc để xuất gia tu học nơi ấy. Hai ông bà phú hộ bố mẹ của Mầu cũng như hai ông bà họ Lý mẹ của Bồ tát Kính Tâm cũng quỳ xuống phát nguyện xin thọ trì năm giới và hết lòng yểm trợ hòa thượng trong việc xây dựng ngôi chùa sư nữ đầu tiên trên đất nước Giao Châu.
Chùa Pháp Vân, gọi tắt là chùa Vân hay chùa Dâu, là nơi phát tích của Bồ Tát Quan Âm Kính Tâm. Để người ta mãi mãi nhớ rằng đức Quan Âm này xuất thân từ một người con gái, nên dân chúng thay vì gọi ngài là đức Bồ tát Quan Âm Thị Kính. Ta cũng nên tùy hỷ theo ước muốn ấy và chấp tay kính niệm Nam Mô Bồ tát Quan Âm Thị Kính.
Và ta cũng có câu ca dao:
Xem trong cõi nước Nam ta
Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm.
Phật Bà Quan Âm đây là Phật Bà Quan Âm Kính Tâm, hay nói gọn hơn là Quan Âm Thị Kính.
Thích Nhất Hạnh
Mẹ biểu hiện của tình thương
NXB Thời Đại, quý IV/2011, tr. 121-124
GIA TÀI VÔ GIÁ ĐỂ LẠI CHO CON
NHẤT HẠNH
Những người trẻ tới Làng Mai thường nói rằng: Gia tài quý giá nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con là hạnh phúc trong đời sống gia đình của chính cha mẹ.
Cha mẹ luôn luôn muốn cho con sau này có hạnh phúc, vì vậy cha mẹ muốn để lại những gia tài như là nhà cửa, ruộng đất, hay là một trương mục tiết kiệm trong ngân hàng, hoặc giúp cho con một số tiền để học, hầu con đậu được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư.
Cố nhiên những điều đó là những ước muốn phát xuất từ lòng thương con của cha mẹ, muốn con có một nền tảng để sống cho thoải mái sau này. Tuy vậy, thường thường thì con cái không cần nhiều đến những lo lắng và thương yêu theo mô thức đó. Điều con cái cần nhất là một cuộc sống gia đình êm ấm, trong đó cha mẹ hòa thuận và có hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Vì vậy mà các người trẻ đã đồng ý rằng món quà lớn nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái là hạnh phúc của cha mẹ trong đời sống gia đình.
Tâm tư này của các con phải được các bậc cha mẹ nghe và hiểu. Tại vì nếu cha mẹ có hạnh phúc với nhau thì con cái cũng có hạnh phúc ngay từ thời thơ ấu. Quan trọng hơn nữa là khi lớn lên, lập gia đình, các con cũng sẽ làm được như vậy, tại vì trong suốt thời gian sống với gia đình, các con thấy cha săn sóc mẹ, mẹ săn sóc cha; nghe cha nói những câu dịu ngọt với mẹ, nghe mẹ nói những câu dịu dàng với cha. Hai người tạo hạnh phúc cho nhau bằng những lời nói, những cử chỉ, những tư tưởng dễ thương. Vì vậy, tuy cha mẹ không trực tiếp dạy con bằng lời, những đã dạy con bằng cách hành xử của cha mẹ đối với nhau. Đó là phương thức giáo hóa hữu hiệu nhất mà đạo Bụt gọi là thân giáo. Nhờ vậy mà lớn lên, khi có người bạn hôn phối, con cái cũng làm được như cha mẹ vậy.
Cho nên gia đình là một trường đại học, trong đó có hai giáo sư quan trọng là cha và mẹ. Nếu cha mẹ có thể hiểu được nhau, có thể thương yêu nhau, có thể tạo được hạnh phúc cho nhau, thì đó là môi trường rất tốt cho con cái sinh trưởng. Khi tốt nghiệp, khi rời trường đại học đó thì con cái có đủ khả năng để tạo hạnh phúc cho người mình thương. Vì vậy bậc cha mẹ nên nhớ rằng trong gia đình, không chỉ mình chỉ đóng vai trò của người cha, người mẹ mà mình còn đóng vai trò của những vị giáo sư dạy về thương yêu nữa.
Mỗi khi mình có một lầm lỡ, làm khổ cho nhau, mình phải biết xin lỗi con. Sau giờ cơm tối, mình mời cả mẹ lẫn con vào phòng thở, thỉnh ba tiếng chuông rồi mình nói: Ba xin lỗi mẹ, xin lỗi con, ba đã hơi nóng; vì mất chánh niệm nên sáng nay ba đã nói một câu không dễ thương với mẹ. Ba hứa rằng từ nay về sau ba sẽ không nói những câu thiếu thương yêu như vậy đối với mẹ nữa. Nói vậy xong, cả gia đình yên lặng theo dõi hơi thở để được thấm nhuần sự thương yêu theo phương pháp Bụt dạy. Sau đó ba thỉnh ba tiếng chuông, cả gia đình đứng dậy, ôm nhau trước khi rời phòng thở. Không ai cần nói thêm lời nào.
Nếu ba làm được như vậy, nói ra được một câu như vậy thì con cái sẽ kính phục ba vô cùng. Nếu mẹ có đủ tha thứ, bao dung để ôm trọn ba con vào lòng thì con cái cũng sẽ kính phục mẹ vô cùng. Con sẽ thấy ba mẹ là những hình ảnh lý tưởng của cuộc đời.
Ngược lại, nếu ba dùng quyền làm cha, nạt nộ và không cho con cái nói, thì con cái sẽ không có được cái kính phục đó. Mình chỉ học được với người mà mình kính phục thôi. Cái uy quyền của mẹ, cái uy quyền của ba là ở chỗ hai người biết kính trọng nhau và biết tạo hạnh phúc cho nhau, chứ không phải ở chỗ có thể trừng phạt mình, có thể cấm đoán mình.
Đạo Phật có giáo lý gọi là luân hồi. Luân hồi có nghĩa là đi lòng vòng, không bao giờ chấm dứt. Nhiều khi bà ngoại có những tật xấu, bà truyền lại cho mẹ, mẹ truyền lại cho mình, và mình truyền tật xấu đó lại cho con gái mình. Đó gọi là luân hồi, là cái vòng lẩn quẩn. Chỉ có tu tập mới chuyển hóa được những tật xấu đó, và nhờ vậy mà mình không truyền lại những cái tiêu cực cho con cái sau này. Cho nên tu học là một phương pháp để cắt đứt luân hồi, cắt đứt cái vòng lẩn quẩn trong gia đình dòng họ.
Ví dụ khi còn trẻ, thấy ba mình ép buộc mình quá, mình không có tự do, và mình nghĩ rằng sau này khi có con, mình sẽ để cho con mình có nhiều tự do hơn. Mình dứt khoát sẽ làm như vậy. Nhưng khi lớn lên, khi có gia đình, có con, thì mình cũng đối xử giống hệt như cách mẹ mình, ba mình đã đối xử với mình! Cái vòng luân hồi lẩn quẩn rất là kỳ. Nếu biết tu tập mình có thể chuyển hóa được những tập khí tiêu cực mà mình đã tiếp nhận từ cha, từ mẹ, và mình sẽ không còn trao truyền lại cho con cháu đời sau. Đó là phương cách báo hiếu thâm sâu nhất cho tổ tiên dòng họ.
Khi bắt ép con theo ý của mình, không phải là vì mình có ác tâm với chúng, không phải là vì mình muốn làm cho chúng khổ. Sâu thẳm trong lòng, mình muốn cho con cái nên người, cho con cái hạnh phúc. Mình nghĩ rằng nếu không làm như vậy thì con cái sẽ đau khổ suốt đời. Cho nên, mình ép buộc con cái làm như vậy là vì cái hạnh phúc của con cái. Hạnh phúc đâu thì chưa thấy, mà chỉ thấy con mình đang khổ, tại vì chúng cảm thấy không có một chút tự do nào hết. Cha mẹ đừng ép buộc con cái, đừng nói rằng các con ráng đi, ráng chịu khổ cực, ráng theo những giáo điều, rồi sau này sẽ được sung sướng, sẽ được lên thiên đàng! Con cái tuy có lý trí, có nhận xét, nhưng chúng không có quyền sử dụng những khả năng đó, vì chúng phải làm theo lời ba, theo lời mẹ như một con người máy, thì mới được xem là con có hiếu, con ngoan!
Thiền sư Nhất Hạnh
Trong “Sống Trong An Lạc”
NXB Lá Bối - Hoa Kỳ, 1999, trang 190-195
Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ đã nói. Tình thương của cha mẹ tự nhiên như nước chảy xuôi, mà lòng hiếu của con phải nhờ giáo dục, nhờ kinh nghiệm rồi mới có. Không, tôi không tin cha mẹ mà lại ích kỷ bao giờ. Ích kỷ là chỉ nghĩ tới mình, phân biệt ta và người, mà cha mẹ thì không phân biệt mình với con. Không ai nuôi con để mong chúng sau này đền đáp mình cả. Má tôi về già vẫn làm lụng vất vả từ sáng tới khuya để tự túc mà khỏi trông cậy vào chúng tôi. Mà những cha mẹ nào bất đắc dĩ phải trông cậy vào con cái thì luôn luôn ân hận rằng chẳng giúp chúng được gì cả. Ôi! Nuôi chúng cả một đời, mà về già chúng có đáp lại trong ít năm - mà đáp lại bằng cách nào? - thì vẫn ân hận rằng chẳng giúp được gì cả! Nước chảy xuôi hoài cho tới khi cạn. Cha mẹ cứ muốn giúp con hoài cho tới khi chết. Vậy mà người ta còn bảo rằng cha mẹ ích kỷ!
Nguyễn Hiến Lê
LÀM CHA NÊN NHỚ!
LIVINGSTONE LARNOD
NGUYỄN HIẾN LÊ - dịch
Hãy lắng nghe cha, con trai của cha. Trong khi cha nói với con thì con đang ngủ, tay áp lên má và những làn tóc xoăn hoe vàng dính vào vầng trán thấm ướt mồ hôi của con. Cha nhẹ bước một mình vào phòng con. Ban nảy, đang đọc sách trong phòng, một làn sóng hối hận như trào dâng trong lòng cha. Và, tự cảm thấy tội lỗi, cha đến bên đầu giường của con đây.
Cha nghĩ gì đây, con trai của cha: cha rất giận con ngày hôm nay. Sáng nay, trong khi con chuẩn bị đến trường, cha đã la con vì con thích để cái khăn mặt ướt trên đầu mũi; cha đã mắng con vì giày không đánh xi; cha đã hét lên khi con vứt đồ chơi xuống đất.
Trong bữa ăn sáng, cha còn nhắc con không được làm trái mọi điều quy định: vì con cứ dốc ngược cốc sữa khi uống; con cứ nuốt những miếng bánh mà không chịu nhai; con cứ đặt cùi tay lên bàn; con phết quá nhiều bơ vào bánh của con. Và, khi con bước ra cửa đi học, con quay lại vẫy bàn tay và nói với cha: “Tạm biệt cha!”, cha đã nhíu lông mày và đáp lại với con: “Đứng cho thẳng mà chào!”
Chiều về, lại cũng bài hát đó. Khi đi làm việc về, cha đã rình con trên đường. Con ham chơi bi, đầu gối quỳ trong bụi đất; con làm rách ống quần. Cha đã làm nhục con trước mặt các bạn con, buộc con đi trước bước chân cha cho đến nhà… “quần áo đắt lắm; nếu mày phải trả tiền mua, thì chắc chắn mày sẽ biết giữ gìn hơn!” Con có nhận ra điều đó không, con trai? Về phía một người cha! Con còn nhớ chuyện tiếp theo? Con rụt rè bước nhẹ vào phòng cha, gương mặt khốn khổ, trong khi cha đang làm việc. Cha ngước mắt lên và sốt ruột hỏi con: “Mày muốn gì?”
Con chẳng trả lời và như không cưỡng lại được, con chạy đến ôm chầm lấy cổ cha, siết chặt với lòng thương cảm dịu dàng mà Thượng đế đã làm nở hoa trong lòng con vì thế mà lòng cha cũng chẳng bớt lạnh lùng … Và rồi con vụt trốn, và cha đã nghe những bước chân nhỏ bé của con chạy lên cầu thang”.
Này! Con của cha, lúc đó cuốn sách trượt khỏi bàn tay cha và một sự sợ hãi ghê gớm đã dội lên trong lòng cha. Đó là điều gì xảy đến cho cha do cái tật hay phê phán và trách mắng: một người cha hay rầy la! Cha trừng phạt con vì con chỉ là một đứa trẻ. Không phải vì cha thiếu tình âu yếm, mà vì cha mong mỏi quá nhiều ở tuổi trẻ của con. Cha xét nét con phải làm những gì như với tuổi tác của cha.
Vậy mà, bao nhiêu tình thương và sự độ lượng vẫn ấp ủ trong tâm hồn con. Trái tim nhỏ bé của con lại mênh mông như bình minh đang dâng lên sau những ngọn đồi. Cha nhận ra điều đó khi con lao mình đến chúc mừng cha buổi tối. Giờ đây chẳng có gì đáng kể nữa, con trai của cha. Cha đến bên giường con, trong bóng tối, và cha đã quỳ xuống ở đó, lòng đầy hỗ thẹn. “Đó là một sự sửa sai tồi tệ; cha biết là con sẽ không hiểu những điều đó nếu con có thể lắng nghe. Nhưng, ngày mai, con sẽ thấy, cha sẽ là người cha thực sự; cha sẽ thành bạn của con; cha sẽ cười khi con cười, cha sẽ khóc khi con khóc. Và, nếu cha lại muốn la mắng con, thì cha sẽ cắn vào lưỡi, và sẽ không ngừng lặp lại, như một bài kinh cầu nguyện:
“Con chỉ là một đứa con trai… một đứa con nhỏ bé!”
Cha có lỗi. Cha đã xem con như một người đàn ông. Giờ đây cha đang ngắm nhìn con trong chiếc giường nhỏ của con, mệt mỏi như bị bỏ rơi, cha thấy rõ là con chỉ là một con búp bê. Hôm qua, con còn trong vòng tay của mẹ con, đầu buông trên vai mẹ con… Cha đã đòi hỏi nhiều quá ở con, quá nhiều ở con… con thân yêu của cha.
Livingstone Larnod
Nguyễn Hiến Lê - dịch
LÀM CON NÊN NHỚ!
NGUYỄN HIẾN LÊ
Hôm nay tôi đọc lại không biết là lần thứ mấy bức thư của Livingstone Larnod nhan đề là Làm Cha Nên Nhớ mà Dale Carnegie đã trích dẫn trong cuốn Đắc Nhân Tâm, bức thư mở đầu như vầy: “Con ơi, con ngủ, má đỏ kề bên tay, tóc mây dính trên trán…”
Trong cái kho tàng văn học Đông, Tây tôi chỉ mới thấy được năm bài cảm động như bức thư ấy. Lần nào đọc lại tôi cũng rưng rưng nước mắt mà hối hận rằng đã nhiều lần y như Livingstone Larnod, tỏ ra gắt gỏng quá, nghiêm khắc quá với con tôi, bất công với nó nữa. Nhưng hôm nay đọc lại, tôi còn cảm động hơn tất cả các lần trước, tôi đã sụt sùi vì chẳng những tôi đã nghĩ đến con tôi mà còn nghĩ tới ba tôi nữa.
Lạ thật! Bức thư đó chỉ là lời sám hối của một người cha mà hôm nay nó lại gợi cho tôi lòng sám hối của một người con, là tôi?
Hồi đó tôi mới đúng năm tuổi, vừa thuộc vần quốc ngữ. Ba tôi chỉ bài cho tôi rồi đi thăm một người bạn, trước khi đi dặn kỹ tôi ở nhà phải học bài cho thuộc đã rồi hãy chơi để khi người về thì trả bài. Nhưng ba tôi vừa mới ra khỏi cửa thì một đứa trẻ bên hàng xóm qua rủ tôi đi đánh bi và tôi đã quên lời dặn của ba tôi, vui vẻ đánh bi. Tôi không còn nhớ trận đòn đó dữ ra sao, chỉ nhớ rằng bà ngoại tôi phải xin dùm tôi.
Tối hôm đó, ăn cơm xong tôi vẫn còn len lét, tính mở sách ra học thì ba tôi bảo: “Tối nay cho con nghỉ học, thay quần áo rồi đi chơi với cậu”. Tôi mừng quýnh. Ba tôi thuê xe lại đường Paul Bert, dắt tôi vào một cửa tiệm rực rỡ ánh đèn, mua cho tôi một gói kẹo tây, rồi hai cha con nắm tay nhau thủng thẳng lại hồ Hoàn Kiếm, phía đối diện với Tháp Bút, ngồi hóng mát và thưởng sen bên bờ nước. Ba tôi giấu gói kẹo, bảo tôi kiếm, đùa giỡn với tôi trên bãi cỏ. Chỗ đó vắng người và ít ánh đèn. Bình thường ba tôi rất nghiêm khắc mà lúc đó lại thật âu yếm. Chuyện đó có gì lạ đâu, mà sao đã gần nửa thế kỷ, hôm nay tôi vẫn nhớ rành mạch, nhớ từ nếp khăn ba tôi chít tới những đám sen trên mặt hồ. Hồi đó tôi chỉ cảm được lòng thương của ba tôi chứ nhất định là chưa phân tích được tâm lý của người, nhưng hôm nay tôi đã hiểu tâm lý đó.
Tâm lý đó y như tâm lý của tôi cách đây mười sáu năm, hồi con tôi mới mười một tuổi. Một lần nó vô ý mắc nhiều lỗi nặng khi làm bài, tôi đánh nó mấy roi, mươi mười lăm phút sau, qua cơn giận, tôi thấy tôi vô lý, tôi hối hận, vắt cho nó một ly nước cam, đưa lên kề môi cho nó uống và trong khi nó uống thì nước mắt của chúng tôi rớt trên tập vở của nó, làm nhòe mấy chữ. Chiều đó tôi cho nó nghỉ học sớm, rủ nó ra sân đánh bi. Và tôi để cho nó thắng. Thắng được tôi, nó thích lắm. Hôm nay nó còn nhớ trận đòn đó không (tôi mong rằng không), nhưng tôi thì không quên.
Một nỗi thương tâm chung cho loài người là khi hiểu được tình của cha mẹ thì cha mẹ đã khuất bóng. Sau cái đêm trên bờ hồ Hoàn Kiếm, ba tôi chỉ sống thêm khoảng hai năm. Bây giờ tôi biết đổi cái gì cho ba tôi sống lại được, dù chỉ trong mười phút, để nghe lời sám hối của tôi, đọc bức thư này của tôi!
Tôi biết rằng một đứa trẻ mới năm tuổi thì chưa thể tự chủ được, chưa hiểu được thế nào là bổn phận, việc nào phải làm, vậy thì tuổi đó tôi ham chơi, không học bài, đâu phải là có lỗi. Nhưng hôm nay tôi vẫn sám hối. Vì tôi đã gây khổ cho ba tôi, dù chỉ là vô tình. Đêm hôm đó chắc ba tôi đã bức rứt, hối hận lắm, nên mới âu yếm với tôi như vậy. Xin vong linh cậu tha lỗi cho con. Hôm nay lòng con cũng nát như lòng cậu đêm đó vậy.
Phải có con rồi mới hiểu được nỗi lòng của cha. Trong một trăm gia đình, dù giàu dù nghèo, dù sang dù hèn, tôi không chắc có được một gia đình nào mà cha mẹ không buồn khổ ít nhiều vì con cái. Chúng ngu đần thì nhất định là cha mẹ buồn rồi, mà chúng thông minh thì nhiều khi cha mẹ cũng bực mình; chúng khó dạy thì nhất định là cha mẹ khổ rồi, mà chúng dễ dạy thì cha mẹ chưa chắc đã khỏi khổ. Hồi nhỏ tôi thường được khen là ngoan mà nay nhớ lại đã bao lần làm cho cha mẹ tôi rầu rĩ! Rồi còn biết bao gia đình trẻ mắng lại cha mẹ, từ bỏ cha mẹ mới là đứt ruột cho chứ! Nếu không vậy thì lại là những đứa chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến cha mẹ. Hai mươi lăm tuổi đầu, tư chất kém, thi Tú tài I không đậu, mà vẫn không chịu kiếm một nghề để giúp nhà, vẫn bắt cha già bảy chục tuổi lọm cọm kiếm sống từng đồng một để đóng tiền cơm, tiền học cả ngàn đồng mỗi tháng. Những cảnh thương tâm đó nhan nhãn trong xã hội.
Thời nay nhà giáo dục nào cũng bênh vực quyền lợi của trẻ, điều đó rất chính đáng. Người lớn chúng ta nhiều khi bất công thật, có kẻ tàn nhẫn nữa, cho nên lời của Livingstone Larnod mới làm cảm động lòng ta như vậy, mới được dịch ra mười bốn thứ tiếng, đọc trên hàng chục đài phát thanh. Nhưng có ai lưu tâm chỉ một chút thôi, tới nỗi lòng của cha mẹ không? Trong mấy chục năm nay tôi chưa được đọc một cuốn nào, một bài nào kể những khổ tâm của người cha đấy. Không dạy trẻ thì có tội bỏ bê chúng, mà dạy chúng thì làm sao chẳng có lúc nghiêm khắc mà phải chuốc lấy lời trách oán của nhà giáo dục kia?
Má tôi ít học, nhưng có tình thương con thì có lương tri, mà có lương tri thì còn hơn là có học: người đã để tôi tự ý định đoạt lấy cuộc đời của tôi, không can thiệp vào sự lựa nghề, sự lập gia đình của tôi. Hồi trẻ tôi cho vậy là tự nhiên; phải đợi tới ngày nay, hai thứ tóc, tôi mới hiểu rằng người đã hy sinh cho tôi. Không hy sinh mà tôi là con trưởng để tôi sống xa người tới hai ngàn cây số! Không hy sinh mà người phải đi về bốn ngàn cây số để bồng cháu nội của người trong có bảy ngày. Nhưng giả sử hồi đó người có “can thiệp” vào đời sống của tôi thì bây giờ tôi cũng không hiểu được rằng người không phải là ích kỷ. Người chỉ tìm hạnh phúc cho con người theo quan niệm, theo kinh nghiệm của người thế thôi. Người làm sao có thể hành động khác được vì con người chẳng phải là một phần của người, là tất cả hy vọng và lẽ sống của người ư? Khi quan niệm của cha mẹ không hợp với nguyện vọng của ta thì ta bảo rằng cha mẹ không sáng suốt! Lạ thật!
Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ đã nói. Tình thương của cha mẹ tự nhiên như nước chảy xuôi, mà lòng hiếu của con phải nhờ giáo dục, nhờ kinh nghiệm rồi mới có. Không, tôi không tin cha mẹ mà lại ích kỷ bao giờ. Ích kỷ là chỉ nghĩ tới mình, phân biệt ta và người, mà cha mẹ thì không phân biệt mình với con. Không ai nuôi con để mong chúng sau này đền đáp mình cả. Má tôi về già vẫn làm lụng vất vả từ sáng tới khuya để tự túc mà khỏi trông cậy vào chúng tôi. Mà những cha mẹ nào bất đắc dĩ phải trông cậy vào con cái thì luôn luôn ân hận rằng chẳng giúp chúng được gì cả. Ôi! Nuôi chúng cả một đời, mà về già chúng có đáp lại trong ít năm - mà đáp lại bằng cách nào? - thì vẫn ân hận rằng chẳng giúp được gì cả! Nước chảy xuôi hoài cho tới khi cạn. Cha mẹ cứ muốn giúp con hoài cho tới khi chết. Vậy mà người ta còn bảo rằng cha mẹ ích kỷ!
Trong cái trào lưu sinh hoạt vĩnh viễn bất tuyệt của loài người, nước đã chảy đi thì không bao giờ trở lại về nguồn. Hỡi các bạn trẻ sắp lập gia đình, như dòng nước sắp bắt đầu rời suối, các bạn nên ngừng bước lại một chút, quay lại nhìn nguồn để hiểu nguồn thì trên đường đời các bạn sẽ đỡ phải ân hận, đỡ phải sám hối như hôm nay tôi sám hối trên bàn viết, trước mặt bàn thờ ba má tôi mà lư trầm đương lặng lẽ tỏa hương.
Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê
MỘT BÔNG HỒNG CHO CHA
VÕ HỒNG
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con heo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khẩn thần linh phù hộ cho con mau ăn chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngữa huơ chân huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “I i! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí cho phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha gượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?” Rồi cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây! Ai ra mua?” Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rót cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: qua bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ vạch vú cho con bú, mẹ bồng ru con ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may biết được mà nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn
Núi này nhất định là phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ ra là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn Luân lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chạy ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng dài và rộng hơn sợi dây tình cảm con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ nhân thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng, Phạm liền ngắt lời hỏi: Sao con không cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vì vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của chính mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn như vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rể thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chĩa những cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha, bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu rể. Lúc thức sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể, Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đó đập đó, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc Đẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ, chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: “Được vậy còn đòi gì nữa?… Trời ơi, thì giờ đâu?”
Phải, thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi thân bất di” con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá”. Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ những câu nói đều quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn định thần tỉnh”, ta dịch: “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép hờ cánh cửa, để lấy cái mềm, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới giám tỏ bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gởi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần: “Đi đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng nơ trắng, Mẹ mất, cha còn: hoa trắng nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình.
Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng òa khóc theo.
Cha cũng như mẹ, rồi sẽ có một ngày: Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc (Cha mẹ mãn phần).
Nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chớ không phải “cho vay” để có thể gọi là trả đủ.
Võ Hồng
Về bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ”
Đỗ Hồng Ngọc
Mother And Child by Hermel Alejandre
Mùa Vu lan. Thật may mắn cho những ai được cài đóa hồng trên ngực áo. Bởi họ còn Mẹ. Tôi thì cài bông trắng. Nhưng điều tôi tin chắc là mẹ tôi đã gặp… bà Ngoại, và vì thế, mẹ đã có thể gài lên ngực một đóa hồng thật tươi từ đó…
Bông hồng cho Mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
Đỗ Hồng Ngọc
(Vu Lan 2012)
Võ Tá Hân, người nhạc sĩ đã có đến hơn 30 CD nhạc Phật giáo và hằng trăm khúc tình ca nổi tiếng, một hôm tình cờ đọc được bài thơ ngắn ngủn này đã cảm xúc viết nên khúc hát Vu Lan thật thiết tha dành cho những người con… không còn Mẹ.
Và tiếng hát da diết của ca sĩ Thu Vàng thấy trên youtube:
Rồi Bội Hoàng, từ Cần Thơ đã cảm tác:
Tình yêu còn mãi
Đọc bài thơ mà mắt lệ đoanh tròng
Ai thấu hiểu một tình yêu đã mất
Ai tự hào cài hoa hồng lên ngực
Dù đã qua cái tuổi cổ lai hy!
Con chỉ muốn luôn được cài hoa đỏ
Dù tuổi đời Má đã rất mong manh,
Dù con Má đã con cháu vây quanh,
Vẫn muốn được mỗi ngày chăm sóc Má.
Được bón cơm, được đút cháo, châm trà
Được tắm rửa, được thay quần áo mới
Được ngồi bên nghe những lời Má nói
Mà dậy lên niềm thương cảm riêng tư
Má bỏ con năm Má chín mươi tư
Rời cõi tạm, Má lên đường thanh thản
Con cài hoa cho màu áo Má đỏ
Để Má về gặp Ngoại vui đoàn viên
(Bội Hoàng, 2014)
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh từ Santa Ana, mùa Vu Lan 2016 viết trong bài “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”:
“Lại đến mùa Vu Lan. Những đóa hồng đỏ hạnh phúc bung nở vành môi vẽ một vòng xum vầy thỏ thẻ Mẹ Ơi. Những đóa hồng trắng ngân đọng nước mắt lung linh đôi bờ xa vắng âm vang tiếng gọi Mẹ Ơi. Trong niềm, vừa hân hoan vừa cảm động, tôi nhớ đến bài thơ về Mẹ mà khi đọc nhịp tim tôi như bị nghẹn,
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông Hồng Cho Mẹ, Đỗ Hồng Ngọc)
Thử xem. Đọc. Nghe. Rồi hít vào một hơi thở sâu, im vắng, thì mình như nghe được tiếng nước mắt đang vỡ ra… Vỡ bung như ngọn sóng xanh lấp lánh biển pha lê. Vỡ tung như ngọn pháo hoa rơi vô vàn sợi ánh sáng trong đêm. Những cái vỡ, không tan mà thăng hoa, phải chăng đó là tận cùng của Đẹp? Như hạt nước mắt này, nó bung bung. Ánh lên bóng của Ngoại đang đứng bên kia sông, bên kia là bên của miên viễn không còn sinh tử? Và Mẹ, Mẹ đang từ cõi chết đi vào cõi sống ấy để lọt vào vòng ôm ấm áp của Ngoại. Mẹ đi từ nụ hồng đỏ nở duyên trùng phùng Ngoại. Ý thơ mầu nhiệm làm sao.
Tôi thấy không nói nên lời được để tả cho chính xác cảm giác của mình về sự mênh mang “ý tại ngôn ngoại” trong sâu thẳm bài thơ này. Về cái rất không nghĩa của Mất Còn. Đến với tôi là ý niệm con đường sinh tử đang xóa đi dưới cảm xúc của đứa con, -là Đỗ Hồng Ngọc đây-, người chiêm nghiệm sống chết thật là như không, đóa hồng trắng người đang đeo là một thực tại, đóa hồng đỏ đang rưng rưng trên áo Mẹ kia, là áo nghĩa của thực. Tất cả đều ở thì đang, không còn hôm qua ngày mai phút tàn giây tới. Sinh mệnh không khởi đi và chấm hết bằng hai đầu tiếng khóc nữa. Là Đây. Là Đang. Một thực tại sống động xóa hết biên giới không gian và thời gian. Hình dung Mẹ, trong hơi thở hắt ra bỗng trong suốt nhẹ nhàng đứng lên, trong ngày hội tưng bừng của Tình Mẫu Tử, cúi nhìn bàn tay đứa con run run cài lên ngực áo mình một đóa hồng đỏ, và Mẹ phất phới đi trong nôn nao cho kịp giờ hẹn với Ngoại. Ôi ta mất mẹ và ôi Mẹ vừa có Ngoại. Vô biên lâng lâng nỗi Còn Mất… Huyễn ảo vô cùng khiến những giây tơ vi tế nhất trong cảm xúc ta bị đánh động.
Ngoại Chờ Bên Kia Sông, tôi viết hoa vì mỗi mỗi chữ của câu thơ này là khởi đề dẫn đến chiêm nghiệm ảo hóa về sinh tử. Và toàn bài thơ là tấm tình trong vắt ban sơ của người con, rất nhỏ, mà cũng đã rất già. Bởi rất nhỏ thì mới yêu thương Mẹ được hồn nhiên như thế. Và phải chăng, rất già mới có thể biến yêu thương ngây thơ thành một tình yêu vượt qua được đau đớn của chia lìa sinh tử, như thế.
Cảm ơn Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, cho tôi biết thêm một nhịp đập thương yêu nữa của Hiếu Tử, cho tôi từ bây giờ đã có thể chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một lúc nào đó phải xa Mẹ. Không phải là một cái xa hẳn rồi, mất hẳn rồi như tôi vẫn thường nghĩ nữa. Trong hạt nước mắt rơi lại thấp thoáng nụ cười, nhìn Mẹ của ta lại cài hoa hồng đỏ về bên Ngoại. Ôi! Cái không nói của Ngoại Chờ Bên Kia Sông đã lấp đầy cảm xúc và ý nghĩ của tôi đến thế!
Và lúc này đây, còn được thấy mẹ ra vào thì hãy thỏ thẻ bên vai mẹ rằng,
… mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng… (thơ Đỗ Trung Quân)
Trong hoan hỷ địa mẫu tử, tôi đọc thầm cho riêng mình, gửi đến các con tôi,
… tận cùng hạt lệ mẹ
là nước mắt con rơi
tận cùng tiếng cười mẹ
là nụ cười con vừa mở
và con ơi
tận cùng hư vô mẹ
sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại (thơ NTKM)
Thưa có phải cũng có chút gặp gỡ giữa “sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại” và “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”?
NTKM
Santa Ana, Mùa Vu Lan
mà nhà phê bình Tô Thẩm Huy cảm thán:
“Bài thơ ngắn, vỏn vẹn 20 chữ, mà thâm thúy, ảo diệu vô cùng. Đọc lên điếng cả hồn.
Phải chép lại ra đây.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho Mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực,
Ngoại chờ bên kia sông
Rõ ràng Nguyễn Thị Khánh Minh đã cảm bài thơ đến vô cùng, đến “tận cùng của đẹp”, tận cùng của ý nghĩa sinh tử kiếp người, không khởi đầu, không chấm dứt. Thời gian tan biến mất. Thơ tuyệt, mà người cảm thơ cũng quá tuyệt. Thật là may mắn có được người đồng điệu như thế.
Bài phổ nhạc hay, hai giai điệu khác nhau mà hòa hợp, hỗ tương lẫn nhau. Tuy thế, cảm xúc khi đọc bài thơ nó đến ào ạt, như cùng một lúc nó trào dâng, bủa vây tứ phía, làm bàng hoàng, run rẩy khắp cả châu thân. Cảm xúc từ bài nhạc nó đến khoan thai, từ tốn, êm đềm”.
Lê Uyển Văn từ Trà Vinh viết: Bài viết tuyệt vời được khơi nguồn từ bài thơ đẹp. May mắn cho chúng ta được thưởng thức những tuyệt phẩm này. Xin đa tạ!
Còn Trieu Minh (Úc) ghi cảm nhận khi nghe bài hát từ giọng ca Thu Vàng: “Doc va nghe Nhac, nghe Nghen o nguc, nuoc tu lan tren Ma”.
ton t thì comment: “Nghe nhức xương, thấm tới tủy”;
chrslam thì ghi: Đã nghe đi nghe lại cả chục lần bài hát này. “…Mẹ nhớ gài lên ngực. Ngoại chờ bên kia sông…” Một cảm giác khó tả. Cám ơn thi sĩ và nhạc sĩ.
Và E-Temple ghi nhận: “Chỉ có 4 câu ngắn ngủn thôi mà thành lời ca, và hát mãi không muốn dừng. Con dập đầu lạy Phật, xin Mẹ được vãng sinh ‘Nam mô Đại Từ Đại Bi A-Di-Đà Phật….’”
Nguyễn Thị Tịnh Thy từ Huế viết trong “Yếu tố bất ngờ trong bài thơ bông hồng cho mẹ”:
“Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người… Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.
(…)
Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật…” (đặc san Liễu Quán, số 12, Vu Lan 2017).
Mùa Vu Lan này, xin gởi bạn đôi dòng về bài thơ Bông Hồng Cho Mẹ như một lời chúc mừng đến bạn, người đã rất sướng vui, tự hào, khi còn được cài một bông hồng đỏ thắm trên ngực áo của mình! “Rồi một chiều nào đó anh về, nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu… rồi nói nói với Mẹ rằng… Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?…” (Phạm Thế Mỹ).
Đỗ Hồng Ngọc
Nguồn: Văn Việt 25/8/2018
Đi khắp thế gian
Không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời
Không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông
Không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng
Không phủ kín công cha
Tần tảo sớm hôm
Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy
Cha che chở cho con
Ai còn Mẹ
Xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn
Lên mắt Mẹ nghe không
Lời dạy của Đức Phật
MẸ
TRỊNH CÔNG SƠN
Có một người đàn bà yêu thương tôi và tin tưởng ở tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà hy sinh cả tính mạng. Đó là Mẹ tôi.
Có một người bạn trung thành với tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà từ bỏ hết mọi của cải, mọi thứ ân sủng quý giá nhất. Đó là Mẹ tôi.
Nếu có ai bảo với tôi rằng ở một nơi nào đó có một người xem con mình vừa là mục đích đầu tiên vừa là mục đích cuối cùng của đời sống thì tôi tin chắc rằng người đó không ai khác hơn là Mẹ tôi.
Bảy mươi năm đi qua cuộc đời này, tôi biết má tôi còn thiếu những lời an ủi. Tôi đã cùng với má tôi đi một đoạn đường dài như hai người bạn. Người bạn lớn ấy đã ân cần chăm sóc tôi trong từng bữa ăn, giấc ngủ và lo âu cầu nguyện trong những lần tôi ốm đau. Sống một cuộc đời như thế thật vô cùng khổ. Nhưng hình như má tôi đã biết biến những nỗi khổ ấy thành một thứ hạnh phúc riêng tư.
Hôm nay, má tôi đã đột ngột bỏ cả bầy con ra đi không một lời từ biệt.
Không hiểu có phải vì má chúng tôi ngại phải báo trước một điều buồn khổ cho con hay không. Suốt đời chỉ muốn con mình sung sướng và giữ lấy muôn vàn thiệt thòi cho riêng mình.
Không còn sự mất mát nào lớn hơn đối với chúng tôi.
Tất cả những gì chúng tôi có được hôm nay thuộc về má tôi cả.
Mất Mẹ rồi mới biết rằng tất cả chúng tôi đều là những đứa con bất hiếu. Chúng tôi chưa đền đáp được một mảy may gì cho má cả. Đã trễ rồi, không còn cơ hội nào nữa để chúng tôi có thể chung nhau mang đến cho má một niềm vui hiếm hoi.
Mất Mẹ rồi tôi mới biết rằng không bao giờ được phép hờ hững với những ân huệ mà cuộc đời đã cho ta. Phải biết chào trả lại kịp thời trước những lời thăm hỏi vì cái vẫy tay thân ái nào cũng có thể là cái vẫy tay sau cùng. Chúng tôi đã chuẩn bị quá muộn để đáp lại một ân huệ trời cho là sự thương yêu của má tôi.
Tôi bỗng như một đứa trẻ luống tuổi chưa biết từ nay sẽ bắt đầu lại cuộc đời mình như thế nào. Bấy lâu nay vẫn cứ sống nương tựa vào má mà không hề chuẩn bị gì cả.
Trên đường đời, những ngày sắp tới, tôi biết rằng không bao giờ còn được gặp má nữa. Người ở lại hay người ra đi thì cũng đau khổ như nhau. Tôi chỉ hy vọng trong chuyến đi xa vĩnh viễn này Mẹ chúng tôi đã phủi sạch được những nợ nần quá lâu cho một đời người.
Má ơi! Chúng con có mặt đầy đủ ở đây để lạy má lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng, để từ biệt má. Xin tha thứ những lỗi lầm của chúng con. Cầu xin má được yên nghỉ trong một cõi đời khác không còn đau khổ.
Trịnh Công Sơn
24.10.1991
MẸ
- ĐỖ HỒNG NGỌC
- “Nhớ lại những ngày xưa, mẹ có thể mỉm cười. Những lúc bú mớm con cũng đã từng cắn mẹ đau điếng! Những lúc bệnh hoạn con cũng làm mẹ thức thâu đêm. Con ho mà mẹ ran lồng ngực. Con ỉa chảy mà mẹ đau thắt ruột gan. Mẹ không ngại ngần hôi hám, vấy bẩn để chăm sóc con. Có lúc ngửi mùi phân của con, có lúc ngửi mùi nước tiểu của con để theo dõi bệnh trạng báo cho bác sĩ. Sữa mẹ là những tế bào thân xác mẹ vỡ ra mà thành. Mẹ xanh xao đi để con được hồng hào. Mẹ lùn thấp xuống để con được cao lớn lên. Mẹ loãng xương để con được cứng cáp. Mẹ nhăn nheo để con đầy đặn. Mẹ xấu xí từng ngày để con ngày càng rạng rỡ xinh tươi. Nhìn con lớn lên mẹ nhìn thấy mẹ ngày xưa. Con nói bi bô, con đi lững thững từng bước một... ngày nào! Mẹ hãnh diện nhìn con như dòng sông hãnh diện nhìn dòng nước chảy. Mẹ không kỳ vọng vào con thì kỳ vọng vào ai?”
“Nhạc sĩ Trần Long Ẩn có một bài hát rất dễ thương. Mỗi Tết đến, khi con “mừng tuổi mẹ” thì càng thấm thía “ngày con xa mẹ càng gần”! Không kỳ vọng vào con thì kỳ vọng vào ai?
- “Trẻ không thể lớn nổi, không thể thành người nếu thiếu tình yêu thương. Và đó là lý do tại sao tất cả các thứ sữa nhân tạo, dù làm bằng sữa bò, sữa trâu, sữa lạc đà, sữa dê, sữa đậu nành... đều không thể so sánh với sữa mẹ. Bởi sữa mẹ, ngoài chất dinh dưỡng tuyệt vời ai cũng biết còn có những thứ khác nữa, không thể tìm đâu ra. Thí dụ... mùi mồ hôi chua lét của mẹ, mùi tóc tai lòng thòng của mẹ, mùi à ơi của mẹ. Trong lúc đang hí hửng nhơi nhơi sữa mẹ, bé có thể cắn một phát đau điếng do thiếu sữa, do ngộp sữa, do mẹ lơ đễnh, không “chánh niệm”, vừa cho bú vừa nghĩ đâu đâu... Mẹ đau quá, đét một phát vào mông bé, rồi hối hận siết chặt con vào lòng... Một tương tác, một khúc hòa tấu. Không thể tìm thấy ở đâu với sữa nhân tạo”. (Đỗ Hồng Ngọc. Còn sữa để cho con, trong Sức khỏe gia đình, tr. 22-27).
- “Nếu trẻ kêu lên được, tôi nghĩ có lẽ chỉ kêu một tiếng: Mẹ ơi, con cần mẹ, con cần mùi mồ hôi của mẹ, cần tiếng ru của mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha”.
Bông hồng cho mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ cài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
Mẹ tôi
Nhưng một người già gần gũi nhất với tôi chính là mẹ tôi, bà nay đã 87 tuổi, vẫn hoạt động lanh lợi, khỏe mạnh, năng động và nhiều ý tưởng không thua một người ở tuổi trung niên. Nhiều người tưởng bà là mẹ của bác sĩ hẳn đã phải uống được linh đơn diệu dược gì đó, nhưng không, bà chỉ tập dưỡng sinh, đi bộ, sống tự chủ với cái mảnh vườn nhỏ mà bà luôn tay trồng trọt, chăm bón, hết cây cà tới cây ớt, không chịu lệ thuộc con cháu, ăn uống thì đạm bạc… lại ham đọc sách báo dù chỉ biết đọc biết viết, và luôn sẵn sàng chỉ vẽ cho nhiều người khác cùng tập dưỡng sinh, cùng ăn nha đam, uống trà sim… như mình!
Nụ cười của mẹ
“Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm! Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười. Không nói. Lạ là vì mỗi lúc bà cười mỗi khác. Lúc nào tôi có vẻ vội vã chào bà như để đi đâu đó cho đúng hẹn chẳng hạn, bà cười cười tha thứ. Vậy hả con. Ừ đi đi. Lúc nào tôi thấy mình có lỗi, lần khân bên bà lâu lâu chút thì nụ cười của bà lại như mỉa mai. Biết rồi, khỏi nói. Những lúc tôi mang chuyện bực mình đâu đó về thì bà nhẹ nhàng cười, thôi đi, đừng sinh sự! Nhột nhất là khi bà cười có vẻ châm biếm khi tôi có ý gì đó thiếu thành thật, loanh quanh kiếm chuyện… Ôi nụ cười của một bà mẹ mới lạ lùng làm sao! Lúc tủm tỉm, lúc chế giễu, lúc mỉa mai, lúc chua chát, lúc thứ tha, lúc trách mắng… Vậy đó, mẹ tôi vẫn cười cười như thế suốt ba năm qua từ tấm ảnh trên bàn thờ!”
Đỗ Hồng Ngọc
(Ngày giỗ Mẹ, 17 tháng sáu Âm lịch)
Chủ Nhật, Tháng Bảy 13th, 2014
Vậy là Mẹ tôi đã mất 2 năm. Bà mất lúc 94 tuổi, kể cũng… thọ. Hôm rồi cả nhà về Lagi, làm đám giỗ cho bà tại ngôi nhà bà đã sống những năm cuối đời. Giỗ đơn giản thôi với hoa và trái. Ngôi nhà đã xuống cấp nặng vì thiếu người trông nom. Phải có hơi người thì cây cỏ mới tốt tươi… Rời Lagi, cả nhà về quê ngoại ở Hiệp Nghĩa, nơi bà được sinh ra…”
Trong giấc ngủ có loài hoa bỏ ngỏ
Tiếng mẹ hiền còn mãi mãi à ơi
Dòng sông xưa nước đục chảy muôn đời
Sao trong mắt chưa thấy niềm sám hối?
BS Đỗ Hồng Ngọc
TÌNH MẸ
- CHƠN THIỆN
Mỗi hiện hữu là một tổ hợp của nhân duyên. Nó hiện ra như là một dấu hiệu, một biểu tượng biểu tượng hóa cho cái bàng bạc của thực tại vô cùng.
Tình mẹ cũng thế. Đấy là tình người đặc biệt, chân thật, tự nhiên, khoan dung, bình đẳng vô điều kiện.
Mẹ là người, nên tình mẹ có mặt trong mỗi người. Nếu tình ấy phát triển, sẽ là tình làng nghĩa xóm, tình quê hương đất nước, tình yêu Tổ quốc, nhân loại, pháp giới, sẽ giải phóng con người ra khỏi các rang buộc của tự ngã nhỏ nhen, ra khỏi các tâm lý cấu trược mà vươn tới các tâm lý thánh thiện, giải thoát: bấy giờ tình mẹ là tâm đại tuệ và đại bi.
Mẹ là tác nhân của sinh thành, trưởng dưỡng, nên tình mẹ là biểu tượng cho vạn hữu, pháp giới, những tác nhân hưng khởi tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Ở đây, Mẹ chính là pháp giới, vạn hữu, và pháp giới vạn hữu chính là Mẹ. Thương yêu Mẹ là thương yêu vạn hữu pháp giới, là tâm địa Bồ-tát, là mẹ hiền Quan Thế Âm độ khổ thế gian.
Thi sĩ Trụ Vũ đã viết về trái tim mẹ hiền như thế. Đó cũng là ý nghĩa mở rộng của ngày Vu-lan trong văn hóa Đại Việt.
Chơn Thiện
cẩn bút
TRÁI TIM MẸ HIỀN
TRỤ VŨ
Văn hiến bốn ngàn năm
Giọt nước mắt trăng rằm
Mủa Vu-lan nhớ mẹ
Mưa dầm ngọn lá răm.
Nửa đêm lạc bước đời
Nước mắt ơi, mẹ ơi
Hỏi thăm chân diện mục
Tiếng mẹ khuya ru hời.
Hỏi thăm khúc tâm ca
Tiếng mẹ ru mượt mà
Giọng mẹ ru trầm lắng
Dải lệ sương Ngân hà.
Còn chi để lại đây
Chút của tin sum vầy
Địa ngục con Vô gián
Đôi vai mẹ héo gầy.
Nỗi nhớ mẹ nhớ cha
Nỗi thương ông thương bà
Ngọn đèn khuya bà nội
Thắp đợi con về nhà.
Bốn nghìn năm văn hiến
Giọt nước mắt hài nhi
Nỗi nhớ cha kính mẹ
Củ tin này - đó chi!
Lòng mình như biển đỏ
Chở muôn sóng đoạn trường
Chỉ cần nửa thoáng gió
Là sóng dập trùng dương
Nỗi thương cha nhớ mẹ
Lại thương đời thịt xương.
Vì sao em là người
Có gì đâu em ơi
Mỗi vì em thờ mẹ
Kính cha suốt suốt đời.
Trước Lễ Vu-lan
Tự thưở hồng hoang
Tình con yêu mẹ
Phi thời, không gian.
Trụ Vũ
(Trích Trái Tim Mẹ Hiền)
Văn Hóa Phật Giáo,
Ấn phẩm mùa Thu 2014, PL. 2558, tháng 9. 2014, tr. 138-139.
TẠ ƠN
THIỀN SƯ MINH NIỆM
Nếu chúng ta luôn biểu lộ lòng biết ơn với nhau thì vết thương nào cũng chữa lành, khó khăn nào cũng vượt qua và đỉnh cao nào cũng vươn tới.
* “Thưa ba! Con rất hãnh diện là con của ba, về những gì ba đã sống cho mọi người và cho chúng con. Ba đã trao cho con nghị lực và niềm tin mạnh mẽ về giá trị chân thật của cuộc sống”.
* “Mẹ ơi! Con vô cùng biết ơn mẹ, vì mẹ đã cho con một kho tàng yêu thương vô giá. Trong những lúc khó khăn nhất, chính là lúc con nhớ đến lòng bao dung độ lượng của mẹ nhiều nhất”.
* “Con yêu quý! Ba mẹ cảm ơn con, vì con đã tiếp nối ba mẹ một cách xứng đáng. Ba mẹ thật tự hào về con”.
* “Anh xin tạ ơn em, vì em đã hết lòng nâng đỡ anh. Em đã cho anh rất nhiều niềm vui và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng”.
* “Em cũng xin được tạ ơn anh, về những gì mà anh đã mang đến cho cuộc đời em. Dù có những lúc em cũng khổ vì anh, nhưng anh chưa từng bỏ mặc em”.
* “Thưa chị, chị đúng là một người chị tuyệt vời của em, luôn lắng nghe và thấu hiểu em. Em rất thương và rất biết ơn chị”.
* “Chị cũng biết ơn em, vì em đã phụ giúp chị rất nhiều việc trong gia đình. Đặc biệt là sự hồn nhiên tươi vui và nụ cười dễ thương của em”.
* Ôi đóa hoa thơm ngát
Đang nở nụ cười xinh
Nhìn nhau trong cẩn trọng
Đẹp thay những ân tình.
* Tạ ơn người hiến tặng
Hạnh phúc lẫn thương đau
Để sớm mai thức dậy
Còn nhớ gọi tên nhau.
Thiền sư Minh Niệm/ Hiểu về trái tim - Nghệ thuật sống hạnh phúc
NXB Trẻ quý III năm 2011
MẸ
Người bạn của con
Mẹ luôn là người dẫn đường
và người khơi nguồn sáng tạo cho con
bằng cách luôn là chính mình -
một người Mẹ
tràn đầy tình thương và tận tụy
đã thể hiện một tấm gương cao đẹp
về tình yêu thương
của những người làm Cha Mẹ.
BA
Sức mạnh của con
Ba đã làm cho con thấy mình mạnh mẽ,
như thể con nắm được cả thế giới.
Ba khiến con tin rằng
con làm chủ được con đường trước mặt.
Và cho dù đôi khi
con đường đó có chông gai.
Con biết rằng
con có thể vượt qua được.
* Có một tình yêu thương
cao cả và vĩ đại nhất trên đời -
không phai nhạt theo tháng năm -
là tình yêu của người mẹ dành cho con.
Khuyết danh
Nếu Mẹ là
* Thơ: LÂM THỊ MỸ DẠ
Lời bình: Lý Hoài Xuân
Nếu mẹ bỗng tan thành ánh trăng
Thì con ơi, con hãy là đồng lúa
Ánh trăng mơn man đồng lúa rì rào
Mẹ con mình cùng hát
Những bài ca không lời đẫm hương
Nếu mẹ bỗng biến thành đồng cỏ
Thì con ơi, con hãy là chú bê con
Đồng cỏ mẹ mênh mông tơ non
Con tha hồ ăn, tha hồ chạy nhảy
Nếu mẹ bỗng chảy thành dòng sông
Thì con ơi, con sẽ là ánh sáng
Bởi những dòng sông trong đêm buồn lắm
Mẹ sợ những con thuyền ngủ yên
Nếu mẹ bỗng hóa thành cánh buồm
Thì con ơi, con sẽ là ngọn gió
Mẹ con mình đi khắp bốn phương
Thấm hết cái mặn mòi, ngọt mát của nhân gian
Nếu mẹ là…
Thôi mẹ ơi, mẹ đừng là gì nữa
Con muốn mẹ là mẹ mãi thôi
Để con được ngồi
Trong hai vòng tay mát êm của mẹ.
Lời bình của Lý Hoài Xuân:
Bài thơ được đưa ra những giả định và không giống nhau về hai chủ thể đặc biệt trong quan hệ huyết thống là MẸ và CON. Mẹ là chủ thể quyết định. Con là chủ thể phụ thuộc. Đây là những điều mẹ đặt ra để nói với con:
Nếu mẹ là ánh trăng thì con là đồng lúa (khổ 1)
Nếu mẹ là đồng cỏ thì con là chú bê con (khổ 2)
Nếu mẹ là dòng sông thì con là ánh sáng (khổ 3)
Nếu mẹ là cánh buồm thì con là ngọn gió (khổ 4)
Trong vai mẹ, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lý giải:
Với ánh trăng - mẹ: “ánh trăng mơn man đồng lúa rì rào/ mẹ con mình cùng hát/ những bài ca không lời đẫm hương”. Có nghĩa là cả mẹ và con cùng làm ca sĩ, cùng làm giàn hợp xướng sinh động của thiên nhiên, hát những bài ca không cần có lời nhưng thấm đẫm hương thơm trời đất cho tất cả muôn loài cùng nghe, cùng hiểu và cùng đồng cảm.
Với đồng cỏ - mẹ: “đồng cỏ mẹ mênh mông tơ non/ con tha hồ ăn, tha hồ chạy nhảy”. Ở tình huống này thì mẹ phải chấp nhận sự hy sinh; mẹ thành nguồn sống nuôi con. Đương nhiên đồng cỏ mẹ rất rộng lớn, con ăn mấy cũng không hết nên không lo mất mẹ.
Với dòng sông - mẹ: “con sẽ là ánh sáng/ bởi những dòng sông trong đêm buồn lắm/ mẹ sợ những con thuyền ngủ yên”. Giả định này đặt mẹ vào vị thế phụ thuộc vào con, bởi khi mẹ là dòng sông, ban ngày thì không sao, nhưng ban đêm nếu không có ánh sáng, ai biết dòng sông ở đâu; con thuyền cũng sẽ không biết dòng sông rộng hẹp thế nào, đang thủy triều hay đang hạ thủy, đã đến giờ thuyền rời bến đi chưa. Mà con thuyền ngủ yên thì khác gì con thuyền chết. Con thuyền chết thì dòng sông cũng chết! Dòng sông đâu muốn con thuyền như vậy. Với ý nghĩa con là ánh sáng - con sẽ giúp mọi người thấy được dòng sông đang chảy, con sẽ đánh thức được những con thuyền ngủ yên, ngủ quên.
Với cánh buồn - mẹ: “con sẽ là ngọn gió/ mẹ con mình đi khắp bốn phương/ thấm hết cái mặn mòi, ngọt mát của nhân gian”. Bằng giả định này, thêm một lần nữa Lâm Thị Mỹ Dạ khẳng định vai trò làm chủ của con - ngọn gió. Nếu không có gió, cánh buồm làm sao phồng căng, con thuyền làm sao biết chạy. Ngược lại, khi mẹ là cánh buồm, con là ngọn gió thì phương trời nào gió và buồm cũng đến được; mọi vị mặn, ngọt đáng yêu ở đời gió và buồm đều được tận hưởng. Đó là hạnh phúc chung của mẹ và con.
Và còn nhiều nữa, nếu mẹ là…
Nhưng có gì hơn trên cõi đời này khi mẹ là Mẹ, chứ không phải là những gì khác mẹ, dù những thứ ấy có ý nghĩa to lớn đến mấy. Không để cho mẹ tiếp tục nêu giả định, mượn vào vai con, nhà thơ viết: “thôi mẹ ơi, mẹ đừng là gì nữa/ con muốn mẹ là mẹ mãi thôi/ để con được ngồi trong hai vòng tay mát êm của mẹ”. Chỉ ước mong giản dị như thế thôi nhưng mà nó thực, nó gần gũi, rất dễ thực hiện. Nó phù hợp với tâm tư nguyện vọng thực tế của mẹ và con.
Trong cuộc đời này chính mẹ là người đáng yêu nhất. Bàn tay diệu kỳ của mẹ sẽ mang lại hạnh phúc đích thực cho con.
Cái kết của bài thơ bằng lối phản biện bất ngờ mẹ đừng là gì nữa…., mẹ là mẹ mãi thôi làm cho tứ thơ nổi rõ lên, tạo ấn tượng mạnh và lạ trong người đọc. Lâm Thị Mỹ Dạ đã kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật trong việc sáng tạo ra bài thơ này. Đây là một bài thơ duy lý hay của Lâm Thị Mỹ Dạ, rất hợp với tư duy ngộ nghĩnh của trẻ thơ, nhưng mang màu sắc cổ tích thần thoại.
Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam
Số 46 ngày 13. 11. 2010, tr. 10
“Ngoại Chờ Bên Kia Sông”
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
tặng Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc
“Lại đến mùa Vu Lan. Những đóa hồng đỏ hạnh phúc bung nở vành môi vẽ một vòng xum vầy thỏ thẻ Mẹ Ơi. Những đóa hồng trắng ngân đọng nước mắt lung linh đôi bờ xa vắng âm vang tiếng gọi Mẹ Ơi. Trong niềm, vừa hân hoan vừa cảm động, tôi nhớ đến bài thơ về Mẹ mà khi đọc nhịp tim tôi như bị nghẹn,
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông Hồng Cho Mẹ, Đỗ Hồng Ngọc)
Thử xem. Đọc. Nghe. Rồi hít vào một hơi thở sâu, im vắng, thì mình như nghe được tiếng nước mắt đang vỡ ra… Vỡ bung như ngọn sóng xanh lấp lánh biển pha lê. Vỡ tung như ngọn pháo hoa rơi vô vàn sợi ánh sáng trong đêm. Những cái vỡ, không tan mà thăng hoa, phải chăng đó là tận cùng của Đẹp? Như hạt nước mắt này, nó bung bung. Ánh lên bóng của Ngoại đang đứng bên kia sông, bên kia là bên của miên viễn không còn sinh tử? Và Mẹ, Mẹ đang từ cõi chết đi vào cõi sống ấy để lọt vào vòng ôm ấm áp của Ngoại. Mẹ đi từ nụ hồng đỏ nở duyên trùng phùng Ngoại. Ý thơ mầu nhiệm làm sao.
Tôi thấy không nói nên lời được để tả cho chính xác cảm giác của mình về sự mênh mang “ý tại ngôn ngoại” trong sâu thẳm bài thơ này. Về cái rất không nghĩa của Mất Còn. Đến với tôi là ý niệm con đường sinh tử đang xóa đi dưới cảm xúc của đứa con, - là Đỗ Hồng Ngọc đây -, người chiêm nghiệm sống chết thật là như không, đóa hồng trắng người đang đeo là một thực tại, đóa hồng đỏ đang rưng rưng trên áo Mẹ kia, là áo nghĩa của thực. Tất cả đều ở thì đang, không còn hôm qua ngày mai phút tàn giây tới. Sinh mệnh không khởi đi và chấm hết bằng hai đầu tiếng khóc nữa. Là Đây. Là Đang. Một thực tại sống động xóa hết biên giới không gian và thời gian. Hình dung Mẹ, trong hơi thở hắt ra bỗng trong suốt nhẹ nhàng đứng lên, trong ngày hội tưng bừng của Tình Mẫu Tử, cúi nhìn bàn tay đứa con run run cài lên ngực áo mình một đóa hồng đỏ, và Mẹ phất phới đi trong nôn nao cho kịp giờ hẹn với Ngoại. Ôi ta mất mẹ và ôi Mẹ vừa có Ngoại. Vô biên lâng lâng nỗi Còn Mất… Huyễn ảo vô cùng khiến những giây tơ vi tế nhất trong cảm xúc ta bị đánh động.
Ngoại Chờ Bên Kia Sông, tôi viết hoa vì mỗi mỗi chữ của câu thơ này là khởi đề dẫn đến chiêm nghiệm ảo hóa về sinh tử. Và toàn bài thơ là tấm tình trong vắt ban sơ của người con, rất nhỏ, mà cũng đã rất già. Bởi rất nhỏ thì mới yêu thương Mẹ được hồn nhiên như thế. Và phải chăng, rất già mới có thể biến yêu thương ngây thơ thành một tình yêu vượt qua được đau đớn của chia lìa sinh tử, như thế.
Cảm ơn Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, cho tôi biết thêm một nhịp đập thương yêu nữa của Hiếu Tử, cho tôi từ bây giờ đã có thể chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một lúc nào đó phải xa Mẹ. Không phải là một cái xa hẳn rồi, mất hẳn rồi như tôi vẫn thường nghĩ nữa. Trong hạt nước mắt rơi lại thấp thoáng nụ cười, nhìn Mẹ của ta lại cài hoa hồng đỏ về bên Ngoại. Ôi! Cái không nói của Ngoại Chờ Bên Kia Sông đã lấp đầy cảm xúc và ý nghĩ của tôi đến thế!
Và lúc này đây, còn được thấy mẹ ra vào thì hãy thỏ thẻ bên vai mẹ rằng,
… mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng… (thơ Đỗ Trung Quân)
Trong hoan hỷ địa mẫu tử, tôi đọc thầm cho riêng mình, gửi đến các con tôi,
…
tận cùng hạt lệ mẹ
là nước mắt con rơi
tận cùng tiếng cười mẹ
là nụ cười con vừa mở
và con ơi
tận cùng hư vô mẹ
sẽ một ánh nhìn theo con trở lại
(thơ NTKM)
Thưa có phải cũng có chút gặp gỡ giữa “sẽ một ánh nhìn theo con trở lại” và “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”?
NTKM
Santa Ana, Mùa Vu Lan
tháng 8. 2016
MONG ƯỚC CỦA MẸ
Gởi con trai của mẹ,
Hôm nay, con đang ngồi trước mặt mẹ, chăm chú đánh vật với từng con chữ trong bản chữ cái. Mới hôm qua, con còn chạy tung tăng trong vườn đuổi theo những chú bướm sặc sỡ. Ngày hôm trước nữa, con say sưa nghịch vũng nước mưa đọng trước sân nhà. Con thật sự đã đem đến những thay đổi lớn lao cho cuộc sống của bố mẹ.
Có những lúc mẹ mong ước khi lớn lên, con sẽ làm điều gì thật lớn lao để chinh phục được cả thế giới này. Chẳng hạn, con chế tạo được một phương thuốc chữa trị bệnh nan y, viết một tác phẩm bất hủ, hay có những phát minh giá trị cho nhân loại. Nhưng rồi mẹ tự hỏi: “Mẹ có đặt quá nhiều mong ước vào con không?”
Rồi mẹ lại mong ước sau này con được giàu có và thành đạt trong cuộc sống. Con sẽ sống trong ngôi biệt thự khang trang, đi những chiếc xe sang trọng và thường xuyên du lịch nước ngoài. Nhưng mẹ lại lo lắng: “Liệu những điều này có thực sự đem lại hạnh phúc cho con không?”
Và giờ đây, khi ngắm nhìn khuôn mặt thân thương của con, mẹ đang suy nghĩ rất nghiêm túc và muốn trải lòng mình trên trang giấy này để gởi gắm những suy tư và mong ước mẹ dành cho con bằng chính trải nghiệm cuộc sống của riêng mẹ.
Mẹ mong con luôn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Mong sao tâm hồn con sẽ không bao giờ mệt mỏi và trở nên vô cảm đến mức lãng quên những vẻ đẹp rất bình dị xung quanh. Hãy luôn luôn nhìn cuộc sống một cách vui tươi, lạc quan như đôi mắt trẻ thơ của con bây giờ nhé.
Mẹ mong con luôn luôn có được điểm tựa vững chắc trong cuộc sống đời mình. Trước những thăng trầm, khó khăn của cuộc sống, tình yêu thương của gia đình và bạn bè sẽ nâng đỡ con, giúp con vượt qua tất cả. Mẹ mong sao nỗi cô đơn và sự thất vọng sẽ không quất ngã được con; con sẽ có một gia đình hạnh phúc ấm êm với người vợ hiền và những đứa con ngoan.
Thước đo cho sự giàu có và hạnh phúc đích thực chính là tâm hồn. Người hạnh phúc không phải là người có được mọi thứ mà là người không bị cảm giác “không bao giờ đủ” xâm chiếm mình. Mẹ hy vọng con sẽ không bao giờ bị lệ thuộc về sự đủ đầy của vật chất mới cảm nhận được hạnh phúc, vì còn có nhiều điều vô hình quý giá hơn nhiều. Đó là ánh mắt tươi vui, tiếng cười trong trẻo từ một tâm hồn trong sáng, là giấc ngủ bình yên với lương tâm thanh thản, là cảm giác chiến thắng chinh phục được thử thách đáp lại công sức của con. Hãy trân trọng những điều đó, con nhé.
Con hãy tiến về phía trước, vững vàng trước những thử thách của cuộc sống mà không cần bất cứ sự công nhận hay tiếng vỗ tay ngợi khen nào. Con hãy tự tin theo đuổi những ước mơ, khát vọng của cuộc đời mình, dù bất cứ trở ngại nào có thể đến. Chỉ có con chứ không phải là ai khác hiểu rõ con hơn.
Hãy nhớ sự hiện hữu của con đã cho mẹ nhiều bài học quý giá và ý nghĩa cuộc sống. Trước khi con chào đời, mẹ nghĩ mình sẽ uốn nắn, dạy dỗ con thật hoàn hảo theo ý mẹ. Nhưng con đã làm mẹ thay đổi. Mẹ đã biết nhìn cuộc sống qua ánh mắt trẻ thơ của con. Và mẹ thấy rằng cuộc sống không phải là guồng quay vĩnh cửu chuyên chở công việc, mà cuộc sống như những vòng quay ngựa gỗ nhiều màu sắc cho chúng ta thưởng thức và vui đùa.
Chỉ cần mỗi buổi sáng ngắm nhìn thiên thần của mẹ ào ra khỏi giường chạy đến bên mẹ, hoàn toàn bỏ quên cơn giận đẫm nước mắt ngày hôm qua và không hề lo lắng cho lần đi khám răng sắp tới; mẹ lại thấy một ngày mới thật tuyệt vời với nhiều điều thật mới lạ. Mẹ hiểu rằng nên vui sống trong hiện tại, không chìm đắm mình trong những lỗi lầm quá khứ, hay những lo lắng về tương lai.
Khi có con bên cạnh, mẹ sẵn sàng ngưng làm những công việc thường ngày, dành một chút thời gian để cùng con nằm trên chiếc ghế trước nhà, hít thở không khí trong lành của một ngày mới, cùng con chia sẻ những điều con khám phá được từ cuộc sống hay theo dõi những đám mây trắng thanh thản trôi trên nền trời xanh biếc… Những khoảnh khắc ấy đã làm cuộc sống của mẹ thêm phần ý nghĩa hơn.
Con trai của mẹ, con là kho báu quý giá nhất, là thành tựu vĩ đại nhất, là di sản tự hào nhất của mẹ.
Và mẹ tin con mãi là như vậy.
Theo What I want most for You, My Child!
KHI MẸ NGHĨ CON KHÔNG NHẬN RA
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ treo bức tranh đầu tay của con lên tường, và con muốn vẽ nhiều bức tranh đẹp hơn thế nữa.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ cho một chú mèo hay chạy đến nhà mình uống sữa, và con đã học được từ mẹ lòng yêu thương loài vật.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ làm món bánh con thích nhất, và con hiểu rằng những điều nho nhỏ có thể trở thành những điều đặc biệt trong cuộc sống.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ nấu thức ăn mang đến cho một người bạn đang ốm, và con hiểu được rằng tất cả chúng ta phải yêu thương và chăm sóc lẫn nhau.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ dành thời gian và tiền bạc trao tặng những người có hoàn cảnh khó khăn, và con đã biết chúng ta nên giúp đỡ những ai kém may mắn hơn mình.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ luôn chăm sóc nhà cửa, gia đình, và con hiểu rằng chúng ta phải quý trọng những gì mình đang có.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ hết lòng với trách nhiệm của mình ngay cả khi mẹ không khỏe, và con học được rằng con phải trở thành người có trách nhiệm khi con lớn lên.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy những giọt nước mắt của mẹ, và con chợt hiểu rằng người ta có thể khóc khi bị tổn thương và đó không phải là sự hèn nhát.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ luôn luôn quan tâm đến con, mong con nên người, và con muốn nỗ lực hết mình vì niềm tin của mẹ.
Có những điều con đã lặng lẽ học được từ mẹ. Và chính những tình cảm mẹ âm thầm dành cho con, cho cuộc đời này đã giúp con hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống và biết được con nên làm gì, sẽ trở thành người như thế nào.
Theo Inspiration
Lời Giới thiệu VÒNG TAY CỦA MẸ
(Chicken Soup for the Mother & Daughter)
Bản thân mỗi phụ nữ đều là một người con, và mỗi người đều có một người mẹ. Sự gắn kết của tình mẫu tử thật sự sâu sắc và bền chặt, đến nỗi những người con thường vẫn còn cảm thấy nhớ mẹ cả năm mười năm sau khi người mẹ khuất bóng. Kể từ lúc đứa trẻ được sinh ra, tình mẫu tử đã trở nên bất diệt. Cũng chính vì tình cảm đáng trân trọng đó, chúng tôi đã cho ra đời quyển sách này. Đây không phải chỉ là quyển sách dành riêng cho những người phụ nữ - những người vừa là người con, vừa là người mẹ - mà còn dành cho tất cả những ai hiểu và yêu thương phụ nữ, bởi trái tim của họ sẽ cảm nhận được những câu chuyện về tình yêu thương, sự động viên, nỗi mất mát, sự sum họp, hy sinh, thủy chung, những quan tâm bình dị hàng ngày - tất cả những điều đã góp phần tạo nên quyển sách này.
Làm mẹ không đơn thuần là một vai trò hay là kết quả tất yếu về mặt sinh học. Mẹ không chỉ là người đã sinh ra và dưỡng dục những đứa con mà làm mẹ sẽ dạy chúng ta biết cách yêu thương, suy nghĩ, làm sao để quen với vai trò của mình, vai trò của một người phụ nữ. Nói đúng hơn, làm mẹ sẽ dạy cho chúng ta biết tất cả mọi thứ. Làm mẹ có nghĩa là sẽ phục vụ người khác, sẽ cảm thông trân trọng và quan tâm đến các con của mình. Xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với sự xuất hiện rất đỗi tuyệt vời và mầu nhiệm của những người mẹ trong một thế giới đầy gian khổ cũng như tràn trề niềm vui sướng này.
Còn những cô con gái, họ sẽ như thế nào? Bạn sẽ đọc nhiều câu chuyện cho thấy những đứa con đã đi vào cuộc đời của người mẹ như một món quà quý giá mà tạo hóa đã ban tặng. Những đứa con cho người mẹ thấy được chính họ với một cuộc đời mới, để cảm thấy được tình yêu thương của các con, và thấy được những đứa con là quý giá và mới mẻ như thế nào. Con cái còn cho những người mẹ thấy một thế giới rộng lớn hơn, đó là thế giới riêng của chúng. Con cái cũng dành cho mẹ mình tất cả tình yêu thương tựa như những gì họ đã nhận được từ mẹ.
Để tôn vinh tình yêu thương trọn vẹn ấy, chúng tôi mời các bạn hãy thưởng thức những câu chuyện không bao giờ kể hết của mẹ và con.
Jack Canfield & Mark Victor Hansen
Lời Giới thiệu TRÁI TIM NGƯỜI CHA
(Chicken Soup for the Father’s Soul)
Tình mẹ - Một từ khơi dậy cảm giác ấm áp của sự dịu dàng, nuôi dưỡng, vỗ về và suối nguồn của tình yêu thương vô điều kiện. Ngược lại, tình cha gợi nên một hình tượng vững vàng đáng tin cậy hơn của một người bảo vệ, người mang lại sự hiểu biết. Tình yêu thương của cha mặc dù cũng mạnh mẽ và chắc chắn như của mẹ, lại không phải lúc nào cũng được ghi nhận hay truyền đạt đầy đủ với những cảm xúc dạt dào như mẹ.
Chúng tôi bắt đầu công trình này vào ba năm trước vì chúng tôi muốn cố gắng nắm bắt điểm tinh túy rất khó biểu đạt của tình cha dưới mọi hình thức. Thường thì mối quan hệ giữa cha và các con thường bị hiểu lầm và khó định nghĩa hơn sự liên kết của mẹ đối với các con. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy người cha cũng có thể là những người dịu dàng, nuôi dưỡng và vỗ về con. Họ có thể là diễn viên hài, huấn luyện viên, nhà lãnh đạo và là người thầy dạy những bài học vĩ đại nhất trong cuộc sống.
Mỗi thành viên góp phần tạo nên nội dung quyển sách này viết về những người từng được tình yêu thương của cha gây xúc động và truyền cảm hứng. Nhiều câu chuyện được những người cha viết lại, nhưng bạn cũng có thể tìm thấy cảm xúc của những người con trai, con gái và cháu chắt, những người đã cảm nhận, thấu hiểu và trở nên tốt hơn nhờ tình yêu của cha.
Có thể một số câu chuyện sẽ giúp bạn hài lòng hơn với vai trò tuyệt đối quan trọng của một người cha, một số khác sẽ mang lại cho bạn những ý tưởng mới để thể hiện tình yêu thương dành cho gia đình. Số khác lại có thể khiến tâm hồn bạn rung động và đánh thức sự thật đang được che giấu về tình yêu sâu sắc mà cha bạn không thể hiện ra.
Chúng tôi được những câu chuyện này mê hoặc và khai sáng, và chúng tôi hy vọng bạn cũng sẽ cảm thấy như vậy. Chứng tôi khám phá ra rằng dù một số người cha không thể hiện cảm xúc của họ bằng lời nói, họ vẫn trải qua những cảm xúc nhiều không kém, và đôi khi thậm chí còn sâu sắc hơn người mẹ. Tình cha đong đầy những phạm trù của nỗi đau và hàn gắn, bối rối và sáng suốt, nước mắt và tiếng cười. Quả thật đó là tình yêu không điều kiện, nhưng dưới một hương vị khác so với tình mẹ. Chúng tôi đã tìm kiếm và mang lại cho bạn sự ca ngợi thầm lặng về tâm hồn người cha trong cuốn sách này.
Jack Canfiel - Mark Victor Hansen
LỜI TỰ SỰ CỦA MỘT NGƯỜI CHA
JOHN GRIPPANDO
Chỉ có một tảng đá bền vững mãi mãi;
chỉ có một đế chế tồn tại vĩnh hằng, đó là gia đình.
Lee Iacocca
Nếu tôi là nguyên thủ quốc gia nhưng lại không làm chủ được gia đình của mình thì tôi chẳng làm được gì cả.
Nếu tôi biết điều hành một tập đoàn lớn nhưng lại không cai quản được gia đình mình thì tôi là người thất nghiệp.
Nếu tôi đàm phán thành công nhiệm vụ làm ăn, nhưng lại thờ ơ với việc sinh con đẻ cái thì tôi đã phủ nhận một đặc ân của cuộc sống.
Nếu tôi có thể đào tạo ra nhiều học sinh xuất sắc nhưng chưa khi nào dạy dỗ con tôi theo cách mà chúng cần thì tôi sẽ không bao giờ được thừa nhận là một giáo viên thực thụ.
Nếu tôi thường xuyên trao đổi với các nhân viên của mình nhưng chưa khi nào trò chuyện cởi mở với các con tôi thì tôi là một người lầm lạc.
Nếu tôi thường xuyên ưu tiên công việc và sự nghiệp của mình nhưng chưa bao giờ biết ưu tiên cho gia đình thì tôi đã tự nới rộng khoảng cách với những người có ý nghĩa nhất đời tôi.
Nếu tôi có được sự nể trọng của xã hội nhưng lại không có được sự tôn trọng từ vợ con mình thì tôi là một người đàn ông thất bại.
Nếu tôi sẵn sàng đi khắp thế gian để theo đuổi các mục tiêu của mình nhưng lại chưa khi nào chở con trai đến sân bóng hoặc con gái đến nơi biểu diễn văn nghệ thì tôi đã lên một chuyến bay chệch hướng.
Nếu tôi làm việc cật lực để kiếm được thật nhiều tiền nhưng lại không dành thời gian chăm lo cho gia đình thì tôi chẳng thu được chút lợi nhận nào.
Nếu tôi yên lặng để cho những tiêu cực của xã hội ảnh hưởng đến các giá trị của gia đình mình thì tôi đã bắt đầu dấn bước trên con đường dẫn đến cảnh lụi tàn.
Thời gian không bao giờ ngừng lại và cũng không khi nào quay trở lại. Khoảnh khắc được ở bên cạnh gia đình trở thành ký ức vô giá cho tất cả chúng ta.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi hân hoan trong những giây phút được nắm lấy tay bố mình. Và khi tôi trở thành bố, tôi cũng cảm thấy lòng mình ấm áp lạ lùng khi đứa con gái nhỏ nắm lấy bàn tay mình.
“Số lượng thời gian”, “Chất lượng thời gian” và “Quản lý thời gian” là ba điều bạn cần để tâm nếu muốn được thành công trong cuộc sống. Nhưng quan trọng hơn hết, “Thời gian dành cho con cái” mới chính là yếu tố quan trọng nhất đem lại hạnh phúc thật sự cho mỗi người.
Jack Canfield - Mark Victor Hansen
Chicken Soup for the Father’s Soul
Cha - Điểm tựa của đời con
NXB Văn hóa Sài Gòn, quý III/2010, tr. 168-170
NHÀ VĂN VÕ HỒNG
VÀ THÂM TÌNH PHỤ TỬ
NGÂN HÀ
Nay các con nên người
Mỗi đứa đi mỗi ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
(Trích Sau ba mươi năm - thơ Võ Hồng)
Bài thơ Sau ba mươi năm viết cho các con mình, nhà văn Võ Hồng kể về ba đứa con với những vần thơ giản dị, trong trẻo:
“Đứa út vừa lên ba
Biết mẹ qua tấm ảnh
Miệng chỉ quen gọi cha
Khi đói và khi lạnh
Chị lớn chín tuổi tròn
Đóng vai người mẹ nhỏ
Vội vã học điều khôn
Cửa nhà tập coi ngó
Thằng giữa khi vào lớp
Tên mình tưởng tên ai
Thầy hỏi không biết đáp
Nghe chim hơn nghe bài…”
Đến thăm ông một chiều mưa thu ở xứ trầm hương, mở cửa là một phụ nữ trên sáu mươi, cô giới thiệu mình tên Đạm, là học trò xưa, sau này thành đồng nghiệp của thầy Võ Hồng ở trường chuyên Lê Quý Đôn nổi tiếng của Nha Trang. Cô nói có chị Hằng, con gái đầu của thầy mới ở Pháp về có thể tiếp chuyện. Đã trên bốn năm nay thầy không viết gì nữa, nói cũng ít đi mà chỉ suy tư và chiêm nghiệm. Nhân vật “Chị lớn chín tuổi tròn/ Đóng vai người mẹ nhỏ” kể lại câu chuyện của mình, với những kỷ niệm đau buồn nhưng kết thúc lại là một giấc mơ có hậu dành cho cha, người đàn ông không chỉ thành danh trong nghiệp văn mà còn là một người cha hết lòng với con cái.
Chuyện về những người đã mất
Ngồi trước tôi là một người phụ nữ dáng cao, đứng tuổi, trông bề ngoài rất hiện đại và năng động với đôi mắt tinh anh và nụ cười cởi mở. Trong số ba người con của nhà văn Võ Hồng, chỉ có chị nối nghiệp văn, tuy hơi trễ bởi từ khi xa nhà để vào Sài Gòn trọ học, cha đã âm thầm ngăn cản không cho chị viết văn, để thì giờ cho khoa học.
Chị bắt đầu kể chuyện bằng cái chết của hai người thân yêu nhất đã ám ảnh chị từ tuổi nhỏ. Năm lên bốn, chị chứng kiến cái chết cùa Jô, em trai kế mình:
“Jô đẹp và hiền lành, giống má nhất, bị sốt nặng và qua đời lúc mới một tuổi rưỡi. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh em trong màu áo xanh dương, nằm trên bộ ván, đầu hướng ra cửa sổ, nắng chiều bao trùm người em. Tối đó em sốt cao và mọi người nhốn nháo. Rồi em chết. Tôi ra vườn hái hoa hoàng anh lặng lẽ đặt lên linh cửu của em. Hình ảnh đó ghi khắc vào tâm hồn tôi như một cuộn phim câm, sẵn sàng hiện ra mỗi khi nhớ lại quá khứ. Ba năm sau, mẹ tôi phát bệnh trong hai năm liền và vĩnh viễn bỏ ba đứa con nhỏ mà đi.
Mới chín tuổi tôi đã mất hai người thân yêu nhất, tôi đau đớn thấy cuộc đời quá mỏng manh và bấp bênh. Tôi không có tuổi thơ. Quanh tôi, mọi đứa trẻ khác đều có cha và mẹ, chúng vững vàng như được đi trên hai chân. Tôi chỉ còn một mình cha nên ông trở thành quý báu vô cùng. Tôi luôn sống trong phập phồng lo âu. Những lần cha tôi về trễ, tôi thấp thỏm đợi chờ. Có những đêm ngủ nằm mơ thấy cha chết, tôi giật mình kêu ba ơi trong nước mắt rồi yên tâm ngủ lại khi nghe tiếng ba trả lời “sao giờ này mà chưa ngủ?” Cha tôi không tục huyền vì sợ chúng tôi khổ, một hy sinh không thể nào đền đáp. Tôi rất biết ơn ông bởi càng lớn tôi càng hiểu nỗi khó khăn của người đàn ông đơn chiếc…”
Thâm tình phụ tử
Chị lớn lên, có những điều không thể tâm sự cùng cha. Và cha cũng không thể đóng vai trò người mẹ nên ông loay hoay tìm cách bù vào khoảng trống đó. Ông dặn chị giúp việc chỉ cho con ông nấu nướng. Ông dẫn con sang nhà nữ sĩ Tương Phố ở đường Trịnh Phong kế bên, nhờ bà dạy con mình cách ứng xử. Bà dạy chị từ dáng ngồi đến cách đi đứng, nói năng. Cha còn phái chị đến thăm những người bạn gái để “học cử chỉ dịu dàng”.
Chị cười buồn: “Do hoàn cảnh, cả ba chúng tôi đều sống ở ngoại quốc nên ông càng cô độc”.
Khi đọc lại từng trang sách của cha, chị biết ông đã trải qua những ngày tháng cô đơn thế nào. Vợ mất sớm, con đi xa, đôi lúc ông chạnh lòng và thông cảm:
“Trí nhớ chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai nên vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có nỗi lo lắng và vui vẻ riêng tư… nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Nỗi đau chung của ngày mất mẹ xóa nhòa dần đi…”.
Vì thế hôm nay chị lại trở về, mong cầu điều duy nhất là được chăm sóc cha. Khi làm việc, chị đem latop xuống ngồi bên cạnh giường ông lúc ông ngủ, để lắng nghe hơi thở, để nhìn sắc mặt mà đoán sức khỏe của cha vì theo chị:
“Sau này dù có đánh đổi cả vũ trụ để lấy một giờ được lo lắng đỡ đần cha mình, cũng không thể nào có được. Do đó tôi trân quý vô cùng những ngày tháng được ở cạnh cha tôi. Ngoài ra, cô Đạm là người thương ba nhất. Cô là bạn rất thân của ba hơn hai mươi năm nay”.
Ngôi nhà nhỏ số 53 đường Hồng Bàng, Nha Trang bây giờ trở nên ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Nhà văn Võ Hồng giờ đây hẳn thấy yên bình khi ở bên ông không chỉ có một mà đến hai người phụ nữ ông thương yêu.
Ngân Hà
Sài Gòn Tiếp Thị, số 105, ngày 16. 9. 2009, tr. 37
NHỮNG BÍ QUYẾT CỦA CUỘC SỐNG
Sandy con yêu,
Bố vừa nhận được thư cảm ơn của con về món quà bố mừng ngày con tốt nghiệp đại học. Bố bật cười khi đọc đến phần tái bút: “Con rất thích món quà của bố, nhưng con mong bố hãy truyền cho con những bí quyết để con chinh phục thế giới này và trở nên nổi tiếng”.
Sandy này, bố chẳng có bí quyết gì cho riêng mình cả. Cũng không ai truyền cho bố một lúc nhiều kinh nghiệm như vậy. Bố chỉ tích lũy từng chút trong cuộc sống của mình. Những điều bố sắp nói cho con sau đây thật ra chỉ là những điều rất đơn giản trong cuộc sống, nhưng giá trị của nó được minh chứng theo thời gian. Đó là những kinh nghiệm quý giá cho tất cả mọi người.
Nếu con không thể thay đổi thực tế, thì hãy thay đổi thái độ, cách nhìn của mình
Có lẽ thời kỳ đen tối nhất trong cuộc đời của bố là mùa đông năm 1942-1943. Khi đó bố là phi công lái máy bay chiến đấu ở Anh. Nơi bố đóng quân là một vùng hẻo lánh toàn sình lầy ẩm ướt. Dưới mặt đất, mọi người thường xuyên phải chịu những cơn rét buốt, khổ cực và nhớ nhà vô cùng. Còn trên bầu trời, mọi người bị lôi vào cuộc chiến bắn giết lẫn nhau. Tinh thần của mọi người đều sa sút, hoang mang, đặc biệt nguồn tiếp viện hầu như không có. Nhưng viên trung sĩ chỉ huy tiểu đội của bố là một người vui vẻ, hài hước, và luôn lạc quan. Một hôm, dưới làn mưa xối xả, bố thấy ông ấy cố hết sức dọn dẹp một pháo đài đã bỏ hoang nằm cạnh đường băng, để tận dụng nó như một ngôi nhà mà thực ra nó không khá hơn một bãi lầy. Vừa làm ông ấy vừa huýt sáo rất vui vẻ. Thấy thế, bố tự nhiên nổi cáu và hỏi:
- Thưa trung sĩ, ông vẫn có thể huýt sáo trong tình cảnh khốn khổ như thế này được ư?
Ông cười và bảo: “Nếu thực tế không thể thay đổi được, thì chúng ta phải thay đổi thái độ của mình để thích nghi với nó. Đơn giản vậy thôi”. Con sẽ thấy khi đối mặt với khó khăn, có người sẽ xử lý rất thông minh, khéo léo, nhưng có người lại trở nên oán giận, thù hằn, cay đắng, thậm chí còn lẫn tránh. Con hãy lựa chọn cho mình một thái độ đúng nhất để đương đầu với những thực tế không lường trước được trong cuộc sống của mình.
Khi buổi khiêu vũ kết thúc, nhớ cởi đôi giày nhảy ra
Khi còn nhỏ, bố thường nghe bà nội của bố bảo như thế. Bố cứ thắc mắc mãi vì không hiểu ẩn ý của câu nói đó. Khi bố lớn hơn một chút, bà mới giải thích câu đó cặn kẽ hơn cho bố.
Hôm đó, chị gái của bố đi chơi cuối tuần về, cảm giác tiệc tùng, chơi đùa, khiêu vũ với bạn bè vẫn còn rạng rỡ trên khuôn mặt chị. Nhưng khi vào nhà, chị ấy lại than thở về công việc hằng ngày, căn hộ chật chội, cuộc sống tù túng… Bà nội nhẹ nhàng bảo: “Này cháu, chẳng ai sống mãi trên đỉnh núi được. Thỉnh thoảng mới lên đến đó thì rất tuyệt, nhưng chỉ để tạo cảm hứng, và thu nhận một tầm nhìn mới mà thôi. Rồi đến lúc cháu phải đi xuống vì cuộc sống thực sự của chúng ta là ở dưới thung lũng kia. Nơi đó có đồng ruộng, vườn tược, cây trái, cày bừa… mọi việc đều phải được làm ở đấy cả. Và đó cũng là nơi để cháu áp dụng tầm nhìn mới mà cháu đã nhìn thấy ở đỉnh núi kia”. Nếu nhận thức được điều này, con mới có thể kiên định, vững vàng trong cuộc sống. Khi thời gian vui chơi đã hết, hãy cởi đôi giày khiêu vũ của con ra và mang đôi giày thực tại của cuộc sống vào, con nhé!
Hãy thắp sáng hào quang của những người xung quanh
Một sáng chủ nhật nọ, bố đang ngủ gà gật trên hàng ghế sau của nhà thờ. Bỗng bố thoáng nghe ông mục sư đã cao tuổi nói với các giáo dân của mình: “Hãy ngừng lo cho hào quang của mình, mà hãy thắp sáng hào quang của người hàng xóm”. Câu nói ấy khiến cho bố bật dậy và tĩnh táo hoàn toàn. Có lẽ đó là câu châm ngôn hay nhất về cách cư xử dung hòa với mọi người mà bố được nghe.
Bố thích sự ẩn ý trong câu nói đó, vì trong bất kỳ một lĩnh vực nào, con người cũng có một vầng hào quang để ngắm nhìn, thừa nhận. Đã đến lúc chúng ta “bớt chăm sóc bản thân mình và hãy dành thời gian quan tâm và chăm lo cho người khác”. Đồng thời, câu nói đó còn phản ánh một quy luật tâm lý rất sâu sắc của con người, đó là “nếu bạn mong muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì hãy đối xử với người khác như thế ấy”.
Đừng mặc áo mưa khi đứng dưới vòi sen
Thời sinh viên, bố từng tham gia một nhóm hướng đạo. Người chỉ huy nhóm của bố là một nhân viên lâm nghiệp. Ông rất say mê nghiên cứu, khám phá thiên nhiên. Một lần, ông đưa cả nhóm thám hiểm xuyên khu rừng, nhưng dọc đường, ông không nói câu nào. Khi đến nơi, ông yêu cầu tất cả mọi người mô tả lại những gì đã thấy trên đường đi như cây cối, chim chóc, muôn thú… Tuy nhiên, không câu trả lời nào làm ông ấy bằng lòng. Lần đó, ông khoát tay vẽ một vòng tròn lớn trên không rồi bảo rằng: “Tất cả mọi điều của cuộc sống đều ở xung quanh các em, nhưng các em lại phớt lờ. Đừng cài nút áo lên tận cổ nữa! Đừng mất thời gian mặc áo mưa khi đứng dưới vòi sen!”
Bố không bao giờ quên hình ảnh ví von trong câu nói đó. Thật buồn cười khi có một người đứng dưới vòi sen lại mặc áo mưa và cài nút kín tới cằm. Chúng ta nên cởi bỏ áo mưa để cuộc đời mình được trải nghiệm và tiếp thu những kinh nghiệm mới của cuộc sống. Những lời khuyên này thực ra đều nhắm một mục đích giúp con có suy nghĩ chín chắn, sâu sắc hơn đối với cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không phải tự nhiên mà có. Cuộc sống luôn công bằng, luôn dành cho mỗi người số giờ, số phút, số giây bằng nhau của một ngày. Thời gian đó chính là nguyên vật liệu, còn vận dụng nó như thế nào là tùy ở mỗi người. Và điều cuối cùng mà bố muốn gởi gắm cho con là một câu nói mà bố thật tâm đắc, đó là: “Bi kịch không phải ở những điều mà ta chịu đựng, mà ở những điều ta đã từ bỏ. Hạnh phúc, thành công không đo bằng những gì ta đạt được hoặc có trong tay, mà chính ở những gì ta cảm nhận được trong cuộc sống”.
Con hãy nhớ những điều đó. Luôn yêu con!
Theo Minimaxims For My Godson
BỨC THƯ GỞI CUỘC SỐNG
…
Ông hiệu trưởng thông báo con trai tôi - Scott - được bầu làm đại biểu học sinh, là người sẽ đọc bài diễn văn trong buổi lễ hôm ấy và ông đề nghị tôi viết vài dòng cho sự kiện này. Dĩ nhiên, tôi vui vẻ đồng ý. Và tôi rất tự hào về những thành quả của con trai mình. Tôi nhớ lại những sự kiện đã xảy đến với Scott. Và tôi nhận ra tầm quan trọng của buổi lễ tốt nghiệp đối với con tôi. Scott và các bạn của nó sẽ bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Rồi đây mọi thứ sẽ thay đổi. Cha mẹ và thầy cô sẽ không còn thường xuyên bên cạnh để dạy bảo và khuyên nhủ. Vì vậy, tôi đã viết những dòng chữ sau đây để gửi gắm đến cuộc sống.
“Cuộc Sống thân mến.
Hôm nay là một ngày đặc biệt quan trọng đối với các em thân yêu của chúng ta, là thời khắc mà các em phải tự mình bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới, một cuộc phiêu lưu mà ở đó có cả đấu tranh, bi kịch và nỗi buồn. Để tìm con đường đi cho mình, các em cần có lòng dũng cảm, sự bao dung, hiểu biết và hơn hết là tình yêu thương.
Vì thế, Cuộc Sống ơi, xin hãy quan tâm đến bọn trẻ. Hãy đón nhận và dạy các em những điều cần phải biết. Người có thể nhẹ nhàng với chúng, nhưng xin đừng nuông chìu, bởi chỉ qua lửa nóng vàng mới được tôi luyện.
Dần dần, các em sẽ thấy không phải mọi chuyện đều công bằng, không phải ai cũng ngay thẳng, thành thật. Nhưng các em hãy hiểu rằng nếu có kẻ bất lương thì cũng có người quân tử, nếu có kẻ thù thì cũng có cả những người bạn tốt.
Sẽ tốn nhiều thời gian đấy, nhưng Cuộc Sống ơi, hãy dạy cho các em biết một đồng tự kiếm được còn hơn nghìn đồng lượm lặt. Hãy dạy các em biết cách chấp nhận thất bại trong điềm tĩnh để biết được niềm vui trong chiến thắng. Bởi mỗi khi nhìn lại, sự mạnh mẽ sẽ giúp chúng đứng vững trước nỗi đau thất bại, và vẫn luôn cố gắng ngay cả khi đã đạt đến thành công.
Hãy hướng các em tránh xa sự hận thù, nếu có thể, xin Người hãy dạy các em ý nghĩa của nụ cười chia sẻ. Phải biết nhẹ nhàng với người tốt, và không nhượng bộ trước kẻ thù.
Hãy dạy các em biết lắng nghe lương tâm của bản thân hơn là ùa theo số đông, biết lắng nghe mọi người nhưng phải biết chắt lọc sự thật.
Hãy dạy các em biết mỉm cười khi buồn bã, và biết òa khóc mà không phải hổ thẹn bởi có khi trong thất bại là vinh quang, và đôi khi trong thành công cũng có cả nỗi thất vọng.
Và nếu có thể, hãy khuyên các em không nên so sánh bản thân mình với người khác, bởi lẽ luôn có những người vĩ đại hơn. Hãy dạy các em biết vượt qua những thành tích của chính mình.
Hãy cho các em thấy có những lúc cần phải mạo hiểm và có khi phải biết tung đồng xu may rủi. Tìm kiếm sự an toàn không phải lúc nào cũng là điều tốt nhất. Quan trọng hơn hết là phải biết tin vào chính mình, vì điều này sẽ mang đến lòng tin vào mọi người xung quanh.
Những điều trên đây rõ ràng còn hơn một lời đề nghị, nhưng xin Người hãy cố gắng hết sức có thể bởi những con người trẻ tuổi hôm nay sẽ là những người thay đổi và làm cuộc sống chúng ta tươi đẹp hơn mai sau.”
Theo Internet
Echo – Vọng Vu lan*
Thái Kim Lan
Lời ghi trước: Ý nghĩa của Vu lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh. Vu lan là cơ hội giải phóng của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hóa để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình – mà đó là lòng hiếu thảo – hạnh nhân bản nhất – con người có được năng lực “xá tội vong nhân”, -“xá tội” chứ không “rửa tội”- vong nhân vô lượng vì mê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian…
Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hóa kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng! Cho nên lòng người náo nức niềm vui hóa kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hóa kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành! (Trích: Vu lan Huế, thấp thoáng trở về).
Một người thợ nề trẻ, dáng dấp bất ngờ khác với những người thợ nề thường gặp, hầu như thư sinh với vẻ người gầy cao, gần như ẻo lả, hai bàn tay dài lêu nghêu, gương mặt thanh tú khác thường, sốt sắng nhận lời lên tu sửa ngôi từ đường cũ nát của chúng tôi ở gần chùa Linh Mụ. Hỏi em người ở đâu, người thợ trẻ trả lời với đôi mắt sáng to: “Nhà ở tận bên Châu Ê”. Hỏi em bảo đảm sửa được ngôi nhà cũ rích mà không bỏ cuộc? – “Dạ được!” Hắn nhìn ngắm ngôi nhà và gật đầu mạnh mẽ, vẻ nhiệt tình, lại còn sốt sắng tự nguyện khăn gói lên ngủ qua đêm để trông nom nhà và sáng hôm sau cùng nhóm thợ bắt đầu sớm.
Nghe mọi người quen hắn đều bảo là một trong những người thợ trẻ chăm và giỏi tính nhất vùng, làm việc đâu ra đó, yêu nghề và không ngại khó. Nhà chúng tôi neo người, chẳng là phần đông đã tha hương, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, ai cũng ngại về, và có về cũng chỉ để ghé thăm, cảm tưởng hầu như giống nhau về ngôi nhà xưa ấy, ái ngại trong lòng, khi nhìn ngôi nhà tổ tiên quằn quại chịu đựng với thời gian, nhưng càng ngại hơn là gian phòng ẩm thấp ai đến rồi cũng đi, ít người chịu ngủ trong căn nhà cũ, đầy hơi mốc và tối tăm. Cho nên mừng nghe có người sẵn sàng lên ngủ trông nhà, mặc dù vẫn còn hồ nghi quá nửa. Nhưng không lâu, người thợ trẻ với vẻ mặt tươi cười đã cắp đùm khăn áo, hộp cơm tối, gọn gàng bước qua ngưỡng gỗ, nói yên tâm mọi người có mặt đang sắp sửa về phố và lịch kịch đóng mấy tấm cửa bàng khoa. Anh tôi bảo hắn bạo gan – thú thật nhìn vào căn nhà tối ai cũng sờ sợ làm sao mà hắn tỉnh bơ – lại nhiệt tình và có cái tâm vô ngại. Sau khi dặn dò vài thứ ai nấy an lòng ra về.
Người thợ trẻ đốt đèn, chọn khoảng nền nhà trước bàn thờ Phật làm nơi ngủ, trải chiếu, tắt đèn, hắn nhìn lên mái ngói có tấm gương hắt chút bóng đêm ngoài vườn vào nhà, gian phòng lờ mờ tối chìm trong im lặng, và chẳng bao lâu người thợ trẻ dễ ngủ đã thở đều. Hắn ngủ ngon lành giấc ngủ của một chàng trai tuổi hai mươi sau một ngày lao động quần quật khiêng vác.
Vào khoảng giữa đêm trong cơn mê, hắn bỗng nghe có tiếng đàn ca xướng hát, tiếng người nói chuyện lao xao, mỗi lúc một rộn ràng hơn, mùi hương trầm lẫn với hương hoa mộc, hoa sói trong vườn thoảng nhẹ khắp nhà, nghe có tiếng chào nhau mừng rỡ như tuồng đang có một cuộc gặp mặt gia đình mừng tuổi, nhiều tiếng cười chung quanh, tiếng lanh canh của chén bát sứ chạm nhau trong nhà. Đang còn bỡ ngỡ, chưa biết đâu vào đâu, tưởng mình nằm mơ, bỗng hắn thấy trước mắt mình một bà lão đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy guộc mà thanh tao quý phái, tươi cười đưa tay kéo hắn dậy và nắm tay hắn dẫn đi khắp nhà, đến từng người một giới thiệu. Vẻ nhu hòa êm ái của bà làm hắn mất hết e dè, trái lại còn vui lây, cảm giác đầy thân thuộc, nên bước theo bà mà không chút ngại ngùng. Bà vừa đi vừa kể chuyện, chuyện con cháu trong nhà, ai đi ai ở, rồi đến chuyện căn nhà, hình như đã có từ mấy trăm năm nay, hết đời này sang đời khác, cho đến khi bà về làm dâu trong căn nhà ấy. Câu chuyện của bà hình như dài lắm mà hắn không nhớ hết, chỉ biết bà kể miên man bất tuyệt – mà trong khi cùng bà đi quanh thì tiếng ca hát văng vẳng bên tai càng nhộn nhịp, có tiếng đàn đệm theo tiếng hát, nghe rất ngọt ngào và điêu luyện như của những người tài tử sành điệu… Điều lạ lùng khác hẳn với ban ngày là căn nhà bỗng đầy sinh khí tươi mát, ánh sáng lấp lánh như nắng ban mai, không gian ấm cúng, chan hòa… Cuộc vui hình như kéo dài, đến bao lâu hắn không còn nhớ, chỉ biết là vui thật vui, hớn hở trong lòng không tả hết. Cho đến khi hồi chuông sớm từ chùa Linh Mụ vọng tiếng đầu tiên, người thợ nề trẻ giật mình, mới biết mình thật vừa mơ…
Câu chuyện người thợ nề trẻ nằm mơ trong căn nhà cổ tính ra đã hơn hai mươi năm, trước khi mẹ tôi rồi anh tôi lâm bạo bệnh và trở về với tổ tiên. Lần ấy vừa trở lại Huế, còn sinh thời anh tôi, chưa kịp đến nhà, từ phi trường, trên xe anh tôi đã kể và nhất định giới thiệu người thợ nề trẻ tuổi, nét mặt anh cẩn mật với một giọng kỳ bí lạ lùng. Một lần gặp, và sau đó mất hút tin. Tôi vẫn còn nhớ nét mặt thư sinh và đôi mắt sâu đen thông minh mỗi khi nhìn lên như nói với người đối diện nhiều điều hơn lời nói. Cảm giác thân thuộc như người trong nhà, và có lẽ hơn thế nữa, người ấy xuất hiện trước tôi như một người đưa tin, giây nối giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên này và bên kia, giữa minh dương hai ngả.
Trong tâm lẩn quẩn hai chữ tri ân mà không được nên lời, lại muốn giữ kín như một bí nhiệm cho riêng mình câu chuyện ấy, và kỳ lạ còn hơn cả bí nhiệm đeo đẳng trong hồn, mỗi khi chợt nhớ đến câu chuyện lại thấy lóe sáng tin vui có sức khởi động cả niềm tin – rằng trên nền đất cũ tịch liêu ấy vẫn sống động một thế giới toàn diện của hữu hình và vô hình, của lời và không lời, của tiếng và không tiếng – âm thanh và cõi lặng, tất cả được bao bọc bằng khí trời trong suốt hay mờ đục, và tầng tầng ánh sáng ngày đêm, mặt trời, trăng, sao,… rằng trong thế giới toàn diện ấy cơ hội gặp nhau, nghe nhau vẫn còn đó, vẫn nằm trong ngũ sắc cầu vồng, trong chớp mắt máy động tâm can.
Không những đêm mà cả giữa ngày, sự gặp gỡ hầu như xảy ra từng khoảnh khắc, kết thành một dòng liên tục, dòng chảy của chủ ý và vô tâm, của dòng ý thức – vô thức – bất tuyệt, những cuộc gặp gỡ vô hình và hữu hình, những chào hỏi vô thanh vang vọng nơi từng lá cây ngọn cỏ, trong gió đùa buổi sáng hay nắng hanh chiều bên song.
Ta có biết và ta có thể không hay biết, những bay đi và trở lại thế gian, những xa lìa và đoàn viên, những trở về, gặp gỡ rồi lìa xa, tiếng cười và tiếng khóc. Những tưởng bóng tối là u sầu, ấy thế mà vang vọng tiếng cười thanh xuân; những tưởng quá khứ là lụi tàn, nhưng không, tương lai vẫn xanh màu lá non. Và như thế mỗi cuộc trở về bỗng mang ý nghĩa hồi sinh, cuộc ra đi mang theo hy vọng gặp lại, bất sanh bất diệt.
Tín hiệu ấy đã như tiếng khánh khi bước chân qua cổng nền đất cũ, nếu lắng nghe thì đã vọng tiếng chào hiền dịu từ góc vườn có cây nhãn cổ thụ bỗng sai hoa vào tháng ba, tiếng thì thầm thoáng hơi sữa ngọt của triệu triệu chấm nhãn vàng mơ lẫn trong nắng sớm, bước thêm bước nữa đã gặp màu xanh lá chuối như lời ru, nhìn sâu vào màu xanh ấy có thể nghe thêm tiếng mưa thủ thỉ một thời thơ dại rúc vào lòng bà những đêm mùa đông rét mướt, chạm được luôn cả thân thể ấm áp của bà. Bước quẩn quanh bất ngờ nghe hoa sứ khai hương như đang vẽ nét nhan như ngọc của người cha khuất bóng từ lâu, tưởng như đã xóa nhòa trong ký ức trẻ thơ, bỗng hiển hiện nguyên trinh trên đài hoa hương nguyện. Bước trật chân trên cỏ rối lại nghe tiếng cười ái ngại của chị gái hiền đâu đây, chợt thấy nét thùy mỵ diễm tuyệt đến phải quy hàng chỉ còn biết thương hết nỗi thương. Có bước gấp để đuổi kịp gió đang gom những mùi hương nhẹ nhất trong khu vườn giấu kín một nơi, và gặp nụ cười chúm chím của anh trai đang đùa em giấu chùm vải sau lưng, bắt phải đi tìm… Lại có khi dừng bước không đi ngoái tìm bông hoa núp lá bất ngờ tiết lộ mùi hương ngọt ngào như hương thơm da thịt của mẹ thời tóc dài chấm gót… Lại có khi rón rén để đừng xao động bóng chim hay cánh bướm đang nhởn nhơ trên cỏ rồi ngẩng người chợt thấy mẹ và chị thấp thoáng sau cây hải đường vào ra như những ngày xưa ấy. Và sẽ kể hoài không dứt như câu chuyện của bà đã kể và còn đang kể trên lá trên hoa trong khu vườn ấy khi chân bước đến, khi tay lật viên gạch cũ thấy lại dấu tích ngày trước, khi lòng nóng hổi muốn gầy dựng lại mái xiêu, khi tâm thành như đất vườn được xới bốc hơi nuôi nấng con người, cây cỏ…
Hầu như mỗi phút, mỗi giây cuộc gặp gỡ đều có thể xảy ra, không phải ngày xưa ấy, mà bây giờ, nơi đây, trong khoảnh khắc hiện tại, trên đầu giọt sương, trên đầu bọt nước, trên từng bào ảnh, trên từng mộng huyễn, vô lượng kiếp kiếp, vô lượng chúng sanh, vô lượng vạn vật, không phải là mơ mà thật ngay nơi đây, giờ khắc này, như hoa mưa vừa bừng nở sáng lóng lánh trên màu xanh vọng tiếng…
Thái Kim Lan
—–
* Ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, theo Phật giáo, là ngày tự tứ đầu tiên Đức Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày tôn giả Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ ngài Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hy vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người.
Nguồn: Văn Việt 25/8/2018
GHI CHÚ:
Cung kính niệm ân và tạ lỗi cùng Ni Sư – TS Thích Nữ Giới Hương vì Nguyên Tánh & Nguyên Hạnh không dự Lễ Vu Lan ở Hương Sen ngày 02 tháng 9 năm 2018, theo lời dăn dò của Ni Sư.
Nguyên Tánh chọn một ít bài trong các Tuyển tập Vu Lan mấy năm trước, thêm ít bài mới để cung kính tặng Ni Sư.
NGUYÊN TÁNH
Santa Ana, CA 02/09/2018
TÌNH HIẾU
BAO LA
Mẹ & Con. Tranh Bé Ký
TÌNH HIẾU BAO LA
THÍCH NỮ GƯỚI HƯƠNG
Ngoài sân lá nhuốm vàng
Báo hiệu Vu-lan sang
Gió thì thầm khẽ nói
Hạnh Tứ Ân dâng Phật.
Ân Tam Bảo giải thoát
Ân Cha Mẹ sinh thành
Ân Đàn Na bảo trợ
Ân Đất Nước cưu mang.
Vô số hạt mưa rơi
Thi báo Tứ Trọng Ân
Noi gương hiếu Mục Liên
Đáp tạ lòng của đất
Mưa tan trong lệ nóng
Cây nghiêng mình báo ân
Trân châu thấm lòng đất
Ôi Tình Hiếu Bao La!
Mưa thu Milwaukee, 19/7/2009
GƯƠNG SÁNG MỤC LIÊN
THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG
Mỗi rằm tháng bảy vào thắng hội Vu Lan hầu như chùa nào cũng tụng kinh Phụ Mẫu Báo Ân, Kinh Vu Lan, Sám Vu Lan để nhớ đến công hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên hiếu thảo với thân mẫu quá vãng và bảy đời cha mẹ quá khứ. Ngài đã vâng lời Phật dạy cúng dường trai tăng, cầu thập phương thường trụ Tam bảo gia hộ cho thân mẫu buông xả lòng tham, sân, si, ích kỷ, độc ác và được nhẹ nhàng siêu sanh tịnh độ. Từ đó, tôn giả được tôn vinh như một tấm gương sáng về hạnh Đại hiếu.
Tôn giả Mục Liên dáng người cao lớn, phương phi và sáng rỡ. Ngài rất là công bình, nghĩa khí hay xiển dương chánh pháp, dẹp phá tà bậy mà không ngại mất lòng. Trong những năm đầu mới xuất gia, Mục Liên cùng với ngài Xá Lợi Phất là hai thị giả hầu cận đầu tiên của Đức Phật. Chỉ xuất gia mới một tuần, Mục Liên đã dứt hết lậu hoặc, chứng a-la-hán và được thiên nhãn thông (mắt nhìn thấy xa tận cõi trời, địa ngục...). Thật là một tấm gương sáng cho chúng ta suốt đời học hỏi.
Chẳng những là bậc đại hiếu, tôn giả Mục Liên còn nổi bật về những công hạnh khác như với nghĩa khí hiên ngang, ngài đã cảm hóa rất nhiều ngoại đạo cang cường trở về Phật pháp. Với thiên nhãn nhìn thấu cõi địa ngục, ngạ quỷ, ngài đã hoá độ rất nhiều loài ngạ quỷ. Công đức hóa độ, trí tuệ thần thông và oai lực của ngài thật vô biên khó nghĩ bàn như câu chuyện dưới đây (phỏng theo truyện Mục Liên trong Thập Đại Đệ Tử Truyện) là một minh chứng.
Một hôm Mục Liên Tôn Giả đang ngồi thiền bên bờ sông Hằng. Lúc ấy hoàng hôn đang buông xuống và trời bắt đầu tối nhá nhem. Bằng thiên nhãn, ngài thấy vô số loài quỷ đang từ các hướng tập trung tại bờ sông Hằng để uống nước. Nhưng gặp một con quỷ hung ác giữ mé nước, cầm gậy sắt xua đuổi không cho uống. Bọn quỷ chạy tán loạn và đến quỳ lạy khóc lóc trước Tôn Giả cầu khẩn ngài giải đáp về những nổi khổ nhân duyên tội báo của chúng.
Quỷ thứ nhất hỏi: «Thưa Tôn giả! Đời trước chúng con là người nay bị đọa làm thân quỷ đói, thường bị đói khát ngày đêm. Nghe nói nước sông Hằng trong mát, nên chúng con mỗi ngày tụ đến để lấy uống thì bị quỷ giữ sông Hằng xua đuổi không cho. Nếu lén uống nhanh được hớp nào thì nước vào bụng trở thành như lửa nóng, đốt cả ruột gan chúng con. Kính xin Tôn giả từ bi cho chúng con biết ác nghiệp gì mà chúng con thọ khổ báo này? »
Mục Liên dùng định lực quán sát nhân quả ba đời của chúng và đáp: «Đời trước các ngươi làm thầy bói số. Khi nói tướng kiết hung cho người, thường nói dối nhiều hơn nói thật. Vì cầu lợi dưỡng, không thương người mê muội và còn khiến họ vào đường mê mờ, mới thọ nghiệp báo này ».
Quỷ thứ hai hỏi: «Thưa tôn giả, con thường bị một con chó hung dữ nhai nuốt thân thể con, ăn hết thịt con. Con đau đớn vô cùng. Khi ấy một cơn gió lớn bất ngờ thổi qua, thì bộ xương con như được ráp và sống trở lại. Rồi con lại có cảm giác bị chó ăn nuốt nhai xương con, rồi gió thổi xương thành sống trở lại... Cứ thế thân tâm con trải qua bao điều vô cùng đau đớn khủng hoảng như vậy hoài không dứt. Con không biết vì nhân duyên gì?
Mục Liên đáp: «Vì đời trước hay giết heo, dê, gà, vịt... cúng tế trời thần khiến thân tâm của gà vịt bị đau đớn. Nên nay làm quỷ phải bị cảm giác thân tâm đau đớn như vậy hoài mãi».
Quỷ thứ ba hỏi: «Thân con bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng thể ăn được, thèm đến chảy nước miếng. Con không biết con vì tội báo gì? »
Mục Liên đáp: «Đời trước làm quan oai quyền, giàu có, tự ý tung hoành theo ý thích và khinh khi người. Tài sản người do mồ hôi nước mắt tạo ra, ỷ mạnh chiếm đoạt, nên nay chịu quả báo này».
Quỷ thứ tư: «Lưỡi con dài đến chân và máu huyết cứ vọt ngược từ dưới đầu lưỡi lên trên dồn lại khiến đầu to bằng cái đấu lớn. Con cảm thấy như bị nghẹt thở, mạng căn như sợi chỉ mành sắp đứt, chẳng biết vì nhân duyên gì mà thọ tội khổ này?
Mục Liên đáp: «Đời trước hay nói chuyện thị phi, tốt xấu của người khiến cho người nghe đau mình nhức óc, tăng khổ não. Nên nay bị thọ khổ báo đó».
Mỗi quỷ lần lượt thưa hỏi tội nghiệp đã tạo từ trước và nhân duyên của quả báo này. Tôn giả đều mỗi mỗi từ tốn trả lời cặn kẽ. Nghe xong, các quỷ cải hối, vô cùng ăn năn về những ác nghiệp quá khứ của mình. Chúng thành tâm sám hối và sau đó chúng được thoát kiếp đọa đầy thân quỷ đói, địa ngục khổ sở của mình.
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Tội nhơn giải thoát
Tịnh Ðộ hóa sinh
Phúc huệ mãi an lành.
Nam Mô Tịnh Ðộ Phẩm Bồ Tát Ma Ha Tát
Vu Lan PL 2553, ngày 19/7/2009
Thích Nữ Giới Hương
Đi chợ mua bông sen. Tranh Bé Ký
SỢI TƠ NHỆN
CAO HUY THUẦN
Mùa hạ qua rồi, dưới trần gian, sen đã tàn, nhưng trên cung trời Đâu Suất sen bốn mùa vẫn nở. Sen trắng, sen hồng vươn trên mặt hồ, nhuỵ vàng hé mở, tỏa hương thơm ngát.
Bên bờ hồ, Mục Kiền Liên bâng khuâng nghĩ đến mẹ vì bây giờ là Rằm tháng Bảy trên trái đất. Trong thoang thoảng hương sen, bồ tát nghe vọng lên từ cõi thế tiếng tụng kinh nhắc nhở đến ngài, đến mẹ ngài, đến bát cơm mà ngài dâng cho mẹ dưới địa ngục. Ngài thấy lại mẹ lúc bà vội vàng lấy tay che bát cơm để các quỷ đói khác đừng giành. Ngài thấy lại bát cơm bốc lửa. Vì lòng tham khi sống, mẹ ngài bị đọa thành quỷ đói. Vì lòng tham khi chết, tham vẫn tham, nên đói vẫn đói, cơm thành lửa.
Mục Kiền Liên thấy lại khu lâm viên trong thành Xá Vệ khi ngài đến bạch Phật về nghiệp nặng không cứu được của mẹ. Bên tai, ngài còn nghe Phật dạy: chỉ có uy đức của tăng chúng mới cứu được mà thôi. Phật dạy rõ: tăng chúng ở đây là tăng chúng đã sám hối sach tội. Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua rồi, Mục Kiền Liên vẫn thấy Phật ngồi, vẫn nghe Phật nói. Mẹ ngài bây giờ đây không còn chỉ là một: đó là hình ảnh cụ thể của mẹ trong nhiều kiếp, tất cả mẹ của chúng sinh. Như sen giữa hồ vươn lên thơm ngát, mẹ của ngài là một đóa sen trong muôn đóa sen.
Bất giác, Mục Kiền Liên nảy ra ý nghĩ đặt chân xuống trần thế, làm một Phật tử như muôn triệu Phật tử, để tụng một bài kinh Vu Lan tạ ơn Phật, tạ ơn tăng chúng, tạ ơn cha mẹ trong nhiều kiếp, tạ ơn chúng sinh. Ngài vụt nghĩ, ngài vụt đi. Với thần thông, trong chớp mắt ngài nghe trái đất nát dưới lòng chân. Ngài trộn lẫn trong hàng hàng lớp lớp áo lam tập hợp trước sân chùa. Một tiếng chuông… nhiều tiếng chuông. Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên bồ tát. Trời tháng Bảy nóng. Cây bồ đề trong sân chùa tỏa bóng in xuống nền đất. Đây là cây bồ đề đến từ xứ Phật. Nhớ khi Thế Tôn tĩnh tọa dưới gốc cây, Mục Kiền Liên đến ngồi trong bóng mát. Không ai biết ngài là Mục Kiền Liên.
Không ai biết ngài là bồ tát, trừ một con nhện. Từ trên cành, con nhện đu tơ xuống đậu trên áo ngài.
- Bạch ngài, mắt người không thấy hào quang trên trán ngài, nhưng mắt con thì thấy lấp lánh. Con người chỉ biết có bồ tát khi bồ tát đã đi rồi, nhưng con thì biết bồ tát khi bồ tát đến. Bao nhiêu sợi tơ trong bụng con là bấy nhiêu rung động của linh cảm, mỗi sợi tơ ngân lên như một dây đàn. Nhạc trong bụng con đang tấu lên bản hoan ca hạnh ngộ bồ tát.
Mục Kiền Liên đáp, không ngạc nhiên:
- Còn trong bụng ta đang hoan ca lời kinh Rằm tháng Bảy. Trong bụng ta cũng đầy tơ đàn. Bao nhiêu đường gân nơi lá bồ đề này là bấy nhiêu sợi đàn của lời kinh trong lòng ta. Đạo hữu tìm đến ta chắc có chuyện gì chăng? Tơ của đạo hữu muốn xe duyên gì với tơ của ta?
Con nhện vui mừng khôn xiết. Hai mắt nó sáng rực lên như hai đốm lửa.
- Bạch ngài, hôm nay là ngày xá tội vong nhân. Ví thử một người phạm nhiều tội ác, nhưng về sau làm được một việc lành, việc lành đó có cứu được người ấy chăng?
Mục Kiền Liên đáp:
- Đạo hữu hãy nghe ta kể chuyện này. Xưa kia có một tôi nhân đọa trong địa ngục, một hôm thấy cai ngục hành hạ một tội nhân khác đau đớn quá, động lòng thương xót, vái xin cai ngục nhẹ tay, bao nhiêu nặng tay cứ đổ xuống trên thân xác mình. Cai ngục nổi giận giết chết người đó tức khắc. Chỉ nhờ một niệm phát bồ đề tâm mà tội nhân ấy chấm dứt được cái tội trăm kiếp đọa ngục, mở đầu cho con đường đi đến cội bồ đề. Tội nhân ấy chính là đức Phật trong một tiền thân.
Con nhện hớn hở:
- Vậy thì con xin kể ngài chuyện này, chuyện của con. Kiếp trước, con là người, là người đánh đàn giỏi nhất nước. Nhờ đàn hay, con mê hoặc bao nhiêu phụ nữ, hết người này đến người khác, từ con gái đến đàn bà có chồng. Con phạm tội giết người cũng vì vậy, giết người để lấy vợ người ta. Con bị hóa kiếp làm nhện vì mỗi sợi tơ trong bụng con là một cái bẫy, giống như cái bẫy nơi tơ đàn của con ngày trước. Nhưng tơ của con bây giờ không còn là bẫy nữa vì con đã phát bồ đề tâm dùng tơ để cứu người và cứu mình. Con cầu nguyện gặp được bồ tát và quả nhiên hôm nay con gặp ngài. Tơ trong bụng con cũng quý như máu trong thân người, con xin hiến dâng ngài tất cả. Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy, ngài là đệ tử có thần thông bậc nhất của đức Phật, xin ngài dùng tơ này dể cứu một tội nhân dưới địa ngục. Đây là việc lành duy nhứt của con.
Con nhện nằm rạp mình sát bụng, như muốn quỳ lạy. Với thiên nhãn, Mục Kiền Liên quan sát địa ngục. Ngài để ý đến một tội nhân đang quằn quại rên xiết và thấy kiếp trước của tên tướng cướp khét tiếng tên là Kandata này. Suốt đời tàn ác, anh ta chỉ làm được một việc lành, việc lành duy nhất ở cuối đời. Hôm ấy, bị vây đuổi trong rừng trước khi bị bắt, anh ta thấy một con nhện đang bò giữa đường. Trong cơn cùng quẫn, anh ta toan dẫm nát con nhện, bỗng chợt nghĩ: “Con nhện kia, tuy bé nhỏ, cũng có đời sống của nó, giết chết đời sống ấy là việc không nên làm”.
Mục Kiền Liên rút tơ trong bụng nhện ra, thả một sợi vào địa ngục. Như nghe một tiếng đàn vọng ra từ sợi dây, Kandata ngừng rên la, chăm chú nhìn sợi dây bạc từ từ thòng xuống. Lấp lánh từ trên phía cao của sợi dây, cái gì như một tia nắng, ánh nắng mà lâu lắm rồi Kandata chưa được thấy lại. Trên cao kia là đời sống chăng? Là cây, là gió, là nắng, là chim muông, là xe chạy, là cười nói, là giải phóng chăng? Lập tức anh ta nắm lấy sợi dây, vui mừng thấy sợi dây bền chắc. Với tất cả sức lực, anh ta hăm hở leo lên. Mỗi lúc mỗi cao, càng cao ánh sáng dường như càng tỏ hơn. Trên đầu, vòm trời bắt đầu như có màu xanh. Không khí bắt đầu nhè nhẹ như có gió. Nhưng tay anh ta đã quá mỏi, sức đã kiệt. Kandata ngừng leo, nhìn xuống phía dưới. Dưới xa, thật xa, mờ mờ trong bóng tối của địa ngục, ba bốn tội nhân cũng đang bám vào sợi dây để leo lên. Hoảng hốt, Kandata la lớn: “Buông ra! Dây này là của tôi! Đừng làm đứt dây. Buông ra!” Nói chưa dứt lời, sợi dây đứt phụt, phát ra một tiếng chát chúa như dây đàn bị đứt. Rụng như một trái cây thối, Kandata rơi xuống một vũng bùn lầy lội máu.
Mục Kiền Liên thấy lại bát cơm của mẹ. Giá như mẹ đừng tham ăn… Giá như Kandata đừng ích kỷ… Chỉ một khởi tâm, anh ta suýt thoát đọa kiếp. Chỉ một khởi tâm, kiếp kiếp đọa đày. Mục Kiền Liên lại thấy mình bất lực. Bất lực như đã bất lực khi bát cơm bốc lửa. Bất lực vì địa ngục nằm ở trong tâm. Trong tâm của mẹ. Trong tâm của Kandata.
Như một Phật tử bình thường, Mục Kiền Liên hòa tiếng tụng kinh của mình vào tiếng tụng kinh đang vang vọng khắp sân, bài kinh Vu Lan mà chính đức Phật đã dạy ngài. Không ai biết ngài là Mục Kiền Liên. Trên áo ngài, con nhện không còn đó nữa. Sợi tơ cũng đã biến mất. Chỉ ngài biết con nhện đã biến đi đâu. Ngài thấy nó hóa thân thành một người áo lam bình thường như bao nhiêu người áo lam khác trong sân, đang hòa tiếng tụng kinh của mình vào tiếng tụng kinh của mọi Phật tử. Không ai biết con nhện đang là người tụng kinh. Trừ Mục Kiền Liên. Bởi vì chỉ bồ tát nhận ra bồ tát.
Từ miệng con nhện, tiếng kinh vang vọng xuống tận địa ngục. Vang vọng lên tận cung trời Đâu Suất, ở đó sen trắng sen hồng đang hé nhuỵ vàng, tỏa hương thơm ngát.
Cao Huy Thuần
Sợi tơ nhện, tr. 18-23
Hộ niệm Sư Bà Hải Triều Âm
Trên đây là bài kệ do Sư Ông Làng Mai viết để xưng tán công hạnh của Sư bà Hải Triều Âm, một vị chân tu mà trong nước ai cũng thương kính. Nói chuyện với Sư Ông Làng Mai, chúng tôi được nghe Sư Ông cho biết là bài kệ cũng có mục đích an ủi học chúng của các đạo tràng do Sư Bà thành lập và giáo huấn, trong đó có các vị ni trưởng, ni sư và hàng trăm vị Nữ khất sĩ, Thức xoa ma na và Sa di ni, nhiều vị trẻ trong số đó đã tiếp nhận giới pháp ở Đại Giới Đàn Phương Bối năm 2007. Đồ chúng của Sư Bà còn là hàng chục ngàn vị Phật tử cư sĩ. Hình ảnh dòng sông là hình ảnh tăng thân gồm có tất cả quý vị ấy. Những con suối nhỏ đã tìm tới với nhau để tạo thành dòng sông và do sự giáo huấn, hướng dẫn của bậc nữ đạo sư là Sư Bà mà dòng sông ấy đã lên đường đi về tương lai của Đạo pháp. “Đi như một dòng sông” là hình ảnh của một tăng đoàn rất đẹp, có hòa điệu, có hạnh phúc, không hề có chia rẽ, có khả năng hiến tặng hạnh phúc cho đời. Tu tập và độ đời đem lại rất nhiều niềm vui và sự thảnh thơi. Do đó có hình ảnh “dòng sông nay đã lên đường rong chơi”. Hải Triều Âm là pháp hiệu của Sư Bà và Cát Tường Lan là bút hiệu của Sư Bà sử dụng để viết những bài về Phật pháp cho tuổi trẻ trên tạp chí Bồ Đề hồi Sư Bà còn trẻ. Cát Tường Lan là phiên âm của Catallan, tên thân phụ Sư Bà. Hồi còn trẻ, Sư Bà cũng hay được gọi là chị Ni, vì tên Pháp của chị là Eugénie. Ban Biên Tập chúng tôi đã tìm cách gửi bài kệ này về đạo tràng Dược Sư, nhưng không biết có tới được kịp không. Nếu có vị thân hữu nào ở gần đạo tràng, xin giúp chúng tôi mang bài kệ này tới và dâng lên cúng dường.
Ban Biên Tập Trang nhà Làng Mai
NHỮNG LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
VỀ CHA MẸ, CON CÁI VÀ GIA ĐÌNH
WALPOLA RAHULA
Kinh Sigàla (số 31 của Digha-nikàya) chứng tỏ Đức Phật đã coi trọng cuộc đời cư sĩ, gia đình và xã hội của họ, như thế nào.
Một người trẻ tuổi Sigàla, thường lễ bái sáu hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, thượng, hạ vì vâng lời và thực hành theo lời trăng trối của cha. Đức Phật bảo anh ta rằng trong luật của bậc Thánh (ariyassa vinaye) sáu phương ấy có nghĩa khác. Theo “luật” của Ngài, sáu phương là: Đông: cha mẹ; Nam: thầy; Tây: vợ con, Bắc: bạn bè quyến thuộc, láng giềng; hạ: tôi tớ, người làm công và thợ thuyền; thượng: những vị tu sĩ, Bà-la-môn.
“Người ta nên lễ bái sáu phương ấy”, Đức Phật dạy. Ở đây chữ lễ bái (namasseyya) rất ý nghĩa, vì người ta chỉ lễ bái một cái gì thiêng liêng, khả kính. Đạo Phật xem sáu nhóm gia đình xã hội trên đây là thiêng liêng, đáng sùng mộ kính trọng và lễ bái. Nhưng lễ bái cách nào? Đức Phật dạy rằng người ta có thể “lễ bái” bằng cách làm tròn bổn phận của mình. Những bổn phận ấy Đức Phật giảng rõ trong bài thuyết pháp cho Sigàla.
Thứ nhất: Cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Đức Phật dạy: “Cha mẹ chính là Thượng đế” (Bramàti màtàpitaro). Danh từ Brahma (Thượng đế) chỉ quan niệm cao cả thiêng liêng nhất trong tư tưởng Ấn giáo, và trong đó Đức Phật đã bao gồm cha mẹ. Bởi thế ngày nay trong những gia đình theo Phật thuần thành, con cái thực sự “lễ bái” cha mẹ hằng ngày, sáng và tối. Họ phải làm một vài bổn phận đối với song thân theo luật của Phật: Phải săn sóc cha mẹ khi già, phải làm bất cứ cái gì cần làm cho cha mẹ, phải giữ danh dự của gia đình, và tiếp nối truyền thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và làm tang lễ sau khi cha mẹ chết. Đối lại, cha mẹ phải có một số bổn phận đối với con cái: Họ phải giữ con cái tránh xa những đường tà, phải khiến chúng làm những việc thiện và lợi ích, phải giáo dục chúng đầy đủ, phải cưới gả chúng vào những gia đình tử tế, và phải chia tài sản cho công bằng.
Thứ hai: liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng vâng lời thầy, phải lo cho thầy nếu thầy có điều chi cần thiết, phải học hành chăm chỉ. Và thầy đối lại, phải huấn luyện học trò một cách thích đáng, phải dạy kỹ lưỡng, phải giới thiệu bạn bè cho nó, và phải cố kiếm sự bảo đảm việc làm cho nó sau khi học xong.
Thứ ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa chồng và vợ được xem gần như tôn giáo hay thiêng liêng. Nó gọi là Sadàra-brahmacariya “đời sống gia đình thiêng liêng”. Ở đây cũng thế, ý nghĩa của từ Brahma cần được lưu tâm: Đạo Phật dành cho mối liên hệ này sự kính trọng cao cả nhất. Vợ chồng phải trung thành, kính trọng và tận tụy với nhau, và họ có vài bổn phận đối với nhau. Chồng phải kính nể đối với vợ, phải đảm bảo đời sống và tiện nghi cho vợ, và phải làm vợ vui lòng bằng cách tặng nàng áo và đồ trang sức. (Sự kiện Đức Phật đã không quên nhắc đến cả những món quà một người chồng nên tặng vợ, đủ chứng tỏ tình người thắm thiết của Đức Phật, thiện cảm tế nhị của Ngài đối với những tình cảm của người thường). Đối lại, người vợ phải coi sóc việc nhà, phải làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân thuộc và những người làm công, phải yêu thương, trung thành với chồng, phải giữ gìn tiền của chồng kiếm được, phải khôn khéo và nghị lực trong mọi công việc.
Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, láng giềng. Họ phải tử tế nhân từ đối với nhau, phải nói lời hòa nhã dễ nghe, phải làm cho nhau lợi ích, phải hòa hiếu với nhau đừng gây gỗ nhau, phải giúp nhau khi cần, và đừng bỏ nhau trong khi hoạn nạn.
Thứ năm: liên hệ giữa chủ và tớ. Người chủ nhà có nhiều bổn phận đối với tôi tớ hay người làm công: phải giao công việc tùy theo khả năng và sức khỏe, phải trả lương thích đáng, phải cung cấp thuốc men, thỉnh thoảng phải nên tặng quà. Đổi lại, người giúp việc hay làm công phải chuyên cần không được biếng nhác, phải lương thiện, vâng lời và đừng lường gạt chủ, phải siêng năng trong công việc làm.
Thứ sáu: liên hệ giữa những người ẩn sĩ, Bà-la-môn với người thế tục. Những người thế tục phải coi sóc những nhu cầu vật chất của những tu sĩ Bà-la-môn, ẩn sĩ, với lòng thương yêu kính trọng; những vị tu sĩ phải ban bố với lòng lân mẫn, kiến thức và hiểu biết cho người thế tục, và dẫn dắt họ theo đường chánh, xa đường tà.
Như vậy, ta thấy rằng đời sống thế tục, với những liên hệ gai đình, xã hội, cũng được bao hàm trong “kỷ luật cao cả”, và cũng nằm trong khung của lối sống Phật giáo như đức Phật đã quan niệm.
Walpola Rahula. Tư tưởng Phật học
Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải. NXB Văn hóa Sài Gòn, 2009, tr. 171-175
ƠN NGHĨA CHA MẸ
Trích Kinh Bốn Ân Lớn
SA MÔN THÍCH NHẬT TỪ
Soạn dịch
“Này các đệ tử, cha có “từ ân”, mẹ có “bi ân”. Bi ân của mẹ, nói trong một kiếp cũng không hết được. Tình thương của mẹ trên thế gian này không có cái gì có thể sánh bằng. Từ lúc mang thai, suốt mười tháng trường, đi, đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu đau khổ, kiêng cữ mọi thứ, không màng bản thân. Dù hưởng dục lạc, ăn uống, trang sức, mẹ không ưa thích. Lòng mẹ lúc này luôn nghĩ đến con, không chút quên lãng.
Đến khi sinh nở, mẹ đau đớn hơn, như nghìn mũi nhọn cắt xé thân thể, không thể kể xiết. Có khi bất hạnh, mẹ phải qua đời để con được sống. Khi sinh nở rồi, mẹ mừng khôn tả, như kẻ nghèo khó được ngọc như ý. Con khóc chào đời, lòng mẹ như nghe một bài giao hưởng. Mẹ dùng ngực mình làm nơi con ngủ. Vòng tay của mẹ ôm ấp đời con. Bầu sữa của mẹ như suối cam-lộ nuôi lớn đời con. Ơn đức nuôi dưỡng của đấng mẹ hiền không gì sánh được. Trên thế gian này, núi là cao nhất, ơn đức của mẹ còn cao hơn nhiều. Trên thế gian, quả đất nặng nhất, ơn nghĩa của mẹ còn nặng hơn nhiều.
Bổn phận làm con, dù trai hay gái, nếu ai bội ân, bất hiếu cha mẹ, làm cha mẹ buồn, oán hận trong tâm, thốt ra lời ác, thì bị tổn đức, sa đọa đường xấu. Trên thế gian này, không gì nhanh hơn sức gió vũ bão. Một niệm oán giận của đấng sinh thành còn nhanh hơn gió. Bổn phận làm con không thể trái nghịch ân đức mẹ cha.
“Này các đệ tử, bất cứ người nào vâng lời cha mẹ, không hề trái nghịch, làm điều lợi lạc thì được thiên thần thường theo bảo hộ, được phước báu lớn. Làm con hiếu thảo đền ơn cha mẹ, mỗi ngày ba lần, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ cũng không trả được công ơn sinh thành của mẹ và cha. Khi còn trong thai, tất cả người con, miệng nút cuống vú, sống nhờ sữa mẹ; khi đã chào đời, hơn một ngàn ngày, tiếp tục uống sữa ngọt ngào của mẹ. Tất cả chất bổ trong cơ thể mẹ đều nuôi con trẻ. Sinh con đần độn, dị tật bẩm sinh, thân thể tật nguyền, tình thương của mẹ không hề thay đổi. Ngày xửa ngày xưa, có một bà mẹ du lịch phương xa, lưng bế đứa con, lội qua sông Hằng, vì nước dâng cao, dòng chảy lại mạnh, sức bà yếu dần, vì thương con quá, không nỡ bỏ con nên hai mẹ con đều bị chết chìm. Tình mẹ là thế, bao la như biển, không thể tính đếm, sẵn lòng chịu chết vì thương con mình.
“Này các đệ tử, có mười ân đức của bậc từ mẫu, bổn phận làm con phải lo đáp đền. Một là ơn mẹ như trái đất; vì cơ thể mẹ là chỗ nương tựa sự sống của con. Hai là ơn nghĩa ban tặng sự sống; mẹ phải trải qua nhiều đau khổ để được sinh con làm phận người. Ba là ơn nghĩa nâng đỡ con cái; tay mẹ vuốt ve, uốn nắn vóc hình cho con khỏe đẹp. Bốn là ơn nghĩa nuôi dưỡng con cái; mẹ phải tảo tần bốn mùa lao khổ, cho con ăn học, nuôi con khôn lớn. Năm là ơn nghĩa dạy dỗ con cái; mẹ dùng phương tiện, truyền hết kinh nghiệm, trao con tri thức lập nghiệp chân chính. Sáu là ơn nghĩa làm đẹp cho con; mẹ hy sinh mình, làm đẹp cho con với quần áo đẹp và trang sức phẩm. Bảy là ơn nghĩa giúp con bình an; mẹ ôm ấp con, cho con nghỉ ngơi, an lành sức khỏe, khỏi phải lo toan những điều gian khổ. Tám là ơn nghĩa dạy con nên người; mẹ dùng kiến thức và các kinh nghiệm hướng dẫn đời con, giúp con nên người hữu dụng trong đời. Chín là ơn nghĩa dạy con đạo đức; mẹ sống gương mẫu, dạy con lánh ác, làm các việc lành, trau dồi đạo đức, sống đời thanh cao. Mười là ơn nghĩa gây dựng gia nghiệp; mẹ trao gia tài, tất cả cho con, để con thừa hưởng và phát huy thêm.
“Này các đệ tử, ai còn cha mẹ được gọi là giàu, ai mất song thân được gọi là nghèo. Mẹ hiền còn sống như trời giữa trưa, ánh sáng chiếu soi không hề thiên vị. Mẹ hiền mất đi như mặt trời lặn, bóng tối phủ trùm. Cha hiền còn sống như núi vĩ đại, cha mất đi rồi như dưới vực sâu. Vì thế mọi người phải sống ơn nghĩa, hiếu dưỡng cha mẹ như thờ Phật pháp thì được phước đức không thể kể hết.
Kinh Phật cho người tại gia
Sa môn Thích Nhật Từ soạn dịch
- 277-298
TRĂNG RẰM VU LAN
CAO HUY THUẦN
Chúng tôi nghe kể câu chuyện sau đây đã xảy ra trong một chùa tại Mỹ.
Sau một ngày sinh hoạt chủ nhật thường lệ, một bà cụ già chờ con đem xe đến đón về. Đây là lần đầu bà cụ đi chùa từ khi ra ngoại quốc. Cũng là lần đầu đứa con của bà bước vào cổng chùa. Chờ mãi không thấy con đến, bà ở lại chùa ăn cơm tối, ngồi đợi đến khuya. Hôm sau lại đợi, rồi hôm sau nữa, và hôm sau nữa. Quý Thầy và các đạo hữu trong chùa dọn cho bà cụ một chỗ ở tạm để đợi. Cứ thế, một tháng trôi qua, bốn chủ nhật sinh hoạt. Bà cụ lo bếp núc trong chùa, xới mấy luống rau, học kinh kệ. Vào lúc không ai chờ đợi gì nữa, người con gọi điện thoại hỏi thăm tình hình và hẹn ngày đến đón. Bà cụ thản nhiên trả lời: khoan đã, mẹ đang bình yên nơi đây.
Báo chí ở đây thường kể những chuyện về các bà mẹ trẻ bỏ con sơ sinh ngoài đường. Chứ chưa hề nghe kể chuyện con bỏ quên cha mẹ trong chùa. Ở nơi khác, có thể cụ già sẽ tìm cách trở về nhà bằng phương tiện giao thông công cộng. Ở Mỹ, không có xe cũng như cụt chân. Vả chăng, bỏ quên cha mẹ ở chùa là cách bỏ quên thông minh nhất, yên tâm nhất, bảo đảm nhất. Người ta thường nói: nước Mỹ là thiên đường của giới trẻ và địa ngục của người già. Trong địa ngục đó, chùa chắc hẳn là cánh cửa mở ra vườn.
Kể câu chuyện thật này trong ngày Vu Lan để chúng ta thấm thía ý nghĩa cao đẹp của Vu Lan trong gia tài văn hóa dân tộc. Dân tộc Việt Nam may mắn có Vu Lan để mỗi người đừng quên cái gốc của mình và xã hội đừng đánh mất ý niệm liên đới. Vu Lan đem lại thiêng liêng cho cái rốn sinh thành, và ý nghĩa cái rốn là nối kết giữa cha mẹ trong đời này và cha mẹ trong những đời khác, nối kết giữa người sống và người chết, nối kết giữa con người với thập loại chúng sanh. Giữa sa mạc khô cạn nhân tính của những xã hội vật chất, Vu Lan mưa xuống những hạt mưa xuân. Chừng nào đức Phật còn ngồi với cha mẹ trên bàn thờ trong mỗi gia đình, chừng đó dân tộc Việt Nam còn hiểu tai sao cha mẹ là thiêng liêng, tổ tiên là thiêng liêng, sống chết là thiêng liêng, cõi người, cõi trời, cõi súc sinh ngạ quỷ là thiêng liêng, tình thương là thiêng liêng, và từ bi trải rộng ra cho đến các cô hồn vất vưởng là thiêng liêng.
Vu Lan là một ngày vui. Đó là ngày mẹ của đức Mục Kiền Liên bắt đầu biết mình sẽ ăn được bát cơm. Đó là ngày mà kẻ đói được no. Cả mặt trăng cũng no cái no của Vu Lan, bởi vì đó là trăng rằm tháng bảy, trăng tròn nhất trong năm.
Cao Huy Thuần
Thấy Phật.
NXB Tri Thức, tháng 4/2009, tr. 61-63
GIÁO DỤC VU LAN
CAO HUY THUẦN
Vu Lan là ngày báo hiếu. Chữ hiếu trong đạo Phật quan trọng đến nỗi chính đức Phật là người làm gương. Phật nói: Phật ra đời là để làm năm việc: chuyển pháp luân, độ cha mẹ, đem đức tin lại cho những kẻ không có đức tin, ai chưa có chí nguyện bồ tát thì làm cho họ có, và thọ ký làm Phật cho bồ tát. Phật nói như thế để trả lời cho tôn giả Ưu Tỳ Ca Diếp khi tôn giả thấy Ngài xoay người lại, ngồi hướng về kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Phật sắp trở về lại vương quốc để thuyết pháp cho cha sau khi chuyển pháp luân. Phật sẽ lên cung Đao Lợi để thuyết pháp cho mẹ.
Kinh Vu Lan kể chuyện ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông tìm mẹ và thấy mẹ đang lâm vào cảnh đói khát của ngạ quỷ dưới địa ngục. Ngài dâng bát cơm cho mẹ, cơm chưa đến miệng đã biến thành lửa. Chuyện ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ ở địa ngục đã đi vào máu huyết của văn hóa Việt Nam. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc lại một chi tiết ít thấy ai nhắc đến bởi vì tưởng như không có gì. Đây, kinh Vu Lan ngay đoạn đầu;
Khi ấy tôn giả
Đại Mục Kiền Liên
Mới thành tựu được
Sáu thứ thần thông
Muốn cứu cha mẹ
Đền đáp ân đức
Sinh thành dưỡng dục
Mới thành tựu được… Ngài Mục Kiền Liên vừa thành tựu được thần thông thì nghĩ ngay đến cha mẹ. Đây không phải là chi tiết. Lại càng không phải là lòng ích kỷ, tham lam riêng cho cha mẹ mình. Đây chính là căn bản của đạo Phật và ngài Mục Kiền Liên làm chính cái việc mà Phật làm và Phật nói. Tại sao chữ “mới” quan trọng như thế trong câu kinh? Tại vì rất nhiều lẽ mà sau đây là hai lẽ chính. Thứ nhất, trong đạo Phật, thân người là rất quý, bởi vì chỉ làm người mới có thể giải thoát được, mà ai đem lại thân người cho ta nếu không phải là mẹ cha? Thứ hai, trong đạo Phật, ngoài cha mẹ ở đời này, còn có cha mẹ trong vô số kiếp trước, bởi vậy hiếu với cha mẹ tức là hiếu với chúng sanh. Đức Phật hiếu như thế với chúng sanh. Các bồ tát cũng vậy, mà ngài Mục Kiền Liên là hình ảnh. Chúng sanh của các ngài không phải chỉ ở trần gian mà còn ở trong cả địa ngục. Bởi vậy, đừng thấy dân gian cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy mà cười dân gian mê tín. Hãy nhìn nắm tay đang vãi thức ăn tưởng tượng trước sân nhà với cái nhìn của trí tuệ và của lòng thương, và hãy chắp thêm cho trí tuệ và lòng thương đôi cánh của tưởng tượng để bay theo thần thông của ngài Mục Kiền Liên vào chén cơm đang bốc lửa, hãy nhìn như vậy và sẽ thấy thần thoại có khi còn thực hơn cả thực tại sờ sờ trước mắt.
Ngày rằm tháng bảy là ngày Vu Lan báo hiếu. Ngày rằm tháng bảy còn là ngày Phật Hoan Hỷ. Tại sao Phật vui trong ngày đó? Bởi vì đó là ngày tăng chúng tự tứ. Sau ba tháng an cư, Phật họp chúng tăng lại để “tự tứ”, nghĩa là để sửa lỗi cho nhau và cùng sám hối lỗi. Sám hối như vậy thì tâm thanh tịnh; thấy chúng tăng thanh tịnh, làm sao Phật không vui?
Ở đây, chính Phật cũng là người làm gương. Nói theo thuật ngữ bây giờ, Phật là người… dân chủ số một. Kinh Tăng A Hàm kể như sau, xin tóm tắt:
Bấy giờ, là ngày rằm tháng bảy, đức Thế Tôn trải cụ tọa ngồi giữa chỗ đất trống. Các vị tỷ kheo ngồi chung quanh Ngài. Ngài bảo tôn giả A Nan đánh kiền chùy lên. Ngài dạy: hôm nay là ngày tự tứ và tự tứ là làm sạch thân miệng ý. Cứ hai vị tỷ kheo đối diện với nhau mà tự trình bày nhược điểm của hành vi và xin tha thứ lỗi lầm. Thế Tôn nhìn tăng chúng và nói: hôm nay tôi tự tứ: tôi có lỗi với ai không? Thân ý miệng của tôi có phạm lỗi gì không? Đức Thế Tôn hỏi ba lần như vậy. Tôn giả Xá Lợi Phất đứng đậy: Bạch đức Thế Tôn, tăng chúng quan sát Như Lai, không thấy có lỗi gì về thân miệng ý. Như Lai cũng không có lỗi gì với ai. Còn về phần con, con xin hướng về Như Lai mà tự trình bày: con có lỗi với Như Lai và tăng chúng không? Đức Thế Tôn bảo: Xá Lợi Phất, tôn giả không có hành động gì phi chánh pháp nơi thân miệng ý. Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa: Bạch Thế Tôn, tất cả tỷ kheo ở đây cũng muốn tự tứ: tất cả tỷ kheo ở đây có lỗi gì với Như Lai không?
Phật và các vị A La Hán quanh Phật là những bậc đã sạch thân miệng ý, vậy mà các ngài còn đem chính mình ra để tất cả xét lỗi. Không biết có vị giáo chủ nào khác hành động như vậy chăng? Có cách nào khác làm sạch ngã mạn giản đơn mà rốt ráo như thế hay không? Tứ tự là ngày làm sạch đã đi vào giới luật. Làm sạch thì giải thoát. Đạo Phật chỉ nhắm mỗi mục đích đó thôi.
Ngày nay, mỗi khi bàn đến vấn đề giáo dục, chúng tôi không khỏi nghĩ đến tinh thần tự tứ. Nền giáo dục được quan niệm một cách chật hẹp, như là chuyển giao kiến thức, tự tứ vẫn có thể là mẫu mực như thường. Bởi vì kiến thức là gì nếu không được đánh giá thường xuyên để trút bỏ cái sai, lọc khỏi cái lầm? Tinh thần khoa học là gì nếu không phải là luôn luôn tự nghi ngờ, tự chất vấn, tự phê phán? Có ai chẳng biết khoa học xã hội phân biệt rất rõ kiến thức khoa học với kiến thức ý thức hệ.
Nếu giáo dục được quan niệm rộng rãi hơn, như có liên quan đến vấn đề rèn luyện nhân cách, tinh thần tự tứ lại càng mẫu mực hơn nữa. Ngày trước, luân lý Nho giáo của Quốc Văn Giáo Khoa Thư có kể chuyện nhà hiền triết và hai lọ đậu đen, đậu trắng. Hễ ông làm điều gì xấu thì ông bỏ vào lọ một hạt đậu đen; hễ ông làm điều gì tốt, ông thả vào lọ kia một hạt đậu trắng. Lúc đầu đậu đen nhiều hơn đậu trắng; dần dần đậu trắng nhiều hơn đậu đen. Tự tứ cao hơn thế nhiều lần, bởi vì cả triết lý tương quan của đạo Phật nằm trong đó: tương quan giữa cá nhân và đoàn thể, tương quan giữa bên trong và bên ngoài, tương quan giữa hình thức và nội dung, tương quan giữa mình và người, người sửa lỗi mình, mình sửa lỗi người, mình sửa lỗi mình, giúp nhau để giúp chính mình, để sống sáng như gương với mình và với người. Và như thế để làm gì? Để giải thoát, mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo.
Suy nghĩ rộng ra từ tứ tự đến giáo dục, Vu Lan cũng là tấm gương giáo dục của Phật giáo.
Cao Huy Thuần
Thấy Phật
NXB Tri Thức, tháng 4/2009, tr. 65-70
VU LAN, MÙA TƯỞNG NHỚ
THÍCH MÃN GIÁC
Cuối năm 1947, sau một thời gian dài loạn lạc, người góc bể, kẻ ven rừng lũ lượt hồi cư về thành phố Huế. Chiến tranh khói lửa, máu và nước mắt, hiểm nguy đến chết choc đã phủ trùm lên đầu lên cổ con người Cố Đô Huế từ cuối năm 1946 nối qua năm 1947. Cảnh loạn ly đã làm cho lòng người hoang mang thất hướng đến tột cùng. Nhưng từ cuối năm 1947 sang đến năm 1948, thành phố Huế trở lại thanh bình. Cảnh thanh bình có được sau baonhiêu mất mát tang thương, sau bao nỗi đoạn trường gain nan với gió bụi thực dễ xui lòng người lắng xuống cho những trầm tư về nỗi sống và chết hơn là cho con người những rộn ràng tươi vui. Nhờ đó mà nhiều người đã tìm về với ánh Đạo như tìm về chỗ nương tựa cuối cùng còn lại. Đạo Pháp đã ươm lại được mầm trên đống tro tàn.
Rồi chiến tranh lại tiếp nối. Nhưng nầm Đạo đã ươm. Trong cơn khói lửa, những mầm non Đạo Pháp đã bắt đầu mọc lên. Tổ chức Gia Đình Phật Tử ra đời. Giữa mùa Vu Lan năm đó, trong trầm hương tưởng nhớ ơn nghĩa sinh thành, trong buổi non trẻ của tổ chức GĐPT, anh Đỗ Kim Bảng sáng tác bản nhạc Mục Kiền Liên. Ngày đó, Kim Bảng còn trẻ, đôi mắt sáng tươi và tâm hồn cũng sáng tươi như mắt, cầm đàn guitar ra sân khấu hát: “Đìu hiu gió, bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vẩn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ… Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan. Nhớ mẹ xót xa tâm hồn…” Bao nhiêu người nghe đã ngậm ngùi, đem lòng chơi vơi theo cùng tiếng hát của anh mà hình dung ra hình ảnh của Ngài Mục Kiền Liên, mà tưởng niệm đến hình ảnh những bà mẹ một đời nhọc nhằn vì con…
Hội Quán Quảng Tri. Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên trình diễn văn nghệ. Hình bóng chiến tranh thấp thoáng xa gần. Hơn 40 năm đã trôi qua, hình ảnh chiều văn nghệ với tiếng hát của người nhạc trẻ Kim Bảng đã còn mãi âm vang với tôi hôm nay, hình ảnh ấy như đối nghịch lại với những thảm cảnh kinh hoàng, hãi hùng, đổ nát tang thương của loạn ly triền miên trên quê hương. Hình ảnh ấy sống động như tình non nghĩa biển cỏa con người Việt Nam, dù bị vùi dập đến đâu cũng vẫn còn đó để còn đó niềm Hy vọng cho quê hương. Hình ảnh ấy và tiếng gọi Tình Thương của người nhạc sị Phật Tử trẻ tuổi áy đã là những gì mà người Phật Tử Việt Nam muốn nói lên chi mình, cho quê hương trong đêm đen của thời thế. Thời thế. Chiến tranh. Tiếng bom đạn tả tơi. Cảnh chia lìa ruột thịt… Nhưng bến cũ vẫn đợi chờ - “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò. Cây đa bến cũ…” Bến cũ của quê hương là đâu? Là chốn thanh bình muôn thuở; ở đó, có mẹ có cha, có trăng soi bóng, có chùa xưa vang những hồi kinh…? Người ta đồn, ông cựu Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng trong những ngày tàn gần đây đã lên chùa. Để sám hối? Để tu tâm? Về bến cũ, nếu được như thế chẳng phải là điều đáng ngac nhiên, chỉ tiếc là muộn màng, cho ông đã đành. Mà trên hết là cho nỗi đồ thán của dân sinh.
Vu Lan như một tiếng gọi. Giữa thời tao loạn tiếng bấc tiếng chì của hơn 40 năm trước, Vu Lan với Kim Bảng đã là một tiếng gọi mời thiết tha con người trở về bến cũ của nước non, với mẹ, với cha đã triền miên thống khổ. Thống khổ vẫn triền miên đê cho khi “bóng chiều rơi theolá thu,” lời kinh siêu độ vẫn âm vang như tiếng gọi mời, không chỉ với những oan hồn vất vưởng ở bên kia cõi chết mà là thiết yếu hơn, với những kẻ ở bên này cõi sống-những kẻ mải mê với quyền lực và bạo lực để cho lịch sử oan khiên cứ mãi trói buộc người dân. Cho nên, thời trước, trong tiếng gọi Vu Lan, người ta trông chờ những cởi trói để cho người tù tọi được thở chút không khí tự do. Phật Giáo mang đến cho dân tộc cái đạo lý nhân tính và nhân tính và nhân tình là vậy. Cũng cho nên, thời nay, nghĩ đến cái đạo lý nhân tính và nhân tình này mà hắng năm, đến khi Vu Lan về, chúng tôi đều gởi thơ về nhà cầm quyền Hà Nội để kêu gọi họ trả tự do cho các vị lãnh đạo Phật Giáo, các Tăng Ni, Phật tử, đồng bào bị giam cầm. Thơ gởi đi, trong tiếng gọi Vu Lan của dân tộc, chúng tôi cầu nguyện, mong cho chút nhân tính, nhân tình nào còn lại. Nhưng năm này rồi năm khác, những bức thư kêu gọi đó đều như đi vào sa mạc…
Thế giới đã lắng nghe những tiếng nói của lương tâm đã nói lên bằng cả sinh mệnh của những Nguyễn Chí Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Doãn Quốc Sỹ… Cả những tiếng nói của kẻ ở bên kia, từng say mê và tôn thờ chủ nghĩa, những Bùi Tín , Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Minh Chính, Phan Đình Diệu…
Thế giới đã nghe và đã thấy, đã quá rõ lẽ thời băng rã không phương cứu vãn của chủ nghĩa cộng sản ở khắp nơi. Sự dối trá đâu thể mãi hoành hành như chỗ không người…
Thế mà lạ, giới cầm quyền Hả Nội như chẳng nghe chẳng thấy gì cả! Cửa lao tù trên mảnh đất Việt Nam vẫn đóng kín! Cửa lao tù trên mảnh đất Việt Nam vẫn đóng kín! Vọng ra bên ngoài, có chăng, chỉ là những tiếng kêu gào của lương tâm…
“Trăng đã lên trên đỉnh nhà tù,
luồn qua khe cửa sắt, trải một vệt trắng ngà
trên thân thể ta trong xà lim tăm tối…
Ôi ánh trăng đã từng làm ta đắm đuối
Suốt những đêm dài trong tuổi đôi mươi
Suốt những tháng năm còn đầy nuối tiếc
Đã từng cùng ta ươm mộng xanh tươi…
Vẫn ngọt ngào như dòng sữa mẹ
trên quê hương còn phủ ngập tang thương
vẫn tươi mát bao tâm hồn son trẻ
đang âm thầm chiến đấu cho quê hương…”
Tôi đọc khúc ca này của Đoàn Viết Hoạt trong một bài viết mới đây trên tờ Người Việt. Đoàn Viết Hoạt, một tài năng trẻ tuổi của Việt Nam đã chôn đời trong ngục tù Cộng Sản. Nhưng từ trong ngục tù đóng kín đó, lời ca anh thoát ra, đẹp như ánh trăng quê hương! Đoàn Viết Hoạt, người đã cùng làm việc với tôi một thời dưới mái trường Đại Học Vạn Hạnh, đã một thời khai thông Học Vụ, trông coi tờ Tư Tưởng. Tư Tưởng, trước đó là tiếng nói của Đông Phương trong cuộc song thoại với Tây Phương giữa những điêu tàn của thế kỷ; đến Đoàn Viết Hoạt, là tiếng nói của dân tộc trong hoài vọng trở về bến cũ. “Về Nguồn”, tôi nhớ đâu đó. Đoàn Viết Hoạt viết trong Tư Tưởng, như là ý thức chủ đạo của anh. Nó xuất hiện trong khung cảnh Đại học bấy giờ như một nỗ lực nối kết nền học vấn trí thức vốn từng bị đóng khung trong tháp ngà với cái nền tảng cụ thể của một dân tộc đang bị “vong thân” vì chiến tranh ở anh, giờ nghĩ lại, tôi mới thấy nó là một sự gắn bó đầy ý thức và hoài bão. Tốt nghiệp Đại Học ở Mỹ trở về nước, tâm hồn anh mang ý thức và hoài bão đó quả là điều đáng quí. Những gì anh làm sau này thái độ và hành động yêu nước của anh biểu lộ cả trong chốn ngục tù, tiếng nói của anh trong “Diễn Đàn Tự Do” cho một đất nước Việt Nam tự do dân chủ thực sự… Rồi Cộng sản đem anh vào tù giam như đã đem Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát vào tù… Tôi ngồi đây mà tưởng đến hình bóng anh, người trí thức Phật Tử tài hoa một lòng một dạ thủy chung với đất nước. Hình bóng đó đẹp như ánh trăng quê hương. Hình bóng đó là tiếng gọi trở về bến cũ, chốn thanh bình muôn thuở của quê hương, có người ca hát. Vẫn chỉ mà những kẻ đang cầm quyền như chẳng hề nghe tiếng gọi, như chỉ biết đạp trên khát vọng của sinh dân đế cố bảo vệ thứ quyền lực đang đến hồi thoái hóa, rã tan.
Vu Lan, từ Đỗ Kim Bảng năm xưa đến Đoàn Viết Hoạt ngày nay. Trước và nay, người Phật Tử Việt Nam cũng chỉ một tiếng gọi trở về.
Trước đây mấy tuần, tôi đến Honolulu làm Phật sự. Ở đây, Phật Tử Tâm Bảo đưa tôi đên viếng Pearl Harbor và coi lại trận không chiến của Nhật ngày 7 tháng 12 năm 1941. Qua màn ảnh, ngày xưa 7/12/1941 là một biển lửa kinh hoàng của bom đạn và chết choc. Ngày ấy đã qua rồi. Nhưng bầu trời xanh, biển xanh và mây trắng thong dong vẫn mãi muôn đời nơi đây.
Bạo lực rồi cũng sẽ qua. Chế độ rồi cũng sẽ tàn. Chỉ là muộn màng quá đỗi. Nhưng tâm hồn trong sáng của Đoàn Viết Hoạt trong khúc ca giữa chốn ngục tù sẽ vẫn vằng vặc như ánh trăng muôn thuở.
Los Angeles, Vu Lan Tân Mùi, 1991
NÉN HƯƠNG BÊN MỘ MẸ
THÍCH MÃN GIÁC
Gửi Trí Hải (Chùa Hải Đức - Huế) với tình quê hương
Đi Việt Nam về, Như Liên và Ronald gửi cho tôi cuộn video ghi lại những dấu tích quê hương. Bùi ngùi thấy lại hình ảnh thân thương trìu mến của đất nước, những dáng làng mộc mạc muôn thuở, vẻ tiêu sơ và ảm đạm của đất và người quê, tôi thấy lòng quặn đau tha thiết.
Từ dạo bỏ quê đi, đã năm, sáu mươi năm, cảnh cũ dường như chẳng hề thay đổi. Tôi thấy thương vô cùng những giấc mơ nhỏ bé của người dân làng tôi, đã qua nhiều thế hệ, vẫn chỉ là những giấc mơ không đạt. Có gì đâu, một gian nhà nhỏ, mấy luống rau lang xanh, lúa mùa no vụ, cảnh sum họp ấm áp dưới mái gia đình… Phương Lang ấy, quê làng tôi, vẫn những mẫu ruộng cằn quanh năm, vẫn những luống trâu cày lầy lội, vẫn những con người nhỏ thó khép mình nhẫn chịu trước nghịch cảnh của đất trời… Cảnh đó, người đó, trong cơn mưa phùn gió bấc, lạnh lẽo thấu xương, nhìn mà thấy vẻ thê lương muôn đời.
Chính giữa cảnh quê hương điêu tàn nghèo khổ ấy, giữa đất trời mưa gió quạnh hiu ấy, mộ phần của mẹ tôi nằm giữa bãi cát trắng trơ vơ,, buồn tủi,lạnh lung. Như Liên và anh Ronald từ West Palm Beach đến, trong một phút giây yên lặng, đã đốt dùm tôi nén hương tưởng niệm bên phần mộ người quá cố. Tôi thấy mùi hương bay tỏa khắp mộ phần, hương thơm lan khắp đầu thôn cuối xóm, như một nhắn gửi bao nhớ thương từ muôn xa.
Tôi biết mẹ tôi đã trọn một đời khổ vì con. Như bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác, đã một đời quằn quại. Khi còn sinh tiền, cha tôi thường nói, mỗi con người ta ai cũng có một bà mẹ. Người đã mang nặng đẻ đau và bất kỳ ai cũng trải qua chín tháng mưới ngày phải nằm trong bụng mẹ. Đó là điều ai cũng phải hiểu rõ và thương yêu mẹ ruột của chính mình. Hiểu và thương để chẳng bao giờ làm khổ mẹ.
Tuổi ấu thơ, tôi chưa từng rời mẹ. Mẹ tôi đã dẫn tôi đi lang thang từ Huế ra Trung Kiên, từ Thâm Triều vào Phương Lang và trở lại Huế. Tôi nhập Đạo lúc chưa tròn mười tuổi, cái tuổi thơ mộng nhứt để được đeo mẹ. Chẳng biết cái gì đã làm cho tôi đành đoạn dứt áo ra đi, xa đời sống có mẹ thân thương, lìa sự che chở săn sóc quyến luyến của mẹ để vào chùa học Đạo. Tuổi thơ tôi lớn lên theo với câu kinh tiếng kệ, theo với tiếng chuông mõ sớm chiều, theo với khói trầm hương bát ngát một đời. Chùa Thiên Minh ở gần nhà cụ Phan Bội Châu. Sau khi công quả và kinh kệ xong, khoảng 8g tối, chúng tôi, một số chú tiểu, qui tụ lại nhà Cụ Phan, trong phòng anh Đanh để học tập. Người phụ trách hướng dẫn chúng tôi là anh Đanh, một đồng chí thanh niên Tây học của Cụ. Chính nhờ sự cố gắng học tập đó, sau một thời gian là chúng tôi thi đỗ Tiểu Học và vào Đệ Thất Quốc Học. Trong thời gian đó, thỉnh thoảng mẹ đến chùa thăm tôi hoặc tôi đi ngược lên Nam Giao thăm mẹ. Biết bao ấm áp thân tình cho mỗi lần thăm, để khi từ giã, bóng con vướng trong mắt mẹ, bóng mẹ vướng vào mắt con với những ngậm ngùi. Cứ thế, cho tới ngày khôn lớn đi xa.
Bây giờ, lăn lóc gần sáu chục năm trời, tháng ngày dài đã đi qua, tuổi thơ ấu không còn nữa. Nhưng xúc động vẫn còn đầy khi nhìn lại cảnh quê nghèo với nấm mồ mẹ nguyên vẹn đó. Gió mưa nắng chướng với thời gian, mộ phần mẹ vẫn thanh thản nằm giữa đất trời cát trắng quạnh hiu. Tên họ mẹ tôi được khắc đơn sơ lên bia đá, nét chữ có khi đã thấy mòn mỏi với tháng năm. Bây giờ, Mẹ là Đất, Đất là Mẹ. Bây giờ trong niềm nhớ của tôi về mẹ có cả lượng bao dung của đất trời. Càng thương mẹ, càng thương đất, tôi mong ước được tiếp tục làm cho Đẹp lòng Đất, cho lành lòng Mẹ.
Cảm ơn vợ chồng Như Liên và Ronald Mierau đã đến đó, đã đứng lặng nhìn làn khói hương bay tan giữa buổi chiều quê vắng lặng. Làn khói hương đã nối lại nhịp cầu xúc động trong tôi với những thân thiết tưởng đã nghìn trùng.
Los Angeles, mùa Vu Lan Ất Hợi, 1995
PHƯƠNG PHÁP HÀNH XỬ VỚI CUỘC ĐỜI
THÍCH NHẤT HẠNH
(Đức Phật giáo hóa vị sa di La Hầu La. Năm ấy sa di La Hầu La được mười bảy tuổi, đã có khả năng tiếp nhận giáo lý sâu sắc).
Bụt dạy
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của đất. Dù người ta có đổ và rải lên đất những thứ tinh sạch và thơm tho như hoa hương, nước ngọt và sữa thơm, hoặc người ta có đổ lên đất những thứ hôi hám và dơ dáy như máu mủ, nước tiểu, đàm giải và phân rác thì đất cũng tiếp nhận những thứ ấy một cách rất thản nhiên, không vướng mắc tự hào cũng không oán hờn hay tủi nhục. Tại sao? Tại vì đất là địa đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng tiếp nhận và chuyển hóa. Nếu tâm con rộng lớn, vô lượng như đất thì con cũng có thể tiếp nhận chuyển hóa tất cả mọi người, bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể làm cho con khổ đau và buồn tủi.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của nước. Dù người ta có đổ xuống nước những chất thơm tho đẹp đẽ hoặc giặt rửa trong nước những thứ dơ bẩn và hôi hám, thì cũng không phải vì thế mà nước bị vướng mắc, tự hào hoặc cảm thấy oán hờn và tủi nhục. Tại sao? Tại vì nước là thủy đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng lưu chuyển, có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả những gì đã tiếp nhận. Nếu tâm con rộng lớn, bao la, vô lượng như nước, thì con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể làm cho con khổ đau và buồn tủi.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của lửa. Lửa có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù là những cái xấu xa dơ bẩn, mà lửa cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Tại sao? Tại vì lửa là hỏa đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả những gì người ta đem tới. Nếu tâm con không kỳ thị, không vướng mắc, con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể nào làm xáo trộn được hạnh phúc và bình an trong con.
“Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của gió. Gió có thể tiếp nhận, thổi đi và chuyển hóa mọi mùi hương, dù thơm, dù thối, mà không bị vướng mắc, tự hào hoặc buồn khổ hay tủi nhục. Vì sao? Vì gió là phong đại, có dung tích rộng lớn, có khả năng di động phi thường. Nếu tâm con rộng lớn, nếu tâm con có khả năng chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức mà kẻ khác trút lên con, và những thứ ấy sẽ không thể nào làm xáo trộn được sự bình an và hạnh phúc trong con được”.
Những bài kinh mà hòa thượng trú trì đọc lên có âm hưởng của những bài kệ mà ngày xưa sư chú Kính Tâm đã xướng lên mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều trong những giờ thỉnh đại hồng chung. Những lời kinh ấy như nước cam lồ tưới xuống trái tim của mọi người. Châu, em trai của sư chú Kính Tâm sau khi nghe kinh đã quỳ xuống dưới chân hòa thượng để cầu xin xuất gia tu học tại chùa. Thiện Sĩ cũng đến quỳ lạy dưới chân ngài để cầu xin xuất gia. Thị Mầu cũng đến quỳ lạy dưới dưới chân hòa thượng. Nàng bạch với hòa thượng là khi ngôi chùa sư nữ đầu tiên được thành lập, nàng sẽ xin xuống tóc để xuất gia tu học nơi ấy. Hai ông bà phú hộ bố mẹ của Mầu cũng như hai ông bà họ Lý mẹ của Bồ tát Kính Tâm cũng quỳ xuống phát nguyện xin thọ trì năm giới và hết lòng yểm trợ hòa thượng trong việc xây dựng ngôi chùa sư nữ đầu tiên trên đất nước Giao Châu.
Chùa Pháp Vân, gọi tắt là chùa Vân hay chùa Dâu, là nơi phát tích của Bồ Tát Quan Âm Kính Tâm. Để người ta mãi mãi nhớ rằng đức Quan Âm này xuất thân từ một người con gái, nên dân chúng thay vì gọi ngài là đức Bồ tát Quan Âm Thị Kính. Ta cũng nên tùy hỷ theo ước muốn ấy và chấp tay kính niệm Nam Mô Bồ tát Quan Âm Thị Kính.
Và ta cũng có câu ca dao:
Xem trong cõi nước Nam ta
Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm.
Phật Bà Quan Âm đây là Phật Bà Quan Âm Kính Tâm, hay nói gọn hơn là Quan Âm Thị Kính.
Thích Nhất Hạnh
Mẹ biểu hiện của tình thương
NXB Thời Đại, quý IV/2011, tr. 121-124
GIA TÀI VÔ GIÁ ĐỂ LẠI CHO CON
NHẤT HẠNH
Những người trẻ tới Làng Mai thường nói rằng: Gia tài quý giá nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con là hạnh phúc trong đời sống gia đình của chính cha mẹ.
Cha mẹ luôn luôn muốn cho con sau này có hạnh phúc, vì vậy cha mẹ muốn để lại những gia tài như là nhà cửa, ruộng đất, hay là một trương mục tiết kiệm trong ngân hàng, hoặc giúp cho con một số tiền để học, hầu con đậu được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư.
Cố nhiên những điều đó là những ước muốn phát xuất từ lòng thương con của cha mẹ, muốn con có một nền tảng để sống cho thoải mái sau này. Tuy vậy, thường thường thì con cái không cần nhiều đến những lo lắng và thương yêu theo mô thức đó. Điều con cái cần nhất là một cuộc sống gia đình êm ấm, trong đó cha mẹ hòa thuận và có hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Vì vậy mà các người trẻ đã đồng ý rằng món quà lớn nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái là hạnh phúc của cha mẹ trong đời sống gia đình.
Tâm tư này của các con phải được các bậc cha mẹ nghe và hiểu. Tại vì nếu cha mẹ có hạnh phúc với nhau thì con cái cũng có hạnh phúc ngay từ thời thơ ấu. Quan trọng hơn nữa là khi lớn lên, lập gia đình, các con cũng sẽ làm được như vậy, tại vì trong suốt thời gian sống với gia đình, các con thấy cha săn sóc mẹ, mẹ săn sóc cha; nghe cha nói những câu dịu ngọt với mẹ, nghe mẹ nói những câu dịu dàng với cha. Hai người tạo hạnh phúc cho nhau bằng những lời nói, những cử chỉ, những tư tưởng dễ thương. Vì vậy, tuy cha mẹ không trực tiếp dạy con bằng lời, những đã dạy con bằng cách hành xử của cha mẹ đối với nhau. Đó là phương thức giáo hóa hữu hiệu nhất mà đạo Bụt gọi là thân giáo. Nhờ vậy mà lớn lên, khi có người bạn hôn phối, con cái cũng làm được như cha mẹ vậy.
Cho nên gia đình là một trường đại học, trong đó có hai giáo sư quan trọng là cha và mẹ. Nếu cha mẹ có thể hiểu được nhau, có thể thương yêu nhau, có thể tạo được hạnh phúc cho nhau, thì đó là môi trường rất tốt cho con cái sinh trưởng. Khi tốt nghiệp, khi rời trường đại học đó thì con cái có đủ khả năng để tạo hạnh phúc cho người mình thương. Vì vậy bậc cha mẹ nên nhớ rằng trong gia đình, không chỉ mình chỉ đóng vai trò của người cha, người mẹ mà mình còn đóng vai trò của những vị giáo sư dạy về thương yêu nữa.
Mỗi khi mình có một lầm lỡ, làm khổ cho nhau, mình phải biết xin lỗi con. Sau giờ cơm tối, mình mời cả mẹ lẫn con vào phòng thở, thỉnh ba tiếng chuông rồi mình nói: Ba xin lỗi mẹ, xin lỗi con, ba đã hơi nóng; vì mất chánh niệm nên sáng nay ba đã nói một câu không dễ thương với mẹ. Ba hứa rằng từ nay về sau ba sẽ không nói những câu thiếu thương yêu như vậy đối với mẹ nữa. Nói vậy xong, cả gia đình yên lặng theo dõi hơi thở để được thấm nhuần sự thương yêu theo phương pháp Bụt dạy. Sau đó ba thỉnh ba tiếng chuông, cả gia đình đứng dậy, ôm nhau trước khi rời phòng thở. Không ai cần nói thêm lời nào.
Nếu ba làm được như vậy, nói ra được một câu như vậy thì con cái sẽ kính phục ba vô cùng. Nếu mẹ có đủ tha thứ, bao dung để ôm trọn ba con vào lòng thì con cái cũng sẽ kính phục mẹ vô cùng. Con sẽ thấy ba mẹ là những hình ảnh lý tưởng của cuộc đời.
Ngược lại, nếu ba dùng quyền làm cha, nạt nộ và không cho con cái nói, thì con cái sẽ không có được cái kính phục đó. Mình chỉ học được với người mà mình kính phục thôi. Cái uy quyền của mẹ, cái uy quyền của ba là ở chỗ hai người biết kính trọng nhau và biết tạo hạnh phúc cho nhau, chứ không phải ở chỗ có thể trừng phạt mình, có thể cấm đoán mình.
Đạo Phật có giáo lý gọi là luân hồi. Luân hồi có nghĩa là đi lòng vòng, không bao giờ chấm dứt. Nhiều khi bà ngoại có những tật xấu, bà truyền lại cho mẹ, mẹ truyền lại cho mình, và mình truyền tật xấu đó lại cho con gái mình. Đó gọi là luân hồi, là cái vòng lẩn quẩn. Chỉ có tu tập mới chuyển hóa được những tật xấu đó, và nhờ vậy mà mình không truyền lại những cái tiêu cực cho con cái sau này. Cho nên tu học là một phương pháp để cắt đứt luân hồi, cắt đứt cái vòng lẩn quẩn trong gia đình dòng họ.
Ví dụ khi còn trẻ, thấy ba mình ép buộc mình quá, mình không có tự do, và mình nghĩ rằng sau này khi có con, mình sẽ để cho con mình có nhiều tự do hơn. Mình dứt khoát sẽ làm như vậy. Nhưng khi lớn lên, khi có gia đình, có con, thì mình cũng đối xử giống hệt như cách mẹ mình, ba mình đã đối xử với mình! Cái vòng luân hồi lẩn quẩn rất là kỳ. Nếu biết tu tập mình có thể chuyển hóa được những tập khí tiêu cực mà mình đã tiếp nhận từ cha, từ mẹ, và mình sẽ không còn trao truyền lại cho con cháu đời sau. Đó là phương cách báo hiếu thâm sâu nhất cho tổ tiên dòng họ.
Khi bắt ép con theo ý của mình, không phải là vì mình có ác tâm với chúng, không phải là vì mình muốn làm cho chúng khổ. Sâu thẳm trong lòng, mình muốn cho con cái nên người, cho con cái hạnh phúc. Mình nghĩ rằng nếu không làm như vậy thì con cái sẽ đau khổ suốt đời. Cho nên, mình ép buộc con cái làm như vậy là vì cái hạnh phúc của con cái. Hạnh phúc đâu thì chưa thấy, mà chỉ thấy con mình đang khổ, tại vì chúng cảm thấy không có một chút tự do nào hết. Cha mẹ đừng ép buộc con cái, đừng nói rằng các con ráng đi, ráng chịu khổ cực, ráng theo những giáo điều, rồi sau này sẽ được sung sướng, sẽ được lên thiên đàng! Con cái tuy có lý trí, có nhận xét, nhưng chúng không có quyền sử dụng những khả năng đó, vì chúng phải làm theo lời ba, theo lời mẹ như một con người máy, thì mới được xem là con có hiếu, con ngoan!
Thiền sư Nhất Hạnh
Trong “Sống Trong An Lạc”
NXB Lá Bối - Hoa Kỳ, 1999, trang 190-195
Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ đã nói. Tình thương của cha mẹ tự nhiên như nước chảy xuôi, mà lòng hiếu của con phải nhờ giáo dục, nhờ kinh nghiệm rồi mới có. Không, tôi không tin cha mẹ mà lại ích kỷ bao giờ. Ích kỷ là chỉ nghĩ tới mình, phân biệt ta và người, mà cha mẹ thì không phân biệt mình với con. Không ai nuôi con để mong chúng sau này đền đáp mình cả. Má tôi về già vẫn làm lụng vất vả từ sáng tới khuya để tự túc mà khỏi trông cậy vào chúng tôi. Mà những cha mẹ nào bất đắc dĩ phải trông cậy vào con cái thì luôn luôn ân hận rằng chẳng giúp chúng được gì cả. Ôi! Nuôi chúng cả một đời, mà về già chúng có đáp lại trong ít năm - mà đáp lại bằng cách nào? - thì vẫn ân hận rằng chẳng giúp được gì cả! Nước chảy xuôi hoài cho tới khi cạn. Cha mẹ cứ muốn giúp con hoài cho tới khi chết. Vậy mà người ta còn bảo rằng cha mẹ ích kỷ!
Nguyễn Hiến Lê
LÀM CHA NÊN NHỚ!
LIVINGSTONE LARNOD
NGUYỄN HIẾN LÊ - dịch
Hãy lắng nghe cha, con trai của cha. Trong khi cha nói với con thì con đang ngủ, tay áp lên má và những làn tóc xoăn hoe vàng dính vào vầng trán thấm ướt mồ hôi của con. Cha nhẹ bước một mình vào phòng con. Ban nảy, đang đọc sách trong phòng, một làn sóng hối hận như trào dâng trong lòng cha. Và, tự cảm thấy tội lỗi, cha đến bên đầu giường của con đây.
Cha nghĩ gì đây, con trai của cha: cha rất giận con ngày hôm nay. Sáng nay, trong khi con chuẩn bị đến trường, cha đã la con vì con thích để cái khăn mặt ướt trên đầu mũi; cha đã mắng con vì giày không đánh xi; cha đã hét lên khi con vứt đồ chơi xuống đất.
Trong bữa ăn sáng, cha còn nhắc con không được làm trái mọi điều quy định: vì con cứ dốc ngược cốc sữa khi uống; con cứ nuốt những miếng bánh mà không chịu nhai; con cứ đặt cùi tay lên bàn; con phết quá nhiều bơ vào bánh của con. Và, khi con bước ra cửa đi học, con quay lại vẫy bàn tay và nói với cha: “Tạm biệt cha!”, cha đã nhíu lông mày và đáp lại với con: “Đứng cho thẳng mà chào!”
Chiều về, lại cũng bài hát đó. Khi đi làm việc về, cha đã rình con trên đường. Con ham chơi bi, đầu gối quỳ trong bụi đất; con làm rách ống quần. Cha đã làm nhục con trước mặt các bạn con, buộc con đi trước bước chân cha cho đến nhà… “quần áo đắt lắm; nếu mày phải trả tiền mua, thì chắc chắn mày sẽ biết giữ gìn hơn!” Con có nhận ra điều đó không, con trai? Về phía một người cha! Con còn nhớ chuyện tiếp theo? Con rụt rè bước nhẹ vào phòng cha, gương mặt khốn khổ, trong khi cha đang làm việc. Cha ngước mắt lên và sốt ruột hỏi con: “Mày muốn gì?”
Con chẳng trả lời và như không cưỡng lại được, con chạy đến ôm chầm lấy cổ cha, siết chặt với lòng thương cảm dịu dàng mà Thượng đế đã làm nở hoa trong lòng con vì thế mà lòng cha cũng chẳng bớt lạnh lùng … Và rồi con vụt trốn, và cha đã nghe những bước chân nhỏ bé của con chạy lên cầu thang”.
Này! Con của cha, lúc đó cuốn sách trượt khỏi bàn tay cha và một sự sợ hãi ghê gớm đã dội lên trong lòng cha. Đó là điều gì xảy đến cho cha do cái tật hay phê phán và trách mắng: một người cha hay rầy la! Cha trừng phạt con vì con chỉ là một đứa trẻ. Không phải vì cha thiếu tình âu yếm, mà vì cha mong mỏi quá nhiều ở tuổi trẻ của con. Cha xét nét con phải làm những gì như với tuổi tác của cha.
Vậy mà, bao nhiêu tình thương và sự độ lượng vẫn ấp ủ trong tâm hồn con. Trái tim nhỏ bé của con lại mênh mông như bình minh đang dâng lên sau những ngọn đồi. Cha nhận ra điều đó khi con lao mình đến chúc mừng cha buổi tối. Giờ đây chẳng có gì đáng kể nữa, con trai của cha. Cha đến bên giường con, trong bóng tối, và cha đã quỳ xuống ở đó, lòng đầy hỗ thẹn. “Đó là một sự sửa sai tồi tệ; cha biết là con sẽ không hiểu những điều đó nếu con có thể lắng nghe. Nhưng, ngày mai, con sẽ thấy, cha sẽ là người cha thực sự; cha sẽ thành bạn của con; cha sẽ cười khi con cười, cha sẽ khóc khi con khóc. Và, nếu cha lại muốn la mắng con, thì cha sẽ cắn vào lưỡi, và sẽ không ngừng lặp lại, như một bài kinh cầu nguyện:
“Con chỉ là một đứa con trai… một đứa con nhỏ bé!”
Cha có lỗi. Cha đã xem con như một người đàn ông. Giờ đây cha đang ngắm nhìn con trong chiếc giường nhỏ của con, mệt mỏi như bị bỏ rơi, cha thấy rõ là con chỉ là một con búp bê. Hôm qua, con còn trong vòng tay của mẹ con, đầu buông trên vai mẹ con… Cha đã đòi hỏi nhiều quá ở con, quá nhiều ở con… con thân yêu của cha.
Livingstone Larnod
Nguyễn Hiến Lê - dịch
LÀM CON NÊN NHỚ!
NGUYỄN HIẾN LÊ
Hôm nay tôi đọc lại không biết là lần thứ mấy bức thư của Livingstone Larnod nhan đề là Làm Cha Nên Nhớ mà Dale Carnegie đã trích dẫn trong cuốn Đắc Nhân Tâm, bức thư mở đầu như vầy: “Con ơi, con ngủ, má đỏ kề bên tay, tóc mây dính trên trán…”
Trong cái kho tàng văn học Đông, Tây tôi chỉ mới thấy được năm bài cảm động như bức thư ấy. Lần nào đọc lại tôi cũng rưng rưng nước mắt mà hối hận rằng đã nhiều lần y như Livingstone Larnod, tỏ ra gắt gỏng quá, nghiêm khắc quá với con tôi, bất công với nó nữa. Nhưng hôm nay đọc lại, tôi còn cảm động hơn tất cả các lần trước, tôi đã sụt sùi vì chẳng những tôi đã nghĩ đến con tôi mà còn nghĩ tới ba tôi nữa.
Lạ thật! Bức thư đó chỉ là lời sám hối của một người cha mà hôm nay nó lại gợi cho tôi lòng sám hối của một người con, là tôi?
Hồi đó tôi mới đúng năm tuổi, vừa thuộc vần quốc ngữ. Ba tôi chỉ bài cho tôi rồi đi thăm một người bạn, trước khi đi dặn kỹ tôi ở nhà phải học bài cho thuộc đã rồi hãy chơi để khi người về thì trả bài. Nhưng ba tôi vừa mới ra khỏi cửa thì một đứa trẻ bên hàng xóm qua rủ tôi đi đánh bi và tôi đã quên lời dặn của ba tôi, vui vẻ đánh bi. Tôi không còn nhớ trận đòn đó dữ ra sao, chỉ nhớ rằng bà ngoại tôi phải xin dùm tôi.
Tối hôm đó, ăn cơm xong tôi vẫn còn len lét, tính mở sách ra học thì ba tôi bảo: “Tối nay cho con nghỉ học, thay quần áo rồi đi chơi với cậu”. Tôi mừng quýnh. Ba tôi thuê xe lại đường Paul Bert, dắt tôi vào một cửa tiệm rực rỡ ánh đèn, mua cho tôi một gói kẹo tây, rồi hai cha con nắm tay nhau thủng thẳng lại hồ Hoàn Kiếm, phía đối diện với Tháp Bút, ngồi hóng mát và thưởng sen bên bờ nước. Ba tôi giấu gói kẹo, bảo tôi kiếm, đùa giỡn với tôi trên bãi cỏ. Chỗ đó vắng người và ít ánh đèn. Bình thường ba tôi rất nghiêm khắc mà lúc đó lại thật âu yếm. Chuyện đó có gì lạ đâu, mà sao đã gần nửa thế kỷ, hôm nay tôi vẫn nhớ rành mạch, nhớ từ nếp khăn ba tôi chít tới những đám sen trên mặt hồ. Hồi đó tôi chỉ cảm được lòng thương của ba tôi chứ nhất định là chưa phân tích được tâm lý của người, nhưng hôm nay tôi đã hiểu tâm lý đó.
Tâm lý đó y như tâm lý của tôi cách đây mười sáu năm, hồi con tôi mới mười một tuổi. Một lần nó vô ý mắc nhiều lỗi nặng khi làm bài, tôi đánh nó mấy roi, mươi mười lăm phút sau, qua cơn giận, tôi thấy tôi vô lý, tôi hối hận, vắt cho nó một ly nước cam, đưa lên kề môi cho nó uống và trong khi nó uống thì nước mắt của chúng tôi rớt trên tập vở của nó, làm nhòe mấy chữ. Chiều đó tôi cho nó nghỉ học sớm, rủ nó ra sân đánh bi. Và tôi để cho nó thắng. Thắng được tôi, nó thích lắm. Hôm nay nó còn nhớ trận đòn đó không (tôi mong rằng không), nhưng tôi thì không quên.
Một nỗi thương tâm chung cho loài người là khi hiểu được tình của cha mẹ thì cha mẹ đã khuất bóng. Sau cái đêm trên bờ hồ Hoàn Kiếm, ba tôi chỉ sống thêm khoảng hai năm. Bây giờ tôi biết đổi cái gì cho ba tôi sống lại được, dù chỉ trong mười phút, để nghe lời sám hối của tôi, đọc bức thư này của tôi!
Tôi biết rằng một đứa trẻ mới năm tuổi thì chưa thể tự chủ được, chưa hiểu được thế nào là bổn phận, việc nào phải làm, vậy thì tuổi đó tôi ham chơi, không học bài, đâu phải là có lỗi. Nhưng hôm nay tôi vẫn sám hối. Vì tôi đã gây khổ cho ba tôi, dù chỉ là vô tình. Đêm hôm đó chắc ba tôi đã bức rứt, hối hận lắm, nên mới âu yếm với tôi như vậy. Xin vong linh cậu tha lỗi cho con. Hôm nay lòng con cũng nát như lòng cậu đêm đó vậy.
Phải có con rồi mới hiểu được nỗi lòng của cha. Trong một trăm gia đình, dù giàu dù nghèo, dù sang dù hèn, tôi không chắc có được một gia đình nào mà cha mẹ không buồn khổ ít nhiều vì con cái. Chúng ngu đần thì nhất định là cha mẹ buồn rồi, mà chúng thông minh thì nhiều khi cha mẹ cũng bực mình; chúng khó dạy thì nhất định là cha mẹ khổ rồi, mà chúng dễ dạy thì cha mẹ chưa chắc đã khỏi khổ. Hồi nhỏ tôi thường được khen là ngoan mà nay nhớ lại đã bao lần làm cho cha mẹ tôi rầu rĩ! Rồi còn biết bao gia đình trẻ mắng lại cha mẹ, từ bỏ cha mẹ mới là đứt ruột cho chứ! Nếu không vậy thì lại là những đứa chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến cha mẹ. Hai mươi lăm tuổi đầu, tư chất kém, thi Tú tài I không đậu, mà vẫn không chịu kiếm một nghề để giúp nhà, vẫn bắt cha già bảy chục tuổi lọm cọm kiếm sống từng đồng một để đóng tiền cơm, tiền học cả ngàn đồng mỗi tháng. Những cảnh thương tâm đó nhan nhãn trong xã hội.
Thời nay nhà giáo dục nào cũng bênh vực quyền lợi của trẻ, điều đó rất chính đáng. Người lớn chúng ta nhiều khi bất công thật, có kẻ tàn nhẫn nữa, cho nên lời của Livingstone Larnod mới làm cảm động lòng ta như vậy, mới được dịch ra mười bốn thứ tiếng, đọc trên hàng chục đài phát thanh. Nhưng có ai lưu tâm chỉ một chút thôi, tới nỗi lòng của cha mẹ không? Trong mấy chục năm nay tôi chưa được đọc một cuốn nào, một bài nào kể những khổ tâm của người cha đấy. Không dạy trẻ thì có tội bỏ bê chúng, mà dạy chúng thì làm sao chẳng có lúc nghiêm khắc mà phải chuốc lấy lời trách oán của nhà giáo dục kia?
Má tôi ít học, nhưng có tình thương con thì có lương tri, mà có lương tri thì còn hơn là có học: người đã để tôi tự ý định đoạt lấy cuộc đời của tôi, không can thiệp vào sự lựa nghề, sự lập gia đình của tôi. Hồi trẻ tôi cho vậy là tự nhiên; phải đợi tới ngày nay, hai thứ tóc, tôi mới hiểu rằng người đã hy sinh cho tôi. Không hy sinh mà tôi là con trưởng để tôi sống xa người tới hai ngàn cây số! Không hy sinh mà người phải đi về bốn ngàn cây số để bồng cháu nội của người trong có bảy ngày. Nhưng giả sử hồi đó người có “can thiệp” vào đời sống của tôi thì bây giờ tôi cũng không hiểu được rằng người không phải là ích kỷ. Người chỉ tìm hạnh phúc cho con người theo quan niệm, theo kinh nghiệm của người thế thôi. Người làm sao có thể hành động khác được vì con người chẳng phải là một phần của người, là tất cả hy vọng và lẽ sống của người ư? Khi quan niệm của cha mẹ không hợp với nguyện vọng của ta thì ta bảo rằng cha mẹ không sáng suốt! Lạ thật!
Chỉ tại “nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược” như tục ngữ đã nói. Tình thương của cha mẹ tự nhiên như nước chảy xuôi, mà lòng hiếu của con phải nhờ giáo dục, nhờ kinh nghiệm rồi mới có. Không, tôi không tin cha mẹ mà lại ích kỷ bao giờ. Ích kỷ là chỉ nghĩ tới mình, phân biệt ta và người, mà cha mẹ thì không phân biệt mình với con. Không ai nuôi con để mong chúng sau này đền đáp mình cả. Má tôi về già vẫn làm lụng vất vả từ sáng tới khuya để tự túc mà khỏi trông cậy vào chúng tôi. Mà những cha mẹ nào bất đắc dĩ phải trông cậy vào con cái thì luôn luôn ân hận rằng chẳng giúp chúng được gì cả. Ôi! Nuôi chúng cả một đời, mà về già chúng có đáp lại trong ít năm - mà đáp lại bằng cách nào? - thì vẫn ân hận rằng chẳng giúp được gì cả! Nước chảy xuôi hoài cho tới khi cạn. Cha mẹ cứ muốn giúp con hoài cho tới khi chết. Vậy mà người ta còn bảo rằng cha mẹ ích kỷ!
Trong cái trào lưu sinh hoạt vĩnh viễn bất tuyệt của loài người, nước đã chảy đi thì không bao giờ trở lại về nguồn. Hỡi các bạn trẻ sắp lập gia đình, như dòng nước sắp bắt đầu rời suối, các bạn nên ngừng bước lại một chút, quay lại nhìn nguồn để hiểu nguồn thì trên đường đời các bạn sẽ đỡ phải ân hận, đỡ phải sám hối như hôm nay tôi sám hối trên bàn viết, trước mặt bàn thờ ba má tôi mà lư trầm đương lặng lẽ tỏa hương.
Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê
MỘT BÔNG HỒNG CHO CHA
VÕ HỒNG
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con heo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khẩn thần linh phù hộ cho con mau ăn chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngữa huơ chân huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “I i! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí cho phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha gượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định về thăm ngoại hả?” Rồi cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây! Ai ra mua?” Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rót cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: qua bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai nguồn cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.
Chớ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ vạch vú cho con bú, mẹ bồng ru con ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may biết được mà nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn
Núi này nhất định là phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ ra là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn Luân lý giáo khoa thư dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chạy ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng dài và rộng hơn sợi dây tình cảm con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ nhân thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng, Phạm liền ngắt lời hỏi: Sao con không cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vì vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của chính mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn như vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rể thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Thân chĩa những cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha, bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu rể. Lúc thức sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể, Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đó đập đó, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc Đẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ, chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: “Được vậy còn đòi gì nữa?… Trời ơi, thì giờ đâu?”
Phải, thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi thân bất di” con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá”. Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ những câu nói đều quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn định thần tỉnh”, ta dịch: “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép hờ cánh cửa, để lấy cái mềm, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới giám tỏ bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gởi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần: “Đi đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng nơ trắng, Mẹ mất, cha còn: hoa trắng nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình.
Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng òa khóc theo.
Cha cũng như mẹ, rồi sẽ có một ngày: Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc (Cha mẹ mãn phần).
Nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chớ không phải “cho vay” để có thể gọi là trả đủ.
Võ Hồng
Về bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ”
Đỗ Hồng Ngọc
Mother And Child by Hermel Alejandre
Mùa Vu lan. Thật may mắn cho những ai được cài đóa hồng trên ngực áo. Bởi họ còn Mẹ. Tôi thì cài bông trắng. Nhưng điều tôi tin chắc là mẹ tôi đã gặp… bà Ngoại, và vì thế, mẹ đã có thể gài lên ngực một đóa hồng thật tươi từ đó…
Bông hồng cho Mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
Đỗ Hồng Ngọc
(Vu Lan 2012)
Võ Tá Hân, người nhạc sĩ đã có đến hơn 30 CD nhạc Phật giáo và hằng trăm khúc tình ca nổi tiếng, một hôm tình cờ đọc được bài thơ ngắn ngủn này đã cảm xúc viết nên khúc hát Vu Lan thật thiết tha dành cho những người con… không còn Mẹ.
Và tiếng hát da diết của ca sĩ Thu Vàng thấy trên youtube:
Rồi Bội Hoàng, từ Cần Thơ đã cảm tác:
Tình yêu còn mãi
Đọc bài thơ mà mắt lệ đoanh tròng
Ai thấu hiểu một tình yêu đã mất
Ai tự hào cài hoa hồng lên ngực
Dù đã qua cái tuổi cổ lai hy!
Con chỉ muốn luôn được cài hoa đỏ
Dù tuổi đời Má đã rất mong manh,
Dù con Má đã con cháu vây quanh,
Vẫn muốn được mỗi ngày chăm sóc Má.
Được bón cơm, được đút cháo, châm trà
Được tắm rửa, được thay quần áo mới
Được ngồi bên nghe những lời Má nói
Mà dậy lên niềm thương cảm riêng tư
Má bỏ con năm Má chín mươi tư
Rời cõi tạm, Má lên đường thanh thản
Con cài hoa cho màu áo Má đỏ
Để Má về gặp Ngoại vui đoàn viên
(Bội Hoàng, 2014)
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh từ Santa Ana, mùa Vu Lan 2016 viết trong bài “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”:
“Lại đến mùa Vu Lan. Những đóa hồng đỏ hạnh phúc bung nở vành môi vẽ một vòng xum vầy thỏ thẻ Mẹ Ơi. Những đóa hồng trắng ngân đọng nước mắt lung linh đôi bờ xa vắng âm vang tiếng gọi Mẹ Ơi. Trong niềm, vừa hân hoan vừa cảm động, tôi nhớ đến bài thơ về Mẹ mà khi đọc nhịp tim tôi như bị nghẹn,
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông Hồng Cho Mẹ, Đỗ Hồng Ngọc)
Thử xem. Đọc. Nghe. Rồi hít vào một hơi thở sâu, im vắng, thì mình như nghe được tiếng nước mắt đang vỡ ra… Vỡ bung như ngọn sóng xanh lấp lánh biển pha lê. Vỡ tung như ngọn pháo hoa rơi vô vàn sợi ánh sáng trong đêm. Những cái vỡ, không tan mà thăng hoa, phải chăng đó là tận cùng của Đẹp? Như hạt nước mắt này, nó bung bung. Ánh lên bóng của Ngoại đang đứng bên kia sông, bên kia là bên của miên viễn không còn sinh tử? Và Mẹ, Mẹ đang từ cõi chết đi vào cõi sống ấy để lọt vào vòng ôm ấm áp của Ngoại. Mẹ đi từ nụ hồng đỏ nở duyên trùng phùng Ngoại. Ý thơ mầu nhiệm làm sao.
Tôi thấy không nói nên lời được để tả cho chính xác cảm giác của mình về sự mênh mang “ý tại ngôn ngoại” trong sâu thẳm bài thơ này. Về cái rất không nghĩa của Mất Còn. Đến với tôi là ý niệm con đường sinh tử đang xóa đi dưới cảm xúc của đứa con, -là Đỗ Hồng Ngọc đây-, người chiêm nghiệm sống chết thật là như không, đóa hồng trắng người đang đeo là một thực tại, đóa hồng đỏ đang rưng rưng trên áo Mẹ kia, là áo nghĩa của thực. Tất cả đều ở thì đang, không còn hôm qua ngày mai phút tàn giây tới. Sinh mệnh không khởi đi và chấm hết bằng hai đầu tiếng khóc nữa. Là Đây. Là Đang. Một thực tại sống động xóa hết biên giới không gian và thời gian. Hình dung Mẹ, trong hơi thở hắt ra bỗng trong suốt nhẹ nhàng đứng lên, trong ngày hội tưng bừng của Tình Mẫu Tử, cúi nhìn bàn tay đứa con run run cài lên ngực áo mình một đóa hồng đỏ, và Mẹ phất phới đi trong nôn nao cho kịp giờ hẹn với Ngoại. Ôi ta mất mẹ và ôi Mẹ vừa có Ngoại. Vô biên lâng lâng nỗi Còn Mất… Huyễn ảo vô cùng khiến những giây tơ vi tế nhất trong cảm xúc ta bị đánh động.
Ngoại Chờ Bên Kia Sông, tôi viết hoa vì mỗi mỗi chữ của câu thơ này là khởi đề dẫn đến chiêm nghiệm ảo hóa về sinh tử. Và toàn bài thơ là tấm tình trong vắt ban sơ của người con, rất nhỏ, mà cũng đã rất già. Bởi rất nhỏ thì mới yêu thương Mẹ được hồn nhiên như thế. Và phải chăng, rất già mới có thể biến yêu thương ngây thơ thành một tình yêu vượt qua được đau đớn của chia lìa sinh tử, như thế.
Cảm ơn Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, cho tôi biết thêm một nhịp đập thương yêu nữa của Hiếu Tử, cho tôi từ bây giờ đã có thể chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một lúc nào đó phải xa Mẹ. Không phải là một cái xa hẳn rồi, mất hẳn rồi như tôi vẫn thường nghĩ nữa. Trong hạt nước mắt rơi lại thấp thoáng nụ cười, nhìn Mẹ của ta lại cài hoa hồng đỏ về bên Ngoại. Ôi! Cái không nói của Ngoại Chờ Bên Kia Sông đã lấp đầy cảm xúc và ý nghĩ của tôi đến thế!
Và lúc này đây, còn được thấy mẹ ra vào thì hãy thỏ thẻ bên vai mẹ rằng,
… mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng… (thơ Đỗ Trung Quân)
Trong hoan hỷ địa mẫu tử, tôi đọc thầm cho riêng mình, gửi đến các con tôi,
… tận cùng hạt lệ mẹ
là nước mắt con rơi
tận cùng tiếng cười mẹ
là nụ cười con vừa mở
và con ơi
tận cùng hư vô mẹ
sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại (thơ NTKM)
Thưa có phải cũng có chút gặp gỡ giữa “sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại” và “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”?
NTKM
Santa Ana, Mùa Vu Lan
mà nhà phê bình Tô Thẩm Huy cảm thán:
“Bài thơ ngắn, vỏn vẹn 20 chữ, mà thâm thúy, ảo diệu vô cùng. Đọc lên điếng cả hồn.
Phải chép lại ra đây.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho Mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực,
Ngoại chờ bên kia sông
Rõ ràng Nguyễn Thị Khánh Minh đã cảm bài thơ đến vô cùng, đến “tận cùng của đẹp”, tận cùng của ý nghĩa sinh tử kiếp người, không khởi đầu, không chấm dứt. Thời gian tan biến mất. Thơ tuyệt, mà người cảm thơ cũng quá tuyệt. Thật là may mắn có được người đồng điệu như thế.
Bài phổ nhạc hay, hai giai điệu khác nhau mà hòa hợp, hỗ tương lẫn nhau. Tuy thế, cảm xúc khi đọc bài thơ nó đến ào ạt, như cùng một lúc nó trào dâng, bủa vây tứ phía, làm bàng hoàng, run rẩy khắp cả châu thân. Cảm xúc từ bài nhạc nó đến khoan thai, từ tốn, êm đềm”.
Lê Uyển Văn từ Trà Vinh viết: Bài viết tuyệt vời được khơi nguồn từ bài thơ đẹp. May mắn cho chúng ta được thưởng thức những tuyệt phẩm này. Xin đa tạ!
Còn Trieu Minh (Úc) ghi cảm nhận khi nghe bài hát từ giọng ca Thu Vàng: “Doc va nghe Nhac, nghe Nghen o nguc, nuoc tu lan tren Ma”.
ton t thì comment: “Nghe nhức xương, thấm tới tủy”;
chrslam thì ghi: Đã nghe đi nghe lại cả chục lần bài hát này. “…Mẹ nhớ gài lên ngực. Ngoại chờ bên kia sông…” Một cảm giác khó tả. Cám ơn thi sĩ và nhạc sĩ.
Và E-Temple ghi nhận: “Chỉ có 4 câu ngắn ngủn thôi mà thành lời ca, và hát mãi không muốn dừng. Con dập đầu lạy Phật, xin Mẹ được vãng sinh ‘Nam mô Đại Từ Đại Bi A-Di-Đà Phật….’”
Nguyễn Thị Tịnh Thy từ Huế viết trong “Yếu tố bất ngờ trong bài thơ bông hồng cho mẹ”:
“Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người… Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.
(…)
Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật…” (đặc san Liễu Quán, số 12, Vu Lan 2017).
Mùa Vu Lan này, xin gởi bạn đôi dòng về bài thơ Bông Hồng Cho Mẹ như một lời chúc mừng đến bạn, người đã rất sướng vui, tự hào, khi còn được cài một bông hồng đỏ thắm trên ngực áo của mình! “Rồi một chiều nào đó anh về, nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu… rồi nói nói với Mẹ rằng… Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?…” (Phạm Thế Mỹ).
Đỗ Hồng Ngọc
Nguồn: Văn Việt 25/8/2018
Đi khắp thế gian
Không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời
Không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông
Không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng
Không phủ kín công cha
Tần tảo sớm hôm
Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy
Cha che chở cho con
Ai còn Mẹ
Xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn
Lên mắt Mẹ nghe không
Lời dạy của Đức Phật
MẸ
TRỊNH CÔNG SƠN
Có một người đàn bà yêu thương tôi và tin tưởng ở tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà hy sinh cả tính mạng. Đó là Mẹ tôi.
Có một người bạn trung thành với tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà từ bỏ hết mọi của cải, mọi thứ ân sủng quý giá nhất. Đó là Mẹ tôi.
Nếu có ai bảo với tôi rằng ở một nơi nào đó có một người xem con mình vừa là mục đích đầu tiên vừa là mục đích cuối cùng của đời sống thì tôi tin chắc rằng người đó không ai khác hơn là Mẹ tôi.
Bảy mươi năm đi qua cuộc đời này, tôi biết má tôi còn thiếu những lời an ủi. Tôi đã cùng với má tôi đi một đoạn đường dài như hai người bạn. Người bạn lớn ấy đã ân cần chăm sóc tôi trong từng bữa ăn, giấc ngủ và lo âu cầu nguyện trong những lần tôi ốm đau. Sống một cuộc đời như thế thật vô cùng khổ. Nhưng hình như má tôi đã biết biến những nỗi khổ ấy thành một thứ hạnh phúc riêng tư.
Hôm nay, má tôi đã đột ngột bỏ cả bầy con ra đi không một lời từ biệt.
Không hiểu có phải vì má chúng tôi ngại phải báo trước một điều buồn khổ cho con hay không. Suốt đời chỉ muốn con mình sung sướng và giữ lấy muôn vàn thiệt thòi cho riêng mình.
Không còn sự mất mát nào lớn hơn đối với chúng tôi.
Tất cả những gì chúng tôi có được hôm nay thuộc về má tôi cả.
Mất Mẹ rồi mới biết rằng tất cả chúng tôi đều là những đứa con bất hiếu. Chúng tôi chưa đền đáp được một mảy may gì cho má cả. Đã trễ rồi, không còn cơ hội nào nữa để chúng tôi có thể chung nhau mang đến cho má một niềm vui hiếm hoi.
Mất Mẹ rồi tôi mới biết rằng không bao giờ được phép hờ hững với những ân huệ mà cuộc đời đã cho ta. Phải biết chào trả lại kịp thời trước những lời thăm hỏi vì cái vẫy tay thân ái nào cũng có thể là cái vẫy tay sau cùng. Chúng tôi đã chuẩn bị quá muộn để đáp lại một ân huệ trời cho là sự thương yêu của má tôi.
Tôi bỗng như một đứa trẻ luống tuổi chưa biết từ nay sẽ bắt đầu lại cuộc đời mình như thế nào. Bấy lâu nay vẫn cứ sống nương tựa vào má mà không hề chuẩn bị gì cả.
Trên đường đời, những ngày sắp tới, tôi biết rằng không bao giờ còn được gặp má nữa. Người ở lại hay người ra đi thì cũng đau khổ như nhau. Tôi chỉ hy vọng trong chuyến đi xa vĩnh viễn này Mẹ chúng tôi đã phủi sạch được những nợ nần quá lâu cho một đời người.
Má ơi! Chúng con có mặt đầy đủ ở đây để lạy má lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng, để từ biệt má. Xin tha thứ những lỗi lầm của chúng con. Cầu xin má được yên nghỉ trong một cõi đời khác không còn đau khổ.
Trịnh Công Sơn
24.10.1991
MẸ
- ĐỖ HỒNG NGỌC
- “Nhớ lại những ngày xưa, mẹ có thể mỉm cười. Những lúc bú mớm con cũng đã từng cắn mẹ đau điếng! Những lúc bệnh hoạn con cũng làm mẹ thức thâu đêm. Con ho mà mẹ ran lồng ngực. Con ỉa chảy mà mẹ đau thắt ruột gan. Mẹ không ngại ngần hôi hám, vấy bẩn để chăm sóc con. Có lúc ngửi mùi phân của con, có lúc ngửi mùi nước tiểu của con để theo dõi bệnh trạng báo cho bác sĩ. Sữa mẹ là những tế bào thân xác mẹ vỡ ra mà thành. Mẹ xanh xao đi để con được hồng hào. Mẹ lùn thấp xuống để con được cao lớn lên. Mẹ loãng xương để con được cứng cáp. Mẹ nhăn nheo để con đầy đặn. Mẹ xấu xí từng ngày để con ngày càng rạng rỡ xinh tươi. Nhìn con lớn lên mẹ nhìn thấy mẹ ngày xưa. Con nói bi bô, con đi lững thững từng bước một... ngày nào! Mẹ hãnh diện nhìn con như dòng sông hãnh diện nhìn dòng nước chảy. Mẹ không kỳ vọng vào con thì kỳ vọng vào ai?”
“Nhạc sĩ Trần Long Ẩn có một bài hát rất dễ thương. Mỗi Tết đến, khi con “mừng tuổi mẹ” thì càng thấm thía “ngày con xa mẹ càng gần”! Không kỳ vọng vào con thì kỳ vọng vào ai?
- “Trẻ không thể lớn nổi, không thể thành người nếu thiếu tình yêu thương. Và đó là lý do tại sao tất cả các thứ sữa nhân tạo, dù làm bằng sữa bò, sữa trâu, sữa lạc đà, sữa dê, sữa đậu nành... đều không thể so sánh với sữa mẹ. Bởi sữa mẹ, ngoài chất dinh dưỡng tuyệt vời ai cũng biết còn có những thứ khác nữa, không thể tìm đâu ra. Thí dụ... mùi mồ hôi chua lét của mẹ, mùi tóc tai lòng thòng của mẹ, mùi à ơi của mẹ. Trong lúc đang hí hửng nhơi nhơi sữa mẹ, bé có thể cắn một phát đau điếng do thiếu sữa, do ngộp sữa, do mẹ lơ đễnh, không “chánh niệm”, vừa cho bú vừa nghĩ đâu đâu... Mẹ đau quá, đét một phát vào mông bé, rồi hối hận siết chặt con vào lòng... Một tương tác, một khúc hòa tấu. Không thể tìm thấy ở đâu với sữa nhân tạo”. (Đỗ Hồng Ngọc. Còn sữa để cho con, trong Sức khỏe gia đình, tr. 22-27).
- “Nếu trẻ kêu lên được, tôi nghĩ có lẽ chỉ kêu một tiếng: Mẹ ơi, con cần mẹ, con cần mùi mồ hôi của mẹ, cần tiếng ru của mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha”.
Bông hồng cho mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ cài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
Mẹ tôi
Nhưng một người già gần gũi nhất với tôi chính là mẹ tôi, bà nay đã 87 tuổi, vẫn hoạt động lanh lợi, khỏe mạnh, năng động và nhiều ý tưởng không thua một người ở tuổi trung niên. Nhiều người tưởng bà là mẹ của bác sĩ hẳn đã phải uống được linh đơn diệu dược gì đó, nhưng không, bà chỉ tập dưỡng sinh, đi bộ, sống tự chủ với cái mảnh vườn nhỏ mà bà luôn tay trồng trọt, chăm bón, hết cây cà tới cây ớt, không chịu lệ thuộc con cháu, ăn uống thì đạm bạc… lại ham đọc sách báo dù chỉ biết đọc biết viết, và luôn sẵn sàng chỉ vẽ cho nhiều người khác cùng tập dưỡng sinh, cùng ăn nha đam, uống trà sim… như mình!
Nụ cười của mẹ
“Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm! Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười. Không nói. Lạ là vì mỗi lúc bà cười mỗi khác. Lúc nào tôi có vẻ vội vã chào bà như để đi đâu đó cho đúng hẹn chẳng hạn, bà cười cười tha thứ. Vậy hả con. Ừ đi đi. Lúc nào tôi thấy mình có lỗi, lần khân bên bà lâu lâu chút thì nụ cười của bà lại như mỉa mai. Biết rồi, khỏi nói. Những lúc tôi mang chuyện bực mình đâu đó về thì bà nhẹ nhàng cười, thôi đi, đừng sinh sự! Nhột nhất là khi bà cười có vẻ châm biếm khi tôi có ý gì đó thiếu thành thật, loanh quanh kiếm chuyện… Ôi nụ cười của một bà mẹ mới lạ lùng làm sao! Lúc tủm tỉm, lúc chế giễu, lúc mỉa mai, lúc chua chát, lúc thứ tha, lúc trách mắng… Vậy đó, mẹ tôi vẫn cười cười như thế suốt ba năm qua từ tấm ảnh trên bàn thờ!”
Đỗ Hồng Ngọc
(Ngày giỗ Mẹ, 17 tháng sáu Âm lịch)
Chủ Nhật, Tháng Bảy 13th, 2014
Vậy là Mẹ tôi đã mất 2 năm. Bà mất lúc 94 tuổi, kể cũng… thọ. Hôm rồi cả nhà về Lagi, làm đám giỗ cho bà tại ngôi nhà bà đã sống những năm cuối đời. Giỗ đơn giản thôi với hoa và trái. Ngôi nhà đã xuống cấp nặng vì thiếu người trông nom. Phải có hơi người thì cây cỏ mới tốt tươi… Rời Lagi, cả nhà về quê ngoại ở Hiệp Nghĩa, nơi bà được sinh ra…”
Trong giấc ngủ có loài hoa bỏ ngỏ
Tiếng mẹ hiền còn mãi mãi à ơi
Dòng sông xưa nước đục chảy muôn đời
Sao trong mắt chưa thấy niềm sám hối?
BS Đỗ Hồng Ngọc
TÌNH MẸ
- CHƠN THIỆN
Mỗi hiện hữu là một tổ hợp của nhân duyên. Nó hiện ra như là một dấu hiệu, một biểu tượng biểu tượng hóa cho cái bàng bạc của thực tại vô cùng.
Tình mẹ cũng thế. Đấy là tình người đặc biệt, chân thật, tự nhiên, khoan dung, bình đẳng vô điều kiện.
Mẹ là người, nên tình mẹ có mặt trong mỗi người. Nếu tình ấy phát triển, sẽ là tình làng nghĩa xóm, tình quê hương đất nước, tình yêu Tổ quốc, nhân loại, pháp giới, sẽ giải phóng con người ra khỏi các rang buộc của tự ngã nhỏ nhen, ra khỏi các tâm lý cấu trược mà vươn tới các tâm lý thánh thiện, giải thoát: bấy giờ tình mẹ là tâm đại tuệ và đại bi.
Mẹ là tác nhân của sinh thành, trưởng dưỡng, nên tình mẹ là biểu tượng cho vạn hữu, pháp giới, những tác nhân hưng khởi tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Ở đây, Mẹ chính là pháp giới, vạn hữu, và pháp giới vạn hữu chính là Mẹ. Thương yêu Mẹ là thương yêu vạn hữu pháp giới, là tâm địa Bồ-tát, là mẹ hiền Quan Thế Âm độ khổ thế gian.
Thi sĩ Trụ Vũ đã viết về trái tim mẹ hiền như thế. Đó cũng là ý nghĩa mở rộng của ngày Vu-lan trong văn hóa Đại Việt.
Chơn Thiện
cẩn bút
TRÁI TIM MẸ HIỀN
TRỤ VŨ
Văn hiến bốn ngàn năm
Giọt nước mắt trăng rằm
Mủa Vu-lan nhớ mẹ
Mưa dầm ngọn lá răm.
Nửa đêm lạc bước đời
Nước mắt ơi, mẹ ơi
Hỏi thăm chân diện mục
Tiếng mẹ khuya ru hời.
Hỏi thăm khúc tâm ca
Tiếng mẹ ru mượt mà
Giọng mẹ ru trầm lắng
Dải lệ sương Ngân hà.
Còn chi để lại đây
Chút của tin sum vầy
Địa ngục con Vô gián
Đôi vai mẹ héo gầy.
Nỗi nhớ mẹ nhớ cha
Nỗi thương ông thương bà
Ngọn đèn khuya bà nội
Thắp đợi con về nhà.
Bốn nghìn năm văn hiến
Giọt nước mắt hài nhi
Nỗi nhớ cha kính mẹ
Củ tin này - đó chi!
Lòng mình như biển đỏ
Chở muôn sóng đoạn trường
Chỉ cần nửa thoáng gió
Là sóng dập trùng dương
Nỗi thương cha nhớ mẹ
Lại thương đời thịt xương.
Vì sao em là người
Có gì đâu em ơi
Mỗi vì em thờ mẹ
Kính cha suốt suốt đời.
Trước Lễ Vu-lan
Tự thưở hồng hoang
Tình con yêu mẹ
Phi thời, không gian.
Trụ Vũ
(Trích Trái Tim Mẹ Hiền)
Văn Hóa Phật Giáo,
Ấn phẩm mùa Thu 2014, PL. 2558, tháng 9. 2014, tr. 138-139.
TẠ ƠN
THIỀN SƯ MINH NIỆM
Nếu chúng ta luôn biểu lộ lòng biết ơn với nhau thì vết thương nào cũng chữa lành, khó khăn nào cũng vượt qua và đỉnh cao nào cũng vươn tới.
* “Thưa ba! Con rất hãnh diện là con của ba, về những gì ba đã sống cho mọi người và cho chúng con. Ba đã trao cho con nghị lực và niềm tin mạnh mẽ về giá trị chân thật của cuộc sống”.
* “Mẹ ơi! Con vô cùng biết ơn mẹ, vì mẹ đã cho con một kho tàng yêu thương vô giá. Trong những lúc khó khăn nhất, chính là lúc con nhớ đến lòng bao dung độ lượng của mẹ nhiều nhất”.
* “Con yêu quý! Ba mẹ cảm ơn con, vì con đã tiếp nối ba mẹ một cách xứng đáng. Ba mẹ thật tự hào về con”.
* “Anh xin tạ ơn em, vì em đã hết lòng nâng đỡ anh. Em đã cho anh rất nhiều niềm vui và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng”.
* “Em cũng xin được tạ ơn anh, về những gì mà anh đã mang đến cho cuộc đời em. Dù có những lúc em cũng khổ vì anh, nhưng anh chưa từng bỏ mặc em”.
* “Thưa chị, chị đúng là một người chị tuyệt vời của em, luôn lắng nghe và thấu hiểu em. Em rất thương và rất biết ơn chị”.
* “Chị cũng biết ơn em, vì em đã phụ giúp chị rất nhiều việc trong gia đình. Đặc biệt là sự hồn nhiên tươi vui và nụ cười dễ thương của em”.
* Ôi đóa hoa thơm ngát
Đang nở nụ cười xinh
Nhìn nhau trong cẩn trọng
Đẹp thay những ân tình.
* Tạ ơn người hiến tặng
Hạnh phúc lẫn thương đau
Để sớm mai thức dậy
Còn nhớ gọi tên nhau.
Thiền sư Minh Niệm/ Hiểu về trái tim - Nghệ thuật sống hạnh phúc
NXB Trẻ quý III năm 2011
MẸ
Người bạn của con
Mẹ luôn là người dẫn đường
và người khơi nguồn sáng tạo cho con
bằng cách luôn là chính mình -
một người Mẹ
tràn đầy tình thương và tận tụy
đã thể hiện một tấm gương cao đẹp
về tình yêu thương
của những người làm Cha Mẹ.
BA
Sức mạnh của con
Ba đã làm cho con thấy mình mạnh mẽ,
như thể con nắm được cả thế giới.
Ba khiến con tin rằng
con làm chủ được con đường trước mặt.
Và cho dù đôi khi
con đường đó có chông gai.
Con biết rằng
con có thể vượt qua được.
* Có một tình yêu thương
cao cả và vĩ đại nhất trên đời -
không phai nhạt theo tháng năm -
là tình yêu của người mẹ dành cho con.
Khuyết danh
Nếu Mẹ là
* Thơ: LÂM THỊ MỸ DẠ
Lời bình: Lý Hoài Xuân
Nếu mẹ bỗng tan thành ánh trăng
Thì con ơi, con hãy là đồng lúa
Ánh trăng mơn man đồng lúa rì rào
Mẹ con mình cùng hát
Những bài ca không lời đẫm hương
Nếu mẹ bỗng biến thành đồng cỏ
Thì con ơi, con hãy là chú bê con
Đồng cỏ mẹ mênh mông tơ non
Con tha hồ ăn, tha hồ chạy nhảy
Nếu mẹ bỗng chảy thành dòng sông
Thì con ơi, con sẽ là ánh sáng
Bởi những dòng sông trong đêm buồn lắm
Mẹ sợ những con thuyền ngủ yên
Nếu mẹ bỗng hóa thành cánh buồm
Thì con ơi, con sẽ là ngọn gió
Mẹ con mình đi khắp bốn phương
Thấm hết cái mặn mòi, ngọt mát của nhân gian
Nếu mẹ là…
Thôi mẹ ơi, mẹ đừng là gì nữa
Con muốn mẹ là mẹ mãi thôi
Để con được ngồi
Trong hai vòng tay mát êm của mẹ.
Lời bình của Lý Hoài Xuân:
Bài thơ được đưa ra những giả định và không giống nhau về hai chủ thể đặc biệt trong quan hệ huyết thống là MẸ và CON. Mẹ là chủ thể quyết định. Con là chủ thể phụ thuộc. Đây là những điều mẹ đặt ra để nói với con:
Nếu mẹ là ánh trăng thì con là đồng lúa (khổ 1)
Nếu mẹ là đồng cỏ thì con là chú bê con (khổ 2)
Nếu mẹ là dòng sông thì con là ánh sáng (khổ 3)
Nếu mẹ là cánh buồm thì con là ngọn gió (khổ 4)
Trong vai mẹ, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lý giải:
Với ánh trăng - mẹ: “ánh trăng mơn man đồng lúa rì rào/ mẹ con mình cùng hát/ những bài ca không lời đẫm hương”. Có nghĩa là cả mẹ và con cùng làm ca sĩ, cùng làm giàn hợp xướng sinh động của thiên nhiên, hát những bài ca không cần có lời nhưng thấm đẫm hương thơm trời đất cho tất cả muôn loài cùng nghe, cùng hiểu và cùng đồng cảm.
Với đồng cỏ - mẹ: “đồng cỏ mẹ mênh mông tơ non/ con tha hồ ăn, tha hồ chạy nhảy”. Ở tình huống này thì mẹ phải chấp nhận sự hy sinh; mẹ thành nguồn sống nuôi con. Đương nhiên đồng cỏ mẹ rất rộng lớn, con ăn mấy cũng không hết nên không lo mất mẹ.
Với dòng sông - mẹ: “con sẽ là ánh sáng/ bởi những dòng sông trong đêm buồn lắm/ mẹ sợ những con thuyền ngủ yên”. Giả định này đặt mẹ vào vị thế phụ thuộc vào con, bởi khi mẹ là dòng sông, ban ngày thì không sao, nhưng ban đêm nếu không có ánh sáng, ai biết dòng sông ở đâu; con thuyền cũng sẽ không biết dòng sông rộng hẹp thế nào, đang thủy triều hay đang hạ thủy, đã đến giờ thuyền rời bến đi chưa. Mà con thuyền ngủ yên thì khác gì con thuyền chết. Con thuyền chết thì dòng sông cũng chết! Dòng sông đâu muốn con thuyền như vậy. Với ý nghĩa con là ánh sáng - con sẽ giúp mọi người thấy được dòng sông đang chảy, con sẽ đánh thức được những con thuyền ngủ yên, ngủ quên.
Với cánh buồn - mẹ: “con sẽ là ngọn gió/ mẹ con mình đi khắp bốn phương/ thấm hết cái mặn mòi, ngọt mát của nhân gian”. Bằng giả định này, thêm một lần nữa Lâm Thị Mỹ Dạ khẳng định vai trò làm chủ của con - ngọn gió. Nếu không có gió, cánh buồm làm sao phồng căng, con thuyền làm sao biết chạy. Ngược lại, khi mẹ là cánh buồm, con là ngọn gió thì phương trời nào gió và buồm cũng đến được; mọi vị mặn, ngọt đáng yêu ở đời gió và buồm đều được tận hưởng. Đó là hạnh phúc chung của mẹ và con.
Và còn nhiều nữa, nếu mẹ là…
Nhưng có gì hơn trên cõi đời này khi mẹ là Mẹ, chứ không phải là những gì khác mẹ, dù những thứ ấy có ý nghĩa to lớn đến mấy. Không để cho mẹ tiếp tục nêu giả định, mượn vào vai con, nhà thơ viết: “thôi mẹ ơi, mẹ đừng là gì nữa/ con muốn mẹ là mẹ mãi thôi/ để con được ngồi trong hai vòng tay mát êm của mẹ”. Chỉ ước mong giản dị như thế thôi nhưng mà nó thực, nó gần gũi, rất dễ thực hiện. Nó phù hợp với tâm tư nguyện vọng thực tế của mẹ và con.
Trong cuộc đời này chính mẹ là người đáng yêu nhất. Bàn tay diệu kỳ của mẹ sẽ mang lại hạnh phúc đích thực cho con.
Cái kết của bài thơ bằng lối phản biện bất ngờ mẹ đừng là gì nữa…., mẹ là mẹ mãi thôi làm cho tứ thơ nổi rõ lên, tạo ấn tượng mạnh và lạ trong người đọc. Lâm Thị Mỹ Dạ đã kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật trong việc sáng tạo ra bài thơ này. Đây là một bài thơ duy lý hay của Lâm Thị Mỹ Dạ, rất hợp với tư duy ngộ nghĩnh của trẻ thơ, nhưng mang màu sắc cổ tích thần thoại.
Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam
Số 46 ngày 13. 11. 2010, tr. 10
“Ngoại Chờ Bên Kia Sông”
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
tặng Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc
“Lại đến mùa Vu Lan. Những đóa hồng đỏ hạnh phúc bung nở vành môi vẽ một vòng xum vầy thỏ thẻ Mẹ Ơi. Những đóa hồng trắng ngân đọng nước mắt lung linh đôi bờ xa vắng âm vang tiếng gọi Mẹ Ơi. Trong niềm, vừa hân hoan vừa cảm động, tôi nhớ đến bài thơ về Mẹ mà khi đọc nhịp tim tôi như bị nghẹn,
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông Hồng Cho Mẹ, Đỗ Hồng Ngọc)
Thử xem. Đọc. Nghe. Rồi hít vào một hơi thở sâu, im vắng, thì mình như nghe được tiếng nước mắt đang vỡ ra… Vỡ bung như ngọn sóng xanh lấp lánh biển pha lê. Vỡ tung như ngọn pháo hoa rơi vô vàn sợi ánh sáng trong đêm. Những cái vỡ, không tan mà thăng hoa, phải chăng đó là tận cùng của Đẹp? Như hạt nước mắt này, nó bung bung. Ánh lên bóng của Ngoại đang đứng bên kia sông, bên kia là bên của miên viễn không còn sinh tử? Và Mẹ, Mẹ đang từ cõi chết đi vào cõi sống ấy để lọt vào vòng ôm ấm áp của Ngoại. Mẹ đi từ nụ hồng đỏ nở duyên trùng phùng Ngoại. Ý thơ mầu nhiệm làm sao.
Tôi thấy không nói nên lời được để tả cho chính xác cảm giác của mình về sự mênh mang “ý tại ngôn ngoại” trong sâu thẳm bài thơ này. Về cái rất không nghĩa của Mất Còn. Đến với tôi là ý niệm con đường sinh tử đang xóa đi dưới cảm xúc của đứa con, - là Đỗ Hồng Ngọc đây -, người chiêm nghiệm sống chết thật là như không, đóa hồng trắng người đang đeo là một thực tại, đóa hồng đỏ đang rưng rưng trên áo Mẹ kia, là áo nghĩa của thực. Tất cả đều ở thì đang, không còn hôm qua ngày mai phút tàn giây tới. Sinh mệnh không khởi đi và chấm hết bằng hai đầu tiếng khóc nữa. Là Đây. Là Đang. Một thực tại sống động xóa hết biên giới không gian và thời gian. Hình dung Mẹ, trong hơi thở hắt ra bỗng trong suốt nhẹ nhàng đứng lên, trong ngày hội tưng bừng của Tình Mẫu Tử, cúi nhìn bàn tay đứa con run run cài lên ngực áo mình một đóa hồng đỏ, và Mẹ phất phới đi trong nôn nao cho kịp giờ hẹn với Ngoại. Ôi ta mất mẹ và ôi Mẹ vừa có Ngoại. Vô biên lâng lâng nỗi Còn Mất… Huyễn ảo vô cùng khiến những giây tơ vi tế nhất trong cảm xúc ta bị đánh động.
Ngoại Chờ Bên Kia Sông, tôi viết hoa vì mỗi mỗi chữ của câu thơ này là khởi đề dẫn đến chiêm nghiệm ảo hóa về sinh tử. Và toàn bài thơ là tấm tình trong vắt ban sơ của người con, rất nhỏ, mà cũng đã rất già. Bởi rất nhỏ thì mới yêu thương Mẹ được hồn nhiên như thế. Và phải chăng, rất già mới có thể biến yêu thương ngây thơ thành một tình yêu vượt qua được đau đớn của chia lìa sinh tử, như thế.
Cảm ơn Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, cho tôi biết thêm một nhịp đập thương yêu nữa của Hiếu Tử, cho tôi từ bây giờ đã có thể chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một lúc nào đó phải xa Mẹ. Không phải là một cái xa hẳn rồi, mất hẳn rồi như tôi vẫn thường nghĩ nữa. Trong hạt nước mắt rơi lại thấp thoáng nụ cười, nhìn Mẹ của ta lại cài hoa hồng đỏ về bên Ngoại. Ôi! Cái không nói của Ngoại Chờ Bên Kia Sông đã lấp đầy cảm xúc và ý nghĩ của tôi đến thế!
Và lúc này đây, còn được thấy mẹ ra vào thì hãy thỏ thẻ bên vai mẹ rằng,
… mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng… (thơ Đỗ Trung Quân)
Trong hoan hỷ địa mẫu tử, tôi đọc thầm cho riêng mình, gửi đến các con tôi,
…
tận cùng hạt lệ mẹ
là nước mắt con rơi
tận cùng tiếng cười mẹ
là nụ cười con vừa mở
và con ơi
tận cùng hư vô mẹ
sẽ một ánh nhìn theo con trở lại
(thơ NTKM)
Thưa có phải cũng có chút gặp gỡ giữa “sẽ một ánh nhìn theo con trở lại” và “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”?
NTKM
Santa Ana, Mùa Vu Lan
tháng 8. 2016
MONG ƯỚC CỦA MẸ
Gởi con trai của mẹ,
Hôm nay, con đang ngồi trước mặt mẹ, chăm chú đánh vật với từng con chữ trong bản chữ cái. Mới hôm qua, con còn chạy tung tăng trong vườn đuổi theo những chú bướm sặc sỡ. Ngày hôm trước nữa, con say sưa nghịch vũng nước mưa đọng trước sân nhà. Con thật sự đã đem đến những thay đổi lớn lao cho cuộc sống của bố mẹ.
Có những lúc mẹ mong ước khi lớn lên, con sẽ làm điều gì thật lớn lao để chinh phục được cả thế giới này. Chẳng hạn, con chế tạo được một phương thuốc chữa trị bệnh nan y, viết một tác phẩm bất hủ, hay có những phát minh giá trị cho nhân loại. Nhưng rồi mẹ tự hỏi: “Mẹ có đặt quá nhiều mong ước vào con không?”
Rồi mẹ lại mong ước sau này con được giàu có và thành đạt trong cuộc sống. Con sẽ sống trong ngôi biệt thự khang trang, đi những chiếc xe sang trọng và thường xuyên du lịch nước ngoài. Nhưng mẹ lại lo lắng: “Liệu những điều này có thực sự đem lại hạnh phúc cho con không?”
Và giờ đây, khi ngắm nhìn khuôn mặt thân thương của con, mẹ đang suy nghĩ rất nghiêm túc và muốn trải lòng mình trên trang giấy này để gởi gắm những suy tư và mong ước mẹ dành cho con bằng chính trải nghiệm cuộc sống của riêng mẹ.
Mẹ mong con luôn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Mong sao tâm hồn con sẽ không bao giờ mệt mỏi và trở nên vô cảm đến mức lãng quên những vẻ đẹp rất bình dị xung quanh. Hãy luôn luôn nhìn cuộc sống một cách vui tươi, lạc quan như đôi mắt trẻ thơ của con bây giờ nhé.
Mẹ mong con luôn luôn có được điểm tựa vững chắc trong cuộc sống đời mình. Trước những thăng trầm, khó khăn của cuộc sống, tình yêu thương của gia đình và bạn bè sẽ nâng đỡ con, giúp con vượt qua tất cả. Mẹ mong sao nỗi cô đơn và sự thất vọng sẽ không quất ngã được con; con sẽ có một gia đình hạnh phúc ấm êm với người vợ hiền và những đứa con ngoan.
Thước đo cho sự giàu có và hạnh phúc đích thực chính là tâm hồn. Người hạnh phúc không phải là người có được mọi thứ mà là người không bị cảm giác “không bao giờ đủ” xâm chiếm mình. Mẹ hy vọng con sẽ không bao giờ bị lệ thuộc về sự đủ đầy của vật chất mới cảm nhận được hạnh phúc, vì còn có nhiều điều vô hình quý giá hơn nhiều. Đó là ánh mắt tươi vui, tiếng cười trong trẻo từ một tâm hồn trong sáng, là giấc ngủ bình yên với lương tâm thanh thản, là cảm giác chiến thắng chinh phục được thử thách đáp lại công sức của con. Hãy trân trọng những điều đó, con nhé.
Con hãy tiến về phía trước, vững vàng trước những thử thách của cuộc sống mà không cần bất cứ sự công nhận hay tiếng vỗ tay ngợi khen nào. Con hãy tự tin theo đuổi những ước mơ, khát vọng của cuộc đời mình, dù bất cứ trở ngại nào có thể đến. Chỉ có con chứ không phải là ai khác hiểu rõ con hơn.
Hãy nhớ sự hiện hữu của con đã cho mẹ nhiều bài học quý giá và ý nghĩa cuộc sống. Trước khi con chào đời, mẹ nghĩ mình sẽ uốn nắn, dạy dỗ con thật hoàn hảo theo ý mẹ. Nhưng con đã làm mẹ thay đổi. Mẹ đã biết nhìn cuộc sống qua ánh mắt trẻ thơ của con. Và mẹ thấy rằng cuộc sống không phải là guồng quay vĩnh cửu chuyên chở công việc, mà cuộc sống như những vòng quay ngựa gỗ nhiều màu sắc cho chúng ta thưởng thức và vui đùa.
Chỉ cần mỗi buổi sáng ngắm nhìn thiên thần của mẹ ào ra khỏi giường chạy đến bên mẹ, hoàn toàn bỏ quên cơn giận đẫm nước mắt ngày hôm qua và không hề lo lắng cho lần đi khám răng sắp tới; mẹ lại thấy một ngày mới thật tuyệt vời với nhiều điều thật mới lạ. Mẹ hiểu rằng nên vui sống trong hiện tại, không chìm đắm mình trong những lỗi lầm quá khứ, hay những lo lắng về tương lai.
Khi có con bên cạnh, mẹ sẵn sàng ngưng làm những công việc thường ngày, dành một chút thời gian để cùng con nằm trên chiếc ghế trước nhà, hít thở không khí trong lành của một ngày mới, cùng con chia sẻ những điều con khám phá được từ cuộc sống hay theo dõi những đám mây trắng thanh thản trôi trên nền trời xanh biếc… Những khoảnh khắc ấy đã làm cuộc sống của mẹ thêm phần ý nghĩa hơn.
Con trai của mẹ, con là kho báu quý giá nhất, là thành tựu vĩ đại nhất, là di sản tự hào nhất của mẹ.
Và mẹ tin con mãi là như vậy.
Theo What I want most for You, My Child!
KHI MẸ NGHĨ CON KHÔNG NHẬN RA
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ treo bức tranh đầu tay của con lên tường, và con muốn vẽ nhiều bức tranh đẹp hơn thế nữa.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ cho một chú mèo hay chạy đến nhà mình uống sữa, và con đã học được từ mẹ lòng yêu thương loài vật.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ làm món bánh con thích nhất, và con hiểu rằng những điều nho nhỏ có thể trở thành những điều đặc biệt trong cuộc sống.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ nấu thức ăn mang đến cho một người bạn đang ốm, và con hiểu được rằng tất cả chúng ta phải yêu thương và chăm sóc lẫn nhau.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ dành thời gian và tiền bạc trao tặng những người có hoàn cảnh khó khăn, và con đã biết chúng ta nên giúp đỡ những ai kém may mắn hơn mình.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ luôn chăm sóc nhà cửa, gia đình, và con hiểu rằng chúng ta phải quý trọng những gì mình đang có.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ hết lòng với trách nhiệm của mình ngay cả khi mẹ không khỏe, và con học được rằng con phải trở thành người có trách nhiệm khi con lớn lên.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy những giọt nước mắt của mẹ, và con chợt hiểu rằng người ta có thể khóc khi bị tổn thương và đó không phải là sự hèn nhát.
Mẹ nghĩ con không nhận ra, nhưng con đã thấy mẹ luôn luôn quan tâm đến con, mong con nên người, và con muốn nỗ lực hết mình vì niềm tin của mẹ.
Có những điều con đã lặng lẽ học được từ mẹ. Và chính những tình cảm mẹ âm thầm dành cho con, cho cuộc đời này đã giúp con hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống và biết được con nên làm gì, sẽ trở thành người như thế nào.
Theo Inspiration
Lời Giới thiệu VÒNG TAY CỦA MẸ
(Chicken Soup for the Mother & Daughter)
Bản thân mỗi phụ nữ đều là một người con, và mỗi người đều có một người mẹ. Sự gắn kết của tình mẫu tử thật sự sâu sắc và bền chặt, đến nỗi những người con thường vẫn còn cảm thấy nhớ mẹ cả năm mười năm sau khi người mẹ khuất bóng. Kể từ lúc đứa trẻ được sinh ra, tình mẫu tử đã trở nên bất diệt. Cũng chính vì tình cảm đáng trân trọng đó, chúng tôi đã cho ra đời quyển sách này. Đây không phải chỉ là quyển sách dành riêng cho những người phụ nữ - những người vừa là người con, vừa là người mẹ - mà còn dành cho tất cả những ai hiểu và yêu thương phụ nữ, bởi trái tim của họ sẽ cảm nhận được những câu chuyện về tình yêu thương, sự động viên, nỗi mất mát, sự sum họp, hy sinh, thủy chung, những quan tâm bình dị hàng ngày - tất cả những điều đã góp phần tạo nên quyển sách này.
Làm mẹ không đơn thuần là một vai trò hay là kết quả tất yếu về mặt sinh học. Mẹ không chỉ là người đã sinh ra và dưỡng dục những đứa con mà làm mẹ sẽ dạy chúng ta biết cách yêu thương, suy nghĩ, làm sao để quen với vai trò của mình, vai trò của một người phụ nữ. Nói đúng hơn, làm mẹ sẽ dạy cho chúng ta biết tất cả mọi thứ. Làm mẹ có nghĩa là sẽ phục vụ người khác, sẽ cảm thông trân trọng và quan tâm đến các con của mình. Xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với sự xuất hiện rất đỗi tuyệt vời và mầu nhiệm của những người mẹ trong một thế giới đầy gian khổ cũng như tràn trề niềm vui sướng này.
Còn những cô con gái, họ sẽ như thế nào? Bạn sẽ đọc nhiều câu chuyện cho thấy những đứa con đã đi vào cuộc đời của người mẹ như một món quà quý giá mà tạo hóa đã ban tặng. Những đứa con cho người mẹ thấy được chính họ với một cuộc đời mới, để cảm thấy được tình yêu thương của các con, và thấy được những đứa con là quý giá và mới mẻ như thế nào. Con cái còn cho những người mẹ thấy một thế giới rộng lớn hơn, đó là thế giới riêng của chúng. Con cái cũng dành cho mẹ mình tất cả tình yêu thương tựa như những gì họ đã nhận được từ mẹ.
Để tôn vinh tình yêu thương trọn vẹn ấy, chúng tôi mời các bạn hãy thưởng thức những câu chuyện không bao giờ kể hết của mẹ và con.
Jack Canfield & Mark Victor Hansen
Lời Giới thiệu TRÁI TIM NGƯỜI CHA
(Chicken Soup for the Father’s Soul)
Tình mẹ - Một từ khơi dậy cảm giác ấm áp của sự dịu dàng, nuôi dưỡng, vỗ về và suối nguồn của tình yêu thương vô điều kiện. Ngược lại, tình cha gợi nên một hình tượng vững vàng đáng tin cậy hơn của một người bảo vệ, người mang lại sự hiểu biết. Tình yêu thương của cha mặc dù cũng mạnh mẽ và chắc chắn như của mẹ, lại không phải lúc nào cũng được ghi nhận hay truyền đạt đầy đủ với những cảm xúc dạt dào như mẹ.
Chúng tôi bắt đầu công trình này vào ba năm trước vì chúng tôi muốn cố gắng nắm bắt điểm tinh túy rất khó biểu đạt của tình cha dưới mọi hình thức. Thường thì mối quan hệ giữa cha và các con thường bị hiểu lầm và khó định nghĩa hơn sự liên kết của mẹ đối với các con. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy người cha cũng có thể là những người dịu dàng, nuôi dưỡng và vỗ về con. Họ có thể là diễn viên hài, huấn luyện viên, nhà lãnh đạo và là người thầy dạy những bài học vĩ đại nhất trong cuộc sống.
Mỗi thành viên góp phần tạo nên nội dung quyển sách này viết về những người từng được tình yêu thương của cha gây xúc động và truyền cảm hứng. Nhiều câu chuyện được những người cha viết lại, nhưng bạn cũng có thể tìm thấy cảm xúc của những người con trai, con gái và cháu chắt, những người đã cảm nhận, thấu hiểu và trở nên tốt hơn nhờ tình yêu của cha.
Có thể một số câu chuyện sẽ giúp bạn hài lòng hơn với vai trò tuyệt đối quan trọng của một người cha, một số khác sẽ mang lại cho bạn những ý tưởng mới để thể hiện tình yêu thương dành cho gia đình. Số khác lại có thể khiến tâm hồn bạn rung động và đánh thức sự thật đang được che giấu về tình yêu sâu sắc mà cha bạn không thể hiện ra.
Chúng tôi được những câu chuyện này mê hoặc và khai sáng, và chúng tôi hy vọng bạn cũng sẽ cảm thấy như vậy. Chứng tôi khám phá ra rằng dù một số người cha không thể hiện cảm xúc của họ bằng lời nói, họ vẫn trải qua những cảm xúc nhiều không kém, và đôi khi thậm chí còn sâu sắc hơn người mẹ. Tình cha đong đầy những phạm trù của nỗi đau và hàn gắn, bối rối và sáng suốt, nước mắt và tiếng cười. Quả thật đó là tình yêu không điều kiện, nhưng dưới một hương vị khác so với tình mẹ. Chúng tôi đã tìm kiếm và mang lại cho bạn sự ca ngợi thầm lặng về tâm hồn người cha trong cuốn sách này.
Jack Canfiel - Mark Victor Hansen
LỜI TỰ SỰ CỦA MỘT NGƯỜI CHA
JOHN GRIPPANDO
Chỉ có một tảng đá bền vững mãi mãi;
chỉ có một đế chế tồn tại vĩnh hằng, đó là gia đình.
Lee Iacocca
Nếu tôi là nguyên thủ quốc gia nhưng lại không làm chủ được gia đình của mình thì tôi chẳng làm được gì cả.
Nếu tôi biết điều hành một tập đoàn lớn nhưng lại không cai quản được gia đình mình thì tôi là người thất nghiệp.
Nếu tôi đàm phán thành công nhiệm vụ làm ăn, nhưng lại thờ ơ với việc sinh con đẻ cái thì tôi đã phủ nhận một đặc ân của cuộc sống.
Nếu tôi có thể đào tạo ra nhiều học sinh xuất sắc nhưng chưa khi nào dạy dỗ con tôi theo cách mà chúng cần thì tôi sẽ không bao giờ được thừa nhận là một giáo viên thực thụ.
Nếu tôi thường xuyên trao đổi với các nhân viên của mình nhưng chưa khi nào trò chuyện cởi mở với các con tôi thì tôi là một người lầm lạc.
Nếu tôi thường xuyên ưu tiên công việc và sự nghiệp của mình nhưng chưa bao giờ biết ưu tiên cho gia đình thì tôi đã tự nới rộng khoảng cách với những người có ý nghĩa nhất đời tôi.
Nếu tôi có được sự nể trọng của xã hội nhưng lại không có được sự tôn trọng từ vợ con mình thì tôi là một người đàn ông thất bại.
Nếu tôi sẵn sàng đi khắp thế gian để theo đuổi các mục tiêu của mình nhưng lại chưa khi nào chở con trai đến sân bóng hoặc con gái đến nơi biểu diễn văn nghệ thì tôi đã lên một chuyến bay chệch hướng.
Nếu tôi làm việc cật lực để kiếm được thật nhiều tiền nhưng lại không dành thời gian chăm lo cho gia đình thì tôi chẳng thu được chút lợi nhận nào.
Nếu tôi yên lặng để cho những tiêu cực của xã hội ảnh hưởng đến các giá trị của gia đình mình thì tôi đã bắt đầu dấn bước trên con đường dẫn đến cảnh lụi tàn.
Thời gian không bao giờ ngừng lại và cũng không khi nào quay trở lại. Khoảnh khắc được ở bên cạnh gia đình trở thành ký ức vô giá cho tất cả chúng ta.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi hân hoan trong những giây phút được nắm lấy tay bố mình. Và khi tôi trở thành bố, tôi cũng cảm thấy lòng mình ấm áp lạ lùng khi đứa con gái nhỏ nắm lấy bàn tay mình.
“Số lượng thời gian”, “Chất lượng thời gian” và “Quản lý thời gian” là ba điều bạn cần để tâm nếu muốn được thành công trong cuộc sống. Nhưng quan trọng hơn hết, “Thời gian dành cho con cái” mới chính là yếu tố quan trọng nhất đem lại hạnh phúc thật sự cho mỗi người.
Jack Canfield - Mark Victor Hansen
Chicken Soup for the Father’s Soul
Cha - Điểm tựa của đời con
NXB Văn hóa Sài Gòn, quý III/2010, tr. 168-170
NHÀ VĂN VÕ HỒNG
VÀ THÂM TÌNH PHỤ TỬ
NGÂN HÀ
Nay các con nên người
Mỗi đứa đi mỗi ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
(Trích Sau ba mươi năm - thơ Võ Hồng)
Bài thơ Sau ba mươi năm viết cho các con mình, nhà văn Võ Hồng kể về ba đứa con với những vần thơ giản dị, trong trẻo:
“Đứa út vừa lên ba
Biết mẹ qua tấm ảnh
Miệng chỉ quen gọi cha
Khi đói và khi lạnh
Chị lớn chín tuổi tròn
Đóng vai người mẹ nhỏ
Vội vã học điều khôn
Cửa nhà tập coi ngó
Thằng giữa khi vào lớp
Tên mình tưởng tên ai
Thầy hỏi không biết đáp
Nghe chim hơn nghe bài…”
Đến thăm ông một chiều mưa thu ở xứ trầm hương, mở cửa là một phụ nữ trên sáu mươi, cô giới thiệu mình tên Đạm, là học trò xưa, sau này thành đồng nghiệp của thầy Võ Hồng ở trường chuyên Lê Quý Đôn nổi tiếng của Nha Trang. Cô nói có chị Hằng, con gái đầu của thầy mới ở Pháp về có thể tiếp chuyện. Đã trên bốn năm nay thầy không viết gì nữa, nói cũng ít đi mà chỉ suy tư và chiêm nghiệm. Nhân vật “Chị lớn chín tuổi tròn/ Đóng vai người mẹ nhỏ” kể lại câu chuyện của mình, với những kỷ niệm đau buồn nhưng kết thúc lại là một giấc mơ có hậu dành cho cha, người đàn ông không chỉ thành danh trong nghiệp văn mà còn là một người cha hết lòng với con cái.
Chuyện về những người đã mất
Ngồi trước tôi là một người phụ nữ dáng cao, đứng tuổi, trông bề ngoài rất hiện đại và năng động với đôi mắt tinh anh và nụ cười cởi mở. Trong số ba người con của nhà văn Võ Hồng, chỉ có chị nối nghiệp văn, tuy hơi trễ bởi từ khi xa nhà để vào Sài Gòn trọ học, cha đã âm thầm ngăn cản không cho chị viết văn, để thì giờ cho khoa học.
Chị bắt đầu kể chuyện bằng cái chết của hai người thân yêu nhất đã ám ảnh chị từ tuổi nhỏ. Năm lên bốn, chị chứng kiến cái chết cùa Jô, em trai kế mình:
“Jô đẹp và hiền lành, giống má nhất, bị sốt nặng và qua đời lúc mới một tuổi rưỡi. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh em trong màu áo xanh dương, nằm trên bộ ván, đầu hướng ra cửa sổ, nắng chiều bao trùm người em. Tối đó em sốt cao và mọi người nhốn nháo. Rồi em chết. Tôi ra vườn hái hoa hoàng anh lặng lẽ đặt lên linh cửu của em. Hình ảnh đó ghi khắc vào tâm hồn tôi như một cuộn phim câm, sẵn sàng hiện ra mỗi khi nhớ lại quá khứ. Ba năm sau, mẹ tôi phát bệnh trong hai năm liền và vĩnh viễn bỏ ba đứa con nhỏ mà đi.
Mới chín tuổi tôi đã mất hai người thân yêu nhất, tôi đau đớn thấy cuộc đời quá mỏng manh và bấp bênh. Tôi không có tuổi thơ. Quanh tôi, mọi đứa trẻ khác đều có cha và mẹ, chúng vững vàng như được đi trên hai chân. Tôi chỉ còn một mình cha nên ông trở thành quý báu vô cùng. Tôi luôn sống trong phập phồng lo âu. Những lần cha tôi về trễ, tôi thấp thỏm đợi chờ. Có những đêm ngủ nằm mơ thấy cha chết, tôi giật mình kêu ba ơi trong nước mắt rồi yên tâm ngủ lại khi nghe tiếng ba trả lời “sao giờ này mà chưa ngủ?” Cha tôi không tục huyền vì sợ chúng tôi khổ, một hy sinh không thể nào đền đáp. Tôi rất biết ơn ông bởi càng lớn tôi càng hiểu nỗi khó khăn của người đàn ông đơn chiếc…”
Thâm tình phụ tử
Chị lớn lên, có những điều không thể tâm sự cùng cha. Và cha cũng không thể đóng vai trò người mẹ nên ông loay hoay tìm cách bù vào khoảng trống đó. Ông dặn chị giúp việc chỉ cho con ông nấu nướng. Ông dẫn con sang nhà nữ sĩ Tương Phố ở đường Trịnh Phong kế bên, nhờ bà dạy con mình cách ứng xử. Bà dạy chị từ dáng ngồi đến cách đi đứng, nói năng. Cha còn phái chị đến thăm những người bạn gái để “học cử chỉ dịu dàng”.
Chị cười buồn: “Do hoàn cảnh, cả ba chúng tôi đều sống ở ngoại quốc nên ông càng cô độc”.
Khi đọc lại từng trang sách của cha, chị biết ông đã trải qua những ngày tháng cô đơn thế nào. Vợ mất sớm, con đi xa, đôi lúc ông chạnh lòng và thông cảm:
“Trí nhớ chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai nên vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có nỗi lo lắng và vui vẻ riêng tư… nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Nỗi đau chung của ngày mất mẹ xóa nhòa dần đi…”.
Vì thế hôm nay chị lại trở về, mong cầu điều duy nhất là được chăm sóc cha. Khi làm việc, chị đem latop xuống ngồi bên cạnh giường ông lúc ông ngủ, để lắng nghe hơi thở, để nhìn sắc mặt mà đoán sức khỏe của cha vì theo chị:
“Sau này dù có đánh đổi cả vũ trụ để lấy một giờ được lo lắng đỡ đần cha mình, cũng không thể nào có được. Do đó tôi trân quý vô cùng những ngày tháng được ở cạnh cha tôi. Ngoài ra, cô Đạm là người thương ba nhất. Cô là bạn rất thân của ba hơn hai mươi năm nay”.
Ngôi nhà nhỏ số 53 đường Hồng Bàng, Nha Trang bây giờ trở nên ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Nhà văn Võ Hồng giờ đây hẳn thấy yên bình khi ở bên ông không chỉ có một mà đến hai người phụ nữ ông thương yêu.
Ngân Hà
Sài Gòn Tiếp Thị, số 105, ngày 16. 9. 2009, tr. 37
NHỮNG BÍ QUYẾT CỦA CUỘC SỐNG
Sandy con yêu,
Bố vừa nhận được thư cảm ơn của con về món quà bố mừng ngày con tốt nghiệp đại học. Bố bật cười khi đọc đến phần tái bút: “Con rất thích món quà của bố, nhưng con mong bố hãy truyền cho con những bí quyết để con chinh phục thế giới này và trở nên nổi tiếng”.
Sandy này, bố chẳng có bí quyết gì cho riêng mình cả. Cũng không ai truyền cho bố một lúc nhiều kinh nghiệm như vậy. Bố chỉ tích lũy từng chút trong cuộc sống của mình. Những điều bố sắp nói cho con sau đây thật ra chỉ là những điều rất đơn giản trong cuộc sống, nhưng giá trị của nó được minh chứng theo thời gian. Đó là những kinh nghiệm quý giá cho tất cả mọi người.
Nếu con không thể thay đổi thực tế, thì hãy thay đổi thái độ, cách nhìn của mình
Có lẽ thời kỳ đen tối nhất trong cuộc đời của bố là mùa đông năm 1942-1943. Khi đó bố là phi công lái máy bay chiến đấu ở Anh. Nơi bố đóng quân là một vùng hẻo lánh toàn sình lầy ẩm ướt. Dưới mặt đất, mọi người thường xuyên phải chịu những cơn rét buốt, khổ cực và nhớ nhà vô cùng. Còn trên bầu trời, mọi người bị lôi vào cuộc chiến bắn giết lẫn nhau. Tinh thần của mọi người đều sa sút, hoang mang, đặc biệt nguồn tiếp viện hầu như không có. Nhưng viên trung sĩ chỉ huy tiểu đội của bố là một người vui vẻ, hài hước, và luôn lạc quan. Một hôm, dưới làn mưa xối xả, bố thấy ông ấy cố hết sức dọn dẹp một pháo đài đã bỏ hoang nằm cạnh đường băng, để tận dụng nó như một ngôi nhà mà thực ra nó không khá hơn một bãi lầy. Vừa làm ông ấy vừa huýt sáo rất vui vẻ. Thấy thế, bố tự nhiên nổi cáu và hỏi:
- Thưa trung sĩ, ông vẫn có thể huýt sáo trong tình cảnh khốn khổ như thế này được ư?
Ông cười và bảo: “Nếu thực tế không thể thay đổi được, thì chúng ta phải thay đổi thái độ của mình để thích nghi với nó. Đơn giản vậy thôi”. Con sẽ thấy khi đối mặt với khó khăn, có người sẽ xử lý rất thông minh, khéo léo, nhưng có người lại trở nên oán giận, thù hằn, cay đắng, thậm chí còn lẫn tránh. Con hãy lựa chọn cho mình một thái độ đúng nhất để đương đầu với những thực tế không lường trước được trong cuộc sống của mình.
Khi buổi khiêu vũ kết thúc, nhớ cởi đôi giày nhảy ra
Khi còn nhỏ, bố thường nghe bà nội của bố bảo như thế. Bố cứ thắc mắc mãi vì không hiểu ẩn ý của câu nói đó. Khi bố lớn hơn một chút, bà mới giải thích câu đó cặn kẽ hơn cho bố.
Hôm đó, chị gái của bố đi chơi cuối tuần về, cảm giác tiệc tùng, chơi đùa, khiêu vũ với bạn bè vẫn còn rạng rỡ trên khuôn mặt chị. Nhưng khi vào nhà, chị ấy lại than thở về công việc hằng ngày, căn hộ chật chội, cuộc sống tù túng… Bà nội nhẹ nhàng bảo: “Này cháu, chẳng ai sống mãi trên đỉnh núi được. Thỉnh thoảng mới lên đến đó thì rất tuyệt, nhưng chỉ để tạo cảm hứng, và thu nhận một tầm nhìn mới mà thôi. Rồi đến lúc cháu phải đi xuống vì cuộc sống thực sự của chúng ta là ở dưới thung lũng kia. Nơi đó có đồng ruộng, vườn tược, cây trái, cày bừa… mọi việc đều phải được làm ở đấy cả. Và đó cũng là nơi để cháu áp dụng tầm nhìn mới mà cháu đã nhìn thấy ở đỉnh núi kia”. Nếu nhận thức được điều này, con mới có thể kiên định, vững vàng trong cuộc sống. Khi thời gian vui chơi đã hết, hãy cởi đôi giày khiêu vũ của con ra và mang đôi giày thực tại của cuộc sống vào, con nhé!
Hãy thắp sáng hào quang của những người xung quanh
Một sáng chủ nhật nọ, bố đang ngủ gà gật trên hàng ghế sau của nhà thờ. Bỗng bố thoáng nghe ông mục sư đã cao tuổi nói với các giáo dân của mình: “Hãy ngừng lo cho hào quang của mình, mà hãy thắp sáng hào quang của người hàng xóm”. Câu nói ấy khiến cho bố bật dậy và tĩnh táo hoàn toàn. Có lẽ đó là câu châm ngôn hay nhất về cách cư xử dung hòa với mọi người mà bố được nghe.
Bố thích sự ẩn ý trong câu nói đó, vì trong bất kỳ một lĩnh vực nào, con người cũng có một vầng hào quang để ngắm nhìn, thừa nhận. Đã đến lúc chúng ta “bớt chăm sóc bản thân mình và hãy dành thời gian quan tâm và chăm lo cho người khác”. Đồng thời, câu nói đó còn phản ánh một quy luật tâm lý rất sâu sắc của con người, đó là “nếu bạn mong muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì hãy đối xử với người khác như thế ấy”.
Đừng mặc áo mưa khi đứng dưới vòi sen
Thời sinh viên, bố từng tham gia một nhóm hướng đạo. Người chỉ huy nhóm của bố là một nhân viên lâm nghiệp. Ông rất say mê nghiên cứu, khám phá thiên nhiên. Một lần, ông đưa cả nhóm thám hiểm xuyên khu rừng, nhưng dọc đường, ông không nói câu nào. Khi đến nơi, ông yêu cầu tất cả mọi người mô tả lại những gì đã thấy trên đường đi như cây cối, chim chóc, muôn thú… Tuy nhiên, không câu trả lời nào làm ông ấy bằng lòng. Lần đó, ông khoát tay vẽ một vòng tròn lớn trên không rồi bảo rằng: “Tất cả mọi điều của cuộc sống đều ở xung quanh các em, nhưng các em lại phớt lờ. Đừng cài nút áo lên tận cổ nữa! Đừng mất thời gian mặc áo mưa khi đứng dưới vòi sen!”
Bố không bao giờ quên hình ảnh ví von trong câu nói đó. Thật buồn cười khi có một người đứng dưới vòi sen lại mặc áo mưa và cài nút kín tới cằm. Chúng ta nên cởi bỏ áo mưa để cuộc đời mình được trải nghiệm và tiếp thu những kinh nghiệm mới của cuộc sống. Những lời khuyên này thực ra đều nhắm một mục đích giúp con có suy nghĩ chín chắn, sâu sắc hơn đối với cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không phải tự nhiên mà có. Cuộc sống luôn công bằng, luôn dành cho mỗi người số giờ, số phút, số giây bằng nhau của một ngày. Thời gian đó chính là nguyên vật liệu, còn vận dụng nó như thế nào là tùy ở mỗi người. Và điều cuối cùng mà bố muốn gởi gắm cho con là một câu nói mà bố thật tâm đắc, đó là: “Bi kịch không phải ở những điều mà ta chịu đựng, mà ở những điều ta đã từ bỏ. Hạnh phúc, thành công không đo bằng những gì ta đạt được hoặc có trong tay, mà chính ở những gì ta cảm nhận được trong cuộc sống”.
Con hãy nhớ những điều đó. Luôn yêu con!
Theo Minimaxims For My Godson
BỨC THƯ GỞI CUỘC SỐNG
…
Ông hiệu trưởng thông báo con trai tôi - Scott - được bầu làm đại biểu học sinh, là người sẽ đọc bài diễn văn trong buổi lễ hôm ấy và ông đề nghị tôi viết vài dòng cho sự kiện này. Dĩ nhiên, tôi vui vẻ đồng ý. Và tôi rất tự hào về những thành quả của con trai mình. Tôi nhớ lại những sự kiện đã xảy đến với Scott. Và tôi nhận ra tầm quan trọng của buổi lễ tốt nghiệp đối với con tôi. Scott và các bạn của nó sẽ bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Rồi đây mọi thứ sẽ thay đổi. Cha mẹ và thầy cô sẽ không còn thường xuyên bên cạnh để dạy bảo và khuyên nhủ. Vì vậy, tôi đã viết những dòng chữ sau đây để gửi gắm đến cuộc sống.
“Cuộc Sống thân mến.
Hôm nay là một ngày đặc biệt quan trọng đối với các em thân yêu của chúng ta, là thời khắc mà các em phải tự mình bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới, một cuộc phiêu lưu mà ở đó có cả đấu tranh, bi kịch và nỗi buồn. Để tìm con đường đi cho mình, các em cần có lòng dũng cảm, sự bao dung, hiểu biết và hơn hết là tình yêu thương.
Vì thế, Cuộc Sống ơi, xin hãy quan tâm đến bọn trẻ. Hãy đón nhận và dạy các em những điều cần phải biết. Người có thể nhẹ nhàng với chúng, nhưng xin đừng nuông chìu, bởi chỉ qua lửa nóng vàng mới được tôi luyện.
Dần dần, các em sẽ thấy không phải mọi chuyện đều công bằng, không phải ai cũng ngay thẳng, thành thật. Nhưng các em hãy hiểu rằng nếu có kẻ bất lương thì cũng có người quân tử, nếu có kẻ thù thì cũng có cả những người bạn tốt.
Sẽ tốn nhiều thời gian đấy, nhưng Cuộc Sống ơi, hãy dạy cho các em biết một đồng tự kiếm được còn hơn nghìn đồng lượm lặt. Hãy dạy các em biết cách chấp nhận thất bại trong điềm tĩnh để biết được niềm vui trong chiến thắng. Bởi mỗi khi nhìn lại, sự mạnh mẽ sẽ giúp chúng đứng vững trước nỗi đau thất bại, và vẫn luôn cố gắng ngay cả khi đã đạt đến thành công.
Hãy hướng các em tránh xa sự hận thù, nếu có thể, xin Người hãy dạy các em ý nghĩa của nụ cười chia sẻ. Phải biết nhẹ nhàng với người tốt, và không nhượng bộ trước kẻ thù.
Hãy dạy các em biết lắng nghe lương tâm của bản thân hơn là ùa theo số đông, biết lắng nghe mọi người nhưng phải biết chắt lọc sự thật.
Hãy dạy các em biết mỉm cười khi buồn bã, và biết òa khóc mà không phải hổ thẹn bởi có khi trong thất bại là vinh quang, và đôi khi trong thành công cũng có cả nỗi thất vọng.
Và nếu có thể, hãy khuyên các em không nên so sánh bản thân mình với người khác, bởi lẽ luôn có những người vĩ đại hơn. Hãy dạy các em biết vượt qua những thành tích của chính mình.
Hãy cho các em thấy có những lúc cần phải mạo hiểm và có khi phải biết tung đồng xu may rủi. Tìm kiếm sự an toàn không phải lúc nào cũng là điều tốt nhất. Quan trọng hơn hết là phải biết tin vào chính mình, vì điều này sẽ mang đến lòng tin vào mọi người xung quanh.
Những điều trên đây rõ ràng còn hơn một lời đề nghị, nhưng xin Người hãy cố gắng hết sức có thể bởi những con người trẻ tuổi hôm nay sẽ là những người thay đổi và làm cuộc sống chúng ta tươi đẹp hơn mai sau.”
Theo Internet
Echo – Vọng Vu lan*
Thái Kim Lan
Lời ghi trước: Ý nghĩa của Vu lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh. Vu lan là cơ hội giải phóng của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hóa để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình – mà đó là lòng hiếu thảo – hạnh nhân bản nhất – con người có được năng lực “xá tội vong nhân”, -“xá tội” chứ không “rửa tội”- vong nhân vô lượng vì mê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian…
Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hóa kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng! Cho nên lòng người náo nức niềm vui hóa kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hóa kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành! (Trích: Vu lan Huế, thấp thoáng trở về).
Một người thợ nề trẻ, dáng dấp bất ngờ khác với những người thợ nề thường gặp, hầu như thư sinh với vẻ người gầy cao, gần như ẻo lả, hai bàn tay dài lêu nghêu, gương mặt thanh tú khác thường, sốt sắng nhận lời lên tu sửa ngôi từ đường cũ nát của chúng tôi ở gần chùa Linh Mụ. Hỏi em người ở đâu, người thợ trẻ trả lời với đôi mắt sáng to: “Nhà ở tận bên Châu Ê”. Hỏi em bảo đảm sửa được ngôi nhà cũ rích mà không bỏ cuộc? – “Dạ được!” Hắn nhìn ngắm ngôi nhà và gật đầu mạnh mẽ, vẻ nhiệt tình, lại còn sốt sắng tự nguyện khăn gói lên ngủ qua đêm để trông nom nhà và sáng hôm sau cùng nhóm thợ bắt đầu sớm.
Nghe mọi người quen hắn đều bảo là một trong những người thợ trẻ chăm và giỏi tính nhất vùng, làm việc đâu ra đó, yêu nghề và không ngại khó. Nhà chúng tôi neo người, chẳng là phần đông đã tha hương, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, ai cũng ngại về, và có về cũng chỉ để ghé thăm, cảm tưởng hầu như giống nhau về ngôi nhà xưa ấy, ái ngại trong lòng, khi nhìn ngôi nhà tổ tiên quằn quại chịu đựng với thời gian, nhưng càng ngại hơn là gian phòng ẩm thấp ai đến rồi cũng đi, ít người chịu ngủ trong căn nhà cũ, đầy hơi mốc và tối tăm. Cho nên mừng nghe có người sẵn sàng lên ngủ trông nhà, mặc dù vẫn còn hồ nghi quá nửa. Nhưng không lâu, người thợ trẻ với vẻ mặt tươi cười đã cắp đùm khăn áo, hộp cơm tối, gọn gàng bước qua ngưỡng gỗ, nói yên tâm mọi người có mặt đang sắp sửa về phố và lịch kịch đóng mấy tấm cửa bàng khoa. Anh tôi bảo hắn bạo gan – thú thật nhìn vào căn nhà tối ai cũng sờ sợ làm sao mà hắn tỉnh bơ – lại nhiệt tình và có cái tâm vô ngại. Sau khi dặn dò vài thứ ai nấy an lòng ra về.
Người thợ trẻ đốt đèn, chọn khoảng nền nhà trước bàn thờ Phật làm nơi ngủ, trải chiếu, tắt đèn, hắn nhìn lên mái ngói có tấm gương hắt chút bóng đêm ngoài vườn vào nhà, gian phòng lờ mờ tối chìm trong im lặng, và chẳng bao lâu người thợ trẻ dễ ngủ đã thở đều. Hắn ngủ ngon lành giấc ngủ của một chàng trai tuổi hai mươi sau một ngày lao động quần quật khiêng vác.
Vào khoảng giữa đêm trong cơn mê, hắn bỗng nghe có tiếng đàn ca xướng hát, tiếng người nói chuyện lao xao, mỗi lúc một rộn ràng hơn, mùi hương trầm lẫn với hương hoa mộc, hoa sói trong vườn thoảng nhẹ khắp nhà, nghe có tiếng chào nhau mừng rỡ như tuồng đang có một cuộc gặp mặt gia đình mừng tuổi, nhiều tiếng cười chung quanh, tiếng lanh canh của chén bát sứ chạm nhau trong nhà. Đang còn bỡ ngỡ, chưa biết đâu vào đâu, tưởng mình nằm mơ, bỗng hắn thấy trước mắt mình một bà lão đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy guộc mà thanh tao quý phái, tươi cười đưa tay kéo hắn dậy và nắm tay hắn dẫn đi khắp nhà, đến từng người một giới thiệu. Vẻ nhu hòa êm ái của bà làm hắn mất hết e dè, trái lại còn vui lây, cảm giác đầy thân thuộc, nên bước theo bà mà không chút ngại ngùng. Bà vừa đi vừa kể chuyện, chuyện con cháu trong nhà, ai đi ai ở, rồi đến chuyện căn nhà, hình như đã có từ mấy trăm năm nay, hết đời này sang đời khác, cho đến khi bà về làm dâu trong căn nhà ấy. Câu chuyện của bà hình như dài lắm mà hắn không nhớ hết, chỉ biết bà kể miên man bất tuyệt – mà trong khi cùng bà đi quanh thì tiếng ca hát văng vẳng bên tai càng nhộn nhịp, có tiếng đàn đệm theo tiếng hát, nghe rất ngọt ngào và điêu luyện như của những người tài tử sành điệu… Điều lạ lùng khác hẳn với ban ngày là căn nhà bỗng đầy sinh khí tươi mát, ánh sáng lấp lánh như nắng ban mai, không gian ấm cúng, chan hòa… Cuộc vui hình như kéo dài, đến bao lâu hắn không còn nhớ, chỉ biết là vui thật vui, hớn hở trong lòng không tả hết. Cho đến khi hồi chuông sớm từ chùa Linh Mụ vọng tiếng đầu tiên, người thợ nề trẻ giật mình, mới biết mình thật vừa mơ…
Câu chuyện người thợ nề trẻ nằm mơ trong căn nhà cổ tính ra đã hơn hai mươi năm, trước khi mẹ tôi rồi anh tôi lâm bạo bệnh và trở về với tổ tiên. Lần ấy vừa trở lại Huế, còn sinh thời anh tôi, chưa kịp đến nhà, từ phi trường, trên xe anh tôi đã kể và nhất định giới thiệu người thợ nề trẻ tuổi, nét mặt anh cẩn mật với một giọng kỳ bí lạ lùng. Một lần gặp, và sau đó mất hút tin. Tôi vẫn còn nhớ nét mặt thư sinh và đôi mắt sâu đen thông minh mỗi khi nhìn lên như nói với người đối diện nhiều điều hơn lời nói. Cảm giác thân thuộc như người trong nhà, và có lẽ hơn thế nữa, người ấy xuất hiện trước tôi như một người đưa tin, giây nối giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên này và bên kia, giữa minh dương hai ngả.
Trong tâm lẩn quẩn hai chữ tri ân mà không được nên lời, lại muốn giữ kín như một bí nhiệm cho riêng mình câu chuyện ấy, và kỳ lạ còn hơn cả bí nhiệm đeo đẳng trong hồn, mỗi khi chợt nhớ đến câu chuyện lại thấy lóe sáng tin vui có sức khởi động cả niềm tin – rằng trên nền đất cũ tịch liêu ấy vẫn sống động một thế giới toàn diện của hữu hình và vô hình, của lời và không lời, của tiếng và không tiếng – âm thanh và cõi lặng, tất cả được bao bọc bằng khí trời trong suốt hay mờ đục, và tầng tầng ánh sáng ngày đêm, mặt trời, trăng, sao,… rằng trong thế giới toàn diện ấy cơ hội gặp nhau, nghe nhau vẫn còn đó, vẫn nằm trong ngũ sắc cầu vồng, trong chớp mắt máy động tâm can.
Không những đêm mà cả giữa ngày, sự gặp gỡ hầu như xảy ra từng khoảnh khắc, kết thành một dòng liên tục, dòng chảy của chủ ý và vô tâm, của dòng ý thức – vô thức – bất tuyệt, những cuộc gặp gỡ vô hình và hữu hình, những chào hỏi vô thanh vang vọng nơi từng lá cây ngọn cỏ, trong gió đùa buổi sáng hay nắng hanh chiều bên song.
Ta có biết và ta có thể không hay biết, những bay đi và trở lại thế gian, những xa lìa và đoàn viên, những trở về, gặp gỡ rồi lìa xa, tiếng cười và tiếng khóc. Những tưởng bóng tối là u sầu, ấy thế mà vang vọng tiếng cười thanh xuân; những tưởng quá khứ là lụi tàn, nhưng không, tương lai vẫn xanh màu lá non. Và như thế mỗi cuộc trở về bỗng mang ý nghĩa hồi sinh, cuộc ra đi mang theo hy vọng gặp lại, bất sanh bất diệt.
Tín hiệu ấy đã như tiếng khánh khi bước chân qua cổng nền đất cũ, nếu lắng nghe thì đã vọng tiếng chào hiền dịu từ góc vườn có cây nhãn cổ thụ bỗng sai hoa vào tháng ba, tiếng thì thầm thoáng hơi sữa ngọt của triệu triệu chấm nhãn vàng mơ lẫn trong nắng sớm, bước thêm bước nữa đã gặp màu xanh lá chuối như lời ru, nhìn sâu vào màu xanh ấy có thể nghe thêm tiếng mưa thủ thỉ một thời thơ dại rúc vào lòng bà những đêm mùa đông rét mướt, chạm được luôn cả thân thể ấm áp của bà. Bước quẩn quanh bất ngờ nghe hoa sứ khai hương như đang vẽ nét nhan như ngọc của người cha khuất bóng từ lâu, tưởng như đã xóa nhòa trong ký ức trẻ thơ, bỗng hiển hiện nguyên trinh trên đài hoa hương nguyện. Bước trật chân trên cỏ rối lại nghe tiếng cười ái ngại của chị gái hiền đâu đây, chợt thấy nét thùy mỵ diễm tuyệt đến phải quy hàng chỉ còn biết thương hết nỗi thương. Có bước gấp để đuổi kịp gió đang gom những mùi hương nhẹ nhất trong khu vườn giấu kín một nơi, và gặp nụ cười chúm chím của anh trai đang đùa em giấu chùm vải sau lưng, bắt phải đi tìm… Lại có khi dừng bước không đi ngoái tìm bông hoa núp lá bất ngờ tiết lộ mùi hương ngọt ngào như hương thơm da thịt của mẹ thời tóc dài chấm gót… Lại có khi rón rén để đừng xao động bóng chim hay cánh bướm đang nhởn nhơ trên cỏ rồi ngẩng người chợt thấy mẹ và chị thấp thoáng sau cây hải đường vào ra như những ngày xưa ấy. Và sẽ kể hoài không dứt như câu chuyện của bà đã kể và còn đang kể trên lá trên hoa trong khu vườn ấy khi chân bước đến, khi tay lật viên gạch cũ thấy lại dấu tích ngày trước, khi lòng nóng hổi muốn gầy dựng lại mái xiêu, khi tâm thành như đất vườn được xới bốc hơi nuôi nấng con người, cây cỏ…
Hầu như mỗi phút, mỗi giây cuộc gặp gỡ đều có thể xảy ra, không phải ngày xưa ấy, mà bây giờ, nơi đây, trong khoảnh khắc hiện tại, trên đầu giọt sương, trên đầu bọt nước, trên từng bào ảnh, trên từng mộng huyễn, vô lượng kiếp kiếp, vô lượng chúng sanh, vô lượng vạn vật, không phải là mơ mà thật ngay nơi đây, giờ khắc này, như hoa mưa vừa bừng nở sáng lóng lánh trên màu xanh vọng tiếng…
Thái Kim Lan
—–
* Ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, theo Phật giáo, là ngày tự tứ đầu tiên Đức Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày tôn giả Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ ngài Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hy vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người.
Nguồn: Văn Việt 25/8/2018
GHI CHÚ:
Cung kính niệm ân và tạ lỗi cùng Ni Sư – TS Thích Nữ Giới Hương vì Nguyên Tánh & Nguyên Hạnh không dự Lễ Vu Lan ở Hương Sen ngày 02 tháng 9 năm 2018, theo lời dăn dò của Ni Sư.
Nguyên Tánh chọn một ít bài trong các Tuyển tập Vu Lan mấy năm trước, thêm ít bài mới để cung kính tặng Ni Sư.
NGUYÊN TÁNH
Santa Ana, CA 02/09/2018
Mời xem trọn bài: Tuyển_tập_Tình_Hiếu_Bao_La_-_Nguyên_Tánh.pdf