(Kinh A-ma-trú)
(Ambbattha Sutta)
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Pokkharasàdi ở tại Ukkattha, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, ngũ cốc phong phú, vốn là đất đai của vua, sau vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) cấp cho để hưởng một phần lợi tức.
- Ambattha thân yêu, theo truyền thống của chúng ta về ba mươi hai tướng của vị đại nhân, những ai có ba mươi hai tướng ấy sẽ chọn trong hai con đường, không có đường nào khác. Nếu là tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương chinh phục mọi quốc độ, đầy đủ bảy châu báu. Bảy món báu này là xe báu, voi báu, ngựa báu, ma ni báu, ngọc nữ báo, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Và vị này có hơn một ngàn con trai, là những vị anh hùng, oai phong lẫm liệt, chiến thắng ngoại quân. Vị này sống, thống lãnh quả đất cùng tận cho đến đại dương, và trị vì với Chánh pháp, không dùng gậy, không dùng dao. Nếu vị này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quét sạch mê lầm ở đời. Này Ambattha thân yêu, ta đã cho con chú thuật. Con đã nhận những chú thuật ấy.
Thanh niên Ambattha vâng theo lời của Bà-la-môn Pokkharasàdi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bà-la-môn Pokkharasàdi, hướng thân về phía hữu, cỡi xe ngựa cái và cùng một số đông thanh niên khác đi đến khu rừng Icchànankala. Đi xe đến chỗ còn đi được xe, Ambattha liền xuống xe đi bộ và đến tại Tinh xá.
- Có phải, đối với các bậc Bà-la-môn trưởng lão, đứng tuổi, các bậc giáo sư và tổ sư, ngươi cũng nói chuyện như vậy, như ngươi đã đi qua lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi, hay đứng lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi?
- Không phải vậy, này Gotama. Phải đi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đi. Phải đứng mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đứng. Phải ngồi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang ngồi. Phải nằm mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang nằm. Chỉ với những vị Sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đui, sanh từ nơi chân của bà con ta, thì ta mới nói chuyện như vậy, như với ngươi, Gotama".
- Này Gotama, thô bạo là dòng họ Thích-ca; này Gotama, ác độc là dòng họ Thích-ca; này Gotama, khinh suất là dòng họ Thích-ca; này Gotama hung dữ là dòng họ Thích-ca. Là đê tiện, thuộc thành phần đê tiện, dòng họ Thích-ca không kính nhường Bà-la-môn, không lễ bái Bà-la-môn, không cúng dường Bà-la-môn, không tôn trọng Bà-la-môn. Này Gotama, như vậy thật không lẽ, thật không đúng pháp, khi dòng họ Thích-ca này, những hạng đê tiện, thuộc thành phần đê tiện lại không kính nhường Bà-la-môn, không cung kính Bà-la-môn, không lễ bái Bà-la-môn, không cúng dường Bà-la-môn, không tôn trọng Bà-la-môn.
Như vậy, thanh niên Ambattha lần đầu tiên đã buộc tội dòng họ Thích-ca là đê tiện..
- Này Gotama, một thời ta đi đến Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) có việc phải làm cho Thầy ta là Bà-la-môn Pokkharasàdi, và đến tại công hội trường của dòng họ Thích-ca. Lúc bấy giờ một số đông dòng họ Thích-ca và thanh niên Thích-ca đang ngồi trên ghế cao tại công hội trường. Chúng cười với nhau, dùng ngón tay thọc cù nôn với nhau, ta nghĩ chắc chắn ta là mục tiêu cho chúng đùa giỡn với nhau, lại không ai mời ta ngồi. Này Gotama, như vậy thật không phải lẽ, thật không đúng pháp, khi chúng Thích-ca này là những hạng đê tiện, thuộc thành phần đê tiện lại không kính nhường Bà-la-môn, không cung kính Bà-la-môn, không lễ bái Bà-la-môn, không cúng dường Bà-la-môn, không tôn trọng Bà-la-môn.
Như vậy thanh niên Ambattha lần thứ hai đã buộc tội dòng họ Thích-ca là đê tiện.
Như vậy, thanh niên Ambattha lần thứ ba đã buộc tội dòng họ Thích-ca là đê tiện.
- Dòng họ ngươi là gì?
- Này Gotama, dòng họ ta là Kanhàyana.
- Này Ambattha, nếu theo phụ mẫu hệ của ngươi về quá khứ, thời dòng họ Thích-ca là Thầy của ngươi. Và ngươi là con của một nữ tỳ của dòng họ Thích-ca. Này thanh niên Ambattha, tổ tiên của Thích-ca là vua Okkàka. Thuở xưa, này Ambattha, vua Okkàka muốn trao vương vị cho Hoàng tử con bà hoàng hậu chính mà vua thương yêu, bèn đuổi ra khỏi nước những người con đầu của mình là Okkàmukha, Karandu, Hatthiniya, Sinipura. Bị tẩn xuất khỏi nước, những Hoàng tử này đến sống tại một khu rừng lớn bên một hồ nước, trên sườn núi Hy-mã-lạp-sơn. Vì sợ huyết thống của mình bị lẫn lộn với huyết thống khác, các vị Hoàng tử này ăn nằm với những người chị của mình.
- Này Ambattha, một hôm vua Okkàka nói với vị đại thần tùy tùng: "Này các khanh, các Hoàng tử hiện nay ở đâu?" - "Bạch Đại vương, có một khu rừng lớn, bên một hồ nước trên sườn núi Hy-mã-lạp-sơn. Nay các Hoàng tử ở tại chỗ ấy. Các Hoàng tử, vì sợ huyết thống của mình lẫn lộn huyết thống khác nên ăn nằm với những người chị của mình".
- Này Ambattha, vua Okkàka liền cảm hứng thốt lời tụng hân hoan: "Các Hoàng tử thật là những Sakya (cứng như lõi cây sồi), các Hoàng tử thật là những Sakya xuất chúng". Này Ambattha, từ đó trở đi, các Hoàng tử được gọi là Sakya và vua Okkàka là vua tổ của dòng họ Thích-ca. Này Ambattha, vua ấy có một nữ tỳ tên là Disà. Nữ tỳ này sinh hạ một người con da đen. Vừa mới sinh, Kanha liền nói: "Này mẹ, hãy rửa cho con; này mẹ hãy tắm cho con; này mẹ hãy gội sạch đồ bất tịnh này. Và con sẽ giúp ích cho mẹ". Này Ambattha, vì người ta gọi những ác quỷ là ác quỷ nên người ta cũng gọi Kanhà là ác quỷ. Chúng nói như thế này: "Đứa trẻ này, vừa mới sanh đã nói. Một Kannha vừa mới sanh". Này Ambattha, từ đó trở đi chữ Kanhàyanà được biết đến. Và Kanha là tổ phụ của dòng họ Kanhàyana. Này Ambattha, nếu theo phụ mẫu hệ của ngươi về quá khứ, thời dòng họ Thích-ca là Thầy của ngươi, và ngươi là con một nữ tỳ của dòng họ Thích-ca.
- Này Gotama, chớ có phỉ báng quá đáng thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ. Này Gotama, thanh niên Ambattha sinh vào quý tộc, thanh niên Ambattha thuộc con nhà danh giá, thanh niên Ambattha là bậc đa văn, thanh niên Ambattha là nhà hùng biện giỏi, thanh niên Ambattha là nhà bác học, thanh niên Ambattha có thể biện luận với Tôn giả Gotama về vấn đề này.
- Nếu những thanh niên các ngươi nghĩ: "Thanh niên Ambattha không được sanh vào quý tộc, thanh niên Ambattha không thuộc con nhà danh giá, thanh niên Ambattha không phải là bậc đa văn, thanh niên Ambattha không phải là nhà hùng biện giỏi, thanh niên Ambattha không phải là nhà bác học, thanh niên Ambattha không thể biện luận với Tôn giả Gotama về vấn đề này", thời thanh niên Ambattha hãy đứng ra một bên và để các thanh niên biện luận với Ta về vấn đề này. Nếu các ngươi nghĩ: "Thanh niên Ambattha được sanh vào quý tộc, thanh niên Ambattha thuộc con nhà danh giá, thanh niên Ambattha là bậc đa văn, thanh niên Ambattha là nhà hùng biện giỏi, thanh niên Ambattha là nhà bác học, thanh niên Ambattha có thể biện luận với Gotama về vấn đề này", thời các ngươi hãy đứng ra một bên và để thanh niên Ambattha biện luận với ta về vấn đề này.
- Này Ambattha, câu hỏi hợp lý này được đem ra hỏi ngươi dầu không muốn, ngươi cũng phải trả lời. Nếu ngươi không trả lời, hoặc trả lời tránh qua một vấn đề khác, hoặc giữ im lặng, hoặc bỏ đi, thời ngay tại chỗ, đầu ngươi sẽ bị bể ra làm bảy mảnh. Này Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe các Bà-la-môn, trưởng lão, tôn túc, giáo sư và tổ sư nói đến nguồn gốc của dòng họ Kanhàyanà không? Ai là tổ phụ của dòng họ Kanhàyanà?
Nghe nói vậy thanh niên Ambattha giữ im lặng. Lần thứ hai Thế Tôn nói với thanh niên Ambattha:
- Này Ambattha, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe các nguồn gốc của dòng họ kanhàyanà không? Ai là tổ phụ của dòng họ Kanhàyanà?
Lần thứ hai thanh niên Ambattha giữ im lặng. Thế Tôn lại nói với thanh niên Ambattha:
- Ambattha, nay ngươi phải trả lời, nay không phải thời ngươi giữ im lặng nữa. Này Ambattha ai được Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba một câu hỏi hợp lý mà không trả lời, thời đầu của người ấy sẽ bị bể ra làm bảy mảnh tại chỗ.
- Tôn giả Gotama đã nói gì? Mong Tôn giả Gotama nói lại cho.
- Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có nghe các vị Bà-la-môn, trưởng lão, tôn túc, giáo sư và tổ sư nói đến nguồn gốc của dòng họ Kanhàyanà không? Ai là tổ phụ của dòng họ Kanhàyanà?
- Tôn giả Gotama, con đã có nghe, đúng như Tôn giả Gotama đã nói. Chính từ đó nguồn gốc của dòng họ Kanhàyanà. Vị ấy là tổ phụ của dòng họ Kanhàyanà.
- Người ta nói thanh niên Ambattha là tiện sanh, người ta nói thanh niên Ambattha là con dòng không phải quý phái; người ta nói thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ của dòng họ Thích-ca; người ta nói dòng họ Thích-ca là chủ của thanh niên Ambattha. Chúng tôi không nghĩ rằng Sa-môn Gotama mà lời nói bao giờ cũng chân thực, lại không phải là người có thể tin được.
- Các thanh niên, các ngươi chớ có phỉ báng quá đáng thanh niên Ambattha là con một nữ tỳ. Kanha ấy trở thành một tu sĩ vĩ đại. Vị này đi về miền Nam, học các chú thuật Phạm thiên, rồi về yết kiến vua Okkàka và yêu cầu gả công chúa Khuddarùpi cho mình. Vua Okkàka vừa giận, vừa tức, mắng rằng: "Ngươi là ai, con đứa nữ tỳ của ta mà dám xin con gái Khuddarùpi của ta", và vua liền lắp tên vào cung. Nhưng vua không thể bắn tên đi, cũng không thể cất mũi tên xuống. Khi bấy giờ, các thanh niên thị giả, các đại thần và tùy tùng đến thưa với ẩn sĩ Kanhà: - "Đại đức, hãy để cho vua an toàn! Đại đức, hãy để cho vua được an toàn!" - "Nhà vua sẽ được an toàn, và nếu nhà vua bắn mũi tên xuống đất, thời toàn thể quốc độ nhà vua sẽ bị hạn, khô héo!" - "Đại đức hãy để cho vua được an toàn! Hãy để cho quốc độ được an toàn!" - "Nhà vua sẽ được an toàn, quốc độ sẽ được an toàn! Nhưng nếu nhà vua bắn tên lên trời, thời toàn thể quốc độ sẽ không mưa trong bảy năm!" - "Đại đức, hãy để cho nhà vua được an toàn, hãy để cho quốc độ được an toàn! Và hãy để cho trời mưa!" - "Nhà vua sẽ được an toàn, quốc độ sẽ được an toàn và trời sẽ mưa. Nhưng vua hãy nhắm cây cung đến phía Thái tử. Một sợi lông của Thái tử cũng sẽ được an toàn!".
Khi bấy giờ, các thị giả trẻ tuổi, các đại thần nói với Okkàka: "Okkàka hãy nhắm cây cung đến phía Thái tử. Một sợi lông của Thái tử sẽ được an toàn".
Vua Okkàka nhắm cây cung đến phía Thái tử và một sợi lông của Thái tử cũng được an toàn. Vua Okkàka hoảng sợ, khiếp đảm sự trừng phạt, thuận cho con gái Khuddàrùpi. Này các thanh niên, chớ có phỉ báng thanh niên Ambattha một cách quá đáng là con của một nữ tỳ. Kanha là một vị ẩn sĩ vĩ đại.
- "Ambattha, nhà ngươi nghĩ thế nào? Một thanh niên Sát-đế-lỵ cưới một thiếu nữ Bà-la-môn. Do sự sum họp ấy, một người con trai được sinh. Một người sanh từ một thanhniên Sát-đế-lỵ và một thiếu nữ Bà-la-môn có thể thọ lãnh chỗ ngồi hay nước giữa những người Bà-la-môn không?"
- Tôn giả Gotama, có thể thọ lãnh.
- Và những người Bà-la-môn có mời người ấy dự tiệc cúng cho người chết hay dùng món đồ ăn cúng dường, hay đồ ăn cúng cho thiên thần hay đồ ăn gửi đến như một tặng phẩm không?
- Tôn giả Gotama, có mời.
- Và những người Bà-la-môn có dạy các chú thuật hay không?
- Tôn giả Gotama, có dạy.
- Có đóng cửa giữa người ấy với những người đàn bà của chúng hay mở cửa?
- Tôn giả Gotama, mở cửa.
- Và những người Sát-đế-lỵ có quán đảnh cho người ấy để thành một Sát-đế-lỵ không?
- Tôn giả Gotama, thưa không.
- Tại sao không?
- Vì nó không được sinh (là Sát-đế-lỵ) từ mẫu hệ.
- Tôn giả Gotama, có thể thọ lãnh.
- Và những người Bà-la-môn có mời người ấy dự tiệc cúng cho người chết hay dùng các món ăn cúng dường, hay đồ ăn cúng theo thiên thần hay đồ ăn gửi đến như một tặng phẩm không?
- Tôn giả Gotama, có mời.
- Và những người Bà-la-môn có dạy người ấy các chú thuật không?
- Tôn giả Gotama, có dạy.
- Có đóng cửa giữa người ấy với những người đàn bà của chúng, hay mở cửa?
- Tôn giả Gotama, chúng mở cửa.
- Và những người Sát-đế-lỵ có làm lễ quán đỉnh cho người ấy để thành một Sát-đế-lỵ không?
- Tôn giả Gotama, thưa không.
- Tại sao vậy?
- Tôn giả Gotama, vì không được sinh (là Sát-đế-lỵ) từ phụ hệ.
- Tôn giả, không được.
- Và những người Bà-la-môn, có mời người ấy dự tiệc cúng cho người chết hay dùng các món ăn cúng dường, hay đồ ăn cúng cho thiên thần hay đồ ăn gửi đến như một tặng phẩm không?
- Tôn giả Gotama, không có mời.
- Và những người Bà-la-môn có dạy người ấy các chú thuật không?
- Tôn giả Gotama, không dạy.
- Có đóng cửa giữa người ấy với những người đàn bà của chúng, hay mở cửa?
- Tôn giả Gotama, đóng cửa.
- Tôn giả Gotama, được thọ lãnh.
- Và những người Bà-la-môn có mời người ấy dự tiệc cúng cho người chết, hay dùng những món ăn cúng dường, hoặc đồ ăn cúng cho thiên thần, hay đồ ăn gửi đến như những tặng phẩm không?
- Tôn giả Gotama, có mời.
- Và những người Bà-la-môn có dạy người ấy các chú thuật không?
- Tôn giả Gotama, có dạy:
- Có đóng cửa giữa người ấy với những người đàn bà của chúng, hay mở cửa?
- Tôn giả Gotama, mở cửa.
- Này Ambattha, đến như vậy là sự đọa lạc tột cùng của người Sát-đế-lỵ, đã bị những người Sát-đế-lỵ cạo đầu, đánh người ấy với một bị tro, tẩn xuất người ấy ra khỏi nước hay thành phố, như vậy, này Ambattha, khi người Sát-đế-lỵ bị đọa lạc tột cùng, các Sát-đế-lỵ vẫn giữ phần ưu thắng và các Bà-la-môn vẫn ở địa vị hạ liệt.
"Đối với chúng sanh tin tưởng ở giai cấp, Sát-đế-lỵ chiếm địa vị tối thắng ở nhân gian.
Những vị nào giới hạnh và trí tuệ đầy đủ, vị này chiếm địa vị tối thắng giữa Người và chư Thiên".
(Xong tụng phẩm thứ nhất).
- Này Ambattha, một vị đã thành tựu vô thượng trí đức không có luận nghị đến sự thọ sanh, không có luận nghị đến giai cấp hay không có luận nghị đến ngã mạn với lời nói: "Ngươi bằng ta hay ngươi không bằng ta". Chỗ nào nói đến cưới hỏi hay rước dâu đi, hay cả hai, chỗ đó mới có luận nghị đến sự thọ sanh, luận nghị đến giai cấp hay luận nghị đến ngã mạn với lời nói: "Ngươi bằng ta hay không bằng ta".
Này Ambattha, những ai còn chấp trước lý thuyết thọ sanh, còn chấp trước lý thuyết giai cấp, còn chấp trước lý thuyết kiêu mạn, hoặc còn chấp trước cưới hỏi rước dâu, những người ấy còn rất xa sự thành tựu vô thượng trí đức. Này Ambattha, không chấp trước lý thuyết thọ sanh, không chấp trước lý thuyết giai cấp, không chấp trước lý thuyết kiêu mạn, không chấp trước cưới hỏi, đưa dâu, người ấy tức chứng ngộ vô thượng trí đức.
- Ở đây, này Ambattha, Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc:
... (xin xem Kinh Sa Môn quả, từ số 40 đến số 98 tới câu: "Không có đời sống nào khác nữa" chỉ khác danh từ xưng hô và câu kết từng đoạn. Như đoạn này, câu kết là "Như vậy, này Ambattha, là vị Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh".)
- Này Ambattha, như vậy gọi là Tỷ-kheo thành tựu trí tuệ, thành tựu giới đức, thành tựu giới đức và trí tuệ. Này Ambattha, không có sự thành tựu trí đức nào khác siêu việt hơn, cao thượng hơn sự thành tựu trí đức này.
Lại nữa, này Ambattha ở đây có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, và chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, lại mang theo cuốc và giỏ đi vào rừng sâu và nguyện: "Ta chỉ ăn củ, rễ và trái cây để sống". Nhất định người này chỉ xứng đáng là thị giả của vị đã thành tựu trí đức. Này Ambattha, đó là nguyên nhân thứ hai đưa đến thất bại cho sự thành tựu vô thượng trí đức này.
Lại nữa, này Ambattha, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, chưa thấu đạt pháp ăn trái cây để sống và chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ và trái cây để sống, lại nhen lửa tại cuối làng hay sống thờ lửa ấy. Nhất định người này chỉ xứng đáng là thị giả của vị đã thành tựu trí đức. Này Ambattha đó là nguyên nhân thứ ba đưa đến thất bại cho sự thành tựu vô thượng trí đức này.
Lại nữa Ambattha, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, chưa thấu đạt được pháp ăn trái cây rụng để sống, chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ và trái cây để sống, chưa thấu đạt pháp tôn thờ lửa, lại xây dựng một ngôi nhà có bốn cửa tại ngã tư đường, sống và nguyện: "Từ bốn phương nếu có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào lại, thì ta sẽ cúng dường, tùy theo khả năng, tùy theo sức lực của ta". Nhất định người này chỉ xứng đáng là thị giả của vị đã thành tựu trí đức. Này Ambattha, đó là nguyên nhân thứ tư đưa đến thất bại cho sự thành tựu vô thượng trí đức này.
Này Ambattha đó là bốn nguyên nhân đưa đến thất bại cho sự thành tựu vô thượng trí đức này.
Này Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Tuy ngươi và Thầy ngươi chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, nhà ngươi có đem theo dụng cụ của nhà đạo sĩ, đi vào rừng sâu và nguyện: "Ta và Thầy ta chỉ ăn trái cây rụng mà sống?"
- Bạch không, Tôn giả Gotama.
- Này Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Tuy ngươi và Thầy ngươi chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, ngươi có mang theo cuốc và giỏ đi vào rừng sâu và nguyện: "Ta và Thầy ta chỉ ăn rễ và trái cây để sống không?"
- Bạch không, Tôn giả Gotama.
- Này Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Tuy ngươi và Thầy ngươi chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ và trái cây để sống, ngươi có nhen lửa tại cuối làng hay cuối xóm và sống thờ lửa ấy với Thầy ngươi không?"
- Bạch không, Tôn giả Gotama.
- Này Ambattha, ngươi nghĩ thế nào? Tuy ngươi và Thầy ngươi chưa thấu đạt sự thành tựu vô thượng trí đức này, chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, chưa thấu đạt pháp ăn củ, rễ và trái cây để sống và chưa thấu đạt sự thờ lửa, ngươi và Thầy ngươi có xây dựng một ngôi nhà có bốn cửa tại ngã tư đường với lời nguyện: "Từ bốn phương, nếu có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào lại - thì ta sẽ cúng dường tùy theo khả năng, tùy theo sức lực của ta không?"
- Bạch không, Tôn giả Gotama.
- Này Ambattha, như vậy ngươi và Thầy ngươi còn khiếm khuyết sự thành tựu vô thượng trí đức này, còn khiếm khuyết bốn nguyên nhân đưa đến thất bại cho sự thành tựu vô thượng trí đức này, Ambattha, thế mà những lời này lại do Thầy của ngươi, Bà-la-môn Pokkharasàdi thốt ra: "Những hạng Sa-môn giả hiệu, đầu trọc, đê tiện, đen đui, sanh từ nơi chân bà con ta là ai mà có thể đàm luận với những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vệ đà". Một vị tự mình chưa thành tựu được những pháp đưa đến sự thất bại (cho những pháp cao thượng hơn). Này Ambattha, ngươi xem, Thầy của ngươi, Bà-la-môn Pokkharasàdi đã lỗi lầm như thế nào?
- "Không thể được, Tôn giả Gotama".
- Không có vậy. Tôn giả Gotama.
- Không có vậy, Tôn giả Gotama.
- Hay các vị ấy được những thiếu nữ có đường eo và thắt lưng có tua hầu hạ như ngươi và Thầy ngươi hiện nay không?
- Không có vậy, Tôn giả Gotama.
- Hay những vị ấy đi trên những xe do những con ngựa cái có bờm, đuôi được bện và dùng những cây roi và gậy dài như ngươi và Thầy ngươi hiện nay không?
- Không có vậy, Tôn giả Gotama.
- Hay những vị ấy sống được che chở trong những thành lũy có những chiến hào bao bọc, có những cửa thành hạ xuống, có những chiến sĩ mang gươm dài hộ vệ như ngươi và Thầy ngươi hiện nay không?
- Không có vậy, Tôn giả Gotama.
- Như vậy, này Ambattha, ngươi và Thầy ngươi không phải là một ẩn sĩ, không giống đời sống của nhà ẩn sĩ. Này Ambattha, nếu có gì nghi ngờ, có gì phân vân về Ta, hãy hỏi Ta và Ta sẽ trả lời.
Thế Tôn liền dùng thần thông khiến thanh niên Ambattha thấy tướng mã âm tàng của Thế Tôn. Và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai, rờ đến, liếm đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi che khắp cả vầng trán. Lúc bấy giờ, thanh niên Ambattha liền nghĩ rằng: "Sa-môn Gotama đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của vị đại nhân, không phải không đầy đủ". Và nói với Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, nay chúng tôi xin đi, chúng tôi rất bận, có nhiều việc cần phải làm".
- Này Ambattha, hãy làm những gì ngươi nghĩ là phải thời.
Rồi thanh niên Ambattha leo lên xe do ngựa cái kéo và ra đi.
- Chúng con thấy Tôn giả Gotama rồi.
- Này Ambattha thân mến, có phải Tôn giả Gotama đúng với tin đồn đã truyền đi, chớ không phải khác?
- Tôn giả Gotama đúng với tin đồn đã truyền đi, chớ không phải khác. Tôn giả Gotama là như vậy, chớ không phải khác. Tôn giả Gotama đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của vị đại nhân, chớ không phải thiếu.
- Này Ambattha thân mến, con có cùng với Tôn giả Gotama đàm luận không?
- Con có đàm luận với Tôn giả Gotama.
- Này Ambattha thân mến, cuộc đàm luận ấy như thế nào?
Thanh niên Ambattha liền thuật cho Bà-la-môn Pokkharasàdi rõ tất cả cuộc hội đàm với Tôn giả Gotama.
- Ngươi thật là nhà học giả đốn mạt của chúng ta! Ngươi thật là nhà đa văn đốn mạt của chúng ta! Ngươi thật là nhà tinh thông ba quyển Vệ đà đốn mạt của chúng ta. Người ta nói những ai có sự cư xử như vậy, khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh vào cõi ác, đọa xứ, địa ngục. Này Ambattha, ngươi càng công kích Tôn giả Gotama bao nhiêu, lại càng bị Tôn giả Gotama lật tẩy chúng ta bấy nhiêu. Ngươi thật là nhà học giả đốn mạt của chúng ta! Ngươi thật là nhà đa văn đốn mạt của chúng ta! Ngươi thật là nhà tinh thông ba quyển Vệ đà đốn mạt của chúng ta! Người ta nói, những ai có sự cư xử như vậy, khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh vào cõi ác, đọa xứ, địa ngục.
Bà-la-môn Pokkharasàdi tức giận, bực bội, dùng chân đá thanh niên Ambattha bổ lộn nhào rồi lập tức muốn đi gặp đến Thế Tôn.
Tuy vậy, Bà-la-môn Pokkharasàdi vẫn cho làm các món ăn thượng vị, loại cứng loại mềm tại nhà riêng, chở trên các xe, và dưới ánh sáng của những ngọn đuốc từ Ukkattha đi ra và đi đến khóm rừng Icchànankala. Vị này đi xe cho đến chỗ còn đi xe được rồi xuống xe đi bộ đến Thế Tôn. Khi đi đến, liền nói với Thế Tôn những lời hỏi thăm xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Pokkharasàdi nói với Thế Tôn:
- Này Bà-la-môn, đệ tử ngươi, thanh niên Ambattha có đến đây.
- Tôn giả Gotama, Ngài có cùng với thanh niên Ambattha đàm luận không?
- Này Bà-la-môn, ta có đàm luận với thanh niên Ambattha.
- Tôn giả Gotama, cuộc đàm luận của Ngài với thanh niên Ambattha như thế nào?
Cuộc đàm luận với thanh niên Ambattha như thế nào, Thế Tôn kể lại tất cả cho Bà-la-môn Pokkharasàdi.
Nghe nói vậy, Bà-la-môn nói với Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, thanh niên Ambattha thật là ngu si! Tôn giả Gotama, hãy tha thứ cho thanh niên Ambattha!
- Này Bà-la-môn, cầu cho thanh niên Ambattha được hạnh phúc.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Pokkharasàdi nghĩ rằng: "Sa môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, không phải không đầy đủ", liền nói với Thế Tôn: "Hôm nay xin mời Tôn giả Gotama cùng chúng Tỷ-kheo đến dùng cơm với con. Thế Tôn nhận lời với sự im lặng.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Tôn giả Gotama, con, con của con, vợ của con, tùy tùng của con, bạn hữu của con, xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ keo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Như Tôn giả Gotama đến thăm các gia đình cư sĩ khác ở Ukkattha, mong Tôn giả Gotama cũng đến thăm các gia đình Pokkharasàdi. Tại đây, các thanh nam hay thanh nữ Bà-la-môn sẽ đảnh lễ Thế Tôn Gotama, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi, hoặc mời nước, hoặc khiến tâm hoan hỷ. Như vậy chúng sẽ hưởng hạnh phúc, lợi ích trong một thời gian lâu dài.
_____________________________________________
- Này khanh Jìvaka, sao ngươi lại yên lặng như vậy?
- Tâu Đại vương, chính tại vườn xoài này của chúng con, có Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang trú ngụ với đại chúng Tỷ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị. Thế Tôn Gotama có tiếng đồn tốt đẹp sau đây lan rộng: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Đại vương hãy đến chiêm bái Thế Tôn này. Rất có thể, nhờ chiêm bái Thế Tôn, tâm của Đại vương được tịnh tín.
- Vậy khanh Jìvaka, hãy cho thắng kiệu voi.
- Vâng, tâu Đại vương.
- Này khanh Jìvaka, người phản ta chăng? Này khanh Jìvaka, người lường gạt ta chăng? Này khanh Jìvaka, ngươi nạp ta cho kẻ thù chăng? Tại sao trong một đại chúng lớn như thế này gần một nghìn hai trăm năm mươi vị, mà không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho, không một tiếng ồn?
- Tâu Đại vương, thần không phản lại Ngài, thần không lường gạt Ngài, tâu Đại vương, thần không nạp Ngài cho kẻ thù, tâu Đại vương, hãy đi thẳng tới; tâu Đại vương hãy đi thẳng tới. Tại chỗ kia trong căn nhà tròn chỗ có những ngọn đèn đang thắp sáng.
- Này khanh Jìvaka, Thế Tôn ở tại đâu?
- Tâu Đại vương, vị ấy là Thế Tôn. Tâu Đại vương, Thế Tôn ngồi dựa vào cột chính giữa, mặt hướng phía Nam, ngồi trước mặt chúng Tỷ-kheo.
- Đại vương, hình như tâm trí của Đại vương nặng nhiều về tình thương thì phải?
- Bạch Thế Tôn, con thương Hoàng tử Udàyibhadda rất nhiều. Mong rằng Hoàng tử Udàyibhadda cũng được sự trầm lặng như sự trầm lặng của chúng Tỷ-kheo này vậy.
- Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề này, nếu Ngài cho phép con hỏi.
- Đại vương cứ hỏi tùy theo ý muốn của Đại vương.
- Bạch Ngài, con nhớ đã hỏi câu hỏi ấy với Sa-môn, Bà-la-môn khác.
- Này Đại vương, hãy nói lại cho nghe, các vị ấy đã trả lời với Đại vương như thế nào, nếu Đại vương không thấy gì trở ngại.
- Bạch Đại đức, con không thấy gì trở ngại đối với đức Thế Tôn và các bậc như đức Thế Tôn.
- Vậy Đại vương hãy nói đi.
- Đại vương có thể được. Này Đại vương, ta sẽ hỏi Đại vương về vấn đề này. Đại vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Đại vương.
- Này Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nếu quả như vậy, thì đó có phải chăng là kết quả thiết thực hiện tại hạnh Sa-môn?
- Bạch Đại đức, như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn.
- Này Đại vương đó là kết quả thiết thực hiện tại thứ nhất của hạnh Sa-môn mà Ta đã trình bày.
- Này Đại vương, có thể được. Này Đại vương. Ta sẽ hỏi Đại vương về vấn đề này. Đại vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Đại vương. Đại vương nghĩ sao? Nếu Đại vương có một người nông phu, Gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Người ấy nghĩ: "Thật hy hữu thay! Thật kỳ diệu thay quả vị thác sanh của các công đức, quả dị thục của các công đức. Vị vua Ajàtasattu, con của bà Videhi, nước Magadha, là người, tôi cũng là người. Vị vua Ajàtasattu, con bà Videhi nước Magadha, sống tận hưởng đầy đủ năm món dục lạc, tôi nghĩ không khác gì vị thiên thần. Còn tôi là người nông phu, Gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Vậy ta hãy làm các công đức như vua kia. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo". Và người nông phu ấy, một thời khác, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống an tịnh. Nếu những người của Đại vương đến tâu với Đại vương: "Đại vương có biết chăng? Có người nông phu của Đại vương, người Gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố. Tâu Đại vương, người ấy đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia như vậy, người ấy sống chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống an tịnh". Này Đại vương, Đại vương có nói: "Người hãy đến lại với ta, hãy làm lại người nông phu, Gia chủ, nạp thuế má, làm giàu công khố"?
- Này Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nếu quả như vậy thời đó có phải là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?
- Bạch Đại đức, như vậy chính là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn.
- Này Đại vương, đó là kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, mà Ta trình bày.
- Này Đại vương có thể được. Này Đại vương, hãy lóng tai nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Vâng, Đại đức. Vua Ajàtasattu con bà Videhi vua xứ Magadha trả lời Thế Tôn. Thế Tôn nói:
Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Tỷ-kheo ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác. Vị ấy nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu và thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Tâm có tham, biết là tâm có tham. Tâm không có tham, biết là tâm không có tham.
Tâm có sân, biết là tâm có sân. Tâm không có sân, biết là tâm không có sân.
Tâm có si, biết là tâm có si. Tâm không có si, biết là tâm không có si.
Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn.
Đại hành tâm, biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm.
Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng.
Tâm thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định.
Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.
Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không có tham, biết tâm không có tham.
Tâm có sân biết tâm có sân. Tâm không có sân, biết tâm không có sân.
Tâm có si, biết tâm có si. Tâm không có si, biết tâm không có si.
Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn.
Đại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải là đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm.
Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng.
Tâm thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định.
Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát.
- Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: Này các Hiền giả, những chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm các thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Này Đại vương, đó là quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.
97.”Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật "đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt", biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa.
Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước. Này Đại vương, không có một quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn nào vi diệu và thù thắng hơn quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn này.
Đại vương hãy làm những gì Đại vương nghĩ ra là phải thời.
Lúc bấy giờ, Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha hoan hỷ tán thán lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn và từ biệt.
- Này các Tỷ-kheo, tâm vua ấy rất ăn năn, này các Tỷ-kheo, tâm vua ấy rất hối lỗi. Nếu vua ấy không hại mạng vua cha, một vị vua rất chân chánh, thì tại ngay chỗ ngồi này, vua ấy đã chứng được pháp nhãn, không trần cấu, không ô uế.
Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
----------------------------------------------------------------
ĐẢNH LỄ ĐỨC THẾ TÔN, ỨNG CÚNG, CHÁNH BIẾN TRI.
KINH TRƯỜNG BỘ
(Brahmajàla Sutta)
- Này các Hiền giả, thật kỳ diệu thay! Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Thế Tôn, đấng Toàn Tri, Toàn Kiến, đấng A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, đã thấu hiểu sự xu hướng sai khác của chúng sanh. Suppiya, kẻ du sĩ ngoại đạo này dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, hủy báng Pháp, hủy báng Tăng. Còn đệ tử du sĩ ngoại đạo Suppiya, thanh niên Brahmadatta lại dùng vô số phương tiện, tán thán Phật, tán thán Pháp, tán thán Tăng. Như vậy cả hai Thầy trò đã nói những lời hoàn toàn tương phản trong khi đi sau lưng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
- Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì được bàn đến trong khi các ngươi ngồi họp tại chỗ này? Vấn đề gì đã được bỏ dở chưa nói xong?
Nghe nói như vậy, các Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn! Tại đây, khi đêm vừa mới tàn, chúng con sau khi dậy, ngồi họp tại nơi gian nhà hình tròn và giữa chúng con, câu chuyện sau đây được bàn đến: "Này các Hiền giả, thật kỳ diệu thay!... (xem số 3)... Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo". Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang bàn đến nửa chừng của chúng con khi Thế Tôn đến!
- Bạch Thế Tôn, không thể được!
- Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: - "Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi".
Sa-môn Gotama từ bỏ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sự sống thanh tịnh không có trộm cướp. - Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
Sa-môn Gotama từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
Sa-môn Gotama từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói đến chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Sa-môn Gotama sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ đã hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, Sa-môn Gotama nói những lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
Này các Tỷ-kheo, Sa-môn Gotama từ bỏ lời nói ỷ ngữ, tránh xa lời nói ỷ ngữ, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. - Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
- Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
Xong Tiểu giới.
Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
Xong Trung giới.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
- Này các Tỷ-kheo, như vậy kẻ phàm phu tán thán Như Lai.
Này các Tỷ-kheo, đấy là những vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu dùng để tán thán Như Lai.
Xong Đại giới.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, không thể nhận hiểu bởi luận lý suông, tế nhị, chỉ những người trí mới có thể nhận hiểu. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết, và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo đó là lập trường thứ nhất, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số những vị Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng bản ngã và thế giới là thường còn.
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định, khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như một thành kiếp hoại kiếp, hai thành kiếp hoại kiếp, ba thành kiếp hoại kiếp, mười thành kiếp hoại kiếp nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này... còn những loại hữu tình kia lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ hai, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận và chấp rằng, bản ngã và thế giới thường còn.
Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như mười thành kiếp hoại kiếp, hai mươi thành kiếp hoại kiếp, ba mươi thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi thành kiếp hoại kiếp, năm mươi thành kiếp hoại kiếp; nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này". Như vậy người ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những đặc điểm và những chi tiết. Người ấy nói: "Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi nhờ nhiệt tâm... nên tâm tôi nhập định như vậy. Khi tâm nhập định như vậy, tôi nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như mười thành kiếp, hoại kiếp... bốn mươi thành kiếp hoại kiếp". Nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này... tôi được sanh tại chỗ này". Như vậy người ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những với những đặc điểm và những chi tiết. Người ấy nói: "Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, trụ đá... còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển, luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ ba, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới thường còn.
Này các Tỷ-kheo, ở đời có Sa-môn hay Bà-la-môn, là nhà suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ của suy luận, và sự tùy thuận theo thẩm sát, vị này tuyên bố như thế này: "Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thời lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường còn".
Này các Tỷ-kheo, đó là lập trường thứ tư, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn.
TỤNG PHẨM THỨ NHẤT
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác.
Này các Tỷ-kheo, có những hạng chư Thiên gọi là Khiddàpadosikà (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên bị thất niệm. Do thất niệm, các chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể của chúng.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình, và vô thường đối với một hạng hữu tình khác.
Này các Tỷ-kheo, có những hạng chư Thiên gọi là Manopadosikà (bị nhiễm hoặc bởi tâm trí). Chúng sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của chúng oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí oán ghét lẫn nhau, nên thân chúng mệt mỏi, tâm chúng mệt mỏi. Các hạng chư Thiên ấy thác sanh từ bỏ thân thể này của chúng.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ ba, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác.
Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn, hay Bà-la-môn là nhà suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ biện bác của suy luận và sự tùy thuộc theo thẩm sát, vị này tuyên bố như thế này: "Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cái bản ngã ấy vô thường, không kiên cố, không thường trú, bị chuyển biến. Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cái bản ngã ấy là thường còn, bất biến, thường trú, không bị chuyển biến, thường hằng như vậy mãi mãi".
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ tư, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình, và vô thường đối với một hạng hữu tình khác.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể nhận biết. Những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên và vô biên.
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy sống ở trong đời với tư tưởng thế giới là vô biên. Vị ấy nói: "Thế giới này là vô biên, không có giới hạn". Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là hữu biên, có một đường vòng xung quanh", những vị ấy nói không đúng sự thật. Thế giới này là vô biên, không có giới hạn. Tại sao vậy? Vì tôi nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, tôi sống với tư tưởng thế giới là vô biên. Do đó tôi biết: "Thế giới này là vô biên, không có giới hạn".
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên.
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy sống ở trong đời với tư tưởng thế giới là hữu biên về phía trên, phía dưới và thế giới là Vô biên về phía bề ngang. Vị ấy nói: "Thế giới này là hữu biên và vô biên". Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là hữu biên, có một đường vòng xung quanh, thì những vị ấy nói không đúng sự thật". Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là vô biên không có giới hạn thì những vị ấy nói không đúng sự thật. Thế giới này vừa là hữu biên, vừa là vô biên. Tại sao vậy? Vì rằng, tôi nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, tôi sống ở trong đời với tư tưởng, thế giới là hữu biên về phía trên, phía dưới, và thế giới là vô biên về phía bề ngang. Do vậy tôi biết: "Thế giới này vừa là hữu biên vừa là vô biên".
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ ba, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên.
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà suy luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ biện bác của suy luận và sự tùy thuận theo thẩm sát, vị này tuyên bố như sau: "Thế giới này không phải là hữu biên, cũng không phải là vô biên. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là hữu biên có giới hạn xung quanh", những vị ấy nói không đúng sự thật. Lại những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này là vô biên không có giới hạn" những vị ấy cũng nói không đúng sự thật. Lại những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: "Thế giới này vừa là hữu biên vừa là vô biên", những vị ấy cũng nói không đúng sự thật. Thế giới này cũng không phải là hữu biên, cũng không phải là vô biên.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người trí mới có thể nhận biết. Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, không như thật biết "Đây là thiện", không như thật biết "Đây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không như thật biết: "Đây là thiện", không như thật biết: "Đây là bất thiện". Vì tôi không như thật biết: "Đây là thiện", không như thật biết "Đây là bất thiện". Và nếu tôi trả lời: "Đây là thiện" hoặc tôi trả lời: "Đây là bất thiện", thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi. Nếu dục, tham, sân hoặc hận khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể chấp thủ. Nếu tôi chấp thủ, thì tôi bị phiền muộn. Nếu tôi bị phiền muộn, thời thành một chướng ngại cho tôi.
- Như vậy, vì sợ chấp thủ, vì chán ghét chấp thủ, nên vị ấy không trả lời: "Đây là thiện", cũng không trả lời: "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế". Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, dùng những lời Ngụy biện trườn uốn như con lươn.
- Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không như thật biết "Đây là thiện", không như thật biết "Đây là bất thiện". Vị ấy nghĩ: Tôi không như thật biết: "Đây là thiện", không như thật biết: "Đây là bất thiện". Vì tôi không như thật biết "Đây là thiện", không như thật biết "Đây là bất thiện" và nếu tôi trả lời: "Đây là thiện" hoặc trả lời: "Đây là bất thiện", có những Sa-môn, Bà-la-môn, bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của chúng, chúng có thể đọ tài, chất vấn và cật nạn tôi. Nếu chúng đọ tài, chất vấn, cật nạn tôi, tôi có thể không giải đáp được cho chúng. Nếu tôi không giải đáp được cho chúng, thì tôi bị phiền muộn. Nếu tôi bị phiền muộn thời thành một chướng ngại cho tôi - Như vậy, vì sợ bị thử thách, vì chán ghét thử thách, nên vị ấy không trả lời: "Đây là thiện", cũng không trả lời: "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế". - Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ ba, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, chủ trương ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.
- Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn đần độn ngu si. Vị này, vì đần độn ngu si, khi bị hỏi vấn đề nay hay vấn đề khác, liền dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn: "Anh hỏi tôi có một thế giới khác hay không?" Nếu tôi nghĩ "Có một thế giới khác", tôi có thể trả lời với anh: "Có một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: "Không có một thế giới khác phải không?" Nếu tôi nghĩ: "Không có một thế giới khác", tôi có thể trả lời với anh: "Không có một thế giới khác". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi "Không có một thế giới khác phải không?" (... như trên... ) "Cũng có và cũng không có một thế giới khác?" "Cũng không có và cũng không không có một thế giới khác?", "Có loại hữu tình hóa sanh?", "Không có loại hữu tình hóa sanh?" "Cũng có và cũng không có loại hữu tình hóa sanh?" "Cũng không có và cũng không không có loại hữu tình hóa sanh?", "Có kết quả dị thục của các nghiệp thiện và ác?", "Không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng có và cũng không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Cũng không có và cũng không không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?", "Như Lai có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai có và không có tồn tại sau khi chết?", "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết?” Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ: "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết". Tôi có thể trả lời: "Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết". Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế.
- Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ tư, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết. Và chính những pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ nhất, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh.
Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà biện luận, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ biện bác của suy luận và sự tùy thuận theo thẩm sát, vị ấy tuyên bố: "Bản ngã và thế giới vô nhân sanh".
Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh.
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết. Và chính những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Những vị này chủ trương: "Bản ngã có sắc, không có bệnh, sau khi chết có tưởng". Chúng chủ trương: "Bản ngã có sắc và cũng không có sắc...", "Bản ngã cũng không có sắc và cũng không không có sắc...", "Bản ngã là hữu biên...", "Bản ngã là vô biên...", "Bản ngã là hữu biên và vô biên", "Bản ngã cũng không hữu biên và cũng không vô biên...", "Bản ngã là nhất tưởng...", "Bản ngã là dị tưởng...".”Bản ngã là thiểu tưởng...", "Bản ngã là vô lượng tưởng...", "Bản ngã là thuần lạc...", "Bản ngã là thuần khổ...", "Bản ngã là khổ lạc". Chúng chủ trương: "Bản ngã là không khổ không lạc, không có bệnh, sau khi chết có tưởng".
TỤNG PHẨM THỨ HAI
Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể nhận biết. Những pháp ấy Như Lai tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy nhưng ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.
Này các Tỷ-kheo, cũng ví như người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ có mắt sít sao. Người ấy nghĩ: "Những con cá lớn ở trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây". Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào, luận bàn về quá khứ tối sơ, hay luận bàn về tương lai, hay luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác, tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.
Này các Tỷ-kheo, như nhánh có một chùm xoài bị chặt đứt, tất cả trái xoài dính với nhánh ấy đều bị chung một số phận với nhánh kia. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, thân của Như Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này còn tồn tại thời chư Thiên và loài Người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung thời chư Thiên và loài Người không thể thấy được.
- Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Pháp môn này gọi là gì, bạch Thế Tôn?
- Này Ànanda, pháp môn này gọi là "Lợi Võng", hãy như vậy mà phụng trì; gọi là "Pháp Võng", hãy như vậy mà phụng trì; gọi là "Phạm Võng", hãy như vậy mà phụng trì; gọi là "Kiếm Võng", hãy như vậy mà phụng trị; gọi là "Vô thượng Chiến thắng", hãy như vậy mà phụng trì;
Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rung động.
MỤC LỤC TIỂU BỘ KINH
GIỚI THIỆU KINH TIỂU BỘ | |
Tập I – Kinh Tiểu Tụng | |
1. Tam Quy | 6. Kinh Châu Báu |
2. Thập Giới | 7. Kinh Ngoài Bức Tường |
3. Ba Mươi Hai Phần | 8. Kinh Bảo Tàng |
4. Nam Tử Hỏi Ðạo | 9. Kinh Lòng Từ |
5. Kinh Ðiềm Lành |
TẬP 2 – KINH PHÁP CÚ | |
1. Phẩm Song Yếu | 14. Phẩm Phật Ðà |
2. Phẩm Không Phóng Dật | 15. Phẩm An Lạc |
3. Phẩm Tâm | 16. Phẩm Hỷ Ái |
4. Phẩm Hoa | 17. Phẩm Phẫn Nộ |
5. Phẩm Kẻ Ngu | 18. Phẩm Cấu Uế |
6. Phẩm Hiền Trí | 19. Phẩm Pháp Trụ |
7. Phẩm A-La-Hán | 20. Phẩm Ðạo |
8. Phẩm Ngàn | 21. Phẩm Tạp Lục |
9. Phẩm Ác | 22. Phẩm Ðịa Ngục |
10. Phẩm Hình Phạt | 23. Phẩm Voi |
11. Phẩm Già | 24. Phẩm Tham Ái |
12. Phẩm Tự Ngã | 25. Phẩm Tỷ Kheo |
13. Phẩm Thế Gian | 26. Phẩm Bà-La-Môn |
TẬP 4 – KINH PHẬT THUYẾT NHƯ VẬY | |
Chương 1: Tập Một Pháp | Chương 3: Tập Ba Pháp |
Chương 2: Tập Hai Pháp | Chương 4: Tập Bốn Pháp |
TẬP 5 – KINH TẬP | |
Chương Một – Phẩm Rắn (Uragavagga) | Chương Hai – Tiểu Phẩm |
1. Kinh Rắn | 1. Kinh Châu Báu |
2. Dhaniya | 2. Kinh Hôi Thối |
3. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng | 3. Kinh Xấu Hổ |
4. Kinh Kasibbàradvàja, Người Cày Ruộng | 4. Kinh Ðiềm Lành Lớn |
5. Kinh Cunda | 5. Kinh Sùciloma |
6. Kinh Bại Vong | 6. Kinh Hành Chánh Pháp |
7. Kinh Kẻ Bần Tiện | 7. Kinh Pháp Bà La Môn |
8. Kinh Từ Bi | 8. Kinh Chiếc Thuyền |
9. Kinh Hemavata | 9. Kinh Thế Nào Là Giới |
10. Kinh Alavaka | 10. Kinh Ðứng Dậy |
11. Kinh Kinh Thắng Trận | 11. Kinh Ràhula |
12. Kinh Vị ẩn sĩ | 12. Vangiụsa |
13. Kinh Chánh Xuất Gia | |
14. Kinh Dhammika | |
Chương Ba – Ðại Phẩm | Chương Bốn – Phẩm Tám |
1. Kinh Xuất Gia | 1. Kinh Về Dục |
2. Kinh Tinh Cần | 2. Kinh Hang Ðộng Tám Kệ |
3. Kinh Khéo Thuyết | 3. Kinh Sân Hận Tám Kệ |
4. Kinh Sundarika Bhàradvàja | 4. Kinh Thanh Tịnh Tám Kệ |
5. Kinh Màgha | 5. Kinh Tối Thắng Tám Kệ |
6. Kinh Sabhiya | 6. Kinh Gìa Tám Kệ |
7. Kinh Sela | 7. Kinh Tissametteyya |
8. Kinh Mũi Tên | 8. Kinh Pasùra |
9. Kinh Vàsettha | 9. Kinh Màgandiya |
10. Kinh Kokàliya | 10. Kinh Trước Khi Bị Hủy Hoại |
11. Kinh Nàlaka | 11. Kinh Tranh Luận |
12. Kinh Hai Pháp Tùy Quán | 12. Sự Tập Hợp Nhỏ Bé |
13. Những Vấn Ðề To Lớn | |
14. Kinh Tuvataka | |
15. Kinh Chấp Trượng | |
16. Kinh Sàriputta | |
Chương Năm – Trên Ðường Ðến Bờ Bên Kia | |
1. Bài Kệ Mở Ðầu | 10. Câu Hỏi Của Thanh Niên Todeyya |
2. Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita | 11. Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa |
3. Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya | 12. Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukanniụ |
4. Câu Hỏi Của Thanh Niên Punnaka | 13. Câu Hỏi Của ThanhNiên Bhadràvudha |
5. Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagù | 14. Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya |
6. Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka | 15. Câu Hỏi Của Thanh Niên Posàla |
7. Câu Hỏi Của Thanh Niên Upasiụva | 16. Câu Hỏi Của Thanh Niên Magharàja |
8. Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda | 17. Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya |
9. Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka | 18. Kết Luận |
TẬP 6 – THIÊN CUNG SỰ |
Phẩm I : Lâu Ðài Nữ Giới |
1. Lâu Ðài Có Sàng Toạ (Pìtha – Vimàna). |
Phẩm II – Cittalatà |
1. (18) Lâu Ðài Của Nữ Tỳ (Dàsi -Vimàna) |
Phẩm III – Pàricchattaka |
1. (29) Lâu Ðài Huy Hoàng (Ulàra -Vimàna) |
Phẩm IV – Ðỏ Sẫm |
1. (39) Lâu Ðài Ðỏ Sẫm (Manjetthaka -Vimàna) |
Phẩm V – Ðại Xa |
1. (51) Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta -Vimàna) |
Phẩm VI – Pàyasi |
1. (65) Lâu Ðài Gia Chủ (Agàriya -Vimàna) |
Phẩm VII – Sunikkhitta |
1. (75) Lâu Ðài Cittalatà (Cittalatà -Vimàna) |
TẬP 7 – NGẠ QUỶ SỰ |
Phẩm I – Phẩm Con Rắn |
1. Chuyện – Thí Dụ Phước Ðiền (Khettùpamà) 2. Chuyện – Con Lợn Rừng (Sùkara) 3. Chuyện Ngạ Quỷ Có Mồm Hôi Thối (Pùtimukkha) 4. Chuyện Hình Nhân Bằng Bột (Pitthadhìtalika) 5. Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta) 6. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Năm Ðứa Bé (Pàncaputtakhadaka) 7. Chuyện Ngạ Quỷ Ăn Thịt Bẩy Ðứa Bé (Sattaputtakhadaka) 8. Chuyện Con Bò (Gona) 9. Chuyện Ông Chủ Thợ Dệt (Mahàpesakàra) 10. Chuyện Nữ Nhân Sói Ðầu (Khallàtiya) 11. Chuyện Con Voi (Nàga) 12. Chuyện Con Rắn (Uraga) |
Phẩm II – Phẩm Ubbarì |
1. (13) Chuyện Người Tìm Giải Thát Vòng Luân Hồi (Samsàramocaka) 2. (14) Chuyện Mẹ Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu) 3. (15) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattà (Mattàpetì) 4. (16) Chuyện Nữ Ngã Quỷ Nandà (Nandàpetì) 5. (17) Chuyện Mattakundalì (Mattakundalì) 6. (18) Chuyện Ðại Vương Kanha (Kanha) 7. (19) Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta) 8. (20) Chuyện Tiểu Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi) 9. (21) Chuyện Ankura (Ankura) 10. (22) Chuyện Mẹ Của Uttara (Uttaramatù) 11. (23) Chuyện Cuốn Chỉ (Sutta) 12. (24) Chuyện Nữ Quỷ Ở Hồ Kannamunda (Kannamundapetì) 13. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarìi (Ubbarì) |
Phẩm III -Tiểu Phẩm |
1. (26) Chuyện Không Chìm Trong Nước (Abhijjamana) 2. (27) Chuyện Ngạ Quỷ Núi Sànuvàsin (Sànuvàsinpeta) 3. (28) Chuyện Nữ Quỷ Hồ Ràthakàrà (Ràthakàràpetì) 4. (29) Chuyện Rơm Trấu (Bhusa) 5. (30) Chuyện Chàng Trai (Kumàra) 6. (31) Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Serinì (Serinì) 7. (32) Chuyện Người Săn Nai (Migaludda) 8. (33) Chuyện Người Săn Nai Thứ Hai (Dutiyamigaludda) 9. (34) Chuyện Những Phán Quyết Gian Dối (Kùtavinicchayika) 10. (35) Chuyện Khinh Xá Lợi (Dhàtuvivanna) |
Phẩm IV – Ðại Phẩm |
1. (36) Chuyện Vua Ambasakkhara (Ambasakkhara) 2. (37) Chuyện Serìsaka (Serìsaka) 3. (38) Chuyện Quỷ Thần Nandaka (Nandakapeta) 4. (39) Chuyện Ngạ Quỷ Revatì 5. (40) Chuyện Cây Mía (Ucchu) 6. (41) Chuyện Các Vương Tử (Kumara) 7. (42) Chuyện Vị Vương Tử (Rajaputta) 8. (43) Chuyện Những Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka) 9. (44) Chuyện Thứ Hai Về Các Ngạ Quỷ Ăn Phân (Gùthakhadaka) 10. (45) Chuyện Bầy Ngạ Quỷ (Ganapeta) 11. (46) Chuyện Ngạ Quỷ Thành Pàtaliputta (Pataliputtapeta) 12. (47) Chuyện Các Trái Xoài (Amba) 13. (48) Chuyện Trục Xe và Cây Gỗ (Akkharukkha) 14. (49) Chuyện Thu Góp Tài Sản (Bhogasamharan) 15. (50) Chuyện Các Nam Tử Của Nhà Triệu Phú (Setthiputta) 16. (51) Chuyện Sáu Vạn Cái Búa (Satthikùtasahassa) |
TẬP 10 – CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT |
[01] PHẨM APANNAKA |
1. Chuyện Pháp Tối Thượng (Tiền Thân Apannaka) 2. Chuyện Bài Sa Mạc (Tiền Thân Vannupatha) 3. Chuyện Người Buôn Chè (Tiền Thân Serivànija) 4. Chuyện Tiểu Triệu Phú (Tiền Thân Cullakasetthì) 5. Chuyện Ðấu Gạo (Tiền Thân Tandulanàli) 6. Chuyện Thiên Pháp (Tiền Thân Devadhamma) 7. Chuyện Nàng Lượm Củi (Tiền Thân Katthahàri) 8. Chuyện Vua Gàmani (Tiền Thân Gàmani) 9. Chuyện Vua Makhàdeva (Tiền Thân Makhàdeva) 10. Chuyện Trưởng Lão Sukhavihàri (Tiền Thân Sukhavihàri) |
[02] PHẨM GIỚI |
11. Chuyện Con Nai Ðiểm Lành (Tiền Thân Lakkhana) 12. Chuyện Con Nai Cây Ða (Tiền Thân Nigrodhamiga) 13. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Kandina) 14. Chuyện Con Nai Gió (Tiền Thân Vàtamiga) 15. Chuyện Con Nai Kharàdiya (Tiền Thân Kharàdiya) 16. Chuyện Con Nai Có Ba Cử Chỉ (Tiền Thân Tipallthamiga) 17. Chuyện Gió Thổi (Tiền Thân Màluta) 18. Chuyện Ðồ Ăn Cúng Người Chết (Tiền Thân Matakabhatta) 19. Chuyện Lễ Cúng Do Có Lời (Tiền Thân Àyàcitabhatta) 20. Chuyện Hồ Nalakapàna (Tiền Thân Nalakapàna) |
[03] PHẨM KURUNGA |
21. Chuyện Con Nai Sơn Dương (Tiền Thân Kurunga) 22. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Kukkura) 23. Chuyện Con Ngựa Thuần Chủng (Tiền Thân Bhojaniya) 24. Chuyện Ðôi Ngựa Nòi Tốt (Tiền Thân Àjanna) 25. Chuyện Bến Tắm (Tiền Thân Tittha) 26. Chuyện Con Voi Ma Hilàmukha (Tiền Thân Mahilàmuka) 27. Chuyện Ðôi Bạn Thân Thiết (Tiền Thân Abhinha) 28. Chuyện Con Bò Ðại Hỷ (Tiền Thân Nandivisàla) 29. Chuyện Con Bò Ðen (Tiền Thân Kaniha) 30. Chuyện Con Heo Munika (Tiền Thân Munika) |
[04] PHẨM KULAVAKA |
31. Chuyện Tổ Chim Con (Tiền Thân Kulàvaka) 32. Chuyện Múa Ca (Tiền Thân Nacca) 33. Chuyện Sống Hoà Hợp (Tiền Thân Sammodamàna) 34. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha) 35. Chuyện Con Chim Cút (Tiền Thân Vattaka) 36. Chuyện Con Chim (Tiền Thân Sakuna) 37. Chuyện Con Chim Trĩ (Tiền Thân Tittira) 38. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Nanda) 39. Chuyện Người Nô Lệ Nanda (Tiền Thân Nanda) 40. Chuyện Hố Than Lửa Cây Keo (Tiền Thân Khadirangàra) |
[05] PHẨM LỢI ÁI |
41. Chuyện Trưởng Lão Losaka (Tiền Thân Losaka) 42. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota) 43. Chuyện Con Rắn Tre (Tiền Thân Veluka) 44. Chuyện Con Muỗi (Tiền Thân Makasa) 45. Chuyện Nữ Tỳ Rohini (Tiền Thân Rohini) 46. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Ràmadùsaka) 47. Chuyện Rượu Mạnh (Tiền Thân Vàruni) 48. Chuyện Bà-La-Môn Vedabbha (Tiền Thân Vedabbha) 49. Chuyện Các Vì Sao (Tiền Thân Nakkhatta) 50. Chuyện Những Kẻ Vô Trí (Tiền Thân Dummedha) |
[06] PHẨM ÀSIMSA |
51. Chuyên Vua Ðại Giới Ðức (Tiền Thân Màhàsìlavà) 52. Chuyện Tiểu Janaka (Tiền Thân Cùla-Janaka) 53. Chuyện Bình Rượu Ðầy (Tiền Thân Punnapàti) 54. Chuyện Trái Cây (Tiền Thân Phala) 55. Chuyện Năm Vũ Khí (Tiền Thân Pancàyudha) 56. Chuyện Khối Vàng (Tiền Thân Kancanakkhandha) 57. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Vànarinda) 58. Chuyện Ba Pháp (Tiền Thân Tayodhammà) 59. Chuyện Tiếng Trống (Tiền Thân Bherivàda) 60. Chuyện Thổi Tù Và (Tiền Thân Sankkhadhama) |
[07] PHẨM NỮ NHÂN |
61. Chuyện Bài Kinh Khổ Ðau (Tiền Thân Asàtamanta) 62. Chuyện Cô Gái Trên Bảy Tầng Lầu (Tiền Thân Andabhuta) 63. Chuyện Hiền Sĩ Chà Là (Tiền Thân Takka) 64. Chuyện Người Vợ Khó Hiểu (Tiền Thân Duràjàna) 65. Chuyện Nỗi Bất Mãn (Tiền Thân Anabhirati) 66. Chuyện Hoàng Hậu Từ Tâm (Tiền Thân Mudulakkhana) 67. Chuyện Người Ðàn Bà Thôn Quê (Tiền Thân Ucchanga) 68. Chuyện Thành Saketa (Tiền Thân Saketa) 69. Chuyện Con Rắn Phun Nọc Ðộc (Tiền Thân Visavanta) 70. Chuyện Hiền Giả Cái Cuốc (Tiền Thân Kuddàla) |
[08] PHẨM VARANA |
71.Chuyện Cây Varana (Tiền Thân Varana) 72. Chuyện Tượng Vương Ðức Hạnh (Tiền Thân Silavanàga) 73. Chuyện Ðúng Vậy Chăng (Tiền Thân Saccankira) 74. Chuyện Luật Cây Rừng (Tiền Thân Rukkhadhamma) 75. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha) 76. Chuyện Người Không Sợ Hãi (Tiền Thân Asankiya) 77. Chuyện Giấc Mộng Lớn (Tiền Thân Mahàsupina). 78. Chuyện Vị Triệu Phú Illìsa (Tiền Thân Illìsa) 79. Chuyện Tiếng Trống Ồn Ào. (Tiền Thân Kharasara). 80. Chuyện Người Thợ Dệt Bhimasena (Tiền Thân Bhimasena) |
[09] PHẨM APAYIMHA |
81. Chuyện Uống Rượu (Tiền Thân Suràpàna) 82. Chuyện Nam Tử Mittavida (Tiền Thân Mittavinda) 83. Chuyện Ðiềm Xui Xẻo (Tiền Thân Kàlakanni) 84. Chuyện Cửa Ngõ Hạnh Phúc (Tiền Thân Atthassadvàra) 85. Chuyện Cây Có Trái Lạ (Tiền Thân Kimpakka) 86. Chuyện Thử Thách Giới Ðức (Tiền Thân Sìlavìmamsana) 87. Chuyện Ðiềm Lành Dữ (Tiền Thân Mangala) 88. Chuyện Con Bò Sàrambha (Tiền Thân Sàrambha) 89. Chuyện Kẻ Lừa Ðảo (Tiền Thân Kuhaka) 90. Chuyện Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Akatannu) |
[10] PHẨM LITTA |
91. Chuyện Chơi Súc Sắc Ngộ Ðộc (Tiền Thân Litta) 92. Chuyện Ðại Ðảo Vật (Tiền Thân Mahàsàra) 93. Chuyện Ngộ Ðộc Do Luyến Ái (Tiền Thân Vissàsabhojana) 94. Chuyện Nỗi Kinh Hoàng (Tiền Thân Lomahamsa) 95. Chuyện Vua Ðại Thiện Kiến (Tiền Thân Mahàsudassana) 96. Chuyện Bát Dầu (Tiền Thân Telapatta) 97. Chuyện Ðiềm Lành Của Tên (Tiền Thân Nàmasiddhi) 98. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Ðảo (Tiền Thân Kùtavànija) 99. Chuyện Hơn Một Ngàn Kẻ Ngu. (Tiền Thân Parosahassa) 100. Chuyện Sắc Thân Bất Lạc (Tiền Thân Asàtarùpa) |
[11] PHẨM PAROSSATA |
101. Chuyện Hơn Một Trăm Kẻ Ngu (Tiền Thân Parosafa) 102. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Pannika). 103. Chuyện Kẻ Ngu. (Tiền Thân Veri) 104. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavida). 105. Chuyện Con Voi Sợ Chết (Tiền Thân Dubblakattha) 106. Chuyện Múc Nu&Ớc (Tiền Thân Udancani) 107. Chuyện Nghề Ném Ðá (Tiền Thân Sàlittaka) 108. Chuyện Kỳ Lạ (Tiền Thân Bàhiya) 109. Chuyện Bánh Bột Trấu Ðỏ (Tiền Thân Kundakapùva) 110. Chuyện Câu Hỏi Bao Quát Tất Cả (Tiền Thân Sabbasanhàraka-Panha) |
[12] PHẨM HAMSA |
111. Chuyện Câu Hỏi Của Con Lừa (Tiền Thân Gadrabha-Panha). 112. Chuyện Câu Hỏi Của Hoàng Hậu Bất Tử (Tiền Thân Amaràdevi-Panha) 113. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla) 114. Chuyện Con Cá Nghĩ Vừa (Tiền Thân Mitacinti) 115. Chuyện Người Giáo Giới (Tiền Thân Anusàsika) 116. Chuyện Người Múa Giáo (Tiền Thân Dubbaca) 117. Chuyện Chim Ða Ða (Tiền Thân Tittira) 118. Chuyện Chim Cun Cút (Tiền Thân Vattaka) 119. Chuyện Con Gà Gáy Phi Thời (Tiền Thân Akàlaràvi) 120. Chuyện Giải Thoát Sự Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanamokkha). |
[13] PHẨM KUSANÀLI |
121. Chuyện Thần Cây Cỏ Kusa (Tiền Thân Kusanàli) 122. Chuyện Kẻ Ngu (Tiền Thân Dummendha) 123. Chuyện Cái Cán Cày (Tiền Thân Nangalisa) 124. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân Amba) 125. Chuyện Người Nô Lệ Katàhaka (Tiền Thân Katàhaka) 126. Chuyện Tướng Của Kiếm (Tiền Thân Asilakkhana) 127. Chuyện Người Nô Lệ Kalanduka (Tiền Thân Kalanduka) 128. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Bilàra) 129. Chuyện Kẻ Thờ Lửa (Tiền Thân Aggika) 130. Chuyện Nữ Bà-La-Môn Kosiya (Tiền Thân Kosiya) |
[14] PHẨM ASAMPADÀNA |
131. Chuyển Kẻ Vong Ân (Tiền Thân Asampadàna) 132. Chuyện Ngũ Dục Lạc (Tiền Thân Pancagaru) 133. Chuyện Lửa Cháy (Tiền Thân Ghatàsana) 134. Chuyện Thiền Quán (Tiền Thân Thànasodhana) 135. Chuyện Nguyệt Quang (Tiền Thân Candàbha) 136. Chuyện Con Thiên Nga Vàng (Tiền Thân Suvannahamsa) 137. Chuyện Con Mèo (Tiền Thân Babbu) 138. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha) 139. Chuyện Cả Hai Mặt Thất Bại (Tiền Thân Ubhatobhattha) 140. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka) |
[15] PHẨM KAKANTAKA |
141. Chuyện Con Cắc Kè (Tiền Thân Godha) 142. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàla) 143. Chuyện Chiếu Sáng Như Mặt Trời (Tiền Thân Virocana) 144. Chuyện Cái Đuôi Bò (Tiền Thân Nanguttha) 145. Chuyện Con Vẹt Radha (Tiền Thân Radha) 146. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kaka) 147. Chuyện Áo Vải Màu Đỏ (Tiền Thân Puppharatta) 148. Chuyện Con Chó Rừng (Tiền Thân Sigàlà) 149. Chuyện Cây Một Lá (Tiền Thân Ekapanna) 150. Chuyện Thanh Niên Sanjiva (Tiền Thân Sanjiva) |
[01] PHẨM DALHA |
151. Chuyện Lời Giáo Giới Cho Vua (Tiền Thân Ràjovàda) 152. Chuyện Con Cho Rừng (Tiền Thân Sigàla) 153. Chuyện Con Heo Rừng (Tiền Thân Sùkara) 154. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga) 155. Chuyện Nhảy Mũi (Tiền Thân Gagga) 156. Chuyện Hoàng Tử Có Tâm Thâu Phục (Tiền Thân Alìnacitta) 157. Chuyện Công Đức (Tiền Thân Guna) 158. Chuyện Con Ngựa Suhanu (Tiền Thân Suhanu) 159. Chuyện Con Công (Tiền Thân Mora) 160. Chuyện Con Ngỗng Xanh Sẫm (Tiền Thân Vinìlaka) |
[02] PHẨM SANTAHAVA |
161. Chuyện Ẩn Sĩ Indasamànagotta (Tiền Thân Indasamànagotta) 162. Chuyện Mối Thâm Giao (Tiền Thân Santhava) 163. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma) 164. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Gijjha) 165. Chuyện Con Chuột Rừng (Tiền Thân Nakula) 166. Chuyện Bà-La-Môn Upasàlha (Tiền Thân Upasàlha) 167. Chuyện Trưởng Lão Samiddhi (Tiền Thân Samiddhi) 168. Chuyện Chim Diều Hâu (Tiền Thân Sakunagghi) 169. Chuyện Đạo Sư Araka (Tiền Thân Araka) 170. Chuyện Con Kỳ Nhông (Tiền Thân Kakantaka) |
[03] PHẨM THIỆN PHÁP |
171. Chuyện Thiện Pháp (Tiền Thân Kalyàna Dhamma) 172. Chuyện Núi Daddara (Tiền Thân Daddara) 173. Chuyện Con Vượn (Tiền Thân Makkata) 174. Chuyện Con Vượn Lừa Dối (Tiền Thân Dubhidamakkata) 175. Chuyện Đảnh Lễ Mặt Trời (Tiền Thân Àdiccupatthàma) 176. Chuyện Một Nắm Đậu (Tiền Thân Kalàya – Mutthi) 177. Chuyện Cây Tinduka (Tiền Thân Tinduka) 178. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa) 179. Chuyện Bà-La-Môn Satadhamma (Tiền Thân Satadhamma) 180. Chuyện Khó Cho (Tiền Thân Duddada) |
[04] PHẨM ASADISA |
181. Chuyện Hoàng Tử Vô Địch (Tiền Thân Asadisa) 182. Chuyện Con Voi Thiện Chiến (Tiền Thân Sangàmàvacara) 183. Chuyện Đồ Tàn Thực (Tiền Thân Vàlodakka) 184. Chuyện Người Luyện Ngựa Giridanta (Tiền Thân Giridanta) 185. Chuyện Tâm Bất Tịnh (Tiền Thân Anabhirati) 186. Chuyện Vua Mang Sữa Đông (Tiền Thân Dadhivàhana) 187. Chuyện Bốn Vẻ Đẹp (Tiền Thân Cantumatta) 188. Chuyện Sư Tử Lai Chó Rừng (Tiền Thân Sìhakottuka) 189. Chuyện Tấm Da Sư Tử (Tiền Thân Sìhacamma) 190. Chuyện Giữ Giới (Tiền Thân Sìlànisamsa) |
[05] PHẨM RUHAKA |
191. Chuyện Tế Sư Ruhaka (Tiền Thân Ruhaka) 192. Chuyện Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Sirikàlakanni) 193. Chuyện Hoàng Tử Liên-Hoa (Tiền Thân Cullapaduma) 194. Chuyện Kẻ Trộm Ngọc (Tiền Thân Manicora) 195. Chuyện Hòn Núi Đẹp (Tiền Thân Pabbatupatthara) 196. Chuyện Con Ngựa Bay (Tiền Thân Valàhassa) 197. Chuyện Bạn – Thù (Tiền Thân Mittàmitta) 198. Chuyện Con Vẹt Ràdha (Tiền Thân Ràdha) 199. Chuyện Người Gia Chủ (Tiền Thân Gahapati) 200. Chuyện Giới Hạnh Tốt Lành (Tiền Thân Sàdhusìla) |
[06] PHẨM NATAMDAIHA |
201. Chuyện Nhà Tù Trói Buộc (Tiền Thân Bandhanàgara) 202. Chuyện Tánh Nghịch Ngợm (Tiền Thân Kilisìla) 203. Chuyện Tu Tập Từ Tâm (Tiền Thân Khandha -Vatta) 204. Chuyện Con Quạ Viraka (Tiền Thân Viraka) 205. Chuyện Cá Sông Hằng (Tiền Thân Gangeyya) 206. Chuyện Con Nai Núi (Tiền Thân Kurungamiga) 207. Chuyện Vua Assaka (Tiền Thân Assaka) 208. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Sumsumara) 209. Chuyện Con Chim Mồi (Tiền Thân Kakkara) 210. Chuyện Con Chim Gõ Mõ (Tiền Thân Kandagalaka) |
[07] PHẨM BIRANATTHAMBAHAKA (Ðám cỏ thơm) |
211. Chuyện Chàng Trai Somadatta (Tiền Thân Somadatta) 212. Chuyện Thức Ăn Thừa (Tiền Thân Uchitthabhatta) 213. Chuyện Vua Bharu (Tiền Thân Bharu) 214. Chuyện Con Sông Đầy (Tiền Thân Punna-Nadi) 215. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kachapa) 216. Chuyện Con Cá (Tiền Thân Maccha) 217. Chuyện Người Bán Rau (Tiền Thân Seggu) 218. Chuyện Người Lái Buôn Lừa Đảo (Tiền Thân Kùtavànija) 219. Chuyện Đáng Chỉ Trích (Tiền Thân Garahita) 220. Chuyện Tế Sư Dhammadhaja (Tiền Thân Dhammaddhaja) |
[08] PHẨM KÀSÀVA |
221. Chuyện Tấm Y Vàng (Tiền Thân Kàsàva) 222. Chuyện Con Khỉ Cùllanandiya (Tiền Thân Cùllanandiya) 223. Chuyện Thức Ăn Đi Đường (Tiền Thân Puta-Bhatta) 224. Chuyện Con Cá Sấu (Tiền Thân Kumbhila) 225. Chuyện Đề Cao Tính Kham Nhẫn (Tiền Thân Khanti-Vannana) 226. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Kosiya) 227. Chuyện Con Bọ Ăn Phân (Tiền Thân Gùthapàna) 228. Chuyện Bà-La-Môn Kàmanita (Tiền Thân Kàmanita) 229. Chuyện Du Sĩ Palàyi (Tiền Thân Palàyi) 230. Chuyện Du Sĩ Palàyi Thứ Hai (Tiền Thân Palàyi) |
[09] PHẨM UPÀHANA |
231. Chuyện Chiếc Giày (Tiền Thân Upàhana) 232. Chuyện Không Được Hướng Dẫn (Tiền Thân Vinàthùna) 233. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Vikannaka) 234. Chuyện Nàng Asitàbhù (Tiền Thân Asitàbhù) 235. Chuyện Vị Ẩn Sĩ Vaccha-Nakha (Tiền Thân Vaccha-Nakha) 236. Chuyện Con Cò (Tiền Thân Baka) 237. Chuyện Thành Sàketa (Tiền Thân Sàketa) 238. Chuyện Một Chữ (Tiền Thân Ekapada) 239. Chuyện Con Nhái Xanh (Tiền Thân Harita-Màta) 240. Chuyện Vua Mahàpingala (Tiền Thân Mahàpingala) |
[10] PHẨM SIGÀLA(Chó rừng) |
241. Chuyện Vua Chó Rừng Sabbadàtha (Tiền Thân Sabbadàtha) 242. Chuyện Con Chó (Tiền Thân Sunakha) 243. Chuyện Nhạc Sĩ Guttila (Tiền Thân Guttila) 244. Chuyện Ly Dục (Tiền Thân Viticcha) 245. Chuyện Kinh Pháp Môn Căn Bản (Tiền Thân Mùlapariyàya) 246. Chuyện Lời Phỉ Báng (Tiền Thân Telovàda) 247. Chuyện Hoàng Tử Pàdanjali (Tiền Thân Pàdanjali) 248. Chuyện Thí Dụ Cây Kimsuka (Tiền Thân Kimsukopama) 249. Chuyện Con Khỉ Sàlaka (Tiền Thân Sàlaka) 250. Chuyện Con Khỉ (Tiền Thân Kapi) |
PHẦN 3 – CHƯƠNG III, CHƯƠNG IV
[01] Chương III – Phẩm Sankappa |
251. Chuyện Dục Tầm (Tiền Thân Sankappa) 252. Chuyện Một Nắm Mè (Tiền Thân Tilamutthi) 253. Chuyện Vua Rắn Manikantha (Tiền Thân Manikantha) 254. Chuyện Con Ngựa Quý Ăn Cám Gạo Đỏ (Tiền Thân Kundaka-Kucchi-Sindhava) 255. Chuyện Con Vẹt (Tiền Thân Suka) 256. Chuyện Cái Giếng Cũ (Tiền Thân Jarudapàna) 257. Chuyện Người Hầu Cận Gàmani-Canda (Tiền Thân Gàmani-Canda) 258. Chuyện Đại Vương Mandahàtà (Tiền Thân Mandahàtà) 259. Chuyện Ẩn Sĩ Tirìta-Vaccha (Tiền Thân Tirìta-Vaccha) 260. Chuyện Sứ Giả Của Cái Bụng (Tiền Thân Duta) |
[02] Chương III – Phẩm Kosya |
261. Chuyện Hoa Sen (Tiền Thân Paduma) 262. Chuyện Bàn Tay Mềm Mại (Tiền Thân Mudupàni) 263. Chuyện Tiểu Dục Tham (Tiền Thân Culla-Palobhana) |
[03] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ |
264. Chuyện Đại Vương Panàda (Tiền Thân Mahà Panàda) 265. Chuyện Mũi Tên (Tiền Thân Khurappa) 266. Chuyện Con Ngựa Quí Tốc Như Phong (Tiền Thân Vàtagga Sindhava) 267. Chuyện Con Cua (Tiền Thân Kakkatà) 268. Chuyện Kẻ Làm Hại Vườn (Tiền Thân Àràma Dùsa) 269. Chuyện Nàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta) 270. Chuyện Con Cú (Tiền Thân Ulùka) 271. Chuyện Kẻ Làm Bẩn Giếng Nước (Tiền Thân Udapàna Dùsaka) 272. Chuyện Con Cọp (Tiền Thân Vyaggha) 273. Chuyện Con Rùa (Tiền Thân Kacchapa) |
[04] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt) |
274. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola) 275. Chuyện Tham Ăn (Tiền Thân Lola) 276. Chuyện Chánh Pháp Nước Kuru (Tiền Thân Kurrudhamma) 277. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Romaka) 278. Chuyện Con Trâu (Tiền Thân Mahisa) 279. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Satapatta) 280. Chuyện Kẻ Phá Hư Giỏ (Tiền Thân Puta-Dùsaka) 281. Chuyện Trái Xoài Chính Trung (Tiền Thân Abbhantara) 282. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền Thân Seyya) 283. Chuyện Con Heo Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Vaddaki-Sùkura) 284. Chuyện Vận May (Tiền Thân Siri) 285. Chuyện Heo Rừng Trong Hang Thủy Tinh (Tiền Thân Manisùkura) |
[05] Chương III – Phẩm Ba Bài Kệ (tt) |
286. Chuyện Con Heo Liên Căn (Tiền Thân Sàlùka) 287. Chuyện Chê Bai Lợi Nhuận (Tiền Thân Làbha Garaha) 288. Chuyện Xâu Cá (Tiền Thân Macch-Uddàna) 289. Chuyện Mong Ước Khác Nhau (Tiền Thân Nàna-Chanda) 290. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Vìnansa) 291. Chuyện Cái Bát Thần (Tiền Thân Bhadra Ghata) 292. Chuyện Vua Quạ Supatta (Tiền Thân Supatta) 293. Chuyện Thân Hư Hoại (Tiền Thân Kàya-Vicchinda) 294. Chuyện Con Chim Ăn Trái Đào (Tiền Thân Jambu-Khàdaka) 295. Chuyện Loài Hạ Liệt (Tiền Thân Anta) 296. Chuyện Biển Cả (Tiền Thân Samudda) 297. Chuyện Dục Tình Nhảm Nhí (Tiền Thân Kàma-Vìpala) 298. Chuyện Trái Sung (Tiền Thân Udumbara) 299. Chuyện Ẩn Sĩ Komàya-Putta (Tiền Thân Komàya) 300. Chuyện Chó Sói (Tiền Thân Vaka) |
[06] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ |
301. Chuyện Tiểu Vương Kàlinga (Tiền Thân Cullakàlinga) 302. Chuyện Đại Kỵ Sĩ (Tiền Thân Maha-Asàroha) 303. Chuyện Vị Thánh Vương (Tiền Thân Ekaràja) 304. Chuyện Rắn Thần Daddara (Tiền Thân Daddara) 305. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Sìlavìmamasana) 306. Chuyện Hoàng Hậu Sujàta (Tiền Thân Sujàta) 307. Chuyện Thân Cây Hồng Diệp (Tiền Thân Palàsa) 308. Chuyện Chim Gõ Kiến (Tiền Thân Javasakuna) 309. Chuyện Người Tiện Dân (Tiền Thân Chavaka) |
[07] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt) |
310. Chuyện Vị Quốc Sư Sayha (Tiền Thân Sayha) 311. Chuyện Cây Nimbo (Tiền Thân Pacimanda) 312. Chuyện Ẩn Sĩ Kassapa Chậm Trễ (Tiền Thân Kassapamandiya) 313. Chuyện Đạo Lý Kham Nhẫn (Tiền Thân Khantivàdi) 314. Chuyện Địa Ngục Nồi Sắt (Tiền Thân Lohakumbhi) 315. Chuyện Miếng Thịt (Tiền Thân Mamsa) 316. Chuyện Con Thỏ (Tiền Thân Sasa) 317. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Mataradana) |
[08] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt) |
318. Chuyện Vòng Hoa Kanavera (Tiền Thân Kanavera) 319. Chuyện Chim Đa Đa (Tiền Thân Tittira) 320. Chuyện Dễ Cho (Tiền Thân Succaja) 321. Chuyện Kẻ Đốt Lều (Tiền Thân Kutidùsaha) 322. Chuyện Tiếng Động Mạnh (Tiền Thân Daddabha) 323. Chuyện Vua Brahmadatta (Tiền Thân Brahmadatta) 324. Chuyện Thầy Tu Mặc Áo Da (Tiền Thân Cammasàtaka) 325. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha) |
[09] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt) |
326. Chuyện Thiên Hoa Kakkàru (Tiền Thân Kakkàru) 327. Chuyện Hoàng Hậu Kàkàti (Tiền Thân Kàkàti) 328. Chuyện Khóc Người Chết (Tiền Thân Ananusociya) 329. Chuyện Con Khỉ Đen Lớn (Tiền Thân Kalabahu) 330. Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền Thân Silavìmamsa) 331. Chuyện Trưởng Lão Kokàlika (Tiền Thân Kokàlika) 332. Chuyện Chiếc Gậy Thúc Xe (Tiền Thân Rathalatthi) 333. Chuyện Con Tắc Kè (Tiền Thân Godha) 334. Chuyện Khuyến Dụ Quốc Vương (Tiền Thân Ràjovàda) 335. Chuyện Chó Rừng (Tiền Thân Jambuka) 336. Chuyện Vương Tử Chatta Vĩ Đại (Tiền Thân Brahàchatta) 337. Chuyện Cái Sàng Tọa (Tiền Thân Pitha) |
[10] Chương IV – Phẩm Bốn Bài Kệ (tt) |
338. Chuyện Vỏ Trấu (Tiền Thân Thusa) 339. Chuyện Xứ Baveru (Tiền Thân Bàveru) 340. Chuyện Trưởng Giả Visayha (Tiền Thân Visayha) 341. Chuyện Vua Kandari (Tiền Thân Kandari) 342. Chuyệcn Con Khỉ (Tiền Thân Vànara) 343. Chuyện Con Hạc (Tiền Thân Kuntani) 344. Chuyện Người Ăn Trộm Xoài (Tiền Thân Ambacora) 345. Chuyện Con Rùa Lười Biếng (Tiền Thân Gajakumbha) 346. Chuyện Đạo Sĩ Kesava (Tiền Thân Kesava) 347. Chuyện Cái Chày Sắt (Tiền Thân Ayakùta) 348. Chuyện Chốn Rừng Hoang (Tiền Thân Aranna) 349. Chuyện Lời Gièm Pha (Tiền Thân Sandhibheda) 350. Chuyện Vấn Đề Của Chư Thiên (Tiền Thân Devatàpanhà) |
PHẦN 4 – CHƯƠNG V đến CHƯƠNG XXII
[01] Chương V – Phẩm Năm Bài Kệ |
351. Chuyện Vòng Tai Bằng Ngọc (Tiền Thân Manikundala) 352. Chuyện Chàng Sujàta (Tiền Thân Sujàta) 353. Chuyện Cành Cây Thanh Tịnh (Tiền Thân Dhonasàkha) 354. Chuyện Con Rắn (Tiền Thân Uraga) 355. Chuyện Vương Tử Ghata (Tiền Thân Ghata) 356. Chuyệnn Nam Tử Kàrandiya (Tiền Thân Kàrandiya) 357. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Latukikà) 358. Chuyện Tiểu Vương Tử Hộ Pháp (Tiền Thân Culladhammapàla) 359. Chuyện Con Nai Vàng (Tiền Thân Suvannamiga) 360. Chuyện Hoàng Hậu Sussondi (Tiền Thân Sussondi) 361. Chuyện Sắc Đẹp (Tiền Thân Vannàroha) 362. Chuyện Thử Nghiệm Đức Hạnh (Tiền Thân Sìlavimamsa) 363. Chuyện Hổ Thẹn (Tiền Thân Hiri) 364. Chuyện Con Đom Đóm (Tiền Thân Khajjopanaka) 365. Chuyện Người Luyện Rắn (Tiền Thân Ahigundika) 366. Chuyện Con Quỷ Gumbiya (Tiền Thân Gumbiya) 367. Chuyện Vị Y Sĩ Già (Tiền Thân Sàliya) 368. Chuyện Dây Trói Buộc (Tiền Thân Tacasàra) 369. Chuyện Chàng Trai Mittavinda (Tiền Thân Mittavinda) 370. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Palàsa) 371. Chuyện Hoàng Tử Kosala (Tiền Thân Dighiti Kosala) |
[02] Chương VI – Phẩm Sáu Bài Kệ |
372. Chuyện Hai Chú Nai Con (Tiền Thân Migapotaka) 373. Chuyện Con Chuột (Tiền Thân Mùsika) 374. Chuyện Chàng Tiểu Xạ Thủ (Tiền Thân Culladhanuggaha) 375. Chuyện Chim Bồ Câu (Tiền Thân Kapota) 376. Chuyện Người Lái Đò (Tiền Thân Avàriya) 377. Chuyện Bà-La-Môn Setakeku (Tiền Thân Setakeku) 378. Chuyện Bà-La-Môn Darìmukha (Tiền Thân Darìmukha) 379. Chuyện Núi Neru (Tiền Thân Neru) 380. Chuyện Thiên Nữ Ásankà (Tiền Thân Asankà) 381. Chuyện Chim Thứu Migàlopa (Tiền Thân Migàlopa) 382. Chuyện Hai Thiên Nữ Siri Và Kàlakanni (Tiền Thân Siri Và Kàlakanni) 383. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukkuta) 384. Chuyện Pháp Ấn (Tiền Thân Dhammaddhaja) 385. Chuyện Lộc Vương Hoan Hỷ (Tiền Thân Nandiyamiga) 386. Chuyện Con Lừa (Tiền Thân Kharaputta) 387. Chuyện Cây Kim (Tiền Thân Suci) 388. Chuyện Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila) 389. Chuyện Con Cua Vàng (Tiền Thân Suvannakakkata) 390. Chuyện Chim Mayhaka (Tiền Thân Mayhaka) 391. Chuyện Vị Tà Thuật Sư (Tiền Thân Dhajavihettha) 392. Chuyện Củ Hoa Sen (Tiền Thân Bhisapupha) 393. Chuyện Món Tàn Thực (Tiền Thân Vighàsa) 394. Chuyện Chim Cút (Tiền Thân Vattaka) 395. Chuyện Con Quạ (Tiền Thân Kàka) |
[03] Chương VII – Phẩm Bảy Bài Kệ |
396. Chuyện Ác Hạnh (Tiền Thân Kukku) 397. Chuyện Sư Tử Mannoja (Tiền Thân Manoja) 398. Chuyện Hiếu Tử Sutana (Tiền Thân Sutana) 399. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha) 400. Chuyện Hoa Cỏ Kusa (Tiền Thân Dabbhapuppha) 401. Chuyện Người Nuốt Lưỡi Kiếm (Tiền Thân Dasannaka) 402. Chuyện Túi Da Đựng Bánh (Tiền Thân Sattnubhasta) 403. Chuyện Trí Giả Atthisena (Tiền Thân Atthisena) 404. Chuyện Hầu Vương (Tiền Thân Kapi) 405. Chuyện Phạm Thiên Baka (Tiền Thân Bakabrahma) 406. Chuyện Quốc Vương Gandhàra (Tiền Thân Gandhàra) 407. Chuyện Đại Hầu Vương (Tiền Thân Mahàkapi) 408. Chuyện Người Thợ Gốm (Tiền Thân Kumbhakàra) 409. Chuyện Vua Dalhadhamma (Tiền Thân Dalhadhamma) 410. Chuyện Con Voi Somadatta (Tiền Thân Somadatta) 411. Chuyện Vua Susìma (Tiền Thân Susìma) 412. Chuyện Thần Cây Bông Vải (Tiền Thân Kotisimbalì) 413. Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri (Tiền Thân Dhùmakàri) 414. Chuyện Người Tỉnh Thức (Tiền Thân Jàgara) 415. Chuyện Phần Cháo Cúng Dường (Tiền Thân Kummàsapinda) 416. Chuyện Cận Thần Parantapa (Tiền Thân Parantapa) |
[04] Chương VIII – Phẩm Tám Bài Kệ |
417. Chuyện Hiền Mẫu Kaccàni (Tiền Thân Kaccàni) 418. Chuyện Tám Tiếng Kêu (Tiền Thân Attasadda) 419. Chuyện Kiều Nữ Sulasà (Tiền Thân Sulasà) 420. Chuyện Người Giữ Ngự Viên Sumangala (Tiền Thân Sumangala) 421. Chuyện Người Hớt Tóc Gangamàla (Tiền Thân Gangamàla) 422. Chuyện Quốc Vương Ceti (Tiền Thân Cetiya) 423. Chuyện Uy Lực Dục Tham (Tiền Thân Indriya) 424. Chuyện Ngọn Lửa Đốt Cháy (Tiền Thân Àditta) 425. Chuyện Những Sự Kiện Không Thể Xảy Ra (Tiền Thân Atthàna) 426. Chuyện Con Báo (Tiền Thân Dìpi) |
[05] Chương IX – Phẩm Chín Bài Kệ |
427. Chuyện Chim Thứu (Tiền Thân Gijiha) 428. Chuyện Giáo Hội Ở Kosambi (Tiền Thân Kosambì) 429. Chuyện Ðại Anh Vũ (Tiền Thân Mahàsuka) 430. Chuyện Tiểu Anh Vũ (Tiền Thân Cullasuka) 431. Chuyện Nam Tử Hàrita (Tiền Thân Hàrita) 432. Chuyện Cậu Bé Có Tài Nhận Dấu Chân (Tiền Thân Padakusalamànava) 433. Chuyện Vị Khổ Hạnh Ca-Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền Thân Lomasa Kassapa) 434. Chuyện Chim Hồng Nga (Tiền Thân Cakkavàka) 435 Chuyện Ước Mơ Chóng Phai Tàn (Tiền Thân Haliddiràga) 436. Chuyện Cái Hộp (Tiền Thân Samugga) 437. Chuyện Chó Rừng Pùtinumsa (Tiền Thân Pùtimamsa) 438. Chuyện Con Gà Gô (Tiền Thân Tittita) |
[06] Chương X – Phầm Mười Bài Kệ |
439. Chuyện Bốn Cổng Thành (Tiền Thân Catu-Dvàra) 440. Chuyện Hắc Hiền Giả (Tiền Thân Kanha) 441. Chuyện Bốn Vị Giữ Trai Giới (Tiền Thân Catu-Posathika) 442. Chuyện Bà-La-Môn Sankha (Tiền Thân Sankha) 443. Chuyện Trí Giả Tiểu Bồ Đề (Tiền Thân Culla-Bodhi) 444. Chuyện Hắc Nhân Dìpàyana (Tiền Thân Kanhadìpàyana) 445. Chuyện Vua Ða (Tiền Thân Nigrodha) 446. Chuyện Cây Hành (Tiền Thân Takkala) 447. Chuyện Đại Nhân Hộ Pháp (Tiền Thân Mahà Dhamma-Pàla) 448. Chuyện Kê Vương (Tiền Thân Kukuta) 449. Chuyện Nam Tử Đeo Vòng Tai (Tiền Thân Matta-Kundali) 450. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Bilàri-Kosiya) 451. Chuyện Hồng Nga (Tiền Thân Cakka-Vàka) 452. Chuyện Vấn Đề Trí Tuệ (Tiền Thân Bhùri-Panha) 453. Chuyện Điềm Lành Lớn (Tiền Thân Mahà-Mangala) 454. Chuyện Trí Giả Ghata (Tiền Thân Ghata) |
[07] Chương XI – Phẩm Mười Một Bài Kệ |
455. Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền Thân Màti-Posaka) 456. Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền Thân Junha) 457. Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền Thân Dhamma) 458. Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền Thân Udaya) 459. Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền Thân Pàniya) 460. Chuyện Thái Tử Yuvanjana (Tiền Thân Yuvanjana) 461. Chuyện Ðại Vương Dasaratha (Tiền Thân Dasaratha) 462. Chuyện Vương Tử Samvara (Tiền Thân Samvara) 463. Chuyện Trí Giả Suppàraka (Tiền Thân Suppàraka) |
[08] Chương XII – Phẩm Mười Hai Bài Kệ |
464. Chuyện Tiểu Vương Điểu Kùnala (Tiền Thân Culla-Kunàla) 465. Chuyện Sàla, Cổ Thụ Cát Tường (Tiền Thân Bhadda-Sàla) 466. Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả (Tiền Thân Samudda-Vànijà) 467. Chuyện Dục Tham (Tiền Thân Kàma) 468. Chuyện Ðại Vương Janasandha (Tiền Thân Janasandha) 469. Chuyện Ðại Hắc Thiên Cẩu (Tiền Thân Mahà-Kanha) 470. Chuyện Phú Ông Keo Kiệt (Tiền Thân Kosiya) 471. Chuyện Con Dê (Tiền Thân Mendaka) 472. Chuyện Vương Tử Liên Hoa (Tiền Thân Mahà-Paduma) 473. Chuyện Bạn-Thù (Tiền Thân Mittàmitta) |
PHẦN 5 – CHƯƠNG XIII đến CHƯƠNG XX
[01] Chương XIII – Phẩm Mười Ba Bài Kệ |
474. Chuyện Trái Xoài (Tiền Thân (Amba) 475. Chuyện Cây Hồng Phượng Vĩ (Tiền Thân Phandana) 476. Chuyện Chúa Thiên Nga Có Thần Tốc (Tiền Thân Javana-Hamsa) 477. Chuyện Tiểu Đạo Sĩ Nàrada (Tiền Thân Culla-Nàrada) 478. Chuyện Sứ Thần (Tiền Thân Dùta) 479. Chuyện Cây Bồ Đề Và Thánh Đế Kàlinga (Tiền Thân Kàlinga-Bodhi) 480. Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền Thân Akitta) 481. Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền Thân Takkàriya) 482. Chuyện Lộc Vương (Tiền Thân Ruru) 483. Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền Thân Sarabha-Miga) |
[02] Chương XIV – Tạp Phẩm |
484. Chuyện Cánh Đồng Lúa (Tiền Thân Sàlikedàra) 485. Chuyện Đôi Ca Thần Canda (Tiền Thân Canda Kinnara) 486. Chuyện Chúa Chim Ưng (Tiền Thân Màha Ukkusa) 487. Chuyện Nam Tử Uddàlaka (Tiền Thân Uddàlaka) 488. Chuyện Củ Sen (Tiền Thân Bhisa) 489. Chuyện Đại Vương Huy Hoàng (Tiền Thân Suruci) 490. Chuyện Nam Vi Hành Trì Trai Giới (Tiền Thân Pancùposatha) 491. Chuyện Ðại Khổng Tước (Tiền Thân Mahà-Mora) 492. Chuyện Lợn Rừng Của Thợ Mộc (Tiền Thân Taccha-Sùkara) 493. Chuyện Vị Đại Vương Nhân (Tiền Thân Mahà-Vànija) 494. Chuyện Đại Vương Sadhìna (Tiền Thân Sàdhìna) 495. Chuyện Mười Hạng Bà-La-Môn (Tiền Thân Dasa-Bràhmana) 496. Chuyện Cúng Thực Phẩm Đúng Cấp Bậc (Tiền Thân Bhikkhà-Parampara) |
[03] Chương XV – Phẩm Hai Mươi Bài Kệ |
497. Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga (Tiền Thân Màtanga) 498. Chuyện Đôi Bạn Citta-Sambhùta (Tiền Thân Citta-Sambhùta) 499. Chuyện Đại Vương Sivi (Tiền Thân Sivi) 500. Chuyện Thần Nữ Cát Tường (Tiền Thân Sirimanda) 501. Chuyện Lộc Vương Rohanta (Tiền Thân Rohanta Miga) 502. Chuyện Chúa Thiên Nga (Tiền Thân Hamsa) 503. Chuyện Anh Vũ Sattigumba (Tiền Thân Sattigumba) 504. Chuyện Ðại Vương Bhallàtiya (Tiền Thân Bhallàtiya) 505. Chuyện Vương Tử Hoan Lạc (Tiền Thân Somanassa) 506. Chuyện Long Vương Campeyya (Tiền Thân Campeyya) 507. Chuyện Sức Cám Dỗ Mạnh (Tiền Thân Mahà-Palobhana) 508. Chuyện Năm Vị Hiền Nhân (Tiền Thân Panca-Pandita) 509. Chuyện Hiền Giả Quản Tượng (Tiền Thân Hatthipàla) 510. Chuyện Vương Tử Trong Ngôi Nhà Sắt (Tiền Thân Ayoghara) |
[04] Chương XVI – Phẩm Ba Mươi Bài Kệ |
511. Chuyện Dục Tham Kỳ Dị (Tiền Thân Kimchanda) 512. Chuyện Bình Rượu (Tiền Thân Kumbha) 513. Chuyện Vương Tử Chiến Thắng (Tiền Thân Jayaddisa) 514. Chuyện Tượng Vương Ở Hồ Chaddanta (Tiền Thân Chaddanta) 515. Chuyện Nam Tử Sambhava (Tiền Thân Sambhava) 516. Chuyện Khỉ Chúa (Tiền Thân Mahàkapi) 517. Tiền Thân Dakarakkhasa 518. Chuyện Long Vương Pandara (Tiền Thân Pandara) 519. Chuyện Hoàng Hậu Sambulà (Tiền Thân Sambulà) 520. Chuyện Vị Thần Cây Tindu (Tiền Thân Gandatindu) |
[05] Chương XVII – Phẩm Bốn Mươi Bài Kệ |
521. Chuyện Ba Con Chim (Tiền Thân Tesakuna) 522. Chuyện Đại Nhân Thiện Xạ Sarabhanga(Tiền Thân Sarabhanga) 523. Thiên Nữ Alambusà (Tiền Thân Alambusà) 524. Chuyện Long Vương Samkhapàla (Tiền Thân Samkhapàla) 525. Chuyện Tiểu Sutasoma (Tiền Thân Sutasoma) |
[06] Chương XVIII – Phẩm Năm Mươi Bài Kệ |
526. Chuyện Công Chúa Nalinikà (Tiền Thân Nalinikà) 527. Chuyện Kỷ Nữ Ummadantì (Tiền Thân Ummadantì) 528. Chuyện Hiền Giả Đại Bồ Đề (Tiền Thân Mahà-Bodhi) |
[07] Chương XIX – Phẩm Sáu Mươi Bài Kệ |
529. Chuyện Hiền Giả Sonaka (Tiền Thân Sonaka) 530. Chuyện Hiền Giả Samkicca (Tiền Thân Samkicca) |
[08] Chương XX – Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ |
531. Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền Thân Kusa) 532. Chuyện Hai Hiền Giả Sona-Nanda (Tiền Thân Sona-Nanda) |
PHẦN 6 – CHƯƠNG XXI, CHƯƠNG XXII
[01] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ |
533. Chuyện Tiểu Thiên Nga (Tiền Thân Cullahamasa) 534. Chuyện Đại Thiên Nga (Tiền Thân Mahàhamasa) 535. Chuyện Thực Phẩm Thiên Giới (Tiền Thân Sudhàbhojana) |
[02] Chương XXI – Phẩm Tám Mươi Bài Kệ (tt) |
536. Chuyện Chúa Chim Kunàla (Tiền Thân Kunàla) 537. Chuyện Đại Sutasoma (Tiền Thân Mahà-Sutasoma) |
[03] Chương XXII – Đại Phẩm |
538. Chuyện Vương Tử Què Câm (Tiền Thân Muga-Pakka) 539. Chuyện Đại Vương Mahàjanaka (Tiền Thân Mahà-Janaka) |
[04] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
540. Chuyện Hiếu Tử Sàma (Tiền Thân Sàma) |
[05] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
541. Chuyện Đại Vương Nimi (Tiền Thân Nimi) |
[06] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
542. Chuyện Tế Sư Khandahàla (Tiền Thân Khandahàda) |
[07] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
543. Chuyện Bậc Đại Trí Bhùridatta (Tiền Thân Bhùridatta) |
[08] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
544. Chuyện Bậc Đại Trí Mahanàrada-Kassapa (Tiền Thân Mahanàrada-Kassapa) |
[09] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
545. Chuyện Bậc Đại Trí Vô Song (Tiền Thân Vidhurapandita) |
[10] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
546. Chuyện Đường Hầm Vĩ Đại (Tiền Thân Mahà-Ummagga) |
[11] Chương XXII – Đại Phẩm (tt) |
547. Chuyện Đại Vương Vessantara (Tiền Thân Vessantara) |
***
Năm 2017, Chùa Hương Sen có phát hành 3 cuốn sách mới do Ni Sư Giới Hương biên soạn.
KINH TĂNG CHI BỘ, MỤC LỤC TRỌN BỘ IV TẬP
Tăng chi Tập 1, Chương Một: Một Pháp
Tăng chi Tập 1, Chương Hai: Hai Pháp
Tăng chi Tập 1, Chương Ba: Ba Pháp
Tăng chi Tập 1, Chương Bốn: Bốn Pháp
Tăng chi Tập 2, Chương bốn: Bốn pháp (Tiếp theo)
Tăng chi Tập 2, Chương Năm: Năm Pháp
Tăng chi Tập 3, Chương Sáu: Sáu Pháp
Tăng chi Tập 3, Chương Bảy: Bảy Pháp
Tăng chi Tập 3, Chương Tám: Tám Pháp
Tăng chi Tập 4, Chương chín: chín pháp
Tăng chi Tập 4, Chương mười: mười pháp
Tăng chi Tập 4, Chương mười một: mười một pháp
KINH TĂNG CHI BỘ, TRỌN BỘ IV TẬP MƯỜI MỘT CHƯƠNG HẾT
---------------------------------------------------------------------------
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TĂNG CHI BỘ
TẬP I, II, III, IV
(Số thứ tự 21, 22, 23, 24)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
Ấn hành PL. 2540 - 1996
HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH
của
HỘI ĐỒNG PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
1. Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
2. Hòa thượng THÍCH HUỆ THÀNH
3. Hòa thượng THÍCH GIÁC NHU
4. Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
5. Hòa thượng THÍCH TÂM THÔNG
6. Hòa thượng THÍCH SIÊU VIỆT
7. Hòa thượng MAHÀ SARAY
8. Hòa thượng THÍCH TRÍ NGHIÊM.
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Chủ tịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Phó chủ tịch: Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THANH KIỂM
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THANH TỪ
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THIỆN CHÂU
Trưởng ban Thư ký: Thượng tọa THÍCH CHƠN THIỆN
Trưởng ban Tài chánh: Thượng tọa THÍCH GIÁC TOÀN
Trưởng ban In ấn và Phát hành: Cư sĩ VÕ ĐÌNH CƯỜNG
Trưởng ban Từ vựng Phật học: Cư sĩ MINH CHI.
Nguyên bản: PALI
Việt dịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
-----------------------
-----------------------------------------
---------------------------
-------------------------------------
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
TẬP I, II, III,IV, V
(Số Thứ Tự 12, 13, 14, 15, 16)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
Ấn hành PL. 2537 - 1993
HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH
của
HỘI ĐỒNG PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN
2. Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
3. Hòa thượng THÍCH HUỆ THÀNH
4. Hòa thượng THÍCH GIÁC NHU
5. Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
6. Hòa thượng THÍCH TÂM THÔNG
7. Hòa thượng THÍCH SIÊU VIỆT
8. Hòa thượng MAHÀ SARAY
9. Hòa thượng THÍCH TRÍ NGHIÊM.
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Chủ tịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Phó chủ tịch: Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THANH KIỂM
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THANH TỪ
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THIỆN CHÂU
Trưởng ban Thư ký: Cư sĩ TRẦN TUẤN MẪN
Trưởng ban Tài chánh: Thượng tọa THÍCH GIÁC TOÀN
Trưởng ban In ấn và Phát hành: Cư sĩ VÕ ĐÌNH CƯỜNG
Trưởng ban Từ vựng Phật học: Cư sĩ MINH CHI.
Nguyên bản: PALI
Việt dịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
1) Boddhisattva and Sunyata in the eartly and Developed Buddhist Traditions.
Bhikkuni Gioi Huong
2) Bồ Tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa
Thích Nữ Giới Hương 2008
3) Ban Mai Sứ Ấn (3 tập)
Thích Nữ Giới Hương
4) Vườn Nai -
Thích Nữ Giới Hương
5) Xá Lợi Của Đức Phật, Tham Weng Yew
Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ
6) Quy Y Tam Bảo và Năm Giới
Thích Nữ Giới Hương
7) Vòng Luân Hồi
Thích Nữ Giới Hương
8) Hoa Tuyết Milkaukee
Thích Nữ Giới Hương
9) Luân Hồi Trong Lăng Kính Lăng Nghiêm
Thích Nữ Giới Hương
10) Nghi Thức Hộ Niệm Cầu Siêu
Thích Nữ Giới Hương
11) Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù
Nhiều Tác Giả, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ
12) Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ, (2 Tập)
Thích Nữ Giới Hương
13) Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV: 2 tập
Thích Nữ Giới Hương
14) A-
Thích Nữ Giới Hương
15) Góp Từng Hạt Nắng Perris
Thích Nữ Giới Hương
16) Chuyển Ngữ của Kinh Kim Cang
Thích Nữ Giới Hương
17) Tập Thơ Nhạc Lắng Nghe Lăng Nghiêm
Thích Nữ Giới Hương
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TRƯỜNG BỘ
TẬP I, II
(Số thứ tự 1, 2)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
Ấn hành PL. 2535 - 1991
MỤC LỤC KINH TRƯỜNG BỘ TẬP I | MỤC LỤC KINH TRƯỜNG BỘ TẬP II |
1. Kinh Phạm võng (Brahmajàla Sutta) | |
2. Kinh sa-môn quả | 18.Kinh xà-ni-sa |
3.Kinh Ambattha | 19.Kinh đại điển tôn |
4.Kinh Sonadanda | 20.Kinh đại hội |
5.Kinh Kutadanta | 21.Kinh Đế thích sở vấn |
6.Kinh Mahali | 22.Kinh đại niệm xứ |
7.Kinh Jaliya | 23.Kinh Tệ túc |
8.Kinh Kasapa | 24.Kinh ba lê |
9.Kinh Potthadada | 25.Kinh Ưu đàm bà la sư tử hống |
10.Kinh Subha | 26.Kinh chuyển luân thánh vương sư tử hống |
11.Kinh Kevaddha | 27.Kinh khởi thế nhân bổn |
12.Kinh Lohicca | 28.Kinh tự hoan hỷ |
13.Kinh Tevijja | 29.Kinh thanh tịnh |
14.Kinh đại bổn | 30. Kinh tướng |
15. Kinh đại duyên | 31.Kinh giáo thọ Thi-ca-la-việt |
16.Kinh đại bát niết-bàn | 32.Kinh A-sá-nang-chi |
33.Kinh phúng tụng | |
34.Kinh thập thượng |
KINH TRƯỜNG TRỌN BỘ 34 KINH HẾT
------------------------------------------------------------------------------------
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TRƯỜNG BỘ
TẬP I, II
(Số thứ tự 1, 2)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
Ấn hành PL. 2535 - 1991
HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH
của
HỘI ĐỒNG PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN
2. Hòa thượng THÍCH ĐÔN HẬU
3. Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
4. Hòa thượng THÍCH MẬT HIỂN
5. Hòa thượng THÍCH HUỆ THÀNH
6. Hòa thượng THÍCH GIÁC NHU
7. Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
8. Hòa thượng THÍCH TÂM THÔNG
9. Hòa thượng THÍCH SIÊU VIỆT
9. Hòa thượng MAHÀ SARAY
11. Hòa thượng THÍCH TRÍ NGHIÊM.
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Chủ tịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Phó chủ tịch: Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THANH KIỂM
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THANH TỪ
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THIỆN CHÂU
Trưởng ban Thư ký: Thượng tọa THÍCH CHƠN THIỆN
Trưởng ban Tài chánh: Thượng tọa THÍCH GIÁC TOÀN
Trưởng ban In ấn và Phát hành: Cư sĩ VÕ ĐÌNH CƯỜNG
Trưởng ban Từ vựng Phật học: Cư sĩ MINH CHI.
Nguyên bản: PALI
Việt dịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
MỤC LỤC KINH TRUNG BỘ TẬP I 50 KINH HẾT
---------------------------
MỤC LỤC KINH TRUNG BỘ TẬP II
KINH TRUNG BỘ TẬP II TRỌN BỘ 50 KINH HẾT
---------------------------
MỤC LỤC KINH TRUNG BỘ TẬP III
KINH TRUNG BỘ TẬP III 52 KINH HẾT
TRỌN BỘ 3 QUYỂT
------------------------------------
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
KINH TRUNG BỘ
TẬP I, II, III
(Số thứ tự 5, 6, 7)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
Ấn hành PL. 2536 - 1992
HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH
của
HỘI ĐỒNG PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
1. Hòa thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN
2. Hòa thượng THÍCH ĐÔN HẬU
3. Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
4. Hòa thượng THÍCH MẬT HIỂN
5. Hòa thượng THÍCH HUỆ THÀNH
6. Hòa thượng THÍCH GIÁC NHU
7. Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
8. Hòa thượng THÍCH TÂM THÔNG
9. Hòa thượng THÍCH SIÊU VIỆT
9. Hòa thượng MAHÀ SARAY
11. Hòa thượng THÍCH TRÍ NGHIÊM.
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO PHIÊN DỊCH và ẤN HÀNH
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Chủ tịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Phó chủ tịch: Hòa thượng KIM CƯƠNG TỬ
Phó chủ tịch: Hòa thượng THÍCH THANH KIỂM
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THANH TỪ
Phó chủ tịch: Thượng tọa THÍCH THIỆN CHÂU
Trưởng ban Thư ký: Thượng tọa THÍCH CHƠN THIỆN
Trưởng ban Tài chánh: Thượng tọa THÍCH GIÁC TOÀN
Trưởng ban In ấn và Phát hành: Cư sĩ VÕ ĐÌNH CƯỜNG
Trưởng ban Từ vựng Phật học: Cư sĩ MINH CHI.
Nguyên bản: PALI
Việt dịch: Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU
Gioi thieu nhung tac pham hay cua Ni Su Gioi Huong
Để có đôi mắt sáng và khỏe mạnh, bên cạnh việc lựa chọn các loại thực phẩm tốt cho mắt, một số động tác yoga dành riêng cho mắt dưới đây sẽ giúp bạn cải thiện thị lực của mắt
Khi nói về tiểu-sử của đức Phật Tỳ-Bà-Thi*, vị Phật đầu tiên trong kiếp Trang-Nghiêm đức Thích-Ca thuật lại “truyền-thống” thị-hiện giống nhau
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền đã có hai loại (lịch sử có thật hoặc do Ðức Thích Ca nói cho biết)
Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta.
Cửa Tử là cửa mà mọi người đều phải bước qua ! Vì sự bí mật cùa nó mà lắm người nơm nớp, lo âu và sợ hãi !
Thầy dạy hãy trở về nội tâm của chính mình, quê hương của chính mình.
T rong thiền môn, bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Xá Lợi Phất là bậc thánh làm gì có sân. Tánh sân nằm ngủ trong tạng thức mà chúng ta không thấy, nay tu mới thấy.
Minh An xin phép kể một câu chuyện Hiện tiền trên thế gian , mà Chính Minh An và các Phật tử đều biết đến
Ngài Hạ-Liên-Cư là một cư sĩ, Ngài chỉ niệm A-di-đà Phật, khi vãng sanh Ngài mời bạn bè tới dự tiệc chia tay rồi đứng giữa chánh điện chắp tay mà thoát hóa, vui vẻ thoải mái.
Một thiên nhân đến với Phật trong hóa thân một người Bà la Môn, với vẻ mặt rạng rỡ và bộ
trang phục trắng như tuyết.
Kinh Hoa Nghiêm nói trong thập địa Bồ Tát, địa nào cũng chẳng bỏ niệm Phật. Phẩm Ðại Giáo Duyên Khởi kinh này cũng bảo: ‘Quá khứ, vị lai, hiện tại, vị Phật đều nghĩ đến nhau’.
Hôm nay là ngày 16 tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại Xóm Hạ, học tiếp về tứ diệu đế.
Hôm trước chúng ta đã bắt đầu học về chánh tinh tấn và biết rằng năng lượng tinh tấn được phát sinh là do chất liệu của niềm vui và niềm tin.
Ngài Hương Nghiêm bạch Tổ Quy
Sơn một câu hỏi. Tổ đáp : “Nếu tôi nói th. sau này ông sẽ trách tôi”. Hương Nghiêm phiền
lắm, bỏ chùa đi nơi khác. 30
Phát Hành Kinh Sách & Phật Cụ
Thầy Hải Triều Âm viết sách mà cứ vị này vào hỏi, vị kia vào hỏi, nên thầy nói nhất định làm xong chứ không đứng dậy. Làm xong rồi mới tính.
Ưu-Bà-Tắc Giới Kinh (hay Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh) là giới Bồ tát của riêng hàng Phật tử tại gia, còn Phạm Võng là giới Bồ tát chung cho cả hàng xuất gia lẫn tại gia.
Quá trình giao thoa, kết hợp và dung hòa với văn hóa Trung Hoa xưa nay thể hiện khá rõ nét ở nghệ thuật tổ chức không gian Thiền trong vườn cảnh Việt Nam.
Một người Ấn Độ 76 tuổi đang sống trong một hang động gần ngôi đền Ambaji ở bang Guijarat Ấn Độ ông Prahlad Jani tuyên bố: “Tôi không cần thức ăn và nước uống”.
Những bài như thế này là món quà quý cho mọi người vì dễ đọc, dễ ứng dụng và làm cho mọi người được hạnh phúc, xã hội được tốt đẹp hơn vì những đồng thuận sẽ được nhân lên gấp bội.
Đức Phật Dược Sư vì lòng từ bi thương chúng sanh bị khổ về thân và tâm mà phát 12 nguyện lớn để chuyển hóa nghiệp báo của chúng sanh như sau:
Xuất phát từ góc nhìn văn hóa du lịch, chúng tôi xin đề cập những vấn đề cơ bản của triết lý thiền và nghệ thuật thiền, xem đó như một bước khởi đầu cho ý tưởng xây dựng một loại hình du lịch mới ở Việt Nam: Du lịch thiền […].