Tất cả những gì chúng ta hiểu biết, kinh nghiệm bắt đầu bằng ý nghĩ. Nếu chúng ta có ý nghĩ tốt, thì lời nói và hành động của chúng ta cũng sẽ tốt. Ý nghĩ tốt, lời nói tốt, và hành động tốt, thì sẽ đem đến kết quả tốt, nghĩa là, chúng ta sẽ có hạnh phúc. Nếu chúng ta có ý nghĩ tốt, thì hạnh phúc sẽ chẳng bao giờ lìa xa chúng ta. Quả đúng như thế, hạnh phúc sẽ luôn luôn theo sau chúng ta, như bóng với hình, chẳng bao giờ lìa xa.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Maṭṭakuṇdali, Kệ 2, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Maṭṭakuṇdali, Verse 2, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Hạnh Phúc Đi Theo Sau Người Làm Việc Thiện - Câu Chuyện Về Maṭṭakuṇdali, Kệ 2 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Happiness Follows The Doer Of Good - The Story Of Maṭṭakuṇdali, Verse 2 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 2:
2. Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā
manasā ce pasannena
bhāsati vā karoti vā
tato naṃ sukhamanveti
chāyā’va anapāyini. (1:2)
2. Ý nghĩ dẫn đầu tất cả mọi điều chúng ta nhận biết,
ý nghĩ là chủ, là cốt yếu, mọi việc đều bắt nguồn từ ý nghĩ.
nếu một người có ý nghĩ thiện lành và trong sạch
rồi người nầy có lời nói tốt, hoặc người nầy có hành động tốt
thì hạnh phúc sẽ theo sau người nầy,
giống như bóng với hình, không bao giờ lìa xa.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana) ở Xá Vệ(Savatthi), Đức Phật đã nói bài kệ nầy về một vị Bà La Môn trẻ, tên là Maṭṭakuṇdali.
Mattakundali là một một vị Bà La Môn trẻ, bố của anh là Adinnapubbaka, thì rất keo kiệt, nên ông chẳng bao giờ giúp đỡ gì cho hội từ thiện. Ngay cả những món đồ trang sức bằng vàng cho người con trai duy nhất của ông, ông đã tự tay làm lấy để khỏi phải trả tiền công cho thợ kim hoàn. Khi con trai ông bị ốm, ông đã không cho con đi gặp bác sĩ, cho đến khi bệnh tình đã trở nên nguy kịch. Khi ông biết rằng con trai ông sắp chết, ông cho người khiêng con ông ra ngoài hiên nhà, để khi có người nào đến nhà thăm, họ sẽ không nhìn thấy tài sản trong nhà của ông.
Vào buổi sáng hôm đó, Đức Phật xuất-thiền sớm, ra khỏi thiền định sâu sắc của ngài về lòng từ bi, rồi qua Trí Tuệ Trùm Khắp Thế Gian, ngài nhìn thấy Maṭṭakuṇdali đang nằm ở hiên nhà. Vì thế khi Đức Phật đi khất thực cùng với các đệ tử của ngài ở Xá Vệ(Sāvatthi), ngài đã đến gần cửa nhà của ông Bà La Môn Adinnapubbaka. Rồi, Đức Phật phát ra một luồng hào quang để thu hút sự chú ý của Maṭṭakuṇdali, người thanh niên trẻ, lúc nầy đang nằm quay mặt về hướng bên trong căn nhà. Maṭṭakuṇdali, người thanh niên trẻ nhìn thấy Đức Phật; và bởi vì lúc nầy sức khỏe của anh quá yếu ớt, nên anh chỉ có thể biểu lộ được lòng tôn kính Đức Phật qua ý nghĩ của anh. Tuy nhiên, điều nầy như thế là đầy đủ rồi. Khi anh qua đời với trái tim tôn kính, và tin tưởng vào Đức Phật, anh đã được tái sinh vào cõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc cõi trời Đao Lợi).
Từ cõi trời, chàng thanh niên trẻ Maṭṭakuṇdali trông thấy bố anh đang ngồi khóc thương nhớ anh ở nghĩa trang, anh liền xuất hiện ra trước mặt bố, bằng hình tướng giống như trước kia. Anh kể với bố về chuyện anh đã tái sinh vào cõi trời Tāvatiṃsa, và anh khuyến khích bố đến gặp Đức Phật, và xin cúng dường ngài thức ăn. Sau đó, tại nhà của Adinnapubbaka, nhiều người đặt câu hỏi là nếu có một người hết lòng đặt tâm ý tin tưởng vào Đức Phật, nhưng người nầy chẳng cho-tặng gì đến hội từ thiện, hoặc là người nầy không giữ các giới đạo đức, thì người nầy có thể nào tái sinh vào cõi trời không? Vì thế, Đức Phật cho phép Mattakundali xuất hiện trước mặt mọi người; lúc nầy anh hiện ra trong quần áo, và các đồ trang sức từ cõi trời, rồi anh nói với mọi người là anh đã tái sinh vào cõi trời Tāvatiṃsa. Mọi người sau đó đã được thuyết phục rằng, chỉ vì Maṭṭakuṇdali - người con trai của ông Bà La Môn Adinnapubbaka - hoàn toàn đặt hết tâm ý tin tưởng vào Đức Phật, mà anh đã hưởng được phước lợi sống trên cõi trời.
BÀI KỆ 2, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:
dhammā manopubbaṅgamā mano seṭṭhā manomayā ce pasannena manasā bhāsati vā karoti vā tato sukhaṃ naṃ anveti anapāyini chāyā iva
dhammā: kinh nghiệm; manopubbaṅgamā: ý nghĩ đi trước; manoseṭṭhā: ý nghĩ là chủ, là cốt yếu; manomayā: đều do ý nghĩ tạo ra chúng; ce: do đó, nếu; pasannena: (có ý) trong sạch; manasā: ý nghĩ; bhāsati: (người) nói; karoti vā: hoặc là hành động; tato: vì lý do đó; sukhaṃ: hạnh phúc; naṃ: người đó; anveti: đi theo sau; anapāyini: không lìa xa; chāyā iva: như cái bóng.
Tất cả những gì chúng ta hiểu biết, kinh nghiệm bắt đầu bằng ý nghĩ. Nếu chúng ta có ý nghĩ tốt, thì lời nói và hành động của chúng ta cũng sẽ tốt. Ý nghĩ tốt, lời nói tốt, và hành động tốt, thì sẽ đem đến kết quả tốt, nghĩa là, chúng ta sẽ có hạnh phúc. Nếu chúng ta có ý nghĩ tốt, thì hạnh phúc sẽ chẳng bao giờ lìa xa chúng ta. Quả đúng như thế, hạnh phúc sẽ luôn luôn theo sau chúng ta, như bóng với hình, chẳng bao giờ lìa xa.
Bài kệ 2 trong Kinh Pháp Cú nầy, anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã chuyển dịch thành thơ như sau:
(2) Việc làm của bản thân ta. Do tâm, do ý tạo ra, dẫn đầu. Nói năng, hành động trước sau. Ý mà thanh tịnh: dạt dào niềm vui. Và bao hạnh phúc trên đời. Theo ta như bóng khắp nơi theo hình.
BÌNH LUẬN
Chúng ta kinh nghiệm, hiểu biết về hoàn cảnh của chúng ta, tùy thuộc vào phương cách chúng ta suy ngẫm về điều nầy. Nếu chúng ta suy ngẫm không đúng đắn, chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ. Nếu chúng ta suy ngẫm đúng đắn, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nói một cách khác, chúng ta hạnh phúc hoặc đau khổ, là tùy thuộc vào phương cách mà chúng ta suy nghĩ.
Ý nghĩ cũng tạo ra các tình huống mà chúng ta sẽ gặp trong tương lai. Nếu chúng ta nuôi dưỡng ý nghĩ xấu, có lời nói xấu, hoặc có hành động xấu, thì nhiều người sẽ thù ghét chúng ta. Xã hội và pháp luật sẽ trừng phạt chúng ta. Sau khi chúng ta chết, chúng ta sẽ bị đọa vào các cõi khổ đau. Ở đây, 'ý nghĩ của chúng ta' là nghiệp (nguyên nhân), và 'chúng ta gặt quả tốt hoặc xấu' nói về vipāka (kết quả).
Bài kệ nầy muốn gửi đến chúng ta một thông điệp quan trọng như sau: "Nếu chúng ta có ý nghĩ xấu, chúng ta sẽ gánh chịu đau khổ. Nếu chúng ta có ý nghĩ tốt, chúng ta sẽ sống hạnh phúc." Đức Phật đã nói lên bài kệ nầy, để giúp cho chúng ta nhìn thấy hậu quả không thể tránh được (vipāka) của các ý nghĩ tốt hoặc xấu (nghiệp). Chúng ta sẽ gặt quả mà chúng ta gieo trồng, từ các kiếp trước (quá khứ) và kiếp hiện tại. Những gì chúng ta gieo trồng trong kiếp hiện tại, chúng ta sẽ gặt quả trong kiếp hiện tại, và kiếp tương lai. Chúng ta là người chịu trách nhiệm cho hạnh phúc và khổ đau của chính mình. Chúng ta là người tạo ra địa ngục và thiên đường cho chính mình. Chúng ta là kiến-trúc-sư tự tạo ra số-phận của chính mình. Những gì chúng ta tự tạo ra, thì chúng ta cũng có thể tự phá hủy. Đạo Phật dạy chúng ta con đường thoát khỏi sự đau khổ, qua phương cách hiểu biết, và áp dụng luật nhân quả (nguyên nhân, và kết quả). Đạo Phật là đạo thực tế và lạc quan. Thay vì chúng ta mù quáng tin tưởng vào các quyền lực bí ẩn, và siêu nhiên, thì Đạo Phật đã thực-tế chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn, thật-sự dẫn chúng ta đến hạnh phúc.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Maṭṭakuṇdali, Verse 2, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Happiness Follows The Doer Of Good - The Story Of Maṭṭakuṇdali, Verse 2 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 2:
2. Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā
manasā ce pasannena
bhāsati vā karoti vā
tato naṃ sukhamanveti
chāyā’va anapāyini. (1:2)
2. Mind precedes all knowables,
mind’s their chief, mind-made are they.
if with a clear, a confident mind
one should either speak or act,
happiness follows caused by that,
as one’s shadow ne’er departing.
While residing at the Jetavana Monastery in Sāvatthi, the Buddha spoke this verse, with reference to Maṭṭakuṇdali, a young Brāhmin.
Maṭṭakuṇdali was a young Brāhmin, whose father, Adinnapubbaka, was very miserly and never gave anything in charity. Even the gold ornaments for his only son were made by himself to save payment for workmanship. When his son fell ill, no physician was consulted, until it was too late. When he realized that his son was dying, he had the youth carried outside on to the verandah, so that people coming to his house would not see his possessions.
On that morning, the Buddha arising early from his deep meditation of compassion saw, in his Net of Knowledge, Maṭṭakuṇdali lying on the verandah. So when entering Sāvatthi for alms-food with his disciples, the Buddha stood near the door of the Brāhmin Adinnapubbaka. The Buddha sent forth a ray of light to attract the attention of the youth, who was facing the interior of the house. The youth saw the Buddha; and as he was very weak he could only profess his faith mentally. But that was enough. When he passed away with his heart in devotion to the Buddha he was reborn in the Tāvatiṃsa celestial world.
From his celestial abode the young Maṭṭakuṇdali, seeing his father mourning over him at the cemetery, appeared to the old man in the likeness of his old self. He told his father about his rebirth in the Tāvatiṃsa world and also urged him to approach and invite the Buddha to a meal. At the house of Adinnapubbaka the question of whether one could or could not be reborn in a celestial world simply by mentally professing profound faith in the Buddha, without giving in charity or observing the moral precepts, was brought up. So the Buddha invited Maṭṭakuṇdali to appear in person; Maṭṭakuṇdali then appeared in his celestial ornaments and told them about his rebirth in the Tāvatiṃsa realm. Only then, the listeners became convinced that the son of the Brāhmin Adinnapubbaka, by simply devoting his mind to the Buddha, had attained much glory.
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 2)
dhammā manopubbaṅgamā mano seṭṭhā manomayā ce pasannena manasā bhāsati vā karoti vā tato sukhaṃ naṃ anveti anapāyini chāyā iva
dhammā: experience; manopubbaṅgamā: thought precedes; manoseṭṭhā: thought is predominant; manomayā: mind-made are they; ce: therefore, if; pasannena: (with) pure; manasā: thought; bhāsati: (one) speaks; karoti vā: or acts; tato: due to it; sukhaṃ: happiness; naṃ: that person; anveti: follows; anapāyini: not deserting; chāyā iva: as the shadow.
All that man experiences springs out of his thoughts. If his thoughts are good, the words and deeds will also be good. The result of good thoughts, words and deeds will be happiness. This happiness never leaves the person whose thoughts are good. Happiness will always follow him like his shadow that never leaves him.
COMMENTARY
How we experience our circumstances depends on the way we interpret them. If we interpret them in the wrong way, we experience suffering. If we interpret them in the right way, we experience happiness. In other words, our happiness or unhappiness depends on the way we think.
Thought also creates circumstances in a futuristic sense. If we harbour ill will and speak or act with ill will, people will begin to hate us. We will be punished by society and the law. After death, we will also be reborn in a realm of suffering. Here, ‘thought’ refers to kamma (action) and ‘experience’ refers to vipāka (consequences).
The message finally conveyed by this pair of verses is: “Think wrong and suffer. Think right and be happy.” This pair of verses was spoken by the Buddha to show the inevitable consequence (vipāka) of good and evil thought (kamma). Man reaps what he has sown, both in the past and in the present. What he sows now, he reaps in the present and in the future. Man himself is responsible for his own happiness and misery. He creates his own hell and heaven. He is the architect of his own fate. What he makes he can unmake. Buddhism teaches the way to escape from suffering by understanding and using the law of cause and effect. Buddhism is very realistic and optimistic. Instead of blindly depending on unknown supernatural powers, hoping for happiness, Buddhism finds the true way to happiness realistically.
-----------------------------
(Nivapasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. - “Bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai không nghĩ rằng: “Ta gieo đồ mồi này cho đoàn nai ăn để đàn ấy được sống lâu, được tốt đẹp thêm và được nuôi dưỡng lâu dài hơn”. Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai nghĩ rằng: “Ta gieo đồ mồi này cho đàn nai, để đàn này xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Sau khi xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn; do mê loạn, chúng trở thành phóng dật; do phóng dật chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn, giữa các đồ mồi này”.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai đầu tiên xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Chư Tỷ-kheo, như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ hai suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy, đàn nai đầu tiên không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú”. Rồi đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu, sức lực của chúng bị kiệt quệ. Vì sức lực bị kiệt quệ, đàn nai ấy trở lại các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi. Vì chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy, đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các món ăn bẫy mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú”. Rồi đàn nai ấy hoàn toàn từ bỏ các món ăn bẫy mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu, sức lực của chúng bị kiệt quệ. Vì sức lực bị kiệt quệ, đàn nai ấy trở lại các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi. Vì chúng ở đây xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Nay chúng ta hãy làm một chỗ ấn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập không tham đắm ăn các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi”. Rồi chúng làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, nên chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi.
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi suy nghĩ như sau: “Đàn nai thứ ba này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ ba này thật có thần lực và ma quái. Chúng ăn các đồ mồi được gieo ra này, mà chúng ta không được biết đường đi lối về của chúng. Vậy chúng ta hãy bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này, với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng ta có thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn”. Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những người quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy đồ ăn. Như vậy này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ ba này không thoát được như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn đàn nai thứ hai này suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đoàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy... (như trên)... ”. Như vậy đàn nai thứ hai này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Đàn nai thứ ba suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên xâm nhập tham đắm, ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... (như trên)... Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Còn đàn thứ hai này suy nghĩ như sau: “Đàn nai đầu tiên này xâm nhập tham đắm ăn các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi... Như vậy, đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy... (như trên)... ”. Như vậy đàn nai thứ hai này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm chúng ta sẽ ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm, ăn các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những vị bị làm theo ý người ta muốn giữa những đồ mồi của người thợ săn bẫy mỗi”. Rồi chúng làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa những đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Ở đây, người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy suy nghĩ như sau: “Đàn nai thứ ba này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ ba này thật có thần lực và ma quái. Chúng ăn các đồ mồi được gieo ra mà chúng ta không được biết đường đi lối về của chúng. Vậy chúng ta hãy bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng ta có thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn”. Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba, chỗ chúng đi để lấy đồ ăn. Như vậy đàn nai thứ ba ấy đã không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp, tại một nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng ta sẽ không mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi”. Rồi đàn nai thứ tư làm một chỗ ẩn nấp tại một nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy suy nghĩ như sau: “Đàn nai thứ tư này thật tinh khôn, xảo quyệt. Đàn nai thứ tư này thật có thần lực và ma quái. Và chúng ăn các đồ mồi được gieo ra mà chúng ta không biết được đường đi lối về của chúng. Vậy chúng ta hãy bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Rồi chúng ta có thể thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn”. Rồi họ bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo này với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi. Nhưng này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy đã không thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thợ săn và những quyến thuộc của người ấy lại suy nghĩ như sau: “Nếu chúng ta đánh phá đàn nai thứ tư này, chúng bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác; các đàn nai khác bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác nữa. Như vậy toàn thể đàn nai sẽ từ bỏ các đồ mồi được gieo này. Vậy chúng ta chớ có can thiệp vào đàn nai thứ tư”. Này các Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không can thiệp vào đàn nai thứ tư. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đàn nai thứ tư đã thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Này các Tỷ-kheo, tỷ dụ này được Ta dùng để giải thích ý nghĩa. Và ý nghĩa ở đây là như sau: Chư Tỷ-kheo, đồ mồi đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các quyến thuộc của người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với quyến thuộc của Ác ma. Chư Tỷ-kheo, các đàn nai đồng nghĩa với các Sa-môn, Bà-la-môn.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; vì mê loạn, họ trở thành phóng dật; vì phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này không thoát được như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này giống như đàn nai đầu tiên trong thí dụ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: “Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; vì mê loạn, họ trở thành phóng dật; vì phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi ấy và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú”. Họ hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú. Ở đây, họ trở thành những người ăn cỏ lúa, ăn lúa tắc, những người ăn gạo lức, những người ăn hột cải Nivara, những người ăn da vụn, những người ăn trấu, những người ăn nước bột gạo, những người ăn hột vừng, những người ăn cỏ, những người ăn phân bò, những người ăn trái cây, những người ăn rễ cây trong rừng, những người ăn trái cây rụng để sống.
Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở thành khan hiếm, thân hình của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu, nên sức lực tinh tấn của họ bị kiệt quệ. Vì sức lực tinh tấn bị kiệt quệ, nên tâm giải thoát bị kiệt quệ. Vì tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ trở lui lại các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Do ở đây xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn. Do mê loan họ trở thành phóng dật. Do phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này giống như đàn nai thứ hai trong ví dụ này.
Này các Tỷ-kheo, ở đây hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau: “Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi được Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian... (như trên)... Như vậy hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: “Hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra, và các vật dụng thế gian... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn đầu tiên này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi... (như trên)... chúng ta từ bỏ hoàn toàn các đồ mồi... (như trên)... ”... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này cũng không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, sau khi làm một chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ta sẽ ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Do không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng ta sẽ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta sẽ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta sẽ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn, giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian.” Hạng Sa-môn, Bà-la-môn này làm chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi do Ác ma gieo ra và giữa các vật dụng thế gian. Sau khi làm chỗ ẩn nấp ở đây xong, họ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm, họ không ăn các đồ mồi nên không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian. Nhưng rồi họ có những tà kiến như sau: “Thế giới là thường còn; thế giới là không thường còn; thế giới là hữu biên; thế giới là vô biên; mạng sống và thân thể là một; mạng sống và thân thể là khác; Như Lai sau khi chết có tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại; Như Lai sau khi chết có tồn tại và không tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại và không không tồn tại”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này giống như đàn nai thứ ba trong ví dụ này.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư suy nghĩ như sau: “Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi của Ác ma và các vật dụng thế gian... như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn này không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai suy nghĩ như sau: “Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất không thoát được như ý lực của Ác ma. Vậy, chúng ta hãy từ bỏ hoàn toàn các món ăn bẫy mồi... (như trên)... ”. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba suy nghĩ như sau: “... (như trên)... Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba không thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Vậy chúng ta hãy làm chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, chúng ta sẽ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ ăn nên chúng ta không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, chúng ta không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, chúng ta không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn, giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian”. Rồi họ làm chỗ ẩn nấp tại một nơi mà Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp ở đấy xong, họ không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian, nên họ không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư đã thoát khỏi như ý lực của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, Ta nói hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này giống như đàn nai thứ tư trong ví dụ này.
Này các Tỷ-kheo, sao gọi là Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo làm Ác ma mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng không tác ý đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Như vậy gọi là Tỷ- kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Như vậy, gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có một vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy gọi là Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy gọi là vị Tỷ-kheo... (như trên)... đường đi lối về. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy (mọi vật) với trí tuệ, các lậu hoặc được diệt trừ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Tỷ-kheo làm Ác mà mù mắt, đoạn tuyệt mắt của Ác ma, không còn dấu tích, khiến Ác ma không thấy đường đi lối về. Vị ấy đã vượt khỏi tham trước ở đời.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH BẪY MỒI, THỨ HAI MƯƠI LĂM HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________
>>> 24. Kinh Trạm Xe
Với tác động lớn mạnh của khoa học trong đời sống của chúng ta, tôn giáo và tâm linh có một vai trò thậm chí lớn hơn, bằng việc nhắc nhở chúng ta về loài người của chúng ta. Không có mâu thuẩn nào giữa hai sự tiếp cận này. Mỗi thứ cho chúng ta những tuệ giác đáng giá cho phép chúng ta thấu hiểu thứ kia tốt hơn. Cả khoa học và giáo huấn của Đức Phật nói với chúng ta về sự hợp nhất thiết yếu của tất cả mọi sinh vật sống.
Đức Phật Trong Đảng Màu Lá Cây!
NẾU CHÚNG TA SUY NGHĨ một cách cẩn thận về nó, chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng nếu Đức Phật Thích Ca trở lại với chúng ta và gia nhập vào một đảng phái chính trị, đó sẽ là Đảng Xanh Lá Cây! (Cười). Ngài sẽ là một nhà sinh quyển học! (Cười).
Xét cho cùng, Đức Phật đã không sinh ra ở một thiên đàng, nhưng trong một ngôi vườn. Khi ngài trở thành Giác Ngộ, không phải trong một văn phòng, một ngôi nhà, hay một đền đài, nhưng dưới tàng một cây, Cây Bồ Đề. Và khi ngài qua đời, đó là dưới cội sala song thọ mà ngài nhập đại niết bàn.
Nhân Quyền Và Môi Trường
NẾU TÔI PHẢI ĐI BẦU, đó sẽ là một đảng bảo vệ môi trường. Một trong những việc phát triển tích cực hơn hiện nay trên thế giới là sự lớn mạnh nhận thức về tầm quan trọng của thiên nhiên. Không có gì thiêng liêng hay thánh thiện về điều này. Như những con người, sự sống của chúng ta đến từ tự nhiên, và thật là vô nghĩa khi hành động chống lại nó. Đó là tại sao tôi nói rằng môi trường không phải là một vấn đề của tôn giáo, hạnh kiểm hay đạo đức, tất cả những thứ đó là xa xỉ phẩm, vì chúng ta có thể sống mà không có nó và vẫn sống còn. Nhưng chúng ta sẽ không tồn tại nếu chúng ta tiếp tục chống lại thiên nhiên.
Chúng ta phải chấp nhận thực tế này. Nếu chúng ta làm mất sự cân bằng của thiên nhiên, con người sẽ đau khổ. Hơn thế nữa, chúng ta, những người đang sống hôm nay phải quan tâm đến những người sẽ sống ngày mai. Một môi trường trong sạch là nhân quyền giống như bất cứ quyền nào khác. Thế nên, đó là trách nhiệm của chúng ta để trao lại một thế giới lành mạnh, nếu không phải thậm chí là lành mạnh hơn khi chúng ta có nó. Đây là một công việc không phải khó khăn như nó có thể dường như thế. Đúng là, năng lực của chúng ta để hành động như những cá nhân là giới hạn, nhưng chí nguyện của mỗi người thì không thế. Một cách cá nhân, chúng ta phải làm mọi thứ chúng ta có thể, bất chấp nó là nhỏ nhoi như thế nào. Ngay cả vặn tắt đèn khi chúng ta rời phòng dường như không hiệu quả gì lắm, không có nghĩa là chúng ta không phải làm việc ấy.
Về điểm này, như một tu sĩ Phật Giáo, cảm nhận của tôi là tin tưởng trong nghiệp quả là rất hữu ích trong đời sống hàng ngày. Một khi chúng ta tin tưởng trong sự nổi kết giữa động cơ của một hành động và hệ quả của nó, thì chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với hậu quả của những gì chúng ta làm, cho tự thân và người khác. Đó là lý do tại sao, mặc cho thảm họa đang xảy ra ở Tây Tạng, nhưng tôi vẫn thấy nhiều thứ tốt đẹp trên thế giới.
Tôi đặc biệt an tâm hơn khi tôi thấy rằng sự tiêu thụ, tự nó kết thúc, dường như đang cho thấy cảm giác rằng chúng ta phải bảo tồn những nguồn tài nguyên của Trái Đất. Điều này là hoàn toàn cần thiết. Loài người là con cháu của Trái Đất. Trái lại, Bà Mẹ Đất Chung của chúng ta đã bao dung tánh nết của chúng ta cho đến bây giờ, bà đang cho thấy rằng hiện tại chúng ta đã đến những giới hạn có thể bao dung được.
Tôi cầu nguyện rằng một ngày nào đó tôi có thể truyền rao thông điệp bảo vệ môi trường này và sự quan tâm đến người khác tới người dân Trung Hoa. Vì Phật Giáo hoàn toàn không phải là ngoại lai đối với người Trung Hoa, tôi nghĩ rằng tôi có thể hữu dụng cho họ, ở trình độ thực tế. Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ 9 đã một lần truyền lễ Thời Luân ở Bắc Kinh (1932). Do thế, nếu tôi có thể làm được điều này, thì sẽ có một tiền lệ. Như một tu sĩ, sự quan tâm của tôi là cho tất cả mọi thành viên của gia đình nhân loại - thật sự cho toàn thể chúng sanh.
Với tác động lớn mạnh của khoa học trong đời sống của chúng ta, tôn giáo và tâm linh có một vai trò thậm chí lớn hơn, bằng việc nhắc nhở chúng ta về loài người của chúng ta. Không có mâu thuẩn nào giữa hai sự tiếp cận này. Mỗi thứ cho chúng ta những tuệ giác đáng giá cho phép chúng ta thấu hiểu thứ kia tốt hơn. Cả khoa học và giáo huấn của Đức Phật nói với chúng ta về sự hợp nhất thiết yếu của tất cả mọi sinh vật sống.
***
Đã nhiều lần Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố một cách công khai ao ước ban tặng "những anh chị em Trung Hoa" một lễ truyền đạo Thời Luân ở Bắc Kinh, tại Công Trường Thiên An Môn. Nghi lễ Mật tông này, được xem như một nghi thức tối cao của Phật Giáo Tây Tạng, được dâng hiến đến hòa bình thế giới.
Khi ngài truyền đạo Thời Luân ở Sarnath năm 1990 sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gia lực cho những hạt giống của nhiều loại trái cây và giao cho những người tham dự, tuyên bố, "Tất cả các lục địa trên thế giới đại diện trong buổi tập hợp Thời Luân này. Đây là những hạt giống được đặt gần mạn đà la để tiếp nhận sự gia lực. Có những hạt mơ (apricot), phỉ (hazelnut), đu đủ, ổi, và những thứ hạt khác, là những thứ có thể phát triển ở những vĩ độ, vùng miền khác nhau. Vì vậy thế giới được gieo trồng những thứ hạt hòa bình khác nhau.
Tâm, Tim, Và Môi Trường
THẬT KHÓ KHĂN CHO những người bình thường thông hiểu trọn vẹn những thông báo của các chuyên gia về sự biến đổi môi trường. Chúng ta đã nghe về sự hâm nóng địa cầu, mực nước biển dâng lên, tỉ lệ ung thư gia tăng, sự gia tăng nhân khẩu học, sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên, và sự diệt chủng của các loài. Khắp mọi nơi, hoạt động của con người đang làm nên một sự tăng tốc tàn phá những yếu tố then chốt mà trên ấy những hệ thống sinh quyển tự nhiên của toàn thể mọi loại sự sống nương tựa.
Dân số thế giới đã tăng gấp ba lần trong không gian của một thế kỷ, và dự đoán là sẽ tăng gấp đôi gấp ba trong thế kỷ 21. Với sự phát triển của những sự gia tăng kinh tế toàn cầu cùng cực về sự tiêu thụ năng lượng, sản sinh khí thải, và sự tàn phá rừng ở một mức độ lớn ở ngay trước mắt. Thật khó để tưởng tượng - tất cả những điều này sẽ xảy ra trong kiếp sống của chúng ta và trong kiếp sống của con cháu chúng ta. Chúng ta phải dự đoán trước sự khổ đau và môi trường suy thoái ở mức độ toàn cầu và nó sẽ vượt qua bất cứ thứ gì mà chúng ta đã từng biết trong lịch sử của nhân loại.
Tuy nhiên, ý kiến của tôi, vẫn còn một tin tức tốt lành nào đó: từ bây giờ, chúng ta sẽ phải tìm ra một cách để sống còn với nhau trên hành tinh này. Chúng ta đã kinh nghiệm đủ về chiến tranh, nghèo đói, ô nhiễm, và khổ đau. Theo giáo huấn nhà Phật, những thảm họa này sinh khởi từ si mê, và những hành vi vị kỷ, bởi vì hầu hết thời gian chúng ta có chúng ta không sử dụng để thấy mối liên hệ nối kết tất cả mọi thứ tồn sinh với nhau. Trái Đất đang cảnh cáo chúng ta và cho chúng ta một dấu hiệu rõ ràng về những hậu quả ở mức độ to lớn và năng lực tiêu cực gây ra bởi thái độ bị hướng dẫn sai lạc của nhân loại.
Để ngăn những thói quen tai hại này, chúng ta hãy nghiên cứu để trở nên tỉnh giác hơn về sự lệ thuộc của chúng ta với nhau, và chúng ta hãy dấn thân trong những hành vi đúng đắn, căn cứ trên động cơ tốt đẹp hơn, để hổ trợ Trái Đất và những đồng môn của chúng ta. Đó là tại sao tôi luôn luôn nói về tầm quan trọng của một cảm nhận xác thật về trách nhiệm toàn cầu của chúng ta.
Chúng ta cần kiến thức vốn cho phép chúng ta chăm sóc chính mình, về mỗi địa điểm trên Trái Đất, và của sự sống mà nó duy trì. Tất cả những điều này cũng quan tâm đến những thế hệ tương lai, vì thế sự giáo dục về chủ đề môi trường là một ưu tiên cho mọi người.
Sự tiến bộ của khoa học và kỷ thuật là cần yếu để cải thiện phẩm chất của sự sống trong thế giới hiện đại. Thậm chí quan trọng hơn là học hỏi để thấu hiểu và biết ơn môi trường thiên nhiên của chúng ta hơn, cho dù chúng ta là người trưởng thành hay trẻ con. Nếu chúng ta thật sự quan tâm cho người khác và nếu từ chối hành động một cách thiếu cẩn trọng, thì chúng ta có thể chăm sóc Trái Đất. Chúng ta hãy học vấn đề chia sẻ nó thế nào thay vì muốn chiếm hữu nó và tàn phá sự xinh tươi của đời sống.
Những nền văn hóa của ông bà để lại đã thích nghi với thiên nhiên cho thấy vấn đề tạo ra sự cân bằng giữa xã hội và môi trường của nó như thế nào. Người Tây Tạng, như một thí dụ, có một kinh nghiệm đặc biệt về sự sống trên cao nguyên Hy Mã Lạp Sơn, đã phát triển qua một nền văn minh có lịch sử lâu đời đã bảo trọng không khai thác quá mức hay tàn phá hệ thống sinh thái mỏng manh. Chúng tôi vốn từ lâu đã biết ơn sự hiện diện của những động vật hoang dã, nghĩ rằng chúng là biểu tượng của tự do. Một sự tôn trọng sâu sắc cho thiên nhiên là có thể thấy trong nghệ thuật và cung cách sống của chúng tôi. Sự phát triển tâm linh của chúng tôi đã được duy trì mặc dù tiến bộ vật chất bị hạn chế. Giống như những chủng loại đa dạng không thể thích nghi sự thay đổi đột ngột của môi trường, những nền văn hóa con người cũng cần được xử sự với một sự quan tâm đặc biệt để bảo đảm cho sự tồn tại của chúng. Do thế, việc nghiên cứu những cung cách sống của những dân tộc khác nhau và bảo tồn di sản văn hóa của họ là một cách để học hỏi việc bảo vệ môi trường như thế nào.
Nếu chúng ta nhìn một cách gần gũi, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức con người, trái tim con người, và môi trường là không thể tách rời. Từ nhận thức này, sự giáo dục môi trường cho phép sự sinh sôi của cả sự thông hiểu và yêu thương mà chúng ta cần cho một sự cùng tồn tại hòa bình và bền lâu.
Chăm Sóc Trái Đất
TRÁI ĐẤT KHÔNG CHỈ là di sản chung của nhân loại, nhưng cũng là cội nguồn sau cùng của sự sống. Bằng việc khai thác quá mức những tài nguyên của nó, chúng ta đang đi trên một tiến trình bào mòn chính nền tảng sự sống còn của chúng ta. Chung quanh chúng ta thấy những dấu hiệu của sự tàn phá được tạo ra bởi hành vi của con người và sự thoái hóa thiên nhiên. Do thế, việc bảo vệ và bảo tồn Trái Đất là những vấn đề không phải đạo đức hay hạnh kiểm, mà là sự sống còn. Cung cách mà chúng ta trổi dậy với sự thử thách này sẽ có một tác động không chỉ cho thế hệ của chúng ta mà còn cho nhiều thế hệ sắp đến.
Khi đi đến những vấn đề có nội dung toàn cầu như vậy, tâm thức con người là nhân tố then chốt, như trường hợp trong những vấn đề thương mại, quốc tế, khoa học, kỷ thuật, y tế, hay sinh quyển. Tất cả những thứ này dường như vượt quá năng lực đáp ứng của con người, nhưng gốc rể và giải pháp của chúng phải được tìm kiếm từ trong tâm thức. Nhằm để chuyển hóa hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta phải chuyển hóa chúng ta từ bên trong. Nếu chúng ta muốn một ngôi vườn xinh đẹp, trước nhất chúng ta phải phác họa nó ra từ trong sự tưởng tượng của chúng ta và có một ảo ảnh về nó. Sau đó ý tưởng có thể được làm cho cụ thể, và ngôi vườn bên ngoài sẽ biến thành hiện thực. Việc tàn phá tài nguyên thiên nhiên là kết quả từ sự thiếu hiểu biết, si mê, từ việc thiếu tôn trọng những sinh vật sống của Trái Đất, và từ sự tham lam.
Để bắt đầu, chúng ta phải cố gắng để kiểm soát những thể trạng tiêu cực này của tâm thức bằng việc phát triển một sự tỉnh giác về mối liên hệ tự nhiên hổ tương của tất cả mọi hiện tượng, bằng việc trau dồi một nguyện ước không tổn hại những sinh vật sống khác, và bằng việc thấu hiểu nhu cầu của chúng với từ bi. Do bởi mối liên hệ tự nhiên hổ tương này của mọi sinh vật sống, cho nên chúng ta không thể hy vọng để giải quyết một vấn đề nhiều mặt bằng việc bắt đầu với tính thiên vị hay một thái độ ích kỉ. Lịch sử cho thấy rằng nhiều dân tộc không thường giải quyết được để hợp tác. Những thất bại trong quá khứ của chúng ta là kết quả từ sự thiếu hiểu biết về mối liên hệ tự nhiên hổ tương của chúng ta. Ngày nay, chúng ta cần một sự tiếp cận toàn diện đến những vấn nạn liên hệ với một ý nghĩa xác thật của trách nhiệm toàn cầu, căn cứ trên từ ái và bi mẫn.
Tôi dâng hiến những nguyện ước tốt đẹp nhất của tôi và sự cầu nguyện của tôi nhờ đó chúng ta có thể trở nên nhận thấy về nhu cầu để chăm sóc Trái Đất tốt đẹp hơn.
Mối Liên Hệ Hổ Tương Nhìn Từ Không Gian
KHI CHÚNG TA NHÌN Trái Đất từ không gian, chúng ta không thấy bất cứ biên giới nào, chỉ là một hành xanh nhỏ bé. Một hành tinh. Câu hỏi phát sinh ngày nay là về tương lai của toàn hành tinh. Điều trở thành rõ ràng hơn là chính sự sống còn của chúng ta liên hệ đến một số nhân tố. Mối lệ thuộc hổ tương được dạy trong Đạo Phật bây giờ dường như không giống một ý tưởng trừu tượng, nhưng giống như một yếu tố chứng minh, được làm sáng tỏ bởi hình ảnh này của Trái Đất.
***
Vị thế của Đức Đạt Lai Lạt Ma về chủ đề đạo đức, nhân quyền, và môi trường được giới thiệu đến bối cảnh quốc tế khái niệm về mối liên hệ hổ tương và sự phong phú của nó, trách nhiệm toàn cầu. Do vậy, từ những năm 1990, nhiều tuyên bố của Liên Hiệp Quốc đã được viết với mục tiêu tạo ra trong những dân tộc trên thế giới một cảm giác mới về mối liên hệ hổ tương và chia sẻ trách nhiệm cho sự cát tường của nhân loại và tất cả những sự sống.
Thí dụ, trong những văn bản tiếp theo thì chúng ta sẽ thấy những khái niệm then chốt về sự phân tích của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho thế giới đương đại: Hiến Chương về Trách Nhiệm của Nhân Loại (tháng 12 năm 2002); Tuyên Ngôn về Đạo Đức Toàn Cầu, được viết bởi Nghị Hội Tôn Giáo Thế Giới (Chicago, 1994), Dự Án cho Đạo Đức Phổ Quát, được khai triển bởi Ban Triết Lý và Đạo Đức của UNESCO, Tuyên Ngôn Phổ Quát cho Trách Nhiệm của Nhân Loại (Viên, 1997), và Hiến Chương Trái Đất, được trình bày tại UNESCO (Paris, 2000).
Tiếng vang của những sự phân tích của Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể được thấy trong thuật ngữ của những tài liệu này - như được chứng minh, thí dụ, bằng sự trích dẫn này từ Hiến Chương Trái Đất cho việc tạo nên một xã hội thế giới vào một thời điểm quan trọng của lịch sử Trái Đất, lúc con người phải quyết định tương lai của chính họ.
Khi thế giới trở nên liên hệ hổ tương và mong manh gia tăng, thì tương lai ngay lúc ấy chứa đựng một hiểm họa lớn và một hứa hẹn lớn. Để tiến tới phía trước chúng ta phải nhận ra ở giữa sự đa dạng tuyệt vời của những nền văn hóa và các hình thức sống, chúng ta là một gia đình nhân loại và một cộng đồng Trái Đất với một số phận chung. Chúng ta phải chung tay nhau để đem đến một xã hội toàn cầu bền vững được đặt trên nền tảng của sự tôn trọng tự nhiên, nhân quyền phổ quát, sự công bằng kinh tế, và một nền văn hóa hòa bình. Để hướng đến mục tiêu này, bắt buộc chúng ta, những dân tộc trên Trái Đất, tuyên bố trách nhiệm của chúng ta với nhau, đến một cộng đồng lớn hơn của đời sống, và đến những thế hệ tương lai.
Nhân loại là một bộ phận của vũ trụ tiến hóa bao la. Trái Đất, ngôi nhà của chúng ta, tồn tại một cộng đồng đặc thù của sự sống … Môi trường toàn cầu với những tài nguyên có hạn là một mối quan tâm chung của tất cả mọi dân tộc. Việc bảo vệ sức sống, đa dạng, và xinh đẹp của Trái Đất là một trách nhiệm thiêng liêng.
Sự lựa chọn là của chúng ta: hãy hình thành một quan hệ đối tác toàn cầu để chăm sóc Trái Đất và chăm sóc nhau hay tránh sự tàn phá chính chúng ta và sự đa dạng của đời sống. Những thay đổi nền tảng là cần thiết trong những giá trị, những tổ chức, và những cung cách sống. Chúng ta phải nhận ra rằng khi những nhu cầu căn bản đã đạt đến, thì sự phát triển nhân loại một cách chính yếu là vui sống hơn, chứ không phải có thêm của cải.
Để hiện thực những nguyện vọng này, chúng ta phải quyết định sống với một cảm giác của trách nhiệm toàn cầu, đồng hóa chúng ta với toàn thể cộng đồng Trái Đất cũng như cộng động địa phương của chúng ta … Mọi người chia sẻ trách nhiệm cho sự cát tường hiện tại và tương lai của gia đình nhân loại và thế giới của sự sống rộng lớn hơn. Tinh thần của sự đoàn kết và tình thân thuộc của nhân loại với toàn thể sự sống được làm mạnh khi chúng ta sống với sự tôn trọng cho sự hiện hữu huyền bí, biết ơn tặng phẩm của sự sống, khiêm tốn với vị trí của nhân loại trong tự nhiên.
Chúng ta cần gấp một tầm nhìn chung về những giá trị căn bản để cung ứng một nền tảng đạo đức cho sự hiện hữu của cộng đồng thế giới.
Thật hấp dẫn để đề cập rằng Hiến Chương Trái Đất đã thực hiện một điểm xác định "vị trí chúng ta thể hiện như loài người trong vũ trụ." Nếu nó cần thiết để thừa nhận phẩm chất của chúng ta như những con người, không phải đó là một dấu hiệu cho thấy rằng vị trí này đã bị đe dọa hay sao?
Tâm linh dường như cấu thành một nguồn gốc tối hậu, vì nó xoáy mạnh chung quanh những giá trị nhân bản và ý nghĩa của sự sống. Chính là trên căn bản này mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề nghị việc tìm ra một đạo đức thế tục cho thế kỷ 21. Ngài khẳng định rằng tâm linh cho phép một cuộc cách mạng của trái tim có thể đánh thức tâm ý của chúng ta. Không gian tâm linh biểu hiện năng lực con người của chúng ta, tất cả có thể mở ra một cung cách cho việc chuyển hóa nội tại mà nhờ đó có thể hướng đến việc chuyển hóa thế giới.
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, February 04, 2016
(Rathavivutasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương-xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
– Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: “Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ”.
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna Mantaniputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: “Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: “Hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Đạo sư, và được bậc Đạo sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả.
Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương-xá) lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: “Thế Tôn đã đến Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika”. Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến Savatthi, Jetavana, vườn ông Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.
Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: “Hiền giả Sariputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa”. Rồi Tôn giả Sariputta vội vã đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời chào đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta:
– Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
– Thật như vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích kiến thanh tịnh... (như trên).”...
– Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
Và Hiền giả trả lời:
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
– Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Hiền giả, không phải vậy.
– Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải kiến thanh tịnh... (như trên)...
– Có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
– Không phải vậy, Hiền giả.
– Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?
– Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy. Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩa của lời nói. Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:
“– Tâu Đại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?”
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn:
“– Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành”.
Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.
Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Punna Mantaniputta:
– Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.
– Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna Mantaniputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!
Khi được nói vậy, Tôn giả Punna Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta:
– Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?
– Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta.
– Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang hàng với bậc Đạo sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, thì chúng tôi đã không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!
Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
KINH TRẠM XE, THỨ HAI MƯƠI BỐN HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________
>>> 23. Kinh Gò Mối
Trong vòng sinh-tử, điều rất hiếm-có là được sinh ra làm người. Điều hiếm-có và khó-khăn là được cơ hội nghe giảng Phật Pháp. Điều thật sự hiếm-có là sự ra đời của một vị Phật.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta, Kệ 182, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta, Kệ 182 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 182:
182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)
182. Điều khó đạt được, là sinh ra làm người,
Điều khó khăn của kiếp người, là sinh tử,
Điều khó làm, là gặp được Phật Pháp,
Điều hiếm thấy, là sự xuất hiện của một vị Phật.
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua Rồng tên là Erakapatta. Một trong những kiếp trước của ông là một nhà sư đã đi tu trong một thời gian rất lâu, vào thời Đức Phật Kassapa. Trong kiếp nhà sư nầy, ông đã lo lắng bởi vì ông vi phạm một giới nhỏ, nên ông đã tái sinh là một vị Vua Rồng. Trong lúc là một Vua Rồng, ông chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông xử dụng cô như là một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông đã cho mọi người biết rằng, bất cứ ai có thể trả lời đúng câu hỏi của công chúa, thì người đó có thể lấy công chúa làm vợ. Mỗi tháng hai lần, cô con gái của Erakapatta ra nhảy múa, và hát lên những câu hỏi trước công chúng. Nhiều chàng trai theo đuổi cô, muốn lấy cô làm vợ, nên đến trả lời các câu hỏi của cô, tuy nhiên, chẳng có ai cho câu trả lời đúng.
Một ngày kia, dưới tầm nhìn của Đức Phật, ngài trông thấy một thanh niên trẻ tên là Uttara. Đức Phật cũng biết rằng thanh niên nầy sẽ đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn), qua sự kết nối với các câu hỏi của con gái Vua Rồng Erakapatta. Vào lúc đó, thanh niên trẻ nầy đang trên đường đi đến gặp cô con gái của Erakapatta. Đức Phật liền dừng anh ta lại, và ngài dạy anh cách trả lời các câu hỏi. Trong khi Đức Phật dạy bảo anh, Uttara đã đạt được Quả Nhập Lưu. Khi anh đã đạt được Quả Nhập Lưu rồi, anh không còn mong muốn lấy cô công chúa con của Vua Rồng làm vợ nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn muốn đi đến trả lời các câu hỏi của cô công chúa, với mục đích là giúp ích cho những chúng sanh khác.
Bốn câu hỏi đầu tiên là:
(1) Người cai trị là ai? (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo-đức, có được gọi là một người cai trị không? (3) Người cai trị nào mà sống có đạo-đức? (4) Loại người nào bị gọi là người ngu xuẩn?
Bốn câu trả lời cho các câu hỏi trên là:
(1) Người cai trị là người kiểm soát được sáu giác quan. (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo đức thì không được gọi là người cai trị; người mà không-còn lòng tham muốn được gọi là người cai trị (3) Người cai trị nào mà không còn lòng tham muốn, chính là người sống có đạo đức (4) Người đi tìm kiếm các thú vui nhục dục là một người ngu xuẩn.
Sau khi cô công chúa con Vua Rồng Erakapatta nghe được các câu trả lời chính xác như trên, cô công chúa bắt đầu hát tiếp các câu hỏi diễn tả các ham-muốn nhục-dục như là các trận lũ-lụt (oghas), câu hỏi về kiếp sống mới (tái sinh), về các giáo lý sai lầm và về sự thiếu hiểu biết, và phương-cách để giải-quyết các vấn-đề nầy. Uttara liền trả lời các câu hỏi nầy, giống như lời Đức Phật đã giảng dạy. Khi Erakapatta nghe các câu trả lời, ông biết rằng có một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian nầy. Vì vậy, ông nhờ Uttara dẫn ông đến gặp Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, Erakapatta kể chuyện là trong thời Đức Phật Kassapa, ông là một nhà sư, và khi ông du hành trên thuyền, ông vô tình làm một ngọn cỏ bị cắt đứt, ông đã lo lắng về việc vi phạm một giới nhỏ nầy, rồi ông đã không xin sám hối theo giới luật quy định, vì thế mà cuối cùng ông đã tái sinh làm một Vua Rồng. Sau khi nghe ông kể chuyện xong, Đức Phật nói với ông rằng, thật là khó khăn để được sinh ra làm người, và thật là khó khăn để sinh ra trong thời có các vị Phật, và thật là khó khăn để nghe được Phật Pháp.
BÀI KỆ 182, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:
manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho
manussa paṭilābho: được làm người; kiccho: (là điều) khó khăn; maccāna: (vòng sinh tử) của con người; jīvitaṃ: cuộc sống; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; saddhamma savanaṃ: được nghe Phật Pháp; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; Buddhānaṃ uppādo: sự ra đời của một vị Phật; kiccho: là điều khó khăn và là điều hiếm có
Trong vòng sinh-tử, điều rất hiếm-có là được sinh ra làm người. Điều hiếm-có và khó-khăn là được cơ hội nghe giảng Phật Pháp. Điều thật sự hiếm-có là sự ra đời của một vị Phật.
Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cú nầy, được anh Tâm Minh chuyển dịch thành thơ như sau:
(182) Khó mà sinh được làm người, Rồi ra sống được trọn đời khó hơn, Ðược nghe chánh pháp tuyên dương. Cũng là điều khó trăm đường mà thôi, Duyên may gặp Phật ra đời. Là điều hy hữu, tuyệt vời biết bao.
BÌNH LUẬN
maccāna jīvitaṃ: con người sống trong vòng sinh tử. Từ ngữ macca(con người) được dùng cho con người bởi vì ai sinh ra làm người thì cũng sẽ phải chết. Tất cả mọi hình thức của cuộc sống rồi sẽ phải chết. Tuy nhiên, từ ngữ macca có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho con người; bởi vì trong tất cả các loài động vật, con người là sinh vật duy nhất, mà có thể nhận-biết cái-chết là điều không thể nào tránh được.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 182:
182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)
182. Human birth is hard to gain,
hard for mortals is their life,
to come to Dhamma True is hard,
rare the Buddhas’ arising.
While residing near Bārānasī the Buddha spoke this verse, with reference to Erakapatta, a king of the nāgas.
Once there was a nāga king by the name of Erakapatta. In one of his past existences during the time of Kassapa Buddha he had been a monk for a long time. Through worry over a minor offence he had committed during that time, he was reborn as a nāga. As a nāga, he waited for the appearance of a Buddha. Erakapatta had a very beautiful daughter, and he made use of her as a means of finding the Buddha. He made it known that whoever could answer her questions could claim her for a wife. Twice every month, Erakapatta made her dance in the open and sing out her questions. Many suitors came to answer her questions hoping to claim her, but no one could give the correct answer.
One day, the Buddha saw a youth named Uttara in his vision. He also knew that the youth would attain sotāpatti fruition in connection with the questions put by the daughter of Erakapatta the nāga. By then the youth was already on his way to see Erakapatta’s daughter. The Buddha stopped him and taught him how to answer the questions. While he was being taught, Uttara attained sotāpatti fruition. Now that Uttara had attained sotāpatti fruition, he had no desire for the nāga princess. However, Uttara still went to answer the questions for the benefit of numerous other beings.
The first four questions were:
(1) Who is a ruler? (2) Is one who is overwhelmed by the mist of moral defilements to be called a ruler? (3) What ruler is free from moral defilements? (4) What sort of person is to be called a fool?
The answers to the above questions were:
(1) He who controls the six senses is a ruler. (2) One who is overwhelmed by the mist of moral defilements is not to be called a ruler; he who is free from craving is called a ruler. (3) The ruler who is free from craving is free from moral defilements. (4) A person who seeks for sensual pleasures is called a fool.
Having had the correct answers to the above, the nāga princess sang out questions regarding the floods (oghas) of sensual desire, of renewed existence, of false doctrine and of ignorance, and how they could be overcome. Uttara answered these questions as taught by the Buddha. When Erakapatta heard these answers he knew that a Buddha had appeared in this world. So he asked Uttara to take him to the Buddha. On seeing the Buddha, Erakapatta related to the Buddha how he had been a monk during the time of Kassapa Buddha, how he had accidentally caused a grass blade to be broken off while travelling in a boat, and how he had worried over that little offence for having failed to do the act of exoneration as prescribed, and finally how he was reborn as a nāga. After hearing him, the Buddha told him how difficult it was to be born in the human world, and to be born during the appearance of the Buddhas or during the time of their teaching.
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 182)
manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho
manussa paṭilābho: winning human existence; kiccho: (is) difficult; maccāna: of mortals; jīvitaṃ: life; kicchaṃ: (is) difficult; saddhamma savanaṃ: hearing the Dhamma; kicchaṃ: (is) difficult; Buddhānaṃ uppādo: the birth of the Buddha; kiccho: is difficult and rare
It is rarely that one is born as a human being, in this cycle of rebirth. It is difficult and rare to get the opportunity to hear the good teaching. It is, indeed, rare for the birth of a Buddha to occur.
COMMENTARY
maccāna jīvitaṃ: life of a mortal. The word macca (mortal) is applied to a human being because he is subject to death. All forms of life are subject to death. But the term macca is especially significant to human beings; because, of all animals, the human beings are the only ones that can become aware of the inevitability of death.
-----------------------------
(Vammikasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Kumarakassapa trú tại Andhavana. Rồi một vị Thiên, đêm đã gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu sáng toàn thể Andhavana, đến chỗ Tôn giả Kumarakassapa ở, sau khi đến, bèn đứng một bên. Sau khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với Tôn giả Kumarakassapa: “Tỷ-kheo, Tỷ-kheo!” Gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng. Một Bà-la-môn nói như sau: “Này kẻ trí, hãy cầm gươm và đào lên”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một then cửa: “Thưa Tôn giả, một then cửa”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con nhái: “Thưa Tôn giả, một con nhái”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy đem con nhái lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con đường hai ngã: “Thưa Tôn giả, một con đường hai ngã”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí hãy lấy con đường hai ngã lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một đồ lọc sữa: “Thưa Tôn giả, một đồ lọc sữa”. Vị Bà-la-môn nói: “Hãy lấy đồ lọc sữa lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con rùa: “Thưa Tôn giả, một con rùa”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con rùa lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con dao phay: “Thưa Tôn giả, một con dao phay”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con dao phay lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một miếng thịt: “Thưa Tôn giả một miếng thịt”. Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy miếng thịt lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con rắn hổ: “Thưa Tôn giả, con rắn hổ”. Vị Bà-la-môn nói: “Hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ”. Này Tỷ-kheo, hãy đến chỗ Thế Tôn ở và hỏi những câu hỏi ấy. Thế Tôn trả lời Tôn giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì. Này Tỷ-kheo, Ta không thấy ai trên cõi đời, với chư Thiên, các Ma vương, với Phạm thiên, các chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể hướng tâm để trả lời những câu hỏi ấy, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này”. Vị thiên ấy nói như vậy. Sau khi nói xong như vậy, vị ấy biến mất ở nơi đây.
Rồi Tôn giả Kumarakassapa, sau khi đêm ấy đã mãn, đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Kumarakassapa bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, đêm nay, một vị Thiên, đêm đã gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu sáng toàn thể Andhavana, đến chỗ con ở, sau khi đến liền đứng một bên. Khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với con: “Tỷ-kheo, Tỷ-kheo! Gò mối này, ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng. Một vị Bà-la-môn nói như sau: “Này kẻ trí, hãy cầm gươm đào lên”. Người có trí cầm gươm, đào lên thấy một then cửa... (như trên)... đệ tử Như Lai hay những ai đã được nghe hai vị này”. Bạch Thế Tôn, vị Thiên ấy nói như vậy, nói xong liền biến mất tại chỗ ấy. Bạch Thế Tôn, gò mối là gì, cái gì phun khói ban đêm, cái gì chiếu sáng ban ngày, ai là Bà-la-môn, ai là người có trí, cái gì là cây gươm, cái gì là đào lên, cái gì là then cửa, cái gì là con nhái, cái gì là con đường hai ngã, cái gì là đồ lọc sữa, cái gì là con rùa, cái gì là con dao phay, cái gì là miếng thịt, cái gì là con rắn hổ?
– Này Tỷ-kheo, gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.
Này Tỷ-kheo, cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói.
Này Tỷ-kheo, cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.
Này Tỷ-kheo, Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Này Tỷ-kheo, người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học.
Này Tỷ-kheo, cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh.
Này Tỷ-kheo, đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.
Này Tỷ-kheo, cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận; đem con nhái lên là từ bỏ phẫn nộ hiềm hận; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc; đem con đường hai ngã lên là từ bỏ nghi hoặc; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái; đem bỏ đồ lọc sữa lên là từ bỏ năm triền cái; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục hấp dẫn; lấy con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham; lấy miếng thịt lên là từ bỏ hỷ tham; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
Này Tỷ-kheo, con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH GÒ MỐI, THỨ HAI MƯƠI BA HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________________________
>>> 22.Kinh Ví Dụ Con Rắn
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác; hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác; hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác; chấm dứt được lòng tham muốn (nghĩa là, đạt được quả A La Hán), là xa lìa tất cả mọi khổ đau (đau khổ vì phải sống trong vòng sinh-tử).
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Các Câu Hỏi Của Vua Trời Đế Thích, Kệ 354, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Vượt Qua Mọi Sự Đau Khổ - Câu Chuyện Về Các Câu Hỏi Của Vua Trời Đế Thích, Kệ 354 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 354:
354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)
354. Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác,
Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác,
Hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác,
Chấm dứt được lòng tham muốn, là xa lìa tất cả mọi khổ đau.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về bốn câu hỏi của Vua Trời Đế Thích (Sakka), vua của các thiên thần.
Có một lần, trong một buổi họp của các thiên thần ở cõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc là cõi trời Đao Lợi), bốn câu hỏi được đặt ra, và không thiên thần nào có câu trả lời chính xác. Cuối cùng, vua Trời Đế Thích dẫn các thiên thần đến gặp Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên. Sau khi giải thích sự khó khăn của họ, vua Trời Đế Thích đã thưa hỏi Đức Phật bốn câu hỏi sau đây:
(1) Trong số tất cả những món quà tặng, món quà tặng nào là cao quý nhất?
(2) Trong số tất cả các hương vị, hương vị nào là thơm ngọt nhất?
(3) Trong số tất cả các niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc nào là an lạc nhất?
(4) Tại sao chấm dứt được lòng tham muốn, là việc làm xuất sắc nhất?
Đức Phật đã trả lời các câu hỏi nầy như sau, "Nầy, Đế Thích, Phật Pháp chính là món quà tặng cao quý nhất, là hương vị thơm ngon nhất, và là niềm hạnh phúc an lạc nhất. Chấm dứt được lòng tham muốn, là dẫn đến quả vị A La Hán, cho nên, điều nầy chính là việc làm xuất sắc nhất".
Vào cuối bài giảng, vua Trời Đế Thích nói với Đức Phật, "Bạch Thế Tôn, món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng khác, thế thì, bất cứ khi nào những món quà Phật Pháp được biếu tặng, tại sao chúng ta không chia sẻ công đức nầy cho mọi người? Con nguyện cầu rằng, từ bây giờ trở đi, chúng ta có thể chia sẻ giá-trị của việc làm thiện-lành đến với mọi người." Sau đó, Đức Phật yêu cầu tất cả các nhà sư nhóm họp lại, và khuyến khích họ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức).
Kể từ ngày đó trở đi, điều nầy đã trở thành một thông lệ cho mọi chúng sanh trong ba-mươi-mốt cõi (bhumis), sau mỗi lần làm xong việc thiện (thí dụ như sau khi nghe Phật Pháp, hoặc tụng kinh), họ sẽ chia sẻ giá trị của việc làm thiện-lành đến cho mọi người (hồi hướng công đức).
BÀI KỆ 354, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti
dhammadānaṃ: món quà tặng về Phật Pháp; sabbadānaṃ: tất cả những món quà tặng; jināti: chinh phục; dhammaratī: hương vị của Phật Pháp; ratiṃ sabbaṃ: thơm ngọt hơn tất cả các hương vị khác; jināti: chinh phục; dhammaratī: hạnh phúc trong Phật Pháp; sabbaṃ ratiṃ: an lạc hơn tất cả các hạnh phúc khác; taṇhakkhayo: chấm dứt được lòng tham muốn; sabbadukkhaṃ: tất cả mọi khổ đau; jināti: chinh phục.
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác; hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác; hạnh phúc trong Phật Pháp, an lạc hơn tất cả những hạnh phúc khác; chấm dứt được lòng tham muốn (nghĩa là, đạt được quả A La Hán), là xa lìa tất cả mọi khổ đau (đau khổ vì phải sống trong vòng sinh-tử).
Bài kệ 354 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(354) Coi như bố thí hàng đầu. Là đem Chân Lý nhiệm mầu tặng nhau, Coi như hương vị tối cao. Hương vị Chân Lý ngọt ngào dài lâu. Coi như hoan hỷ hàng đầu. Niềm vui Chân Lý thấm sâu tuyệt vời, Người nào ái dục diệt rồi. Vượt qua phiền não, xa rời khổ đau.
BÌNH LUẬN
sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: Món quà tặng về Phật Pháp cao quý hơn tất cả các món quà tặng. Để làm sáng tỏ câu nói trên, Đức Phật còn nói thêm rằng, tất cả những món quà-tặng vật-chất tuyệt vời và ấn tượng dâng lên cúng Phật, Pháp và Tăng Đoàn đã xảy ra tốt đẹp, bởi vì trước đó, món quà tặng về Phật Pháp đã xảy ra. Chính món quà tặng về Phật Pháp đã thuyết phục những người tài trợ hiến tặng các đóng góp về vật chất khác. Ngay cả các vị hiền thánh vĩ đại đạt được các quả vị tinh thần cao quý, hoàn toàn bởi vì trước đó, họ đã nhận được những món quà tặng về Phật Pháp.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
The Conquests Of All Suffering - The Story Of The Questions Raised By Sakka, Verse 354 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 354:
354. Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti
sabbaṃrasaṃ dhammaraso jināti
sabbaṃratiṃ dhammaratī jināti
taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti. (24:21)
354. Gift of Dhamma surpasses all gifts,
the Dhamma, its taste all other tastes beats,
delight in the Dhamma bests other delights,
destruction of craving conquers all ill.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to four questions raised by Sakka, king of the devas.
On one occasion, at a meeting of the devas in the Tāvatiṃsa realm, four questions were raised, but the devas failed to get the correct answers. Eventually, Sakka took these devas to the Buddha at the Jetavana Monastery. After explaining their difficulty, Sakka presented the following four questions:
(1) Among gifts, which is the best?
(2) Among tastes, which is the best?
(3) Among delights, which is the best?
(4) Why is the eradication of craving said to be the most excellent?
To these questions, the Buddha replied, “O’ Sakka, the Dhamma is the noblest of all gifts, the best of all tastes and the best of all delights. Eradication of craving leads to the attainment of arahatship and is, therefore, the greatest of all conquests.”
At the end of the discourse, Sakka said to the Buddha, “Venerable, if the gift of the Dhamma excels all gifts why are we not invited to share the merit whenever gifts of the Dhamma are made? I pray that, from now on, we may be given a share in the merit of good deeds.” Then the Buddha asked all the monks to assemble and exhorted them to share the merit of all their good deeds with all beings.
Since then, it has become a custom to invite all beings from the thirty-one realms (bhumis) to come and share merit whenever a good deed is done.
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 354)
dhammadānaṃ sabbadānaṃ jināti sabbaṃ rasaṃ jināti dhammaratī sabbaṃ ratiṃ jināti dhammaraso taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti
dhammadānaṃ: the gift of dhamma; sabbadānaṃ: all gifts; jināti: conquers; dhammaratī: the flavour of the dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all flavours conquers; jināti: conquers; dhammaratī: the love of dhamma; sabbaṃ ratiṃ: all loves conquer; taṇhakkhayo: he who has got rid of craving; sabbadukkhaṃ: all sufferings; jināti: conquers.
The gift of the Dhamma excels all gifts; the taste of the Dhamma excels all tastes; delight in the Dhamma excels all delights. The eradication of craving (i.e., attainment of arahatship) overcomes all ills (saṃsāra dukkha).
COMMENTARY
sabbadānaṃ Dhammadānaṃ: The gift of Dhamma conquers all gifts. The Buddha, elucidating this statement, further stated all the great and impressive material gifts to the Buddha, the Dhamma and the Sangha were made possible because, initially, the gift of Dhamma had been made. The gift of Dhamma persuaded the donors to make these other material donations. Even great saints achieved their high spiritual conquests entirely because of the gift of Dhamma they received.
-----------------------------
(Alaggadupamasutttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”. Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: “Tỷ-kheo tên Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”. Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau:
– Này Hiền giả Arittha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì”?
– Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... không có chướng ngại gì.
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận: - “Hiền giả Arittha, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Arittha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như một miếng thịt... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như bó đuốc cỏ khô... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như hố than hừng... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như cơn mộng... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như vật dụng cho mượn... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như trái cây... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như lò thịt... Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như gậy nhọn... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn”.
– Tỷ-kheo Arittha xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: “Thật sự là vậy, theo như tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì”.
Vì các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên họ đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì”. Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: “Tỷ-kheo tên Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng... không có chướng ngại gì”. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
“– Này Hiền giả Arittha, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì”.
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, nói với chúng con như sau:
“– Thật sự là vậy. Chư Hiền, theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì.
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
– “Hiền giả Arittha, chớ nói như vậy! Chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy, Hiền giả Arittha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn, thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: “Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... không có chướng ngại gì”. Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo khác:
– Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng: “Hiền giả Arittha, bậc Đạo sư gọi Hiền giả”.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
– Hiền giả Arittha, bậc Đạo sư gọi Hiền giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đang ngồi xuống một bên:
– Này Arittha, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì”?
– Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì.
– Này kẻ ngu si kia, sao Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy? Này kẻ ngu si kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại? Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương... Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt... được ví như bó đuốc cỏ khô... được ví như hố than hừng... được ví như cơn mộng... được ví như vật dụng cho mượn... được ví như trái cây... được ví như lò thịt... được ví như gậy nhọn... Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Và này kẻ ngu si kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong Pháp luật này không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được! Không thể được, bạch Thế Tôn.
Được nói vậy, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng đang im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
– Này kẻ ngu si kia, người ta sẽ được biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng, giống như Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và gây nên nhiều tổn đức?
– Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp; và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn, Thế Tôn đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)... Thế Tôn đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
– Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo!
Các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục ví như khúc xương... (như trên)... Ta đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Nhưng Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy. Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp. Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp... Chư Tỷ-kheo, vì sự chấp thủ các pháp sai lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng. Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp. ChưTỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn. Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy. Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp... chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các Ông hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.
Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Người đó tự suy nghĩ: “Đây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn”. Chư Tỷ-kheo, rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, Người đó suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng của chiếc bè chăng?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè... Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
Này các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc pháp: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”, xem cảm thọ: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”, xem tưởng: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”, xem các hành: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”, xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”, và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ, trú như thế này cho đến mãi mãi”, xem như vậy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”. Và này chư Tỷ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, xem sắc pháp: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, xem cảm thọ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, xem tưởng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, xem các hành: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”, xem như vậy là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn.
Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
– Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp:
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy”. Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy, có cái không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền muộn.
– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể không gây lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp:
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người không nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy”. Người đó không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Như vậy, này Tỷ-kheo, có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.
– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn?
Thế Tôn đáp:
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người có (tà) kiến như sau: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú không biến chuyển. Tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Người đó có thể nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”. Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.
– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn?
Thế Tôn đáp:
– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người không có (tà) kiến như sau: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy không nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”. Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc; vị ấy không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nắm giữ một vật sở hữu gì, và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không? Chư Tỷ-kheo, các Ông có thể thấy một vật sở hữu nào được nắm giữ và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một vật sở hữu được nắm giữ nào, mà vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
– Bạch Thế Tôn không.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Này các Tỷ-kheo, các Ông có kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy, lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã thời có ngã sở thuộc của tôi không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã của tôi không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Chư Tỷ-kheo, nếu ngã và ngã sở thuộc không thể được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thì kiến xứ này: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thành thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si được!
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, vô thường.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Bạch Thế Tôn, khổ.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Bạch Thế Tôn, là khổ.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi... tự ngã của tôi”?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, vô thường.
– Cái gì vô thường...?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô thường... chư Tỷ-kheo, thức là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, vô thường.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Bạch Thế Tôn, khổ.
– Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc pháp là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ. Bất cứ cảm thọ nào... Bất cứ tưởng nào... Bất cứ hành nào... Bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống khác”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ đi các chướng ngại vật, là vị đã lấp đầy các thông hào, là vị đã nhổ lên cột trụ, là vị đã mở tung các lề khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Và thế nào là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp đầy các thông hào? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp đầy thông hào. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã giải thoát như vậy, thì chư Thiên ở Đế thích Thiên giới, Phạm thiên giới, Sanh chủ giới sẽ không tìm được dấu vết của Tỷ-kheo ấy, nếu nghĩ rằng: “Y ở đây, có thức của Như Lai”. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu vết”. Chư Tỷ-kheo, Ta nói như vậy, thuyết như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thực: “Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình”. Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta không là như vậy, Ta không nói như vậy, Ta không như các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã xuyên tạc một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thật: “Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình”. Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho Như Lai tức giận, thì này các Tỷ-kheo, ở đây, Như Lai không có sân hận, không có bất mãn, tâm không phẫn nộ. Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây, những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai không có hoan hỷ, sung sướng, Tâm không thích thú. Chư Tỷ-kheo, nếu những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai suy nghĩ: “Đây là điều xưa kia đã từng biết rõ: ở đây là trách nhiệm Ta phải làm”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho các Ông tức giận, ở đây các Ông chớ có sân hận, bất mãn, tâm chớ khởi phẫn nộ. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông chớ có hoan hỷ, sung sướng, tâm sanh thích thú. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông hãy suy nghĩ: “Đây là điều xưa kia đã từng biết rõ, đây là những trách nhiệm ta phải làm”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các Ông, hãy từ bỏ thọ. Các Ông từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các Ông, hãy từ bỏ tưởng. Các Ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các Ông, hãy từ bỏ các hành. Các Ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn, các Ông có nghĩ chăng? Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, và cái gì không phải của các Ông? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thọ... (như trên)... Chư Tỷ-kheo tưởng... (như trên)... Chư Tỷ-kheo, hành... Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ chánh trí, vòng luân chuyển (sanh tử) của những vị này không thể chỉ bày. Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, thì những vị này thành các vị hóa sanh, nhập diệt tại đây, không còn phải trở lui vào đời này nữa. Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vãi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham sân si, thì tất cả những vị ấy thành bậc Nhất lai, chỉ đến đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đoạn trừ ba kiết sử, thì tất cả những vị ấy trở thành bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc ác thú, quyết định hướng đến chánh giác. Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được ta khéo giảng... được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, thì tất cả những vị này sẽ hướng về chánh giác, chư Tỷ-kheo, như vậy pháp được Ta khéo giảng... được loại trừ khỏi các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta, thì tất cả những vị ấy được hướng về chư Thiên.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH VÍ DỤ CON RẮN, THỨ HAI MƯƠI HAI HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________________________
>>> 21.Kinh Ví Dụ Cái Cưa
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Tôn Giả A-Nan, Kệ 387, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Đức Phật Tỏa Sáng, Suốt Ngày Đêm - Câu Chuyện Về Tôn Giả A-Nan, Kệ 387 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(The Buddha Shines Day And Night - The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 387:
387. Divā tapati ādicco
rattiṃ ābhāti candimā
sannaddho khattiyo tapati
jhāyī tapati brāhmaṇo
atha sabbaṃ ahorattiṃ
Buddho tapati tejasā. (26:5)
Mặt trời tỏa sáng, lúc ban ngày,
mặt trăng tỏa sáng, lúc ban đêm,
người chiến-sĩ tỏa sáng, lúc mặc áo giáp,
vị A La Hán (Bà La Môn) tỏa sáng, lúc thiền định.
Tuy nhiên, Đức Phật tỏa sáng rực rỡ, suốt ngày đêm.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
Câu chuyện được kể rằng trong buổi Lễ Kết Thúc Trọng Đại, vua Ba Tư Nặc (Pasenadi Kosala) đi đến tu viện trong trang phục vàng bạc và châu báu, xức nước hoa, đeo vòng hoa trên cổ và trên tay. Vào lúc đó, Đại Đức Kāludāyi đang ngồi thiền phía bên ngoài của nơi chư tăng nhóm họp, và ông đang ở trạng thái đại thiền định. Thân thể của Đại Đức lúc nầy được trông thấy tỏa sáng ánh vàng. Ngay lúc bấy giờ, có mặt trời lặn, và mặt trăng mọc. Tôn Giả A-Nan nhìn sự rạng rỡ của mặt trời khi lặn, và sự rạng rỡ của mặt trăng khi mọc; rồi Tôn Giả nhìn sự rạng rỡ từ thân thể của nhà vua, và sự rạng rỡ từ thân thể của Đại Đức, rồi Tôn Giả nhìn sự rạng rỡ từ thân thể của Đức Như Lai. Đức Phật đã tỏa sáng rực rỡ hơn tất cả mọi người và vật khác.
Tôn Giả đảnh lễ Đức Phật, rồi nói rằng, "Bạch Thế Tôn, hôm nay con chú tâm nhìn sự rạng rỡ từ các thân thể, và sự rạng rỡ từ thân thể ngài làm cho con cảm thấy phấn khởi nhất; bởi vì, thân thể ngài tỏa sáng rực rỡ hơn tất cả các thân thể khác." Đức Phật liền nói với Tôn Giả, "Nầy A-Nan, mặt trời tỏa sáng lúc ban ngày, mặt trăng tỏa sáng lúc ban đêm, vua chúa tỏa sáng khi mặc trang phục vàng bạc và châu báu, sau khi ngồi thiền một mình, vị A La Hán tỏa sáng lúc ở trạng thái đại thiền định. Tuy nhiên, các vị Phật tỏa sáng, suốt cả ngày và đêm, với cường độ cao hơn gấp năm-lần."
BÀI KỆ 387, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
ādicco divā tapati candimā rattiṃ obhāti khattiyo
annaddho tapati brāhmaṇo jhāyī tapati atha
sabbaṃ ahorattiṃ Buddho tejasā tapati
ādicco: mặt trời; diva: lúc ban ngày; tapati: tỏa sáng; candimā: mặt trăng; rattiṃ: vào ban đêm; obhāti: tỏa sáng; khattiyo: người chiến sĩ; sannaddho: mặc áo giáp của ông ta; tapati: tỏa sáng; brāhmaṇo: người tu hành Bà La Môn; jhāyī: trong khi thiền; tapati: tỏa sáng; atha: nhưng; sabbaṃ: khắp nơi; ahorattiṃ: ngày và đêm; Buddho: Đức Phật; tejasā: trong ánh hào quang; tapati: tỏa sáng
Mặt trời tỏa sáng lúc ban ngày. Mặt trăng tỏa sáng lúc ban đêm. Người chiến-sĩ tỏa sáng lúc mặc áo giáp. Vị A La Hán (Bà La Môn) tỏa sáng, lúc tập trung vào thiền định. Tất cả mọi người, và vật nói trên, tùy lúc tỏa sáng. Tuy nhiên, Đức Phật tỏa sáng rực rỡ suốt ngày đêm, bởi vì ngài là bậc Giác Ngộ.
Bài kệ 387 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(387) Mặt trời chiếu sáng ban ngày. Mặt trăng đêm xuống tỏa đầy ánh quang. Gươm đao, nhung giáp huy hoàng. Trận tiền chiếu sáng rỡ ràng cho Vua. Bà La Môn vốn từ xưa. Hào quang chiếu sáng khi tu hành thiền, Nhưng hào quang Phật vô biên. Ngày đêm chiếu sáng khắp miền nhân gian.
BÌNH LUẬN
jhāyī: thiền; như là một người ngồi thiền; như một người thực hành thiền, jhāna (sự tập trung). Tầng thiền (jhāna) là một trạng thái tinh thần vượt ra ngoài tầm hoạt động của năm giác quan. Tầng thiền nầy chỉ có thể đạt được ở nơi yên tĩnh, vắng lặng, và người hành thiền kiên trì thực hành sự tập trung, không ngừng nghỉ.
Tách ra khỏi các đối tượng gợi cảm, và tách ra khỏi những điều xấu xa, người đệ-tử đi vào tầng thiền thứ nhất, với các ý nghĩ - quan niệm (hướng tâm đến đối tượng, vitakka) và suy nghĩ lan man (tiếp tục giữ tâm trên đối tượng, vicāra) - được phát sinh từ sự tách biệt, rồi người nầy cảm thấy hoàn toàn vui vẻ và hạnh phúc.
Đây là tầng thiền thứ nhất thuộc lãnh vực vật-chất tinh-tế (rūpāvacarajjhāna). Đạt được tầng thiền nầy là nhờ sức mạnh của sự tập trung, sự tạm đình-chỉ các hoạt động của năm giác quan, và năm chướng-ngại hầu như đã được loại bỏ.
Ở tầng thiền thứ nhất, có năm yếu tố đã được loại bỏ, và có năm yếu tố còn có mặt. Khi người đệ-tử nhập vào tầng thiền thứ nhất, ông đã loại bỏ được năm chướng ngại (triền cái, hindrances): lòng tham dục, ý xấu (sân hận), hôn mê và lười biếng (hôn trầm), sự bồn chồn và sự lo lắng về tinh thần (trạo cử), và sự nghi ngờ; và có năm yếu tố hãy còn có mặt: quan niệm (hướng tâm đến đối tượng, vitakka), suy nghĩ lan man (tiếp tục giữ tâm trên đối tượng, vicāra), sự vui vẻ (pīti), niềm hạnh phúc (sukha), và sự tập trung (citt'ekaggatā - samādhi).
Năm yếu tố tinh thần còn có mặt trong tầng thiền đầu tiên được gọi là yếu tố (hoặc là thành phần) của tầng thiền (jhānañga). Vitakka (hình thành ban đầu của một ý nghĩ trừu tượng) và vicāra (suy nghĩ lan man, sự suy ngẫm) được gọi là chức năng qua lời nói (vācā-sankhāra) của tâm; vì thế, cả hai yếu tố nầy là yếu tố phụ thuộc của cái-biết. Trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi-magga), vitakkha được so sánh với người-giữ-bình, và vicāra với người-lau-bình. Trong tầng thiền đầu tiên, cả hai yếu tố nầy có mặt ở một mức độ yếu kém, tuy nhiên, cả hai yếu tố nầy hoàn toàn vắng mặt ở các tầng thiền kế tiếp.
Tiếp theo đó, sau khi mức độ của cả hai yếu tố nói trên từ từ giảm xuống, và khi người đệ-tử làm tăng mức độ của sự an tĩnh trong tâm, và sự hiệp nhất của tâm, ông ta đi vào tầng thiền thứ nhì (không còn có hai yếu tố nói trên), và làm phát-sinh thêm sự tập trung (thiền định, samādhi), nên ông cảm thấy hoàn toàn vui vẻ (pīti), và hạnh phúc (sukha).
Trong tầng thiền thứ nhì, có ba yếu tố: vui vẻ, hạnh phúc, và sự tập trung.
Tiếp theo đó, sau khi yếu tố vui vẻ từ từ ít đi, người đệ-tử sống trong bình an, chú-tâm đúng-đắn, và có sự nhận biết rõ ràng; rồi ông cảm nghiệm trong tâm ông, cảm giác mà các bậc cao-quý đã nói rằng: Người mà kiểm-soát được tâm và chú-tâm đúng-đắn là người hạnh phúc - và như thế, ông đi vào tầng thiền thứ ba.
Trong tầng thiền thứ ba có hai yếu tố: sự buông xả-là hạnh phúc (upekkhā-sukha) và sự tập trung (citt'ekaggatā).
Tiếp theo đó, sau khi từ bỏ được niềm vui thích và sự đau đớn, và khi niềm vui và đau buồn trước-đó biến-mất, ông bước vào một trạng-thái vượt-qua khỏi niềm vui thích và sự đau đớn, rồi ông đi vào tầng thiền thứ tư, tầng thiền trong-sạch nhờ có sự buông-xả nên bình-an, và nhờ có sự chú tâm đúng đắn.
Trong tầng thiền thứ tư có hai yếu tố: sự tập trung và sự buông-xả nên bình-an (upekkhā).
Trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi-magga) có bốn mươi chủ đề về thiền (kammaṭṭhāna) được liệt kê, và được phân tích chi tiết.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
The Buddha Shines Day And Night - The Story Of Venerable Ānanda, Verse 387 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 387:
387. Divā tapati ādicco
rattiṃ ābhāti candimā
sannaddho khattiyo tapati
jhāyī tapati brāhmaṇo
atha sabbaṃ ahorattiṃ
Buddho tapati tejasā. (26:5)
The sun is bright by day,
the moon enlights the night,
armoured shines the warrior,
contemplative the Brahmin True.
But all the day and night-time too
resplendent does the Buddha shine.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Venerable Ānanda.
The story goes that on the Great Terminal Festival, Pasenadi Kosala went to the monastery adorned with all the adornments, bearing perfumes, garlands and the like in his hands. At that moment Venerable Kāludāyi was sitting in the outer circle of the congregation, having entered into a state of trance. His body was pleasing to look upon, for it was of a golden hue. Now just at that moment the moon rose and the sun set. Venerable Ānanda looked at the radiance of the sun as the sun set, and of the moon as the moon rose; then he looked at the radiance of the body of the king and at the radiance of the body of the Venerable and at the radiance of the body of the Tathāgata. The Buddha far outshone the radiance of all the others.
The Venerable saluted the Buddha and said, “Venerable, as today I gazed upon the radiance of all these bodies, the radiance of your body alone satisfied me; for your body far outshone the radiance of all these other bodies.” Said the Buddha to the Venerable, “Ānanda, the sun shines by day, the moon by night, the king when he is adorned, the arahat when he has left human associations behind and is absorbed in trance. But the Buddhas shine both by night and by day, and shine with five-fold brightness.”
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 387)
ādicco divā tapati candimā rattiṃ obhāti khattiyo
annaddho tapati brāhmaṇo jhāyī tapati atha
sabbaṃ ahorattiṃ Buddho tejasā tapati
ādicco: the sun; divā: during day; tapati: shines; candimā: the moon; rattiṃ: at night; obhāti: shines; khattiyo: the warrior; sannaddho: dressed in his armour; tapati: gleams; brāhmaṇo: the brāhmaṇa; jhāyī: in meditation; tapati: shines; atha: but; sabbaṃ: throughout; ahorattiṃ: day and night; Buddho: the Buddha; tejasā: in his glory; tapati: shines
The sun shines during daytime. The moon beams at night. The warrior glows only when he has his armour on. The brāhmaṇa shines when he is concentrated on contemplation. All these people have various times to shine. But the Buddha glows all day and all night through his Enlightenment.
COMMENTARY
jhāyī: meditating; as one meditates; as an individual practises jhāna (concentration). The absorption in jhāna is a mental state beyond the reach of the five-fold sense-activity. This state can be achieved only in solitude and by unremitting perseverance in the practice of concentration.
Detached from sensual objects, detached from evil things, the disciple enters into the first absorption, which is accompanied by thought - conception and discursive thinking, is born of detachment, and filled with rapture and happiness.
This is the first of the absorptions belonging to the fine-material sphere (rūpāvacarajjhāna). It is attained when, through the strength of concentration, the five-fold sense-activity is temporarily suspended, and the five hindrances are likewise eliminated.
The first absorption is free from five things, and five things are present. When the disciple enters the first absorption, there have vanished the five hindrances: lust, ill-will, torpor and sloth, restlessness and mental worry, doubts; and there are present: thought-conception (vitakka), discursive-thinking (vicāra), rapture (pīti), happiness (sukha), and concentration (citt’ekaggatā – samādhi).
These five mental factors present in the first absorption are called factors (or constituents) of absorption (jhānañga). Vitakka (initial formation of an abstract thought) and vicāra (discursive thinking, rumination) are called verbal functions (vācā-sankhāra) of the mind; hence they are something secondary compared with consciousness. In visuddhi-magga, vitakka is compared with the taking hold of a pot, and vicāra with the wiping of it. In the first absorption both of them are present only in a weak degree, and are entirely absent in the following Absorptions.
And further, after the subsiding of thought-conception and discursive thinking, and by the gaining of inner tranquillity and oneness of mind, he enters into a state free from thought-conception and discursive thinking, the second absorption, which is born of concentration (samādhi) and filled with rapture (pīti) and happiness (sukha).
In the second absorption, there are three factors of absorption: happiness and concentration.
And further, after the fading away of rapture, he dwells in equanimity, mindful, with clear awareness; and he experiences in his own person that feeling of which the noble ones say: Happy lives he who is equanimous and mindful – thus he enters the third absorption.
In the third absorption there are two factors of absorption: equanimous happiness (upekkhā-sukha) and concentration (citt’ekaggatā).
And further, after the giving up of pleasure and pain, and through the disappearance of previous joy and grief, he enters into a state beyond pleasure and pain, into the fourth absorption, which is purified by equanimity and mindfulness.
In the fourth absorption there are two factors of absorption: concentration and equanimity (upekkhā).
In visuddhi-magga forty subjects of meditation (kammaṭṭhāna) are enumerated and treated in detail.
-----------------------------
(Kakacupamasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ. Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau: Nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt Tôn giả Moliyaphagguna nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, Tôn giả Moliyaphagguna liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay; nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo-ni ấy, nói xấu Tôn giả Moliyaphagguna, các Tỷ-kheo-ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay. Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như vậy. Có một Tỷ-kheo khác đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau: Nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt Tôn giả Moliyaphagguna nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, Tôn giả Moliyaphagguna liền phẫn nộ, bất mãn và vấn tội ngay; nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo-ni ấy, nói xấu Tôn giả Moliyaphagguna, các Tỷ-kheo-ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn và vấn tội ngay. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ như vậy.
Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo khác và bảo:
– Này Tỷ-kheo, hãy đi, nhân danh Ta, cho gọi Tỷ-kheo Moliyaphagguna: “Hiền giả Phagguna bậc Đạo sư gọi Hiền giả”.
– Bạch Thế Tôn, vâng!
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến chỗ Tôn giả Moliyaphagguna, khi đến xong, liền thưa Tôn giả Moliyaphagguna:
– Hiền giả Moliyaphagguna, bậc Đạo sư gọi Hiền giả.
– Vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Moliyaphagguna vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Moliyaphagguna đang ngồi xuống một bên:
– Này Phagguna, có đúng sự thật không, như lời người ta đồn là Ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ. Người ta đồn Ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như sau: “Nếu Tỷ-kheo nào, trước mặt Ông nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, Ông liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay; nếu Tỷ-kheo nào, trước mặt Tỷ-kheo-ni ấy, nói xấu Ông, các Tỷ-kheo-ni ấy liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội ngay”. Này Phagguna, có phải Ông sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni như vậy?
– Bạch Thế Tôn, có như vậy.
– Này Phagguna, có phải Ông là Thiện nam tử, vì lòng tin, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Này Phagguna, thật không xứng đáng cho Ông, một Thiện nam tử, vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, mà sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ như vậy.
Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt Ông, nói xấu các Tỷ-kheo-ni ấy, này Phagguna, Ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục. Này Phagguna, Ông phải học tập như sau: “Mong rằng tâm của ta sẽ không bị biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!” Này Phagguna, Ông phải học tập như vậy. Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt Ông, lấy tay đánh những Tỷ-kheo-ni ấy, lấy đất ném, lấy gậy đập, lấy gươm đánh, này Phagguna, Ông phải từ bỏ những dục... không ôm lòng sân hận. Này Phagguna, Ông phải học tập như vậy. Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt Ông nói xấu (ai), này Phagguna, Ông phải từ bỏ những dục... không ôm lòng sân hận. Này Phagguna, Ông phải học tập như vậy. Do vậy, này Phagguna, nếu có ai trước mặt Ông lấy tay đánh, lấy đất ném, lấy gậy đập, lấy gươm đánh, này Phagguna, Ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục. Này Phagguna, Ông phải học tập như sau: “Mong rằng tâm của ta sẽ không bị biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!” Này Phagguna, Ông phải học tập như vậy.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, một thời các Tỷ-kheo của Ta có tâm rất thuần thục hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Ta bảo các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, Ta theo hạnh nhất tọa thực. Chư Tỷ-kheo, sống theo hạnh nhất tọa thực, Ta cảm thấy không bệnh tật, không ốm đau, nhẹ nhàng, khang kiện và sảng khoái. ChưTỷ-kheo, các Người hãy sống theo hạnh nhất tọa thực. Chư Tỷ-kheo, các Người theo hạnh nhất tọa thực thời các Người sẽ cảm thấy không bệnh tật, không ốm đau, nhẹ nhàng, khang kiện và sảng khoái. ChưTỷ-kheo, Ta không cần phải giảng dạy gì cho các Tỷ-kheo ấy; chư Tỷ-kheo, Ta chỉ cần khơi dậy ức niệm nơi các Tỷ-kheo ấy. Chư Tỷ-kheo, ví như trên đất bằng, tại chỗ ngã tư, có một chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa hay, có roi ngựa đặt ngang sẵn sàng. Có người mã thuật sư thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào, theo ý mình muốn. Cũng vậy chư Tỷ-kheo, Ta không cần phải giảng dạy gì cho các Tỷ-kheo ấy; chư Tỷ-kheo, Ta chỉ cần khơi dậy ức niệm nơi các Tỷ-kheo ấy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp, như vậy các Người mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp luật này. Chư Tỷ-kheo, cũng như gần một thôn làng hay thị trấn nhỏ, có ngôi rừng cây tala lớn, ngôi rừng bị các cây leo y lan bao phủ. Có một người đến khu rừng này, muốn lợi ích cho ngôi rừng, muốn hạnh phúc, muốn an ổn khỏi các ách phược cho ngôi rừng. Người ấy chặt đứt các nhành cây cong thiếu hẳn sinh lực, vất chúng ra khỏi ngôi rừng, dọn dẹp trong rừng sạch sẽ. Người ấy săn sóc kỹ lưỡng các nhánh cây tala thẳng thắn, khéo mọc. Chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, ngôi rừng như vậy được trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các Người hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp, như vậy các Người mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp luật này.
Chư Tỷ-kheo, thuở xưa, tại thành Savatthi này có nữ gia chủ tên là Vedehika. Chư Tỷ-kheo, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được khởi lên về nữ gia chủ Vedehika: “Nữ gia chủ Vedehika là hiền thục, nữ gia chủ Vedehika là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehika là ôn hòa”. Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehika có người nữ tỳ tên là Kali, người này khéo tay, siêng năng, và làm việc cẩn thận chu toàn. Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali khởi lên ý nghĩ: “Chủ của ta được tiếng đồn tốt đẹp khởi lên như sau: “Nữ gia chủ Vedehika là hiền thục; nữ gia chủ Vedehika là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehika là ôn hòa”. Không biết nữ chủ của ta có nội sân mà không tỏ lộ hay không có nội sân, hay vì công việc ta-làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ ta có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy ta hãy thử nữ chủ của ta!” Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng ngày sau dậy thật trễ. Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali:
“– Này Kali!
“– Thưa Nữ chủ, có việc gì?
“– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?
“– Thưa nữ chủ, có việc gì đâu?
“– Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!”
Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, trừng mắt.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ: “Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vì những công việc ta làm cẩn thận chu toàn, nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy Ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!” Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali ngày sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali:
“– Này Kali!
“– Thưa Nữ chủ, có việc gì?
“– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?
“– Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu?
“– Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!”
Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, thốt lên những lời bất mãn.
Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ: “Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vì những công việc ta làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!”
Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng hôm sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali:
“– Này Kali!
“– Thưa Nữ chủ, có việc gì?
“– Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?
“– Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu?
“– Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!”
Rồi phẫn nộ, không hoan hỷ, nàng cầm cái then gài cửa, đánh một cú trên đầu nữ tỳ khiến bể đầu. Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali, với đầu bể máu chảy, liền đi kể lể với các nhà láng giềng:
“– Hãy xem việc làm của nữ chủ hiền thục! Hãy xem việc làm của nữ chủ nhu thuận! Hãy xem việc làm của nữ chủ ôn hòa! Sao nữ chủ nói với nữ tỳ độc nhất: “Hôm nay Ngươi dậy trễ”, rồi phẫn nộ, bất mãn, nàng cầm then gài cửa, đánh tôi một cú trên đầu khiến bể đầu”.
Chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, tiếng đồn xấu sau đây được khởi lên về nữ chủ Vedehika: “Nữ chủ Vedehika là độc ác! Nữ chủ Vedehika là không nhu thuận! Nữ chủ Vedehika là không ôn hòa!” Cũng vậy chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa trong khi chưa bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm. Và chư Tỷ-kheo, chỉ khi nào Tỷ-kheo bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa. Chư Tỷ-kheo, Ta không gọi một Tỷ-kheo là dễ nói, khi vị ấy dễ nói về các vật dụng như y áo, món ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, khi vị ấy thành tựu được tánh dễ nói. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy khi không được các vật dụng như y áo, thức ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, không còn là dễ nói, không còn thành tựu tánh dễ nói. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói, vị ấy Ta mới gọi là dễ nói. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy suy nghĩ: “Chỉ vì tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp chúng ta sẽ trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói”. Chư Tỷ-kheo, các Người phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Người có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Người cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Người cần phải học tập.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm xẻng và thúng, nói như sau: “Tôi sẽ làm cho đất lớn này không thành đất nữa”, và người ấy đào chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước miếng chỗ này chỗ kia, đi tiểu tiện chỗ này chỗ kia, với ý nghĩ: “Ngươi trở thành không phải đất, Ngươi trở thành không phải đất”. Chư Tỷ-kheo, nghĩ thế nào? Người ấy có thể làm cho đất lớn này trở thành không phải đất chăng?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Vì đất lớn này thâm sâu và vô lượng, không dễ gì khiến cho đất lớn này trở thành không phải đất, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với người khác: “Đúng thời hay phi thời... hay với sân tâm”. Các Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói: “Đúng thời... hay với sân tâm”. Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận; chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới, với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm màu sơn, màu vàng, màu xanh sẫm hay màu đỏ tía; người ấy có thể nói như sau: “Ta sẽ viết các hình sắc trên hư không này. Ta sẽ làm cho các hình sắc hiển hiện”. Các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể viết các hình sắc trên hư không và làm cho các hình sắc hiển hiện được không?
– Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, hư không là vô sắc, không thể thấy được. Ở đây, không dễ gì viết các hình sắc và làm hình sắc hiển hiện, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với người khác: “Đúng thời hay phi thời... hay với sân tâm... (như trên)... Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm một bó cỏ khô đang cháy và nói như sau: “Ta với bó cỏ khô đang cháy này sẽ hâm nóng và đun sôi sông Hằng này. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy, với bỏ cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được không?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì sông Hằng thâm sâu và vô lượng, không dễ gì với bó cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được, trước khi người ấy mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với các người khác: “Đúng thời hay phi thời... hay với sân tâm”. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói: “Đúng thời... hay với sân tâm... (như trên)... Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
– Chư Tỷ-kheo, ví như một cái bị bằng da mèo, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyến, như bông, không còn tiếng xì tiếng xọp, và một người đến, cầm gậy hay cầm mẻ sành và nói như sau: “Ta sẽ lấy cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp”. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể, với cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp được không?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, không dễ gì làm cho cái bị ấy phát ra tiếng xì, tiếng xọp được, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại.
– Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác: “Đúng thời hay phi thời, chơn thực, hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm”. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời nhu nhuyễn hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân” Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Và này chư Tỷ-kheo, nếu các Ông luôn luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các Ông không kham nhẫn được chăng?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Chư Tỷ-kheo, do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH VÍ DỤ CÁI CƯA, THỨ HAI MƯƠI MỐT HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________________________-
>>> 20.Kinh An Trú Tầm
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp. Hạnh phúc thay, mọi người cùng hòa hợp tu hành.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Chư Tăng, Kệ 194, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Many Monks, Verse 194, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Bốn Điều Mang Lại Hạnh Phúc - Câu Chuyện Về Chư Tăng, Kệ 194 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Factors Of Happiness - The Story Of Many Monks, Verse 194 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 194:
194. Sukho Buddhānaṃ uppādo
sukhā saddhammadesanā
sukhā saṅghassa sāmaggi
samaggānaṃ tapo sukho. (14:16)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời,
hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn,
hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp,
hạnh phúc thay, mọi người cùng nỗ lực tu hành.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
Trước kia, có lần các nhà sư thảo luận về câu hỏi "Điều gì mang lại hạnh phúc?" Các nhà sư nầy nhận ra rằng hạnh phúc mang nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo người trả lời. Vì thế, họ nói rằng, "Đối với một số người, hạnh phúc có nghĩa là phải giàu có và danh vọng như một vị vua, đối với một số người khác, hạnh phúc có nghĩa là các thú vui nhục dục, tuy nhiên, đối với một số người khác, hạnh phúc có nghĩa là bữa cơm nấu bằng gạo ngon, và ăn với thịt. Trong khi họ đang trò chuyện, Đức Phật đi vào. Sau khi Đức Phật biết chủ đề họ đang thảo luận, ngài nói, "Các thú vui mà các ông đang đề cập không giúp gì cho các ông thoát khỏi vòng sinh-tử luân-hồi. Trên thế gian nầy, những điều sau đây mang lại hạnh phúc: sự xuất hiện của một vị Phật, được cơ hội nghe những bài giảng cao-quý, đúng đắn về Phật Pháp, và có sự hòa hợp trong Tăng Đoàn." Vào cuối bài giảng của Đức Phật, các nhà sư nầy đã đạt được quả A La Hán.
BÀI KỆ 194, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
Buddhānaṃ uppādo sukho, saddhammadesanā sukhā,
saṅghassa sāmaggi sukhā, samaggānaṃ tapo sukho
Buddhānaṃ: của (về) Đức Phật; uppādo: phát sinh; sukho: (là) vui vẻ; saddhammadesanā: bài giảng dạy (sự tuyên bố) về Phật Pháp; sukhā: là vui vẻ; saṅghassa: của (về) tình huynh đệ; sāmaggi: hòa thuận (hợp nhất); sukhā: (là) vui vẻ; samaggānaṃ: của (về) những người hòa hợp; tapo: tu hành; sukho: (là) vui vẻ
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp. Hạnh phúc thay, mọi người cùng hòa hợp tu hành.
Bài kệ 194 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(194) Vui thay đức Phật ra đời! Vui thay giáo pháp giảng nơi cõi trần! Tăng hòa hợp đẹp muôn phần! Ðẹp thay giới luật xa gần đồng tu!
BÌNH LUẬN:
Buddhānaṃ uppādo sukho: sự xuất hiện của Đức Phật là môt sự kiện hạnh phúc. Trong câu chuyện truyền thống nói về sự ra đời của Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha), người mà sau nầy trở thành Đức Phật, đã cho thấy dấu hiệu sau nầy khi thành Phật, Thái Tử sẽ mang lại hạnh phúc cho thế gian. Bây giờ không có người nào tranh cãi về việc họ sinh ra từ bụng mẹ; tuy nhiên, điều nầy thì khác, đối với một vị Bồ Tát. Khi Thái Tử (Bồ Tát) sinh ra từ bụng mẹ, ngài giống như một vị Thầy đi xuống bục giảng, hoặc là một người đàn ông đi xuống cầu thang, ngài duỗi tay chân ra, và trên người ngài chẳng có chất gì dơ bẩn, ngài trông giống như một viên ngọc quý được mặc y phục bằng vải Vārānasi.
Chúng ta cũng có thêm thông tin chi tiết về sự kiện hạnh phúc nầy.
Trước khi Thái Tử sơ sinh chạm mặt đất, ngài đã được bốn vị thiên thần nâng đỡ, và mang đến mẹ ngài, rồi họ nói rằng, "Hoàng Hậu hãy vui mừng lên, vì Hoàng Hậu vừa sinh ra một vị Thái Tử vĩ đại, và cao quý."
Bốn vị vua lớn nhận lấy Thái Tử sơ sinh từ các vị thiên thần trên một tấm da beo mềm mại, và người tùy tùng của Hoàng Hậu nhận lấy Thái Tử từ các vị vua, trên một cái áo choàng lụa. Thái Tử sơ sinh đặt chân xuống đất, rồi đối mặt ngài về hướng Đông. Một cái lọng trắng được che trên đầu ngài.
Kế tiếp, có vô số vũ trụ xuất hiện, cùng hợp lại trông giống như một vũ trụ duy-nhất. Chư thiên và loài người đã cúng dường nhiều hoa và hương nhang, vân vân..., và nói rằng, "Thưa Bậc Vĩ Đại, ở thế gian nầy không có ai bằng ngài; và không có ai cao quý hơn ngài." Đức Phật sơ sinh nhìn chung quanh, và không thấy ai bằng ngài, rồi ngài bước đi bẩy bước về hướng Bắc. Sau bước thứ bẩy, Đức Phật tuyên bố, "Ta là bậc Thầy của vũ trụ. Kiếp nầy là kiếp cuối cùng của ta. Cho nên, ta sẽ không còn tái sinh nữa." Bởi vì, đây là sự ra đời của Đức Phật, một người độc nhật, và kỳ diệu, một người được sinh ra trên thế giới, bởi vì lòng từ bi thương yêu thế giới, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích, và vì hạnh phúc của chư thiên và loài người.
Khi Đức Phật ra đời, một nguồn ánh sáng không-giới-hạn vô cùng rạng rỡ, vượt trội hơn cả ánh sáng của các vị thiên thần, chiếu rọi qua toàn-bộ vũ trụ. Vô số các vị thiên thần ở cõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc cõi trời Đao Lợi) vô cùng vui mừng khi biết một vị Phật tương lai đã ra đời, rồi họ ăn mừng bằng cách tham gia vào nhiều cuộc vui chơi, và các cuộc thể thao để giải trí.
Vào thời điểm Đức Phật ra đời, công chúa Bhaddhakaccānā (Da-Du-Đà-La, tức là Yasodharā) được sinh ra, Đại Đức Channa (Xa Nặc) và Đại Đức Kāludāyi được sinh ra, và con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) được sinh ra. Cây Bồ-Đề, và bốn kho báu to lớn, được phát sinh từ lúc nầy.
Saṅghassa sāmaggi: Tăng Đoàn là đoàn thể quan trọng, gồm những người độc thân (giữ giới không dâm-dục), được thành lập một cách dân chủ, và lâu đời nhất bởi Đức Phật. Nói đúng ra, Tăng Đoàn dùng để chỉ các vị đệ tử cao quý, những người mà đã hiểu biết rõ ràng về bốn Con Đường và bốn Quả Vị. Các vị tăng sĩ thông thường ngày nay chính là các đại diện của Tăng Đoàn.
GHI CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH:
Tăng Đoàn các đệ tử của Đức Phật, có thể được xem như là có bốn nhóm, hoặc là tám nhóm. Có bốn nhóm [đệ tử cao quý] khi Con Đường (path) và Quả Vị (fruit) được xem như một cặp, và tám nhóm [đệ tử cao quý], khi Con Đường (path) và Quả Vị (fruit) được tách riêng ra:
1. (1) con đường dẫn đến dòng Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn); (2) quả của dòng Nhập Lưu;
2. (3) con đường dẫn đến dòng Nhất Lai (Tư Đà Hàm); (4) quả của dòng Nhất Lai;
3. (5) con đường dẫn đến dòng Bất Lai (A Na Hàm); (6) quả của dòng Bất Lai;
4. (7) con đường dẫn đến dòng A La Hán; (8) quả của dòng A La Hán.
The Sangha of the Tathagata's disciples (Ariya Sangha) can be described as including four or eight kinds of individuals. There are four [groups of noble disciples] when path and fruit are taken as pairs, and eight groups of individuals, when each path and fruit are taken separately:
1. (1) the path to stream-entry; (2) the fruition of stream-entry;
2. (3) the path to once-returning; (4) the fruition of once-returning;
3. (5) the path to non-returning; (6) the fruition of non-returning;
4. (7) the path to arahantship; (8) the fruition of arahantship.
(Source-Nguồn: en.wikipedia.org)
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Many Monks, Verse 194, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Four Factors Of Happiness - The Story Of Many Monks, Verse 194 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 194:
194. Sukho Buddhānaṃ uppādo
sukhā saddhammadesanā
sukhā saṅghassa sāmaggi
samaggānaṃ tapo sukho. (14:16)
Blessed is the birth of Buddhas,
blest True Dhamma’s Teaching,
blest the Sangha’s harmony
and blessed is their striving.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to many monks.
Once, many monks were discussing the question “What constitutes happiness?” These monks realized that happiness meant different things to different people. Thus, they said, “To some people to have the riches and glory like that of a king is happiness, to some people sensual pleasure is happiness, but to others to have good rice cooked with meat is happiness.” While they were talking, the Buddha came in. After learning the subject of their talk, the Buddha said, “The pleasures that you have mentioned do not get you out of the round of rebirths. In this world, these constitute happiness: the arising of a Buddha, the opportunity to hear the Teaching of the Sublime Truth, and the harmony among monks.” At the end of the discourse, those monks attained arahatship.
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 194)
Buddhānaṃ uppādo sukho, saddhammadesanā sukhā,
saṅghassa sāmaggi sukhā, samaggānaṃ tapo sukho
Buddhānaṃ: of the Buddha; uppādo: arising; sukho: (is) joyful; saddhammadesanā: the proclamation of the Dhamma; sukhā: is joyful; saṅghassa: of the brotherhood; sāmaggi: concord (unity); sukhā: (is) joyful; samaggānaṃ: of those in concord; tapo: religious practice; sukho: (is) joyful
The arising of the Buddhas is joyful. The proclamation of the Dhamma is joyful. The concord of the Sangha is joyful. Joyful indeed is spiritual practice in harmony.
COMMENTARY
Buddhānaṃ uppādo sukho: the arising of the Buddha is a blissful event. In the traditional lore regarding the birth of Prince Siddhattha, who was later to become Buddha, there is an indication of the happiness he would bring to the world later as the Buddha. Now other mortals on issuing from the maternal womb are disagreeable; but not so the Bodhisatta. He issued from his mother’s womb like a preacher descending from his pulpit, or a man coming down stairs, stretching out both hands and feet without any impurities like a jewel thrown upon a vesture of Vārānasi cloth.
There are further details about this blissful event.
Before the child touches the ground, he is received by four deities, and is presented to the mother, saying, “Be rejoiced, O’ Queen, you have given birth to a great being.”
Four great kings received the child from the deities into a soft leopard skin, and from them the child was received by the retinue of the Queen into a silken robe. The child set his feet on earth, and faced the Easterly direction. A white canopy was raised over him.
Innumerable universes appeared like one compound. Gods and men made offerings with flowers and incense, etc., and said, “O Great Being, there is none to equal you here; whence any superior.” Looking on all sides the Buddha saw no equal of his, and took seven steps in the Northern direction. As the seventh step was taken, the Buddha declared, “I am the chief of the world. This is my last birth. There will be no more births for me.” For, this is the birth of the Buddha, the unique and marvellous being, who is born in the world out of compassion for the world, for the good, the benefit and the happiness of gods and men.
As the Buddha was born, a limitless super radiance surpassing that of the gods traversed through the entire universe. Myriads of gods in the heaven of Tāvatiṃsa immensely rejoiced to hear of the birth of the future Buddha and engaged in much revelry and sport.
At the time of the birth of the Buddha, there were also born Bhaddhakaccānā (Yasodharā), the Ministers Channa and Kāludāyi, and Kanthaka, the horse. The Bodhi-tree and the four great treasures, too, arose at this time.
Saṅghassa sāmaggi: Sangha is the oldest, democratically constituted, historic celibate Order, founded by the Buddha. Strictly speaking, the Sangha denotes those noble disciples who have realized the four Paths and four Fruits. The ordinary bhikkhus of the present day are merely their representatives.
-----------------------------
(Vitakkasanthanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Chư Tỷ-kheo”. - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm? Ở đây, Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác; chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một Tỷ-kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ý một tướng khác với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy: “Đây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo”. Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: “Tại sao ta lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại”. Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: “Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại”. Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: “Tại sao Ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống”. Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: “Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống”. Chư Tỷ-kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy tác ý đến... (như trên)... được an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ... đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỷ-kheo ấy tác ý một tướng khác, liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được diệt trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ quán sát sự nguy hiểm các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy, nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy tác ý hành tướng các tầm và an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Tỷ-kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong đọa tầm pháp môn. Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH AN TRÚ TẦM, THỨ HAI MƯƠI HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________________
>>> 19.Kinh Song Tầm
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Người Thợ Săn Koka, Kệ 125, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Người-Ác Gánh Hậu-Quả Ác Do Mình Làm - Câu Chuyện Về Người Thợ Săn Koka, Kệ 125 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Wrong Done To Others Returns To Doer - The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 125:
125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội,
thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác,
cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về người thợ săn Koka.
Vào một buổi sáng, người thợ săn Koka đi săn mang theo một đàn chó săn, ông ta gặp một nhà sư đi vào thành phố để khất thực. Ông ta cho là một điềm xấu, nên ông ta càu nhàu với chính mình, "Tôi nghĩ tôi sẽ không săn được con thú nào ngày hôm nay đâu, bởi vì tôi đã gặp nhà sư nghèo khổ nầy," rồi ông ta tiếp tục đi săn. Đúng như dự đoán của ông, ông chẳng săn được con thú nào. Trên đường ông về nhà, ông lại gặp nhà sư lúc nẫy, trên đường nhà sư trở về tu viện, và người thợ săn trở nên rất là tức giận. Vì vậy, ông thúc giục những con chó săn đuổi theo cắn nhà sư. Thật là nhanh nhẹn, nhà sư leo lên cành cây cao, vượt ra khỏi tầm với của các con chó săn. Sau đó, người thợ săn đi đến gốc cây, dùng đầu nhọn của mũi tên đâm vào hai gót chân của nhà sư. Nhà sư vì quá đau đớn, cho nên tay nhà sư không thể nào giữ được tấm y choàng; và do đó tấm y của nhà sư bị tuột ra, rơi xuống, rồi choàng ngay lên thân thể của người thợ săn, lúc đó đang đứng ở dưới gốc cây.
Những con chó nhìn thấy tấm y choàng mầu vàng, và nghĩ rằng nhà sư đã rơi xuống từ ngọn cây, nên chúng vồ lấy thân thể người thợ săn, cắn xé, và lôi kéo kịch liệt. Nhà sư, từ chỗ núp trên ngọn cây, bẻ một cành khô và ném cành khô về phía các con chó. Lúc đó, các con chó phát hiện ra rằng chúng đã tấn công nhầm ông chủ của chúng thay vì nhà sư, nên chúng bỏ chạy vào trong rừng. Nhà sư leo xuống cây, rồi nhận thấy rằng người thợ săn đã chết, nhà sư cảm thấy rất tội nghiệp cho người thợ săn. Nhà sư tự hỏi rằng ông có phải chịu trách nhiệm gì về cái chết nầy không, bởi vì người thợ săn đã chết do tấm y của nhà sư choàng lên thân thể của ông ta.
Vì thế, nhà sư đi gặp Đức Phật để ngài làm sáng tỏ những nghi ngờ của nhà sư. Đức Phật nói rằng: "Con ơi, con hãy yên tâm, và đừng có lo lắng gì cả; con sẽ không phải chịu trách nhiệm gì về cái chết của người thợ săn; hạnh kiểm đạo đức (sīla) của con cũng không bị dơ bẩn bởi vì cái chết nầy. Thật thế, người thợ săn nầy đã làm một điều rất là ác đức, vì xúc phạm đến một người hiền lành, và vô tội, do đó, người thợ săn đã phải gánh chịu một kết thúc đau thương như thế nầy."
BÀI KỆ 125, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti
yo: nếu một người nào đó; appaduṭṭhassa: là (thì) không-có tì vết, không-có tính xấu; suddhassa: là (thì) tinh khiết; anaṅgaṇassa: là người không-còn sự nhơ-nhuốc; narassa posassa: đối với một người như vậy; dussati: một người trở nên ác độc; pāpaṃ: hành động xấu xa đó; paṭivātaṃ: ngược gió; khitto: ném; sukhumo rajo iva: giống như bụi bẩn; taṃ bālaṃ eva: đến người thiếu hiểu biết (đó) ; pacceti: ngược lại
Nếu một người thiếu hiểu biết có hành-động ác độc, và thô-tục đến một người trong sạch, không có tì vết, và hiền lành, thì hậu quả của hành-động ác nầy sẽ đánh ngược lại người làm-ác. Cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió. Bụi bẩn bay ngược lại người ném.
Bài kệ 125 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(125) Khi mà kẻ ác hại người. Tâm tư trong sạch, cuộc đời hiền lương, Ác kia trở lại thảm thương. Gây cho kẻ ác trăm đường khổ thay. Tựa như ngược gió vung tay. Tung ra bụi bẩn, bụi bay lại mình.
BÌNH LUẬN:
anaṅgaṇassa: đến (tới) một người không-còn sự nhơ-nhuốc - aṅganas. Aṅganas là các sự nhơ-nhuốc mà được sinh ra từ rāga (lòng tham muốn, sự đam mê), dosa (sân hận, ý xấu), và moha (si mê, thiếu hiểu biết). Ba điều trên (tham sân si) được mô tả như là aṅganas (nghĩa đen, là khoảng không gian rộng lớn; là sân chơi đùa rông lớn) bởi vì điều-ác có thể chơi đùa với tham-sân-si hoàn toàn tự do, mà không bị cản trở. Đôi khi, 'các vết bẩn', cũng được gọi là aṅgana. Nguyên thủy của từ ngữ aṅgana, cũng có nghĩa là khả năng làm xấu xa, một người bị nhơ nhuốc bởi vì các tật xấu. Trong một số trường hợp, aṅgana có nghĩa là bụi đất, sự dơ bẩn. Một người nào không-còn sự nhơ-nhuốc được gọi là anaṅgana.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Wrong Done To Others Returns To Doer - The Story Of Koka The Huntsman, Verse 125 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 125:
125. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati
suddhassa posassa anaṅgaṇassa
tam’eva bālaṃ pacceti pāpaṃ
sukhumo rajo paṭivātaṃ’va khitto. (9:10)
Who offends the inoffensive,
the innocent and blameless one,
upon that fool does evil fall
as fine dust flung against the wind.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Koka the huntsman.
One morning, as Koka was going out to hunt with his pack of hounds, he met a monk entering the city for almsfood. He took that as a bad omen and grumbled to himself, “Since I have seen this wretched one, I don’t think I would get anything today,” and he went on his way. As expected by him, he did not get anything. On his way home also, he saw the same monk returning to the monastery, and the hunter became very angry. So he set his hounds on the monk. Swiftly, the monk climbed up a tree to a level just out of reach of the hounds. Then the hunter went to the foot of the tree and pricked the heels of the monk with the tip of his arrow. The monk was in great pain and was not able to hold his robes on; so the robes slipped off his body on to the hunter who was at the foot of the tree.
The dogs seeing the yellow robe thought that the monk had fallen off the tree and pounced on the body, biting and pulling at it furiously. The monk, from his shelter in the tree, broke a dry branch and threw it at the dogs. Then the dogs discovered that they had been attacking their own master instead of the monk, and ran away into the forest. The monk came down from the tree and found that the hunter had died and felt sorry for him. He also wondered whether he could be held responsible for the death, since the hunter had died for having been covered up by his yellow robes.
So, he went to the Buddha to clear up his doubts. The Buddha said, “My son, rest assured and have no doubt; you are not responsible for the death of the hunter; your morality (sīla) is also not soiled on account of that death. Indeed, that huntsman did a great wrong to one to whom he should do no wrong, and so had come to this grievous end.”
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 125)
yo appaduṭṭhassa suddhassa anaṅgaṇassa narassa posassa
dussati (taṃ) pāpaṃ paṭivātaṃ khitto sukhumo rajo iva
taṃ bālaṃ eva pacceti
yo: if someone; appaduṭṭhassa: is unblemished; suddhassa: is pure; anaṅgaṇassa: is free of defilements; narassa posassa: to such a human being; dussati: a person were to become harsh; pāpaṃ: that evil act; paṭivātaṃ: against the wind; khitto: thrown; sukhumo rajo iva: like some fine dust; taṃ bālaṃ eva: to that ignorant person himself; pacceti: returns
If an ignorant person were to become harsh and crude towards a person who is without blemishes, pure, and is untouched by corruption, that sinful act will return to the evil-doer. It is very much like the fine dust thrown against the wind. The dust will return to the thrower.
COMMENTARY
anaṅgaṇassa: to one bereft of defilements – aṅganas. Aṅganas are defilements that are born out of rāga (passion), dosa (ill-will), and moha (ignorance). These are described as aṅganas (literally, open spaces; play-grounds) because evil can play about in these without inhibition. At times, ‘stains’, too, are referred to as aṅgana. Etymologically, aṅgana also means the capacity to deprave a person defiled by blemishes. In some contexts, aṅgana implies dirt. An individual who is bereft of defilements is referred to as anaṅgana.
-----------------------------
(Dvedhavitakkasutta)
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Chư Tỷ-kheo”. – “Thưa vâng”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: “Ta sống suy tư và chia hai suy tầm”. Chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ nhất; phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ hai. Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: “Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm này đưa đến tự hại”, dục tầm được biến mất, Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại người”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa đến hại cả hai”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”, dục tầm được biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm. Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sân tầm khởi lên... (như trên)... hại tầm khởi lên. Ta tuệ tri: “Hại tầm này khởi lên nơi Ta, và hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”. ChưTỷ-kheo, khi Ta suy tư: “Hại tầm này đưa đến tự hại”... “Hại tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn”, hại tầm biến mất. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm... (như trên)... về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về hại tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm. Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò, cầm roi đánh các con bò bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chận chúng. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.
Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: “Ly dục tầm này khởi lên nơi Ta và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết-bàn”. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hãi. Và Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi thì tâm bị dao động; khi tâm bị dao động thì tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động. Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi vô sân tầm khởi lên... (như trên)... vô hại tầm khởi lên. Ta tuệ tri như vậy: “Vô hại tầm này khởi lên nơi Ta và vô hại tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết-bàn”. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm... không phải từ nhân duyên ấy, mà Ta thấy sợ hãi. Và nếu Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân Ta có thể mệt mỏi; khi thân Ta mệt mỏi thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động, tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm Ta khỏi dao động. Chư Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vấn đề gì thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đã đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm. Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm... (như trên)... nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm. Khi tâm đã đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về bất hại tầm. Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng hè, khi tất cả lúa gạo đã cất vào kho thóc, một người mục đồng chăn giữ các con bò. Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm, và người ấy nghĩ: “Đây là những con bò”. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy ở đây, có việc cần phải làm, và Ta nghĩ: “Đây là những pháp”.
Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dõng mãnh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm, chư Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh như vậy... (giống như trang... đến trang... ). Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ ba Ta đã chứng được cuối đêm canh thứ ba; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Chư Tỷ-kheo, giống như trong khu rừng rậm rạp có một hồ nước lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn sống gần một bên. Có một người đến, không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ chận đóng con đường này lại, sẽ mở con đường nguy hiểm, sẽ đặt con mồi đực, sẽ đặt con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy, sau một thời gian đoàn nai lớn ấy gặp ách nạn và hao mòn dần. Chư Tỷ-kheo, có một người đến, muốn đoàn nai ấy được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, người ấy sẽ mở con đường này, sẽ đóng con đường nguy hiểm lại, sẽ đem con mồi đực đi, sẽ hủy bỏ con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy đoàn nai lớn ấy sau một thời gian sẽ được tăng trưởng, hưng thịnh, thành mãn.
Chư Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ ấy để giải thích ý nghĩa như sau: Chư Tỷ-kheo, hồ nước lớn, thâm sâu chỉ cho các dục. Chư Tỷ-kheo, đoàn nai lớn chỉ cho các loài hữu tình. Chư Tỷ-kheo, con người không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn chỉ cho ác ma. Chư Tỷ-kheo, con đường nguy hiểm chỉ cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Chư Tỷ-kheo, con mồi đực chỉ cho hỷ và tham. Chư Tỷ-kheo, con mồi cái chỉ cho vô minh. Chư Tỷ-kheo, còn người muốn chúng được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta mở con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, Ta đóng con đường nguy hiểm, Ta mang đi con mồi đực, Ta hủy bỏ con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, những gì vị Đạo sư cần phải làm cho các đệ tử vì lòng thương tưởng họ, những điều ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng các Người. Chư Tỷ-kheo, đây là các gốc cây, đây là các chỗ trống. Hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Đó là lời giáo huấn của Ta.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
KINH SONG TẦM, THỨ MƯỜI CHÍN HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________
>>> 18.Kinh Mật Hoàn
Sự độc ác là sự nguy hiểm và có đặc tính giống như là những tên cướp, và thuốc độc.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Ông Thương Gia Mahādhana, Kệ 123, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Mahādhana, Verse 123, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Hãy Tránh Xa Điều-Ác, Vì Đó Là Thuốc Độc - Câu Chuyện Về Ông Thương Gia Mahādhana, Kệ 123 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Shun Evil As Poison - The Story Of Mahādhana, Verse 123 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 123:
123. Vāṇijo’va bhayaṃ maggaṃ
appasattho mahaddhano
visaṃ jivitukāmo’va
pāpāni parivajjaye. (9:8)
Giống như một người thương-gia, phải tránh chở hàng trên con đường nguy hiểm,
vì xe mang nhiều món hàng quý-báu, nhưng có ít người theo bảo-vệ,
cũng như thế, những người ham sống, phải tránh xa thuốc độc,
tương tự như thế, mọi người hãy noi gương, phải tránh xa điều ác.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về ông thương gia Mahādhana.
Mahādhana là một thương gia giàu có từ vùng Xá Vệ (Sāvatthi). Có một lần, năm trăm tên cướp đã dự định đi cướp Mahādhana, tuy nhiên, chúng đã không tìm ra được cơ hội. Trong khi đó, chúng nghe nói rằng ông thương gia sắp sửa đi buôn bán, và ông sẽ mang theo năm trăm xe chất nhiều hàng hóa có giá trị. Ông thương gia Mahādhana cũng mời các nhà sư đi cùng với ông, vì các nhà sư nầy cũng dự định đi trên cùng một chuyến hành trình, và ông thương gia hứa sẽ giúp cho những nhu cầu của các nhà sư. Vì thế, đã có năm trăm nhà sư cùng đi với ông thương gia. Những tên cướp có tin tức về chuyến đi, nên chúng đã tới nơi trước, và nằm chờ đợi đoàn lữ hành của ông thương gia. Tuy nhiên, ông thương gia đã dừng lại ở bìa rừng, mà khu rừng nầy là nơi bọn cướp đang chờ đợi. Đoàn lữ hành dự định là sau khi cắm trại ở đây vài ngày, rồi họ sẽ tiếp tục khởi hành. Bọn cướp có được tin tức là đoàn lữ hành sắp sửa khởi hành, nên chúng sửa soạn để cướp bóc; ngược lại, ông thương gia cũng có tin tức về sự phục kích của bọn cướp, nên ông quyết định trở về nhà. Lúc nầy, bọn cướp nghe nói là ông thương gia sẽ chuẩn bị trở về nhà; thế nên, bọn chúng chờ ông thương gia trên đường trở về nhà. Vài người dân làng báo cho ông thương gia biết về sự di chuyển của bọn cướp, nên ông thương gia quyết định nán ở lại làng trong một thời gian ít lâu. Khi ông thương gia nói với các nhà sư về ý muốn ở lại của ông, các nhà sư quyết định đi trở về Xá Vệ trước ông.
Khi trở về Tu Viện Kỳ Viên, các nhà sư đến gặp Đức Phật, và thông báo với ngài về việc hủy bỏ chuyến đi của họ. Đức Phật liền nói với các nhà sư, "Nầy các Tỳ Kheo, giống như ông Mahādhana tránh xa các cuộc bao vây của bọn cướp, cũng như thế, người ham sống phải tránh xa thuốc độc; tương tự như thế, một nhà sư khôn ngoan, hiểu biết rằng sống trong ba cõi giống như là một cuộc hành trình đầy nguy hiểm, cho nên ông ta cần phải cố gắng tránh xa, không làm điều ác."
BÀI KỆ 123, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
mahaddhano appasattho vāṇijo bhayaṃ maggaṃ
iva jivitukāmo visaṃ iva pāpāni parivajjaye
mahaddhano: một người rất giàu có; appasattho: đoàn lữ hành có ít người đi theo bảo vệ; vāṇijo: giống như một người thương gia; bhayaṃ maggaṃ iva: (tránh) con đường nguy hiểm; jivitukāmo: người ham sống; visaṃ iva: giống như là thuốc độc; pāpāni: hành vi ác; parivajjaye: tránh xa hoàn toàn
Giống như một người thương-gia khôn ngoan, và giàu có sẽ cẩn thận tránh chở hàng trên một con đường nguy hiểm (một con đường đã nổi tiếng vì thường xuyên có kẻ cướp), đặc biệt là nếu ông ta không mang theo nhiều người bảo vệ hàng, để đảm bảo an toàn. Cũng như thế, một người ham sống phải cẩn thận tránh xa thuốc độc. Tương tự như thế, mọi người phải noi gương, hoàn toàn tránh xa điều ác.
Bài kệ 123 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh chuyển dịch thành thơ như sau:
(123) Tựa như một kẻ đi buôn. Có mang nhiều của nhưng không bạn bè. Tránh đường nguy hiểm chẳng đi, Hay người tham sống chẳng khi nào gần. Tránh liều thuốc độc vô ngần, Chúng sinh noi đó lo thân tâm mình. Tránh xa điều ác cho nhanh.
BÌNH LUẬN:
appasattho: đoàn lữ hành nhỏ của những người thương gia. Từ ngữ 'sattha' dùng để chỉ một nhóm người thương gia. Họ di chuyển từ nơi nầy sang nơi khác để trao đổi hàng hóa. Đôi khi họ di chuyển theo những đoàn lữ hành có khả năng đáng sợ (vì họ có nhiều người khỏe mạnh theo bảo vệ). Vào thời xưa, các đoàn lữ hành như thế gồm có các xe và các toa-xe do trâu bò kéo. Bởi vì họ phải đi qua nhiều vùng đất khác nhau, cho nên đôi khi họ bị tấn công bởi bọn cướp. Để đối phó với các cuộc tấn công như vậy, những người thương gia di chuyển trong các nhóm lớn, mà họ có khả năng đánh thắng được các cuộc tấn công của bọn cướp.
Trong các lời chú thích thông thường, sattha (là những người thương gia) được mô tả là các người thuộc về hai nhóm:(1) nhóm janghasattha: là những người bán hàng rong, và các người bán lẻ thường thường chính họ là người mang theo hàng hóa; (2) nhóm sakata sattha: là những người thương gia mang theo những chuyến xe chở đầy hàng hóa. Vào thời của Đức Phật, những đoàn lữ hành mang theo các chuyến xe là một đặc tính nổi bật trong nền kinh tế nầy. Trong bài kệ nầy, thói quen của những người thương gia rất giàu-có được nhấn mạnh. Nếu họ rất giàu có, nhưng số người lữ hành thì ít ỏi (appasattho), họ cần phải tránh xa 'những con đường nguy hiểm' (bhayaṃ maggaṃ). Những con đường nguy hiểm là những con đường bị bọn cướp dùng làm nơi sinh sống.
pāpāni: là sự độc ác của thân, khẩu và ý. Sự độc ác được bắt nguồn từ lòng tham muốn (lobha, tham), sự thù hận (dosa, sân) và sự si mê (moha, si). Tham Sân Si là những hành vi cảm xúc mang lại sự bất hạnh cho chính mình, và cho những người khác. Sự độc ác là sự nguy hiểm và có đặc tính giống như là những tên cướp, và thuốc độc.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Mahādhana, Verse 123, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Shun Evil As Poison - The Story Of Mahādhana, Verse 123 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 123:
123. Vāṇijo’va bhayaṃ maggaṃ
appasattho mahaddhano
visaṃ jivitukāmo’va
pāpāni parivajjaye. (9:8)
As merchant on a perilous path,
great wealth having but little guard,
as life-loving man with poison
so with evils heedful be.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Mahādhana the merchant.
Mahādhana was a rich merchant from Sāvatthi. On one occasion, five hundred robbers were planning to rob him, but they did not get the chance to rob him. In the meantime, they heard that the merchant would soon be going out with five hundred carts loaded with valuable merchandise. The merchant Mahādhana also invited the monks who would like to go on the same journey to accompany him, and he promised to look to their needs on the way. So, five hundred monks accompanied him. The robbers got news of the trip and went ahead to lie in wait for the caravan of the merchant. But the merchant stopped at the outskirts of the forest where the robbers were waiting. The caravan was to move on after camping there for a few days. The robbers got the news of the impending departure and made ready to loot the caravan; the merchant, in his turn, also got news of the movements of the bandits and he decided to return home. The bandits now heard that the merchant would go home; so they waited on the homeward way. Some villagers sent word to the merchant about the movements of the bandits, and the merchant finally decided to remain in the village for some time. When he told the monks about his decision, the monks returned to Sāvatthi by themselves.
On arrival at the Jetavana Monastery, they went to the Buddha and informed him about the cancellation of their trip. To them, the Buddha said, “Monks, Mahādhana keeps away from the journey beset with bandits, one who does not want to die keeps away from poison; so also, a wise monk, realizing that the three levels of existence are like a journey beset with danger, should strive to keep away from doing evil.”
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 123)
mahaddhano appasattho vāṇijo bhayaṃ maggaṃ
iva jivitukāmo visaṃ iva pāpāni parivajjaye
mahaddhano: an extremely affluent; appasattho: accompanied by a small retinue of caravans; vāṇijo: like a merchant; bhayaṃ maggaṃ iva: (avoiding) the risky path; jivitukāmo: being fond of life; visaṃ iva: just like poison; pāpāni: evil acts; parivajjaye: shun totally
A rich and wise trader carrying goods will scrupulously avoid a risky road (a road known to be frequented by bandits), especially if he does not have an adequate retinue of caravans to ensure safety. Again, an individual fond of his life will very carefully avoid poison. In the same way, one must totally shun evil.
COMMENTARY
appasattho: minor caravan of traders. The expression ‘sattha’ denotes a band of merchants. They travel from one place to the other trading their merchandise. At times they travel in formidable caravans. In ancient times such caravans were made up of carts and wagons drawn by oxen. Since they had to traverse a variety of terrain at times they were attacked by bandits. To counter such attacks, the merchants travelled in large groups, capable of dispelling an attack by bandits.
In traditional commentary sattha (the merchants) are described as being of two categories: (1) janghasattha: hawkers and vendors who travelled mostly singly carrying their merchandise themselves; (2) sakata sattha: those who travelled about filling carts with their merchandise. In the days of the Buddha, these caravans of carts were an outstanding feature in the economy. In this stanza, a habit of these extremely wealthy merchants is stressed. If they were very rich but if the caravan is small (appasattho) they would avoid ‘fearful paths’ (bhayaṃ maggaṃ). Fearful paths were those known to be inhabited by bandits.
pāpāni: evil of body, speech and thought. These are rooted in lust (lobha), hate (dosa) and mental confusion (moha). These are emotional acts that bring unhappiness to both oneself as well as others. Evil is as dangerous and distinctive as bandits and poison.
-----------------------------
(Madhupindikasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn sống giữa các vị dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở vườn Nigrodharama. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát vào thành Kapilavatthu để khất thực. Sau khi khất thực ở Kapilavatthu, khi ăn xong, trên đường khất thực trở về, Thế Tôn đi đến Đại Lâm để nghỉ trưa. Sau khi vào rừng Đại Lâm, Ngài ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây beluvalatthika. Có vị Gậy cầm tay Sakka (Thích-ca), kéo bộ khắp nơi, ngao du thiên hạ, đến tại rừng Đại Lâm, đi sâu vào ngôi rừng, đến tại Beluvalatthika chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong nói lên những lời hỏi thăm xã giao thân hữu, rồi đứng một bên, dựa trên cây gậy, đứng một bên. Gậy cầm tay Sakka nói với Thế Tôn: “Sa-môn có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì?” - “Này Hiền giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có tranh luận một ai ở đời; các tưởng sẽ không ám ảnh vị Bà-la-môn sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu. Này Hiền giả, như vậy là quan điểm của Ta, như vậy là lời Ta giảng dạy”. Khi nghe nói vậy, Gậy cầm tay Sakka lắc đầu, liếm lưỡi, với trán nổi lên ba đường nhăn, chống gậy rồi đi.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến vườn Nigrodha, khi đến xong, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Chư Tỷ-kheo, ở đây, Ta vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát vào thành Kapilavatthu để khất thực. Sau khi khất thực ở Kapilavatthu, ăn xong, trên đường khất thực trở về, Ta đi đến Đại Lâm để nghỉ trưa. Sau khi vào rừng Đại Lâm, Ta ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây beluvalatthika. Có vị Gậy cầm tay Sakka kéo bộ khắp nơi, ngao du thiên hạ, đến tại rừng Đại Lâm, đi sâu vào ngôi rừng, đến tại Beluvalatthika chỗ Ta ở, khi đến xong, nói lên những lời hỏi thăm xã giao thân hữu, rồi đứng một bên, dựa trên cây gậy. Đứng một bên, Gậy cầm tay Sakka nói với Ta như sau: “Sa-môn có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì?” Chư Tỷ-kheo, được nói vậy, Ta trả lời Gậy cầm tay Sakka: “Này Hiền giả, theo lời Ta dạy trong thế giới với chư Thiên, Mara, và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có tranh luận một ai ở đời. Các tưởng sẽ không ám ảnh vị Bà-la-môn sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu. Này Hiền giả, như vậy là quan điểm của Ta, như vậy là lời Ta giảng dạy”. Khi nghe nói vậy, Gậy cầm tay Sakka lắc đầu, liếm lưỡi, với trán nổi lên ba đường nhăn, chống gậy rồi đi.
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
– Nhưng bạch Thế Tôn, lời dạy ấy là gì mà Thế Tôn, trong thế giới với chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có tranh luận một ai ở đời? Các tưởng sẽ không ám ảnh Thế Tôn, vị đã sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và phi hữu?
– Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy bước vào Tinh xá. Sau khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời dạy tóm tắt này cho chúng ta, không giải thích rộng rãi ý nghĩa, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào Tinh xá: “Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư tàn”. Nay ai có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, và không giải thích rõ ràng ý nghĩa”. Rồi những Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Nay có Tôn giả Mahakaccana (Đại Ca- chiên-diên) là vị được Thế Tôn tán dương và được các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Mahakaccana có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Vậy chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Mahakaccana ý nghĩa này”.
Rồi những Tỷ-kheo ấy đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao với Tôn giả Mahakaccana rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy thưa với Tôn giả Mahakaccana:
– “Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời dạy tóm tắt này và không giải thích rõ ràng ý nghĩa, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào Tinh xá: “Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư tàn”.
Này Hiền giả Mahakaccana, khi Thế Tôn đi chưa bao lâu, chúng tôi suy nghĩ: “Chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời dạy vắn tắt này cho chúng ta... đã đi vào Tinh xá:” Do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư tàn”. Ai có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy mà Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt... không giải thích rõ ràng ý nghĩa?” Này Hiền giả Mahakaccana, rồi chúng tôi suy nghĩ: “Nay Tôn giả Mahakaccana được Thế Tôn tán thán và được các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Mahakaccana có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Vậy chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, chúng ta hỏi Tôn giả Mahakaccana ý nghĩa này. Tôn giả Mahakaccana sẽ giải thích cho”.
– Chư Hiền, cũng như một người ưa thích lõi cây, tìm tòi lõi cây, đi khắp mọi nơi tìm lõi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng và có lõi cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ qua thân cây, nghĩ rằng phải tìm lõi cây ở nơi cành lá. Cũng vậy là hành động của chư Tôn giả, đứng trước mặt Thế Tôn, quý vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này. Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp Chủ, Như Lai. Quý vị phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này. Những gì Thế Tôn giải thích cho quý vị, quý vị hãy như vậy thọ trì.
– Hiền giả Mahakaccana, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp Chủ, Như Lai. Chúng tôi phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này. Những gì Thế Tôn giải thích cho chúng tôi, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn giả Mahakaccana được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Mahakaccana có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Mong Tôn giả Mahakaccana hãy giải thích không có sự gì bất kính.
– Vậy chư Hiền hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ giảng.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahakaccana. Tôn giả Mahakaccana giảng như sau:
– Chư Hiền, Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt lời dạy này... và đã đi vào Tinh xá: “Này Tỷ-kheo bất cứ vì nhân duyên gì... không còn dư tàn”. Chư Hiền, với lời dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Tôi hiểu ý nghĩa một cách đầy đủ như sau:
Chư Hiền, do nhơn con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại. Chư Hiền, do nhơn lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhơn lỗ mũi và các hương, tỷ thức khởi lên, do nhơn lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lên, do nhơn thân và xúc, thân thức khởi lên; do nhơn ý và các pháp, ý thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng. Những gì có tưởng thời có suy tầm. Những gì có suy tầm thời có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các pháp do ý thức nhận thức, quá khứ, tương lai, hiện tại. Chư Hiền, sự kiện này xảy ra: khi nào có mắt, khi nào có sắc pháp, khi nào có nhãn thức, thời sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết của xúc thời sự thi thiết của thọ được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có thi thiết của thọ thời sự thi thiết của tưởng được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết của tưởng, thời sự thi thiết của suy tầm được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có sự thi thiết của suy tầm thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển lộ. Sự kiện này xảy ra: khi nào có tai, khi nào có các tiếng, khi nào có nhĩ thức... Sự kiện này xảy ra: khi nào có lỗ mũi, khi nào có các hương, khi nào có tỷ thức... Sự kiện này xảy ra, khi nào có lưỡi, khi nào có các vị, khi nào có thiệt thức... Sự kiện này xảy ra: khi nào có thân, khi nào có các xúc, khi nào có thân thức... Sự kiện này xảy ra: khi nào có ý, khi nào có các pháp, khi nào có ý thức thời sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Chư Hiền, sự kiện này không xảy ra: khi nào không có mắt, khi nào không có các sắc, khi nào không có nhãn thức, sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của xúc, sự thi thiết của thọ được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của thọ, sự thi thiết của tưởng được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của tưởng, sự thi thiết của suy tầm được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của suy tầm, thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển lộ. Chư Hiền, sự kiện này không xảy ra: khi nào không có tai, khi nào không có các tiếng... khi nào không có mũi, khi nào không có các hương... khi nào không có lưỡi, khi nào không có các vị... khi nào không có thân, khi nào không có các xúc... Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có ý, khi nào không có các pháp, khi nào không có ý thức, sự thi thiết của xúc được hiển lộ... Chư Hiền, Thế Tôn, sau khi nói lên lời dạy một cách vắn tắt... đã đi vào Tinh xá: “Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không dư tàn”. Chư Hiền, đối với lời dạy Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này, và nghĩa lý không được giải thích một cách rộng rãi, tôi đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Nếu quý vị muốn, hãy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, hãy hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn giải đáp như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Rồi những Tỷ-kheo ấy, hoan hỷ, tùy hỷ lời Tôn giả Mahakaccana nói, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nói lên lời dạy này một cách vắn tắt cho chúng con... đã vào Tinh xá. “Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì... không còn dư tàn”. Khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau: “Chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói cho chúng ta lời dạy tóm tắt này, không giải thích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào Tinh xá: “Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn”. Nay ai có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích rõ ràng ý nghĩa?” Bạch Thế Tôn, và chúng con suy nghĩ: “Nay có Tôn giả Mahakaccana là vị được Thế Tôn tán dương và được các vị đồng phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Mahakaccana có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt và không giải thích rõ ràng ý nghĩa. Vậy chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến sẽ hỏi Tôn giả Mahakaccana ý nghĩa này”. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tôn giả Mahakaccana ở, sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Mahakaccana ý nghĩa này. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Mahakaccana đã giải thích ý nghĩa ấy cho chúng con với những phương pháp này, với những văn cú này, với những văn tự này.
– Chư Tỷ-kheo, Tôn giả Mahakaccana là bậc Hiền trí. Chư Tỷ-kheo, Tôn giả Mahakaccana là bậc Đại tuệ. Chư Tỷ-kheo, nếu các Người hỏi Ta ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như Mahakaccana đã trả lời. Như vậy là chính nghĩa lời dạy ấy, hãy như vậy thọ trì.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, như một người bị đói lả và mệt mỏi, tìm được một bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy được nếm, cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Bạch Thế Tôn, cũng vậy, Tỷ-kheo có tri thức biệt tài, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa pháp môn này với trí tuệ, cứ mỗi phần vị ấy được thưởng thức sự hoan hỷ, được thưởng thức sự thỏa mái tâm trí. Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là gì?
– Do vậy, này Ananda, pháp môn này được gọi là pháp môn bánh mật (Mật hoàn). Hãy như vậy thọ trì!
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
KINH MẬT HOÀN, THỨ MƯỜI TÁM HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________-
>>> 17.Kinh khu rừng
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Hòa Thượng Tissa, Kệ 126, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Venerable Tissa, Verse 126, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Những Người Qua Đời, Đi Về Đâu? - Câu Chuyện Về Hòa Thượng Tissa, Kệ 126 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 126:
126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ),
người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục,
người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời,
và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Hòa Thượng Tissa.
Trước kia, có một ông thợ đánh bóng những viên ngọc quý và vợ của ông sống ở vùng Xá Vệ (Sāvatthi); và ở đó cũng có một vị Hòa Thượng (là một nhà sư tu hành lâu năm, có địa vị cao) là một vị A La Hán. Mỗi ngày, vợ chồng cúng dường thức ăn cho vị Hòa Thượng nầy. Một ngày kia, trong khi ông thợ đánh-bóng-ngọc tay đang cầm miếng thịt, tiếp một vị sứ giả của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) xứ Kosala mang tới một viên hồng ngọc, mà cần được mài dũa và đánh bóng, rồi gửi trả lại cho nhà vua. Tay ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc đó dính đầy máu (của miếng thịt), nên ông đặt viên hồng ngọc trên bàn, rồi ông đi vào nhà để rửa tay. Một con ngỗng ông nuôi để giữ nhà, trông thấy viên hồng ngọc dính máu, và nó tưởng nhầm là một miếng thịt, nên nó há mỏ gắp lấy, và nuốt trọn viên hồng ngọc trước mắt của Hòa Thượng. Khi ông thợ đánh-bóng-ngọc trở lại, ông ta thấy viên hồng ngọc đã biến mất. Ông ta hỏi bà vợ và người con trai, và họ nói rằng họ không lấy viên hồng ngọc. Rồi, ông ta lại hỏi Hòa Thượng và ngài trả lời là ngài đã không lấy viên hồng ngọc. Ông thợ đánh-bóng-ngọc không vui, vì bực mình. Bởi vì ở nhà không còn ai, nên ông thợ đánh-bóng-ngọc kết luận rằng chính Hòa Thượng là người đã lấy đi viên hồng ngọc quý giá: cho nên, ông ta bảo vợ là ông phải tra tấn Hòa Thượng, để ngài phải thú nhận hành vi ăn trộm của ngài.
Nhưng bà vợ ông trả lời rằng, "Vị Hòa Thượng nầy là vị Thầy và cũng là người hướng dẫn chúng ta trong vòng mười-hai năm qua, và chúng ta chưa bao giờ trông thấy ngài làm điều gì ác độc; nên anh hãy làm ơn đừng vu oan cho ngài. Tốt hơn hết, là chúng ta chịu nhận lấy hình phạt của nhà vua, còn hơn là vu oan cho một nhà sư cao quý." Tuy nhiên, ông chồng bà đã không để ý đến lời nói của bà; ông ta cầm lấy sợi dây thừng, trói lấy Hòa Thượng, rồi ông cầm cây đánh Hòa Thượng túi bụi. Kết quả của việc làm nầy, là Hòa Thượng bị chảy máu đầm đìa ở đầu, ở tai và ở mũi, rồi ngài quỵ xuống sàn nhà. Con ngỗng lúc nầy trông thấy máu, và nó muốn đến ăn, nên nó chạy đến gần Hòa Thượng. Ông thợ đánh-bóng-ngọc lúc nầy trong cơn thịnh nộ, nên ông đã dùng hết sức mình đá trúng con ngỗng, và con ngỗng chết ngay lập tức. Sau đó, Hòa Thượng mới nói rằng, "Con hãy làm ơn nhìn cho kỹ, xem con ngỗng đã chết, hay là nó vẫn còn sống," và ông thợ đánh-bóng-ngọc liền trả lời rằng, "Ngài cũng sẽ chết, giống như con ngỗng nầy." Ngay lúc đó, Hòa Thượng chắc chắn là con ngỗng đã chết rồi, nên ngài nói, với giọng ôn tồn, "Con ơi, con ngỗng đã nuốt lấy viên hồng ngọc rồi."
Nghe xong điều nầy, ông thợ đánh-bóng-ngọc liền mổ bụng con ngỗng, và ông ta tìm thấy viên hồng ngọc trong bụng con ngỗng. Rồi, ông thợ đánh-bóng-ngọc nhận ra lỗi lầm của mình, nên ông ta run lên vì sợ hãi. Ông ta xin Hòa Thượng tha thứ cho ông, và xin Hòa Thượng tiếp tục đến nhà ông để khất thực. Hòa Thượng trả lời, "Con ơi, đây không phải là lỗi của con, và đây cũng không phải là lỗi của ta. Chuyện nầy xảy ra, bởi vì những gì chúng ta đã tạo ra trong các tiền kiếp; đấy là nghiệp của chúng ta trong cõi sinh-tử luân-hồi nầy; vì thế, Thầy không có bất kỳ ý-xấu nào đối với con. Chuyện nầy chỉ xảy ra, bởi vì Thầy đã nhầm lẫn bước chân đi vào trong căn nhà nầy. Để tránh cho chuyện nầy xảy ra trong tương lai, Thầy sẽ không bước chân vào trong nhà của ai nữa; Thầy sẽ chỉ đứng chờ ngoài cửa." Hòa Thượng nói xong điều nầy, và không lâu sau đó ngài đã qua đời, bởi vì ngài có nhiều vết thương quá nặng trên người.
Khi nghe xong, các nhà sư hỏi Đức Phật về các nhân vật trong truyện nầy, họ đã tái sinh về đâu, và Đức Phật đã trả lời rằng, "Con ngỗng đã tái sinh thành người con trai của ông thợ đánh-bóng-ngọc; ông thợ đánh-bóng-ngọc tái sinh vào cõi Địa Ngục (Niraya); bà vợ của ông thợ tái sinh vào cõi chư thiên; còn vị Hòa Thượng, vì ông đã là vị A La Hán khi còn sống, nên ông an lạc nơi cõi Niết Bàn."
BÀI KỆ 126, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:
eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ
sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti
eke: một số người; gabbhaṃ: trong bụng mẹ; uppajjanti: thụ thai, được hình thành; pāpakammino: những người ác; nirayaṃ: trong địa ngục (được sinh ra) sugatino: những người có cuộc sống thiện lành; saggaṃ: trên trời; yanti: đạt; anāsavā: những người không-còn tì-vết, và trong-sạch; parinibbanti: đạt quả Niết Bàn, sống hoàn toàn an lạc.
Một số người sau khi chết tái sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ). Những người làm điều ác, tái-sinh xuống địa ngục. Những người lúc còn sống làm điều thiện-lành, khi chết đi tái-sinh lên cõi trời. Những người không-còn ô-nhiễm, hoàn-toàn không-còn tì-vết, và trong-sạch, khi chết đi sẽ hoàn-toàn sống an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
Bài kệ 126 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(126) Con người sinh tự bào thai. Và từ nơi đó ra đời. Lành thay! Thế nhưng kẻ ác sinh ngay. Vào miền địa ngục đọa đầy triền miên, Những người chính trực lành hiền. Sau này sẽ được sinh lên cõi trời, Nhiễm ô ai diệt hết rồi. Mới lên được cõi thảnh thơi Niết Bàn.
BÌNH LUẬN:
sagga: cõi trời. Trong các lời chú thích thông thường, cõi trời (sagga) được định nghĩa như sau:
rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. Điều này có nghĩa là: nơi chốn mà năm-giác-quan dục lạc ở mức độ cao nhất. Những người sống ở trên cõi trời được gọi là chư thiên (thiên thần hoặc là các vị thần).
gabbhaṃ eke uppajjanti: Theo Đạo Phật có bốn loại tái sinh - đó là, sinh ra từ trứng (aṇdaja), sinh ra từ bào thai trong bụng mẹ (jalābuja), sinh ra từ độ ẩm (saṃsedaja), và sinh ra từ hóa-sinh (opapātika).
nirayaṃ pāpakammino: Niraya (ni + aya) = đau khổ, không có hạnh phúc. Có bốn loại địa ngục (niraya) - đó là, cõi đau khổ (apāya), cõi súc sinh (tiracchānayoni), cõi Ngạ Quỷ (petayoni), và cõi A-Tu-La (asurayoni). Chúng sinh ở trong các cõi nầy thì không-vĩnh-viễn. Tùy thuộc vào nghiệp ác, mà họ bị tái sinh vào cõi đau khổ. Khi họ rời các cõi nầy, họ có thể được tái sinh vào cõi tốt đẹp hơn, nếu họ đã làm các nghiệp tốt trong quá khứ.
parinibbanti anāsavā: những vị A La Hán, sau khi chết, không còn bị sinh ra nữa, vì đã đạt quả vị Niết Bàn.
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Venerable Tissa, Verse 126, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Those Who Pass Away - The Story Of Venerable Tissa, Verse 126 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 126:
126. Gabbhaṃ eke uppajjanti
nirayaṃ pāpakammino
saggaṃ sugatino yanti
parinibbanti anāsavā. (9:11)
Some find birth within a womb,
evil-doers quicken in hell,
good-farers to the heavens go,
the Unpolluted wholly cool.
While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Venerable Tissa.
Once, there was a gem polisher and his wife in Sāvatthi; there was also a Venerable (senior monk), who was an arahat. Every day, the couple offered alms-food to the Venerable. One day, while the gem polisher was handling meat, a messenger of King Pasenadi of Kosala arrived with a ruby, which was to be cut and polished and sent back to the king. The gem polisher took the ruby with his hand which was covered with blood, put it on a table and went into the house to wash his hands. The pet crane of the family, seeing the blood stained ruby and mistaking it for a piece of meat, picked it up and swallowed it in the presence of the Venerable. When the gem polisher returned, he found that the ruby was missing. He asked his wife and his son and they answered that they had not taken it. Then, he asked the Venerable who said that he did not take it. The gem polisher was not satisfied. As there was no one else in the house, the gem polisher concluded that it must be the Venerable who had taken the precious ruby: so he told his wife that he must torture the Venerable to get admission of theft.
But his wife replied, “This Venerable had been our guide and teacher for the last twelve years, and we have never seen him doing anything evil; please do not accuse the Venerable. It would be better to take the king’s punishment than to accuse a noble one.” But her husband paid no heed to her words; he took a rope and tied up the Venerable and beat him many times with a stick. As a result of this, the Venerable bled profusely from the head, ears and nose, and dropped on the floor. The crane, seeing blood and wishing to take it, came close to the Venerable. The gem polisher, who was by then in a great rage, kicked the crane with all his might and the bird died instantaneously. Then, the Venerable said, “Please see whether the crane is dead or not,” and the gem polisher replied, “You too shall die like this crane.” When the Venerable was sure the crane had died, he said, softly, “My disciple, the crane swallowed the ruby.”
Hearing this, the gem polisher cut up the crane and found the ruby in the stomach. Then, the gem polisher realized his mistake and trembled with fear. He pleaded with the Venerable to pardon him and also to continue to come to his door for alms. The Venerable replied, “My disciple, it is not your fault, nor is it mine. This has happened on account of what has been done in our previous existences; it is just our debt in saṃsāra; I feel no ill will towards you. As a matter of fact, this has happened because I have entered a house. From today, I would not enter any house; I would only stand at the door.” Soon after saying this, the Venerable expired as a result of his injuries.
Later, the monks asked the Buddha where the various characters in the above episode were reborn, and the Buddha answered, “The crane was reborn as the son of the gem polisher; the gem polisher was reborn in Niraya (Hell); the wife of the gem polisher was reborn in one of the deva worlds; and the Venerable, who was already an arahat when he was living, attained Parinibbāna.”
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 126)
eke gabbhaṃ uppajjanti pāpakammino nirayaṃ
sugatino saggaṃ yanti anāsavā parinibbanti
eke: some; gabbhaṃ: in a womb; uppajjanti: get conceived; pāpakammino: evil doers; nirayaṃ: in hell (are born) sugatino: those who have good ways; saggaṃ: heaven; yanti: reach; anāsavā: those who are free of taints and corruptions; parinibbanti: achieve total Nibbāna
Some, after their death, receive conception in wombs. Those who have committed sins in their life-time are born in hell. Those whose ways have been virtuous when they were alive go to heaven when they die. These blemishless ones who are totally free of taints and corruptions, achieve total Nibbàna, on giving up their mortal lives.
COMMENTARY
sagga: heaven. In the traditional commentaries, sagga is defined as follows:
rūpādihi pañca kāma gunehi sutthu aggoti - saggo. This means: the place where the five-fold sensualities are at the highest possible level. Those who live in heaven are called devas (angels or gods).
gabbhaṃ eke uppajjanti: According to Buddhism there are four kinds of birth - namely, egg-born (aṇdaja), womb-born (jalābuja), moisture-born (saṃsedaja), and spontaneous birth (opapātika).
nirayaṃ pāpakammino: Niraya = ni + aya = devoid of happiness. There are four kinds of niraya - namely, woeful state (apāya), the animal kingdom (tiracchānayoni), the plane of Petas (petayoni), and the plane of Asura-demons (asurayoni). None of these states is eternal. According to their evil kamma beings may be born in such woeful states. Departing from those states, they may be born in blissful states according to their past good kamma.
parinibbanti anāsavā: Arahants, after death, are not born any more, but attain Parinibbāna.
(Vanapatthasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. – “Bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: “Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp môn về khu rừng. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng”. – “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ: “Ta sống tại khu rừng này, khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay lúc ban đêm.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú... những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược không được chứng đạt”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh được định tĩnh; các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, nhưng những vật dụng cần thiết cho đời sống một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật này kiếm được một cách khó khăn. ChưTỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt... những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải vì món ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược được chứng đạt”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này, phải ở lại khu rừng ấy, không được bỏ đi.
Chư Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt. Và những vật dụng cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải ở lại khu rừng cho đến trọn đời, không được rời bỏ.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một làng nào... sống tại một thị trấn nào... sống tại một đô thị nào... sống tại một quốc gia nào... sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn”. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy ngay trong phần đêm ấy hay ngay trong phần ngày ấy, không phải xin phép, cần phải bỏ ngay người ấy mà đi, không cần theo sát người ấy.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: “Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách không khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú... không được chứng đạt”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với ước tính này, cần phải bỏ người ấy mà đi, không có xin phép, không có theo sát.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú... được chứng đạt. Những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: “Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú... được chứng đạt. Những vật dụng này cần thiết... kiếm được một cách khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... không phải vì đồ ăn khất thực... không phải vì sàng tọa... không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú... vô thượng an ổn, khỏi các ách phược được chứng đạt”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với suy tính này, cần phải theo sát người ấy, không được bỏ đi.
Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị người bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: “Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi ách phược chưa được thành đạt được thành đạt. Và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách dễ dàng”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
KINH KHU RỪNG, THỨ MƯỜI BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________
Dù cho có bay-được lên trời cao, dù cho có lặn-được xuống đáy biển, dù cho có chui-được vào hang núi sâu, hoặc là chạy-trốn đến bất cứ nơi nào trên chốn trần gian nầy, cũng không-thể nào trốn-thoát được nghiệp-ác do mình đã tạo ra.
TỰA ĐỀ NGẮN:
Câu Chuyện Về Ba Nhóm Nhà Sư, Kệ 127, Kho Báu Sự Thật
(The Story Of Three Groups of Persons, Verse 127, Treasury Of Truth)
TỰA ĐỀ ĐẦY ĐỦ:
Tìm Nơi Trú Ẩn, Để Trốn Thần Chết - Câu Chuyện Về Ba Nhóm Nhà Sư, Kệ 127 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Shelter Against Death - The Story Of Three Groups of Persons, Verse 127 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)
BÀI KỆ 127:
127. Na antalikkhe na samuddamajjhe
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa
na vijjati so jagatippadeso
yatthaṭṭito muñceyya pāpakammā. (9:12)
Dù cho có bay-được lên trời cao, dù cho có lặn-được xuống đáy biển,
dù cho có chui-được vào hang núi sâu,
hoặc là chạy-trốn đến bất cứ nơi nào trên chốn trần gian nầy,
cũng không-thể nào trốn-thoát được nghiệp-ác do mình đã tạo ra.
Có một nhóm nhà sư trên đường họ đi đến đảnh lễ Đức Phật, rồi họ dừng lại ở một ngôi làng trên đường họ đi. Có một số Phật Tử đang nấu ăn, để cúng dường cho những nhà sư nầy, thì lúc đó có một ngôi nhà bốc cháy, và tạo ra một vòng lửa bay lên trên không trung. Vào ngay lúc đó, có một con quạ đã bay ngang qua, chạm phải cái vòng lửa nầy, bị chết cháy, và xác nó rơi xuống giữa làng. Các nhà sư trông thấy xác con quạ chết, rồi nghĩ rằng chỉ có Đức Phật là có thể giải thích được, là con quạ nầy đã tạo ra nghiệp ác gì, mà bây giờ nó phải chết thảm như thế nầy. Sau khi khất thực xong, các nhà sư nầy đến gặp Đức Phật, rồi hỏi ngài về con quạ.
Cũng có một nhóm nhà sư khác cũng trên đường họ đi đảnh lễ Đức Phật. Lúc họ ở giữa biển, tầu họ đi không-có cách nào di chuyển được. Họ nghĩ ra cách rút thăm để tìm xem ai là người gây ra chuyện không may mắn nầy. Sau ba lần rút thăm, bà vợ của ông thuyền trưởng đều rút phải tấm thăm không may mắn. Cho nên, ông thuyền trưởng nói giọng buồn bã, "Nhiều người sẽ phải chết vì người đàn bà không may mắn nầy; hãy cột vào cổ bà ta một bình đựng cát, rồi ném bà ta xuống biển." Sau khi ném người đàn bà xuống biển, con tầu bắt đầu di chuyển lại được. Khi con tầu đến nơi cập bến, các nhà sư lên bờ, rồi họ tiếp tục đi trên con đường đến gặp Đức Phật. Họ cũng có dự định hỏi Đức Phật về người đàn bà không may mắn đã tạo ra nghiệp ác gì, mà bây giờ bà phải chịu cảnh bị ném xuống biển.
Cũng có nhóm khác gồm bẩy nhà sư, họ cũng đi đảnh lễ Đức Phật. Trên đường đi, họ hỏi thăm đường đi đến tu viện, rồi họ được hướng dẫn đến một hang động, và họ đã ở đó qua đêm; tuy nhiên, vào giữa đêm, một tảng đá lớn từ phía trên đã rơi xuống, và đóng lại cửa ra vào. Sáng hôm sau, các nhà sư ở tu viện gần đó đi đến hang động, họ thấy tảng đá đã chận cửa, rồi họ kêu gọi các người dân từ bẩy làng đến giúp. Những người dân đến giúp cố sức di chuyển tảng đá nhưng không được, cho nên bẩy nhà sư bị kẹt trong hang không có thức ăn và nước uống trong bẩy ngày. Vào ngày thứ bẩy, tảng đá tự động di chuyển một cách kỳ lạ, và các nhà sư đi ra ngoài, rồi tiếp tục cuộc hành trình đến Đức Phật. Họ cũng có dự định hỏi Đức Phật là họ đã tạo nghiệp ác gì, mà bây giờ họ phải bị nhốt vào hang động trong bẩy ngày.
Ba nhóm nhà sư du hành đến gặp Đức Phật. Rồi, mỗi nhóm kể Đức Phật nghe những điều họ đã gặp phải trên đường đi, và Đức Phật đã trả lời các câu hỏi của họ như sau.
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm đầu tiên là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có một ông nông dân, ông có một con bò rất lười biếng và cứng đầu. Ông nông dân nầy, trong lúc giận dữ, đã buộc một sợi dây thừng làm bằng rơm chung quanh cổ bò, rồi đốt lửa sợi dây, nên con bò bị chết. Vì việc làm ác đức nầy, ông nông dân bị đọa Địa Ngục (Niraya) trong một thời gian rất lâu. Ông đã bị đốt chết trong bẩy kiếp vừa qua." Vì, những việc làm ác trong quá khứ, sẽ mang đến đau khổ trong hiện tại.
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm thứ nhì là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có một người đàn bà nuôi một con chó. Bất cứ bà làm gì, và bất cứ bà đi đâu, con chó luôn luôn đi theo sau bà. Kết quả là một vài cậu thiếu niên thấy con chó như thế, nên trêu chọc bà. Bà rất tức giận, rồi bà cảm thấy xấu hổ, nên bà dự định giết chết con chó. Bà lấy một cái bình chứa đầy cát, cột quanh cổ chó, và ném chó xuống sông; nên con chó bị chết đuối. Vì việc làm ác đức nầy, người đàn bà nầy đã phải chịu đựng đau khổ trong một thời gian rất lâu, và do nghiệp-ác chưa trả xong, bà ta đã bị ném xuống biển, rồi bị chết đuối."
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm thứ ba là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có bẩy người chăn-bò (kiếp trước của bẩy nhà sư) thấy một con kỳ nhông bò vào một gò đất, và để đùa nghịch, họ đóng tất cả các cửa ra vào của gò đất. Sau đó, họ hoàn toàn quên mất là con kỳ nhông đã bị nhốt trong gò đất. Bẩy ngày sau đó, họ mới nhớ đến chuyện họ đã đùa nghịch, và họ vội vã trở lại chốn cũ, rồi mở cửa cho con kỳ nhông bò ra. Vì việc làm ác đức nầy, mà bây giờ, bẩy người các ông, cũng phải bị nhốt nơi hang động trong bẩy ngày mà không có thức ăn, và thức uống."
Để kết thúc, Đức Phật nói rằng, "Dù cho có bay-được lên trời cao, hoặc là chạy-trốn đến bất kỳ nơi nào khác, thì chẳng-có nơi nào mà trốn-thoát được hậu-quả của việc-ác do mình đã tạo ra."
BÀI KỆ 127, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI
yatthaṭṭito pāpakammā muñceyya nên jagatippadeso na
vijjati antalikkhe na na samuddamajjhe pabbatānaṃ
vivaraṃ pavissa na
yattha: một nơi nào đó; ṭhito: làm nơi trú ẩn; pāpakammā: từ kết quả của các hành động ác; muñceyya: (một người có thể) trốn thoát được; so: thể loại đó; jagatippadeso: nơi nào trên trái đất; na vijjati: không nhìn thấy; antalikkhe: trên trời; na: không có nơi nào như vậy; samuddamajjhe na: cũng không (có một nơi như vậy) ở giữa đại dương; pabbatānaṃ: (thuộc về, của) núi; vivaraṃ: hở, kẽ hở hoặc đường mở; pavissa: đã đi vào: na: (một người không thể trốn thoát)
Dù cho có bay-được lên trời cao, dù cho có lặn-được xuống đáy biển, dù cho có chui-được vào hang núi đá sâu. Một người làm-ác không-tìm ra được trên Trái Đất nầy bất-cứ nơi trú-ẩn nào, để trốn-thoát được hậu-quả của việc-ác do mình đã tạo ra.
Bài kệ 127 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:
(127) Dù bay lên tận không trung, Hay là lặn xuống tận cùng bể khơi, Chui vào hang thẳm núi đồi. Khắp trên trần thế chẳng nơi an toàn. Thoát tay nghiệp ác chót mang.
BÌNH LUẬN:
na vijjati so jagatippadeso: không có nơi nào. Ở đây, câu nầy có ý nói rằng không-có nơi nào hoặc trên đất liền, hoặc dưới đáy biển, hoặc trên bầu trời, không-có một nơi nào, mà một người làm-ác có thể trốn-thoát được hậu quả của những việc-ác do mình làm. Bài kệ nầy đề cập đến một số nơi mà có thể được xem là an toàn như: antalikkhe (trên không trung, trên trời); samuddamajjhe (ở giữa biển); pabbatānaṃ vivaraṃ (trong hang đá, chỗ đường nứt của một núi đá).
-----------------------------------
Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf
SHORT TITLE:
The Story Of Three Groups of Persons, Verse 127, Treasury Of Truth
FULL TITLE:
Shelter Against Death - The Story Of Three Groups of Persons, Verse 127 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
VERSE 127:
127. Na antalikkhe na samuddamajjhe
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa
na vijjati so jagatippadeso
yatthaṭṭito muñceyya pāpakammā. (9:12)
Neither in sky nor surrounded by sea,
nor by dwelling in a mountain cave,
nowhere is found that place on earth
where one’s from evil kamma free.
A group of monks were on their way to pay homage to the Buddha and they stopped at a village on the way. Some people were cooking alms-food for those monks, when one of the houses caught fire and a ring of fire flew up into the air. At that moment, a crow came flying, got caught in the ring of fire and dropped dead in the central part of the village. The monks, seeing the dead crow, observed that only the Buddha would be able to explain for what evil deed this crow had to die in this manner. After taking alms-food, they went to the Buddha, to ask about the crow.
Another group of monks were on their way to pay homage to the Buddha. When they were in the middle of the ocean, the boat could not be moved. So, lots were drawn to find out who the unlucky one was. Three times the lot fell on the wife of the skipper. Then the skipper said sorrowfully, “Many people should not die on account of this unlucky woman; tie a pot of sand to her neck and throw her into the water.” The woman was thrown into the sea and the ship started to move. On arrival at their destination, the monks disembarked and continued on their way to the Buddha. They also intended to ask the Buddha due to what evil kamma the unfortunate woman was thrown overboard.
A group of seven monks also went to pay homage to the Buddha. On the way, they enquired at a monastery and they were directed to a cave, and there they spent the night; but in the middle of the night, a large boulder slipped off from above and closed the entrance. In the morning, the monks from the nearby monastery coming to the cave, saw that and they went to bring people from seven villages. With the help of these people they tried to move the boulder, but the seven monks were trapped in the cave without food or water for seven days. On the seventh day, the boulder moved miraculously by itself, and the monks came out and continued their way to the Buddha. They also intended to ask the Buddha due to what previous evil deed they were thus shut up for seven days in a cave.
The three groups of travelling monks went to the Buddha. Each group related to the Buddha what they had seen on their way and the Buddha answered their questions.
The Buddha’s answer to the first group: “Monks, once there was a farmer who had a very lazy and stubborn ox. The farmer, in anger, tied a straw rope round the neck of the ox and set fire to it, and the ox died. On account of this evil deed, the farmer had suffered for a long time in Hell (Niraya). He had been burnt to death in the last seven existences.” The past actions brought on the present suffering.
The Buddha’s answer to the second group: “Monks, once there was a woman who had a dog. Whatever she did and wherever she went the dog always followed her. As a result, some young boys would poke fun at her. She was very angry and felt so ashamed that she planned to kill the dog. She filled a pot with sand, tied it round the neck of the dog and threw it into the water; and the dog was drowned. On account of this evil deed, that woman had suffered for a long time and, in serving the remaining part of the effect, she had been thrown into the water to be drowned.”
The Buddha’s answer to the third group: “Monks, once, seven cowherds saw an iguana going into a mound and, for fun, they closed all the outlets of the mound. After completely forgetting the iguana that was trapped in the mound. Only after seven days did they remember what they had done and hurried to the scene of their mischief to let the iguana out. On account of this evil deed, you seven have been imprisoned together for seven days without any food.”
The Buddha replied, “Even in the sky or anywhere else, there is no place which is beyond the reach of the consequences of evil.”
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 127)
yatthaṭṭito pāpakammā muñceyya so jagatippadeso na
vijjati antalikkhe na samuddamajjhe na pabbatānaṃ
vivaraṃ pavissa na
yattha: somewhere; ṭhito: taking shelter; pāpakammā: from the results of evil actions; muñceyya: (one could) escape; so: that kind of; jagatippadeso: spot on earth; na vijjati: is not seen; antalikkhe: out in space; na: there is no such place; samuddamajjhe na: nor (is there such a place) in the middle of the ocean; pabbatànaü: of mountains; vivaraṃ: cleft, crevice or opening; pavissa: having entered: na: (one cannot escape)
There is no single spot on Earth an evil-doer can take shelter in to escape the results of his evil actions. No such place is seen out there in space, or in the middle of the ocean. Neither in an opening, a cleft or a crevice in a rocky mountain can he take shelter to escape the results of his evil action.
COMMENTARY
na vijjati so jagatippadeso: there is no place. The implication here is that there is no place either on land, in the sea or in the sky where an evil-doer can escape the consequences of his misdeeds. The stanza mentions some of the places which might be considered safe: antalikkhe (space; sky); samuddamajjhe (in the middle of the sea); pabbatānaṃ vivaraṃ (crevices of a rock).
(Cetokhilasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này chư Tỷ-kheo”. – “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp luật này, sự kiện này không xảy ra. Thế nào là năm tâm hoang vu chưa được đoạn trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc Đạo sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Đạo sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp... không có tịnh tín... (như trên)... nghi ngờ Tăng... không có tịnh tín... nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp... không có tịnh tín, tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì; tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được diệt trừ. Và lại nữa,
chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ. Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai chưa được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê cho đến bụng chứa đầy... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư chưa được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: “Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được đoạn tận. Như vậy là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu này, chưa đoạn tận năm tâm triền phược này, vị ấy có thể lớn mạnh trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp luật này, sự kiện này không xảy ra.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã diệt trừ năm tâm hoang vu, đã đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp luật này, sự kiện này có xảy ra. Thế nào là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Đạo sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Đạo sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất đã được diệt trừ. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Pháp... quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... không nghi ngờ Tăng... quyết đoán, tịnh tín... (như trên) không nghi ngờ học pháp... quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư đã được diệt trừ. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được diệt trừ. Như vậy là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ.
Thế nào là năm tâm triền phược đã được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai đã được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba đã được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghĩ, khoái lạc về thụy miên... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được đoạn tận. Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: “Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: “Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác”, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã được đoạn tận. Như vậy là năm tâm triền phược đã được đoạn tận. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã đoạn tận năm tâm triền phược này, thời vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp luật này, sự kiện này có xảy ra.
Vị này tu tập như ý túc câu hữu với dục Thiền định, tinh cần hành, tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần hành, tu tập như ý túc câu hữu với tâm Thiền định tinh cần hành, tu tập như ý túc câu hữu với tư duy Thiền định, tinh cần hành với nỗ lực là thứ năm. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn, khỏi các ách phược. Chư Tỷ-kheo, như có khoảng tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà mái, những trứng này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không khởi lên sự mong ước: “Mong rằng những con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng, hay với mỏ của chúng, có thể thoát ra một cách yên ổn”, những con gà con ấy, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng hay với mỏ của chúng, có khả năng thoát ra một cách yên ổn. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Tỷ-kheo đầy đủ mười lăm pháp, kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn, khỏi các ách phược.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
KINH TÂM HOANG VU, THỨ MƯỜI SÁU HẾT.
>>> 15.Kinh Tư lượng
Tu đạo mới cắt đứt phiền não, tham ái để chứng đắc Niết bàn. Đại thừa thao thức con đường học đạo và độ sanh mới phát nguyện: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Pháp môn đây không chỉ giới hạn các phương pháp tu tập của các hệ phái Phật giáo. Trong Phật giáo còn nhấn mạnh tầm quan trọng giáo nghĩa Ngũ Minh. Đó là thanh minh, Công xảo minh, y phương minh, nhân minh và nội minh.
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế. Danh xưng thường đọc tụng là Tứ Hoằng Thệ Nguyện; “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.[1]”. Bốn nguyện này, trong các kinh văn, như:-Đạo Hạnh Bát Nhã Kinh, quyển 8, phẩm Thủ Hành; Pháp Hoa Kinh quyển 3, Phẩm Dược Thảo Dụ; An Lạc Kinh, quyển thượng; Lục Tổ Đàn Kinh; Trong giáo lý Mật Tông, Thọ Bồ Đề Tâm Giới Nghĩa; Trong giáo lý Thiên Thai Tông, Ma Ha Chỉ Quán”;[2] thì từ ngữ và cách sắp xếp thứ tự lời nguyện có vài điểm khác nhau, nhưng cùng ý nghĩa căn bản. Bốn lời nguyện vĩ đại đó là con thuyền lớn chuyên chở Phật pháp đi vào cuộc đời, như là thực hành di huấn của Đức Thế Tôn trước khi Ngài nhập Niết Bàn.
Tất cả pháp môn tu học trong Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy phải y cứ vào giáo lý cơ bản Phật dạy, như Tứ Đế, Duyên Khởi, Tam Pháp Ấn và nội dung của ba mươi bảy phẩm trợ đạo nói chung. Đó là tri thức thiết yếu khởi đầu tu tập cho đến giác ngộ. Phật giáo thiết lập phương tiện truyền bá Phật pháp trong các thời đại vào mọi đối tượng con người. Phật pháp trong quá trình đi sâu vào đời sống quần chúng, phải gọi là bất định pháp. Vì nó được hiểu rằng, mọi pháp môn biểu hiện đều là phương tiện. Phương tiện thì có sai biệt, mục đích chỉ là thoát ly sanh tử luân hồi. Toàn bộ Phật pháp không ngoài giáo lý Tứ Diệu Đế. Tất cả pháp môn tu không ngoài giáo lý Tứ Đế mà triển khai, mới thực là Phật pháp. “Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế[3]” Tứ thánh đế, bốn chân lý chắc thực, thuyết minh hai phương diện nhân quả thế gian và xuất thế gian. Vai trò của giáo lý này vô cùng quan trọng, Đức Phật nhấn mạnh như sau: “Hỡi này các Tỳ Khưu , ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma sambodhim) Đến khi, hỡi này các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ thì, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.[4] Kinh Chuyển Pháp Luân triển khai giáo lý Tứ Đế với ba sắc thái và mười hai phương thức trong ý nghĩa Thị chuyển, Khuyến chuyển và chứng chuyển.Truyền bá Phật pháp là giúp người thực hành bốn chân lý ấy. Đối trước hoàn cảnh, người xuất gia hay tại gia tu hành đều hướng đến chỗ cứu cánh thành Phật. Lộ trình ấy, thông qua viên mãn Bồ tát đạo. Do vậy, tu học cần có chí nguyện cao thượng, bền chắc và lâu dài Bốn nguyện ấy dựa trên nguyên tắc giáo lý Tứ Thánh Đế. Đó là ứng dụng tinh thần chuyển pháp luân của Phật qua sự thực nghiệm giáo Lý Tứ Diệu Đế.
Khổ Thánh Đế, chúng sanh khổ, nên phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” Đó là lời nguyện vĩ đại thứ nhất.
Tập Thánh Đế, nguyên nhân khổ đau là do phiền não và tham ái; nên phát nguyện: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ hai.
Đạo Thánh Đế, là nội dung giáo lý đức Phật ra đời giáo hóa chúng sanh; nên phát nguyện: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ ba.
Diệt Thánh Đế, là trạng thái Niết bàn giải thoát, Đức Phật chứng ngộ, là kết quả của sự tu đạo; nên phát nguyện: “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ tư.
Nhận thức cuộc đời là khổ mà phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Đứng về phương diện tu tâm mà luận, tức độ ý niệm chúng sanh trong tâm. Niệm chúng sanh tức niệm tham ái và chấp thủ đưa đến luân hồi sanh tử. Sanh tử là nội dung của khổ đau trong tam giới lục đạo. Người học đạo cần chuyển hóa tâm ấy thành tâm giải thoát. Đó là tinh thần tự lợi, còn tinh thần lợi tha là phát huy tinh thần giáo hóa chúng sanh. Nếu tự thân mình mong thoát khỏi sanh tử thì cũng mong tất cả chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Nhưng muốn thực hiện tinh thần “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” cần tu tập từ bi và trí tuệ. Nếu bản thân chưa đủ đạo hạnh thì không thực hiện được mục đích cao quý đó. Như một người nhiệt tâm nhảy vào đầm nước sâu cứu người sắp chết đuối mà không biết bơi lội thì cuối cùng hai người đều chịu chết oan uổng. Trong giáo lý Đại thừa, nhấn mạnh tinh thần tự hành và hóa tha. Có nghĩa muốn giáo hóa tha nhân thì bản thân mình trước phải thực tiển tu hành. Nếu tự mình không tu hành mà khuyên người khác tu hành không có hiệu quả. Độ vô biên chúng sanh, là thành tựu vô biên phước đức và trí tuệ.
Nguyên nhân của khổ đau chính là tham ái, cụ thể là tham, sân và si. Tham, sân và si là tính chất chung của tất cả mọi thứ phiền não ô nhiễm, nói rộng ra là tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Muốn thoát khổ sinh tử phải tu Giới- Định- Tuệ, ba đặc trưng chung của giáo lý Bát Chánh Đạo. Nhận rõ bản chất phiền não và phát nguyện đoạn trừ và hướng dẫn người khác tu tập. Đại thừa cụ thể hóa phương pháp đoạn trừ phiền não qua giáo lý lục độ, đó là Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tin tấn, thiền định và trí tuệ. Thực hành sáu pháp ấy mới có khả năng đoạn vô tận phiền não. Bản chất tham ái luôn cám dỗ con người, ý thức sâu sắc tham ái càng nhiều, khổ đau càng triền miên. Lộ trình tu tập, đoạn trừ một phần phiền não thì sẽ chứng được một phần giải thoát. Phiền não là gánh nặng của kẻ lữ hành trên sa mạc, bỏ bớt gánh nặng thì kẻ lữ hành mới thong dong nhẹ bước.
Tu đạo mới cắt đứt phiền não, tham ái để chứng đắc Niết bàn. Đại thừa thao thức con đường học đạo và độ sanh mới phát nguyện: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Pháp môn đây không chỉ giới hạn các phương pháp tu tập của các hệ phái Phật giáo. Trong Phật giáo còn nhấn mạnh tầm quan trọng giáo nghĩa Ngũ Minh. Đó là thanh minh, Công xảo minh, y phương minh, nhân minh và nội minh. “Thanh minh, là khả năng thông thạo về ngôn ngữ, văn từ. Công xảo minh là khả năng thông thạo về nghề nghiệp, toán học, khoa học, văn chương, triết lý thuộc ngoại điển. Y phương minh là khả năng hiểu biết về y lý, thuốc men, trị bệnh. Nhân minh là khả năng thông thạo về chánh, tà, đúng, sai... là khả năng luận lý, lý giải. Nội minh là kiến thức thông rõ (gồm cả kinh nghiệm tu tập) ba tạng Kinh điển của Phật giáo.[5]”. Cho nên, lý tưởng tu học là luôn gắn cả sanh mạng với sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh. Người có tầm nhìn rộng lớn, dùng phương tiện khéo truyền bá Phật pháp, nên cần phải học nhiều, hiểu rộng; không nên chủ quan, xem pháp mình tu là quan trọng, pháp môn khác là thứ yếu.
Tu tập Tứ đế là chứng đắc Niết bàn, giải thoát sanh tử. Phật là bậc đã chứng Niết bàn viên mãn, vì công hạnh tự giác và giác tha viên mãn. Theo Đại thừa, muốn chứng quả Phật phải tu Bồ tát đạo. Chính vì lý do đó mà phát nguyện: “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Nếu không có nguyện lực kiên cố, khi gặp chướng ngại sẽ bị thối tâm ban đầu. Thực chất Niết bàn vô tướng, siêu việt nhận thức, ngôn ngữ, khái niệm. Đó là thế giới chân thật hiện hữu khi tâm lìa bỏ phiền não, tham ái và chấp thủ. Niết bàn, hay Phật quả là nội dung tuệ giải thoát, trí tuệ ấy thấy được tính duyên khởi vạn vật. "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi[6]”
Phật pháp bao hàm trong giáo lý Tứ Thánh Đế, vận hành giáo lý ấy vào thế gian mà thiết lập bốn đại nguyện, giúp đời thoát khổ. Đức Phật nhập diệt trên hai mươi lăm thế kỷ, chánh pháp của Phật được tồn tại đến ngày hôm nay là nhờ đệ tử Phật có tinh thần hoằng pháp. Nhận thức Giáo Lý Thánh Đế là một vấn đề, chứng ngộ mới là mục đích tu học. Phát bốn nguyện lớn là một vấn đề, thành tựu bốn nguyện lớn ấy là chứng ngộ viên mãn Tứ Thánh Đế. Đây là tinh hoa của giáo lý Đại thừa, thông qua phương tiện tu tập và độ sanh mà không rời xa tâm yếu Phật Pháp./.
[1] Nội dung này xuất từ Lục Tổ Đàn Kinh, trong thiền môn Việt Nam và Tông Thiên Thai Nhật Bản thường tụng.
[2] Thích Tinh Vân-Từ Tứ Thánh Đế đến Tứ Hoằng Thệ Nguyện, Phổ Môn Học Báo Kì 2, tháng 3 /2001.
[5] Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận, Chương 3- Tăng Bảo, tiết IV-Ngũ Minh, VNCPHVN tái bản 1997
[6] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ tập I , Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi (Mahahatthipadopamasuttam)
(Anumanasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Tôn giả Mahamoggallana sống giữa những người thuộc dòng họ Bhagga, tại núi Sumsumaragira, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Ở đây, Tôn giả Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên) gọi các Tỷ-kheo:
“– Chư Hiền Tỷ-kheo.
“– Thưa Hiền giả.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahamoggallana. Tôn giả Mahamoggallana nói như sau:
– Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo thỉnh nguyện: “Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi, mong rằng tôi được chư Tôn giả nói!” Nhưng nếu vị ấy là một người khó nói, đầy đủ những tánh khiến người ấy trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng, Tỷ-kheo ấy không đáng nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy không đáng được giáo huấn, nghĩ rằng không nên đặt lòng tin vào người ấy. Chư Hiền, thế nào là những tánh khiến người ấy trở thành khó nói? Chư Hiền, ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục bị ác dục chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo có ác dục, bị ác dục chi phối, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm hận; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm hận, như vậy là... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp như vậy là... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chống đối vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại; chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham; chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt; chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn; chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn... khó nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả; chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, như vậy là một tánh trở thành khó nói. Chư Hiền, như vậy được gọi là những tánh khiến trở thành khó nói.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo không thỉnh nguyện: “Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi, mong rằng tôi được chư Tôn giả nói!”; Và nếu vị ấy là một người dễ nói, đầy đủ những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói, kham nhẫn, cung kính đón nhận khi được nghe giảng dạy, thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng, Tỷ-kheo ấy đáng được nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy đáng được giáo huấn, nghĩ rằng nên đặt lòng tin vào người ấy. Chư Hiền, thế nào là những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói? Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối, như vậy là một đức tánh khiến trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khen mình chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo không khen mình chê người... dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ,... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không vì phẫn nộ thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, không trở lại chống đối vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không trở lại chỉ trích vị đã khiển trách mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không hư ngụy và não hại, chư Hiền, Tỷ-kheo không hư ngụy và não hại... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật đố và xan tham, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật đố và xan tham... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống và lường gạt. Chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống và lường gạt... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và quá mạn, chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và quá mạn... trở thành dễ nói. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, như vậy là một đức tánh trở thành dễ nói. Chư Hiền, như vậy được gọi là những đức tánh khiến trở thành dễ nói.
Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải tư lượng tự ngã với tự ngã như sau: “Người này có ác dục, bị ác dục chi phối nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta có ác dục, bị ác dục chi phối, các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta”. Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy cần phải phát tâm như sau: “Ta sẽ không có ác dục, sẽ không bị ác dục chi phối. Người này khen mình chê người, nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta khen mình chê người, các người khác sẽ không ưa ta, sẽ không thích ta”. Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: “Ta sẽ không khen mình chê người. Người này có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối, nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối”; “Người này phẫn nộ, vì vị phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận”; “Người này phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp”; “Người này phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ nên Ta không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ”; “Người này bị buộc tội, trở lại chống đối vị đã buộc tội mình, nên Ta không ưa người ấy... Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chống đối vị buộc tội mình”; “Người này bị buộc tội, trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình, nên ta không ưa người ấy... Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình”; “Người này bị buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của mình, nên ta không ưa người ấy... Ta bị buộc tội sẽ không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời ra ngoài vấn đề, và không để lộ phẫn nộ, sân hận bất mãn của mình”; “Người này bị buộc tội, không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết nên ta không ưa người ấy... Ta bị buộc tội, sẽ giải thích thỏa mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết”; “Người này hư ngụy và não hại nên Ta không ưa người ấy... Ta sẽ không hư ngụy và não hại”; “Người này tật đố và xan tham nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không tật đố và xan tham”; “Người này khi cuống và lường gạt nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không khi cuống và lường gạt”; “Người này ngoan mê và quá mạn nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không ngoan mê và quá mạn”; “Người này chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả nên ta không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta”. Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: “Ta sẽ không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”.
Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau: “Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?” Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có ác dục và bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp. Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau: “Không biết ta có khen mình chê người hay không? Ta không khen mình chê người... các thiện pháp. Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối không...? Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối... các thiện pháp. Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân, trở thành có hiềm hận không...? Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người hiềm hận... các thiện pháp. Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố chấp...? Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố chấp... các thiện pháp. Lại nữa,... không biết ta có phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ...? Ta không có phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ... các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chống đối vị đã buộc tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chống vị đã buộc tội ta... các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta... các thiện pháp. Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta...? Ta bị buộc tội, ta không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời ngoài vấn đề, và ta không để lộ sự phẫn nộ, sân hận và bất mãn của ta... các thiện pháp. Và lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết... Ta bị buộc tội, Ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết... các thiện pháp. Lại nữa, không biết ta có hư ngụy và não hại...? Ta không có hư ngụy và não hại... các thiện pháp. Lại nữa, không biết ta có tật đố và xan tham...? Ta không có tật đố và xan tham... các thiện pháp. Lại nữa, không biết ta có khi cuống và lường gạt...? Ta không có khi cuống và lường gạt... các thiện pháp. Lại nữa... không biết ta có ngoan mê và quá mạn...? Ta không có ngoan mê và quá mạn... các thiện pháp”. Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã như sau: “Không biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?” Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp. Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: “Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh”. Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Tôn giả Mahamoggallana thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Tôn giả Mahamoggallana.
KINH TƯ LƯỢNG, THỨ MƯỜI LĂM HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________
>>> 14.Tiểu Kinh khổ uẩn
Đức Phật A Di Đà thường được kết hợp với sự vãng sinh của những người chết. Cho nên, Kern và Matsumoto Bunzabùro đã tìm nguồn gốc của A Di Đà trong tín ngưỡng Yama của Veda.
Như đã thấy ở chương I, đức Phật A Di Đà đã được nhấn mạnh như một đức Phật ánh sáng. Trong những danh hiệu của đức Phật này, yếu tố ánh sáng đã xuất hiện một cách khá thường xuyên.
Do đó, vào những năm đầu của thế kỷ XX, những người nghiên cứu hầu như đã nhất trí đi tìm nguồn gốc của tín ngưỡng A Di Đà trong tín ngưỡng và thần thoại của dân tộc Iran.
Tiêu biểu có một số ý kiến như sau:
- Học giả người Anh Laurence Austine Waddell (1854-1938), cho rằng tín ngưỡng A Di Đà là một phát triển của thần thoại mặt trời trong tôn giáo Iran[1].
- Nhà ngôn ngữ, học giả người Anh Joseph Edkins (1823 - 1905), coi nó xuất phát từ tính ngưỡng Ormazd, trong khi Beal lại tìm thấy Vô Lượng Quang đến từ vị thần ánh sáng Mithrsa, còn Vô Lượng Thọ thì từ vị thần thời gian vô lượng Zurvana Akarana của tôn giáo Zarathustra[2].
-Pelliot và Lévi cũng đồng tình để nghĩ rằng, tín ngưỡng A Di Đà đã có một liên hệ nào đó với tín ngưỡng bày tỏ trong thánh điển Avesta của Zarathustra.
Thuyết nguồn gốc Iran này ngày nay không được chú trọng mấy, một mặt vì nền văn hiến Avesta không có nhiều giá trị bảo chứng ngôn ngữ, và mặt khác vì có những chứng cớ cho phép tìm hiểu nguồn gốc Ấn độ của chính bản thân Phật A Di Đà.
Về nền văn hiến Avesta, tuy có nói đến ánh sáng và đời sống thọ mạng như hai đặc tính của Ormazd, vị thần sáng tạo ramọi thứ tốt lành, nó đã không cho ta một sựliên hệngôn ngữhọc nào giữa Ormazd và A Di Đà, trong khi những những tư liệu Ấn độ lại cung cấp những chứng cớ cho sự liên hệ giữa A Di Đà với những vị thần của Vệ đà.
TIẾT 2.
LUẬN THUYẾT TRONG TÔN GIÁO ẤN ĐỘ
2.1. Thuyết thần Viṣnu
Đức Phật A Di Đà thường được kết hợp với sự vãng sinh của những người chết. Cho nên, Kern và Matsumoto Bunzabùro đã tìm nguồn gốc của A Di Đà trong tín ngưỡng Yama của Veda.
Nhưng phải đợi đến khi Wogihara công bố những kết quả nghiên cứu liên hệ giữa tín ngưỡng Di Đà và Viṣnu, ta mới có một quan điểm rõ ràng về nguồn gốc của A Di Đà.
Viṣnu là một vị thần mặt trời. Ở điểm cao nhất của bầu trời (padaṃ paramaṃ) có một nguồn suối अम्रंत amṛta (cam lồ) là thứ rượu soma. Các vị thần uống vào đều trở thành bất tử. Yama là kẻ đầu tiên sinh vào cõi ấy[3].
Vậy thì, Viṣnu vừa là vị thần ánh sáng, vừa là vị thần bất tử, hai đặc tính hoàn toàn thích hợp với Phật A Di Đà. अमित amita là một dạng tục ngữ của अम्रंत amṛta, tức Cam lồ bất tử.
Do đó, tín ngưỡng A Di Đà có thể xuất phát từ tín ngưỡng Viṣnu, một vị thần đã xuất hiện từ thời Veda.
Theo Wogihara thì từ nguyên ủy, A Di Đà được quan niệm như sống lâu không lường, tức आमितायुष् āmitāyuṣ (Vô Lượng Thọ 無量壽), rồi sau do ảnh hưởng của tín ngưỡng mặt trời, được quan niệm thêm là một vị Phật ánh sáng không lường, tức अमितप्रभ Amitaprabha (Vô Lượng Quang 無量光).
Thuyết nguồn gốc Ấn độ này không phải không có ít nhiều giá trị. Tuy nhiên, nếu nghĩ rằng tín ngưỡng A Di Đà thực sự xuất hiện từ tín ngưỡng Viṣnu thì tỏ ra quá đơn giản, bởi vì nếu chỉ cần tìm nguồn gốc của những đặc tính gán cho Phật A Di Đà thì nó cũng chưa giải quyết được vấn đề nguồn gốc của chính tín ngưỡng ấy ở trong Phật giáo.
2.2. Thuyết thần Varūṇa và Varana
Trong Vệ đà, thần mặt trời gọi là Varūṇa ở thế giới phía tây có tên Sukha. Varūṇa cũng là vị thần bất tử. Như vậy chỉ Varūṇa thôi cũng đã hội đủ hai điều kiện अमितप्रभ Amitaprabha (Vô Lượng Quang 無量光) và आमितायुष् āmitāyuṣ (Vô Lượng Thọ 無量壽).
Trong Avesta, Varūṇa đã trở thành Varana vị thần của ánh sáng và thọ mạng vô lượng.
Từ đó, khi Varūṇa biến thành vị thần tối cao trong tín ngưỡng của người Ấn độ và Iran, thì không thể nào không có những ảnh hưởng nhất định trên Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo miền tây bắc Ấn độ lúc ấy đang chịu quyền cai trị của người Iran qua trung gian vương quốc An tức.
Những kinh điển nói về Phật A Di Dà hiện nay như Vô lượng thọ kinh đã bộc lộkhá nhiều dấu vết ảnh hưởng Iran vừa nói.
Nhưng trước khi bàn rộng vấn đề này, ta phải nghiên cứu thêm các truyền thuyết về Phật A Di Đà trong kinh điển Phật giáo. Cho nên, một quan điểm khác đề xuất thuyết nguồn gốc Ấn độ trong Phật giáo.
[1] Cf. Emmerick, RE, "Buddhism amongst Iranian peoples" in: Yarshater, Ed, Cambridge History of Iran, vol 3.2, Cambridge, CUP, 1983; Foltz, R, Religions of the Silk Road: Overland trade and Cultural exchange from Antiquity to Fifteenth Century, New York: St. Martins Press, 1999
[2] Cf. Boyce, Mary (1957), Some reflections on Zurvanism, Bulletin of the School of Oriental and African Studies; Frye, Richard (1959), Zurvanism Again, The Harvard Theological Review, London, Cambridge.
[3] Cf. A History of Indian Philosophy by Surendranath Dasgupta, cambridge at the university press, 1922.
(Culadukkhakkhandhasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn sống giữa giòng họ Sakka (Thích-ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) tại vườn Nigrodha (Ni-câu-luật viên). Lúc ấy, có người Sakka tên Mahànàma đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Mahànàma, dòng họ Sakka bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con đã hiểu như thế này lời dạy Thế Tôn: “Tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, si là cấu uế của tâm”. Bạch Thế Tôn, con đã hiểu như thế này lời dạy Thế Tôn: “Tham là cấu uế của tâm... si là cấu uế của tâm”. Tuy vậy, đôi lúc các tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú. Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ: “Pháp nào tự trong ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú?”
– Này Mahànàma, có một pháp trong Ông chưa được đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và an trú... các si pháp xâm nhập tâm Ông và an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy trong Ông có thể đoạn trừ được, nếu Ông không sống trong gia đình, nếu Ông không thụ hưởng các dục vọng. Và này Mahànàma, vì pháp ấy trong Ông chưa được đoạn trừ, nên Ông sống trong gia đình và thụ hưởng các dục vọng.
Các dục vọng, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Này Mahànàma, nếu một vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ, nhưng nếu vị này chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy vị ấy chưa khỏi bị các dục chi phối. Này Mahànàma, khi nào vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ: “Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn”, và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối. Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh Đẳng Chánh Giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn”, dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: “Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn”, và Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.
Và này Mahànàma, thế nào là vị ngọt các dục? Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục này: Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận thức...; các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn. Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục như vậy. Này Mahànàma, y cứ vào năm pháp tăng trưởng các dục này, có lạc và hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Và này Mahànàma, thế nào là sự nguy hiểm các dục?... (như trang... cho đến trang..., với “Này Mahànàma” thế cho “Này các Tỷ-kheo.”... ) Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân.
Này Mahànàma, một thời Ta ở tại Rajagaha (Vương-xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, rất nhiều Ni Kiền Tử (Nigantha) tại sườn núi Isigili, trên Kalasila (Hắc Nham), đứng thẳng người, không chịu ngồi và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén nhạy. Này Mahànàma, rồi Ta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến sườn núi Isigili, tại Kalasila chỗ các Nigantha ấy ở, khi đến nơi Ta nói với các Nigantha ấy:
“– Chư Hiền, tại sao các Người lại đứng thẳng người, không chịu ngồi xuống và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén nhạy như vậy?
“– Này Mahànàma, được nói vậy các Nigantha ấy trả lời Ta như sau:
“– Này Hiền giả, Nigantha Nataputta là bậc toàn tri, toàn kiến, tự xưng là có tri kiến toàn diện như sau: “Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có thức, tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục ở nơi ta”. Vị ấy nói như sau: “Này các Nigantha, nếu xưa kia Người có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác nghiệp trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt trừ; do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn”. Và vì chúng tôi chấp nhận điều ấy, và chúng tôi kham nhẫn điều ấy, nên chúng tôi được hoan hỷ.
Này Mahànàma, khi được nói vậy Ta nói với các Nigantha ấy như sau:
“– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết chăng, trong quá khứ, các Người có mặt hay các Người không có mặt?
“– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
“– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết chăng, trong quá khứ, các Người không làm ác nghiệp hay có làm ác nghiệp?
“– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
“– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết chăng, các Người không làm các nghiệp như thế này hay như thế kia.
“– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
“– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết chăng: Mức độ đau khổ như thế này đã trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần phải trừ diệt? Hay, khi mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt, thời tất cả đau khổ sẽ được trừ diệt?
“– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
“– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết chăng, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu các thiện pháp?”
“– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
“– Chư Hiền, theo các Người nói, Nigantha các Người không biết: Trong quá khứ các Người có mặt hay các Người không có mặt; các Người không biết, trong quá khứ các Người không làm các ác nghiệp hay có làm các ác nghiệp; các Người không biết các Người không làm ác nghiệp như thế này hay như thế kia; các Người không biết, mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần phải trừ diệt; mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt thời tất cả đau khổ sẽ được trừ diệt; các Người không biết, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu các thiện pháp. Chư Hiền Nigantha, sự kiện là như vậy thì những kẻ săn bắn ở đời, với bàn tay đẫm máu, làm các nghiệp hung dữ, được tái sanh trong loài người, những hạng ấy có xuất gia trong hàng ngũ Nigantha các Người không?”
“– Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc thì vua Magadha Seniya Bimbisara (Tần-bà-ta-la) có thể đạt được hạnh phúc, và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Lời nói này thật sự đã được các Tôn giả Nigantha nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư. Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc, thời vua Magadha Seniya Bimbisara có thể đạt được hạnh phúc; và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Và chính ta ở đây cần phải được hỏi như sau: “Giữa các bậc Tôn giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả Gotama?” Hiền giả Gotama, lời nói này thật sự đã được chúng tôi nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư: Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc... (như trên)... sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Hãy để yên sự việc như vậy. Nay chúng tôi hỏi Tôn giả Gotama: “Giữa quý vị Tôn giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả Gotama?”
“– Chư Hiền Nigantha, nay Ta sẽ hỏi các Người một câu, cũng vấn đề này. Nếu các Người vui lòng, hãy trả lời câu hỏi ấy. Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisara có thể không di động thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn bảy ngày bảy đêm có được không?
“– Này Hiền giả, không thể được.
“– Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisara có thể không di động thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn sáu ngày sáu đêm, luôn năm ngày năm đêm, luôn bốn ngày bốn đêm, luôn ba ngày ba đêm, luôn hai ngày hai đêm, luôn một ngày một đêm không?
“– Này Hiền giả, không thể được.
“– Chư Hiền Nigantha, Ta có thể không di động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn trong một ngày một đêm. Chư Hiền Nigantha, Ta có thể không di động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn trong hai ngày hai đêm, luôn trong ba ngày ba đêm, luôn trong bốn ngày bốn đêm, luôn trong năm ngày năm đêm, luôn trong sáu ngày sáu đêm, luôn trong bảy ngày bảy đêm. Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Ta?
“– Sự kiện là như vậy, Tôn giả Gotama sống hạnh phúc hơn vua Magadha Seniya Bimbisara.”
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Mahànàma thuộc giòng họ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
TIỂU KINH KHỔ UẨN, THỨ MƯỜI BỐN HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________
>>> 13.Đại Kinh khổ uẩn
Phật A Di Đà như một biểu tượng tín ngưỡng xuất hiện khá sớm trong các kinh điển thuộc Tịnh độ giáo, và tùy ở sự du nhập của các kinh điển ấy vào các nước khác nhau mà những biểu tượng đó mang nhiều sắc thái riêng biệt chứng tỏ khả năng vận dụng đặc thù của từng dân tộc.
Thuyết này cho rằng tín ngưỡng A Di Đà là một phát triển có tính chất tất yếu trong quá trình truyền bá Phật giáo. Cơ sở của phát triển đó nằm ngay trong tín ngưỡng đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi đức Thích Tôn nhập niết bàn, một trào lưu tín ngưỡng mang ít nhiều tính chất bình dân và thần thoại xuất hiện nhằm phổ cập hóa Phật giáo tới nhiều lớp người khác nhau.
Chính từ trào lưu này đã khai sinh ra nền văn học Bản sinh cũng như tư tưởng bồ tát, tìm cách lý tưởng hóa cuộc đời cũng như sự nghiệp của đức Thích Tôn.
Đức Thích Tôn bây giờ không phải chỉ là đức Thích Ca Mâu Ni lịch sử, mà còn là một vị Phật của chân lý thường còn và mãi mãi thường còn (pháp thân) cũng như một vị Phật của hưởng thụ sung sướng (báo thân).
Chính quan niệm báo thân này là cơ sở cho tín ngưỡng Phật A Di Đà. Đó chủ yếu là quan điểm của Yabuki Koiki và Mochizuki Shinkyò.
Trước hết, tín ngưỡng A Di Đà là một phát triển nội tại của quá trình truyền bá Phật giáo.
Vai trò của văn học Bản sinh cũng như tư tưởng Phật thể quan đương nhiên góp một phần quan trọng vào sự hình thành ra tín ngưỡng ấy.
Đồng thời khi đã nói nó là kết quả của một quá trình, ta tất phải giả thiết sự tiếp thu tất yếu những yếu tốtín ngưỡng ngoài Phật giáo, bởi vì nếu không có sự tiếp thu đó, quá trình phát triển không thể xảy ra được.
Sự tiếp thu đó đã xảy ra trên hai mặt như sau:
- Mặt thứ nhất là quá trình tiếp xúc giữa Phật giáo với toàn bộ văn hóa và tín ngưỡng Ấn độ trong lịch sử tồn tại của mình.
- Mặt thứ hai, là quá trình tiếp xúc giữa Phật giáo với các nền văn hóa và tín ngưỡng ngoài Ấn độ, chủ yếu là nền văn hóa và tín ngưỡng Iran.
Chính quá trình tiếp xúc đó đã làm cơ sở cho sự tiếp thu tất yếu nói trên, từ đó xây dựng nên hình ảnh đức Phật A Di Đà với những yếu tố như ánh sáng, sống lâu, quang vinh, thanh tịnh v.v...
Phật A Di Đà như một biểu tượng tín ngưỡng xuất hiện khá sớm trong các kinh điển thuộc Tịnh độ giáo, và tùy ở sự du nhập của các kinh điển ấy vào các nước khác nhau mà những biểu tượng đó mang nhiều sắc thái riêng biệt chứng tỏ khả năng vận dụng đặc thù của từng dân tộc.
Tất nhiên người ta có thể đồng ý trên nguyên tắc với quan điểmcho rằng tín ngưỡng A Di Đà là phát triển tất yếu của tín ngưỡng nội bộ Phật giáo. Nhưng trong văn học Phật giáo, ngoài tín ngưỡng A Di Đà, còn song hành một số tín ngưỡng khác có dạng hình tương tự kiểu tín ngưỡng A Sô Bệ và tín ngưỡng Dược Sư.
Cho nên, không thể chỉ dựa vào quá trình phát triển của văn học Bản sinh cùng tư tưởng Phật thể quan để giải thích nguồn gốc của tín ngưỡng A Di Đà.
Nguồn gốc tín ngưỡng A Di Đà xuất phát hiển nhiên là từ Ấn độ. Nhưng không phải kinh điển nào lưu hành ở Ấn độ cũng đề cập đến A Di Đà.
Sự thực, một bộ phận lớn những kinh điển ấy đã hoàn toàn im lặng, không nói gì đến đức Phật A Di Đà, một số khác thì chỉ nói phớt qua, trong khi đề cập những vấn đề tổng quát liên quan đến niệm Phật.
Thí dụ, trong Đại Tạng Kinh 15, số hiệu 0643, Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh 9[1], Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch, kể chuyện ba tỳ kheo cùng lễ bái tướng bạch hào của Phật Không Vương mà thành Phật, trong đó một vị đã trở thành Phật A Di Đà.
Truyện này cùng với truyện tỳ kheo Pháp Tạng, truyện vua Vô Tránh Niệm và truyện mười sáu vương tử cấu tạo nên nhóm truyện giải thích quá trình thành đạo của Phật A Di Đà, mà thuật ngữ thường gọi là A Di Đà thành đạo nhân quả.
Một bộ phận thứ ba bao gồm các kinh điển đã đề cập đến đức Phật A Di Đà trong một chừng mực nào đó, nhưng sau này đã có một ảnh hưởng sâu rộng trong giới Tịnh độ giáo.
Cuối cùng là nhóm kinh điển làm cơ bản cho tín ngưỡng A Di Đà. Chúng bao gồm ba bộ kinh thường được gọi là tịnh độ tam bộ kinh, tức là: các kinh A Di Đà, Quán vô lượng thọ và Vôlượng thọ.
Trong đoạn bàn vềtín ngưỡng A Di Đà tại Ấn độ ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến nhóm kinh điển cuối cùng vừa nói, mà sẽ tập trung vào các kinh điển nhóm thư ba, chủ yếu là các kinh Hoa nghiêm, Pháp hoa và Bát nhã cùng các trước tác của các luận sư mà các nhà Tịnh độ giáo về sau thừa nhận là những người tiên phong.
Trong các kinh điển Bát nhã, tư tưởng tịnh độ tuy được giới thiệu rộng rãi, nhưng đó chủ yếu là cõi tịnh độ của đức A Súc ở phương đông, chứ không phải thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà ở phương tây.
Nguyên điển Sanskrit, Ma ha bát nhã ba la mật kinh[2], để trả lờicâu hỏi Bồ tát thực hành Bát nhã ba la mật, thì sau khi chết ở đâu vãng sinh ở đây, hay sau khi chết ở đây thì vãng sinh ở đâu, đã viết:
ग़ो भगवन बोधिसत्त्वो महासत्त्वोऽनेन प्रज्ञापारमिताविथरेण विहरति स कुतश च्युत इहोपपद्यते । इतो वा च्युतह कुत्रोपपत्स्यते (.....) सन्ति शारिपुत्र बोधिसत्त्वाहः महासत्त्वाः सण्णामं अभिज्ञानामं लाभिनस ते ताभिर अभिज्ञाभिर विक्रोडन्तो बुद्धक्षेत्रेण बुद्धक्षेत्रमं समंक्रामन्ति येषु बुद्धक्षेत्रेष्व अमितम आयुहः॥ (Yo bhagavan bodhisattvo mahāsattvo'nena prajñāpāramitāvithareṇa viharati sa kutaś cyuta ihopapadyate / ito vā cyutah kutropapatsyate (.....) santi śāriputra bodhisattvāḥ mahāsattvāḥ saṇṇāṃ abhijñānāṃ lābhinas te tābhir abhijñābhir vikroḍanto buddhakṣetreṇa buddhakṣetraṃ saṃkrāmanti yeṣu buddhakṣetreṣv amitam āyuḥ//)[3]
“Có những Bồ tát đã chứng đắc sáu thần thông, bằng các thần thông ấy họ du hành vượt qua một quốc độ Phật này đến một quốc độ Phật khác, mà trong các quốc độ Phật ấy tuổi thọ là vô lượng…”
Đoạn văn này, như thế, tuy không nói rõ là đức Phật A Di Đà, nhưng nói đến những cõi Phật có tuổi thọvô lượng, do vậy cũng ám chỉ xa gần đến đức Phật ấy.
Thêm vào đó, nó lại đề cập đến phạm trù vãng sinh.
Giải thích phạm trù vãng sinh của Đại Bát Nhã nói ở trên, Đại Tạng Kinh 25, số hiệu 1509, Đại Trí Độ Luận 38[4], phẩm Vãng Sinh, Long Thọ Bồ Tát tạo, Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch, viết: “Nói đến những thứ vãng sinh, Phật pháp không chấp có, không chấp không, có không cũng không chấp, chẳng có chẳng không cũng không chấp, không chấp cũng không chấp. Như vậy người ta không gặp phải những thắc mắc”.
Rồi dẫn hai bài tụng từ Trung luận để minh giải. Một từ chương Quán Pháp thứ mười tám của म्ऊलमध्यमककारिका Mūlamadhyamakakārikā, bản Tây Tạng tương đương là Dbu-ma tsa-baḥi tshig-leḥur byas-pa śes-rab ces-bya-ba nói rằng:
“षर्वमं तथ्यमं न वा तथ्यमं च्ऐतत यम एव च ।
न्ऐवातथ्यण न्ऐव थयम एतद बुद्धानु शासनम्॥[5]
Sarvaṃ tathyaṃ na vā tathyaṃ caitat yam eva ca /
naivātathyaṇ naiva thayam etad buddhānu śāsanam
"Tất cả là thật là không thật, cũng thật, cũng không thật, cũng không thật cũng không không thật, đó là lời dạy của đức Phật" [6].
Và một từ chương Quán Niết Bàn thứ hai mươi lăm:
णिर्वाणस्य च या कोटिह कोटिह सम्सरणस्यच।
नतयोर अन्तरमं किमंचित सुसूक्स्मम अपिविद्यते
Nirvāṇasya ca yā koṭih koṭih samsaraṇasyaca/
natayor antaraṃ kiṃcit susūksmam apividyate[7]
“Biên giới của Niết Bàn là biên giới của sinh tử, giữa hai biên giới ấy không có một mảy may tách rời”[8].
Qua hai bài tụng này, Đại trí luận đã xác nhận biên giới của sinh tử chính là biên giới của Niết bàn, nên nội dung của vãng sinh là rốt ráo trống vắng.
Nhưng cũng vì tính rốt ráo trống vắng đó nên nó không phủ nhận nhân duyên của nghiệp sinh tử, do đó mà nói có vãng sinh. Lý giải vãng sinh như thế, tác giả Đại trí luận đã đặt nền mống cho thuyết thân Phật tức thân ta của Trần Thái Tôn, thuyết vãng sinh tức thành Phật của Thân Loan, thuyết tịnh uế bất nhị của Liễu Âm, v.v... sau này.
Nói chung, văn hệ Bát nhã tuy không đưa ra lý giải rõ ràng về đức Phật A Di Đà, nhưng đã là bước đầu đặt nền tảng cho những thành tựu về sau kết tinh trong tư tưởng Long Thọ với thuyết dị hành.
Song song với văn hệBát nhã là văn hệ Pháp hoa. Trong văn hệ này, quá khứ cũng như bản nguyện đức Phật A Di Đà đã được mô tả một cách công nhiên.
Về quá khứ của đức Phật ấy, Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 3, Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch, phẩm Hóa thành dụ[9]; Số hiệu 263, Chính pháp hoa kinh 4, phẩm Vãng cổ[10], Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch; số hiệu 264, Thiệm phẩm diệu pháp liên hoa kinh 3, phẩm Hóa thành dụ[11], Tùy Xà Na Quật Đa cộng Cấp Đa dịch; và Nguyên điển Sanskrit kinh Pháp Hoa सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् phẩm 7. Tiền sử ७ पूर्वयोगपरिवर्तः। (7 pūrvayogaparivartaḥ)[12], và bản Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo thuộc tạng Peking No 0781, và Derge No 0113[13], phẩm སྔོན་གྱི་སྦྱོར་བའི་ལེའུ་བདུན་པ་ནི། kể chuyện Ngài là một trong mười sáu vị vương tử của đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đã từng thọ trì giảng dạy kinh Pháp hoa, và sau đó thành Phật có hiệu là A Di Đà ở thế giới phương tây.
Quan điểm Pháp hoa ở đây là kết nạp tín ngưỡng A Di Đà vào tư tưởng nhất thừa, theo đó sự xuất hiện và giáo hóa của đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà cùng các đức Phật ở thế giới khác là tùy theo căn cơ của chúng sinh, để làm những nhà hướng đạo dẫn họ qua sa mạc của sinh tử hiểm nghèo.
Theo tư tưởng Pháp Hoa, Thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà cũng như thế giới của các vị Phật khác, chỉ là những ốc đảo ngọc ngà, mà kinh gọi là महारत्नद्वीप mahāratnadvīpa; gây ấn tượng an ổn cho tất cả, trước những hiểm nguy của sa mạc. Nhưng đó chỉ là nơi an nghỉ tạm thời. Nhà hướng đạo cuối cùng sẽ dẫn tất cả đến đích như bài kệ kết thúc phẩm ấy đã viết:
एतादृशी देशन नायकानां
विश्रामहेतोः प्रवदन्ति निर्वृतिम्।
विश्रान्त ज्ञात्वान च निर्वृतीये
सर्वज्ञज्ञाने उपनेन्ति सर्वान्॥१०९॥
etādṛśī deśana nāyakānāṃ
viśrāmahetoḥ pravadanti nirvṛtim|
viśrānta jñātvāna ca nirvṛtīye
sarvajñajñāne upanenti sarvān||109||[14]
“Sự giáo hóa của các bậc Đạo sư là như thế. Các Ngài nói đến sự tịch diệt là để mọi chúng sinh an nghỉ. Khi biết rằng chúng đã đi đến chỗ tịch diệt vốn không phải là nơi an nghỉ cuối cùng, các Ngài dẫn tất cả vào Nhất thiết trí"
Trong tư tưởng Pháp hoa, thế giới Cực lạc như thế chỉ là một hóa thành, một nơi an nghỉ tạm thời. Tuy vậy, phẩm Tiền sử của Dược Vương thuộc Nguyên điển Sanskrit kinh Pháp Hoa सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम्, phẩm २२ भैषज्यराजपूर्वयोगपरिवर्तः। 22 bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaḥ, tương đương với bản dịch Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba, phẩm 22. སྨན་གྱི་རྒྱལ་པོའི་སྔོན་གྱི་སྦྱོར་བའི་ལེའུ་ཉི་ཤུ་རྩ་གཉིས་པ་ནི།; Bản Hán: Đại Tạng Kinh 09, Diệu pháp liên hoa kinh 6 phẩm Dược Vương bồ tát bản sự[15], Chính pháp hoa kinh 9, phẩm Dược Vương bồ tát[16], và Thiệm phẩm Diệu pháp liên hoa kinh 6, phẩm Dược Vương bồ tát bản sự[17], lại đề cập đến sự vãng sinh về thế giới Cực Lạc của những người trì tụng kinh ấy, ngay cả những người nữ. Kinh viết như sau:
“यः कश्चिन्नक्षत्रराजसंकुसुमिताभिज्ञ इमं भैषज्यराजपूर्वयोगपरिवर्तं पश्चिमायां पञ्चाशत्यां श्रुत्वा मातृग्रामः प्रतिपत्स्यते स खल्वतश्च्युतः सुखावत्यां लोकधातावुपपत्स्यते यस्यां स भगवानमितायुस्तथागतोऽर्हन सम्यक्संबुद्धो बोधिसत्त्वगणपरिवृतस्तिष्ठति ध्रियते यापयति। स तस्यां पद्मगर्भे सिंहासने निषण्ण उपपत्स्यते। (yaḥ kaścinnakṣatrarājasaṃkusumitābhijña imaṃ bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaṃ paścimāyāṃ pañcāśatyāṃ śrutvā mātṛgrāmaḥ pratipatsyate sa khalvataścyutaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyate yasyāṃ sa bhagavānamitāyustathāgato'rhan samyaksaṃbuddho bodhisattvagaṇaparivṛtastiṣṭhati dhriyate yāpayati| sa tasyāṃ padmagarbhe siṃhāsane niṣaṇṇa upapatsyate)
“Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng nhưlời tu hành, thì khi mệnh chung ở đây, liền vãng sinh qua thế giới An lạc, trụ xứ của đức Phật A Di Đà, có các chúng đại Bồ tát vây quanh, mà sinh ra trên tòa báu hoa sen”
Ở đây, sự tu hành theo kinh Pháp hoa được coi như một hỗ trợ đắc lực cho ước nguyện vãng sinh. Tư tưởng nhất thừa như thế được kết hợp chặt chẽ với tín ngưỡng A Di Đà.
Đến phẩm Phổ Môn, là phẩm thứ hai tư, bản Sanskrit Kinh Pháp Hoa, tựa đề २४ समन्तमुखपरिवर्तः 24 samantamukhaparivartaḥ, tương đương với phẩm 24. དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ལས། སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་གི་རྣམ་པར་འཕྲུལ་པ་བསྟན་པ་ཀུན་ནས་སྒོའི་ལེའུ་ཉི་ཤུ་རྩེ་བཞི་པ་ནི། của bản Tây Tạng, có năm bài chỉnh cú ca ngợi đức Phật A Di Đà và nói rõ vị trí của Bồ tát Quán ThếÂm đối với đức Phật ấy. Các bản dịch chữ Hán không có năm bài kệ này. Duy chỉ có bản Sanskrit सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् và bản dịch Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba là thấy chúng xuất hiện.
Nội dung năm bài chỉnh cú như sau:
*Sanskrit Devanagari स्थित दक्षिणवामतस्तथा वीजयन्त अमिताभनायकम्। मायोपमता समाधिना सर्वक्षेत्रे जिन गत्व पूजिषु॥२९॥ दिशि पश्चिमतः सुखाकरा लोकधातु विरजा सुखावती। यत्र एष अमिताभनायकः संप्रति तिष्ठति सत्त्वसारथिः॥३०॥ न च इस्त्रिण तत्र संभवो नापि च मैथुनधर्म सर्वशः। उपपादुक ते जिनोरसाः पद्मगर्भेषु निषण्ण निर्मलाः॥३१॥ सो चैव अमिताभनायकः पद्मगर्भे विरजे मनोरमे। सिंहासनि संनिषण्णको शालरजो व यथा विराजते॥३२॥ सोऽपि तथा लोकनायको यस्य नास्ति त्रिभवेस्मि सादृशः। यन्मे पुण्य स्तवित्व संचितं क्षिप्र भोमि यथ त्वं नरोत्तम॥३३॥[18] |
Phiên âm Latin sthita dakṣiṇavāmatastathā vījayanta amitābhanāyakam| māyopamatā samādhinā sarvakṣetre jina gatva pūjiṣu||29|| diśi paścimataḥ sukhākarā lokadhātu virajā sukhāvatī| yatra eṣa amitābhanāyakaḥ saṃprati tiṣṭhati sattvasārathiḥ||30|| na ca istriṇa tatra saṃbhavo nāpi ca maithunadharma sarvaśaḥ| upapāduka te jinorasāḥ padmagarbheṣu niṣaṇṇa nirmalāḥ||31|| so caiva amitābhanāyakaḥ padmagarbhe viraje manorame| siṃhāsani saṃniṣaṇṇako śālarajo va yathā virājate||32|| so'pi tathā lokanāyako yasya nāsti tribhavesmi sādṛśaḥ| yanme puṇya stavitva saṃcitaṃ kṣipra bhomi yatha tvaṃ narottama||33|| iti||[19] |
Bản Tây Tạng (29) འདྲེན་པ་སྣང་བ་མཐའ་ཡས་གཡས་གཡོན་ནས། ། བསིལ་ཡབ་ཐོགས་ཏེ་དེ་བཞིན་གཡོབ་ཅིང་འདུག ། སྒྱུ་མ་ལྟ་བུའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་གྱིས་ཀྱང༏ ། ཞིང་རྣམས་ཀུན་ཏུ་སོང་ནས་རྒྱལ་བ་མཆོད། ། (30) ནུབ་ཀྱི་ཕྱོགས་ན་བདེ་བའི་འབྱུང་གནས་ཏེ། ། རྡུལ་བྲལ་འཇིག་རྟེན་ཁམས་འདི་བདེ་བ་ཅན། ། དེ་ན་སེམས་ཅན་ཁ་ལོ་སྒྱུར་བ་ཡི། ། འདྲེན་པ་ཚེ་མཐའ་ཡས་པའང་ད་ལྟར་བཞུགས། ། (31) དེར་ནི་བུད་མེད་རྣམས་ཀྱང་མི་འབྱུང་སྟེ། ། རྣམ་པ་ཀུན་ཏུ་གཡེམ་པའི་ཆོས་མེད་དོ། ། རྒྱལ་བའི་སྲས་པོ་དེ་དག་བརྫུས་ཏེ་སྐྱེ། ། དྲི་མ་མེད་པའི་པད་མའི་སྙིང་པོར་འདུག ། (32) འདྲེན་པ་ཚེ་མཐའ་ཡས་པ་དེ་ཉིད་ཀྱང༏ ། པད་མའི་སྙིང་པོ་དྲི་མེད་དགའ་བ་ལ། ། སེང་གེའི་ཁྲི་ལ་རབ་ཏུ་བཞུགས་པ་ཡང༏ ། སཱ་ལའི་རྒྱལ་པོ་ལྟ་བུར་རྣམ་པར་མཛེས། ། (33) འཇིག་རྟེན་འདྲེན་པ་འདི་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། ། སྲིད་པ་གསུམ་ན་དེ་འདྲ་ཡོང་མེད་དོ། ། གང་གིས་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་མིང་ཐོས་པ། ། དེ་ཡི་བསོད་ནམས་དག་ནི་ཟད་མི་འགྱུར། །[20] |
Bản dịch Sanskrit Anh của Kern 29. At one time standing to the right, at another to the left of the Chief Amitabha, whom he is fanning, he, by dint of meditation, like a phantom, in all regions honours the Gina. 30. In the west, where the pure world Sukhâkara is situated, there the Chief Amitabha, the tamer of men, has his fixed abode. 31. There no women are to be found; there sexual intercourse is absolutely unknown; there the sons of Gina, on springing into existence by apparitional birth, are sitting in the undefiled cups of lotuses. 32. And the Chief Amitâbha himself is seated on a throne in the pure and nice cup of a lotus, and shines as the Sâla-king. 33. The Leader of the world, whose store of merit has been praised, has no equal in the triple world. O supreme of men, let us soon become like thee![21] |
Như vậy đối chiếu bản Sanskrit-Tây Tạng-Anh chúng ta có nội dung năm bài chỉnh cú này như sau: "Bồ tát Quán Thế Âm có khi đứng bên phải có khi đứng bên trái đức đạo sư Vô Lượng Quang mà hầu quạt, đồng thời bằng tam muội như huyễn, phụng sự đấng Tối Thắng ấy trong tất cảmọi quốc độ. Ở phương Tây có cõi Cực lạc thế giới hoan lạc vô nhiễm, có đức Đạo sư Vô Lượng Quang, vị Điều ngự của chúng sinh, an trú và tồn tại. Ở đó không có người nữ sinh ra, và cũng hoàn toàn không có sự dâm dục; những người con của đấng Tối Thắng hóa sinh ngồi giữa lòng hoa sen không cấu nhiễm. Và chính đức đạo sư Vô Lượng Quang ngồi trên tòa sư tử bằng hoa sen thuần khiết khả ái, rạng ngời sáng chói như Sa-la vương. Đấng Đạo sư của thế gian như thế, trong ba cõi không aisánh bằng. Kính đấng Siêu nhân! Sau khi tán dương tụ phước đức của Ngài, mong cho con chóng được như Ngài".
Và sự kiện năm bài chỉnh cú này vắng mặt trong các bản dịch chữ Hán Kinh Pháp Hoa, mà bản cuối cùng là thuộc Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 264 của Xà Na Cấp Đa dịch[22], vào năm 601, thuộc; mà chỉ xuất hiện trong bản Sanskrit và bản dịch Tây Tạng, chứng tỏ từ thế kỷ thứ bảy về sau việc kết liên Bồ tát QuánThế Âm với đức Phật A Di Đà đã trở thành một yêu cầu trong tín ngưỡng A Di Đà ở Ấn Độ.
Tất nhiên, không thể dựa hoàn toàn vào sự vắng mặt trong những bản dịch chữ Hán, mà khẳng quyết năm bài chỉnh cú ấy ra đời sau bản dịch của Xà Na Cấp Đa, bởi vì, có thể các bản dịch chữ Hán đã y cứ vào các truyền bản khác với truyền bản Sanskrit: सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् hiện tìm được.
Hơn nữa, trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh[23], 2 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch giữa những năm 223-253, đã thấy xuất hiện đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí như hai Bồ tát thị giả đức Phật A Di Đà và sẽ kếvị đức Phật này ở thế giới Cực Lạc.
Cho nên, sự kết liên đức Quán Thê Âm với đức Phật A Di Đà trong đoạn văn dẫn trên của kinh Pháp hoa và bản Sanskrit chỉ là một sự tiếp thu, nếu quả có sự tiếp thu, một truyền thống tín ngưỡng có từ trước rồi.
Vậy thì từ cơ sở tư tưởng nhất thừa, tín ngưỡng A Di Đà xuất hiện như một trợ lực thiết yếu cho những hành giả đi về quả vị giác ngộ tối thượng. Khía cạnh trợlực này nổi bật khá rõ nét trong mối quan hệ của Phật A Di Đà với hai vị Bồ tát Dược Vương và Quán Thế Âm. Một vị như là một người bạn đường thiết yếu trong những nỗi thống khổ của bệnh tật, và một vị trong những tai họa bất trắc của cuộc đời.
Nói tóm lại, có một nỗ lực lý giải tín ngưỡng A Di Đà trong kinh Pháp hoa và qui định vị trí và vai trò của tín ngưỡng này trong toàn bộ hệ thống tư tưởng nhất thừa của nó.
Nếu kinh Pháp hoa coi thế giới Cực lạc như một hóa thành, một nơi an nghỉ tạm thời, thì những mô tả về thế giới ấy trong kinh Hoa nghiêm cũng không có gì độc đáo lắm.
Một mặt nếu về không gian, thế giới Cực lạc có những hàng cây báu, có ao sen bảy báu với lòng ao rải bằng cát vàng, tràn đầy nước trong có tám đặc tính, có những loài chim hót tiếng líu lo như nhạc trời, có tiếng gió thổi qua các hàng cây phát ra những âm thanh vi diệu v.v..., thì những mô tả này cũng thấy xuất hiện nơi khu vườn Phổ trang nghiêm của bà Hưu Xả, mà trong Kinh Hoa Nghiêm bản Sanskrit hiện có là ङण्डव्यूह सूत्रम gaṇḍavyūhasūtram[24] và Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0278, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 47[25], bản 60 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch; Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0279, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 63[26], bản 80 quyển, Đường Thật Xoa Nan Đà dịch, và Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 7[27], bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch ghi nhận.
Mặt khác về thời gian thì số lượng thời gian của thếgiới Cực lạc chỉ được quan niệm dài hơn thế giới Ta bà, còn so với các thế giới khác thì nó quá ngắn. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 45 (bản 80) phẩm Thọ lượng và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 29 (bản 60) phẩm Thọ mạng, Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0289, Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Trang dịch và số hiệu 0290, Phật Thuyết Giảo Lượng Nhất Thiết Phật Sát Công Đức Kinh, 1 quyển, Tống Pháp Hiền dịch…nói nếu lấy thời gian ở thế giới Ta bà của Phật Thích Ca làm chuẩn, thì một kiếp của cõi này chỉ dài bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà, rồi một kiếp của thế giới Cực lạc chỉ dài bằng một ngày một đêm của thế giới Ca sa tràng của Phật Kim Cang Kiên. Con số thời gian dài nhất của thế giới trong số mười thế giới được kể đến trong phẩm ấy là của thế giới Kính quang của Phật Nguyệt Trí. Nhưng thời gian của thế giới Kính Quang cũng chưa đáng kể nếu so với thời gian của thế giới Liên hoa của Phật Hiền Thắng.
Như vậy, với những xác định đơn vị thời gian vừa thấy, việc nói đức Phật A Di Đà có tuổi thọ vô lượng cũng chưa xác định được như một nét đặc thù về phương diện thời gian.
Tuy vậy, ước nguyện vãng sinh về thế giới Cực Lạc ấy vẫn được nhấn mạnh trong phẩm 56 Phổ Hiền Hành Nguyện, của Kinh ङण्डव्यूह सूत्रम gaṇḍavyūhasūtram bản Sanskrit với nhan đề: समन्तभद्रचर्याप्रणिधानम् samantabhadracaryāpraṇidhānam, phần này không có trong các bản dịch Hán của Kinh Hoa Nghiêm thuộc Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0278, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, bản 60 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch; số hiệu 0279, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, bản 80 quyển, Đường Thật Xoa Nan Đà dịch mà chỉ có trong phần cuối của Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 40, bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch và bản dịch Tây Tạng སྡོང་པོ་བཀོད་པ། sdong po bkod pa
Ước nguyện vãng sinh ở đây được quan niệm như một hỗ trợ đắc lực để thành tựu những đại nguyện của Phổ Hiền:
“कालक्रियां च अहं करमाणो
आवरणान विनिवर्तिय सर्वान्।
संमुख पश्यिय तं अमिताभं
तं च सुखावतिक्षेत्र व्रजेयम्॥५७॥
kālakriyāṃ ca ahaṃ karamāṇo
āvaraṇān vinivartiya sarvān|
saṃmukha paśyiya taṃ amitābhaṃ
taṃ ca sukhāvatikṣetra vrajeyam||57||[28]
Nguyện khi tôi lâm chung,
Mọi chướng ngại đều được tiêu trừ,
Tôi đi về quốc độ Cực Lạc
Và thấy tận mặt đức Phật A Di Đà"
Đối chiếu với bản Tây Tạng chúng ta có như sau:
པད སཱཏཱཀུ མེནིནྒྒལ
སེམོག སེགལ ནོད ཏེརྶིནྒྐིརྐན
དེནྒནདེམིཀཱིནསཡ དཔཏམེལིཧཏབུདྡྷ ཅཧཡ ཏནྤ བཏས
དནདཔཏཔེརྒི ཀེ སུརྒ ཀེབཧགཱཱིནསེམྤུརྣ[29].
Ước mong khi tôi lâm chung,
Tránh xa tất cả các chướng ngại,
Trước mắt thấy được đức Vô Lượng Quang
Và vãng sinh về cõi Cực lạc của Ngài.
Đối chiếu với bản Hán Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 40, bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch:
願我臨欲命終時,
盡除一切諸障礙,
面見彼佛阿彌陀,
即得往生安樂剎。[30]
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,
Diện kiến bỉ Phật A-di-đà,
Tức đắc vãng sanh an lạc sát.
Và đoạn tiếp sau trong bài kệ này thuộc phẩm समन्तभद्रचर्याप्रणिधानम् samantabhadracaryāpraṇidhānamkinh nói tiếp năm bài chỉnh cú sau:
Sanskrit Devanagari तत्र गतस्य इमि प्रणिधाना आमुखि सर्वि भवेय्यु समग्रा। तांश्च अहं परिपूर्य अशेषान् सत्त्वहितं करि यावत लोके॥५८॥ तहि जिनमण्डलि शोभनि रम्ये पद्मवरे रुचिरे उपपन्नः। व्याकरणं अहु तत्र लभेय्या संमुखतो अभिताभजिनस्य॥५९॥ व्याकरणं प्रतिलभ्य त तस्मिन् निर्मितकोटिशतेभिरनेकैः। सत्त्वहितानि बहून्यहु कुर्यां दिक्षुदशस्वपि बुद्धिबलेन॥६०॥ भद्रचरिप्रणिधान पठित्वा यत्कुशलं मयि संचितु किंचित्। एकक्षणेन समृध्यतु सर्वं तेन जगस्य शुभं प्रणिधानम्॥६१॥ भद्रचरिं परिणाम्य यदाप्तं पुण्यमनन्तमतीव विशिष्टम्। तेन जगद्व्यसनौघनिमग्नं यात्वमिताभपुरिं वरमेव॥६२॥[31] |
Phiên âm la-tin tatra gatasya imi praṇidhānā āmukhi sarvi bhaveyyu samagrā| tāṃśca ahaṃ paripūrya aśeṣān sattvahitaṃ kari yāvata loke||58|| tahi jinamaṇḍali śobhani ramye padmavare rucire upapannaḥ| vyākaraṇaṃ ahu tatra labheyyā saṃmukhato abhitābhajinasya||59|| vyākaraṇaṃ pratilabhya ta tasmin nirmitakoṭiśatebhiranekaiḥ| sattvahitāni bahūnyahu kuryāṃ dikṣu daśasvapi buddhibalena||60|| bhadracaripraṇidhāna paṭhitvā yatkuśalaṃ mayi saṃcitu kiṃcit| ekakṣaṇena samṛdhyatu sarvaṃ tena jagasya śubhaṃ praṇidhānam||61|| bhadracariṃ pariṇāmya yadāptaṃ puṇyamanantamatīva viśiṣṭam| tena jagadvyasanaughanimagnaṃ yātvamitābhapuriṃ varameva||62|| |
“Khi vãng sinh về đó rồi, tất cả những bản nguyện này lúc ấy được hiện tiền, và sau khi hoàn thành chúng trọn vẹn tôi xin làm lợi ích cho chúng sinh ở thế gian. Ở đó tại đạo tràng sáng chói đầy hoan lạc của đấng Tối Thắng, tôi sinh ra trong đóa sen hồng tuyệt diệu, tiếp nhận sựthọký trước sựcó mặt của đấng tối thắng Vô Lượng Quang. Sau khi tiếp nhận được sự thọ ký ở đó, bằng vô số trăm ức triệu hóa thân, tôi có thể làm những điều lợi ích cho chúng sinh trong cả mười phương bằng sức mạnh của giác ngộ. Sau khi tụng đọc bản nguyện của Phổ Hiền, bất cứ tốt lành nào mà tôi đã chứa nhóm được, từng sát na mong cho tất cả thành tựu, do đó mà bản nguyện sáng ngời đối với thế gian được thành tựu. Sau khi đã thành thục hành vi của Phổ Hiền, với vô biên phước đức thù thắng đã đạt được, mong cho thếgian đang chìm đắm trong giòng lũ của bất hạnh, đi về quốc độ tuyệt vời của đức Vô Lượng Quang”.
Ước nguyện vãng sinh của Phổ Hiền như thế thật tha thiết và cảm động, nên về sau đặc biệt ởTrung Quốc đã có một ảnh hưởng rất lớn lao. Chính một bài chỉnh cú trên đã trở thành kinh nhật tụng của các nhà Tịnh độ giáo.
Dẫu vậy, ý nghĩa vãng sinh không được đơn thuần quan niệm như một hành vi chuyển động trong không gian. Trái lại, vãng sinh được lý giải trên cơ sở tư tưởng duy tâm của chính kinh Hoa nghiêm.
Bản Sanskrit, phẩm thứ 8. मुक्तकः muktakaḥ, của Kinh ङण्डव्यूह gaṇḍavyūha, kể rằng: Khi Thiện Tài đồng tử đến tham bái trưởng giả Giải Thoát ở Trụ lâm được dạy cho môn giải thoát của Như Lai có tên Vô Trước Trang Nghiêm. Sau khi giới thiệu cho thấy vô lượng cõi Phật có thể được thăm viếng, vô lượng hành vi sự nghiệp của các đức Phật được chứng kiến bằng vào khả năng của Vô Trước Trang Nghiêm, vị trưởng giả ấy nói:
“न च ते तथागता इहागच्छन्ति, न चाहं तत्र गच्छामि। यस्यां च वेलायामिच्छामि, तस्यां वेलायां सुखावत्यां लोकधातावमिताभं तथागतं पश्यामि। चन्दनवत्यां लोकधातौ वज्राभं तथागतं पश्यामि।…। सोऽहं कुलपुत्र न कुतश्चिदागमनतां तथागतानां प्रजानन्, न क्वचिद्गमनतां स्वकायस्य प्रजानन्, स्वप्नोपमविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, स्वप्नसमविचारविज्ञप्तिं स्वचित्तस्य प्रजानन्, प्रतिभाससमविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, अच्छोदकभाजनविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, मायाकृतरूपविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, मायोपमविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, प्रतिश्रुत्कागिरिघोषानुरवणतां च तथागतघोषस्य प्रजानन्, प्रतिश्रुत्कासमविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, एवमनुगच्छामि एवमनुस्मरामि स्वचित्ताधिष्ठानं बोधिसत्त्वानां सर्वबुद्धधर्म इति (na ca te tathāgatā ihāgacchanti, na cāhaṃ tatra gacchāmi| yasyāṃ ca velāyāmicchāmi, tasyāṃ velāyāṃ sukhāvatyāṃ lokadhātāvamitābhaṃ tathāgataṃ paśyāmi| candanavatyāṃ lokadhātau vajrābhaṃ tathāgataṃ paśyāmi|….so'haṃ kulaputra na kutaścidāgamanatāṃ tathāgatānāṃ prajānan, na kvacidgamanatāṃ svakāyasya prajānan, svapnopamavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, svapnasamavicāravijñaptiṃ svacittasya prajānan, pratibhāsasamavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, acchodakabhājanavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, māyākṛtarūpavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, māyopamavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, pratiśrutkāgirighoṣānuravaṇatāṃ ca tathāgataghoṣasya prajānan, pratiśrutkāsamavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, evamanugacchāmi evamanusmarāmi svacittādhiṣṭhānaṃ bodhisattvānāṃ sarvabuddhadharma iti….)[32]
“Các đức NhưLai ấy không đi đến đây, và ta cũng không đi đến đó. Khi nào ta muốn thì khi ấy ta liền thấy Như Lai Vô Lượng Quang ở thế giới Cực Lạc (...) Này thiện nam tử, chính ta không quan niệm các NhưLai từ đâu đến đây, hay tự thân ta đi đến đâu. Ta quan niệm sựnhận thức vềcác Như Lai là như mộng, hành vi và nhận thức của tự tâm là như mộng. Ta quan niệm sự nhận thức vềcác đức NhưLai là ảnh tượng vàsựnhận thức của tự tâm là như nước ở trong mình. Ta quan niệm sự nhận thức vềcác đức Như Lai là như huyễn hóa và nhận thức của tự tâm là như huyễn thuật. Ta quan niệm âm hưởng của các Như Lai như tiếng vang trong hốc núi và nhận thức của tự tâm như tiếng vang. Ta quan sát như vậy, ta suy niệm như vậy rằng hết thảy Phật pháp của các Bồ tát đều do tự tâm, sự thanh tịnh của hết thảy chư Phật đều do tự tâm ..."
Giải thích pháp môn Vô trước trang nghiêm như thế, Hoa nghiêm kinh đã đặt cơ sở cho thuyết tự tính Di Đà duy tâm tịnh độ, từ đó xác nhận nội dung vãng sinh chính là ở bản thân con người chứ không đâu xa.
Điều này hoàn toàn nhất trí với quan điểm vãng sinh của văn hệ Bát Nhã, tóm tắt trong tuyên bố nổi tiếng của Long Thọ ở Trung luận: "Biên giới của Niết bàn cũng là biên giới của sinh tử".
Tuy, qua ba văn hệ trên, tín ngưỡng A Di Đà dù đã manh nha và phát triển tới mức độ cụ thể, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi cơ sở lý luận của các văn hệ ấy ở Ấn Độ. Phải đợi đến Long Thọ với sự ra đời của Thập trụ tỳ bà sa luận 5[33], thuộc Đại Tạng Kinh 26, số hiệu 1521, 17 quyển, Thánh Giả Long Thọ tạo, Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch, mới xác lập tín ngưỡng A Di Đà như một bộ phận độc lập trong hệ thống Phật giáo. Phẩm Dị hành[34] của bộ luận ấy nêu lên câu hỏi: “Thực hành Đại thừa như đức Phật dạy, là phát nguyện cầu Phật đạo, sự kiện này còn nặng nề hơn cả việc nâng lên ba nghìn đại thiên thế giới. Ông nói A duy việt trí địa là pháp sâu xa khó đạt đến, và hỏi có con đường dễ đi nào để nhanh chóng đến A duy việt trí địa hay không, thì đó là lời nói khiếp nhược thấp hèn, không phải là lời của bậc đại nhân có chí cao cả. Nhưng nếu ông muốn nghe con đường dễ đi ấy, thì tôi sẽ nói.”[35]
Con đường dễ đi mà Long Thọ hứa hẹn là sự xưng niệm danh hiệu các đức Phật trong mười phương. Sau khi liệt kê danh hiệu các đức Phật trong mười phương ấy, Long Thọ giới thiệu thêm một trăm lẻ năm vị Phật khác, mà đứng đầu là đức Phật Vô Lượng Thọ[36].
Tiếp đó, Long Thọ giới thiệu bản nguyện của đức Phật A Di Đà: “Nếu người nào xưng niệm danh hiệu của ta và nương tựa vào đó, chắc chắn sẽ đạt được a nậu đa la tam miệu tam bồ đề”[37].
Rồi chính mình sáng tác ba mươi hai bài kệ ca ngợi đức Phật A Di Đà, mà sau này các nhà Tịnh độ giáo đã rút lại thành mười sáu bài và gọi là Long Thọ Bồ tát nguyện vãng sinh lễ tán kệ, mà Đại Tạng Kinh 47, số hiệu 1982, Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi[38], 2 quyển, Đường Trí Thăng soạn và Đại Tạng Kinh 47, số hiệu 1980, Vãng Sinh Lễ Tán Kệ[39], 1 quyển, Đường Thiện Đạo tập kí, đều đã ghi lại.
Trong ba mươi hai bài kệ này có mười bốn bài chứa đựng nội dung mười sáu nguyện trong số bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà.
Ngoài ra, nội dung bài kệ thứ mười tám một phần nào liên hệ đến trường hợp vãng sinh của ba hạng người thường gọi là tam bối. Trong ba hạng người này, trừ hạng thượng bối, hai hạng còn lại là trung bối và hạ bối đều có những người về sau thối chí, hồng hi, mất tin tưởng.
Dù vậy, họ vẫn được vãng sinh. Nơi dành cho họ là biên cảnh Cực Lạc, ở đó họ hóa sinh từ hoa sen, sống trong một thành lớn trải qua năm trăm năm mới thấy được Phật A Di Đà. Đại A Di Đà kinh và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh đều có nói về trường hợp ấy.
Mà bài kệ thứ 18 của Long Thọ viết: “Những ai trồng thiện căn mà nghi thì hoa không nở”.
Thế nó cũng nói đến những hạng người trung bối hạ bối vừa thấy. Phân tích 32 bài kệ của Long Thọ nhằm cho thấy vào thời mình, Long Thọ đã biết đến một số truyền bản của ba bộ kinh cơ sở của Tịnh độ giáo là A Di Đà kinh, Vô lượng thọ kinh và Quán vô lượng thọ kinh. Điều đáng ngạc nhiên là trong toàn bộ trước tác của mình, bao gồm luôn cả Trí độ luận, Long Thọ đã không đích danh đề cập tới ba bộ kinh ấy và thậm chí không chủ trương tín ngưỡng A Di Đà như một phương pháp duy nhất.
Tuy thế, việc phân biệt các phương pháp thực hành Phật giáo thành hai loại khó làm và dễlàm mà thuật ngữ Trung quốc gọi là nan hành đạo và dị hành đạo, đã bước đầu thiết định cơ sở lý luận cho Tịnh độ giáo, cung cấp cho Tịnh độ giáo một công cụ để ấn định các kinh điển Phật giáo. Bản thân Long Thọ qua ba mươi hai bài kệnói trên đã ca ngợi đức Phật A Di Đà nhưmột Tự tại giả, một Thanh tịnh nhân, một Vô lượng đức, như thế biểu lộ ít nhiều cảm tính tôn giáo, xác định đức Phật ấy như một biểu tượng tín ngưỡng trọn vẹn.
Biểu tượng tín ngưỡng này cuối cùng đạt đỉnh cao ở Thế Thân. Trong bài kệ hồi hướng của Nhiếp đại thừa luận thích 15[40], thuộc Đại Tạng Kinh 31, số hiệu 1595, 15 quyển, Thế Thân Bồ Tát thích, Trần Chân Đế dịch Hán; Thế Thân đã bày tỏ tín ngưỡng A Di Đà qua lời: Nguyện cho tất cả đều thấy Phật A Di Đà[41].
Nhưng chính trong Vô lượng thọ kinh ưu bà đề xá nguyện sinh kệ, quan điểm của ThếThân như một nhà Tịnh độ giáo mới biểu lộ một cách trọn vẹn. Đây là lần đầu tiên Vô Lượng Thọ kinh được sử dụng như một văn bản nguyên ủy để sớ giải.
Qua nghiên cứu kinh ấy, Thế Thân đã đạt được hai kết quả.
Thứ nhất về mặt phương pháp, ông đưa ra thuyết năm niệm môn;
Thứ hai, về lý luận ông đề lên thuyết tự lực và tha lực.
Cả hai thành tựu này sau đó đã có những ảnh hưởng cực kỳ to lớn trên quá trình phát triển của Tịnh độgiáo Trung quốc và Nhật bản. Phương pháp năm niệm môn đã khai sinh cho một loạt những phương pháp Tịnh độ giáo khác như A Di Đà sám pháp, phương pháp quán tưởng hai mươi chín nấc;
Thuyết tự lực và tha lực từ nguyên ủy xuất hiện trong Thập trụ tỳ bà sa luận 5, phẩm Dị hành nói rằng: “Phật pháp có vô lượng pháp môn như đường xá ở thế gian có khó có dễ, đường bộ đi chân thì khổ, đường thủy đi thuyền thì sướng”.
Và xa hơn nữa, nó có thể truy lên hình ảnh tảng đá và chiếc thuyền trong Những câu hỏi của Di Lan Đà. Những câu hỏi của Mi Lan Đà[42] yếu tố mới đã được đưa vào:
“ग़ो वस्ससतमं अकुसलमं करेय्य मरऊअकाले च एकम्ं बुद्धगतमं सतिमं पतिलभेय्य सो देवेसु उप्पज्जेय्याति
Yo vassasataṃ akusalaṃ kareyya maraūakāle ca ekaṃ Buddhagataṃ satiṃ patilabheyya so devesu uppajjeyyāti”
Đó là một người, dù làm ác suốt đời, mà nhớ đến Phật vào lúc sắp chết, thì vẫn được sinh về thế giới lý tưởng. Mi Lan Đà đưa ra thắc mắc về trường hợp đó, và được Na Tiên trả lời qua hình ảnh một hòn đá dù nhỏ cách mấy, mà không ở trên thuyền thì cũng chìm, trong khi một tảng đá, dù nặng cả trăm xe vẫn nổi trên mặt nước, nếu chở trong thuyền[43].
Bản thân của Thế Thân trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá, 1 quyển[44], thuộc Đại Tạng Kinh 26, số hiệu 1524, bản dịch Hán của Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch, thì không công nhiên dùng những từ tự lực- tha lực, nhưng nội dung của những từ đó thì quá rõ rệt.
Cho nên, khi sách ấy được Bồ Đề Lưu Chi dịch ra tiếng Trung quốc, đời Bắc Ngụy-Đàm Loan, đã viết Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ Chú[45], 2 quyển, thuộc Đại Tạng Kinh 40, số hiệu 1819, chính thức sử dụng những từ tự lực và tha lực, để xác định lập trường Tịnh độ giáo của mình.
Từ Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ Chú, Đàm Loan đã rút ra kết luận về vị trí và vai trò của Phật lực đối với con người. Về vị trí và vai trò này, Thế Thân xác quyết trong bài chỉnh cú đầu tiên của mình:
世尊我一心
歸命盡十方
無礙光如來
願生安樂國[46]
Thế Tôn ngã nhất tâm,
Qui mạng tận thập phương,
Vô Ngại Quang NhưLai,
Nguyện sinh An lạc quốc.
Qua bài chỉnh cú ấy, cần chú ý thêm là Thế Thân dùng danh hiệu Vô Ngại Quang 無礙光,mà có thể ức đoán từ nguyên của nó là अमितप्रभ Amitaprabha, một trong mười hai danh hiệu liên hệ với ánh sáng của đức Phật A Di Đà[47].
Đại Tạng Kinh 26, số hiệu 1521, Thập trụ tỳ bà sa luận 5 tuy có dùng danh hiệu Vô Lượng Quang無量光và Vô Lượng Minh無量明, những danh hiệu có liên hệ với ánh sáng, nhưng vẫn còn dùng danh hiệu Vô Lượng Thọ無量壽.
Thế Thân như vậy rõ ràng đứng về phía những người xác nhận đức A Di Đà thuần túy là một vị Phật của ánh sáng. Sự kiện này cũng có những ảnh hưởng quyết định đối với Đàm Loan ở Trung quốc cũng như Thân Loan ở Nhật bản.
Trong Đại Tang Kinh 47, số hiệu 1978, Tán A Di Đà Phật Kệ[48], 1 quyển, Hậu Ngụy Đàm Loan soạn, Đàm Loan đã dùng danh hiệu Bất Khả Tư Nghị Quang不可思議光[49] , giữa ba mươi bảy danh hiệu khác để ca ngợi đức Phật A Di Đà.
Còn Shinran (親鸞Thân Loan) viết Tịnh độ hòa tán đã dùng lại những danh hiệu do Đàm Loan đưa ra. Sự thật, là câu: “Qui mạng tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai歸命盡十方無礙光如來"[50] đã được Thân Loan qui định như một bản tôn cho những người Tịnh độ giáo và gọi nó là Thập tự danh hiệu, như Biện thuật danh thể sao, Cải tà sao B và Tôn hiệu chân tượng minh văn B đã chép.
Thập tự danh hiệu hay danh hiệu mười chữ này sau đó đã cùng với lục tự danh hiệu, tức câu Nam mô A Di Đà Phật và cửu tự danh hiệu, tức câu Nam mô Bất Khả Tư Nghị Quang Như Lai đã trở thành những danh hiệu được viết lên để mà thờ, như Chân tôn cố thật truyền lai sao đã ghi.
Như thế, ở Ấn Độ tín ngưỡng A Di Đà tuy được nhiều kinh điển đề cập đến, mà A Di Đà Phật thuyết lâm liệt kê có hơn hai trăm bộ, vẫn chưa chiếm ưu thế của một tín ngưỡng.
Ngay cả đối với Long Thọ, tín ngưỡng A Di Đà chỉlà một bộ phận giữa các tín ngưỡng các đức Phật khác mà thôi. Đến ThếThân, tuy nó đã tiến lên chiếm một địa vịnổi bật, nhưng rồi sau đó thì không còn thấy một luận sư nào đề cập đến nữa.
Dẫu vậy, những công trình của Long Thọ và Thế Thân đã trở thành nền móng vững chắc cho những phát triển về sau khi tín ngưỡng ấy du nhập vào các nước khác.
[1] Đại 15, No. 0643, tr. 0687b02: 佛說觀佛三昧海經卷第九, 東晉天竺三藏佛陀跋陀羅譯
[2] Skt. Pañcaviṃśati-sāhasrikā-prajñāpāramitā, Nhị vạn ngũ thiên tụng Bát-nhã Ba-la-mật, bản Sanskrit của Kinh này hiện có 8 phẩm, do N. Dutt chủ trương biên tập và xuất bản, 1934. Tib.: སྷེསྰརབཀྱི ཕའྲོལྰཏུའྥྱིནྰཔ སྟོནྒཕྲགཉིའཤུའླྣྒའཔ Shes- rab kyi pha-rol- tu-phyin- pa stong phrag nyi- shu-lnga- pa, 76 phẩm. Bản Hán, Đại 8, No 0223, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 27 quyển, Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch. Tương đương với hội thứ 2, 78 quyển, 85 phẩm, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, 600 quyển, Đường Huyền Trang dịch, Đại 8, No. 0220. Cf. Đại 8, No 0221, Phóng Quang Bát Nhã Kinh, 20 quyển, Tây Tấn Vô La Xoa dịch; Đại 8, No 0222, Quang Tán Kinh, 10 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
[3] Ibid., p. 63-4.
[4] Đại 25, No. 1509, tr. 0336b0: 大智度論釋 , 往生品第四之上(卷三十八), 聖後秦龜茲國三藏鳩摩羅什譯.
[5] Cf. Louis de la Vallée Poussin, Madhyamakavttiḥ Mūlamadhyamakakārikās (Mādhyamikasūtras) de Nāgārjuna avec la PrasannapadāCommentaire de Candrakīrti, Bibliotheca Buddhica IV, St. Pétersbourg, 1903-1913.
[6] Cf. MK. XVIII. 8.
[7] Cf. Louis de la Vallée Poussin, Madhyamakavttiḥ Mūlamadhyamakakārikās (Mādhyamikasūtras) de Nāgārjuna avec la PrasannapadāCommentaire de Candrakīrti, Bibliotheca Buddhica IV, St. Pétersbourg, 1903-1913.
[8] Cf. MK. XXV. 20.
[9] Đại 09, No. 0262, tr. 0022a1: 妙法蓮華經化城喻品第七.
[10] Đại 09, No. 0263, tr. 0088b19: 正法華經卷第四, 西晉月氏國三藏竺法護譯, 往古品第七.
[11] Đại 09, No. 0264, tr. 0156c18: 添品妙法蓮華經化城喻品第七.
[12] Cf. सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् , ७ पूर्वयोगपरिवर्तः।, 7 pūrvayogaparivartaḥ, Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning , Darbhanga , 1960. P. 106-132.
[13] Cf. Peking [P. No.] 0781, mdo sna tshogs, chu, 1b1-205a5 (vol.30, p.1); Derge [D. No.] 0113, mdo sde, ja 1b1-180b7; Narthang [N] ja 1-281b5; Kinsha [Kinsha] ? Mdo- maṅ (ja) 1b-212b.
[14] Cf. Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Prof.U.Wogihara and C. Tsuchida, Romanized and Revised Text, Tokyo, 1958. Kern, H. Saddharma Pundarîka or the Lotus of the True Law, Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover), Delhi 1968. Translation from Sanskrit, Ch. 7: “109. Such is the teaching of the Leaders: in order to give quiet they speak of repose, (but) when they see that (the creatures) have had a repose, they, knowing this to be no final resting-place, initiate them in the knowledge of the all-knowing.”
[15] Đại 09, No. 0262, tr. 0053a04: 妙法蓮華經藥王菩薩本事品第二十三.
[16] Đại 09, No. 0263, tr. 0125a08: 正法華經藥王菩薩品第二十一.
[17] Đại 09, No. 0264, tr. 0187c13: 妙法蓮華經藥王菩薩本事品第二十二.
[18] Cf. सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् , २४ समन्तमुखपरिवर्तः 24 samantamukhaparivartaḥ, Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning , Darbhanga , 1960.
[19] Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, Prof.U.Wogihara and C. Tsuchida, Romanized and Revised Text, Tokyo, 1958.
[20] Cf. དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen- Peking No 0781, và Derge No. 0113, phẩm དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ལས། སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་གི་ རྣམ་པར་འཕྲུལ་པ་ -བསྟན་པ་ཀུན་ ནས་སྒོའི་ལེའུ་ཉི་ཤུ་རྩེ་བཞི་པ་ནི།
[21] Ch. 24, H. Saddharma Pundarîka or the Lotus of the True Law, Kern,Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover), Delhi 1968.
[22] Cf. Đại 09, No. 0264, tr. 0191b24: 觀世音菩薩普門品第二十四.
[23] Đại 12, No. 0362: 佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經, 吳月支國居士支謙譯.
[24] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 5; Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1960.
[25] Đại 09, No. 0278, tr. 0695b08: 大方廣佛華嚴經卷第四十七, 東晉天竺三藏佛馱跋陀羅譯.
[26] Đại 10, No. 0279, tr. 0337b19: 大方廣佛華嚴經卷第六十三, 于闐國三藏實叉難陀奉 制譯
[27] Đại 10, No. 0293, tr. 0844b16: 大方廣佛華嚴經卷第四十, 罽賓國三藏般若奉 詔譯
[28] Cf. Gaṇḍavyūha Sūtram Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit, Darbhanga, 1960
[29] Cf. སྡོང་པོ་བཀོད་པ། sdong po bkod pa, Tạng Peking.
[30] T10n0293, tr. 0848a09.
[31] Gaṇḍavyūha Sūtram Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit, Darbhanga, 1960, p. 420. Cf. Đại 10, Np0293, tr. 0848a11- 0848b09.
[32] Ibid., tr. 66.
[33] Đại 26, no. 1521, tr. 0040c24: 十住毘婆沙論卷第五 ,後秦龜茲國三藏鳩摩羅什譯.
[34] Op.cit. tr. 0040c28: 易行品第九.
[35] Op.cit. p.0041a27- p.0041b02: 行大乘者佛如是說。發願求佛道。重於舉三千大千世界。汝言阿惟越致地是法甚難久乃可得。若有易行道疾得至阿惟越致地者。是乃怯弱下劣之言。非是大人志幹之說。汝若必欲聞此方便今當說之。
[36] Op.cit. p.0042c14: 亦應恭敬禮拜稱其名號。今當具說。無量壽佛。世自在王佛。師子意佛。法意佛。梵相佛。世相佛。世妙佛….
[37] Op.cit. p.0043a11: 若人念 我稱名自歸。即入 必定得阿耨多羅三 藐三菩提。
[38] Đại 47, No. 1982: 集諸經禮懺儀, 大唐西崇福寺沙門智昇撰.
[39] Đại 47, No. 1980, tr. 0438b13: 往生禮讚偈一卷, 沙門善導集記.
[40] Đại 31, No. 1595, tr. 0263a02: 攝大乘論釋卷第十五 ; 世親菩薩釋 , 陳天竺三藏真諦譯
[41] Op.cit. p.0270a28: 因此願悉見彌陀 由得淨眼成正覺
[42] Định cú Pāli, Cf. Kinh Mil. 80.
[43] Cf. Milindapanha and Nagasenabhikshu Sutra - A Comparative Study, by Bhikkhu Thich Minh Chau, through Pali and Chinese sources, 1964.
[44] Đại 26, No. 1524, tr. 0230c13: 無量壽經優波提舍願生偈, 婆藪槃豆菩薩造 , 元魏天竺三藏菩提流支譯
[45] Đại 40, No. 1819: 無量壽經優婆提舍願生偈婆藪槃頭菩薩造(并)註, 沙門曇鸞註解.
[46] T26n1524, tr. 0230c17tt.
[47] Xem thêm chương I, tiết 4. Những dị danh.
[48] Đại 47, No. 1978, tr. 0420c13: 讚阿彌 陀佛偈 ; 曇鸞法師作.
[49] Op.cit. p.0424a26: 南無不可思議光 一心歸命稽首禮…
[50] Cf. 無量壽經優婆提舍願生偈婆藪槃頭菩薩造(并)註卷上, 沙門曇鸞註解 (Đại 40, No. 1819, tr. 0827a03): 世尊我一心歸命盡十方無礙光如來願生安樂國 世尊者諸佛通號.
(Mahadukkhakkhandhasutta)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc ấy nhiều Tỷ-kheo buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào thành Savatthi khất thực. Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: “Nay còn quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hãy đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo”. Các Tỷ-kheo ấy đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với các Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên.
– Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền, ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề giáo huấn?
Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ cũng không chỉ trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo, không hoan hỷ, không chỉ trích, các Tỷ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, từ biệt với ý nghĩ: “Chúng ta sẽ học ý nghĩa lời nói này từ Thế Tôn”.
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi khất thực ở Savatthi, khi ăn xong và đi khất thực trở về, liền đến chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Savatthi khất thực. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con suy nghĩ: “Nay còn quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hãy nghĩ đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo”. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo, sau khi đến xong, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên, Bạch Thế Tôn, các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với chúng con đang ngồi một bên: “Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề giảng huấn?” Bạch Thế Tôn, chúng con không hoan hỷ, không chỉ trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo. Không hoan hỷ, không chỉ trích, chúng con từ chỗ ngồi đứng dậy, từ biệt với ý nghĩ: “Chúng ta sẽ học ý nghĩa lời nói này từ Thế Tôn”.
– Này các Tỷ-kheo, các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy cần được trả lời như sau: “Chư Hiền, thế nào là vị ngọt các dục? Thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các sắc pháp, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các cảm thọ, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly?” Này các Tỷ-kheo, khi được hỏi vậy, các Du sĩ ngoại đạo không thể trả lời được và sẽ bị mắc vào các khó khăn khác. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này không thuộc khả năng hiểu biết của họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai trong thế giới này với chư Thiên, Mara, Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, mà câu trả lời các câu hỏi được chấp nhận, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai và những ai được nghe hai vị này.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các dục? Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục này: Các sắc pháp do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn nhận thức... các hương do tỷ căn nhận thức... các vị do thiệt căn nhận thức... các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục như vậy. Này các Tỷ-kheo, y cứ vào năm pháp tăng trưởng dục này, có lạc hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các dục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như đếm ngón tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như chăn bò, như bắn cung, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài bò sát, bị chết đói chết khát. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục. Này các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản ấy không được đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: “Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả”. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Này các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các tài sản ấy được đến tay mình, vì phải hộ trì các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: “Làm sao các vua chúa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?” Dầu vị ấy hộ trì như vậy, giữ gìn như vậy, vua chúa vẫn cướp đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp đoạt chúng. Vị ấy than vãn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: “Cái đã thuộc của ta, nay ta không có nữa”. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình phạt bối đồi hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò), họ dùng hình phạt la hầu khẩu hình... Hỏa man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa)... chúc thủ hình (đốt tay)... khu hành hình (lấy rơm bện lại rồi siết chặt)... bì y hình (lấy vỏ cây làm áo)... linh dương hình (hình phạt con dê núi)... câu nhục hình (lấy câu móc vào thịt)... tiền hình (cắt thịt thành hình đồng tiền)... khối trấp hình... chuyển hình... cao đạp đài... họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm của dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các dục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các dục, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các dục.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các dục của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy không thể xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ như thật tuệ tri các dục của họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, như các thiếu nữ Sát-đế-lỵ, thiếu nữ Bà-la-môn hay thiếu nữ Gia chủ, tuổi khoảng độ mười lăm hay mười sáu tuổi, không quá lớn, không quá thấp, không quá ốm, không quá mập, không quá đen, không quá trắng, này các Tỷ-kheo, có phải trong thời ấy, họ đạt đến mỹ diệu tối thượng, sắc đẹp tối thượng?
– Bạch Thế Tôn, phải.
– Này các Tỷ-kheo, y cứ sắc đẹp mỹ diệu ấy khởi lên lạc thọ và hỷ thọ, như vậy là vị ngọt các sắc pháp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây người ta có thể thấy bà chị ấy trong một thời khác, khoảng tám mươi tuổi, chín mươi tuổi hay một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, phải dựa gậy để chống đỡ, vừa đi vừa run rẩy, đau ốm, tuổi trẻ đã tận, râu rụng, tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, tay chân bị khô đét tái xám. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của người đó nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp. Lại nữa này các Tỷ-kheo, người ta có thể thấy bà chị ấy bị bệnh hoạn đau khổ, trầm bệnh, nằm đắm mình trong phân tiểu của mình, phải có người nâng dậy, phải có người đỡ nằm. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của người đó nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa địa, một ngày hay hai ngày hay ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu sắc đẹp xưa kia của cô gái đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột bộ xương, không còn thịt, không có máu, còn được gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đã biến mất, và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa địa, chỉ có toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn các xương thối trở thành bột. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đã biến mất, và sự nguy hiểm hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo và thế nào là sự xuất ly các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các sắc pháp, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy có xảy ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các cảm thọ? Ở đây các Tỷ-kheo ly các dục, ly các bất thiện pháp tự chứng và an trú vào Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất... có tầm có tứ, trong khi ấy, nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm... Thiền thứ ba... chứng và trú vào Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, trong khi ấy nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, các cảm thọ là vô thường, khổ, biến hoại, như vậy là sự nguy hiểm các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, sự điều phục dục tham đối với các cảm thọ, sự đoạn trừ dục tham, như vậy gọi là sự xuất ly các cảm thọ.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ có thể đặt các người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
ĐẠI KINH KHỔ UẨN, THỨ MƯỜI BA HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________
>>> 12.Kinh Đại sư tử hống
Về nguồn gốc của Phật A Di Đà, kinh điển Phật giáo có nhiều truyền thuyết. Trong văn học Bản sinh, chỉ độc nhất có truyện tỳ kheo Thủ Đạt và Duy Tiên trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0154, Sinh Kinh 5, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch, có nói tới.
Về nguồn gốc của Phật A Di Đà, kinh điển Phật giáo có nhiều truyền thuyết. Trong văn học Bản sinh, chỉ độc nhất có truyện tỳ kheo Thủ Đạt và Duy Tiên trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0154, Sinh Kinh 5, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch, có nói tới.
Do tình hình tư liệu quá ít oi này, nó không cung cấp cho ta một mẫu hình nào về nguồn gốc bản sinh của Phật A Di Đà. Trong Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0274, Phật Thuyết Tế Chư Phương Đẳng Học Kinh[1], 1 quyển, cũng do Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch, nhắc lại chuyện nhân quả báo ứng giữa tỳ kheo Tịnh Mạng và tỳ kheo Vị Pháp rất tương tự với chuyện trên.
Tuy nhiên, đây là những truyện nói lên quan hệ giữa Phật Thích Ca với Phật A Di Đà, giải thích vì sao Phật Thích Ca đã sinh ra trong cõi Ta bà ô trược và đã khuyến thỉnh mọi người tín niệm Tịnh độ, chứ chưa phải đề cập đến chính bản thân Phật A Di Đà.
Về loại truyện Bản sinh đề cập chính bản thân Phật A Di Đà, tư liệu hiện còn rất phong phú. Có hơn 19 cốt truyện khác nhau mà quan trọng nhất dĩ nhiên là truyện tỳ kheo Pháp Tạng và truyện vua Vô Tránh Niệm.
Truyện tỳ kheo Pháp Tạng rất phổ biến, hiện có ba mươi quyển kinh kể tới với ít nhiều sai khác nhau. Nhưng cốt lõi có thể tóm tắt như sau: Trong thời quá khứ cách đây đã lâu có đức Như Lai Thế Tự Tại Vương ra đời. Bấy giờ có tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện và được đức Phật ấn chứng là sẽ thành Phật A Di Đà trong cõi Tịnh độ.
Truyện này được hiện được tìm thấy trong nguyên điển Sanskrit: आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, thường được gọi là सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][2], bản Tây Tạng: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo và cũng được kể trong các bản dịch Hán văn như: Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 360, Phật thuyết Vô lượng thọ kinh[3], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0364, Đại A-di-đà kinh[4], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh[5], Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[6] và Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh[7] v.v..
Đối chiếu các văn bản này chúng ta thấy một vài điểm như sau:
Trong số các bản văn này, Vô lượng thọ kinh, Đại A Di Đà kinh và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh đặt Như Lai Thế Tự Tại như là vị Phật cuối cùng của một loạt những đức Phật quá khứ mà đứng đầu là Phật Nhiên Đăng hay cũng gọi là Định Quang.
Còn bản आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā]), bản Tây Tạng: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, cùng bản dịch Hán Vô lượng thọ Như Lai hội, Đại thừa vô lượng trang nghiêm kinh thì đặt Như Lai Thế Tự Tại Vương là vị Phật đầu tiên của loạt đức Phật ấy mà vị Phật cuối cùng là Nhiên Đăng (Dīpaṃkara).
Đó là sai khác thứ nhất; Sai khác này đã xảy ra trong các kinh có kể chuyện Phật A Di Đà.
Một mặt ta có những kinh như: Đại Tạng Kinh 15, số hiệu 0632, Phật Thuyết Tuệ Ấn Tam Muội Kinh, 1 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch[8]; Đại Tạng Kinh 15, số hiệu 0634, Phật Thuyết Đại Thừa Trí Ấn Kinh[9], 5 quyển, Tống Trí Cát Tường đẳng dịch, đã đặt Phật Định Quang như là vị Phật đầu tiên của một loạt các vị Phật mà vị cuối cùng là Huệ Thượng.
Mặt khác, Đại Tạng Kinh 15, số hiệu 0633, Phật Thuyết Như Lai Trí Ấn Kinh[10], 1 quyển, mất tên người dịch, đã đặt Định Quang là vị Phật cuối cùng, còn Huệ Khởi là vị Phật đầu tiên.
Thậm chí Đại Tạng Kinh 19, số hiệu 1011, Phật Thuyết Vô Lượng Môn Vi Mật Trì Kinh[11], 1 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch, đã coi Nhiên Đăng là thầy của thái tửVô Niệm Đức Thủ, tiền thân của Phật A Di Đà, tức Phật Nhiên Đăng là vị thầy của Phật A Di Đà.
Không những có sự sai khác nhau về vị trí của đức Như Lai Thế Tự Tại Vương, hai nhóm kinh trên còn khác nhau khi nói về nguồn gốc của tỳ kheo Pháp Tạng.
Nhóm trước nói rõ Pháp Tạng nguyên là một vị vua, sau khi nghe giáo hóa của đức Thế Tự Tại Vương bèn bỏ ngôi đi xuất gia.
Nguồn gốc vương giả này, nhóm thứ hai không nói tới, mà xác định ngay Pháp Tạng, hay cũng gọi là Pháp Sử, hay cũng gọi là Tác Pháp, mà tên trong bản Sanskrit là धम्मकर dhammakara, là một tỳ kheo trong chúng hội của đức Thế Tự Tại Vương.
Sự sai khác về nguồn gốc này cho thấy, tự nguyên ủy, hành trạng của Pháp Tạng tỏ ra không rõ ràng cho lắm và cần phải mô phỏng theo hành trạng và hình ảnh của đức Thích Ca Mâu Ni như đã được quan niệm trong nền văn học Bản sinh cũng như trong những truyền thuyết lịch sử về cuộc đời đức Phật.
Đây là một dấu hiệu kết liên nguồn gốc đức Phật A Di Đà với đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn sự sai khác về vị trí của đức Thế Tự Tại Vương đã đưa ra một số vấn đề.
Trước hết, nhóm kinh thứ nhất tuy đồng ý đặt Nhiên Đăng là vị Phật đầu tiên của một loạt các đức Phật, nhưng số lượng của loạt Phật ấy gồm bao nhiêu vị, thì lại không đồng nhất. Sai khác này có liên hệvới sự sai khác sốl ượng lời nguyện của A Di Đà mà các bản văn ấy ghi lại.
Tiếp đến, hai nhóm trên còn sai khác về thứ tự đức Phật Nhiên Đăng đứng đầu hay đứng cuối các đức Phật quá khứ.
Sự kiện đó nói lên hai lập trường khác nhau về quan hệ giữa đức Phật A Di Đà và đức Phật Thích Ca. Ai cũng biết văn học Bản sinh có một câu chuyện rất đẹp về hành động quên mình của đức Phật Thích Ca đối với đức Phật Nhiên Đăng nên đã được ấn chứng thành Phật. Từ đó trở về sau, hai đức Phật ấy thường được gắn liền với nhau một cách khá thường xuyên, tùy theo quan điểm về liên hệtrước sau giữa hai đức Phật Thích Ca và A Di Đà, mà có sự thay đổi về vị trí của hai đức Phật Nhiên Đăng và Thế Tự Tại Vương.
Nhóm thứ nhất coi Thế Tự Tại Vương là vị Phật cuối cùng của loạt các vị Phật quá khứ trên mà đứng đầu là Phật Nhiên Đăng, bộc lộ rõ ràng xu thế chung là coi đức Phật A Di Đà là một vị Phật trẻ hơn Phật Thích Ca.
Điểm này ta thấy xuất hiện trong hai truyện Bản sinh dẫn trước trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0154, Sinh Kinh 5, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch[12] và và Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0274, Phật Thuyết Tế Chư Phương Đẳng Học Kinh[13], 1 quyển, cũng do Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch. Nó chứng tỏ hành trạng Phật A Di Đà đã được mô phỏng theo hành trạng của Phật Thích Ca.
Trong khi đó, nhóm thứ hai lật ngược lại thứ tự trước sau của hai vị Phật Nhiên Đăng và Thế Tự Tại Vương để chứng tỏ đức Phật A Di Đà là một vị Phật cổ sơ, xuất sinh cũng như thành Phật trước đức Phật Thích Ca rất nhiều, làm điển hình cho sự nghiệp tìm đạo và chứng đạo của chính Phật Thích Ca.
Ở đây quá trình phát triển tất yếu của tín ngưỡng A Di Đà đã dần dần thể hiện sức mạnh của nó và dần dần chiếm lĩnh vị trí của chính tín ngưỡng của đức PhậtThích Ca. Đức Phật Thích Ca bấy giờ chỉ là người tuyên thuyết cho tín ngưỡng của Phật A Di Đà.
Sự tình này một phần nào giải thích cho sự sai khác số lượng các đức Phật quá khứ giữa hai đức Phật Nhiên Đăng và Thế Tự Tại Vương, bởi vì nếu Phật A Di Đà có một sự ưu việt nào đó, thì cũng giả thiết là có một quá khứ huy hoàng hơn. Từ đó tất nhiên không thể có cùng chung một Phật khai sáng là Nhiên Đăng.
Ngoài những sai khác về số lượng và thứ tựcủa các đức Phật trong quá khứ cũng như về nguồn gốc của Phật A Di Đà, các văn bản thuộc hai nhóm trên lại khác nhau về số lượng, và đôi khi thứ tự, của các lời nguyện của đức Phật A Di Đà.
Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh và Đại A Di Đà kinh chỉ ghi có 24 lời nguyện, trong khi Vô lượng thọ kinh và Vô lượng thọ như lai hội có tới 48. Bản Sanskrit, chỉ có 46 đại nguyện, Tạng bản đã phát triển lên 49 lời nguyện, trong khi Đại thừa vô lượng trang nghiêm kinh chỉ có 36 đại nguyện
Sự sai khác nhau về số lượng này đưa ra nhiều vấn đề rất lôi cuốn trong lịch sử tư tưởng bản nguyện của Phật giáo, trước khi bàn đến những vấn đề đó ở chương tiếp sau, phải xét qua một số những truyện Bản sinh khác mà chủ yếu là truyện vua Vô Tránh Niệm.
Truyện Bản sinh vua Vô Tránh Niệm kể ra trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 2, Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch[14], để trả lời câu hỏi của Tịch Ý về việc tại sao đức Thích Tôn đã ra đời trong một thế giới ô trọc, trong khi các đức Phật khác đã xuất hiện trong những thế giới thanh tịnh.
Lược truyện như sau: cách thời Phật đã lâu, có một vị chuyển luân vương tên Vô Tránh Niệm, có một đại thần tên Bảo Hải thuộc dòng dõi bà-la-môn. Bảo Hải có một người con đi xuất gia và thành đạo hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Khi Như Lai Bảo Tạng đến thành phố A-châu-la[15], Vô Tránh Niệm và các vương tử đã đến thăm và cúng dường ba tháng. Sau Bảo Hải đã khuyên vua phát bồ đề tâm vượt qua khổ hải cứu độ chúng sinh. Vô Tránh Niệm đã phát nguyện và được Phật Bảo Tạng ấn chứng sẽ thành Phật A Di Đà và làm giáo chủ cõi Cực lạc ở phương tây.
Trong nguyên điển Sanskrit của Kinh Bi-Hoa, hiện có, với tựa đề: करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka sūtram[16], phẩm दान-विसर्गस् तृतीयः III dāna-visargas tṛtīyaḥ, tìm thấy tương đương với tên Vô Tránh Niệm無諍念 là आरणेमिन् āraṇemin.
Tương đương với करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka sūtram là bản Tây Tạng: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, số hiệu 111[17], do Tây Tạng dịch sư Ye-śes sde và Ấn độ dịch sư Jinamitra, Śīlendrabodhi cọng dịch; và bản Tạng ngữ thứ hai: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, số hiệu 112[18], do Tây Tạng dịch sư Ye-śes sde , và ba Ấn-độ dịch sư: Jinamitra, Surendrabodhi và Prajñāvarma cọng dịch. Nội dung, chi tiết của hai bản này khá tương tự nhau, nhưng thứ tự và cách sắp xếp có nhiều chỗ dị biệt…. Trong hai bản dịch Tạng ngữ này, tìm thấy tên tương đương với từ आरणेमिन् āraṇemin và Vô Tránh Niệm無諍念, đều được dùng là རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud, có nghĩa là: vành tăm bánh xe.
Còn Vô Tránh Niệm無諍念[19],đó là tên Đàm Vô Sấm dùng trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, của Kinh Bi Hoa 2; còn Đại Tạng Kinh 3, số hiệu 0158, Đại Thừa Bi Phân Đà Lợi Kinh 3[20], mất tên người dịch, thì gọi là Ly Tránh離諍[21].
Hai bản dịch Hán ở trên hiểu là: Vô Tránh 無諍 và Ly Tránh 離諍, là xuất phát từ cách hiểu và phân tích ngữ pháp của từ आरणेमिन् āraṇemin, tức là do tiền tố phủ định từ आ a (không) + रण raṇa (=đấu tranh, chống đối…), nên आरणेमिन् āraṇemin có nghĩa là không có đấu tranh chống đối.
Trong khi đó bản Tây Tạng dịch आरणेमिन् āraṇemin thành རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud, là do tách Sandi khác nhau, tức bản Tạng ngữ hiểu आरणेमिन् āraṇemin, là thiết lập do अर ara (tăm) + नेमी nemī (vành bánh xe). Nên đã dịch नेमी nemī = མུ་ཁྱུད་ (vành bánh xe), còn अर ara dịch = རྩིཀྱི་ (tăm/căm), do đó आरणेमिन् āraṇemin hay རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud: có nghĩa vành tăm bánh xe.
Ngoài ra, Đại Tạng Kinh 55, số hiệu 2154, Khai Nguyên Thích Giáo Lục 2, Đường Trí Thăng soạn[22], có ghi Nhàn cư kinh một quyển閑居經一卷, là của Trúc Pháp Hộ rồi chua thêm như sau: "đồng bản dị dịch của kinh Bi hoa lần đầu tiên dịch ra, xem Tăng hựu lục"[23].
Khảo cứu Đại Tạng Kinh 55, số hiệu 2145, Xuất Tam Tạng Kí Tập - 2, Lương Tăng Hữu soạn[24], thì có chép Nhàn cư kinh 1 quyển閑居經一卷là của Trúc Pháp Hộ,[25] nhưng không nói gì về liên quan của nó với kinh Bi hoa.
Ngày nay, Nhàn cư kinh 1 quyển 閑居經一卷, là một bộ phận của Sinh Kinh 2[26], Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch, thuộc Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0154, với nhan đề: Phật thuyết nhàn cư kinh佛說閑居經[27], và nội dung không dính dáng gì đến kinh Bi hoa.
Và Đại Tạng Kinh 49, số hiệu 2034, Lịch Đại Tam Bảo Kỉ[28], 15 quyển, Tùy Phí Trường Phòng soạn, phân ra hai bộ: Nhàn cư kinh, một bộ một quyển và thuộc vào Sanh kinh[29], còn bộ kia mười quyển là "đồng bản dị dịch dị danh của Đại bi phần đà lợi kinh"[30].
Nói rõ ra, vào khoảng năm 597, kể từ lúc Phí Trường Phòng viết xong Lịch đại tam bảo kỉ, người ta có nhắc tới một bản dị dịch của kinh Bi hoa mang tên Nhàn cư kinh. Khoan nói tới tính chính xác của thuyết ấy, chỉ cần xét xem, nếu Nhàn cư kinh quả có một liên hệ tới kinh Bi hoa thì làm sao nó lại mang tựa đề nhàn cư閑居?
Nhàn cư 閑居phổ thông là một dịch phẩm của từ Sanskrit: आरण्य āraṇya, mà thông thường cũng được phiên âm A-lan-nhã. Vậy, Nhàn cư kinh, nếu quả là dị bản của kinh Bi hoa, thì hẳn phải do đọc lệch tên आरणेमिन् āraṇemin thành आरण्य āraṇya.
Vậy thì, आरणेमिन् āraṇemin có thể hiểu theo ba cách:
(1) Hoặc आ a (không) + रण raṇa (=đấu tranh, chống đối…) để cho ta tên Ly Tránh hoặc Vô Tránh. Còn chữ Niệm trong Vô tránh niệm là một phiên âm của ṇemin.
(2) Hoặc hiểu là do अर ara (tăm) + नेमी nemī (vành bánh xe), để cho tên Tây tạng རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud, có nghĩa là: vành tăm bánh xe.
(3) Hoặc hiểu आरणेमिन् āraṇemin đọc lệch thành आरण्य āraṇya với nghĩa nhàn cư.
Như thế, ba cách hiểu vừa nêu có quan hệ gì với nhau không?
Đầu hết, giữa nhàn cư và vô tránh cũng như ly tránh, tuy có thể nghĩ quan hệ giữa chúng xuất phát từ việc viết sai आरणेमिन् āraṇemin thành आरण्य āraṇya, nhưng trên thực tế cũng đã từng có những kết nối giữa hai từ đó với nhau. Thí dụ như ở Đại Tạng Kinh 19, số hiệu 1009, Xuất Sinh Vô Biên Môn Đà La Ni Kinh, 1 quyển, Đường Bất Không dịch[31] vào giữa thế kỷ thứ VIII, trong khi trình bày 4 phương thức để đạt đến đà la ni ấy, đã kể cách đầu tiên là: "Tập a lan nhã và cực vô tránh xứ"[32]. Rõ ràng, trong văn học Phật giáo Sanskrit đã có một nỗ lực truy tìm ngữ nguyên của आरण्य āraṇya đến từ आ a (không) + रण raṇa (=đấu tranh, chống đối…). Vì thế, giữa Vô tránh hay Ly tránh và Nhàn cư không phải là không có những liên quan.
Vô Tránh Niệm無諍念 hay आरणेमिन् āraṇemin phổ thông được giải thích là một tên phối hợp giữa hai yếu tố: आरण āraṇa: dịch là vô tránh, và णेमिन् ṇemin: phiêm âm là niệm; tuy nhiên, chữ niệm có thể là tàn dư ảnh hưởng của tên thái tử Vô Niệm Đức Thủ 無念德首, tiền thân của Phật Vô Lượng Thọ trong Đại Tạng Kinh 19, số hiệu 1011, Phật Thuyết Vô Lượng Môn Vi Mật Trì Kinh, 1 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch[33].
Và Đại Tạng Kinh 19, số hiệu 1012, Phật Thuyết Xuất Sinh Vô Lượng Môn Trì Kinh[34], 1 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch, có tên Vô Niệm Đức Đạo無念德道[35]; trong khi đó, Đại Tạng Kinh 19, số hiệu 1013, A Nan Đà Mục Khư Ni A Ly Đà Kinh[36], 1 quyển, Lưu Tống Cầu Na Bạt Đà La dịch chỉ gọi Vô niệm 無念[37].
Chữ無念vô niệm ở đây là do dịch chữ Sanskrit: अचिन्त्य acintya, bởi vì các bản dịch khác của kinh vừa nói, tức Đại Tạng Kinh 19: số hiệu 1014, Vô Lượng Môn Phá Ma Đà La Ni Kinh[38], 1 quyển, Lưu Tống Công Đức Trực, Huyền Sướng dịch; số hiệu 1015, Phật Thuyết A Nan Đà Mục Khư Ni A Ly Đà Lân Ni Kinh[39], 1 quyển, Nguyên Ngụy Phật Đà Phiến Đa dịch; số hiệu 1017, Phật Thuyết Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ Tát Kinh[40], 1 quyển, Tùy Xà Na Quật Đa dịch; số hiệu 1009, Xuất Sinh Vô Biên Môn Đà La Ni Kinh[41], 1 quyển, Đường Bất Không dịch và số hiệu 1018, Xuất Sinh Vô Biên Môn Đà La Ni Kinh, 1 quyển, Đường Trí Nghiêm dịch[42] đều dịch là bất tư nghị不思議.
Về liên hệ giữa hai bản Tạng dich: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[43], và bản Tạng ngữ thứ hai: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo; hai bản có từ tương đương với आरणेमिन् āraṇemin thành là từ: “ རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud”, đây là do phân tích आरणेमिन् āraṇemin thành अर ara (tăm) + नेमी nemī (vành bánh xe). Cách phân tích này này hiện không thấy xảy ra trong các dịch bản Hán văn, nhưng cũng đưa đến nhiều gợi ý khá lôi cuốn:
Một mặt, từ अर ara (tăm) là do động từ căn: /ṛ, với nghĩa chuyển động, đi tới, khiêu khích. Động từ căn /ṛ, đạo xuất अर ara với nghĩa màu vàng lợt, mặt trời, ánh bình minh, ánh sáng. Như trong Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0001, Trường A Hàm Kinh, 22 quyển, Hậu Tần Phật Đà Da Xá cộng Trúc Phật Niệm dịch, Kinh Đại Bản chép: “Đức Phật Thi-khí có cha tên Minh Tướng”[44];
So sánh điểm này với các bản dịch tương đương:
-Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0002, Thất Phật Kinh, 1 quyển, Tống Pháp Thiên dịch, dùng chữ: A-rô-Ta阿嚕拏[45];
-Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0004, Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh, 1 quyển, mất tên người dịch, dùng chữ A-luân-Ta阿輪拏[46];
Và lại đem đối chiếu với Kinh Đại Bản, của Trường Bộ Kinh[47] Kinh chép như sau:
“षिखिस्स, भिक्खवे, भगवतो अरहतो सम्मासम्बुद्धस्स अरुणो नाम राजा पिता अहोसि” (Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa aruṇo nāma rājā pitā ahosi.)[48]
“Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Thi-khí, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Aruṇa”
Vậy vua आरुण Aruṇa, phụ thân của Phật Thi Khí có tên liên hệ nào đó với vua आरणेमिन् āraṇemin, tiền thân của Phật A Di Đà.
Đại Tạng Kinh 21, số hiệu 1340, Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh 17[49], Tùy Xà Na Quật Đa dịch, Đại kể chuyện vào thời quá khứ của đại kiếp Thiện Hành Lộ, sau khi Như Lai Sơn Thượng đã nhập diệt, có vị Bồ tát tên Minh Tướng phát đại nguyện muốn tất cả chúng sinh được an lành. Bấy giờ cách thếgiới của Minh Tướng tới cả ngàn ức cõi nước, có đức Phật hiệu Sa La vương, bèn ấn chứng cho Minh Tướng: Trong tương lai trải qua bốn mươi a tăng kỳ kiếp sẽ được thành chánh giác tên Như Lai Vô Lượng Thọ[50].
Như thế, Bồ tát Minh Tướng phải có tên Sanskrit là आरुण Aruṇa, tức đồng với Pāli. Quan hệ giữa आरुण Aruṇa và आरणेमिन् āraṇemin qua trung gian động từ căn /ṛ, do vậy, vị tất là không có ý nghĩa. Cho nên, Tạng bản dịch आरणेमिन् āraṇemin thành từ: “ རྩིབྶཀྱི མུ ཁྱུད Rtsibs kyi Mu Khyud”, không phải là không có cơ sở.
Ngoài ra, quan hệ आरणेमिन् āraṇemin - आरुण Aruṇa đã xuất hiện thêm một chi tiết khác là trong hai nguời đệ tử của Phật Thi Khí thì một người đã có tên giống như đệ tử của Phật A Di Đà kể ra trong kinh Bi Hoa. Điều này cũng được nói trong Trường A-hàm và các Đơn hành bản của nó:
- Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0001, Trường A Hàm Kinh 1, Hậu Tần Phật Đà Da Xá cộng Trúc Phật Niệm dịch, Kinh Đại Bản, kể là: A-tì-phù 阿 毗 浮, Tam-bà-bà 三 婆 婆[51].
-Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0002, Thất Phật Kinh, 1 quyển, Tống Pháp Thiên dịch, dùng chữ: Bộ, Tam-bà-phạ 部三婆嚩[52];
-Đại Tạng Kinh 01, số hiệu 0004, Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh, 1 quyển, mất tên người dịch, dùng chữ: đệ tử số một là A-tỉ-vụ 阿比務, số hai là Tam-tham 三參[53].
Và so sánh với Kinh Đại Bản, của Trường Bộ Kinh[54] , kinh chép: “Sikhissa, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa abhibhūsambhavaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ”: Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhứt đệ tử của Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tên là Abhibhū và Sambhava”[55].
Kinh करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka (Bảo Tích), phẩm thứ tư, tựa đề: बोधिसत्त्व-व्याकरण-परिवर्तश्चतुर्थः bodhisattva-vyākaraṇa-parivartaścaturthaḥ[56], nguyên điển Sanskrit hiện có, có kể chuyện Phật आमितायुष् āmitāyuṣ (Vô Lượng Thọ 無量壽), đã dẫn dắt người con thứ hai của Bảo Hải tên ज्ञानसमंभव saṃbhava thành Phật hiệu là व्ऐरोचन vairocana (Đại Nhật). Ở trong bản Tây Tạng của Kinh này, འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, số hiệu 111[57], cũng đề cập truyện kể tương tự.
Qua những bàn cãi trên, tên Vô Tránh Niệm với những liên hệ आरणेमिन् āraṇemin - आरुण Aruṇa- अचिन्त्य acintya (Vô Tránh Niệm / Minh Tướng / Vô Niệm) đã cho chúng ta thấy thấy truyện Bản sinh đức Phật A Di Đà đã ăn sâu như thế nào vào truyện Bản sinh của các đức Phật khác và đã biến thể như thế nào qua những thư tịch, văn bản khác nhau. Sự thẩm thấu và vay mượn lẫn nhau chứng tỏ xu thế phát triển của tín ngưỡng từng thời đại, từng địa vực từ nguồn gốc chung.
Cho nên cùng một nhân vật trong cùng một cốt truyện mà ở đây thì được đồng nhất với đức Phật này và ở kia thì lại đồng nhất với đức Phật khác.
Chẳng hạn, chuyện Bản sinh vua དྤལགྱི གྗི བྲྗིད Dpal Gyi gji Brjid (Thắng Oai/ Oai Đức), thì trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0371, Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Kí Kinh, 1 quyển, Tống Đàm Vô Kiệt dịch, thì đồng nhất với Phật A Di Đà[58]; còn trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0372, Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn Pháp Môn Kinh[59], 3 quyển, Tống Thí Hộ đẳng dịch,thì lại đồng nhất với Phật Thích Ca.
Đây là những điểm chúng ta cần chú ý khi tìm hiểu nguồn gốc của tín ngưỡng A Di Đà.
[1] Đại 09, No. 0274: 佛說濟諸方等學經一卷, 西晉月氏三藏竺法護譯.
[2] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[3] Đại 12, No. 0360, tr. 0265c03: 佛說無量壽經; 曹魏天竺三藏康僧鎧譯.
[4] Đại 12, No. 0364, 佛說大阿彌陀經.
[5] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 , 後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[6] Đại 11, No. 0310: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之. Skt. अर्य-अमिताभव्युह नम माहायन सूत्र Arya-amitābhavyuha nama māhāyana sūtra; Tib.: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo.
[7] Đại 12, No. 0363: 佛說大乘無量壽莊嚴經, 西天譯經三藏朝散大夫試光祿卿明教大師臣法賢奉 詔譯.
[8] Đại 15, No. 0632, p.0460c: 佛說慧印三昧經一卷, 吳月氏優婆塞支謙譯.
[9] Đại 15, No. 0634: 佛說大乘智印經, 西天三藏寶法大師賜紫沙門智吉祥等奉 詔譯.
[10] Đại 15, No. 0633: 佛說如來智印經一卷, 僧祐云闕譯人今附宋錄.
[11] Đại 19, No. 1011, tr. 0680b03: 佛說無量門微密持經(一名成道降魔得一切智) , 吳月支優婆塞支謙譯.
[12] Đại 03, No. 0154, tr. 0100c02: 生經卷第五 , 西晉三藏竺法護譯.
[13] Đại 09, No. 0274: 佛說濟諸方等學經一卷, 西晉月氏三藏竺法護譯.
[14] Đại 03, No. 0157, tr. 0174b26,ff. : 悲華經卷第二, 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之一.
[15] Skt. आञ्जुर Añjura / मञ्जुर mañjura, Tib.: གྲོནཁྱེརཡིདྷོཧྣཧྫིན gron khyer yidhohn hdzin.
[16] Cf. Mahakarunapundarika Sutra , Yamada, School of Oriental and African Studies, London , 1968 ,p. 1-420.
[17] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版:Mdo (cha)76a-187b; 德格版:Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版:Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[18] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.112, 50cha, 129a1-297a7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)149a-296b; 奈塘版:Mdo(cha)187b-443; 德格版:Mdo-sde (cha)129a-297a; 拉薩版:Mdo-sde (cha)209b-474a; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)159a-350a.
[19] Đại 03, No. 0157, 悲華經卷第二, 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之一, p. 0174c20ff. : 於彼劫中有轉輪聖王名無諍念,主四天下.
[20] Đại 03, No. 0158 :大乘悲分陀利經卷第三 , 失三藏名今附秦錄 , 離諍王授記品第六.
[21] Op.cit. p. 0249b15: 笑已,妙光普照無量無邊佛土,示離諍王并餘多億眾生佛剎莊嚴.
[22] Đại 55, No. 2154: 開元釋教錄卷第二 , 庚午歲西崇福寺沙門智昇撰.
[23] Op.cit.p. 0495b18(00): 閑居經一卷(與悲華經等同本異譯初出見僧祐錄)
[24] Đại 55, No. 2145: 出三藏記集錄上卷第二, 釋僧祐撰.
[25] Op.cit.p. 0008c12ff.
[26] Đại 03, No. 0154: 生經卷第二 , 西晉三藏竺法護譯.
[27] Op. cit. p. 0079a29: 佛說閑居經第十三
[28] Đại 49, No. 2034: 歷代三 寶紀, 開皇十七年翻經 學士臣費長房.
[29] Op.cit. (卷第六), p.0064b1: 閑居經一卷 (出生經).
[30] Op.cit. (第十三), p. 0109c01: 十閑居經十卷大悲分陀利經八卷(上二經同本別譯異名).
[31] Đại 19, No. 1009, tr. 0675c05: 出生無邊門陀羅尼經 , 開府儀同三司特進試鴻臚卿肅國公食邑三千戶賜紫贈司空諡大鑒正號大廣智大興善寺三藏沙門不空奉 詔譯.
[32] Op.cit. p. 0677c20: 所謂習阿蘭若極無諍處。
[33] Đại 19, No. 1011: 佛說無量門微密持經(一名成道降魔得一切智), 吳月支優婆塞支謙譯, p. 0681c29ff.: (…) 又彼太子 無念德首。 講說法 者則今西方無量壽 佛是也…
[34] Đại 19, No. 1012, tr. 0682b10: 佛說出生無量門持經, 東晉天竺三藏佛陀跋陀羅譯.
[35] Op.cit. p.0684b05: 王有太子名無念德道; p. 0684b18: 彼時王子無念德道者。今西方無量壽佛是.
[36] Đại 19, số hiệu 1013, tr. 0685a09ff.: 阿難陀目佉尼呵離陀經 ,宋天竺三藏求那跋陀羅譯.
[37] Op.cit. p. 0687b23: 王陀樓 子無念名聞具足者 。即阿彌陀佛是也.
[38] Đại 19, No. 1014, tr. 0688a22: 無量門破魔陀羅尼經 , 宋西域沙門功德直共玄暢譯.
[39] Đại 19, No. 1015, tr. 0692a07: 佛說阿難陀目佉尼呵離陀鄰尼, 元魏北印度三藏佛馱扇多譯.
[40] Đại 19, No. 1017, tr. 0698b03: 佛說一向出生菩薩經 , 隋天竺三藏闍那崛多譯.
[41] Đại 19, No. 1009, tr. 0675c05: 出生無邊門陀羅尼經 , 開府儀同三司特進試鴻臚卿肅國公食邑三千戶賜紫贈司空諡大鑒正號大廣智大興善寺三藏沙門不空奉 詔譯.
[42] Đại19, No. 1018: 出生無邊門陀羅尼經, 終南山至相寺上座將軍師智嚴重翻譯.
[43] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版:Mdo (cha)76a-187b; 德格版:Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版:Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[44] Cf. 佛說長阿含經卷第一 , 後秦弘始年佛陀耶舍共竺佛念譯, Đại 01, No. 0001, tr. 0003b11: 尸棄佛父名曰明相… Và lặp lại ở câu tiếp sau của bài chỉnh cú (Op.cit.p.0003b13): 尸棄父明相 Thi khí, cha Minh Tướng.
[45]Cf. 佛說七佛經 , 西天譯經三藏朝散大夫試鴻臚卿傳教大師臣法天奉 詔譯, Đại 01, No. 0002, tr. 0150c16ff: (...) 尸棄如來,父名阿嚕拏王,母同名阿嚕拏: (... ) Thi khí như lai , cha tên A-rô-ta, mẹ đồng tên A-rô-ta. Và lặp lại ở bài chỉnh cú phía sau (Op.cit.p.0151a02): 尸棄佛世尊, 阿嚕拏王父.
[46] Cf. Đại 01, No. 0004:七佛父母姓字經 , 失譯附前魏譯, p. 0159b26: 式佛,父字阿輪拏剎利王.
[47] D.14.1 Mahāpdānasuttanta.
[48] Dīghanikāyo, Mahāvaggapāḷi 1. (14.) Mahāpadānasuttaṃ, PTS.
[49] T21n1340, tr. 0735c02: 大法炬陀羅尼經卷第十七 , 隋天竺三藏闍那崛多譯
[50] Ibid., tr. 0740a07 : …然是菩 薩亦於將來過四十 阿僧祇劫得成正覺 。名無量 壽如來應供正遍覺 。時彼菩薩得菩提… Lược dẫn: Op.cit. p. 0739c10- p.0740a08.
[51] Đại 01, No. 0001: 佛說長阿含經卷第一 , 後秦弘始年佛陀耶舍共竺佛念譯, p. 0003a08 : 阿毗浮 、三婆, 尸棄 佛子
[52] Cf. 佛說七佛經 , 西天譯經三藏朝散大夫試鴻臚卿傳教大師臣法天奉 詔譯, Đại 01, No. 0002, p. p0151a29-b01: 尸棄如來、應、正等覺大智弟子,名部三婆嚩,聲聞中第一.
[53] Đại 01, No. 0004, 七佛父母姓字經 , 失譯附前魏譯, p.0160a02: 式佛第一弟子字阿比務,第二弟子字三參.
[54] D.14.1 Mahāpdānasuttanta.
[55] Cf. Dīghanikāyo, Mahāvaggapāḷi 1. (14.) Mahāpadānasuttaṃ, PTS.
[56] Cf. Mahakarunapundarika Sutra , Yamada, School of Oriental and African Studies, London , 1968 ,p. 1-420.
[57] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版:Mdo (cha)76a-187b; 德格版:Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版:Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[58] T12n0371, tr. 0353b06ff.: 觀世音菩薩授記經 , 宋黃龍國沙門曇無竭譯.
[59] Cf. T12n0372, tr. 0357c22: 佛說如幻三摩地無量印法門經 , 西天譯經三藏朝奉大夫試光祿卿傳法大師賜紫臣施護等奉 詔譯
(Mahasihanadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly), ở phía ngoài thành, trong một khu rừng phía Tây. Lúc bấy giờ, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi, vừa mới từ bỏ Pháp luật này, nói lời nói như sau trong Hội chúng ở Vesali: “Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh; Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, và thuyết cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”. Lúc ấy Tôn giả Sariputta vào buổi sáng, đắp y, cầm bát, vào thành Vesali để khất thực. Tôn giả Sariputta nghe Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi nói như sau trong Hội chúng ở Vesali: “Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh; Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm và thuyết pháp cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”.
Rồi Tôn giả Sariputta khất thực xong, sau khi ăn và đi khất thực trở về đến chỗ ở Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi, vừa mới từ bỏ Pháp luật này, nói lời nói như sau trong Hội chúng Vesali: “Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân... (như trên)... diệt tận khổ đau”.
– Này Sariputta, Sunakkhatta phẫn nộ và ngu si, do phẫn nộ nên nói lên lời ấy. Này Sariputta, Ông ta nghĩ: “Ta sẽ nói xấu”. Thế mà kẻ ngu Sunakkhatta-lại nói lời tán thán Như Lai. Này Sariputta, ai nói như sau là tán thán Như Lai: “Pháp ấy được thuyết giảng cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”.
Này Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không có tùy pháp về Ta như sau: “Đây là Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Này Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không có tùy pháp này về Ta như sau: “Đây là Thế Tôn, vị đã chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua thành, qua núi, như đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền, ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên”. Này Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia sẽ không có tùy pháp này về Ta như sau: “Đây là Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người, xa và gần”. Này Sariputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia sẽ không có tùy pháp nào về Ta như sau: “Đây là Thế Tôn, sau khi đi sâu vào tâm chúng sanh, tâm loài Người với tâm của mình, vị ấy biết được như sau: “Tâm có tham biết là tâm có tham. Hay tâm không tham biết là tâm không tham... tâm chuyên chú... tâm tán loạn... đại hành tâm... không phải đại hành tâm... tâm chưa vô thượng... tâm vô thượng... Tâm Thiền định... Tâm không Thiền định... tâm giải thoát... tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”. Vị ấy biết như vậy.
Này Sariputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực, chính nhờ thành tựu mười lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân. Thế nào là mười? Ở đây, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri xứ là xứ, phi xứ là phi xứ (Tri thị xứ phi xứ lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ Như Lai lực này Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các Hôị chúng, và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri quả báo tùy thuộc sơ do, tùy theo sở nhân của các hành nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại (Tri tam thế nghiệp báo lực.) Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri con đường đưa đến tất cả cảnh giới (Tri nhứt thiết đạo trí lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri thế giới với mọi cảnh giới, nhiều chủng loại, nhiều sai biệt (Tri thế gian chủng chủng tánh lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri chí hướng sai biệt của các loại hữu tình (Tri tha chúng sanh chưởng chưởng dục lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri những căn thượng hạ của các loài hữu tình, loài Người (Tri tha chúng sanh chư căn thượng hạ lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các Thiền, chứng về Thiền, về giải thoát, về định (Tri chư Thiền tam muội lực). Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Ngài nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, Như Lai nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Các chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Sariputta, Như Lai như thật tuệ tri... (như trên)... và chuyển Phạm luân. Lại nữa, này Sariputta, Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc tự mình chứng tri, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Sariputta, Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân.
Này Sariputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực. Chính nhờ thành tựu mười lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân. Này Sariputta, nếu ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy mà còn nói: “Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”. Này Sariputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sariputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện tại. Này Sariputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có bốn pháp vô sở úy chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con sử tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân. Thế nào là bốn? Này Sariputta, Ta thấy không có lý do gì, một Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: “Các pháp này chưa được chứng ngộ hoàn toàn, mà quý vị tự xưng đã chứng ngộ hoàn toàn”. Này Sariputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy. Này Sariputta, Ta thấy không có lý do gì... có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: “Các lậu hoặc này chưa được đoạn trừ mà quý vị tự xưng đã đoạn trừ”. Này Sariputta, vì Ta không thấy... đạt được vô úy. Này Sariputta, Ta thấy không có lý do gì... có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: “Những pháp này được gọi là các chướng ngại pháp khi được thực hành thời không có gì gọi là chướng ngại pháp cả”. Này Sariputta, vì Ta không thấy... đạt được vô úy. Này Sariputta, Ta thấy không có lý do gì một Sa-môn Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta đúng pháp rằng: “Pháp do quý vị thuyết giảng không đưa đến mục tiêu đặc biệt, không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người thực hành đến diệt tận khổ đau”. Này Sariputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
Này Sariputta, có bốn pháp vô sở úy, chính nhờ thành tựu bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương... chuyển Phạm luân. Này Sariputta, nếu ai biết Ta như vậy... người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có tám Hội chúng này: Hội chúng Sát đế lỵ, Hội chúng Bà-la-môn, Hội chúng Gia chủ, Hội chúng Sa-môn, Hội chúng Tứ thiên vương, Hội chúng Tam thập tam thiên, Hội chúng Màra, Hội chúng Phạm thiên. Này Sariputta, có tám Hội chúng này. Này Sariputta, Như Lai thành tựu bốn pháp vô sở úy như vậy, đến gần và vào tám Hội chúng này. Này Sariputta, Ta nhớ lại Ta đã đến hàng trăm Hội chúng Sát-đế-lỵ. Tuy vậy, trước khi Ta ngồi xuống tại chỗ ấy, trước khi Ta nói chuyện và trước khi Ta đàm luận; này Sariputta, ta thấy không có lý do gì để nghĩ rằng: “Chắc chắn sự sợ hãi và run sợ sẽ đến ám ảnh Ta”. Này Sariputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy. Này Sariputta, Ta nhớ lại, Ta đã đến hàng trăm Hội chúng Bà-la-môn... (như trên)... Hội chúng Gia chủ... Hội chúng Sa-môn... Hội chúng Tứ thiên vương... Hội chúng Tam thập tam thiên... Hội chúng Màra... Hội chúng Phạm thiên. Tuy vậy, trước khi Ta ngồi xuống tại chỗ ấy, trước khi Ta nói chuyện và trước khi Ta đàm luận, này Sariputta, Ta thấy không có một lý do gì để nghĩ rằng: “Chắc chắn sự sợ hãi và run sợ sẽ đến ám ảnh Ta”. Này Sariputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy. Này Sariputta, nếu ai biết Ta như vậy... người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục, như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có bốn loại sanh. Thế nào là bốn? Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Này Sariputta, thế nào là noãn sanh? Này Sariputta, những loại chúng sanh nào phá vỏ trứng, mà sanh, này Sariputta như vậy gọi là noãn sanh. Và này Sariputta, thế nào là thai sanh? Này Sariputta, những loại chúng sanh nào phá màn da mỏng che chỗ kín mà sanh, này Sariputta, như vậy gọi là thai sanh. Và này Sariputta, thế nào là thấp sanh? Này Sariputta, những loại chúng sanh nào sanh ra từ cá thúi, từ xác chết thúi, từ cháo cơm thúi, hay trong hồ nước dơ hay trong ao nước nhớp. Này Sariputta, như vậy gọi là thấp sanh. Và này Sariputta, thế nào là hóa sanh? Chư Thiên, các chúng sanh ở địa ngục, một số thuộc loài người và một số thuộc đọa xứ. Này Sariputta, như vậy gọi là hóa sanh.
Này Sariputta có bốn loại sanh như vậy. Này Sariputta, nếu ai biết Ta như vậy... người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục, như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, có năm loại sanh thú này. Thế nào là năm? Địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, loài Người, chư Thiên. Này Sariputta, Ta tuệ tri địa ngục, con đường đưa đến địa ngục và hành lộ đưa đến địa ngục. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, sự việc này ta cũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta tuệ tri bàng sanh, con đường đưa đến bàng sanh. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào bàng sanh, sự việc này Ta cũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta tuệ tri ngạ quỷ, con đường đưa đến ngạ quỷ, và hành lộ đưa đến ngạ quỷ. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào ngạ quỷ, sự việc này Ta cũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta cũng tuệ tri loài Người, con đường đưa đến thế giới loài Người và hành lộ đưa đến thế giới loài Người. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài Người, sự việc này Ta cũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta cũng tuệ tri chư Thiên, con đường đưa đến Thiên giới và hành lộ đưa đến Thiên giới. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, thế giới này, sự việc này Ta cũng tuệ tri. Và này Sariputta, Ta cũng tuệ tri Niết-bàn, con đường đưa đến Niết-bàn và hành lộ đưa đến Niết-bàn. Tùy theo hành nghiệp, do đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, sự việc này, Ta cũng tuệ tri.
Này Sariputta, ở đây, với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người. Do hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy. Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, Ta thấy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng như có một hố than sâu hơn thân người, đầy vun than hừng, không có lửa ngọn, không có khói, và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi khô cổ, đắng họng, khát nước, và đi thẳng đến hố than ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy, có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố than kia”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố than ấy và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng vậy, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy”. Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào bàng sanh”. Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào bàng sanh, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng như có một hố phân, sâu hơn thân người, đầy những phẩn uế, và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến hố phân ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố phân ấy”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố phân ấy và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng vậy, ở đây với tâm của Ta... (như trên)... thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào ngạ quỷ, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt”. Này Sariputta, cũng như có một cây sống trên miếng đất không bằng phẳng, với lá thưa thớt, với bóng che từng đám lưa thưa. Và một người đi đến bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sariputta, cũng vậy ở đây với tâm của Ta... (như trên)... thống khổ, khốc liệt.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta biết tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào loài người”. Sau một thời gian... Ta thấy người ấy sanh vào loài người, và cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sariputta, cũng như có một cây sống trên miếng đất bằng phẳng với lá sum sê, với bóng cây rậm rạp. Và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ của người này như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sariputta, cũng vậy, ở đây, với tâm của Ta... được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy... sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”. Sau một thời gian... Ta thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này và cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sariputta, giống như một ngôi lầu, có gác nhọn, có tô vôi cả trong lẫn ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại và có các cửa sổ khép kín. Tại đây có một sàng tọa, trải nệm lông dài, trải nệm màu trắng, trải nệm bông có thêu hoa, trải nệm bằng da sơn dương gọi là kadali, có nệm với khuôn màu treo phía trên, có gối dài màu đỏ cả hai đầu. Và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến ngôi lầu ấy. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến ngôi lầu ấy”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm trong ngôi lầu ấy, trong gác nhọn ấy, trên sàng tọa ấy và cảm thọ được nhiều cảm thọ cực lạc. Này Sariputta, cũng vậy, ở đây với tâm của Ta... được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy”. Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sariputta, giống như một hồ sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp đẽ, và không xa hồ ấy có khu rừng rậm rạp. Một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến hồ sen ấy. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hồ sen ấy”. Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, sau khi tẩm mình vào hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước và làm cho dịu bớt mọi ưu tư, mệt mỏi, phiền não, sau khi ra khỏi hồ liền qua ngồi hay nằm trong rừng cây rậm rạp ấy và cảm thọ những cảm giác cực lạc. Cũng vậy, này Sariputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy”. Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc.
Này Sariputta, năm loại này là năm sanh thú. Này Sariputta, có ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy, và nói: “Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuộc trắc nghiệm”. Này Sariputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sariputta, Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu thiền định, thành tựu trí tuệ, có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện tại. Này Sariputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
Này Sariputta, Ta thắng tri phạm hạnh, đầy đủ bốn hạnh: về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bần uế, Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất; về độc cư, Ta độc cư đệ nhất.
Này Sariputta, ở đây, khổ hạnh của Ta như sau: Ta sống lõa thể, phóng túng, không theo khuôn phép, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. Ta chỉ nhận đồ ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng. Ta nuôi sống chỉ với một chén, nuôi sống chỉ với hai chén, nuôi sống chỉ với bảy chén. Ta chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy Ta sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Ta chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Ta mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc áo phấn tảo y, mặc vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Ta sống nhổ râu tóc, Ta theo tập tục sống nhổ râu tóc, Ta theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, Ta là người ngồi chỏ hỏ, sống tinh tấn theo hạnh ngồi chỏ hỏ. Ta dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm. Như vậy Ta sống theo hạnh hành hạ, dày vò thân thể theo nhiều cách. Này Sariputta, như vậy là khổ hạnh của Ta.
Này Sariputta, ở đây hạnh bần uế của Ta như sau: Trên thân Ta, bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Như gốc cây tinduka bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng; cũng vậy, này Sariputta, trên thân Ta bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Này Sariputta, Ta không nghĩ rằng: “Với tay của Ta, Ta hãy phủi sạch bụi bặm này đi, hay những người khác với tay của họ hãy phủi sạch bụi bặm này đi cho Ta”. Này Sariputta, Ta không có nghĩ như vậy. Này Sariputta, như vậy là sự bần uế của Ta.
Này Sariputta, như thế này là sự yểm ly của Ta. Này Sariputta, tỉnh giác, Ta đi tới; tỉnh giác Ta đi lui, Ta an trú lòng từ cho đến trong một giọt nước với tâm tư: “Mong rằng Ta không làm hại một chúng sanh nhỏ nào trong những ác đạo của họ!” Này Sariputta, như vậy là sự yểm ly của Ta.
Này Sariputta, như thế này là sự độc cư của Ta. Này Sariputta, Ta đi sâu vào một khu rừng và an trú tại chỗ ấy. Khi Ta thấy người chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi hay người thợ rừng, Ta liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao vậy? Ta nghĩ rằng: “Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!” Này Sariputta, giống như một con thú rừng thấy người liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Cũng vậy, này Sariputta, khi Ta thấy người chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi, hay người tiều phu, Ta liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao vậy? Ta nghĩ rằng: “Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!” Này Sariputta, như vậy là hạnh độc cư của Ta.
Này Sariputta, rồi Ta bò bốn chân đến các chuồng bò, khi các con bò cái đã bỏ đi, khi các người chăn bò không có mặt, rồi Ta ăn phân các con bò con, các con bò còn trẻ, các con bò còn bú. Khi nước tiểu và phân của Ta còn tồn tại, Ta tự nuôi sống với các loại ấy. Này Sariputta, như vậy là hạnh đại bất tịnh thực của Ta.
Này Sariputta, Ta đi sâu vào một khu rừng rậm rạp kinh hoàng và an trú tại chỗ ấy. Này Sariputta, tại khu rừng rậm rạp kinh hoàng này, những ai còn tham ái đi vào khu rừng rậm rạp ấy, thời lông tóc người ấy dựng ngược. Này Sariputta, rồi Ta trong những đêm đông lạnh lẽo, giữa những ngày mồng tám, khi có tuyết rơi, trong những đêm như vậy, Ta sống giữa trời, và ban ngày sống trong khu rừng rậm rạp. Ta sống trong những ngày cuối tháng hè, ban ngày thì sống giữa trời, còn ban đêm trong khu rừng rậm rạp. Rồi này Sariputta, những bài kệ kỳ diệu từ trước chưa từng được nghe sau đây được khởi lên:
Nay bị thiêu đốt, bị buốt lạnh,
Cô độc sống trong rừng kinh hoàng,
Trần truồng, Ta ngồi không lửa ấm,
Ẩn sĩ, trong lý tưởng đăm chiêu.
Này Sariputta, Ta nằm ngủ trong bãi tha ma, dựa trên một bộ xương. Này Sariputta, những đứa mục đồng đến gần Ta, khạc nhổ trên Ta, tiểu tiện trên Ta, rắc bụi trên Ta và lấy que đâm vào lỗ tai. Này Sariputta, và Ta biết Ta không khởi ác tâm đối với chúng. Này Sariputta, như vậy là hạnh trú xả của Ta.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn”. Họ nói: “Chúng ta sống nhờ trái táo”, và họ ăn trái táo, họ ăn bột táo, họ uống nước trái táo dưới nhiều hình thức. Này Sariputta, Ta tự xưng Ta sống chỉ ăn một trái táo. Này Sariputta, có thể các Người nghĩ như sau: “Trái táo thời ấy to lớn”. Này Sariputta, chớ có hiểu như vậy. Vì trái táo thời ấy giống với trái táo hiện tại. Này Sariputta, trong khi Ta sống chỉ ăn một trái táo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu.
Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột nhà sàn hư nát. Vì ta ăn quá ít, nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy sờ da bụng” chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy sờ xương sống”, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện”, thì Ta ngã quỵ úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Sariputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn”. Họ nói: “Chúng ta sống nhờ đậu xanh... (như trên)... chúng ta sống nhờ vừng mè... (như trên)... chúng ta sống nhờ hột gạo”, và họ ăn hột gạo, họ ăn hột gạo nghiền thành bột, họ uống nước gạo, và họ ăn hột gạo dưới nhiều hình thức. Này Sariputta, Ta tự xưng Ta sống chỉ ăn một hột gạo. Này Sariputta, có thể các Người nghĩ như sau: “Hột gạo thời ấy to lớn”. Này Sariputta, chớ có hiểu như vậy. Vì hột gạo thời ấy giống với hột gạo hiện tại. Này Sariputta, trong khi Ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo, khô cằn. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy sờ da bụng”, thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện”, thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thời này Sariputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, dầu Ta có theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, Ta cũng không chứng được các pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Vì sao vậy? Vì với những phương tiện ấy, không chứng được pháp thượng nhân với Thánh trí tuệ. Chính Thánh trí tuệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ luân hồi”. Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự luân hồi mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh cư thiên (Suddhavasa). Này Sariputta, nếu Ta luân hồi tại Tịnh cư thiên thì Ta đã không trở lại đời này nữa. Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ sanh khởi”. Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự sanh khởi mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh cư thiên. Này Sariputta, nếu Ta sanh khởi tại Tịnh cư thiên, thì Ta đã không trở lại đời này nữa. Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ an trú”. Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự an trú mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh cư thiên. Này Sariputta, nếu Ta an trú tại Tịnh cư thiên, thì Ta đã không trở lại đời này nữa. Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ tế tự”. Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự tế tự mà xưa kia Ta không làm trong một thời gian khá dài khi ta là vị vua Sát-đế-lỵ có làm lễ quán đảnh hay làm vị Bà-la-môn giàu có. Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ thờ lửa”. Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự thờ lửa mà xưa kia Ta không làm trong một thời gian khá dài, khi Ta là vị vua Sát-đế-lỵ có làm lễ quán đảnh, hay làm vị Bà-la-môn giàu có.
Này Sariputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: “Khi một thiếu niên còn trẻ tuổi, tóc đen nhánh, huyết khí sung mãn, trong tuổi thanh xuân, người ấy thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng. Nhưng khi người ấy già cả, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi đến đoạn cuối cuộc đời, khi đã tám mươi, chín mươi hay một trăm tuổi, khi ấy trí tuệ biện tài tối thượng ấy bị đoạn trừ”. Này Sariputta, chớ có quan niệm như vậy. Này Sariputta, nay Ta đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi dến đoạn cuối cuộc đời, tuổi Ta nay đã đến tám mươi. Này Sariputta, ở đây Ta có bốn vị đệ tử, tuổi thọ đến một trăm, đã sống một trăm tuổi, thành tựu chánh niệm đệ nhất, thành tựu chuyên tâm đệ nhất, thành tựu tinh cần đệ nhất và đầy đủ trí tuệ biện tài tối thượng. Này Sariputta, ví như một người bắn cung thiện xảo, có huấn luyện, khéo tay, thuần thục, với một mũi tên nhẹ, có thể dễ dàng bắn ngang qua bóng một cây ta-la. Cũng vậy, những vị này với chánh niệm đệ nhất như vậy, được thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng như vậy, nếu những vị này hỏi Ta nhiều lần một câu hỏi về Bốn Niệm xứ, và nếu Ta, được hỏi nhiều lần như vậy, phải giải thích cho họ hiểu và nếu họ được Ta giải thích như vậy, có thể hiểu như đã giải thích, và nếu họ không hỏi Ta về những vấn đề phụ thuộc và các vấn đề khác, trừ khi ăn, uống, nhai, nếm, trừ khi đi đại tiện, tiểu tiện, trừ khi ngủ để lấy lại sức. Này Sariputta, dầu vậy, sự thuyết pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự giải thích cú pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự trả lời các câu hỏi của Như Lai cũng chưa hoàn tất, khi mà bốn đệ tử của Ta, tuổi thọ đến một trăm tuổi, đã sống một trăm tuổi, đã từ trần sau một trăm tuổi. Này Sariputta, nếu Ông có gánh Ta trên giường đi chỗ này chỗ kia, thật sự trí tuệ biện tài của Như Lai không có gì thay đổi. Này Sariputta, những ai nói một cách chân chánh sẽ nói như sau: “Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người”. Vị ấy sẽ nói về Ta một cách chân chánh như sau: “Một vị hữu tình không bị chi phối... (như trên)... chư Thiên và loài Người”.
Lúc bấy giờ Tôn giả Nagasamala đứng sau lưng Thế Tôn và quạt cho Ngài! Tôn giả Nagasamala bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Sau khi nghe pháp môn này, lông tóc con dựng ngược. Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là gì?
– Này Nagasamala, do vậy pháp môn này gọi là pháp môn lông tóc dựng ngược. Ông hãy như vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Nagasamala hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
ĐẠI KINH SƯ TỬ HỐNG, THỨ MƯỜI HAI HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________
>>> 11.Tiểu kinh Sư Tử Hống
Bốn mươi tám lời nguyện của Vô Tránh Niệm cũng có những nét tương đồng với bốn mươi tám lời nguyện của Pháp Tạng, chỉ trừ nguyện thứ ba mươi lăm, nguyện thứ bốn mươi bốn và nguyện thứ bốn mươi tám.
Truyện Bản sinh Pháp Tạng được ghi trong आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, tức सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][1], bản Tây Tạng: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, cùng nhiều Kinh Hán Tạng như: Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 360, Phật thuyết Vô lượng thọ kinh[2], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0364, Đại A-di-đà kinh[3], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh[4], Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[5] v.v.. đều có ghi lại rằng Pháp Tạng đã bày tỏ bản nguyện của mình trước đức Như Lai Thế Tự Tại Vương.
Trong khi truyện Bản sinh Vô Tránh Niệm ghi ở trong करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka sūtram[6], phẩm phẩm दान-विसर्गस् तृतीयः III dāna-visargas tṛtīyaḥ, bản Tây Tạng འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[7], và bản Tạng ngữ thứ hai tựa đề là: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[8] thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh số hiệu 111 – 112; cùng với bản dịch Hán ngữ của Đàm Vô Sấm dùng trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, Kinh Bi Hoa 2[9], ghi lại rằng Vô Tránh Niệm trình bày trước đức Như Lai Bảo Tạng.
Và điểm chung của hai nhóm kinh này, là sau đó, cả Pháp Tạng cũng như Vô Tránh Niệm đã được hai đức Như Lai trên ấn chứng trở thành Phật A Di Đà ở quốc độ Cực lạc phương tây.
Số lượng và thứ tự các bản nguyện của Pháp Tạng trong các bản văn không giống nhau. Đối chiếu các văn bản này như sau:
- Bản Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, thường được gọi là सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][10], được lưu trữ ở trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Nếu So với bản Hán dịch Vô Lượng Thọ kinh của Khương Tăng Khải, bản Sanskrit, bản Sanskrit này chỉ có bốn mươi sáu đại nguyện, không có nguyện thứ chín là thần túc vô ngại và nguyện hai mươi mốt là nguyện nhân thiên có ba mươi hai tướng tốt.
- Bản Tây Tạng ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, mà nội dung của bản này tương đương với Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[11] . Có bốn chín đại nguyện tăng thêm một nguyện thứ 38: “Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các Bồ tát ở các quốc độ Phật khi nghe danh hiệu A Di Đà thì đều cung kính lễ bái”
- Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361: Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [12], Chi Lâu Ca Sấm dịch, Hậu Hán, so sánh với Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh, 2 quyển, cũng do Ngô Chi Khiêm dịch, cùng với Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0364, Đại A-di-đà kinh, Vương Nhật Hưu, giáo tập, Tống[13]. Hai kinh ghi có hai mươi bốn lời thệ, nhưng nội dung và thứ tự lại không đồng nhất
- Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh[14], bản dịch của Khương Tăng Khải và Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[15], Nam Ấn Độ, Đường, Bồ Đề Lưu Chí dịch, có bốn mươi tám lời nguyện.
-Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch, có 36 lời nguyện.
Trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [16], thuộc Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, do Chi Lâu Ca Sấm dịch, đời Hậu Hán,ghi lại Hai mươi bốn lời nguyện có thể tóm tắt như sau:
(1) Trong nước Phật không có ba đường dữ.
(2) Những ai sinh vào nước ấy không còn trở vào ba đường dữ.
(3) Nhân dân cùng có một sắc vàng.
(4) Không cóphân biệt nguồn gốc trời người.
(5) Đều có hiểu biết về đời trước.
(6) Đều có thiên nhãn thông.
(7) Đều có tha tâm thông.
(8) Đều bay đi tự tại.
(9) Đều có thiên nhĩ thông.
(10) Không có ái dục.
(11) Luôn luôn trụ trong Niết bàn.
(12) Có vô số đệ tử và la hán.
(13) Chính mình có ánh sáng vô lượng.
(14) Chính mình có thọ mạng vô lượng.
(15) Nhân dân cũng thọ mạng vô lượng.
(16) Nhân dân không có lòng dữ.
(17) Tiếng tăm vang khắp mười phương và hết thảy chúng sinh đều muốn sinh về Cực lạc.
(18) Nhân dân các quốc độ Phật đem lòng thanh tịnh niệm Ta thì khi chết Ta và đệ tử đều đến rước.
(19) Nhân dân các quốc độ Phật dù đời trước làm ác, nghe danh hiệu Ta mà hối cải muốn sanh vềnước Tathì sẽ toại nguyện.
(20) Các vị Bồ tát đều một kiếp thành Phật.
(21) Các vị Bồ tát đều có 32 tướng tốt.
(22) Các vị Bồ tát đều có đủ đồvật đểcúng dường các đức Phật mười phương.
(23) Các vị Bồ tát muốn ăn thì có đồ ăn. Ăn xong bát báu tự đi.
(24) Các Bồ tát thuyết pháp hành đạo như đức Phật.
Đó là toát yếu lời nguyện trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh.
Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh[17], 2 quyển, cũng do Ngô Chi Khiêm dịch hay còn gọi là Đại A Di Đà kinh cũng có hai mươi bốn nguyện nguyện nhưng thứ tự và nội dung không thống nhất.
Cho nên, trừ nguyện thứ nhất của hai bản giống nhau, còn nguyện thứ hai trở đi không những thứ tựmà nội dung cũng bị đảo lộn. Có nguyện có trong bản này mà không có trong bản kia và ngược lại. Ví dụ sơ lược:
-Nguyện thứ tư và nguyện thứ hai mươi của Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh không có trong Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh, trong khi nguyện thứ mười hai trong bản Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh lại không thấy trong kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh.
-Có nguyện trong bản Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh thì chia thành hai, còn bản Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh thì hai góp lại một. Chẳng hạn nguyện thứ sáu và thứ chín của Vô lượng bình đẳng giác kinh, góp thành một trong nguyện thứ mười bảy của Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A Di Đà) Kinh.
Nói chung, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh đã có những nguyện sau, mà không thấy trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh, đó là:
-Nguyện thứ hai: không có phụ nữ trong nước Phật A Di Đà, và nếu phụ nữ sinh về thì trở thành đàn ông;
-Nguyện thứ ba, có đầy đủ châu báu, nhà cửa, áo quần, ăn uống;
-Nguyện thứ mười một: Bồ tát quốc độ Phật A Di Đà không có ý nhớ phụ nữ;
-Nguyện thứ mười hai: các Bồ tát a la hán thương yêu kính trọng không ganh ghét nhau;
-Nguyện thứ mười bảy và mười tám: bản thân Phật A-di-đà có thiên nhãn thiên nhĩ và trí huệ tuyệt vời;
-Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh[18], bản dịch của Khương Tăng Khải và Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[19], Nam Ấn Độ, Đường, Bồ Đề Lưu Chí dịch đã phát triển hai mươi bốn lời nguyện trên thành bốn mươi tám nguyên. Về bốn mươi tám nguyện này thì hai mươi lăm lời nguyện đầu gần đồng nhất với hai mươi bốn nguyện đã nêu ở trên. Do đó, để thấy toàn bộ, ta sẽ kể từ nguyện 26 trở đi.
(26) Nguyện nhân dân trong nước đều có thân hình của Na La Diên.
(27) Nguyện trong nước mọi thứ đều đẹp đẽ tuyệt vời.
(28) Ai cũng thấy được cây bồ đề to lớn.
(29) Mọi người đều có khả năng biện tài.
(30) Các Bồ tát đều có trí tuệ biện tài vô lượng.
(31) Quốc độ trong sạch chiếu khắp mười phương.
(32) Nguyện trong nước đầy dẫy hương thơm vi diệu.
(33) Chúng sinh ở các quốc độ Phật nhờ ánh sáng Phật A-di-đà soi rọi, thân tâm được êm dịu.
(34) Tất cả chúng sinh khi nghe danh hiệu, đều được vô sanh pháp nhẫn và các tổng trì.
(35) Nguyện nghe danh hiệu mà chuyển được thân đàn bà thành đàn ông.
(36) Nguyện nghe danh hiệu mà tu tập phạm hạnh cho đến khi thành Phật.
(37) Nguyện nghe danh hiệu thì đều tu hạnh Bồ tát, năm vóc gieo xuống đất, trời người đều kính tôn.
(38) Áo quần của dân trong nước đều tự do muốn là được, không cắt may giặt nhuộm.
(39) Nguyện dân trong nước vui sướng như các vị giải thoát.
(40) Nhân dân trong nước, muốn thấy các Phật độ thì ngồi dưới gốc cây báu, chúng sẽ hiện ra.
(41) Nguyện các Bồ tát ở khắp mọi phương khi nghe danh hiệu, thì cho tới lúc thành Phật luôn luôn đầy đủ các giác quan.
(42) Nguyện các Bồ tát khắp mọi phương, khi nghe danh hiệu, đạt được tam muội thanh tịnh giải thoát, chỉ trong khoảng khắc cúng dường vô số các đức Phật không thiếu sót vị nào.
(43) Nguyện các Bồ tát ở khắp nơi, khi nghe danh hiệu, đều sanh vào các nhà phú quí.
(44) Bồ-tát khắp mọi nơi khi nghe danh hiệu, đều vui mừng tu hạnh Bồ-tát.
(45) Nguyện các Bồ-tát ở khắp mọi nơi khi nghe danh hiệu thì đạt được tam muội Phổ đẳng, thấy hết các đức Phật.
(46) Nguyện các Bồ-tát trong nước nếu muốn nghe pháp thì tự nhiên được nghe.
(47) Nguyện các Bồ-tát khắp mọi nơi khi nghe danh hiệu thì đạt được địa vị không còn thối lui.
(48) Nguyện các Bồ-tát khắp mọi nơi khi nghedanh hiệu thì liền đạt được pháp nhẫn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, liền được địa vị không thối lui.
Đó là nội dung bốn mươi tám lời nguyện của Phật A-di-đà như đã ghi trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh. Đối chiếu với những bản kinh khác, đặc biệt là Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích cùng với Bản Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्रAmitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā]), Bản Tây Tạng ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, thì nội dung chúng tương đối giống nhau, còn về mặt thứ tự thì thường hay khác. Ví dụ:
-Nguyện thứ 23, của Vô Lượng thọ kinh tương đương với nguyện thứ 21 của bản आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra.
-Nguyện thứ 40, 42 và 45 của Vô Lượng thọ kinh tương đương với nguyện thứ 38, 40 và 43 của bản bản आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra.
Đối với bản Tây Tạng Bản Tây Tạng ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo cũng vậy, nhưng sự sai khác tỏ ra nhiều hơn, vì Tạng bản sai khác một nguyện nói về âm nhạc vi diệu ở quốc độ Cực Lạc, nếu đối chiếu với bản Hán thì không có tương đương, thứ tự xen vào sau nguyện thứ 32 và trước nguyện thứ 33 của bản Hán Vô Lượng thọ kinh.
Còn đối với Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích thì nội dung và thứ tự không sai khác cho lắm.
Ngoài hai truyền bản hai mươi bốn và bốn mươi tám lời nguyện vừa giới thiệu, còn có Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch, ghi ba mươi sáu lời nguyện đặc biệt nhấn mạnh đến việc cúng dường chư Phật. Và phát biểu theo lối khẳng định, chứ không phải theo lối phủ định, như đã gặp trong các truyền bản trên, tóm tắt như sau:
(1) Trong nước không có ba điều dữ.
(2) Không có phân biệt trời người.
(3) Chúng sinh sinh về có đại thần thông.
(4) Có túc mạng thông.
(5) Có thiên nhãn thông.
(6) Có tha tâm thông.
(7) Ở trong tình trạng chánh tín.
(8) Luôn luôn ở trong niết bàn.
(9) Dù ở trong tình trạng Thanh văn Duyên giác cũng đều thành Phật.
(10) Có ánh sáng vô biên.
(11) Có thọ mạng vô lượng.
(12) Tiếng tăm lừng lẫy mười phương.
(13) Những chúng sinh chí thành niệm danh hiệu khi chết sẽ được Phật A Di Đà và các tỳ kheo đến rước.
(14) Tất cả chúng sinh khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà muốn sinh về quốc độ Phật nào thì sinh.
(15) Chúng sinh trong Thế giới Cực lạc đầy đủ 32 tướng tốt.
(16) Có chúng sinh vì đại nguyện chưa muốn thành Phật thì nhờ oai lực của Phật A Di Đà giáo hoá hết thảy hữu tình.
(17) Chúng sinh ở Thế giới Cực lạc muốn cúng dường các đức Phật khắp mười phương thì có đủ phương tiện để cúng dường.
(18) Các Bồ-tát ở Cực lạc đều thành tựu nhất thiết trí, giỏi bàn các pháp yếu.
(19) Các Bồ-tát ởCực lạc dùng thần thông đem đủ tư liệu đểcúng dường chư Phật ở mười phương.
(20) Các Bồ-tát nếu không đem đến được thì nhờ oai lực Phật A Di Đà, mà các đức Phật đưa tay đến nhận lấy.
(21) Các vị Bồ-tát ở Thế giới Cực lạc muốn cúng dường các đức Phật mà không rời quốc độ mình, thì nhờthần lực A-di-đà khiến cho các đồ cúng dường tự đến các quốc độ Phật kia.
(22) Các vị Bồ-tát quốc độ Tịnh độ có thần lực của Na La Diên và ánh sáng rực rỡ.
(23) Các vị Bồ-tát có khảnăng thuyết pháp vô ngại.
(24) Các vị Bồ-tát đem mọi thứ trân báu làm lò trầm để đốt những cây chiên đàn vô giá cúng dường khắp mười phương các đức Phật.
(25) Thế giới Cực lạc trong sáng như gương.
(26) Các Bồ-tát quốc độ ấy luôn luôn vui sướng, thường ởtrong tam muội bình đẳng.
(27) Những người mang thân đàn bà, nghe danh hiệu Phật A-di-đà và qui y đảnh lễ khi lâm chung thì sẽ sinh về Thế giới Cực lạc và trởthành đàn ông.
(28) Mười phương vô số Thanh văn Duyên giác khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà mà tu trì tịnh giới thì nhất định sẽ giác ngộ vô thượng.
(29) Các Bồ-tát trong mười phương khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà đều lễ bái qui mạng.
(30) Áo quần ở quốc độ Cực lạc khỏi cắt may, giặt nhuộm.
(31) Tất cả chúng sinh nghe danh hiệu của Phật A-di-đà thì đều được vô sinh pháp nhẫn.
(32) Tất cả Bồ-tát trong mười phương khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà thì chứng được tịch tịnh tam muội.
(33) Tất cả Thanh văn, Bồ-tát khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà đều được vô sinh pháp nhẫn, an trụ vào vô công dụng hạnh.
(34) Các Bồ-tát ở mười phương khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà thì chứng được tam muội phổ biến Bồ-tát.
(35) Các Bồ-tát ở Thế giới Cực lạc đều tùy ý giảng pháp và nghe pháp.
(36) Tất cả các quốc độ Phật khi nghe danh hiệu của Phật A Di Đà thì được nhẫn thứ nhất cho đến vô sinh pháp nhẫn.
Ba mươi sáu lời nguyện của Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch, được lược kể ở tiết trước, tuy chúng có những liên hệ nhất định với bốn mươi tám lời nguyện, điểm đặc trưng vẫn là hình thức khẳng định của bản thân những lời nguyện ấy.Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm kinh tỏ ra có một sự canh cải do những yếu tố tiếp thu từ Kinh करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka (Kinh Bi Hoa).
Cụ thể là trong bản dịch Hán, Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[20], của Bắc Lương Đàm Vô Sấm, kể có bốn mươi tám lời nguyện của Vô Tránh Niệm trước Phật Bảo Tạng, nhưng về hình thức khác với bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh[21]:
- Bản dịch của Khương Tăng Khải, đã sử dụng hình thức phủ định: "... nếu không ... thì tôi không..." mà trong nguyên điển Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, ( सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā])[22] , sử dụng là: “षचेन्मे…न… मा तावदहम्ंSacenme…na… mā tāvadahaṃ”.
Ví dụ: Lời nguyện thứ ba trong सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ:
३. सचेन्मे भगवंस्तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजातास्ते च सर्वे नैकवर्णाः स्युर्यदिदं सुवर्णवर्णाः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥ (3. sacenme bhagavaṃstatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāste ca sarve naikavarṇāḥ syuryadidaṃ suvarṇavarṇāḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyak saṃbodhi mabhisaṃbudhyeyam || )
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh đã được sinh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con, hết thảy thân thể đều đồng một màu sắc kim loại chân thực, nếu không được như vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.Bạch Thế Tôn, nếu ở nơi quốc độ Phật ấy của con có địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ và thân A-tu-la; thì con nguyện không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[23].
-Bản dịch của Đàm Vô Sấm, bốn mươi tám lời nguyện ở đều dùng hình thức khẳng định: "Nếu tôi được ... thì ...", mà ở trong आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra và Bản Tây Tạng ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo đều không thấy sử dụng.
Bốn mươi tám lời nguyện của Vô Tránh Niệm cũng có những nét tương đồng với bốn mươi tám lời nguyện của Pháp Tạng, chỉ trừ nguyện thứ ba mươi lăm, nguyện thứ bốn mươi bốn và nguyện thứ bốn mươi tám.
Nguyện thứ ba mươi lăm nói tới việc không có núi non cũng như các khái niệm tham sân si, ác đạo v.v.., và đặc biệt là không có đại dương, một chi tiết không bao giờ kể tới trong khi mô tả Cực lạc.
Nguyện nguyện thứ bốn mươi bốn và nguyện thứ bốn mươi tám thì nói việc niết bàn của Phật A-di-đà, các Bồ-tát, và các người đàn bà, khi nghe danh hiệu thì sung sướng và không bao giờ sinh làm đàn bà nữa. Ba lời nguyện này, Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch đương nhiên không có.
Vậy, quan hệ giữa ba mươi sáu lời nguyện Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh và Bốn mươi tám lời nguyện của Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[24], Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch, là như thế nào?
Trước đây, những người nghiên cứu thường xét vị trí của ba mươi sáu lời nguyện trong liên hệ với hai mươi bốn và bốn mươi tám lời nguyện của những truyền bản khác, vì họ giả thuyết bốn mươi tám lời nguyện trong Bi hoa kinh chỉ là một hình thái khác của bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh, chứ không có những sai biệt gì căn bản.
Cho nên, phần lớn đã đề xuất những quan điểm khác nhau liên hệ đến vị trí của ba mươi sáu lời nguyện, mà thường coi nhẹ ảnh hưởng của bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[25], Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.
Sự so sánh các truyền thống, số mục bản nguyện v.v.. đã được Học giả Nhật bản Kimura Taiken, nghiên cứu và đối chiếu rõ ràng trong Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận[26] của mình, ở đây không để tránh dài dòng, sẽ không lặp lại nhiều về ý tưởng mà Kimura Taiken đã trình bày[27]
Kimura Taiken trong khi đi tìm nguồn gốc của tư tưởng bản nguyện đã phát hiện một hiện tượng khá đặc biệt là loại tư tưởng ấy đã phát triển theo một loại hình cấp số công lấy số sáu làm cơ sở.
Căn cứ theo nghiên cứu của Kimura Taiken, đối cùng một số bản Sanskrit-Tây Tạng hiện biết liên hệ với nghiên cứu này, chúng ta có nhận định sơ lược như sau:
Từ sáu lời nguyện trong nguyển điển Sanskrit: आष्टसाहस्रिका प्रज्ञापारमिता Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā[28] , tức tương đương bản dịch Hán, Đại Tạng Kinh 08, số hiệu 0227, Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 10 quyển, Hậu Tần năm 408, của Cưu Ma La Thập dịch [29].
Từ sáu nguyện đó, nó đã phát triển thành mười hai và mười tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0313, A Súc Phật Quốc Kinh, 2 quyển, Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch; và Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh[30] (Đại A Di Đà kinh) 2 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch.
Tiếp đến là: ba mươi lời nguyện, trong Đại phẩm Bát-nhã, hiện còn tìm được trong trong các văn bản:
-Nguyên điển Sanskrit của Đại phẩm Bát-nhã: पञ्चविमंशति-साहस्रिका-प्रज्ञापारमिता Pañcaviṃśati-sāhasrikā-prajñāpāramitā (Nhị vạn ngũ thiên tụng Bát-nhã Ba-la-mật) bản Sanskrit của Kinh này có 8 phẩm, do N. Dutt chủ trương biên tập và xuất bản, 1934.
-Tây Tạng Đại Tạng Kinh, thuộc Bát-nhã bộ, số hiệu 09, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་སྟོང་ཕྲག་ཉི་ཤུ་ལྔ་པ Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa stoṅ-phrag-ñi-śu-lṅa-pa (Nhị vạn ngũ thiên tụng Bát-nhã Ba-la-mật)[31].
-Hán dịch, Đại Tạng Kinh 08, số hiệu 0220, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, 600 quyển, Đường Huyền Trang dịch và số hiệu 0223, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 27 quyển, Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch.
Cùng các văn bản chú giải ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་སྟོང་ཕྲག་ཉི་ཤུ་ལྔ་པ Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa stoṅ-phrag-ñi-śu-lṅa-pa (Đại Phẩm Bát Nhã), cũng nói đến ba mươi lời nguyện này, như:
-Tây Tạng Đại Tạng Kinh, thuộc Bát-nhã bộ, số hiệu 3787, thuộc Bát-nhã bộ, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་སྟོང་ཕྲག་ཉི་ཤུ་ལྔ་པའི་མན་ངག་གི་བསྟན་བཅོས་མངོན་པར་རྟོགས་པའི་རྒྱན་འགྲེལ་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa stoṅ-phrag ñi-śu-lṅa-paḥi man-ṅag-gi bstan-bcos mṅon-par-rtogs-paḥi rgyan-gyi ḥgrel-pa[32] (Thánh Bát-nhã nhị vạn ngũ thiên tụng ưu ba đề xá luận hiện quán trang nghiêm luận).
-Tây Tạng Đại Tạng Kinh, Bát-nhã bộ, số hiệu 3788, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་སྟོང་ཕྲག་ཉི་ཤུ་ལྔ་པའི་མན་ངག་གི་བསྟན་བཅོས་མངོན་པར་རྟོགས་པའི་རྒྱན་གྱི་ཚིག་ལེའུར་བྱས་པའི་རྣམ་པར་འགྲེལ་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-pa stoṅ-phrag-ñi-śu-lṅa-paḥi man-ṅag-gi bstan-bcos mṅon-par-rtogs-paḥi rgyan-gyi tshig-leḥur-byas-paḥi rnam-par ḥgrel-pa[33] (Thánh Bát-nhã nhị vạn ngũ thiên tụng ưu ba đề xá luận hiện quán trang nghiêm luận thích).
Lại từ ba mươi lời nguyện, trong Đại phẩm Bát-nhã, phát triển thành ba mươi sáu lời nguyện của Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch.
Tiếp theo lại tăng lên thành bốn mươi tám nguyện trong Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh.[34]
Quá trình phát triển đó rõ ràng điềm chỉ một trật tự số học nhất định, dẫu hiện tại cấp số 7 chưa có một văn bản nào chứng thực, nghĩa là hiện chưa tìm ra văn bản nào ghi bốn mươi hai nguyện.
Thế thì, quan hệ phát triển cấp số giữa chúng là thế nào? Phải chăng chúng đã phát triển theo cấp số từ nhỏ đến lớn? Hay ngược lại là một số giảm trừ từ lớn đến nhỏ?
Kimura Taiken trả lời trong Đại Thừa Phật giáo tư tưởng luận là quá trình phát triển đã theo trật tự từ nhỏ tới lớn. Nói rõ ra, đầu tiên hết là sáu nguyện, rồi sau đó bổ sung và hoàn chỉnh cho đến lúc bốn mươi tám nguyện xuất hiện, đáp ứng phần lớn yêu cầu một xã hội lý tưởng theo quan niệm Phật giáo.
Học giả nhật bản Mochizuki Shinko, tuy không hoàn toàn nhất trí với thuyết phát triển cấp số của Kimura Taiken, cũng thừa nhận quá trình phát triển từ số nhỏ tới lớn của số lượng những lời nguyện trong các kinh:
Từ sáu lời nguyện trong आष्टसाहस्रिका प्रज्ञापारमिता Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā (Tiểu phẩm bát nhã), đã tăng lên thành hai mươi mốt lời nguyện trong trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0313, A Súc Phật Quốc Kinh, 2 quyển, Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch, rồi tăng lên thành hai mươi bốn nguyện trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [35], thuộc Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, do Chi Lâu Ca Sấm dịch, đời Hậu Hán và Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh), 2 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch; sau đó tăng thành ba mươi nguyện trong पञ्चविमंशति-साहस्रिका-प्रज्ञापारमिता Pañcaviṃśati-sāhasrikā-prajñāpāramitā (Đại phẩm Bát-nhã), rồi ba mươi sáu lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch; và cuối cùng bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh và Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích.
Học giả Mochizuki Shinko đã nhận xét thêm là quan hệ trước sau giữa ba mươi sáu lời nguyện và bốn mươi tám lời nguyện nguyện thật khó mà khẳng định một cách dứt khoát, bởi vì ba mươi sáu lời nguyện có thể là một dạng bất toàn của bốn mươi tám lời nguyện.
Trong một giới hạn nào đó, nhận xét ấy đã tỏ ra cóthểchứng minh đặc biệt khi ta chú ý đến sự liên quan giữa ba mươi sáu lời nguyện và bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[36], Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.
Giới hạn lĩnh vực tìm hiểu thuần túy vào các bản văn liên hệ đến Phật A-di-đà, những người nghiên cứu khác cũng đề xuất những ý kiến tương tự.
-Nhận định của Wogihara
Sau khi đối chiếu các văn bản với nhau, đã kết luận Đại A Di Đà Kinh và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh tức những văn bản chủ trương hai mươi bốn nguyện, là thành lập sớm nhất, rồi đến bản Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā])[37], rồi sau hết mới là Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích và Vô lượng thọ kinh, tức những văn bản của bốn mươi tám nguyện nguyện.
-Nhận định của Akashi Etatsu và Sonoda
Nhận định kết luận của Wogihara nêu ở trên, Akashi Etatsu không hoàn toàn đồng ý, vì Akashi Etatsu cho rằng Wogihara đã không quan tâm đến văn bản ba mươi sáu lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch.
Vì vậy, Akashi và sau đó Sonoda đã đưa ra quan điểm, một mặt tán thành kết luận trên của Wogihara, mặt khác chỉnh lý nó bằng cách thêm vào sự có mặt của văn bản ba mươi sáu lời nguyện, tức Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.
Hay nói cách khác rõ ràng hơn: Akashi chủ trương Đại A Di Đà Kinh và Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh, văn bản xưa nhất, xuất hiện trước tiên rồi đến Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, sau đó là bản Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā]), rồi đến Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích và Vô lượng thọ kinh.
Học giả Sonoda còn xác minh rõ hơn văn bản Đại A-di-đà kinh, tức tương đương bản dịch Hán, Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh là xưa nhất so với Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [38], do Chi Lâu Ca Sấm dịch, Hậu Hán.
Như thế, nhìn chung thì các thuyết trên đều phần lớn chủ trương văn bản ba mươi sáu lời nguyện của Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm kinh, tuy được dịch ra tiếng Trung quốc chậm nhất lại chiếm vị trí quan trọng và quá cổ sơ, ngay cả đối với Vô lượng thọ kinh, do Khương Tăng Khải dịch vào khoảng năm 252 Stl.
Chủ trương ấy dường như có chỗ không hợp lý cho lắm, vì ba mươi sáu lời nguyện đã có liên hệ mật thiết với bốn mươi tám lời nguyện trong, Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[39], do Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.
Mà Kinh Bi Hoa ngày nay thường được nhìn nhận là một văn bản nhằm việc đề cao bản thân Phật Thích Ca và nhằm đặt quan hệ ưu việt của tín ngưỡng Phật Thích Ca đối với tín ngưỡng Phật A-di-đà, mà có thể rất thịnh hành vào thời kỳ nó xuất hiện.
Do vậy, lập trường của Wogihara về việc để riêng văn bản ba mươi sáu lời nguyện của Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh không phải là không cơ sỡ, dẫu rằng nó đã mang khuyết điểm là không xác định rõ vị trí của ba mươi sáu lời nguyện ấy trong quan hệ giữa hai mươi bốn và bốn mươi tám nguyện của các văn bản khác.
Để xác định vị trí ấy, một điều cần phải nhớ là tín ngưỡng A-di-đà đã được truyền vào Trung quốc rất sớm và cứ dần dà chiếm lĩnh vị trí ưu thếcủa mình đối với các tín ngưỡng khác, để cuối cùng trở thành rất phổ biến vào lúc Pháp Hiền dịch Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.
Do đó, nếu nguyên bản Sanskrit của của Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh đã xuất hiện trước hay cùng thời với Vô lượng thọ kinh, thì không có lý do gì mà nó không truyền tới Trung quốc.
Việc Pháp Hiền dịch kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh vào năm 1001 sau tây lịch, được thu vào trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, trong trường hợp này, vì thế, phải điềm chỉ sự xuất hiện hậu kỳ của chính bản thân nó. Nói rõ ra, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh là kết quả của một nỗ lực canh cải với आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā]), tức Vô lượng thọ kinh, nếu không là Đại A-di-đà kinh, do quá trình tiếp thu những cống hiến của Kinh करुणापुण्डरीक Karuṇāpuṇḍarīka[40] (Bi Hoa).
Nỗ lực ấy chứng tỏ một thỏa hiệp đã xảy ra giữa tín ngưỡng Phật A-di-đà và tín ngưỡng Phật Thích Ca, giữa truyền thống bản nguyện सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā] hay Vô lượng thọ kinh và truyền thống bản nguyện của Kinh करुणापुण्डरीक Karuṇāpuṇḍarīka hay Bi Hoa Kinh, để chấm dứt cuộc cạnh tranh giữa hai tín ngưỡng làm tiền đề cho sự ra đời của hai truyền thống bản nguyện ấy.
Do vậy, ba mươi sáu lời nguyện trong Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh có thể nói là xuất hiện chậm nhất, tổng hợp hai truyền thống bản nguyện với nhau để tạo nên bản thân mình.
Về quan hệ giữa truyền thống bản nguyện Vô lượng thọ kinh (सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ) và truyền thống bản nguyện Bi hoa kinh ( करुणापुण्डरीक Karuṇāpuṇḍarīka) thì thật khó xác định một cách chắc chắn vềt tính trước sau của chúng.
Tuy nhiên, chỉ căn cứ trên lịch sử truyền bá của những kinh đó ở Trung quốc, truyền thống सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ hay Vô lượng thọ kinh rõ ràng xuất hiện trước. Thêm vào đó, nếu giả thiết kinh करुणापुण्डरीक Karuṇāpuṇḍarīka hay Kinh Bi hoa ra đời như một phản ứng trước cao trào tín ngưỡng mạnh mẽ Phật A-di-đà, nhằm chứng minh tính ưu việt của tín ngưỡng bản thân Phật Thích Ca, thì hiển nhiên truyền thống bản nguyện Bi hoa kinh càng phải ra đời sau truyền thống Vô lượng thọ kinh.
Ngoài ra, truyền thống Vô lượng thọ kinh hay सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ đã trải qua hai giai đoạn hình thành, giai đoạn hình thành hai mươi bốn lời nguyện rồi giai đoạn hình thành bốn mươi tám lời nguyện của Bản Hán Vô Lương Thọ, do Khương Tăng dịch, hay bốn mươi sáu nguyện của bản Sanskrit, trong khi truyền thống करुणापुण्डरीक Karuṇāpuṇḍarīka tức bản dịch Hán Bi hoa kinh, thì không có một quá trình như vậy.
Do đó, bốn mươi tám lời nguyện của Bi hoa kinh cũng phải xuất phát từ nguyên hình hai mươi bốn lời nguyện của truyền thống Vô lượng thọ kinh. Nói tóm lại, quan hệ giữa các truyền thống bản nguyện của Phật A-di-đà có thể hình dung như sau:
Hai mươi bốn nguyện trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [41], thuộc Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, do Chi Lâu Ca Sấm dịch, đời Hậu Hán và Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh), 2 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch phát triển thành truyền thống bốn mươi tám lời nguyện của bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh và Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích và bốn mươi tám lời nguyện của bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[42], Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch, rồi cuối cùng tổng hợp lại trong ba mươi sáu lời nguyện của Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch.
Nguyên do gây nên quá trình phát triển này là yêu cầu muốn chỉnh lý và hoàn thiện, những gì đã đề ra trong hai mươi bốn lời nguyện ở Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh;
Bốn mươi tám nguyện của truyền thống Vô lượng thọ kinh, thuộc Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, biểu thị một nỗ lực chỉnh lý và xác minh. Nó chỉnh lý những gì hai mươi bốn lời nguyện đã đặt nền tảng và phát triển, sau khi đã trải qua một thời gian thử thách. Sự kiện này bày tỏ khá rõ nét khi xét lời nguyện thứ mười chín trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [43], thuộc Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, bản dịch Chi Lâu Ca Sấm chẳng hạn: Nhân dân các quốc độ Phật đời trước làm ác, khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà mà hối cải muốn sinh về thế giới Cực lạc, thì phải phát nguyện… Nguyện này trong truyền thống bốn mươi tám lời nguyện của Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh, đã được chỉnh lý lại bằng cách giới hạn những người làm ác vừa nói là không bao gồm: "những chúng sinh tạo nghiệp vô gián và những kẻ phỉ báng chính pháp". Giới hạn ấy chứng tỏ lời nguyện nguyên ủy trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh đã quá rộng rãi, để có thể tạo nên những trở ngại cho vấn đề duy trì đạo lý và truyền bá Phật pháp, nên cần phải đề lên một số ngoại lệ như Vô Lượng thọ kinh, hễ mà nếu phạm vào thì người ta không thể vãng sinh được.
Trong Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh, bản dịch của Khương Tăng Khải không những chỉnh lý, giới hạn ấy còn xác minh đối tượng có thể vãng sinh, xác minh điều kiện và trường hợp để có thể vãng sinh.
Cho nên, những nguyện sau trong Vô Lượng thọ kinh đã qui định rõ hơn nội dung và chi tiết của những gì đã phát biểu trong hai mươi bốn nguyện thuộc Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh. Ví dụ:
Nguyện thứ sáu, trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh: mọi người ở Cực lạc đều có thiên nhãn thông, thì nguyện thứ bốn mươi lăm trong bốn mươi tám lời nguyện của Vô Lượng thọ kinh càng xác minh rõ hơn, nói rằng các Bồ-tát ở khắp mọi nơi khi nghe danh hiệu Phật A-di-đà thì đạt được tam muội phổ đẳng, thấy hết các đức Phật.
Nguyện hai mươi mốt, trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh: nói về các tướng tốt thì được nguyện hai mươi sáu lăm trong bốn mươi tám lời nguyện của Vô Lượng thọ kinh xác minh thêm là có thân hình Na La Diên và nguyện thứ hai mươi bảy về mọi thứ đều đẹp đẽ tuyệt vời ở Cực lạc.
Bốn mươi tám nguyện trong truyền thống Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh, bản dịch của Khương Tăng Khải, như thế, là một biểu thị nổ lực chỉnh lý và xác minh.
Bốn mươi tám nguyện trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3[44], Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch cũng vậy. Nó đã chỉnh lý lại hai mươi bốn lời nguyện rõ ràng bằng cách thay thế cách phát biểu phủ định: “षचेन्मे…न… मा तावदहम्ं Sacenme…na… mā tāvadahaṃ”, bằng cách phát biểu khẳng định: "Nếu tôi được ... thì ...". Thay thế đó không chỉ là một lối thay thế ngôn từ, mà còn bao hàm một nội dung tư tưởng.
Nó nói lên tính tất yếu, tính phải xảy ra của những gì bản nguyện Phật A-di-đà nhắm tới. Nó không còn giả thiết với điều kiện: “षचेन्मे…न… मा तावदहम्ं Sacenme…na… mā tāvadahaṃ” mà đã khẳng định là "Khi tôi đã thành vô thượng chánh giác v.v... thì như thế, như thế xẩy ra".
Quá trình khẳng định tính tất yếu ấy cũng là quá trình khẳng định tín ngưỡng Phật A Di Đà một cách mạnh mẽ và thâm sâu.
Về nội dung, bốn mươi tám lời nguyện trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch cũng có nổ lực chỉnh lý đáng chú ý.
Trước tiên, nguyện thứ mười hai của hai mươi bốn lời nguyện, trong Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh có nói tới những vị A-la-hán là đệ tử Thanh văn của Phật A-di-đà. Nguyện này, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, đã chỉnh lý lại với nguyện thứ ba mươi chín qui định rõ ràng thế giới Cực lạc chỉ bao gồm những vị Bồ-tát không có chúng đệ tử Thanh văn và Duyên giác.
Tư tưởng Tịnh độ không có Thanh văn và Duyên giác này, từ thời của ngài Nāgārjuna नागार्जुन (Long Thọ) trở đi đã trở nên rất phổ biến, điển hình là ở trong Đại Tạng Kinh 25, số hiệu 1509, Đại Trí Độ Luận 13[45], đã ghi nhận lại.
Vì chỉnh lý nguyện thứ mười hai ấy, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, đã có thêm nguyện thứ thứ mười một nói rõ những chúng sinh ở thế giới Cực lạc đều là những vị không còn thối lui, mà bản Sanskrit gọi là आव्ऐवर्तिक Avaivartika (A-bệ-bạt-trí).
Như thế, Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, trong khi chỉnh lý hai mươi bốn lời nguyện đã đồng thời xác minh. Qua nổ lực chỉnh lý đó, Kinh Bi Hoa để lộ cho thấy, quan hệ giữa kinh ấy và Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh) cùng Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [46], như đã trình bày ở trên. Ví dụ:
Nguyện thứ hai bốn, của Bốn mươi tám nguyện trong phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, về việc các vị Bồ-tát tại thế giới Cực lạc cũng phát ra ánh sáng chỉ tìm thấy tương đương trong nguyện thứ hai mươi ba của Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh) và nguyện thứ hai mươi hai của Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.
Nguyện thứ mười hai, mười ba và hai mươi tám của Bốn mươi tám nguyện trong phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3, cũng thế. Chúng có những tương đương trong Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh), tuy không được chuyển lại cho Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh.
Do vậy, nếu muốn nói cách khác rõ ràng hơn, thì phẩm Đại Thí, Kinh Bi Hoa 3 đã chỉnh lý và xác minh hai mươi bốn lời nguyện của Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (Đại A-Di-Đà kinh), rồi một phần nào chuyển giao lại cho Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, để tạo nên truyền thống thỏa hiệp ba mươi sáu lời nguyện.
Đặc trưng tư tưởng bản nguyện là ý muốn kiến thiết một thế giới lý tưởng, thế giới ấy hoàn toàn thanh tịnh, vô nhiễm, không có cáu bẩn; và Bản đồ cũng như phương án để thực hiện ước vọng đó như Kinh Duy-ma-cật đã thi thiết phương thức để kiến lập Tịnh độ: “yādṛśī bodhisattvasya cittapariśuddhiḥ, tādṛśī buddha-kṣetrapariśuddhiḥ sambhavati”: Nếu Bồ-tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Những lời thệ nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của KinhDuy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
Bản nguyện của Bồ-tát được phát khởi từ tâm Đại Bi và tâm Bồ-đề. Phát khởi Bồ đề tâm để tu tập, thực hành Bồ-tát đạo là tinh yếu của giáo lý Đại Thừa và chính là chủng tử của Nhất Thừa Đạo. Nên, ở kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Di Lặc đã nói về hiệu năng của Bồ đề tâm trong sự tu tập, hành Bồ-tát đạo cho Thiện Tài đồng tử như sau:
“Bồ đề tâm ví như chủng tử, vì nó có khả năng sinh khởi hết thảy pháp giác ngộ; Bồ đề tâm ví như ruộng tốt, vì nó có khả năng nuôi dưỡng các pháp thanh tịnh; Bồ đề tâm ví như quả đất lớn, vì nó có khả năng gìn giữ thế gian; Bồ đề tâm ví như dòng nước sạch, vì nó có khả năng tẩy trừ hết thảy cấu uế phiền não; Bồ đề tâm ví như gió lớn, vì nó thổi khắp thế gian không bị đối ngại; Bồ đề tâm ví như lửa lớn, vì nó có khả năng thiêu rụi hết thảy rừng củi tà kiến; Bồ đề tâm ví như mặt trời thanh tịnh, vì nó soi chiếu khắp cả thế gian; Bồ đề tâm ví như trăng rằm, vì các pháp thanh tịnh đều viên mãn; Bồ đề tâm ví như ngọn đèn sáng, vì có khả năng phóng ra các loại ánh sáng chánh pháp; Bồ đề tâm ví như mắt sáng, vì thấy hết thảy cùng khắp mọi chốn an nguy; Bồ đề tâm ví như con đường lớn, vì khiến tất cả đều được đi vào kinh thành đại trí,…” [47]
Và cũng ở trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Pháp Tuệ đã nói với Đế Thích về sự phát khởi bồ đề tâm như sau:
“Vì muốn biết ngay thế giới vi tế chính là thế giới rộng lớn, thế giới rộng lớn chính là thế giới vi tế; biết ngay thiểu thế giới chính là đa thế giới, biết đa thế giới chính là thiểu thế giới; biết ngay thế giới rộng chính là thế giới hẹp, biết thế giới hẹp chính là thế giới rộng; biết ngay một thế giới chính là vô lượng, vô biên thế giới, biết vô lượng, vô biên thế giới chính là một thế giới; biết ngay vô lượng, vô biên thế giới ở vào trong một thế giới, biết một thế giới ở vào trong vô lượng, vô biên thế giới; biết ngay nơi thế giới ô nhiễm chính là thế giới thanh tịnh, biết ngay nơi thế giới thanh tịnh chính là thế giới ô nhiễm; ở trong một lỗ chân lông biết rõ ràng hết thảy thế giới, ở trong hết thảy thế giới biết rõ ràng bản tính của một lỗ chân lông; biết rõ từ nơi một thế giới xuất sinh hết thảy thế giới, biết rõ hết thảy thế giới đều như hư không; vì muốn ngay ở nơi một niệm biết hết thảy thế giới, biết rõ hết thảy thế giới không còn có sót bất cứ một thế giới nào, nên phát tâm Vô thuợng bồ đề”[48].
Như vậy, phát bồ đề tâm là do sự nhu cầu hiểu biết toàn diện, hay là sự hiểu biết viên mãn, nói cách khác, phát bồ đề tâm là muốn thành tựu tuệ giác tuyệt đối của phật. Do đó, phát bồ đề tâm là nhân tố chủ yếu để tựu thành Bản Nguyện, là động cơ đầu tiên sinh ra chư Phật ba đời và đem lại các niềm vui thượng diệu cho hết thảy chúng sanh, nên kinh nói:
“Nhân sơ bồ đề tâm
Xuất sinh tam thế phật;
Nhất thiết chư chúng sanh
Chủng chủng thượng diệu lạc”.
Không những vậy mà bồ đề tâm còn là động cơ đầu tiên làm cho các quốc độ Phật nghiêm tịnh, khiến cho cùng khắp hết thảy chúng sanh đầy đủ trí vi diệu, như kinh nói:
“Nhân sơ bồ đề tâm
Nghiêm tịnh chư Phật quốc;
Phổ linh nhất thiết chúng
Cụ túc vi diệu trí”[49].
Trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật đã hội đủ những nhân tố khách quan cho việc đề xuất một số ý niệm để làm tiền đề cho việc xây dựng những chương trình và phương án ấy sau này.
Nếu để riêng ra một bên mầm móng tư tưởng bản nguyện trong văn học Bản sinh; Thì những văn hệ chính của tư tưởng Phật giáo đều có đưa ra quan niệm bản nguyện của mình, dựa trên những ý niệm bản nguyện tiềm tàng trong văn hệ A-hàm và kinh Nikaya...
Nhưng nổi bật nhất và thường kể đến nhất là tư tưởng bản nguyện Phật A-di-đà ghi trong các kinh đã dẫn ở trước, tư tưởng bản nguyện A-súc-bệ Phật, diễn tả trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0313, A Súc Phật Quốc Kinh, 2 quyển, Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch v.v.. và tư tưởng bản nguyện Phật Dược Sư được ghi trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0449, Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh, 1 quyển, Tùy Đạt Ma Cấp Đa dịch; số hiệu 0450, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Trang dịch; số hiệu 0451, Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh, 2 quyển, Đường Nghĩa Tịnh dịch.
Tư tưởng bản nguyện Phật Dược Sư ghi trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Trang dịch và các bản dịch tương đương, thật ra là tư tưởng Phật A-súc, trình bày trong các Kinh điển được chỉnh lý tích hợp lại.
Cho nên, còn lại tư tưởng bản nguyện Phật A-di-đà được ghi lại trong nhiều kinh điển Đại thừa, và tư tưởng bản nguyện Phật A-súc được ghi lại trong một số kinh như: Đại Tạng Kinh, số hiệu 0313, A Súc Phật Quốc Kinh, 2 quyển, Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch; Nguyên điển Sanskrit Nguyên điển Sanskrit आर्यविमलकीर्तिनिर्देशो नाम महायानसूत्रम् Āryavimalakīrtinirdeśo nāma mahāyānasūtram (Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh); Đại Tạng Kinh, số hiệu 0474, Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh, 2 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch; Đại Tạng Kinh, số hiệu 0475, Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, 3 quyển, Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch v.v..
Mà tư tưởng bản nguyện Phật A-súc, trong quá trình phát triển đã bị tư tưởng bản nguyện Phật A Di Đà đẩy lùi vào hậu trường lịch sử. Nguyên do về sự đẩy lùi này, một số những người nghiên cứu như Kimura Taiken đã truy về tính chất quá hiện thực của tư tưởng bản nguyện Phật A-súc, và tính chất lý tưởng của tư tưởng bản nguyện Phật A-di-đà.
Nhưng cũng cần phải nói rõ rằng, tư tưởng Phật A-súc bị đẩy lùi vào hậu trường, chính vì nó là một thứ tư tưởng chống “tôn quân”, một thứ tư tưởng mong rằng "trong nước không có danh hiệu vua, mà vua được gọi là pháp vương". Ngược lại, tư tưởng bản nguyện Phật A-di-đà từ bản thân tuy cũng mặc nhiên thừa nhận khái niệm pháp vương, nhưng không công khai bài xích tư tưởng tôn quân.
Hơn thế nữa, nó còn trình bày hình ảnh đức Phật A-di-đà thường thường trong tư thế một vị vua hay một vị vương tử.
Trong số 19 cốt truyện Bản sinh về Phật A-di-đà hiện còn lưu tồn, thì sáu cốt truyện trình bày đức Phật này như một vị vua đó là:
- Nguyên điển và dịch Vô Lượng Thọ Kinh:
Sanskrit: आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, thường được gọi là सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][50].
Tây Tạng: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo
Hán: ĐTK. Số hiệu 0360, Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, 2 quyển, Tào Ngụy Khương Tăng Khải dịch
- ĐTK. Số hiệu 0632, Phật Thuyết Tuệ Ấn Tam Muội Kinh, 1 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch.
-Nguyên điển và dịch Kinh Bi Hoa:
Sanskrit: करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka sūtra, phẩm दान-विसर्गस् तृतीयः III dāna-visargas tṛtīyaḥ, và phẩm बोधिसत्त्व-व्याकरण-परिवर्तश्चतुर्थः bodhisattva-vyākaraṇa-parivartaścaturthaḥ[51].
Bản 1. Tây Tạng: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[52].
Bản 2. Tây Tạng: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, số hiệu 112[53]
ĐTK. Số hiệu 0157, Bi Hoa Kinh, 10 quyển, Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.
- ĐTK. Số hiệu 0425, Hiền Kiếp Kinh 8, 8 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
- ĐTK. Số hiệu 0811, Phật Thuyết Quyết Định Tổng Trì Kinh, 1 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
- ĐTK. Số hiệu 0424, Đại Tập Hội Chánh Pháp Kinh, 5 quyển, Tống Thí Hộ dịch.
Còn sáu cốt truyện trình bày như một vị vương tử, đó là:
- ĐTK. Số hiệu 1011, Phật Thuyết Vô Lượng Môn Vi Mật Trì Kinh, 1 quyển, Ngô Chi Khiêm dịch,
- ĐTK. Số hiệu 0425, Hiền Kiếp Kinh 1, 8 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch
- ĐTK. Số hiệu 0170, Đức Quang Thái Tử Kinh, 1 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
-Nguyên điển Sanskrit và các bản dịch Pháp Hoa Kinh:
Sanskrit: सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् Saddharmapuṇḍarīkasūtra, trong पूर्वयोगपरिवर्तः Pūrvayogaparivartaḥ (phẩm vãng cổ)[54].
Tây Tạng: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo, thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh, số hiệu 111[55].
Hán: ĐTK. Số hiệu 0262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, Cưu Ma La Thập dịch.
Số hiệu 0263, Chánh Pháp Hoa Kinh, 10 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
Số hiệu 0264, Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, Tùy Xà Na Quật Đa cộng Cấp Đa dịch.
-ĐTK. Số hiệu 0370, A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh, 1 quyển, mất tên người dịch.
-ĐTK. Số hiệu 0649, Quán Sát Chư Pháp Hành Kinh, 4 quyển, Tùy Xà Na Quật Đa dịch.
Bảy cốt truyện còn lại thì trình bày như một vị xuất gia nhưng không cho biết rõ lai lịch, đó là:
- ĐTK. Số hiệu 0365, Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, 1 quyển, Lưu Tống Lương Da Xá dịch.
- ĐTK. Số hiệu 0154, Sinh Kinh, 5 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
-ĐTK. Số hiệu 0425, Hiền Kiếp Kinh 1, 8 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch
- ĐTK. Số hiệu 0274, Phật Thuyết Tế Chư Phương Đẳng Học Kinh, 1 quyển, Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch.
- ĐTK. Số hiệu 1340, Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh, 20 quyển, Tùy Xà Na Quật Đa dịch.
- ĐTK. Số hiệu 0643, Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, 10 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch.
-ĐTK. Số hiệu 1635, Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa Luận, 10 quyển, Tống Pháp Hộ đẳng dịch, dẫn: Giác Trí Phương Đẳng kinh, nguyên bản hiện chưa tìm thấy.
Thế thì rõ ràng hình ảnh đức Phật A-di-đà đã kết liên mạnh mẽ với hình ảnh vua chúa, trong các cốt truyện đã liệt kê ở trên, đây là một sự kiện trái ngược với hình ảnh đức Thích Tôn như đã diễn tả trong văn học Bản sinh, mà nguyên bản Sanskrit của nó là ञातकमाला Jātakamālā[56], hiện có 34 phẩm, từ phẩm 1 व्याघ्री-जातकम् āryaśūraviracitā đến phẩm शतपत्र-जातकम् śatapatra-jātakam v.v.. Trong loại hình văn học ấy, đức Thích Tôn xuất hiện qua thân phận của những con vật của những người cùng khổ cho đến vương giả giàu sang, thậmchí qua thân phận của những con quỉ.
Những cốt truyện các kinh dẫn trên, trái lại, không những chỉ đức Phật A Di Đàxuất hiện dưới hình ảnh con người, mà còn dưới hình ảnh của những thành phần xã hội cao quí đặc thù như vua chúa hay nhà tu hành.
Cách trình bày này cho phép tín ngưỡng Phật A-di-đà phát triển, vì nó phù hợp với tình hình và điều kiện chính trị xã hội khách quan của lịch sử, khi chế độ phong kiến phương đông đang tiếp tục duy trì và bảo vệ mạng sống của nó.
Đây cũng chính là lý do đã gây nên sự lui vào hậu trường của tín ngưỡng Phật A-súc, với tư tưởng chống vua hoàn toàn đi ngược lại xu thế củng cố và tập trung quyền hành thời đại phong kiến đang đi lên.
Và cũng vì trình bày đức Phật A-di-đà qua truyền thuyết, qua hình ảnh của một con người và của một con người thuộc những thành phần xã hội cao quí đặc thù, nên đã khai sinh ra ý niệm tha lực.
Ý niệm này giả thiết sự hiện hữu của một quyền lực có khả năng hiện thực ýmuốn của mình, ban phát ân huệ và cứu rỗi những ai đọa lạc, mà trong tín ngưỡng Phật A-di-đà đã đẩy tới cực điểm đểtrởthành một thứ quyền lực vô biên và toàn thiện thể hiện ở trong bản thân Phật A-di-đà.
Những truyền thống bản nguyện Phật A-di-đà nói trên đã qui định rõ ràng quyền lực ấy, thậm chí đã qui định tới điểm là, chỉcần nghe danh hiệu Phật A-di-đà hay chỉ nhất tâm trì niệm danh hiệu của đức Phật ấy cũng đủ bảo đảm cho người thực hành được rước vềquốc độ Cực lạc.
Nhưng ý niệm thalực này lại đặt cơ sở trên tư tưởng bản nguyện, nghĩa là trên cơ sở nỗ lực của cá nhân. Do vậy, tha lực cóthể nói là một thứ tự lực hiện hành nhằm th ểhiện nguyện vọng ý muốn của một con người, về một mặt.
Về mặt khác, Tự lực chỉ có thể hiện hành được trong những điều kiện và giới hạn nào đó phù hợp với khả năng thi thố của nó.
Cho nên, nếu tha lực chỉ là tự lực hiện hành, thì nó cũng đòi hỏi đối tượng của tha lực phải có những nhân tố gì. Những điều kiện gì để có thể đáp ứng những nhu cầu của tự lực. Nói rõ ra, tha lực và tự lực chỉ là hai mặt của một vấn đề, do thế có thể nói là hai mặt của một thể thống nhất.
Cụ thể hơn, tha lực và tự lực chỉ là biểu hiện của một quá trình tự ý thức, tựgiác ngộcủa mỗi cá nhân. Ta muốn vươn tới thì phải có một cái gì để vươn tới, cái gì đó có khả năng thu hút nỗ lực vươn tới của ta.
Đây chính là nội dung của tư tưởng "Tự tính Di Đà, duy tâm tịnh độ", mà Trần Nhân Tôn trong Cư trần lạc đạo phú đã phát biểu một cách hùng hồn:
淨土羅峼瑇瀝
渚群 疑坙典西方
彌陀羅性瞆芁
罵沛 辱寻衛極樂
Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến tây phương.
Di Đà là tính sáng soi,
mựa phải nhọc tìm Cực lạc[57].
[1] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[2] Đại 12, No. 0360, tr. 0265c03: 佛說無量壽經; 曹魏天竺三藏康僧鎧譯.
[3] Đại 12, No. 0364, 佛說大阿彌陀經.
[4] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 , 後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[5] Đại 11, No. 0310: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之. Skt. अर्य-अमिताभव्युह नम माहायन सूत्र Arya-amitābhavyuha nama māhāyana sūtra; Tib.: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo.
[6] Cf. Mahakarunapundarika Sutra , Yamada, School of Oriental and African Studies, London , 1968 ,p. 1-420.
[7] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版: Mdo (cha)76a-187b; 德格版: Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版: Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版: Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[8] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.112, 50cha, 129a1-297a7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)149a-296b; 奈塘版: Mdo(cha)187b-443; 德格版: Mdo-sde (cha)129a-297a; 拉薩版: Mdo-sde (cha)209b-474a; 卓尼版: Mdo-maṅ (cha)159a-350a.
[9] Cf. Đại 03, No. 0157, tr. 0174b26,ff. : 悲華經卷第二, 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之一.
[10] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[11] Đại 11, No. 0310, tr. 0091c02: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之; Giản danh: Vô Lượng Thọ Như Lai Hội 無量壽如來會; Phẩm này còn được gọi là 聖阿彌陀 名莊嚴大乘經 Thánh A-di-đà Danh Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh.
[12] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[13] Đại 12, No. 0364: 佛說大阿彌陀經, 國學進士龍舒王日休校輯.
[14] Đại 12, No. 0360, tr. 0265c03: 佛說無量壽經; 曹魏天竺三藏康僧鎧譯
[15] Đại 11, No. 0310, tr. 0091c02: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之; Giản danh: Vô Lượng Thọ Như Lai Hội 無量壽如來會; Phẩm này còn được gọi là 聖阿彌陀 名莊嚴大乘經 Thánh A-di-đà Danh Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh.
[16] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[17] Đại 12, No. 0362: 佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經 ,吳月支國居士支謙譯.
[18] Đại 12, No. 0360, tr. 0265c03: 佛說無量壽經; 曹魏天竺三藏康僧鎧譯
[19] Đại 11, No. 0310, tr. 0091c02: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之; Giản danh: Vô Lượng Thọ Như Lai Hội 無量壽如來會; Phẩm này còn được gọi là 聖阿彌陀 名莊嚴大乘經 Thánh A-di-đà Danh Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh.
[20] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[21] Đại 12, No. 0360, tr. 0265c03: 佛說無量壽經; 曹魏天竺三藏康僧鎧譯
[22] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[23] Xem bản dịch việt, chương sau.
[24] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[25] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[26] Cf. きむら たいけんKimura Taiken, 原始仏教思想論 - 特に大乗思想 の淵源に注意して ,丙午出版社, 1922 ; 原始仏教より大 乗仏教, 鷺の宮 書房, 1968; 木村泰賢全集, California, 2009-2010.
[27] Xem Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Kimura Taiken, bản Việt Thích Quảng Độ, Chương V, tiết 1,2, ĐH. Vạn Hạnh, 1969.
[28] Cf. Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā , Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning , Darbhanga , 1960.
[29] T08n0227: 摩訶般若波羅蜜經 , 後秦龜茲國三藏鳩摩羅什譯.
[30] Đại 12, No. 0362: 佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經 ,吳月支國居士支謙譯.
[31] TT.ĐTK. No.9, 26Ka-28Ga, p. 1b1-381a5
[32] Cf. TT.ĐTK, No.3787, 182Ka , p. 14b1-212a7 , Tạo: Rnam- par grol- baḥi sde (Vimmkta- sena) , Tây Tạng dịch sư: Go- mi ḥchi med, Blo- ldan śes- rab. Hiện chưa thấy trong Tạng Peking. Bản Skt. Ārya-pañcaviṁśatisāhasrikāprajñāpārami-topadeśaśāstrābhisamayālaṁkāravṛtti.
[33] Cf. TT.ĐTK, No. 3788, 183Kha , p. 1b1-181a7, tạo giả: Rnam- grol-sde, Tây Tạng dịch sư: Ḥbro śākya ḥod, Ấn độ dịch sư: Śāntibhadra. Skt. Ārya-pañcaviṁśatisāhasrikāprajñāpārami-topadeśaśāstrābhisamayālaṁkārakārikā-vārttika
[34] Đại 11, No. 0310: 大寶積經卷第十七, 大唐三藏菩提流志奉 詔譯, 無量壽如來會第五之. Skt. अर्य-अमिताभव्युह नम माहायन सूत्र Arya-amitābhavyuha nama māhāyana sūtra: bốn mươi sáu nguyện; Tib.: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo: bốn mươi chín nguyện.
[35] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[36] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[37] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[38] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[39] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[40] Cf. Mahakarunapundarika Sutra , Yamada, School of Oriental and African Studies, London , 1968 ,p. 1-420.
[41] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[42] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[43] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[44] Đại 03, No. 0157, tr. 0181b11ff.: 悲華經卷第三 , 北涼天竺三藏曇無讖譯 , 大施品第三之二
[45] Đại 25, No. 1509, tr. 0153b03: 大智度論釋初品中尸羅波羅蜜義第二十一(卷第十三) , 龍樹菩薩造 , 後秦龜茲國三藏鳩摩羅什奉 詔譯.
[46] Đại 12, No. 0361: 佛說無量清淨平等覺經 ;後漢月支國三藏支婁迦讖譯.
[47] Đại 10, Hoa Nghiêm 78, tr.429b (Thật-Xoa-Nan-Đà).
[48] Đại 9, tr. 450c, Hoa Nghiêm 9 (Phật-Đà-Bạt-Đà-La).
[49] Op.cit.p. 458b.
[50] Cf. Buddhist Sanskrit Texts No. 17. Cf. Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ (part 1), Vaidya, P.L, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1961
[51] Cf. Mahakarunapundarika Sutra , Yamada, School of Oriental and African Studies, London , 1968 ,p. 1-420.
[52] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版:Mdo (cha)76a-187b; 德格版:Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版:Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[53] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.112, 50cha, 129a1-297a7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)149a-296b; 奈塘版:Mdo(cha)187b-443; 德格版:Mdo-sde (cha)129a-297a; 拉薩版:Mdo-sde (cha)209b-474a; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)159a-350a.
[54] Op.cit. ७ पूर्वयोगपरिवर्तः 7 Pūrvayogaparivartaḥ| Cf. Kern, H. Saddharma Pundarîka or the Lotus of the True Law, Oxford 1884 (Clarendon Press) Sacred Books of the East, Vol. XXI, New York 1963 (Dover), Delhi 1968; chapter vii. Ancient devotion: “In the west, monks, is the Tathâgata named Amitâyus, &c., and the Tathâgata named Sarvalokadhâtûpadravodvegapratyuttîrna”…
[55] Cf. Tây Tạng Đại Tang Kinh, Kyoto, No.111, 50Cha , p. 56a1-128b7; Cf. Peking: Mdo-sna-tshogs (cu)63a-149a; 奈塘版:Mdo (cha)76a-187b; 德格版:Mdo-sde (cha)56a-128b; 拉薩版:Mdo (cha)86a-209b; 卓尼版:Mdo-maṅ (cha)66a-159a.
[56] Cf. Jatakamala by Aryasura , Aryasura , Vaidya, P. L. Publisher: The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning Place of Publication: Darbhanga Year: 1959.
[57] 居塵樂道賦, 第二會, Trần Nhân Tông, Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977. Cf. Trần Nhân Tông A biographical study , Lê Mạnh Thát , Nxb. Tổng Hợp TP. HCM , 2006 .
(Culasihanadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn,
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
– Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy. Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà chư Tôn giả tuyên bố: “Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn”. Này các Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau: “Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên chúng tôi nói: “Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất, ở đây là có Sa-môn thứ hai; Sa-môn thứ ba; Sa-môn thứ tư”. Thế nào là bốn? Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin bậc Đạo sư, có lòng tin Pháp, có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng tôi thương, chúng tôi mến. Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên chúng tôi nói: “Chỉ ở đây là Sa-môn... Sa-môn thứ tư”. Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Đạo sư, vị ấy là Đạo sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp của chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các Giới luật, những Giới luật ấy là Giới luật của chúng tôi. Và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến. Chư Hiền, như vậy có sự sai biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?”. Chư Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau: “Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu cánh không phải đa diện” - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người không tham?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:- “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người có tham” - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người không sân?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người có sân” - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không si? Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si” - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái?” Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có ái” - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?” Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ”. - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người không có trí?” Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: “Cứu cánh ấy cho người có trí, không phải cho người không có trí”. - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch ứng?” Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng, nghịch ứng”. - “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa hý luận, thích hý luận”.
Chư Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến này: hữu kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích hý luận; những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của chúng; những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, thích hý luận; những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ; nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, trong Pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Đạo sư, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Và Như Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, trong một Pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Đạo sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Chư Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên... lấy sáu nhập làm nhân. Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên... lấy danh sắc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên... lấy thức làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức này lấy hành làm duyên... lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm duyên... lấy vô minh làm nhân. Và Chư Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn; vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
TIỂU KINH SƯ TỬ HỐNG, THỨ MƯỜI MỘT HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________
>>> 10.Kinh niệm xứ
Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, không đạt được cái trí thấy tâm người khác, tối thiểu là biết được trong tâm niệm của các chúng sanh từ trăm ngàn vạn triệu quốc độ Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
Dịch nguyên văn Sanskrit từ
Sukhāvatīvyūhaḥ [Vistaramātṛkā]
१. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे निरयो वा तिर्यग्योनिर्वा प्रेतविषयो वा आसुरो वा कायो भवेत्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
1. Sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre nirayo vā tiryagyonirvā pretaviṣayo vā āsuro vā kāyo bhavet, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[1] ||
Bạch Thế Tôn, nếu ở nơi quốc độ Phật ấy của con có địa ngục[2], súc sanh[3], ngạ quỷ[4] và thân A-tu-la[5]; thì con nguyện không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[6].
२. सचेन्मे भगवंस्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते पुनस्ततश्च्युत्वा निरयं वा तिर्यग्योनिं वा प्रेतविषयं वा आसुरं वा कायं प्रपतेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
2. Sacenme bhagavaṃstasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥpratyājātā bhaveyuḥ, te punastataścyutvā nirayaṃ vā tiryagyoniṃ vā pretaviṣayaṃ vā āsuraṃ vā kāyaṃprapateyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[7] ||
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh đã sinh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con[8], sau khi mạng chung[9] mà còn rơi lại ở trong địa ngục[10], ngạ quỷ, súc sanh và a tu la, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३. सचेन्मे भगवंस्तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजातास्ते च सर्वे नैकवर्णाः स्युर्यदिदं सुवर्णवर्णाः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
3. sacenme bhagavaṃstatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāste ca sarve naikavarṇāḥ syuryadidaṃsuvarṇavarṇāḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyak saṃbodhi mabhisaṃbudhyeyam ||[11]
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh đã được sinh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con, hết thảy thân thể đều đồng một màu sắc kim loại chân thực[12], nếu không được như vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे देवानां च मनुष्याणां च नानात्वं प्रज्ञायेत अन्यत्र नाम संवृतिव्यवहारमात्रा देवमनुष्या इति संख्यागणनातः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
4. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre devānāṃ ca manuṣyāṇāṃ ca nānātvaṃ prajñāyeta anyatra nāma saṃvṛtivyavahāramātrā devamanuṣyā iti saṃkhyāgaṇanātaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||[13]
Bạch Thế Tôn, nếu trong quốc độ Phật ấy của con, chư thiên và nhân loại cùng đi tới với nhau[14], mà tuệ giác[15], danh hiệu, cách hành động[16] và sự suy lường khác biệt[17]; hoặc giữa chư thiên và nhân loại có suy niệm cá biệt[18], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
५. सचेन्मे भगवंतस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाताः, ते च सर्वे न ऋद्धिवशितापरमपारमिताप्राप्ता भवेयुः, अन्तश एकचित्तक्षणलवेन बुद्धक्षेत्रकोटीनियुतशतसहस्रातिक्रमणतयापि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
5. sacenme bhagavaṃtasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāḥ, te ca sarve naṛddhivaśitāparamapāramitāprāptā bhaveyuḥ, antaśa ekacittakṣaṇalavena buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrātikramaṇatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||[19]
Bạch Thế Tôn, nếu trong quốc độ Phật ấy của con, những chúng sanh nào đã sinh đến, mà ở nơi hết thảy họ không có năng lực tối thượng thần thông Ba-la-mật[20], cho đến chỉ với một tâm niệm sát-na[21], mà không vượt quá trăm ngàn ức triệu[22] quốc độ Phật, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
६. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते च सर्वे जातिस्मरा न स्युः, अन्तशः कल्पकोटीनियुतशतसहस्रानुस्मरणतयापि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
6. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te ca sarve jātismarā na syuḥ, antaśaḥ kalpakoṭīniyutaśatasahasrānusmaraṇatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[23] ||
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh nào đã sinh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con, mà hết thảy họ không nhớ biết được túc mạng[24] của ít nhất là trăm ngàn ức triệu kiếp, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
७. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजायेरन्, ते सर्वे न दिव्यस्य चक्षुषो लाभिनो भवेयुः, अन्तशो लोकधातुकोटीनियुतशतसहस्रदर्शनतयापि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
7. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na divyasya cakṣuṣo lābhino bhaveyuḥ, antaśo lokadhātukoṭīniyutaśatasahasradarśanatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[25] ||
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh nào đã sinh đến trong quốc độ Phật ấy của con, mà hết thảy họ chứng đạt con mắt của chư thiên[26], thấy ít nhất được trăm ngàn ức triệu thế giới, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
८. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजायेरन्, ते सर्वे न दिव्यस्य श्रोत्रस्य लाभिनो भवेयुः, अन्तशो बुद्धक्षेत्रकोटीनियुतशतसहस्रादपि युगपत्सद्धर्मश्रवणतया, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
8. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na divyasya śrotrasya lābhino bhaveyuḥ, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrādapi yugapatsaddharmaśravaṇatayā, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[27] ||
Bạch Thế Tôn, nếu ở trong quốc độ Phật ấy của con, những chúng sanh nào đã sinh đến mà hết thảy họ không có chứng đắc thiên nhĩ[28], nghe, lãnh thọ và hành trì chánh pháp[29] ít nhất từ trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
९. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजायेरन्, ते सर्वे न परचित्तज्ञानकोविदा भवेयुः, अन्तशो बुद्धक्षेत्रकोटीनियुतशतसहस्रपर्यापन्नानामपि सत्त्वानां चित्तचरितपरिज्ञानतया, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
9. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na paracittajñānakovidā bhaveyuḥ, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasraparyāpannānāmapi sattvānāṃ cittacaritaparijñānatayā, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[30] ||
Bạch Thế Tôn, những chúng sanh nào đã sinh đến quốc độ Phật ấy của con, mà hết thảy họ không có được cái trí thấy tâm của người khác[31], cho đến ít nhất là trí biết tâm hành[32] của những chúng sanh ở nơi trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१०. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजायेरन्, तेषां काचित्परिग्रहसंज्ञोत्पद्येत, अन्तशः स्वशरीरेऽपि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
10. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, teṣāṃkācitparigrahasaṃjñotpadyeta, antaśaḥ svaśarīre'pi, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[33] ||
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh nào đã sanh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con, mà họ còn hiện khởi bất cứ ấn tượng vi tế nào tham chấp tự thân[34], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
११. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजायेरन्, ते सर्वे न नियताः स्युर्यादिदं सम्यक्त्वे यावन्महापरिनिर्वाणे, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
11. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na niyatāḥsyuryādidaṃ samyaktve yāvanmahāparinirvāṇe, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[35] ||
Bạch Thế Tôn, nếu những chúng sanh nào đã sanh đến ở trong quốc độ Phật ấy của con, mà hết thảy họ không có được sự an trú vững chắc ở nơi bản tánh chân thực[36], cho đến khi thể nhập Đại-bát Niết-bàn[37], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१२. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे अनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुद्धस्य कश्चित्सत्त्वः श्रावकाणां गणनामधिगच्छेत्, अन्तशस्त्रिसाहस्रमहासाहस्रपर्यापन्ना अपि सर्वसत्त्वाः प्रत्येकबुद्धभूताः कल्पकोटीनियुतशतसहस्रमभिगणयन्तः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
12. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya kaścitsattvaḥ śrāvakāṇāṃ gaṇanāmadhigacchet, antaśastrisāhasramahāsāhasraparyāpannā api sarvasattvāḥ pratyekabuddhabhūtāḥ kalpakoṭīniyutaśatasahasramabhigaṇayantaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[38] ||
Bạch Thế Tôn, ở trong quốc độ Phật ấy của con, sau khi con thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nếu có chúng sanh nào, gồm cả chúng sanh ở trong một tỷ thế giới đều đã chứng đắc địa vị Duyên giác[39], mà có thể tính biết được số lượng Thanh văn[40] ở nơi quốc độ Phật của con, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१३. सचेन्मे भगवंस्तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे अनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुद्धस्य प्रमाणिकी मे प्रभा भवेत्, अन्तशो बुद्धक्षेत्रकोटीनियुतशतसहस्रप्रमाणेनापि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
13. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya pramāṇikī me prabhā bhavet, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrapramāṇenāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[41] ||
Bạch Thế Tôn, sau khi con thành bậc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nếu ánh sáng[42] của con ở nơi quốc độ Phật ấy có hạn lượng với số lượng khoảng chừng trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१४. सचेन्मे भगवन्ननुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुद्धस्य तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे सत्त्वानां प्रमाणीकृतमायुष्प्रमाणं भवेत्, अन्यत्र प्रणिधानवशेन, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
14. sacenme bhagavannanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya tasmin buddhakṣetre sattvānāṃ pramāṇīkṛtamāyuṣpramāṇaṃ bhavet, anyatra praṇidhānavaśena, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[43] ||
Bạch Thế Tôn, sau khi con thành bậc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, thọ mạng của những chúng sanh nơi quốc độ Phật ấy của con, nếu có biên tế giới hạn[44], ngoại trừ do vì năng lực bản nguyện[45], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१५. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्यायुष्प्रमाणं पर्यन्तीकृतं भवेत्, अन्तशः कल्पकोटीनियुतशतसहस्रगणयापि, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
15. sacenme bhagavan bodhiprāptasyāyuṣpramāṇaṃ paryantīkṛtaṃ bhavet, antaśaḥkalpakoṭīniyutaśatasahasragaṇayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[46] ||
Bạch Thế Tôn, sau khi con thành tựu Bồ-đề[47], nếu thọ mạng của con có hạn lượng khoảng chừng trăm ngàn ức triệu kiếp, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१६. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तस्मिन् बुद्धक्षेत्रे सत्त्वानामकुशलस्य नामधेयमपि भवेत्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
16. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tasmin buddhakṣetre sattvānāmakuśalasya nāmadheyamapi bhavet, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[48] ||
Bạch Thế Tôn, sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu có tên gọi của những chúng sanh bất thiện[49] nơi quốc độ Phật ấy của con, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१७. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य नाप्रमयेषु बुद्धक्षेत्रेषु अप्रमेयासंख्येया बुद्धा भगवन्तो नामधेयं परिकीर्तयेयुः, न वर्णं भाषेरन्, न प्रशंसामभ्युदीरयेरन्, न समुदीरयेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
17. sacenme bhagavan bodhiprāptasya nāpramayeṣu buddhakṣetreṣu aprameyāsaṃkhyeyā buddhā bhagavanto nāmadheyaṃ parikīrtayeyuḥ, na varṇaṃ bhāṣeran, na praśaṃsāmabhyudīrayeran, na samudīrayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[50] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, vô lượng, vô số chư Phật Thế Tôn, ở nơi vô lượng quốc độ Phật, không tán thán[51], không diễn thuyết[52], không cùng nhau tuyên dương[53], không cùng một lúc phô bày[54], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१८. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य ये सत्त्वा अन्येषु लोकधातुष्वनुत्तरायां सम्यक्संबोधौ चित्तमुत्पाद्य मम नामधेयं श्रुत्वा प्रसन्नचित्ता मामनुस्मरेयुः, तेषां चेदहं मरणकालसमये प्रत्युपस्थिते भिक्षुसंघपरिवृतः पुरस्कृतो न पुरतस्तिष्ठेयं यदिदं चित्ताविक्षेपतायै, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
18. sacenme bhagavan bodhiprāptasya ye sattvā anyeṣu lokadhātuṣvanuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau cittamutpādya mama nāmadheyaṃ śrutvā prasannacittā māmanusmareyuḥ, teṣāṃ cedahaṃmaraṇakālasamaye pratyupasthite bhikṣusaṃghaparivṛtaḥ puraskṛto na puratastiṣṭheyaṃ yadidaṃcittāvikṣepatāyai, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[55] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những loại chúng sanh ở nơi những thế giới khác, phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nghe danh hiệu[56] của con, tâm kính tín thanh tịnh[57], hành trì danh hiệu ấy[58], những chúng sanh đó trong lúc lâm chung[59], nếu họ nhớ nghĩ đến con mà chúng hội Tỷ-kheo[60] không tiếp cận[61], đứng trước mặt họ[62], vây quanh cung kính tiếp độ dẫn dắt[63] tâm sáng suốt của họ[64], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
१९. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य अप्रमेयासंख्येयेषु बुद्धक्षेत्रेषु ये सत्त्वा मम नामधेयं श्रुत्वा तत्र बुद्धक्षेत्रे चित्तं प्रेरयेयुः, उपपत्तये कुशलमूलानि च परिणामयेयुः, ते तत्र बुद्धक्षेत्रे नोपपद्येरन्, अन्तशो दशभिश्चित्तोत्पादपरिवर्तैः स्थापयित्वा आनन्तर्यकारिणः सद्धर्मप्रतिक्षेपावरणकृतांश्च सत्त्वान्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
19. sacenme bhagavan bodhiprāptasya aprameyāsaṃkhyeyeṣu buddhakṣetreṣu ye sattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā tatra buddhakṣetre cittaṃ prerayeyuḥ, upapattaye kuśalamūlāni ca pariṇāmayeyuḥ, te tatra buddhakṣetre nopapadyeran, antaśo daśabhiścittotpādaparivartaiḥsthāpayitvā ānantaryakāriṇaḥ saddharmapratikṣepāvaraṇakṛtāṃśca sattvān, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[65] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những chúng sanh ở nơi vô lượng, vô số[66] quốc độ Phật, nghe danh hiệu của con, nếu những chúng sanh nơi các quốc độ Phật ấy phát khởi thiện căn[67], tín tâm thanh tịnh, hồi hướng[68], muốn sanh đến quốc độ Phật ấy của con, niệm chừng khoảng mười niệm[69] liền được sinh về, ngoại trừ[70] những chúng sanh phạm tội ngũ nghịch[71] và tội phỉ báng chánh pháp[72]. Nếu không phải vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२०. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते सर्वे नैकजातिप्रतिबद्धाः स्युरनुत्तरायां सम्यक्संबोधौ स्थापयित्वा प्रणिधानविशेषान्, तेषामेव बोधिसत्त्वानां महासत्त्वानां महासंनाहसंनद्धानां सर्वलोकार्थसंबुद्धानां सर्वलोकाभियुक्तानां सर्वलोकपरिनिर्वाणाभियुक्तानां सर्वलोकधातुषु बोधिसत्त्वचर्यां चरितुकामानां सर्वबुद्धानां संवर्तुकामानां
20. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve naikajātipratibaddhāḥ syuranuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau sthāpayitvā praṇidhānaviśeṣān, teṣāmeva bodhisattvānāṃ mahāsattvānāṃ mahāsaṃnāhasaṃnaddhānāṃsarvalokārthasaṃbuddhānāṃ sarvalokābhiyuktānāṃ sarvalokaparinirvāṇābhiyuktānāṃsarvalokadhātuṣu bodhisattvacaryāṃ caritukāmānāṃ sarvabuddhānāṃ saṃvartukāmānāṃgaṅgānadīvālukāsamān sattvān anuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau pratiṣṭhāpakānāṃ bhūyaśca uttaracaryābhimukhānāṃ samantabhadracaryāniryātānām, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[73] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu những chúng sanh ở nơi các quốc độ Phật khác, chỉ còn một đời nữa[74] là thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, mà nguyện sanh về quốc độ Phật của con. Ngoại trừ bản nguyện[75] của những Bồ-Tát Đại Sĩ trang phục bằng khối giáp nhẫn kiên cố[76], vì lợi ích giác ngộ cho hết thảy thế gian[77]; vì sự tinh cần của hết thảy thế gian[78]; vì cần hành đưa hết thế gian đến chỗ tịch tĩnh[79]; vì nguyện lực của Bồ-tát du hành hết thảy thế giới[80]; vì thệ nguyện phụng sự hết thảy chư Phật; vì muốn an trú[81] hằng hà sa số chúng sanh ở nơi địa vị giác ngộ tối thượng, đi đến hành nguyện giải thoát thù thắng[82]; và thực hành đức hạnh của Phổ Hiền cùng khắp ngay trong hiện tiền[83]. Nếu không phải vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२१. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये बोधिसत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते सर्वे एकपुरोभक्तेन अन्यानि बुद्धक्षेत्राणि गत्वा बहूनि बुद्धशतानि बहूनि बुद्धसहस्राणि बहूनि बुद्धशतसहस्राणि बह्वीर्बुद्धकोटीर्यावद्बहूनि बुद्धकोटीनियुतशतसहस्राणि नोपतिष्ठेरन् सर्वसुखोपधानैः तदिदं बुद्धानुभावेन, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
21. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve ekapurobhaktena anyāni buddhakṣetrāṇi gatvā bahūni buddhaśatāni bahūni buddhasahasrāṇi bahūni buddhaśatasahasrāṇi bahvīrbuddhakoṭīryāvadbahūni buddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇi nopatiṣṭheran sarvasukhopadhānaiḥ tadidaṃ buddhānubhāvena, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[84] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những Bồ-tát ở các quốc độ Phật khác, nguyện sanh vào quốc độ Phật ấy của con, với chư Phật hộ niệm[85], với hết thảy sự an lạc sinh khởi[86], mà họ đi đến các quốc độ Phật khác, nhiều[87] tới hàng nghìn vị Phật[88], nhiều tới hàng trăm nghìn vị Phật[89]; nhiều tới hàng ức vị Phật[90], cho đến nhiều tới hàng ức triệu trăm nghìn vị Phật[91], với thời gian khoảng chừng một bữa ăn sáng[92], mà không cùng một lúc, hiện tiền thiết lễ cúng dường[93], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२२. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्त तत्र बुद्धक्षेत्रे बोधिसत्त्वा यथारूपैराकारैराकाङ्क्षेयुः कुशलमूलान्यवरोपयितुं यदिदं सुवर्णेन वा रजतेन वा मणिमुक्तावैडूर्यशङ्खशिलाप्रवालस्फटिकमुसारगल्वलोहितमुक्ताश्मगर्भादिभिर्वा अन्यतमान्यतमैः सर्वै रत्नैर्वा सर्वगन्धपुष्पमाल्यविलेपनधूपचूर्णचीवरच्छत्रध्वजपताकाप्रदीपैर्वा सर्वनृत्यगीतवाधैर्वा, तेषां च तथारूपा आहाराः सहचित्तोत्पादान्न प्रादुर्भवेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
22. sacenme bhagavan bodhiprāptasta tatra buddhakṣetre bodhisattvā yathārūpairākārairākāṅkṣeyuḥ kuśalamūlānyavaropayituṃ yadidaṃ suvarṇena vā rajatena vā maṇimuktāvaiḍūryaśaṅkhaśilāpravālasphaṭikamusāragalvalohitamuktāśmagarbhādibhirvā anyatamānyatamaiḥ sarvai ratnairvā sarvagandhapuṣpamālyavilepanadhūpacūrṇacīvaracchatradhvajapatākāpradīpairvāsarvanṛtyagītavādhairvā, teṣāṃ ca tathārūpā āhārāḥ sahacittotpādānna prādurbhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[94] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những hàng Bồ-tát nơi quốc độ Phật ấy của con, khởi suy nghĩ rằng: “Chúng ta làm như thế nào ở trong thế giới này, cầu mong các hình tướng vật dụng hiện ra đúng như hình sắc[95], từ thiện căn vốn đã gieo trồng[96]”. Ý niệm đó vừa khởi, thì tất cả vật dụng quý báu giống như: vàng[97], bạc[98], ngọc trai[99], ngọc lưu ly[100], ngọc mai khôi[101], ngọc thạch[102], san hô[103], pha lê[104], xa cừ[105], xích châu[106], mã não[107] và hết thảy những loại báu vật[108] khác… Hoặc hết thảy vật dụng như hương[109], vòng hoa[110], dầu[111], hương xoa, hương đốt[112], hương viên[113], y phục, bảo cái[114], tràng phan[115], đèn… Hoặc các hình thức âm nhạc giống như múa vũ[116], ngâm vịnh… Chúng Bồ-tát quốc độ ấy vừa khởi niệm cúng dưỡng[117], thì mọi vật dụng như ý đều hiện tiền. Nếu không phải như vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२३. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते सर्व न सर्वज्ञतासहगतां धर्मकथां कथयेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
23. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarva na sarvajñatāsahagatāṃ dharmakathāṃ kathayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[118] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu khi con thành tựu Bồ-đề, những chúng sanh muốn sanh về quốc độ Phật ấy của con, mà khả năng thuyết pháp[119] của hết thảy họ không cùng đạt đến[120] nhất thiết trí tánh[121], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२४. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये बोधिसत्त्वा एवं चित्तमुत्पादयेयुः-यदिहैव वयं लोकधातौ स्थित्वा अप्रमेयासंख्येयेषु बुद्धक्षेत्रेषु बुद्धान् भगवतः सत्कुर्याम् गुरुकुर्याम् मानयेम पूजयेम यदिदं चीवरपिण्डपात्रशयनासनग्लानप्रत्ययभैषज्यपरिष्कारैः पुष्पधूपदीपगन्धमाल्यविलेपनचूर्णचीवरच्छत्रध्वजपताकाभिर्नानाविधनृत्यगीतवाद्यै रत्नवर्षैरिति, तेषां च बुद्धा भगवन्तः सहचित्तोत्पादान्न प्रतिगृह्णीयुर्यदिदमनुकम्पामुपादाय, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
24. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvā evaṃ cittamutpādayeyuḥ-yadihaiva vayaṃ lokadhātau sthitvā aprameyāsaṃkhyeyeṣu buddhakṣetreṣu buddhān bhagavataḥsatkuryām gurukuryām mānayema pūjayema yadidaṃcīvarapiṇḍapātraśayanāsanaglānapratyayabhaiṣajyapariṣkāraiḥpuṣpadhūpadīpagandhamālyavilepanacūrṇacīvaracchatradhvajapatākābhirnānāvidhanṛtyagītavādyai ratnavarṣairiti, teṣāṃ ca buddhā bhagavantaḥ sahacittotpādānna pratigṛhṇīyuryadidamanukampāmupādāya, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[122] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những vị Bồ-tát ở trong quốc độ Phật ấy của con, khởi tâm niệm như vậy: “Chúng ta sống ở nơi thế giới này, mà các loại y phục, bình bát, thức ăn, giường nằm, thuôc men chữa trị các bệnh duyên; các loại như hoa, hương đốt, đèn, hương xông, vòng hoa, dầu, hương bột, vải, lọng, tràng phan, cùng nhiều loại nhạc, vũ, ca ngâm, các loại mưa báu theo tâm niệm mà khởi, được quy kỉnh chân thật[123], tôn kính đạo sư[124], và cúng dường[125] từ bởi chúng con đến chư Phật - Thế Tôn ở nơi vô lượng, vô số quốc độ Phật ấy và chư Phật Thế Tôn ở nơi vô lượng, vô số thế giới ấy cùng lúc khởi tâm thương xót, nạp thọ”. Nếu niệm của họ sinh khởi mà không được như vậy, thì con thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२५. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये बोधिसत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः, ते सर्वे न नारायणवज्रसंहतात्मभावस्थामप्रतिलब्धा भवेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
25. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve na nārāyaṇavajrasaṃhatātmabhāvasthāmapratilabdhā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[126] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những Bồ-tát sanh về quốc độ Phật ấy của con, mà hết thảy họ không chứng được[127] thân thể có sức mạnh kiên cố[128] như thân Kim cang Na la diên[129], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२६. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे यः कश्चित्सत्त्वोऽलंकारस्य वर्णपर्यन्तमुद्गृह्णीयात्-अन्तशो दिव्येनापि चक्षुषा एवंवर्णमेवंविभूति इदं बुद्धक्षेत्रमिति नानावर्णतां जानीयात्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
26. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre yaḥ kaścitsattvo'laṃkārasya varṇaparyantamudgṛhṇīyāt-antaśo divyenāpi cakṣuṣā evaṃvarṇamevaṃvibhūti idaṃbuddhakṣetramiti nānāvarṇatāṃ jānīyāt, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[130] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, bất cứ chúng sanh nào ở trong quốc độ Phật ấy của con, thành tựu được thiên nhãn[131], mà hiểu được[132] phạm vi giới hạn màu sắc[133] của sự trang nghiêm[134], số lượng như vậy[135], hình sắc thù đặc như vậy[136], biết được bản chất của sự trang nghiêm nơi quốc độ Phật này, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२७. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे यः सर्वपरीत्तकुशलमूलो बोधिसत्त्वः सोऽन्तशो योजनशतोत्थितमुदारवर्णं बोधिवृक्षं न संजानीयात्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
27. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre yaḥ sarvaparīttakuśalamūlo bodhisattvaḥso'ntaśo yojanaśatotthitamudāravarṇaṃ bodhivṛkṣaṃ na saṃjānīyāt, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[137] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những Bồ-tát ở nơi quốc độ Phật ấy của con, có thiện căn ít nhất[138], mà không có khả năng nhìn thấy và hiểu biết[139] được cây bồ đề[140] màu sắc thù diệu[141], cao một trăm do tuần[142], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२८. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे कस्यचित्सत्त्वस्योद्देशो वा स्वाध्यायो वा कर्तव्यः स्यात्, न ते सर्वे प्रतिसंवित्प्राप्ता भवेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
28. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre kasyacitsattvasyoddeśo vā svādhyāyo vā kartavyaḥ syāt, na te sarve pratisaṃvitprāptā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[143] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu Bồ-đề, những chúng sanh nào ở nơi quốc độ Phật ấy của con đã được giảng dạy[144] hoàn tất[145], thọ trì đọc tụng[146] kinh pháp, mà không đạt được trí tuệ biện tài vô ngại[147], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
२९. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य नैवं प्रभास्वरं तद्बुद्धक्षेत्रं भवेद्यत्र समन्तादप्रमेयासंख्येयाचिन्त्यातुल्यापरिमाणानि बुद्धक्षेत्राणि संदृश्येरन् तद्यथापि नाम परिमृष्टे आदर्शमण्डले मुखमण्डलम्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
29. sacenme bhagavan bodhiprāptasya naivaṃ prabhāsvaraṃ tadbuddhakṣetraṃ bhavedyatra samantādaprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇāni buddhakṣetrāṇi saṃdṛśyeran tadyathāpi nāma parimṛṣṭe ādarśamaṇḍale mukhamaṇḍalam, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[148] ||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu giác ngộ, ánh sáng thanh tịnh[149] quốc độ Phật ấy của con, không soi chiếu phổ khắp[150] thế giới chư Phật vô lượng, vô số, không thể suy lường như vậy, thí như[151] nơi tấm gương sáng tròn[152] soi hình[153] khuôn mặt tròn trịa[154], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३०. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे धरणीतलमुपादाय यावदन्तरीक्षाद्देवमनुष्यविषयातिक्रान्तस्याभिजातस्य धूपस्य तथागतबोधिसत्त्वपूजाप्रत्यर्हस्य सर्वरत्नमयानि नानासुरभिगन्धघटिकाशतसहस्राणि सदा निधूपितान्यव न स्युः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
30. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre dharaṇītalamupādāya yāvadantarīkṣāddevamanuṣyaviṣayātikrāntasyābhijātasya dhūpasya tathāgatabodhisattvapūjāpratyarhasya sarvaratnamayāni nānāsurabhigandhaghaṭikāśatasahasrāṇi sadā nidhūpitānyava na syuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[155]||
Bạch Thế Tôn! Nếu sau khi con thành tựu giác ngộ, từ mặt đất cho đến hư không ở quốc độ Phật ấy, hết thảy loại báu vật hiệp thành[156], trăm ngàn lư hương tỏa ra các loại hương thơm thù diệu[157], hương thơm thù diệu[158] tỏa ra này, hương của nó luôn luôn xông ướp[159] siêu việt thế giới[160] của trời người[161], hiệp thành[162] lên đến[163] tận mười phương hư không, để cung dưỡng[164] Bồ-tát, và các đức Như Lai. Nếu không phải vậy, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३१. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे न सदाभिप्रवृष्टान्येव सुगन्धिनानारत्नपुष्पवर्षाणि सदा प्रवादिताश्च मनोज्ञस्वरा वाद्यमेघा न स्युः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
31. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre na sadābhipravṛṣṭānyeva sugandhinānāratnapuṣpavarṣāṇi sadā pravāditāśca manojñasvarā vādyameghā na syuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[165] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu trong quốc độ Phật ấy, không thường mưa xuống các loại hoa báu[166], hương thơm thượng hạng mầu nhiệm[167]; không có những đám mây nhạc âm nhạc[168] với những âm thanh ưa thích[169] luôn luôn[170] diễn tấu tán dương[171], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३२. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य ये सत्त्वा अप्रमेयासंख्येयाचिन्यातुल्येषु लोकधातुष्वाभया स्फुटा भवेयुः, ते सर्वे न देवमनुष्यसमतिक्रान्तेन सुखेन समन्वागता भवेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
32. sacenme bhagavan bodhiprāptasya ye sattvā aprameyāsaṃkhyeyācinyātulyeṣu lokadhātuṣvābhayā sphuṭā bhaveyuḥ, te sarve na devamanuṣyasamatikrāntena sukhena samanvāgatā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[172] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu có những chúng sanh ở trong vô lượng, vô số thế giới bất khả tư nghị, xúc chạm đến ánh sáng[173] của con, mà hết thảy họ không thành tựu[174] với an lạc[175], siêu việt trời người, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३३. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य समन्तादप्रमेयाचिन्त्यातुल्यापरिमाणेषु बुद्धक्षेत्रेषु बोधिसत्त्वा महासत्त्वा मम नामधेयं श्रुत्वा तच्छ्रवणसहगतेन कुशलेन जातिव्यतिवृत्ताः सन्तो न धारणीप्रतिलब्धा भवेयुर्यावद्बोधिमण्डपर्यन्तमिति, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
33. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantādaprameyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu bodhisattvā mahāsattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā tacchravaṇasahagatena kuśalena jātivyativṛttāḥsanto na dhāraṇīpratilabdhā bhaveyuryāvadbodhimaṇḍaparyantamiti, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[176] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành bậc giác ngộ, các vị Bồ-tát Đại sĩ từ nơi các quốc độ Phật vô lượng, vô số, bất khả tư nghị, nghe danh hiệu con, mà không thoát ly đời sống sanh tử[177], cùng nhau thành tựu thiện không thoái chuyển[178], đạt được đà-la-ni[179], cho tới khi[180] đến nơi đạo tràng Bồ-đề[181], thì con không thành tựu[182] A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३४. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य समन्तादप्रमेयासंख्येयाचिन्त्यातुल्यापरिमाणेषु बुद्धक्षेत्रेषु याः स्त्रियो मम नामधेयं श्रुत्वा प्रमादं संजनयेयुः, बोधिचित्तं नोत्पादयेयुः, स्त्रीभावं च न विजुगुप्सेरन्, जातिव्यतिवृत्ताः समानाः सचेद्द्वितीयं स्त्रीभावं प्रतिलभेरन्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
34. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantādaprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu yāḥ striyo mama nāmadheyaṃ śrutvā pramādaṃ saṃjanayeyuḥ, bodhicittaṃnotpādayeyuḥ, strībhāvaṃ ca na vijugupseran, jātivyativṛttāḥ samānāḥ saceddvitīyaṃ strībhāvaṃpratilabheran, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[183] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu những người nữ[184] nào trong các quốc độ Phật ở nơi khắp vô lượng, vô số, bất khả tư nghị, khi nghe danh hiệu con, sanh tịnh tín hoan hỷ[185], phát bồ đề tâm, nhàm chán[186] thân nữ[187], ước muốn thoát ly, mà đời sau khi tái sinh[188], vẫn mang thân nữ giống như cũ[189], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३५. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य समन्ताद्दशसु दिक्षु अप्रमेयासंख्येयाचिन्त्यातुल्यापरिमाणेषु बुद्धक्षेत्रेषु ये बोधिसत्त्वा मम नामधेयं श्रुत्वा प्रणिपत्य पञ्चमण्डलनमस्कारेण वन्दिष्यन्ते ते बोधिसत्त्वचर्यां चरन्तो न सदेवकेन लोकेन सत्क्रियेरन्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
35. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantāddaśasu dikṣu aprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu ye bodhisattvā mama nāmadheyaṃśrutvā praṇipatya pañcamaṇḍalanamaskāreṇa vandiṣyante te bodhisattvacaryāṃ caranto na sadevakena lokena satkriyeran, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[190] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các vị Bồ-tát ở các quốc độ Phật vô lượng, vô số, bất khả tư nghị, khắp cả mười phương, khi nghe danh hiệu của con, cúi đầu[191] quy kỉnh[192] với năm vóc sát đất[193], thường tu phạm hành của Bồ-tát[194], mà không được kính tin[195] bởi chư thiên giới[196], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३६. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य कस्यचिद्बोधिसत्त्वस्य चीवरधावनशोषणसीवनरञ्जनकर्म कर्तव्यं भवेत्, न त्वेव नवाभिजातचीवररत्नैः प्रावृतमेवात्मानं संजानीयुः सहचित्तोत्पादात्तथागतानुज्ञातैः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
36. sacenme bhagavan bodhiprāptasya kasyacidbodhisattvasya cīvaradhāvanaśoṣaṇasīvanarañjanakarma kartavyaṃ bhavet, na tveva navābhijātacīvararatnaiḥprāvṛtamevātmānaṃ saṃjānīyuḥ sahacittotpādāttathāgatānujñātaiḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[197] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu y phục của Bồ-tát, ở quốc độ Phật ấy của con[198], còn có sự giặt giũ[199], giăng phơi hong sáy[200], may cắt, nhuộm[201], và các phẩm vật[202] y phục mới đẹp, quý báu[203] không tự nhiên[204] cùng xuất hiện[205] từ sự khởi tâm[206] tán đồng[207] của Như Lai, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३७. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे सहोत्पन्नाः सत्त्वा नैवंविधं सुखं प्रतिलभेरंस्तद्यथापि नाम निष्परिदाहस्यार्हतो भिक्षोस्तृतीयध्यानसमापन्नस्य, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
37. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre sahotpannāḥ sattvā naivaṃvidhaṃsukhaṃ pratilabheraṃstadyathāpi nāma niṣparidāhasyārhato bhikṣostṛtīyadhyānasamāpannasya, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[208] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu những chúng sanh cùng sanh ra[209] ở nơi quốc độ Phật ấy của con, thành tựu an lạc khoảng thời gian, không giống như thời gian[210] vị Tỷ-kheo A-la-hán tâm thoát ly phiền não[211], nhập vào tĩnh lự thứ ba[212], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३८. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये बोधिसत्त्वाः प्रत्याजाताः, ते यथारूपं बुद्धक्षेत्रे गुणालंकारव्यूहमाकाङ्क्षेयुः, तथारूपं नानारत्नवृक्षेभ्यो न संजनयेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
38. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātāḥ, te yathārūpaṃ buddhakṣetre guṇālaṃkāravyūhamākāṅkṣeyuḥ, tathārūpaṃ nānāratnavṛkṣebhyo na saṃjanayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[213] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các vị Bồ-tát đã sinh về trong quốc độ Phật ấy của con, không nhìn thấy cây báu đặc biệt[214] hình sắc như thực[215] ở nơi quốc độ Phật ấy, được trang nghiêm vẻ đẹp bên ngoài[216] bằng các loại công đức sắc tướng như thực, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
३९. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य मम नामधेयं श्रुत्वा अन्यबुद्धक्षेत्रोपपन्ना बोधिसत्त्वा इन्द्रियबलवैकल्यं गच्छेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
39. sacenme bhagavan bodhiprāptasya mama nāmadheyaṃ śrutvā anyabuddhakṣetropapannā bodhisattvā indriyabalavaikalyaṃ gaccheyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[217] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, các vị Bồ-tát đã sanh ra ở các quốc độ Phật khác[218], khi nghe danh hiệu con, mà các căn khiếm khuyết không đầy đủ[219], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४०. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तदन्यबुद्धक्षेत्रस्थाने बोधिसत्त्वा मम नामधेयसहश्रवणान्न सुविभक्तवतीं नाम समाधिं प्रतिलभेरन्, यत्र समाधौ स्थित्वा बोधिसत्त्वा एकक्षणव्यतिहारेण अप्रमेयासंख्येयाचिन्त्यातुल्यापरिमाणान् बुद्धान् भगवतः पश्यन्ति, स चैषां समाधिरन्तरा विप्रणश्येत्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
40. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyabuddhakṣetrasthāne bodhisattvā mama nāmadheyasahaśravaṇānna suvibhaktavatīṃ nāma samādhiṃ pratilabheran, yatra samādhau sthitvā bodhisattvā ekakṣaṇavyatihāreṇa aprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇān buddhān bhagavataḥpaśyanti, sa caiṣāṃ samādhirantarā vipraṇaśyet, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[220] ||
Bạch Thế Tôn! Sau con thành tựu Bồ-đề, nếu những vị Bồ-tát đang sống ở nơi những quốc độ Phật khác, đồng thời nghe danh hiệu con, liền thành tựu tam muội tên là thanh tịnh giải thoát[221]. Các vị Bồ-tát an trú ở trong tam-muội ấy, với trong khoảnh khắc[222] mà nhìn thấy[223] vô số, vô lượng, bất khả tư nghị chư Phật, Thế Tôn, mà vẫn không mất thời gian tam muội đó của họ. Không phải như thế, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४१. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तदन्येषु बुद्धक्षेत्रेषु मम नामधेयं श्रुत्वा तच्छ्रवणसहगतेन कुशलमूलेन सत्त्वा नाभिजातकुलोपपत्तिं प्रतिलभेरन् यावद्बोधिपर्यन्तम्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
41. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyeṣu buddhakṣetreṣu mama nāmadheyaṃ śrutvā tacchravaṇasahagatena kuśalamūlena sattvā nābhijātakulopapattiṃ pratilabheran yāvadbodhiparyantam, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[224] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các chúng sanh ở nơi những quốc độ Phật khác, vốn có thiện căn, khi nghe danh hiệu con, mà lại không được sanh vào gia đình dõng dõi tôn quý[225], cho đến khi đạt đến Tuệ Giác, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४२. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तदन्येषु बुद्धक्षेत्रेषु ये बोधिसत्त्वा मम नामधेयं श्रुत्वा तच्छ्रवणकुशलमूलेन यावद्बोधिपर्यन्तं ते सर्वे बोधिसत्त्वचर्याप्रीतिप्रामोद्यकुशलमूलसमवधानगता न भवेयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
42. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyeṣu buddhakṣetreṣu ye bodhisattvā mama nāmadheyaṃśrutvā tacchravaṇakuśalamūlena yāvadbodhiparyantaṃ te sarve bodhisattvacaryāprītiprāmodyakuśalamūlasamavadhānagatā na bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[226] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, các vị Bồ-tát ở nơi những quốc độ Phật khác, vốn có thiện căn[227], mà hết thảy họ khi nghe danh hiệu con, không sinh đại hoan hỷ[228], thực hành Bồ-tát, tập hợp thành tựu viên mãn[229] thiện căn[230] cho đến lúc giác ngộ, thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४३. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य सहनामधेयश्रवणात्तदन्येषु लोकधातुषु बोधिसत्त्वा न समन्तानुगतं नाम समाधिं प्रतिलभेरन्, यत्र स्थित्वा बोधिसत्त्वा एकक्षणव्यतिहारेण अप्रमेयासंख्येयाचिन्यातुल्यापरिमाणान् बुद्धान् भगवतः सत्कुर्वन्ति, स चैषां समाधिरन्तरा विप्रणश्येद्यावद्बोधिमण्डपर्यन्तम्, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
43. sacenme bhagavan bodhiprāptasya sahanāmadheyaśravaṇāttadanyeṣu lokadhātuṣu bodhisattvā na samantānugataṃ nāma samādhiṃ pratilabheran, yatra sthitvā bodhisattvā ekakṣaṇavyatihāreṇa aprameyāsaṃkhyeyācinyātulyāparimāṇān buddhān bhagavataḥ satkurvanti, sa caiṣāṃsamādhirantarā vipraṇaśyedyāvadbodhimaṇḍaparyantam, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[231] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các vị Bồ-tát ở những quốc độ khác đều nghe danh hiệu con, liền thành tựu tam muội tên là Phổ Chí[232] và những vị Bồ-tát ấy an trú ở trong tam muội này, cho đến khi đạt đến diệu Bồ-đề tràng[233], họ thường cung kính diện kiến[234] Chư Phật, Thế Tôn cùng tận khắp vô số, vô lượng, bất khả tư nghị với thời gian khoảng chừng nháy mắt mà tam muội của họ không hề thất tán, thì con mới thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४४. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे ये सत्त्वाः प्रत्याजाता भवेयुः ते यथारूपां धर्मदेशनामाकाङ्क्षेयुः श्रोतुम्, तथारूपां सहचित्तोत्पादान्न शृणुयुः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
44. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ te yathārūpāṃ dharmadeśanāmākāṅkṣeyuḥ śrotum, tathārūpāṃ sahacittotpādānna śṛṇuyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[235] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu những chúng sanh nào phát nguyện sanh đến quốc độ Phật ấy của con, mà họ ước nguyện nghe được Pháp[236] như thực; liền sinh khởi tâm[237] nghe pháp như thật ấy, họ liền được nghe, thì con mới thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४५. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य तत्र बुद्धक्षेत्रे तदन्येषु बुद्धक्षेत्रेषु ये च बोधिसत्त्वा मम नामधेयं शृणुयुः, ते सहनामधेयश्रवणान्नावैवर्तिका भवेयुरनुत्तरायाः सम्यक्संबोधेः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुध्येयम्॥
45. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre tadanyeṣu buddhakṣetreṣu ye ca bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sahanāmadheyaśravaṇānnāvaivartikā bhaveyuranuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam[238] ||
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các vị Bồ-tát ở nơi những quốc độ Phật khác, họ ở ngay nơi những quốc độ Phật đó, mà nghe đến danh hiệu của con, liền được tối thượng chánh đẳng giác bất thối chuyển[239], ngay trong lúc khi đang nghe danh hiệu ấy, thì con mới thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
४६. सचेन्मे भगवन् बोधिप्राप्तस्य बुद्धशास्तुर्बुद्धक्षेत्रेषु ते बोधिसत्त्वा मम नामधेयं शृणुयुः, ते सहनामधेयश्रवनात्प्रथमद्वितीयतृतीयाः क्षान्तीः प्रतिलभेरन् नावैवर्तिका भवेयुर्बुद्धधर्मसंघेभ्यः, मा तावदहमनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिबुध्येयम्॥८॥
46. sacenme bhagavan bodhiprāptasya buddhaśāsturbuddhakṣetreṣu te bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sahanāmadheyaśravanātprathamadvitīyatṛtīyāḥ kṣāntīḥ pratilabheran nāvaivartikā bhaveyurbuddhadharmasaṃghebhyaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃsamyaksaṃbodhimabhibudhyeyam[240].
Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, trở thành bậc Đạo Sư Giác Ngộ[241], nếu những vị Bồ-tát ở các quốc độ Phật khác, nghe được danh hiệu con, thì ngay lúc khi nghe danh hiệu ấy, mà không thành tựu tức thì các Pháp nhẫn[242] thứ nhất[243], thứ hai[244], thứ ba[245]; không chứng đạt địa vị bất thối chuyển đối với Phật, Pháp, Tăng[246], thì con không thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
[1] Tương đương với Nguyện thứ nhất của Hán văn, T12n0360, tr. 0267c17: 設我得佛。國有地獄餓鬼畜生者。不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, quốc độ có địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác. Chấp nhận: Hán: Thủ, Skt. Upādāna đi từ động từ căn là Upā-dā có nghĩa là, nhận lấu, kết nạp, chứa đựng, chấp nhận, bám lấy, bám vào…
[2] Địa ngục, Skt. Naraka, Htr.: Nại-lạc-ca: chốn hành tội. Mà ở đây từ Pāli và Sanskrit hỗn chủng của nó làNiraya, được hiểu từ Nis-aya, đi xuống chỗ tan hoại, hủy diệt. Khi viết từ Skt. Nāraka, Htr.: na-lạc-ca. Từ nā với a dài, từ này chỉ cho chúng sinh nơi xứ sở Naraka. Định nghĩa theo PTS. Visuddhimagga 427: n’ atthi ettha assādasaññito ayo: ở đây hoàn toàn không có nhân của lạc. Về từ Aya Ñanamoli (p.419, 506) hiểu là “nhân do” (reason; aya=kāraņa). Tỳ bà sa và Thuận chánh lý, đều nêu ra năm định nghĩa về từ nguyênNaraka và Nāraka. Từ Naraka đã xuất hiện trong Śukla Yajur Veda, Atharva Veda, trước hoặc gần thời Phật, nghĩa đen được hiểu là “thuộc về loài người” do từ Skt. Nara+ka. Sớm hơn ở Rig Veda, hình như không có ý niệm địa ngục vì trong ba cấp thế giới: Bhūr., bhuvas., svar., được nói đến, không có nơi nào được ám chỉ là địa ngục. Xem thêm. Vishnu Puraņa, Bhagavata.
[3] Skt. Triyagyoni/tiracchānayoni: loài sinh ngang, chỉ tất cả loài động vật, côn trùng, chúng khi đi không thẳng mình lên được. Bao gồm cả động vật thần thoại như Garuda (ca-lầu-la, thần điểu), hay thần long nāga(na-già). Pāli là Tiracchana. Hán phiên âm là Để-lật-xa và dịch là súc sanh, bàng sanh, hoạnh sanh v.v..
[4] Ngạ quỷ, Skt. Preta/peta, do pra-ita: đã đi, tức chỉ cho những kẻ đã đi, nghĩa là đã khuất hay đã chết. Hán phiên âm là Tiết-lệ-đa, Bế-lệ-đa, Tỉ-lễ-đa, Tỉ-lợi-đa, Di-lệ-đa, Bế-đa và dịch là ngạ quỷ, quỷ thú. Thế giới của chúng được gọi là Pretavişaya: thế giới của những người đã khuất. Truyền thống Pāli nêu lên bốn loại ngạ quỷ; Thuận chánh lý 31, có 3 loại; Du-già 4, có ba loại; v.v.. Tỳ-bà-sa 12, tr. 59a15 tt.: không ai mà không có thân nhân trong loài ngạ quỷ.
[5] A-tu-la 阿修羅, Skt. Asura, còn được phiên âm là A-tác-la 阿 索 羅, A-tô-la 阿 蘇 羅, A-tố-la 阿 素 羅, 阿 素 洛A-tố-lạc, 阿 須 倫 A-tu-luân. Trong Avesta, A-tu-la viết là Ahura, có động từ ah: là, tồn tại; tương đương với động từ as: là, tồn tại của từ Asura. Nên Asura hay Ahura đều có nghĩa là tự thể, hữu thể tối cao, tức là thần linh. Thời kỳ sau Veda, ngữ nguyên của Asura, được hiểu là: A-sura: phi thần, sura: thần linh, bằng ngữ tộc với svar, có nghĩa là thiên giới, bầu trời, khung trời v.v… + tiền tố phủ định từ “A”: không, phi. Hán dịch là: Phi thiên 非 天, Phi đồng loại 非 同 類. Còn trong Pāli ngữ, Sura được hiểu là rượu, A: không; nên từ đó xuất hiện truyện kể các vị A-tu-la do uống rượu bị say, nên bị các Indra, Thiên đế thích, ôm ném xuống biển, khi tỉnh dậy hiểu rằng do say rượu mà bị ném khỏi thiên quốc, nên thề rằng từ giờ trở đi tuyệt đối không uống rượu, vì vậy Hán cũng chuyển dịch Asura là Bất tửu, Bất ẩm tửu, dịch như vậy có thể lầm với nghĩa gốc của nó. Trong văn hệ Pāli gọi Asura là: Pubbadeva (S.11.5.Subhāsitajayasuttṁ) hán dịch là “cựu thiên” 舊天 (dẫn Trường, T01n021, tr. 142a19).
[6] A-nậu-đa-la-tam-miệu tam-bồ-đề 阿耨 多羅三藐三菩提心; Skt. Anuttarāsamyaksaṃbodhi. A-nậu-đa-la 阿耨 多羅 Skt. Anuttarā: vô thượng, tối thượng, vượt mức, tuyệt mức,…. Tam-miệu 三藐, Skt.Samyak: trực tiếp, đích thực, hiện thực, chính xác, hợp lý…. Tam-bồ-đề 三菩提, Skt. Saṃbodhi: toàn giác, tỉnh giác chính xác, bồ-đề… T12n0360, tr. 0267c17: 不取正覺 bất thủ chánh giác.
[7] T12n0360, tr. 0267c19: 設我得佛。國中人天。壽終之後. 復更三惡道者。不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ, sau khi mạng chung, mà còn bị rơi lại trong ba ác đạo, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[8] Skt. tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ. T12n0360, tr. 0267c19: thử trung nhân thiên 國中人天.
[9] Skt. punastataścyutvā. T12n0360, tr. 0267c19: 壽終之後 thọ chung chi hậu.
[10] Về số lượng địa ngục tham khảo Vishnu Purana, và Câu-xá Phạn, tụng iii, 58, 59.
[11] T12n0360, tr. 0267c21: 設我得佛。國中人天。不悉真金色者。不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong nước con, sắc thân không phải bằng vàng chân thật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[12] Skt. suvarṇavarṇāḥ, Ibid., 不悉真 chơn kim sắc. Anh: a golden colour.
[13] T12n0360, tr. 0267c23: 設我得佛。國中人天。形色不同有好醜者。不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ, hình và sắc có xấu đẹp dị biệt, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[14] Skt. saṃvṛti: đi tới cùng nhau.
[15] Skt. Prajñāya: phiên âm Bát-nhã, dịch ý là nhận thức, hiểu biết, tuệ giác, lãnh hội, trí tuệ v.v..
[16] Skt. vyavahāra: cư xử, thực hiện, hành động, thực hiện phổ biến;
[17] Skt. Mātrā: đo lường, tính toán.
[18] Skt. gaṇanāta: suynghĩ cá biệt.
[19] Hán văn nguyện 9, T12n0360, tr. 0268a06: 設我得佛。國中人天。 不得神足。 於一念頃下至 不能超過 百千億那 由他諸佛 國者。 不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở quốc độ của con, nếu không đạt được thần túc, tối thiểu là ở ngay nơi một niệm mà không thể vượt quá trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[20] Skt. ṛddhivaśitāparamapāramitāprāptā: ṛddhi: Thần thông, thần lực; vaśitā: quyền kiểm soát.;parama: có para: tối tôn, tối thắng, vượt mực v.v.. pāramitā: ba-la-mật, dịch là bỉ ngạn đáo, cứu cánh;prāptā: Đạt được.
[21] Skt. Ekacittakṣaṇalavena: Với một sát-na tâm.
[22] Skt. Koṭīniyutaśatasahasrā: Ibid., 百千億那 由他 Bách thiên ức na do tha: Trăm ngàn ức triệu; koṭī,Hán phiên âm là câu-chi, câu-tri, câu-lê và dịch là ức. Tên gọi số lượng của Ấn Độ, theo cách tính của Trung Quốc, ức là một nghìn vạn. Theo Viên Trắc, Giải thâm mật kinh sớ 6, Tục 34, câu-chi có ba : 1/Mười vạn. 2/Trăm vạn. 3/Nghìn vạn; niyuta: nayuta, Hán phiên âm là na-do-tha, na-dữu-đa, ni-do-đa, na-thuật… và dịch là triệu. Từ chỉ về số của Ấn Độ; śatasahasrā: Trăm ngàn.
[23] Hán nguyện thứ 5, T12n0360, tr. 0267c25: 設我r得佛。國中人天。不悉識宿命。 下至知百千 億那由他諸 劫事者。不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, không biết được sinh mạng đời trước, tối thiểu là biết được sự việc từ trăm ngàn ức triệu kiếp về trước, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[24] Skt. jātismarā: nhớ lại được đời sống, sinh mạng trước. Skt. jāti có động từ căn jan: sinh ra; smarā đi từ động từ căn smṛ: nhớ lại.
[25] Hán nguyện thứ 6: T12n0360, tr. 0267: 我得佛國中人天不得天眼下至見百千億那由他諸佛國者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, nếu không có được thiên nhãn tối thiểu là thấy từ trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[26] Skt. divyasya cakṣuṣo lābhino: Chứng đạt con mắt của chư thiên. Hán: Thiên nhãn.
[27] Hán: T12n0360, tr. 0267c29: 得佛國中人天不得天耳下至聞百千億那由他諸佛所說不悉受持者不取正覺:
[28] Skt. divyasya śrotrasya lābhino: Chứng đắc cái nghe của chư thiên. Hán: Thiên nhĩ.
[29] Skt. Yugapatsaddharma: Thọ trì chánh pháp.
[30] Hán nguyện thứ 8: T12n0360, tr. 0268a03 設我得佛國中人天不得見他心智下至知百千億那由他諸佛國中
眾生心念者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, không đạt được cái trí thấy tâm người khác, tối thiểu là biết được trong tâm niệm của các chúng sanh từ trăm ngàn vạn triệu quốc độ Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[31] Skt. Paracittajñānakovidā: Trí thấy biết tâm người khác Paracitta, tha tâm, nghĩa là tâm của người khác; jñānakovidā: trí thấy biết…Hán dịch là tha tâm tất tri; minh giám tha tâm; kiến tha tâm trí; đắc tha tâm lạc…
[32] Skt. Cittacaritaparijñāna: Trí biết rõ tâm hành.
[33] Hán tương đương 10: T12n0360, tr. 0268a09: 設我得佛國中人天若起想念貪計身者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, nếu có khởi niệm tưởng, tham chấp đối với thân thể, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[34] Skt. kācitparigrahasaṃjñotpadyeta antaśaḥ svaśarīra và Hán dịch: nhược khởi tưởng niệm tham kế thân giả.
[35] Hán: T12n0360, tr. 0268a11: 設我得佛國中人天不住定聚必至滅度者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, không an trú ở trong thiền định, cho đến khi chứng đạt Niết-bàn, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[36] Skt. Niyatāḥ syuryādidaṃ samyaktve: trú định tụ., Skt. samyaktve: Tụ. Samyaktve: ở nơi bản tánh chân thật. Skt. niyatāḥ có tiền tố từ là ni và có căn là yat, thì nó có nghĩa là đi đến; và nếu tiền tố từ của nó làni và căn của nó là yam, thì nó có nghĩa là dừng lại hay an trú.
[37] Skt. Yāvanmahāparinirvāṇe. Mahāparinirvāṇe, có nghĩa là ở nơi đại Niết-bàn. Hán dịch là diệt độ.Mahāparinirvāṇe, vị biến Mahāparinirvāṇa. Hán phiên âm là Ma-ha bát-niết-bàn na và dịch là Đại bát niết bàn, đại-bát niết-bàn, đại niết-bàn, đại diệt độ
[38] Hán văn nguyện 14: T12n0360, tr. 0268a18: 設我得佛 國中聲聞有 能計量乃至三 千大千世界衆生緣覺 於百千劫悉 共計較 知其 数者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chúng Thanh Văn trong quốc độ con mà có thể tính biết được số lượng, cho đến chúng sanh trong một tỷ thế giới đều là bậc Duyên giác, cùng chung nhau tính đếm trải qua trăm ngàn kiếp mà biết được số lượng chúng Thanh Văn ấy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[39] Skt. Pratyekabuddha; Pāli. Paccekabuddha. Hán phiên âm Bát-lạt-y-ca-phật-đà; Tất-lặc-chi-để-ca-Phật; Bích-chi-ca-Phật; Bích-chi-Phật và dịch là Độc giác, Duyên giác.
[40] Skt. śrāvaka; Pāli. Sāvaka. Hán phiên âm Xá-la-bà-ca và dịch là Thanh văn hay đệ tử.
[41] Hán văn nguyện 12: T12n0360, tr. 0268a14: 設我得佛光明有能限量下至不照百千億那由他諸佛國者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, nếu ánh sáng có hạn lượng, tối thiểu mà không soi chiếu đến tận trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[42] Skt. prabhā. Hán : quang minh
[43]Hán nguyện thứ 15: T12n0360, tr. 0268a20: 設我得佛國中人天壽命無能限量除其本願修短自在若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, thọ mạng không có hạn lượng, ngoại trừ họ có bản nguyện tự tại đối với dài và ngắn. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[44] Skt. āyuṣpramāṇaṃ: āyuṣ có nghĩa là đời sống, mạng sống, hiểu là thọ mạng; pramāṇaṃ có nghĩa là đo lường, biên tế, giới hạn. Hán: vô lượng thọ.
[45] Skt. Praṇidhānavaśena: praṇidhāna có nghĩa là thệ nguyện, ước nguyện; vaśena, vị biến của nó vaśa,có nghĩa sức mạnh, năng lực. Praṇidhānavaśena, bằng hay với sức mạnh của thệ nguyện. Hán: nguyện lực, bản nguyện.
[46] Hán nguyện thứ 13: T12n0360, tr. 0268a15: 設我得佛壽命有能限量下至百千億那由他劫者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, nếu sinh mạng có hạn lượng, thì ít nhất là phải sống đến trăm ngàn ức triệu kiếp; nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[47] Skt. bodhiprāpta. Bodhi, phiên âm là bồ-đề và dịch là giác, trí, tri, đạo…. Prāpta là thành tựu, chứng đắc, đạt được. Hán: đắc Phật, đắc bồ-đề.
[48] Hán nguyện thứ 16: 設我得佛國中人天乃至聞有不善名者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại trong quốc độ con, cho đến nếu nghe đến danh từ bất thiện, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[49] Skt. sattvānāmakuśalasya. Sattvā chúng sanh, chúng hữu tình; anāmakuśalasya biến cách thứ sáu: tên gọi bất thiện. Hán: bất thiện danh.
[50] Hán nguyện thứ 17: T12n0360, tr. 0268a25: 設我得佛十方世界無量諸佛不悉諮嗟稱我名者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, vô lượng chư Phật ở trong mười phương thế giới, nếu không đồng tán thán danh hiệu của con, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[51] Skt. Parikīrtayeyuḥ: Ca ngợi, thán phục, công bố, tuyên dương. Anh: proclaim.
[52] Skt. varṇam bhāṣeran: Diễn thuyết, tuyên thuyết, thuyết pháp. Anh: preach.
[53] Skt. Praśaṃsāmabhyudīrayeran: Cùng nhau tuyên dương, phô bày.
[54] Skt. Samudīrayeyuḥ: Cùng nhau phô bày, phát ngôn cùng nhau một lúc.
[55] Hán văn nguyện 19: T12n0360.tr 0268a29: 設我得佛十 方衆生發菩 提心修諸功德 至心發願欲生我 國臨夀終時令假令不 與大衆圍遶現 其人前者 不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương phát tâm bồ đề, thực hành các công đức, phát nguyện hết lòng muốn sanh về quốc độ con, đến khi họ lâm chung, bấy giờ khiến con và đại chúng không hiện ra vây quanh trước mặt người đó, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[56] Skt.Nāmadheyaṃ: biến cách hai, Tên, danh hiệu.
[57] Skt. Prasannacittā: prasanna, trong sạch, thanh tịnh. Hán: chí tâm phát nguyện.
[58] Skt. Māmanusmareyuḥ: động từ căn anu + smṛ. Anu là tiền tố từ: theo; smṛ là niệm, nhớ nghĩ. Nghĩa là tùy niệm danh hiệu, hành trì danh hiệu hay chấp trì danh hiệu. Hán: tu chư công đức.
[59] Skt. Maraṇakālasamaye: Ở trong thời gian lâm chung. Hán: lâm thọ chung thời
[60] Skt. Bhikṣusaṃghaparivṛtaḥ: Chúng hội Tỷ-kheo cung kính vây quanh.
[61] Skt. Pratyupasthite: Đứng bên cạnh, tiếp cận.
[62] Skt. Puratastiṣṭheyaṃ: Đứng trước mặt, hiện tiền. Hán: hiện kỳ nhân tiền.
[63] Skt. Puraskṛto: Tiếp độ hướng dẫn, dẫn dắt.
[64] Skt. Cittāvikṣepatāyai: Tâm sáng suốt, tâm thông minh, tâm linh
[65] Hán nguyện thứ 18: T12n0360, tr. 0268a26: 設我得佛十方衆 生至心信樂欲生我國乃至十念若不生者不 取正覺唯除 五逆誹謗 正法: Giả sử khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương tin vui hết lòng, muốn sanh đến quốc độ con, chỉ niệm cho đến mười (lần) danh hiệu, nếu họ không sinh đến đó, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác. Ngoại trừ những người phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.
[66] Skt. aprameyāsaṃkhyeyeṣu: biến cách bảy, ở nơi vô lượng, vô số.
[67] Skt. upapattaye kuśalalamūlāni: Phát khởi thiện căn.
[68] Skt. pariṇāmayeyuḥ, Hán: Hồi hướng.
[69] Skt. Daśabhiścittotpādaparivartaiḥ: Lặp đi, lặp lại mười niệm. Hán: nãi chí thập niệm.
[70] Skt. sthāpayitvā: Đứng một bên, đứng ra ngoài. Hán: duy trừ.
[71] Skt. ānantaryakāriṇaḥ: Tội vô gián. Hán: ngũ nghịch.
[72] Skt. Saddharmapratikṣepāvaraṇakṛtāṃ: saddharma là chánh pháp; pratikṣepā là phỉ báng;varaṇakṛtāṃ là tội chướng.
[73] Hán: T12n0360.tr. 0268b08: 設我得佛他方佛土諸菩薩衆來生我國究竟必至一生補處除其本願自在所 化為衆生故被弘誓鎧積累德本度脫一切斿諸佛國修菩薩行供养十方諸佛如來開化恒沙無量衆生使立無上正真之道超出常倫諸地之行現前修習普賢之德若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở những quốc độ khác nguyện sanh đến quốc độ con, là những hàng Bồ-tát đã hoàn tất địa vị, chỉ còn một đời nữa là được bổ xứ làm Phật. Ngoại trừ những vị có bản nguyện muốn tự tại đối với việc hóa độ, vì chúng sanh mà trang phục áo giáp đồng, thệ nguyện bao la, tích lũy những gốc rễ công đức, hóa độ giải thoát hết thảy, đi đến các quốc độ Phật, tu học và thực hành Bồ-tát đạo, cúng dường các đức Phật - Như lai trong mười phương, khai hóa vô lượng chúng sanh như cát sông Hằng, khiến họ đều an lập ở nơi đạo Chánh giác chân thực, siêu việt công hành của các địa vị luân lý tầm thường, công đức Phổ hiền tu tập ngay trong hiện tiền. Nếu không phải, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[74] Skt. ekajātipratibaddhāḥ: chủ cách số nhiều: những vị tu tập còn một đời nữa là đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn. Hán: nhất sanh bổ xứ.
[75] Skt. praṇidhānaviśeṣān: Những thệ nguyện hay bản nguyện đặc biệt.
[76] Skt. mahāsaṃnāhasaṃnaddhānāṃ, Hán: đại khải bị. Nghĩa là mặc áo giáp đại nhẫn nhục. - Hán dịch là nhất thiết thế gian nghĩa lợi. - sarvabuddhānāṃ saṃvartukāmānāṃ: Muốn phụng sự cúng dường hết thảy chư Phật. Hán dịch là nhất thiết chư Phật phụng sự dục; cúng dường thập phương chư Phật
[77] Skt. sarvalokārthasaṃbuddhānāṃ.
[78] Skt. Sarvalokābhiyuktānāṃ: Vì sự tinh cần của hết thảy thế gian. Hán: nhất thiết thế gian vị cần hành.
[79] Skt. sarvalokaparinirvāṇābhiyuktānāṃ: Vì cần hành đưa hết thảy thế gian vào chỗ tịch tĩnh. Hán: nhất thiết thế gian viên tịch vi cần hành.
[80] Skt. sarvalokadhātuṣu bodhisattvacaryāṃ caritukā-mānāṃ: Vì ước muốn của Bồ-tát đi khắp tất cả thế giới. Hán: nhất thiết thế giới ư Bồ-tát hành tu dục; du chư Phật quốc tu Bồ-tát hạnh.
[81] Skt. pratiṣṭhāpakānāṃ: An trú. Hán: an lập; sử lập.
[82] Skt. bhūyaśca uttaracaryābhimukhānāṃ: Đi đến địa vị cao thượng giải thoát đặc biệt. Hán: địa vị thượng hạnh giải thoát thù thắng. Thượng hạnh tấn hướng; siêu xuất thường luân, chư địa chi hành
[83] Skt. Samantabhadracaryāniryātānām: thực hành Hạnh phổ hiền hiện tiền cùng khắp. Hán: phổ hiền hành xuất ly; phổ hiền chi đức.
[84] Hán nguyện thứ 23: T12n0360, tr. 0268b15: 設我得佛國 中菩薩承佛神力供养諸佛一食之 頃不能遍至無量無數 億那由他諸 佛國者不取 正覺: Giả sử khi con thành Phật, các vị Bồ-tát ở quốc độ của con, nương nhờ thần lực của Phật, mà đi cúng dường chư Phật, khoảng thời gian trong một bữa ăn, không có mặt cùng khắp đến vô lượng, vô số ức triệu quốc độ chư Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[85] Skt. Buddhānubhāvena.
[86] Skt. sarvasukhopadhānaiḥ: an lạc khởi sinh. Hán: nhất thiết lạc sinh.
[87] Skt. Bahūni: Nhiều.
[88] Skt. Buddhasahasrāṇi: Ngàn vị Phật.
[89] Skt. Buddhaśatasahasrāṇi: Trăm ngàn vị Phật
[90] Skt. Bahvīrbuddhakoṭī: Hàng ức vị Phật.
[91] Skt. yāvadbahūnibuddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇi: Cho đến hàng ức triệu trăm ngàn vị Phật.
[92] Skt. Ekapurobhaktena: Thời gian với chừng bữa ăn sáng. Hán: nhất tối triêu thực gian.
[93] Skt. nopatiṣṭheran: Không cùng cúng dường cùng một lúc, không tiếp cận thiết lễ cúng dường cùng một lúc, không hiện diện cùng một lúc, không ước muốn cúng dường cùng lúc.
[94] Hán nguyện thứ 24: T12n0360, tr. 0268b18: 設我得佛國中菩薩在諸佛前現其德本諸所求欲供养之具若不如意者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con, ở trước chư Phật, hiện ra gốc rễ công đức của chính mình, các vật dụng mong cầu có để cúng dường. Nếu không đầy đủ như ý, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[95] Skt. yathārūpairākārairākāṇkṣeyuḥ: Hình tướng vật dụng tạo ra đúng như sở nguyện.
[96] Skt. kuśalamūlānyavaropayituṃ: Thiện căn vốn đã gieo trồng.
[97] Skt. survarṇa: vàng, Kim loại.
[98] Skt. rajata: Bạc, tiền đồng, đồng tiền vàng
[99] Skt. aṇimuktā.
[100] Skt. vaiḍūrya.
[101] Skt. śaṇkha.
[102] Skt. śilā: Ngọc thạch.
[103] Skt. pravāla: San hô.
[104] Skt. sphaṭika.
[105] Skt. Musāragalva.
[106] Skt. lohitamuktā.
[107] Skt. āśmagarbhā.
[108] Skt. Ratna.
[109] Skt. gandha: Hương thơm, mùi thơm.
[110] Skt. puṣpamālya: tràng hoa, vòng hoa.
[111] Skt. vilepana: Dầu.
[112] Skt. dhūpa: Hương đốt.
[113] Skt. cūrṇa: Hương bột, hương viên.
[114] Skt. chatra: Bảo cái, dù, lọng.
[115] Skt. dhvajapatākā: Tràng phan, loại cờ dài.
[116] Skt. nṛtyagītavādhair: Nhạc vũ.
[117] Skt. sahacittotpādānna: Liền khởi tâm cúng dường
[118] Hán nguyện thứ 25: T12n0360, tr. 0268b21: 設我得佛國中菩薩不能演說一切智者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con không có khả năng, thuyết pháp bằng tuệ giác toàn diện, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[119] Skt. dharmakathāṃkathayeyuḥ: Khả năng của thuyết pháp.
[120] Skt. sahagata: Cùng đi tới, cùng chứng đắc. Hán: câu hành..
[121] Skt. sarvajñatā: Bản chất của tuệ giác toàn diện. Hán: nhất thiết trí tánh, nhất thiết trí.
[122] Hán nguyện thứ 23: T12n0360, tr. 0268b15: 設我得佛國中菩薩 承佛神力供养諸佛一食之頃不能遍至無量無數億那由 他諸佛國者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các vị Bồ-tát ở trong quốc độ của con, nương theo thần lực của Phật, mà đi cúng dường chư Phật, khoảng thời gian trong một bữa ăn, không có mặt cùng khắp đến vô lượng, vô số ức triệu quốc độ chư Phật, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[123] Skt. satkuryām: Những hành động của quy kỉnh kính, những biểu lộ của chân thật.
[124] Skt. gurukuryām: Biểu lộ lòng tôn kính bậc Đạo sư.
[125] Skt. pūjaya: Cúng dường.
[126] Hán nguyện thứ 26: T12n0360, tr. 0268b24: 設我得佛國中菩薩不得金剛那羅延身者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con không được thân Kim cang lực sĩ, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[127] Skt. Apratilabdhā: Không đạt được, không chứng đắc. Do Pratilabdhā: Đạt được, chứng đắc, A: phủ định từ.
[128] Skt. Saṃhatātmabhāvasthām: Thân thể đứng vững chắc, thân thể có sức mạnh kiên cố.
[129] Skt. nārāyaṇavajrasaṃ, Hán: Kim cang Na-la-diên, Kim cang lực sĩ. Na-la-diên là phiên âm từ Skt.nārāyaṇa. Hán: Kiên cố lực sĩ, Kim cang lực sĩ, nhân trung lực sĩ. Đại nhật kinh sớ 1, Đại 39, tr. 581b.: Na-la-diên là một vị trong mười chín vị cầm chày kim cang, phát tâm đại bi dõng mãnh cứu giúp chúng sanh, sức mạnh Na la diên hơn hết.
[130] Hán nguyện thứ 27: T12n0360, tr. 0268b25: 設我得佛國中人天一切萬物嚴淨光麗形色殊特窮微 極妙無能稱量其 諸衆生乃至逮 得天眼有能明 了辨其名數者 不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại và tất cả muôn vật ở trong quốc độ con, đều đẹp đẽ sáng chói, thanh tịnh trang nghiêm, hình sắc đặc biệt, vi diệu cùng tột, không thể nào suy lường được, ngay cả những chúng sanh có được con mắt chư thiên, mà biện biệt để có thể thấu hiểu được danh số, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[131] Skt. divyenāpicakṣuṣā, hán: đắc thiên nhãn.
[132] Skt. udgṛhṇīya: Hiểu biết, nắm giữ, thọ trì.
[133] Skt. varṇaparyantam: Giới hạn sắc màu, phạm vi sắc màu, đường ranh màu sắc.
[134] Skt. alaṃkārsya: Của sự trang nghiêm.
[135] Skt. evaṃvibhūti: Lượng số đúng như vậy.
[136] Skt. evaṃvarṇam: Màu sắc đúng như vậy, nānāvarṇatāṃ: Của sắc màu đặc biệt. Hán: hiển sắc tánh, hình sắc thù đặc.
[137] Hán nguyện thứ 28: T12n0360, tr. 0268b29: 設我得佛國中菩 薩乃至少功德者不能知見其 道場樹無量光色高四百萬里者 不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con, ngay cả những vị công đức yếu kém, mà họ không thể nhìn thấy và biết được hình sắc và ánh sáng vô lượng, cùng với độ cao bốn trăm vạn dặm của cây Đạo Tràng, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[138] Skt. parīttakuśalamūlo. Hán: tối thiểu thiện căn, thiểu công đức.
[139] Skt. saṃjānīyāt: Có khả năng hiểu biết. Hán: đắc tri kiến, năng tri kiến.
[140] Skt. bodhivṛkṣaṃ: Cây bồ đề. Hán: kỳ đạo tràng thọ, bồ đề thọ.
[141] Skt. udāravarṇaṃ. Hán: Thắng diệu sắc, vô lượng quang sắc.
[142] Skt. yojanaśatotthitam: Cao một trăm do tuần. Do tuần, Skt. yojana. Hán phiên âm là do tuần và dịch là hạn lượng… Đơn vị đo lường của Ấn Độ ngày xưa. Đại đường tây vực ký 2: ngày xưa một do tuần là 40 dặm; theo quốc tục Ấn Độ, một do tuầ n là 30 dặm. Tuệ Uyển: một do tuần 16 dặm. Nghĩa Tịnh: quốc tục Ấn Độ một do tuần 32 dặm, theo Phật giáo 12 dặm. J. Flect: một do tuần xưa bằng 19,5 km; quốc tục Ấn Độ là 14, 6 km; Phật giáo 7,3 km. Major Vost: một do tuần xưa bằng 22,8 km; quốc tục Ấn Độ 17 km; Phật giáo 8,5 km.
[143] Hán nguyện thứ 29: T12n0360, tr. 0268c04: 設我得佛國中菩薩若受讀經法諷誦持說而不得辨才智慧者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con, nếu thọ trì, đọc tụng diễn thuyết kinh pháp, mà không được tuệ giác biện tài, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[144] Skt. uddeśo: Giải thích, giảng dạy, minh họa.
[145] Skt. kartavyaḥ: Đã làm tốt, làm hoàn thành, đã làm hoàn tất. - pratisaṃvitprāpta: Chứng đắc sự hiểu biết không trở ngại. Hán dịch là đắc biện tài trí tuệ, vô ngại giải đắc.
[146] Skt. svādhyāyo: Đọc, nghiên cứu, học hỏi, thọ trì.
[147]Skt. pratisaṃvitprāpta: Chứng đắc sự hiểu biết không trở ngại. Hán: đắc biện tài trí tuệ, vô ngại giải đắc
[148] Hán nguyện thứ 31: T12n0360, tr. 0268c07: 設我得佛國土清淨皆悉照見十方一切無量無數不可思議諸佛世界猶如明鏡覩其而像若不爾者不取正覺
[149] Skt. prabhāsvaraṃ: Ánh sáng thanh tịnh. Hán: minh tịnh.
[150] Skt. samanta: Cùng khắp.
[151] Skt. tadyathāpi nāma: Thí như, ví như.
[152] Skt. parimṛṣṭe ādarśamaṇḍale: Thấy ảnh trong gương tròn. Hán: Đổ kiến, đổ nhi hình tượng.
[153] Skt. saṃdṛśyeran: Soi chiếu. Hán: do như.
[154] mukhamaṇḍalam: Khuôn mặt tròn trịa. Hán: diện luân.
[155] Hán nguyện thứ 32: T12n0360, tr. 0268c10: 設我得佛自地以上至于虚空宮殿樓觀池流華樹國土所有一切萬物皆以無量雜寶百千種香而共合成嚴飾奇妙超諸人天其香普熏十方世界菩薩聞者皆修佛行若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, từ mặt đất cho đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật ở trong quốc độ, đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn loại hương thơm mà hiệp thành, để trang sức kỳ diệu, vượt hẳn nhân loại và chư thiên. Hương ấy xông ngát khắp tất cả mười phương thế giới. Bồ-tát ngửi hương ấy đều tu theo hạnh của Phật. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[156] Skt. sarvaratnamayāni: Các loại châu báu hợp thành. Hán: nhất thiết chư bửu thành.
[157] Skt. nānāsurabhigandhaghaṭikāśatasahasrāṇi: Trăm ngàn lư hương tỏa ra hương thơm đặc biệt.
[158] Skt. abhijāta: Hương thơm kỳ diệu, thù diệu.
[159] Skt. sadānidhūpitānyava. Có dhūpa: Hương xông, hương đốt. Hán dịch là huân hương. antarīkṣa: Hư không. - dharaṇītalam: Mặt đất bằng. Hán dịch là địa bình diện, tự địa dĩ thượng.
[160] Skt. viṣayātikrānta: Siêu việt thế giới, siêu việt cảnh giới.
[161] Skt. devamanuṣya: Trời người. Hán: Nhân thiên.
[162] Skt. pratyarha: Hợp thành, kết thành.
[163] Skt. upādāyayāvad: Lên đến, cho đến.
[164] Skt. pūjā: cung dưỡng, phụng sự, cúng dường.
[165] Không có tương đương ở Hán bản Khương Tăng Khải.
[166] Skt. nānāratnapuṣpavarṣāṇi: Mưa nhiều loại hoa báu. Có pravṛṣṭānyeva: Mưa.
[167] Skt. sugandhi: Hương thơm. Hán: hảo hương.
[168] Skt. vādyameghā: Âm thanh của mây. Hán: vân âm.
[169] Skt. manojñasvarā: Âm thanh ưa thích. Skt. manojña: Đẹp ý, ưa thích. Hán: nhạo âm.
[170] Skt. sādā: Luôn luôn.
[171] Skt. pravādita: Tán dương, ca ngợi, diễn tấu, biểu hiện.
[172] Hán văn nguyện thứ 33: T12n0360, tr. 0268c16: 設我得佛十方 無量不可思議諸佛世 界衆生之類蒙我光明觸其體 者身心柔軟超過 人天若不爾者 不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các loại chúng sanh ở nơi thế giới chư Phật khắp cả mười phương, vô lượng bất khả tự nghị, thân thể tăm tối của họ được xúc chạm ánh sáng của con, thì thân tâm họ đều được êm đềm nhẹ nhàng, vượt hẳn thân thể hàng nhân loại và chư thiên. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[173] Skt. ṣvābhayāsphuṭā: Xúc chạm ánh sáng. Hán: quang minh dĩ chiếu, mông ngã quang minh.
[174] Skt. samanvāgatā: 1/Gata có nghĩa là “đã đi” vì nó làm vai trò là động-tính thụ động quá khứ của động từ căn gam (đi). 2/ Agata có nghĩa là "đã đến" nó làm động-tính thụ động quá khứ của động từ gam có nghĩa là (đến). Ở đây, hiểu theo nên hiểu theo cách hai.
[175] Skt. sukha: Khoái lạc, an lạc, yên vui…
[176] Hán nguyện thứ 34: T12n0360, tr. 0268c19: 設我得佛十方無量不 可思議諸佛世界衆生之類聞我名字不得菩薩無生法忍諸 深總持者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các loài chúng sanh ở trong thế giới các quốc độ Phật mười phương, vô lượng bất khả tư nghị, nghe danh hiệu của con đều được an trú vào các địa vị không thoái chuyển của Bồ-tát và duy trì các thiện pháp một cách thậm thâm. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[177] Skt. jātivyativṛtta: Đời sống giải thoát, thoát ly đời sống sinh tử. Hán: vô sanh pháp nhẫn, chứng ly sanh pháp.
[178] Skt. tacchravaṇasahagatena kuśalena: Cùng đạt đến với thiện bất thối chuyện.
[179] Skt. dhāraṇī: Nắm giữ thiện pháp. Hán, phiên âm đà-la-ni và dịch là tổng trì.
[180] Skt. saṃto: Liên tiếp, tiếp tục cho tới khi…
[181] Skt. bodhimaṇḍaparyantam: Đạo tràng bồ đề. Hán: diệu bồ đề, đạo tràng, bồ đề tràng.
[182] Skt. pratilabdhā: Đạt được, thành đạt, thành tựu.
[183] Hán nguyện thứ 35: 設我得佛十方無量不可思議諸佛世界其有女人聞我 名字歡喜信樂 發菩提心厭惡女 身夀終 之後復 為女像者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, ở nơi các thế giới của chư Phật trong mười phương, vô lượng bất khả tư nghị, có người nữ nào nghe danh hiệu con, hoan hỷ tín lạc, phát tâm bồ đề, nhàm chán thân nữ xấu uế, sau khi sinh mạng của họ kết thúc mà còn làm thân tướng nữ trở lại, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[184] Skt. striyo: Các người nữ.
[185] Skt. pramādaṃ saṃjanayeyuḥ: Sanh đức tin thanh tịnh. Hán: hoan hỷ tín lạc, tịnh tín sanh.
[186] Skt. vijugupseran: Nhàm chán, khinh thường. Hán: Yếm, yếm ác, yếm hoạn.
[187] Skt. strībhāvaṃ: Tính nữ, thân nữ, v.v..
[188] Skt. saceddvitīyaṃ: Tái sinh lại, sinh lại lần thứ hai.
[189] Skt. samānāḥ: Giống như cũ, không hề thay đổi.
[190] Hán nguyện thứ 36: T12n0360, tr. 0268c26: 設我得佛十方無量 不可思議諸佛世界 諸菩薩衆聞我名字 夀終之後常修梵行至 成佛道 若不爾者不取 正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát của thế giới chư Phật mười phương vô lượng, bất khả tư nghị, nghe danh hiệu con, sau khi sinh mạng kết thúc, thường tu tập hạnh thanh tịnh, cho đến ngày thành Phật đạo. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác. Và nguyện thứ 37: T12n0360, tr. 0268c29: 設我得佛十方無量不可思議諸佛世界諸天人民聞我名字五體投地稽首作禮歡喜信樂修菩薩行諸天世人莫不致敬若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên và nhân loại ở trong mười phương thế giới chư Phật, vô lượng không thể suy nghĩ và biết hết, nghe đến danh hiệu con, năm vóc gieo xuống sát đất kính lễ, hoan hỷ tín lạc, thực hành hạnh Bồ-tát đều được chư thiên, nhân loại cung kính tuyệt mức. Nếu không như vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[191] Skt. praṇipatya: Cúi đầu. Hán dịch là khể thủ.
[192] Skt. vandiṣyante: quy kỉnh, Kính lễ, lạy, kính trọng, cung kính.
[193] Skt. pañcam aṇḍalanamaskāreṇa: Với năm vóc sát đất. Hán: ngũ luân đầu địa, ngũ thể đầu địa. Skt.pañcam aṇḍalanamaskāreṇa vandiṣyante: Kính lễ bằng năm vóc sát đất. Hán: ngũ luân đầu địa, đầu địa lễ, tiếp túc lễ, đầu diện lễ
[194] SKt. bodhisattvacaryāṃ caranto: Tu hành của Bồ-tát. Hán: thường tu phạm hành, Bồ-tát hành tu.
[195] Skt. satkriyeran: Tin tưởng, tôn kính.
[196] Skt. sadevakena lokena. Hán: chư thiên giới: thế giới chư thiên.
[197] Hán nguyện thứ 38: 設我得佛國中人 天欲得衣服隨念 悉至如佛所讚應 法妙服自然在 身若有裁縫 染治浣澀 者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại trong quốc độ con, muốn được y phục, khởi niệm liền đến, pháp phục đẹp, thích ứng với sự tán thán của Phật, tự nhiên đến ở nơi thân. Nếu còn có cắt may, nhuộm giặt, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[198] Chắc có sự nhảy sót. Bản Sanskrit không có từ buddhakṣetre.
[199] Skt. dhāva: Giặt giũ.
[200] Skt. naśo: Phơi khô, giăng phơi, sáy, hong.
[201] Skt. sīvararañjanakarma: Cắt, may, nhuộm.
[202] Skt. saṃjānīyuḥ: Thành phẩm, sản phẩm sản xuất ra.
[203] Skt. navābhijātacīvararatnaiḥ: Y phục mới mẻ quý báu. Có Skt. Cīvara: Y phục.
[204] Skt. Evātmānaṃ: Tự nhiên.
[205] Skt. prāvṛtam: Khởi lên, có, hiện ra.
[206] sahacittotpādāt: Cùng từ tâm khởi lên.
[207] Skt. anujñātaiḥ: Tán thành, đồng ý, chấp nhận.
[208] Hán nguyện thứ 39: T12n0360, tr. 0269a06: 設我得佛國中人天所受快樂不如漏盡比丘者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, chư thiên, nhân loại ở trong quốc độ con, cảm nhận niềm vui sướng, không giống như các Tỷ-kheo đã đoạn tận phiền não sinh tử, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[209] Skt. sahotpannāḥ: Cùng sanh ra, cùng xuất sinh, cùng hiện sinh.
[210] Skt. evaṃ vidhaṃ: Cùng thời gian, giống thời gian.
[211] Skt. niṣparidāha: Xa lìa phiền não, thoát ly phiền não. Hán: lậu tận, phiền não tâm ly.
[212] Skt. ārhato bhikṣostṛtīyadhyāna samāpannasya: Vị Tỷ-kheo – A-la-hán nhập tam muội/thiền định/tĩnh lựu thứ ba. Hán: đệ tam tịnh lự.
[213] Hán nguyện thứ 40: 設我得佛 國中菩薩隨意 欲見十方無量 嚴淨佛土應時 如願於寶樹中 皆悉 照見猶 如 明鏡 覩 其而像若不爾 者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong quốc độ con, muốn thấy vô lượng quốc độ Phật trang nghiêm thanh tịnh trong mười phương, tức thì đúng như điều ước nguyện, lúc bấy giờ ngay nơi cây báu mà soi thấy giống như thấy cảnh vật ở trong gương. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[214] Skt. nānāratnavṛkṣebhyo: câu báu đặc biệt. Skt. ratnavṛkṣebhyo: cây báu. Hán: bảo thọ.
[215] Skt. tathārūpaṃ: Hình sắc như thật, hình sắc hợp với như thực, hình sắc nhất như.
[216] Skt. kāravyūhamākāṃkṣeyuḥ: Các loại trang nghiêm, nghiêm sức, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài. Hán: kỳ sức trang nghiêm chủng.
[217] Hán nguyện thứ 42: T12n0360, tr. 0269a12: 設我得佛他方國土諸菩薩衆聞我名字至于得佛諸根缺陋不具足者不取政覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở các quốc độ khác, từ khi nghe danh hiệu con cho đến lúc thành Phật, nếu các quan năng của họ không trọn vẹn, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[218] Skt. anyabuddhakṣetropapannā: Đã sanh những quốc độ Phật khác. Hán: tha phương quốc độ, tha Phật quốc sanh.
[219] Skt. indriyabalavaikalyaṃ: Các căn không hoàn bị. Hán: chư căn khuyết lậu, chư căn khuyết.
[220] Hán nguyện thứ 42: T12n0360, tr. 0269a17: 設我得佛他 方國土諸菩薩衆 聞我名字皆悉逮得清淨解脫三昧住是三昧一發意頃供养無量不可思議諸佛世尊而不失定意若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở các quốc độ khác, nghe danh hiệu con, đều liền được tam muội thanh tịnh giải thoát, chỉ trong một khoảnh khắc, phát khởi tâm ý cúng dường chư Phật - Thế Tôn không số lượng, bất khả tư nghị, nhưng tâm ý vẫn không rời khỏi tam muội. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[221] Skt. suvibhaktavatīṃ nāma samādhiṃ, Hán: Thiện phân biệt ngữ định: định an tịnh ngôn ngữ phân biệt; hoặc Thanh tịnh giải thoát tam muội: định của thanh tịnh giải thoát; hoặc Chỉ quán câu hành: định bao gồm cả chỉ và quán…
[222] Skt. ekaṣaṇavyatihāreṇa.
[223] Skt. paśyanti: Họ nhìn thấy. Do động từ căn paś: nhìn thấy, Hán: kiến, quán.
[224] Hán nguyện thứ 43: T12n0360, tr. 0269a19: 設我得佛他方國土諸菩薩衆聞我名字夀終之後生尊貴家若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở các quốc độ khác, nghe danh hiệu con, sau khi sinh mạng kết thúc, sanh vào gia tộc tôn quý. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[225] Skt. nābhijātakulopapattiṃ: Không sanh vào gia tộc tôn quý. Hán: vô tôn quý gia sanh. Do abhijātakulopapattiṃ: Sanh vào dòng dõi quý tộc. Hán: sanh tôn quý gia…Được hiểu do abhijātakula: Gia đình dòng dõi quý tộc, có Kula hình dung từ: thiện lành, tốt, ám chỉ dòng dõi hiền thiện, gia đình hình lành.Upapatti: Sinh ra, xuất hiện. Abhijātakulopapattiṃ: Sanh vào dòng dõi quý tộc. Hán dị ch là sanh tôn quý gia..
[226] Hán nguyện thứ 46: T12n0360, tr. 0269a22 設我得佛他方國 土諸菩薩衆聞我名 字歡喜踊躍修菩薩行 具足德本若不爾者不 取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở những quốc độ khác, khi nghe danh hiệu con, sung sướng đón mừng, tu tập hạnh Bồ-tát, đầy đủ gốc rễ công đức. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[227] Skt. kuśalamūla: gốc rễ thiện lành, Hán: Thiện căn.
[228] Skt. prītiprāmodya: sung sướng reo vui, Vui mà lại thêm vui. Hán: hỷ hoan hỷ, đại hoan hỷ, hay đại hoan hỷ dõng dược. Do prīti: Niềm vui ở trong chánh pháp. Hán: hỷ; prāmodya: Vui mừng hớn hở. Hán: hoan hỷ dõng dược, hoan hỷ. Bằng nghĩa với từ Skt. Abhyandan: sung sướng đón mừng, động từ abhi-nand: vui thích. Hán: 皆大歡喜 giai đại hoan hỷ, do phân tích ngữ pháp Skt. khác nhau nên dịch từ này khác nhau, Chân đế (Đại 8, tr.766b27): 踊躍歡喜dũng dược hoan hỷ.
[229] Skt. samavadhānagatā: Tụ hợp, tập hợp, câu hội, thành tựu viên mãn. Hán: hội đắc
[230] Skt. kuśalamūlasamavadhānagatā: Tập hợp thành tựu đầy đủ căn lành. Hán: cụ túc đức bản, thiện căn hội đắc.
[231] Hán nguyện thứ 45: T12n0360, tr. 0269a25: 設我得佛他方國 土諸菩薩衆聞我名字皆 悉逮得普等三昧住是三 昧至于成佛常見無量不 可思 議一 切如來若不爾 者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở những quốc độ khác, khi nghe danh hiệu con, đều được Phổ đẳng tam-muội, an trú ở trong tam muội này cho đến khi thành Phật, thường thấy tất cả Như Lai số lượng không thể kể xiết, bất khả tư nghị. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[232] Skt. samantānugataṃ nāma samādhiṃ, Hán: Phổ đẳng tam-muội.
[233] Skt. bodhimaṇḍaparyantam: Chứng nhập bồ đề tràng. Hán: diệu bồ đề, đạo tràng.
[234] Skt. Satkuvanti: Họ thường thấy, họ diện kiến. Hán: thường kiến, cung kính, tôn trọng.
[235] Hán: T12n0360, tr. 0269a29: 設我得佛國中菩薩隨其志願所欲聞法自然得聞若不爾者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở trong quốc độ con, tùy theo chí nguyện muốn nghe pháp của họ, là tự nhiên được nghe. Nếu không phải vậy, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[236] Skt. dharmadeśanāmākāṅkṣeyuḥśrotuṃ, Hán: Tùy kỳ chí nguyện sở dục văn pháp.
[237] Skt. sahacittopādānna: Liền khởi tâm, liền sinh tâm.
[238] Hán nguyện thứ 47: 設我得佛他方國土諸菩薩衆聞我名字不即得至不退轉者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở trong những quốc độ khác, nghe đến danh hiệu con, ngay đó không đạt được bậc Bồ-tát bất thối chuyển, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[239] Skt. nāvaivartikā: Không thoái chuyển, không thoái lui. Hán: bất thoái chuyển.
[240] Hán: T12n0360, tr. 0269b04: 設我得佛他方國土諸菩薩 衆聞我名字不即得至第一第二第三法忍於諸佛法不能卽 得不退轉者不取正覺: Giả sử khi con thành Phật, các chúng Bồ-tát ở những quốc độ khác, khi nghe danh hiệu con, ngay đó không được pháp nhẫn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, ở trong pháp của chư Phật, không thành tựu địa vị không còn chuyển động, thì con không chấp nhận ngôi Chánh giác.
[241] Skt. buddhaśāstur: đạo sư giác ngộ, bậc Thầy giác ngộ.
[242] Skt. kṣāntīḥ: Kham nhẫn, pháp nhẫn.
[243] Skt. prathama: Thứ nhất.
[244] Skt. Dvitīya: Thứ hai. Hán: đệ nhị.
[245] Skt. Tṛtīyā: Thứ ba. Hán: đệ tam.
[246] Skt. Buddhadharmasaṃghebhyaḥ: biến cách 5: xuất xứ cách, số nhiều: từ Phật, Pháp, Tăng.
(Satipatthanasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (Kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo,.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
– Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: “Tôi quay dài” hay khi quay ngắn, tuệ tri: “Tôi quay ngắn”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri: “Tôi đi”, hay đứng, tuệ tri: “Tôi đứng”, hay ngồi, tuệ tri: “Tôi ngồi”, hay nằm, tuệ tri: “Tôi nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy. Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm. Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”. Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”. Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm... chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ”; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: “Tôi cảm giác khổ thọ”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ”. Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất”; hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất”. Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất”; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất”. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất”; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất”. Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân” hay với tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, tuệ tri: “Tâm có si”; hay với tâm không si, tuệ tri: “Tâm không si”. Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: “Tâm được thâu nhiếp”. Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: “Tâm bị tán loạn”. Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: “Tâm được quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: “Tâm không được quảng đại”. Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, tuệ tri: “Tâm có định”; hay với tâm không định, tuệ tri: “Tâm không định”. Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: “Tâm có giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: “Tâm không giải thoát”.
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: “Nội tâm tôi có ái dục”; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có ái dục”. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: “Nội tâm tôi có sân hận”; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có sân hận”. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: “Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên”; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: “Nội tâm tôi có trạo hối”; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có trạo hối”. Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi có nghi”; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có nghi”. Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: “Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Đây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Đây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt”. Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy... tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: “Nội tâm tôi có niệm giác chi”; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi”. Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: “Nội tâm tôi có xả giác chi”; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có xả giác chi”. Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: “Đây là Khổ”; như thật tuệ tri: “Đây là Khổ tập”; như thật tuệ tri: “Đây là Khổ diệt”; như thật tuệ tri: “Đây là Con đường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn... Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
KINH NIỆM XỨ, THỨ MƯỜI HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________
>> 9.Kinh chánh tri kiến
Nam mô A Di Đà Phật
Một cũng chấp, hai cũng chấp, chất chứa trong lòng, chi cho khổ.
(Sammaditthisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. - “Hiền giả”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Chư Hiền, chánh tri kiến, chánh tri kiến, được gọi là như vậy. Chư Hiền, cho đến như thế nào, một Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
– Chúng tôi từ xa đến để được hiểu ý nghĩa lời nói ấy từ Tôn giả Sariputta. Thật lành thay, nếu Tôn giả Sariputta giảng cho ý nghĩa lời nói ấy. Sau khi nghe Tôn giả Sariputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
– Chư Hiền, vậy hãy nghe, hãy khéo tác ý. Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Hiền giả! - Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Sariputta.
Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Chư Hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bổn thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là bất thiện. Và chư Hiền, thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện. Và này chư Hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là thiện. Chư Hiền, thế nào là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư Hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như vậy, tuệ tri căn bổn bất thiện như vậy, tuệ tri thiện như vậy, tuệ tri căn bổn thiện như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Tôi là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả!
Các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta và hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:
– Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn, tuệ tri tập khởi của thức ăn, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn, và tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, chư Hiền khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi của thức ăn, thế nào là đoạn diệt của thức ăn, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn? Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các loài chúng sanh đã sanh được an trú hay các loài hữu tình sẽ sanh được hỗ trợ cho sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực, loại thô hay loại tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. Từ tập khởi của ái có tập khởi của thức ăn, từ đoạn diệt của ái có đoạn diệt của thức ăn. Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn như vậy, tuệ tri tập khởi của thức ăn như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức ăn như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Tôi là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả!
Các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:
– Này Hiền giả, có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ, tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri Đoạn diệt của khổ, tuệ tri con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của khổ, thế nào là Đoạn diệt của khổ, thế nào là con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Chư Hiền, như vậy gọi là Khổ. Chư Hiền, thế nào là Tập khởi của khổ? Chính là ái đưa đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, phi hữu ái. Chư Hiền, như vậy gọi là Tập khởi của khổ. Chư Hiền, thế nào là Đoạn diệt của khổ? Đó là sự đoạn diệt ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp khát ái ấy. Chư Hiền, thế nào là con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ? Chính là Thánh Đạo Tám Ngành đưa đến khổ diệt, tức là Chánh tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ như vậy, tuệ tri Tập khởi của khổ như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của khổ như vậy, tuệ tri con Đường đưa đến đoạn diệt của khổ như vậy, khi ấy vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên,... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử... (như trên)... thành tựu diệu pháp này?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết, tuệ tri tập khởi của già chết, tuệ tri đoạn diệt của già chết, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến,... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là già chết, thế nào là tập khởi của già chết, thế nào là đoạn diệt của già chết, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của già chết? Thuộc bất kỳ hữu tính giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn, tuổi thọ ngày một hao mòn, bại hoại các căn; chư Hiền, như vậy gọi là già. Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết. Già như vậy và chết như vậy, chư Hiền, như vậy gọi là già chết. Từ sự tập khởi của sanh, có sự tập khởi của già chết, từ sự đoạn diệt của sanh, có sự đoạn diệt của già chết. Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, tức là: Chánh Tri kiến... (như trên)... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết như vậy, tuệ tri tập khởi của già chết như vậy, tuệ tri đoạn diệt của già chết như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của già chết như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên... (như trên)..., và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sanh, tuệ tri tập khởi của sanh, tuệ tri đoạn diệt của sanh, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là sanh, thế nào là tập khởi của sanh, thế nào là đoạn diệt của sanh, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh? Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ; Chư Hiền, như vậy gọi là sanh. Từ sự tập khởi của hữu có sự tập khởi của sanh, từ sự đoạn diệt của hữu, có sự đoạn diệt của sanh, và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri được sanh như vậy, tuệ tri được tập khởi của sanh như vậy, tuệ tri được đoạn diệt của sanh như vậy, tuệ tri được con đường đưa đến đoạn diệt của sanh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... (như trên)... như vậy... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu, tuệ tri tập khởi của hữu, tuệ tri đoạn diệt của hữu, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là hữu, thế nào là tập khởi của hữu, thế nào là đoạn diệt của hữu, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của hữu? Chư Hiền, có ba hữu này: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Từ tập khởi của thủ, có tập khởi của hữu; từ đoạn diệt của thủ có đoạn diệt của hữu và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu như vậy, tuệ tri tập khởi của hữu như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hữu như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hữu như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri tập khởi của thủ, tuệ tri đoạn diệt của thủ, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh Tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là thủ, thế nào là tập khởi của thủ, thế nào là đoạn diệt của thủ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ? Chư Hiền, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thủ; từ đoạn diệt của ái, có đoạn diệt của thủ; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thủ, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ như vậy, tuệ tri tập khởi của thủ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thủ như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thủ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái, tuệ tri tập khởi của ái, tuệ tri đoạn diệt của ái, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của ái, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh Tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là ái, thế nào là tập khởi của ái, thế nào là đoạn diệt của ái, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của ái? Chư Hiền, có sáu loại này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Từ tập khởi của thọ, có tập của ái, từ đoạn diệt của thọ, có đoạn diệt của ái, và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của ái, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái như vậy, tuệ tri tập khởi của ái như vậy, tuệ tri đoạn diệt của ái như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của ái như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ, tuệ tri tập khởi của thọ, tuệ tri đoạn diệt của thọ, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là thọ, thế nào là tập khởi của thọ, thế nào là đoạn diệt của thọ, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ? Chư Hiền, có sáu loại thọ này: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Từ tập khởi của xúc, có tập khởi của thọ; từ đoạn diệt của xúc, có đoạn diệt của thọ; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ như vậy, tuệ tri tập khởi của thọ như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thọ như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thọ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc, tuệ tri tập khởi của xúc, tuệ tri đoạn diệt của xúc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là xúc, thế nào là tập khởi của xúc, thế nào là đoạn diệt của xúc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc? Chư Hiền, có sau loại xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Từ tập khởi của sáu nhập, có tập khởi từ xúc; từ đoạn diệt của sáu nhập, có đoạn diệt của xúc, và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc như vậy, tuệ tri tập khởi của xúc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của xúc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của xúc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... câu hỏi như sau: Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập, tuệ tri tập khởi của sáu nhập, tuệ tri đoạn diệt của sáu nhập, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là sáu nhập, thế nào là tập khởi của sáu nhập, thế nào là đoạn diệt của sáu nhập, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập? Chư Hiền, có sáu nhập này: nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Từ tập khởi của danh sắc có tập khởi của sáu nhập; từ đoạn diệt của danh sắc có đoạn diệt của sáu nhập; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, chỉ khi nào vị Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập như vậy, tuệ tri tập khởi của sáu nhập như vậy, tuệ tri đoạn diệt của sáu nhập như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu hạnh pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh sắc, tuệ tri tập khởi của danh sắc, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là danh sắc, thế nào là tập khởi của danh sắc, thế nào là đoạn diệt của danh sắc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, chư Hiền, như vậy gọi là danh; bốn đại và sắc do bốn đại tạo thành, chư Hiền, như vậy gọi là sắc; như vậy đây là danh và đây là sắc, Chư Hiền, như vậy gọi là danh sắc. Từ tập khởi của thức, có tập khởi của danh sắc; từ đoạn diệt của thức, có đoạn diệt của danh sắc; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh sắc như vậy, tuệ tri tập khởi của danh sắc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của danh sắc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của danh sắc như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức, tuệ tri tập khởi của thức, tuệ tri đoạn diệt của thức, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là thức, thế nào là tập khởi của thức, thế nào là đoạn diệt của thức, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức? Chư Hiền, có sáu loại thức này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Từ tập khởi của hành, có tập khởi của thức; từ đoạn diệt của hành có đoạn diệt của thức; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức như vậy, tuệ tri tập khởi của thức như vậy, tuệ tri đoạn diệt của thức như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của thức như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành, tuệ tri tập khởi của hành, tuệ tri đoạn diệt của hành, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hành, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là hành, thế nào là tập khởi của hành, thế nào là đoạn diệt của hành, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của hành? Chư Hiền, có ba loại hành này: thân hành, ngữ hành, tâm hành. Từ tập khởi của vô minh, có tập khởi của hành; từ đoạn diệt của vô minh, có đoạn diệt của hành; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của hành, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành như vậy, tuệ tri tập khởi của hành như vậy, tuệ tri đoạn diệt của hành như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của hành như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả... (như trên)... Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác...?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh, tuệ tri tập khởi của vô minh, tuệ tri đoạn diệt của vô minh, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, khi ấy, Thánh đệ tử có chánh tri kiến... (như trên)... và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là vô minh, thế nào là tập khởi của vô minh, thế nào là đoạn diệt của vô minh, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh? Sự không tuệ tri về khổ, không tuệ tri về khổ tập, không tuệ tri về khổ diệt, không tuệ tri về con đường đưa đến khổ diệt, Chư Hiền, như vậy gọi là vô minh. Từ tập khởi của lậu hoặc, có tập khởi của vô minh; từ đoạn diệt của lậu hoặc, có đoạn diệt của vô minh; và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, tức là: Chánh Tri kiến... Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh như vậy, tuệ tri tập khởi của vô minh như vậy, tuệ tri đoạn diệt của vô minh như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên... và thành tựu diệu pháp này.
– Lành thay, Hiền giả!
Các vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta, liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:
– Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
– Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc, tuệ tri tập khởi của lậu hoặc, tuệ tri đoạn diệt của lậu hoặc, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc. Chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này. Chư Hiền, thế nào là lậu hoặc, thế nào là tập khởi của lậu hoặc, thế nào là đoạn diệt của lậu hoặc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc? Chư Hiền, có ba lậu hoặc này: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Từ tập khởi của vô minh có tập khởi của lậu hoặc; từ đoạn diệt của vô minh có đoạn diệt của lậu hoặc và Thánh Đạo Tám Ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc, tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc như vậy, tuệ tri tập khởi của lậu hoặc như vậy, tuệ tri đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, tuệ tri con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Tôi là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Chư Hiền, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.
KINH CHÁNH TRI KIẾN, THỨ CHÍN HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________
>>> 8.Kinh đoạn giảm
NGUYỆN HƯƠNG
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.O
Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni tác đại chứng minh.O
Nam mô Bồ-tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.O
Nam mô Phật hoàng Trần Nhân Tông tác đại chứng minh.O
Chúng con….
Đốt nén tâm hương nguyện chí thành,
Nhất tâm cung kính Phật Bồ-tát
Nguyện cầu Tam bảo thường gia hộ,
Hạnh phúc bình an khắp muôn loài.
Nam mô Bồ-tát hương cúng dường. (3 lần)OOO
Hôm nay là ngày … tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài tác lễ sám hối tụng Kinh Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.O
Cúi mong Tam Bảo thường ở mười phương quang giáng đạo tràng chứng minh cho lòng thành của chúng con, khiến chúng con oan khiên dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin Tam Bảo càng sâu, tâm từ đối với chúng sinh tăng trưởng. Nguyện cho chính pháp được lan truyền khắp chốn, lời Phật dạy được phổ biến muôn nơi, người người từ bỏ tham, giận, si mê, tưới tẩm từ bi, hạnh phúc, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, làm lành lánh dữ, thế giới dứt nghiệp binh đao, muôn loài an vui giải thoát.O
Tất cả đệ tử chúng con thành tâm quỳ trước Phật đài đồng sám hối cầu siêu, hồi hướng cho các hương linh, anh linh các oan hồn uổng tử, các chiến sĩ trận vong, các anh hùng nghĩa tử được thính pháp nghe kinh, được thừa tư công đức, phát tâm tỉnh giác, lìa khổ tối tăm, khởi niệm từ bi, xa rời đường dữ, tin sâu Tam Bảo, tin cõi Phật an vui.O
Khắp nguyện: Kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp, mọi người đều chứng ngộ Phật thừa.O
Nam-mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni.OOO
CA NGỢI TAM BẢO
Phật là đấng giác ngộ mình,
Độ người thoát khỏi, tử sinh bao đời.
Từ bi, trí tuệ rạng ngời,
Là thầy ba cõi, trời người xưa nay.O
Pháp là phương thuốc diệu thay,
Chữa lành bệnh khổ, muôn loài chúng sinh.
Như vầng trăng sáng lung linh,
Soi đường ra khỏi, u minh mê mờ.O
Tăng là những bậc chân tu,
Biết đời huyễn mộng, giã từ ra đi.
Thấm nhuần trí tuệ, từ bi,
Độ đời thoát khỏi tham si…. khổ sầu.O
Nam mô hoan hỷ tạng Bồ-tát. (3 lần)OOO
TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp
Nay con nghe thấy xin trì tụng
Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu
Nam mô khai pháp tạng Bồ-tát. (3 lần)O
TÁN PHẬT
Đại từ đại bi thương chúng sinh.
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài.
Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm.
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.O
ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) O
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chánh pháp ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) O
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời thường trú trong mười phương. (Lạy một lạy) OOO
( Bắt đầu vô chuông mõ )
Một tiếng chuông ba tiếng mõ.
Một tiếng chuông một tiếng mõ.
Một tiếng chuông một tiếng mõ.
Một tiếng chuông năm tiếng mõ.
PHÁT NGUYỆN TRÌ KINH
Lạy đấng thầy ba cõi,
Quy mạng Phật mười phương,
Nay con phát nguyện lớn,
Tụng kinh cuộc đời Phật,
Kinh Phước Đức Từ Tâm
Kinh Suy Niệm Về Nghiệp
Yếu chỉ Kinh Áo Trắng
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ muôn loài,
Nguyện cho người thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ-đề,
Sống an vui giải thoát. O
Nam-mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni. (3 lần) OOO
Bài 1: KINH CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT
Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta
Có mẹ có cha, giống như mọi người.
Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da
Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài.
Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời
Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.
Kế mẫu em bà, thay chị nuôi con
Đến khi khôn lớn, vua cha cưới vợ.
Công chúa xinh đẹp, Da Du Đà La
Tính nết hiền hòa, con vua Thiện Giác.
Thật là xứng đôi, trai tài gái sắc
Tuy sống giàu sang, trong cảnh huy hoàng.O
Một hôm Thái tử, dạo chơi bốn cửa
Tìm hiểu sự sống, dân tình ra sao?
Thấy cảnh người già, thân hình tiều tụy
Đi đứng khó khăn, gối mỏi lưng còng.
Rồi thấy người bệnh, nằm rên một chỗ
Tâm thần bấn loạn, đau khổ não nề.
Lại thấy một người, ruồi bu kiến đậu
Nằm yên một chỗ, chẳng còn biết chi.
Thái tử buồn rầu, thấy cảnh đau thương
Mới hỏi Sa Nặc, vì sao như thế?
Sa Nặc trả lời, dạ thưa Thái tử
Sinh già bệnh chết, chẳng chừa một ai?
Rồi đến bữa khác, Thái tử dạo tiếp
Thấy một Sa Môn, đạo cao đức trọng.
Đi đứng khoan thai, dáng người thoát tục
Ngài mới hỏi rằng, vì sao đi tu.
Dạ thưa Thái tử, cuộc sống tu hành
Ngày ăn một bữa, vừa đủ nuôi thân.
Mỗi ngày quán chiếu, sự sống thế gian
Mọi vật vô thường, có gì luyến tiếc?
Buông xả tất cả, để được giải thoát
Tu hành như thế, mới thật là vui!
Thái tử nghe qua, lòng mừng vô hạn
Từ đây về sau, tìm ra manh mối.
Mới trình vua cha, cho con xuất gia
Làm hạnh khất sĩ, rày đây mai đó.
Trên cầu Thành Phật, dưới độ chúng sinh
Thoát khỏi khổ đau, sinh già bệnh chết?
Khi nghe như thế, đức vua Tịnh Phạn
Lòng buồn rười rượi, không biết làm sao?
Vua cha mới nói, ta chỉ mình con
Kế thừa ngai vị, đến già rồi tu?
Thái tử thưa cha, giờ này còn trẻ
Không chịu lo tu, đến lúc tuổi già.
Thói quen tham đắm, dính mắc lâu ngày
Làm sao buông xả, sân giận si mê?
Thái tử thưa rằng, xin cha hoan hỷ
Cho con xin hỏi, bốn điều tâm huyết.
Nếu cha giải được, con xin ở lại
Kế thừa ngôi vua, trị vì thiên hạ.
Làm sao cho con, trẻ mãi không già?
Làm sao cho con, sống đời không bệnh?
Làm sao cho con, sống hoài không chết?O
Làm sao cho con, thoát khỏi tử sinh?
Đức vua Tịnh Phạn, nghe con nói thế
Trong lòng đau khổ, chẳng biết làm sao!
Giải đáp thắc mắc, cho con tỏ tường
Nên đành chấp nhận, Thái tử xuất gia.
Về phần vợ nhà, Thái tử thuyết phục
Da Du Đà La, vui vẻ nuôi con.
Đến khi khôn lớn, tiếp bước theo cha
Sống đời thoát tục, rộng độ muôn loài.
Công chúa Đà La, hoan hỷ vô cùng
Vì tròn tâm nguyện, cứu độ chúng sinh.
Sắp xếp mọi việc, Thái tử lên đường
Mùng tám tháng hai, vượt thành xuất gia.
Thời gian năm năm, cầu đạo hai thầy
Chẳng chứng giải thoát, nên đành rút lui.
Thái tử nghe đâu, lối tu khổ hạnh
Có thể chứng đạt, Niết-bàn vô sinh.
Sáu năm khổ hạnh, quyết tâm hành trì
Đến khi thân thể, còn da bọc xương.
Thái tử ngất xỉu, nằm bên vệ đường
Thiếu nữ chăn bò, động lòng thương xót.
Dâng cho bát sữa, chàng liền tỉnh lại
Mới ngồi quán chiếu, biết mình đã sai.
Từ nay xả bỏ, cực đoan hai đầu
Quay về trung đạo, tâm thần sáng trong.
Để không lỗi đạo, tu hành xưa nay
Ngài liền phát nguyện, dưới cội Bồ-đề.
Ta đây dù có, tan xương nát thịt
Nếu không thành đạo, thà chết chỗ này.
Sau bốn mươi chín, ngày đêm miên mật
Ngài đã thực chứng, Niết-bàn vô sinh.
Không còn khổ đau, luân hồi sống chết
Năm ấy nhằm ngày, tám tháng mười hai.
Sau khi giáo hóa, bốn mươi chín năm
Mười lăm tháng hai, Ngài nhập Niết-bàn.
Mọi người mới hỏi, lấy ai làm thầy
Phật dạy bốn chúng, lấy giới làm đầu.
Siêng tu thiền định, sáng soi chính mình
Buông xả hai bên, thành tựu giải thoát.
Ai biết hành trì, phước huệ song tu
Tu hạnh Bồ-tát, chứng thành Phật quả.
Chẳng cầu Tây phương, về cõi Cực Lạc
Ngay nơi cõi này, cứu độ chúng sinh.
Đền trả bốn ân, cứu giúp ba cõi
Tu theo hạnh nguyện, Bồ-tát Quán Âm.
Cứu khổ ban vui, tốt đạo đẹp đời
Tứ chúng nghe xong, thảy đều hoan hỷ.
Phát nguyện vâng lời, tu bát chánh đạo
Từ bi hỷ xả, rộng độ chúng sinh.
Dìu dắt mọi người, tu hạnh Bồ-tát
Cho đến khi nào, thành Phật mới thôi.
Bốn chúng đồng tu, hãy nghe cho rõ
Tự mình thắp lên, ánh sáng trí tuệ.
Chứ đừng van xin, cầu cạnh bên ngoài
Không khéo vô tình, phỉ báng pháp ta.
Làm chủ bản thân, quay lại chính mình
Sống đời giải thoát, an vui lâu dài.OOO
BÀI 2: KINH PHƯỚC ĐỨC
Tôi được nghe như vầy, một thời đức Thế tôn, trú tại thành Xá Vệ, nơi rừng cây Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc. Đêm hôm đó trời đã khuya, bỗng cả khu vườn hiện lên ánh hào quang sáng chói bởi một chư Thiên muốn gặp Phật để tham vấn đạo lý. Sau khi đảnh lễ đức Thế tôn, chư Thiên ngồi sang một bên rồi thưa hỏi rằng: “Chư Thiên cùng nhân loại làm thế nào để được sống bình yên và hạnh phúc? Kính xin Thế tôn chỉ dạy” “Lành thay! Lành thay! Thiên nhân khéo biết cách thưa hỏi, ta sẽ vì ngươi chỉ dạy 10 phương pháp gieo trồng phước đức, để làm lợi lạc cho Trời Người trong hiện tại và mai sau”.
1-Phương pháp thứ nhất là:
Luôn gần gũi người hiền
Lánh xa kẻ xấu ác
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất.
2-Phương pháp thứ hai là:
Biết chọn môi trường tốt
Để làm các việc lành
Cùng hướng về đường thiện
Là phước đức lớn nhất.
3-Phương pháp thứ ba là:
Siêng học lại giỏi nghề
Biết giữ gìn đạo đức
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất.
4-Phương pháp thứ tư là:
Biết hiếu dưỡng cha mẹ
Thương yêu gia đình mình
Lại làm nghề thích hợp
Là phước đức lớn nhất.
5-Phương pháp thứ năm là:
Sống vui vẻ bố thí
Giúp gia đình người thân
Bình đẳng tùy theo duyên
Là phước đức lớn nhất.
6-Phương pháp thứ sáu là:
Tránh không làm điều ác
Không say sưa, nghiện ngập
Siêng năng làm việc lành
Là phước đức lớn nhất.
7-Phương pháp thứ bảy là:
Biết khiêm cung lễ độ
Để học hỏi điều hay
Nhớ ơn và biết đủ
Là phước đức lớn nhất
8- Phương pháp thứ tám là:
Biết kiên trì phục thiện
Thân cận bậc hiền Thánh
Siêng năng cùng tu học
Là phước đức lớn nhất.
9-Phương pháp thứ chín là:
Sống tinh cần tỉnh thức
Biết quay lại chính mình
Để sống đời giải thoát
Là phước đức lớn nhất.
10- Phương pháp thứ mười là:
Làm việc cùng mọi người
Tâm không hề thay đổi
Não phiền dứt, an nhiên
Là phước đức lớn nhất.
Ai sống được như vậy
Ở đâu cũng hạnh phúc
An nhiên và tự tại
Vì phước đức vẹn toàn.OOO
BÀI 3: KINH TỪ TÂM
Tôi nghe rằng có một thời,
Tại thành Xá-vệ, ở nơi Kỳ Hoàn.
Thế Tôn cho gọi chúng tăng,
Các thầy cung kính thưa vâng đáp lời.
Thế Tôn thuyết giảng pháp lành
Khuyên người tu tập nên hành từ tâm.
Là người nên tập bao dung
Thương yêu trải khắp kẻ gần người xa.
Tấm lòng nhân ái bao la,
Thật là thuần khiết, thật là cao thâm.
Hướng về tất cả chúng sinh,
Tâm từ tu tập thương yêu giúp người.
Không vì ái luyến vấn vương,
Không vì mong đợi chút đường lợi danh,
Không vì ân nghĩa riêng tình,
Cũng đừng cân nhắc với mình lạ quen.
Thương người quen, lẽ tất nhiên,
Cũng thương những kẻ chưa quen bao giờ
Xoá đi ngăn cách thờ ơ,
Xóa đi ngần ngại hững hờ bấy lâu.
Tình thương lan tỏa đến đâu,
Giúp xây nơi ấy nhịp cầu cảm thông.
Người từ tâm đủ bao dung,
Đủ lòng độ lượng, đủ lòng thương yêu.
Với người mưu hại đủ điều,
Bất nhân ác cảm gây nhiều thương đau
Người từ tâm trước như sau:
Trải lòng ra mãi, thương nhau tình người.
Với người oán ghét bao đời,
Nguồn thương yêu ấy làm vơi tị hiềm.
Chuyện không hay, chẳng trách phiền,
Để cho vơi bớt nghiệp duyên với người.
Người từ tâm trước muôn loài,
Đem lòng thương xót cảnh đời không may.
Thương người sống kiếp đọa đày,
Làm thân cầm thú nghiệp gây chẳng lành.
Hoặc loài ngạ quỷ vô hình,
Hoặc trong địa ngục tội tình vương mang.
Tâm từ như ánh trăng ngàn,
Dịu dàng soi thấu mọi đàng trầm luân.
Ở đâu có chúng hữu tình
Thì ngay nơi ấy từ tâm hướng về.
Như tàng lá mát rộng che,
Chúng sanh vô lượng tâm từ vô biên.
Tâm từ như suối triền miên,
Thấm vào mạch sống mọi miền an vui.
Tâm từ làm gốc vun bồi,
Cho người cao thượng cho đời vinh hoa.
Thấy người khổ nạn khó qua,
Lòng mình đau xót như là khổ chung.
Thấy người hạnh phúc thành công,
Lòng mình sung sướng như cùng vui theo.
Thấy người lầm lỗi ít nhiều,
Lòng mình tha thứ mến trìu càng hơn.
Người từ tâm sống vẹn toàn,
Thương yêu bình đẳng, sắt son bền lòng.
Cho dù không ước không mong,
Phước lành tự đến do công đức thành:
Một là ngủ được an lành,
Bởi lòng mình đã chân thành thương yêu,
Bởi không lừa lọc dệt thêu,
Bởi không toan tính lắm điều chua ngoa.
Tâm tình không gợn xấu xa,
Tham lam, sân hận, cùng là si mê.
Đầu hôm đến lúc tinh mơ,
Khổ ưu tắt lịm, thới thơ giấc nồng.
Hai là rời bước khỏi giường,
Lòng mình một mực bình thường an vui.
Khi đi đứng, lúc nằm ngồi
Không còn tiếc nhớ đua đòi ước ao.
Từ tâm hóa giải đẹp sao,
Muộn phiền sân hận tan vào hư không.
Lòng mình luôn giữ trắng trong,
Để nguồn an lạc dạt dào bao la.
Ba là từ ái lan xa,
Làm cho cảm ứng chan hòa cùng nhau.
Ai ai cũng thấy mến yêu,
Đem lòng ngưỡng mộ người nêu tâm từ.
Bốn là loài chẳng phải người,
Một khi cảm nhận biết người từ tâm,
Cũng dành cho những tình thân,
Hộ trì người được những thành tựu vui.
Năm là thiên chúng cõi trời,
Nhờ công tu tập nên người từ tâm.
Thấy người nào tính ai lân,
Nay theo gia hộ để cùng tiến tu.
Sáu là hiểm nạn đang chờ,
Dầu sôi lửa bỏng mịt mờ kiếm cung,
Cùng bao nhiêu thứ độc trùng
Không sao xâm phạm đến vùng trú thân.
Bảy do huân tập từ tâm,
Thác sanh Phạm Chúng, làm dân cõi trời,
Được nhiều phước báo tuyệt vời,
Và tâm từ được trau dồi thêm lên.
Tám là đầy đủ thiện duyên,
Người từ tâm biết thường xuyên chuyên cần.
Làm cho đức hạnh được thuần,
Thành vườn ruộng tốt gieo trồng đại bi.
Đượm nhuần vô ngã, vô si,
Con đường giải thoát bước đi thêm gần.
Khéo an trú, khéo tác thành,
Thân tâm an ổn, vững vàng, lắng sâu.
Tâm từ khi được khéo tu,
Làm cho trói buộc được mau tháo dần.
Không còn dấu vết tham sân,
Niết-bàn hiển lộ thênh thang giữa đời.
Thế Tôn thuyết giảng mấy lời,
Mọi người vui nhận tin rồi làm theo.
Nam-mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni. (3 lần) OOO
BÀI 4: KINH SUY NIỆM VỀ NGHIỆP
Tất cả chúng sinh là chủ nhân của nghiệp cũng là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc, là điểm tựa cho vạn loài. Chính nghiệp phân chia sự dị biệt cao thấp trong đời.
Chính mình làm việc ác nên khiến mình uế trược. Chính mình làm việc lành nên khiến mình thanh tịnh. Thanh tịnh hay uế trược đều do mình, không ai có thể khiến người khác tịnh thanh hay uế trược.
Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm bất thiện thì đau khổ sẽ theo mình như bánh xe theo chân con vật kéo.Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm hiền thiện thì hạnh phúc sẽ theo mình như bóng không rời hình.
Khi ác nghiệp chưa trổ quả thì người ác chưa thấy là ác. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người ác mới thấy là ác. Khi thiện nghiệp chưa trổ quả thì người thiện chưa thấy là thiện. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người thiện mới thấy là thiện.
Không phải do dòng dõi thọ sanh mà một người cao quí hay thấp hèn. Chính hành vi tạo tác khiến người thấp hèn hay cao quí. Mỗi chúng sanh là kết tinh của những gì đã tạo và sẽ là kết quả những gì đang tạo. Quá khứ, hiện tại, tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện.
Ðời nầy đau khổ, đời sau cũng đau khổ. Người tạo nghiệp bất thiện đau khổ cả hai đời. Xét ác nghiệp đã làm khiến lòng sầu khổ, sinh vào khổ cảnh nỗi khổ nhiều hơn. Kiếp nầy an lạc, kiếp sau cũng an lạc. Người tạo nghiệp lành hai đời an lạc. Xét việc thiện đã làm tự tâm hoan hỷ, sanh vào lạc cảnh hạnh phúc nhiều hơn.
BÀI 5: PHẬT DẠY KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG
Tôi nghe như vầy. Một thời đức Phật ở chùa Kỳ Viên do Cấp Cô Độc, thái tử Kỳ-đà phát tâm hiến cúng. Vào sáng hôm nọ, ông Cấp Cô Độc cùng với năm trăm cư sĩ thuần thành viếng thăm, đảnh lễ ngài Xá-lợi-phất, rồi ngồi một bên. Ngài Xá-lợi-phất dùng nhiều phương tiện, thuyết pháp khai tâm cho các cư sĩ, mang lại niềm vui và sự khát ngưỡng đối với Tam bảo và sự thực tập con đường chuyển hóa.O
Ngài Xá-lợi-phất hướng dẫn tất cả đến viếng đức Phật, đầu thành năm vóc, đảnh lễ chân Người, rồi ngồi một bên, an trú chính niệm. Thế Tôn ân cần dạy bảo mọi người những điều cốt lõi mà người tại gia cần siêng thực hành, để được an vui.
Này các đệ tử, cư sĩ tại gia sống đời thanh cao, giữ gìn trọn vẹn năm điều đạo đức, tu tập đầy đủ bốn tâm cao thượng, có thể đạt được một cách dễ dàng phước và hạnh phúc ở trong hiện tại và biết chắc rằng không còn rơi rớt trong các nẻo ác: Địa ngục, ngạ quỷ và loài động vật trong kiếp tương lai. Đồng thời, người ấy đã được chắc chắn dự vào dòng thánh ở quả thứ nhất.O
Đạo đức thứ nhất: Phật tử tại gia quyết tâm xa lìa mọi sự giết hại, buông bỏ vũ khí, chấm dứt bạo động, tu tập từ bi, thương xót mọi loài, bảo vệ thiên nhiên, biết sống hổ thẹn, lương tâm trong sáng. Nhờ thực tập đúng, Phật tử tại gia nhổ tận gốc rễ tâm niệm giết hại, sống trong hạnh phúc và sự an vui.O
Đạo đức thứ hai: Phật tử tại gia quyết tâm xa lìa mọi sự trộm cắp, tôn trọng sở hữu hợp pháp của người, những gì không cho thì không được lấy; vui thích bố thí, cứu người giúp đời vượt qua nghèo khổ; lúc bố thí thì không cầu đền đáp. Nhờ thực tập này, Phật tử tại gia không bị tâm lý tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt che lấp, sống trong liêm khiết, giàu lòng vị tha.O
Đạo đức thứ ba: Phật tử tại gia quyết tâm xa lìa tà dâm ngoại tình, sống hạnh chung thủy, bảo vệ hạnh phúc tất cả mọi người trong sự bảo hộ của cha và mẹ, hoặc cả cha mẹ, hoặc anh chị em, hoặc bên sui gia, hoặc người đồng tính, hoặc vợ chồng con của mình và người, cả kẻ cuồng dâm, bạo lực gia đình, hoặc kẻ bán phấn. Nhờ thực tập này, Phật tử tại gia không bị tâm lý hưởng thụ thấp kém làm mất hạnh phúc.O
Đạo đức thứ tư: Phật tử tại gia quyết tâm xa lìa những lời dối gạt, chấm dứt nói láo - tuyên bố sự thật, không nói chia rẽ - nói lời xây dựng, không nói thô tục - nói lời lịch sự, không nói tán gẫu - nói lời lợi lạc. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng an trú chính niệm, đáng được tin cậy, uy tín tăng trưởng.O
Đạo đức thứ năm: Phật tử tại gia quyết tâm xa lìa rượu và ma túy, các chất gây say; chấm dứt thói quen hưởng thụ độc tố; không tham gia sản xuất, buôn bán các độc tố này. Nhờ thực tập này, đệ tử áo trắng giữ gìn sức khỏe và sống hạnh phúc với người thân thương.O
Này các đệ tử, làm người áo trắng, sống đời tại gia, hãy cố gắng giữ năm điều đạo đức vừa được tuyên thuyết, để sống hạnh phúc với nhiều phước báo trong hiện tại và mai sau.
Này các đệ tử, hãy lắng lòng nghe Như Lai giảng dạy phương pháp đạt được bốn tâm cao thượng trong hiện tại này, một cách dễ dàng với nhiều giá trị.
Tâm cao thượng một: Phật tử tại gia quán niệm Như Lai là bậc Giác ngộ không còn dính mắc, bậc Minh Hạnh Túc, là bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, là Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn. Nhờ quán niệm này, vọng tâm, dục niệm thảy đều tiêu diệt; không còn yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ, lo âu ảnh hưởng, chi phối. Nhờ quán tưởng Phật, tâm được lắng trong, đạt an vui lớn.O
Tâm cao thượng hai: Phật tử tại gia quán niệm chính pháp được Phật giảng dạy tài tình dễ hiểu, có khả năng lớn đưa đến giải thoát mọi sự khổ đau và các phiền não; tâm được thư thái, không bị nóng bức, an vui lâu dài.O
Tâm cao thượng ba: Phật tử tại gia quán niệm Tăng đoàn của đức Như Lai, đi trên nẻo thiện, thánh đạo chân chánh, hướng theo giáo pháp, thực tập giáo pháp, sống đúng giáo pháp. Có vị đã chứng quả A-la-hán, quả A-na-hàm, quả Tư-đà-hàm, quả Tu-đà-hoàn, hoặc đang trên đường đạt các quả ấy. Tăng đoàn gồm đủ bốn đôi, tám bậc, thành tựu đạo đức, thiền định, trí tuệ, giải thoát cũng như tri kiến giải thoát. Thánh chúng như thế đáng được tôn kính, phụng sự, cúng dường, là ruộng phước tốt cho đời gieo trồng.O
Tâm cao thượng bốn: Phật tử tại gia quán niệm giới luật được Phật giảng dạy không có khuyết điểm, không bị tỳ vết, không bị nhơ uế, có khả năng lớn bảo hộ đạo đức, giúp người giữ giới an trú vững chãi trong cảnh giới Phật. Giới này thanh cao vốn được hiền trí khen ngợi, tiếp nhận, thực tập, truyền bá.O
Này các đệ tử, nên ghi nhớ rằng khi thực tập được bốn tâm cao thượng một cách trọn vẹn là đã chấm dứt các nẻo xấu ác, không còn đọa lạc địa ngục, ngạ quỷ và loài súc sanh, hướng đến chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, ngay trong hiện tại. Người đệ tử ấy đi về nẻo giác, chuyển hóa phiền não, thanh tịnh thân tâm; qua lại tối đa bảy lần sinh tử trong cõi trời người là có thể đạt giác ngộ, giải thoát, không còn khổ đau.
Sau khi tuyên thuyết năm điều đạo đức, bốn tâm cao thượng, Thế Tôn ân cần trùng tuyên tóm tắt bằng một bài kệ dễ hiểu sau đây:
Người tại gia sáng suốt,
Sợ các cảnh giới xấu,
Siêng thực tập chính pháp,
Chuyển hóa mọi khổ đau.
Giữ năm điều đạo đức:
Không giết hại sự sống,
Chân thật, không trộm cắp,
Chung thủy trong hôn nhân,
Không nói lời tổn hại,
Không rượu và ma túy.
Người đệ tử áo trắng
Thường thực tập niệm Phật,
Thường thực tập niệm Pháp,
Thường thực tập niệm Tăng,
Thường quán niệm đạo đức,
Nhờ đó, tâm thảnh thơi.
Người Phật tử tại gia
Hoan hỷ với bố thí,
Gieo trồng phước hiện tiền,
Khéo thực tập chính niệm,
Giác ngộ và giải thoát.
Hãy quan sát đàn bò
Có con vàng, đỏ, trắng,
Một màu hoặc có đốm;
Dù bò màu sắc gì,
Hoặc xuất xứ từ đâu,
Giá trị thật của bò,
Là ở sức chuyên chở.
Là con bò hữu dụng
Phải có sức khỏe mạnh,
Kéo xe, chuyên chở nhiều,
Giúp chủ trong công việc.
Trong thế giới con người
Dù xuất thân thế nào,
Già trẻ hay nam, nữ
Vua chúa hay thương gia
Tu sĩ hay thường dân,
Bất kỳ ai giữ giới,
Sống trong sạch, đứng đắn,
Trở thành người đạo đức,
Khéo vượt khổ, thảnh thơi,
Đạt được sự giác ngộ.
Cúng dường người như vậy
Sẽ được phước đức lớn.
Như Lai không phân biệt
Giai cấp và nguồn gốc.
Kẻ không có tài đức
Không lợi lạc cho ai.
Cúng dường người như thế
Không có giá trị nhiều.
Phật tử siêng tu huệ,
Tâm hướng về Phật pháp,
Căn lành luôn tăng trưởng,
Hiện đời được hạnh phúc,
Khi chết tái sinh lành,
Qua lại trong trời người,
Nhiều nhất là bảy lần,
Tiếp tục tu nhân lành,
Đạt niết-bàn giải thoát.
Nghe Phật dạy xong, ngài Xá-lợi-phất, Cấp Cô Độc và năm trăm cư sĩ cảm thấy hân hoan, phát nguyện làm theo những điều Phật dạy, đồng thời phát nguyện truyền bá lời Phật, đem lại lợi lạc cho khắp mọi người.OOO
KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
CỦA HÀNG BỒ-TÁT
Là người đệ tử Phật, ngày đêm nên chí thành, nhớ nghĩ và tư duy, về tám điều giác ngộ, của các bậc Bồ-tát.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NHẤT: Thế gian vốn vô thường, cõi nước rất mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội, nếu quán sát như thế, dần hồi lìa tử sinh.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ HAI: Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục khởi, nếu ít muốn biết đủ, thân tâm được an lành.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ BA: Tâm nếu không thỏa mãn, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác, Bồ-tát hay quán xét, thường muốn ít biết đủ, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm đầu.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ TƯ: Lười biếng phải sa đọa, nên thường hành tinh tấn, để phá trừ phiền não, nhiếp phục bốn chúng ma, xa lìa chốn tối tăm.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NĂM: Ngu si phải sinh tử, Bồ-tát thường nên nhớ, luôn học rộng nghe nhiều, để tăng trưởng trí tuệ, nhằm thành tựu biện tài, rồi đem niềm vui lớn, giáo hóa cho mọi người.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ SÁU: Nghèo khổ hay oán giận, thường gieo nhiều tội lỗi, Bồ-tát luôn san sẻ, bình đẳng với mọi người, không nhớ đến quá khứ, không ghét bỏ một ai.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ BẢY: Tham muốn rất tai hại, tuy thân ở thế gian, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bát và pháp khí, chí nguyện người tu hành, luôn giữ đạo trong sạch, thực hiện hạnh thanh tịnh, từ bi với muôn loài.
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ TÁM: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não vô cùng tận, nên phát tâm Bồ-đề, tu hành cầu giải thoát, độ hết thảy muôn loài, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu nhiều đau khổ, khiến cho muôn loài vật, đều bình an hạnh phúc.
Tám điều nói trên đây, chư Phật và Bồ-tát, đã tự mình giác ngộ, nhờ tinh tấn hành trì, tu từ bi trí tuệ, nương theo thuyền Bát-nhã, mau đến bờ giải thoát, rồi giáo hóa thế gian, độ tất cả chúng sinh, đem tám điều giác ngộ, chỉ dạy cho mọi người, biết được sinh tử khổ, xa lìa năm dục lạc, tu theo Bát chính đạo. Này bốn chúng đệ tử, tư duy tám điều này, sẽ dễ dàng tỉnh giác, diệt được vô lượng tội, thẳng tiến quả Bồ-đề, mau thành tựu Phật pháp, xa lìa đường sinh tử, thường an nhiên thanh nhàn.
KỆ SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi
Khi nói khi làm khi tư duy
Tham lam hờn giận và ngu si
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới
Nguyện sống đêm ngày trong tỉnh giác
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Cúi xin các Phật Thế-tôn,
Nhủ lòng thương xót chúng sinh mê mờ.
Hoặc tội ác tự tay tạo tác
Hoặc xúi bảo kẻ khác từng làm
Hoặc thấy việc ác không can
Lại còn hoan hỷ sinh tâm đồng tình.
Những tội ác tự mình trộm cướp
Của chùa chiền bảo tháp chư tăng
Tự tay mình lấy giả làm
Hoặc xui người lấy mừng vui trong lòng.
Hoặc tự tay gây tạo tham tàn
Làm mười điều ác lại coi thường
Hoặc dùng thế lực ép oan,
Đều sa địa ngục A-tỳ đáng khinh.
Làm quỷ đói súc sinh đau khổ
Hoặc giam mình nẻo dữ không thôi
Làm loài hèn hạ nhất đời
Nếu được làm người làm người thấp kém.
Nay con nguyện thật thà sám hối
Biết bao điều tội lỗi xưa nay
Cúi xin chư Phật chứng minh
Xót thương cho nỗi khốn cùng của con.
Xin chư Phật rủ lòng thương xót
Nay con xin quỳ trước Phật đà
Phát tâm thệ nguyện thật thà
Đời đời kiếp kiếp trồng gieo căn lành.
Xin phát nguyện làm lành lánh dữ.
Kể từ đây muôn kiếp không thôi.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành.
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo.
Lên thuyền từ vượt qua biển khổ.
Cầm đuốc tuệ ra khỏi rừng mê.
Thân miệng ý luôn luôn trong sạch.
Đi đứng nằm ngồi trong tỉnh giác.
Lạy Phật tổ soi đường chỉ lối.
Hôm nay đây khẩn thiết thề nguyền.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm.
Không còn vương vấn chuyện xưa nay.
Nam mô cầu sám hối Bồ tát ma ha tát.OOO
CHÚNG CON TỤNG TAM QUY
VÀ VÂNG GIỮ NĂM ĐIỀU ĐẠO ĐỨC.
TỤNG TAM QUY Y
Chúng con nguyện suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. (3 lần)
Quy y Phật, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng kính thờ tu theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là vị thầy giác ngộ sáng suốt của chúng con. Quy y Phật rồi, chúng con không tu theo trời, thần, quỷ vật, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.O
Quy y Pháp, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng, học hỏi và tu theo lời dạy của Phật. Quy y Pháp rồi, chúng con không tu theo ngoại đạo tà giáo, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.O
Quy y Tăng, chúng con nguyện suốt đời tôn trọng tu theo Tăng sĩ hướng dẫn đúng theo chánh pháp Như lai. Quy y Tăng rồi, chúng con không si mê làm thân với nhóm dữ bạn ác, nhưng vẫn tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống.OOO
TỤNG NGŨ GIỚI
Con nguyền từ bỏ sát sinh
Tôn trọng sự sống, rải ban tâm lành.
Thương yêu người vật môi sinh
Cho đời hạnh phúc, muôn loài an vui.O
Con nguyền từ bỏ trộm gian
Mánh mung cướp của, tham lam xin chừa.
Sống chân thật chẳng lọc lừa
Cho tròn nhân nghĩa, cho vừa nhân sinh.
Con nguyền từ bỏ ngoại tình
Một chồng một vợ, tấm lòng trinh nguyên.
Thương yêu tôn trọng cảm thông
Ngọt bùi chia sẻ, thủy chung trọn đời.
Con nguyền từ bỏ nói sai
Bớt lời chửi tục, móc moi hai đầu.
Nói như chánh pháp cao sâu
Im như bậc thánh, nhiệm mầu thấy nghe.O
Con nguyền từ bỏ rượu chè
Say sưa nghiện ngập, thân mê trí mờ.
Để không bệnh hoạn thẫn thờ
Để cho tâm trí lặng lờ sáng trong.
Từ nay con nguyện với lòng
Giữ gìn năm giới, quyết không phạm lầm.
Để cho con sống thanh cao
Để đời an lạc, dạt dào tình thương.OOO
Đi kinh hành niệm Phật Bồ-tát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(108 lần)O
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (18 lần)O
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát. (3 lần)O
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát. (3 lần)O
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. (3 lần)O
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần )O
Nam mô Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát. (3 lần)OOO
SÁM MƯỜI NGUYỆN
Một nguyền kính lễ Như Lai.
Hai nguyền xưng tán công dày Thế Tôn.
Ba nguyền tu phước cúng dường.
Bốn nguyền sám hối tiêu tan nghiệp trần.
Năm nguyền vui vẻ an lành.
Sáu nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người.
Bảy nguyền thỉnh Phật ở đời.
Tám nguyền học Phật sáng ngời tâm linh.
Chín nguyền hằng thuận chúng sinh.
Mười nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi.OOO
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Tụng kinh công đức khôn tính kể
Thắng phước vô biên đồng hướng về
Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh
Thảy đều thể nhập vô sinh nhẫn.
Nguyện tiêu ba chướng sạch phiền não
Nguyện được trí tuệ thật sáng ngời
Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ
Đời đời thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện đem công đức tu hành này
Chan rải mười phương khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.OOO
PHỤC NGUYỆN
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.O
Nam mô Phật bổn sư Thích ca Mâu Ni tác đại chứng minh.O
Nam mô Bồ-tát Quán Thế Âm tác đại chứng minh.O
Nam mô Phật hoàng Trần Nhân Tông tác đại chứng minh.O
Cửa thiền thường nghiêm tịnh
Toàn chúng mãi thuận hòa
Phật huệ chiếu sáng ngời
Mưa pháp hằng nhuần gội
Phật tử lòng tin sâu
Ruộng phước càng tăng trưởng
Chúng sinh sống an lạc
Vui hưởng cảnh thái bình
Nơi nơi dứt đao binh
Mỗi mỗi đều thành Phật.
Nam mô Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni.OOO
ĐẢNH LỄ BA NGÔI BÁU
Con xin nương tựa Phật
Bậc phước trí vẹn toàn
Cầu tất cả chúng sinh
Giác ngộ, phát tâm lành. (một lạy)O
Con xin nương tựa Pháp
Nguồn tuệ giác Từ bi
Cầu tất cả chúng sinh
Hiểu đạo, tỏ nguồn tâm. (một lạy)O
Con xin nương tựa Tăng
Đoàn thể sống an vui
Cầu tất cả chúng sinh
Hòa hợp, thương mến nhau. (một lạy)O
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.OOO
(Sallekhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahacunda, vào buổi chiều từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahacunda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận. Bạch Thế Tôn, đối với một Tỷ-kheo, có tác ý ngay từ ban đầu, thời có thể đoạn trừ những sở kiến ấy hay không, có thể xả ly những sở kiến ấy hay không?
– Này Cunda, những loại sở kiến này khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận, - chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành, chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cài này không phải tự ngã của tôi”, có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự xả ly những sở kiến ấy.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây một Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện tại lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây, một Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện tại lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra khi ở đây, một Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy có thể nghĩ... (như trên)... hiện tại lạc trú trong giới của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là hiện tại lạc trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng. Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Vị ấy có thể tự nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda, các (quả chứng) ấy không gọi là đoạn giảm trong giới luật của bậc Thánh. Chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh. Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda... (như trên)... chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda... (như trên)... chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, sự kiện này xảy ra, khi một Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy có thể nghĩ: “Ta sống với hạnh đoạn giảm”. Này Cunda... (như trên)... chúng được gọi là tịch tịnh trú trong giới luật của bậc Thánh.
Này Cunda, ở đây đoạn giảm được các Người thực hiện khi các Người nghĩ: “Những kẻ khác có thể là những người làm hại, chúng ta ở đây không thể là những người làm hại”, như vậy đoạn giảm được thực hiện. “Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh”, như vậy đoạn giảm được thực hiện. “Những kẻ khác có thể lấy của không cho, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ lấy của không cho”, như vậy đoạn giảm được thực hiện. “Những kẻ khác có thể không phạm hạnh, chúng ta ở đây sẽ sống phạm hạnh”, như vậy... (như trên)... thực hiện. “Những kẻ khác có thể nói láo, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói láo”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nói hai lưỡi, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói hai lưỡi”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nói lời độc ác”, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời độc ác”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nói lời phù phiếm, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ nói lời phù phiếm”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể tham dục, chúng ta ở đây không tham dục”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có sân tâm, chúng ta ở đây sẽ không có sân tâm”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà kiến, chúng ta ở đây sẽ có chánh kiến,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà tư duy, chúng ta ở đây sẽ có chánh tư duy”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà ngữ, chúng ta ở đây sẽ có chánh ngữ”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà nghiệp, chúng ta ở đây sẽ có chánh nghiệp”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà mạng, chúng ta ở đây sẽ có chánh mạng”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà tinh tấn, chúng ta ở đây sẽ có chánh tinh tấn”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà niệm, chúng ta ở đây sẽ có chánh niệm”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà định, chúng ta ở đây sẽ có chánh định”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà trí, chúng ta ở đây sẽ có chánh trí”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có tà giải thoát, chúng ta ở đây sẽ có chánh giải thoát”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể bị hôn trầm thụy miên chi phối, chúng ta ở đây sẽ không có hôn trầm thụy miên chi phối”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể có trạo hối, chúng ta ở đây sẽ không có trạo hối”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nghi hoặc, chúng ta ở đây sẽ trừ diệt nghi hoặc”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể phẫn nộ, chúng ta ở đây sẽ không có phẫn nộ”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể oán hận, chúng ta ở đây sẽ không có oán hận”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể hư ngụy, chúng ta ở đây sẽ không hư ngụy”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể não hại, chúng ta ở đây sẽ không não hại”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể tật đố, chúng ta ở đây sẽ không tật đố”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể xan tham, chúng ta ở đây sẽ không xan tham”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể man trá, chúng ta ở đây sẽ không man trá,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể khi cuống, chúng ta ở đây sẽ không khi cuống”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể ngoan cố, chúng ta ở đây không thể ngoan cố”,... (như trên)... cấp tháo... mạn... “Những kẻ khác có thể quá mạn, chúng ta ở đây sẽ không quá mạn”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể khó nói (nan thuyết), chúng ta ở đây sẽ dễ nói”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể là ác hữu, chúng ta ở đây sẽ là thiện hữu”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể phóng dật, chúng ta ở đây sẽ không phóng dật”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể là bất tín, chúng ta ở đây sẽ có tín tâm”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể không xấu hổ, chúng ta ở đây sẽ có xấu hổ”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể không sợ hãi, chúng ta ở đây sẽ có sợ hãi”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nghe ít, chúng ta ở đây sẽ nghe nhiều”... (như trên)... “Những kẻ khác có thể biếng nhác, chúng ta ở đây sẽ siêng năng”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể thất niệm, chúng ta ở đây sẽ an trú niệm”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể liệt tuệ, chúng ta ở đây thành tựu tuệ”,... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả” như vậy đoạn giảm được thực hiện.
Này Cunda, Ta nói rằng sự khởi tâm rất có lợi ích cho các thiện pháp, còn nói gì thân nghiệp, khẩu nghiệp phù hợp (với tâm ý). Do vậy, này Cunda: “Những kẻ khác có thể làm hại, chúng ta ở đây sẽ không làm hại”, cần phải khởi tâm như vậy. “Những kẻ khác có thể sát sanh, chúng ta ở đây sẽ từ bỏ sát sanh”, cần phải khởi tâm như vậy... (như trên)... “Những kẻ khác có thể nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, chúng ta ở đây sẽ không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, cần phải phát tâm như vậy.
Này Cunda, giống như một con đường không bằng phẳng, có một con đường bằng phẳng khác đối trị. Này Cunda, giống như một bến nước không bằng phẳng, có một bến nước bằng phẳng khác đối trị. Cũng vậy này Cunda, đối với con người làm hại, có sự không làm hại đối trị. Đối với con người sát sanh, có từ bỏ sát sanh đối trị. Đối với con người lấy của không cho, có từ bỏ lấy của không cho đối trị..., không phạm hạnh, có phạm hạnh...; nói láo, có từ bỏ nói láo...; nói hai lưỡi, có từ bỏ nói hai lưỡi...; nói ác khẩu, có từ bỏ nói ác khẩu; nói phù phiếm, có từ bỏ nói phù phiếm...;... tham dục, có không tham dục...;... sân tâm, có không sân tâm...;... tà kiến, có chánh kiến...;... tà tư duy, có chánh tư duy...;... tà ngữ, có chánh ngữ...;... tà nghiệp, có chánh nghiệp...;... tà mạng, có chánh mạng...;... tà tinh tấn, có chánh tinh tấn...;... tà niệm, có chánh niệm...;... tà định, có chánh định...;... tà trí, có chánh trí...;... tà giải thoát, có chánh giải thoát...;... bị hôn trầm thụy miên chi phối, có không bị hôn trầm thụy miên chi phối...;... trạo hối, có không trạo hối...;... nghi hoặc, có trừ diệt nghi hoặc...;... phẫn nộ, có không phẫn nộ...;... oán hận, có không oán hận...;... hư ngụy, có không hư ngụy...;... não hại, có không não hại...;... tật đố, có không tật đố...;... xan tham, có không xan tham...;... man trá, có không man trá...;... khi cuống, có không khi cuống...;... ngoan cố, có không ngoan cố... cấp tháo... mạn;... quá mạn có không quá mạn...;... khó thuyết, có không khó thuyết...;... ác hữu, có thiện hữu...;... phóng dật, có không phóng dật...;... bất tín, có tín tâm...;... không xấu hổ, có xấu hổ...;... không sợ hãi, có sợ hãi...;... nghe ít, có nghe nhiều...;... biếng nhác, có siêng năng...;... thất niệm, có an trú niệm...;... liệt tuệ, có thành tựu tuệ...; đối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, có không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả đối trị.
Này Cunda, ví như các bất thiện pháp, tất cả đều hướng hạ, còn các thiện pháp, tất cả đều hướng thượng. Cũng vậy, này Cunda, con người không làm hại, hướng thượng đối với người làm hại, con người từ bỏ sát sanh, hướng thượng đối với người sát sanh, con người từ bỏ lấy của không cho, hướng thượng đối với người lấy của không cho... (như trên)... con người không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, hướng thượng đối với người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả.
Này Cunda, con người tự mình bị rơi vào bùn lầy có thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy, sự tình ấy không thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không rơi vào bùn lầy, có thể kéo lên một người bị rơi vào bun lầy, sự tình ấy có thể xảy ra. Này Cunda, con người tự mình không được nhiếp phục, không được huấn luyện, không được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện và hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy không xảy ra. Một người được nhiếp phục, được huấn luyện, được hoàn toàn giải thoát, tự mình có thể nhiếp phục, huấn luyện, hoàn toàn giải thoát người khác, sự tình ấy xảy ra. Cũng vậy, này Cunda, đối với người làm hại, không làm hại đưa đến hoàn toàn giải thoát; đối với con người sát sanh, từ bỏ sát sanh đưa đến hoàn toàn giải thoát; đối với con người lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho đưa đến hoàn toàn giải thoát; đối với con người không phạm hạnh, sống phạm hạnh...; đối với con người nói láo, từ bỏ nói láo...; đối với con người nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi...; đối với con người ác khẩu, từ bỏ nói ác khẩu...; đối với con người nói phù phiếm, từ bỏ nói phù phiếm...; đối với con người có tham dục, không tham dục...; đối với con người có sân tâm, không sân tâm...; đối với con người có tà kiến, chánh kiến...; đối với con người có tà tư duy, chánh tư duy...; đối với con người có tà ngữ, chánh ngữ...; đối với con người có tà nghiệp, chánh nghiệp...; đối với con người có tà mạng, chánh mạng...; đối với con người có tà tinh tấn, chánh tinh tấn...; đối với con người có tà niệm, chánh niệm...; đối với con người có tà định, chánh định...; đối với con người có tà trí, chánh trí...; đối với con người có tà giải thoát, chánh giải thoát...; đối với con người bị hôn trầm thụy miên chi phối, không bị hôn trầm thụy miên chi phối...; đối với con người trạo hối, không trạo hối...; đối với con người nghi hoặc, không nghi hoặc...; đối với con người phẫn nộ, không phẫn nộ...; đối với con người oán hận, không oán hận...; đối với con người hư ngụy, không hư ngụy...; đối với con người não hại, không não hại...; đối với con người tật đố, không tật đố...; đối với con người xan tham, không xan tham...; đối với con người man trá, không man trá...; đối với con người khi cuống, không khi cuống...; đối với con người ngoan cố, không ngoan cố... cấp tháo... mạn...; đối với con người quá mạn, không quá mạn...; đối với con người khó nói, dễ nói...; đối với con người ác hữu, thiện hữu...; đối với con người phóng dật, không phóng dật...; đối với con người bất tín, tín tâm...; đối với con người không xấu hổ, có xấu hổ...; đối với con người không sợ hãi, có sợ hãi...; đối với con người nghe ít, nghe nhiều...; đối với con người biếng nhác, siêng năng...; đối với con người thất niệm, an trú niệm...; đối với con người liệt tuệ, thành tựu trí tuệ...; đối với con người nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả, đưa đến hoàn toàn giải thoát.
Này Cunda, như vậy Ta đã giảng pháp môn đoạn giảm, đã giảng pháp môn khởi tâm, đã giảng pháp môn đối trị, đã giảng pháp môn hướng thượng, đã giảng pháp môn giải thoát hoàn toàn. Này Cunda, những gì bậc Đạo sư phải làm, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng cho các Người. Này Cunda, đây là những gốc cây, đây là những nhà không tịnh. Này Cunda, hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Đó là lời giáo huấn của Ta cho các Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Mahacunda hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
KINH ĐOẠN GIẢM, THỨ TÁM HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________________
>>> 7.Kinh ví dụ tấm vải
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Mười Bảy Số 779
PHẬT NÓI KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao Dịch
Thánh Tri Phỏng Việt dịch và Viết Bài Học Giải
Lời Nói Đầu
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch. Bài Kinh này tuy rất ngắn mà bao hàm những điểm chính thuộc cả hai tư tưởng Nhị Thừa và Đại Thừa mà đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng dạy trong suốt 49 năm.
Tôi có nhân duyên tốt lành nên được đọc bài Kinh này nhiều lần. Mỗi lần đọc tôi đều cảm thấy thắm thía từng câu từng chữ, như Kinh nhắc nhở mình quán xét lấy cái thân tâm và ngoại tại của mình là Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã cho nên phải biết buông xuống mọi tham dục mong cầu, ít muốn biết đủ thì mới thường có an lạc, an bần mà giữ đạo, nuôi lớn cái chí nguyện xuất gia, thượng cầu đạo Vô Thượng, dưới giáo hóa tất cả chúng sanh. Vì thấy lời dạy hữu ích của Kinh mà phỏng dịch ra Việt văn và viết bài Học Giải để cùng chia sẽ và kết duyên với mọi người, hầu cho kẻ thấy người nghe đều nhớ lấy những lời dạy vàng ngọc này, theo đó tu hành mà đồng gặt hái được nhiều lợi ích trong hiện tại và mai hậu.
Bài Kinh rất súc tích và cô động trong 332 chữ Hán, xếp thành 93 câu, mỗi câu bốn chữ. Do vậy mà thật rất là khó dịch ra tiếng Việt. Nếu phải dịch đúng 332 chữ, 93 câu, mỗi câu bốn chữ như tiếng Hán thì cái đó gọi là tiếng Hán-Việt chứ không thể nào dịch thuần Việt được. Tôi có thói quen thích đọc những bài Kinh ngắn bằng tiếng Hán-Việt như Bát Nhã Tâm Kinh chẳng hạng, và bài Kinh Bát Đại Nhân Giác này cũng không ngoại lệ. Đọc bằng Hán-Việt nó dễ nhớ và thắm thía hơn nhiều. Tuy nhiên muốn cho người cùng ngôn ngữ Việt đọc hiểu thì phải dịch ra tiếng Việt làm sao cho dễ hiểu mà không mất đi ý chính của Kinh văn cho nên dịch ra thì hơi rườm rà một chút. Do vậy trước, kính mong mọi người lượng thứ cho bản dịch giải thô thiển này, và sau kính mong mọi người đọc hiểu được ý chính mà quên lời rườm rà.
Kính cảm niệm công ân giáo dưỡng của Tôn Sư Ôn Thượng Minh Hạ Điền đã khai mở đạo nhãn và diều dắt cho con bước vào con đường Chánh Đạo của Phật.
Nguyện cho khắp người thấy người nghe đồng được an vui giải thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thánh Tri kính viết
San Antonio, Texas
Mùa Hạ, Tháng 7, ngày 13, năm 2016
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Mười Bảy Số 779
PHẬT NÓI KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao Dịch
Thánh Tri Phỏng Việt dịch và Viết Bài Học Giải
Là đệ tử Phật thì phải thường cả ngày lẫn đêm hết lòng thành kính đọc và nghĩ nhớ tám điều giác ngộ này:
Điều giác ngộ thứ nhứt: Phải biết thế gian là vô thường; quốc độ thì mong manh không bền chắc; bốn đại là khổ, là không; năm ấm là vô ngã, hay sinh diệt đổi dời, nó giả dối không thật cũng không chủ; tâm là nguồn gốc của mọi điều ác; thân là chỗ tu tập nhiều điều tội lỗi. Nếu đúng như vậy mà quán xét thì xa dần sinh tử.
Điều giác ngộ thứ hai: Phải biết nhiều dục là khổ; sanh tử nhọc nhằn mỏi mệt đều là do tâm tham dục mà phát sinh. Vậy phải bớt cái lòng tham dục mà học Đạo Giác Ngộ Giải Thoát thì thân tâm mới được an vui tự tại.
Điều giác ngộ thứ ba: Phải biết tâm người thì không bao giờ biết đủ, ngược lại chỉ mong cầu được nhiều nên càng thêm lớn nhiều tội ác. Còn người tu hạnh Bồ Tát thì chẳng phải vậy, vì họ thường nghĩ nhớ về pháp biết đủ, sống an vui trong cảnh nghèo khó mà giữ Đạo, và chỉ lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp duy nhứt cho đời tu của mình.
Điều giác ngộ thứ tư: Phải biết lười biếng thì đọa lạc; nếu thường tu hành tinh tấn thì có thể phá trừ các nghiệp ác phiền não, phá vỡ và hàng phục bốn ma, ra khỏi nhà tù của năm ấm và mười tám giới.
Điều giác ngộ thứ năm: Phải biết do ngu si (vô minh) mà có sinh tử. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì thường nhớ học rộng nghe nhiều, để thêm lớn Trí Tuệ, thành tựu được cái tài nói pháp thông suốt và lưu loát, hầu giáo hóa tất cả chúng sanh, và khiến họ đều được vui lớn.
Điều giác ngộ thứ sáu: Phải biết ghèo khổ thì thường sanh nhiều thù hận, nên dễ kết nhiều duyên xấu ác. Do vậy người tu hạnh Bồ Tát thì nên nhớ bình đẳng mà bố thí dù người đó có là kẻ oán hay người thân của mình; không nhớ những lỗi lầm xưa, cũng không ghét người ác.
Điều giác ngộ thứ bảy: Phải biết năm dục là lỗi lầm tai họa. Vậy cho nên tuy còn là người thế tục, cũng đừng nên đắm nhiễm những dục lạc của thế gian. Phải thường nhớ nghĩ đến ba Y, một Bát khất thực, và những dụng cụ đúng pháp của người xuất gia để nuôi lớn chí nguyện xuất gia, giữ cái đạo trong sạch, sống một đời sống phạm hạnh cao vời, và từ bi với tất cả chúng sanh.
Điều giác ngộ thứ tám: Phải biết sanh tử không ngừng thiêu đốt nên khổ não cũng không số lượng. Do vậy cần phải phát khởi cái Tâm Đại Thừa, mới có thể cứu giúp khắp tất cả chúng sanh, nguyện thay thế cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, và khiến cho các chúng sanh rốt ráo được an vui lớn.
Tám điều như vậy đều là chỗ giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát, bậc Đại Nhân; do nhờ tinh tấn hành đạo, tu hạnh từ bi và trí tuệ, mà các ngài ngồi thuyền pháp thân đến bờ Niết Bàn, lại vào sinh tử dùng tám điều này mà khai đạo cho tất cả chúng sanh, khiến cho các chúng sanh thấu rõ được cái khổ sinh tử, mà xa rời năm dục, tu tâm theo con đường Hướng Thượng của chư Phật chư Tổ. Nếu là người đệ tử Phật thì nên đọc tám điều này trong từng mỗi niệm, để diệt vô lượng tội, tiến đến Bồ Đề, tốc lên ngôi Chánh Giác, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử, và thường ở trong an lạc.
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Đệ Thập Thất Sách Số 779
Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh
Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao Dịch
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, bát đại nhân giác:
Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biết dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.
Đệ nhị giác tri: Đa dục vi khổ, sinh tử bì lao, tùng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
Đệ tam giác tri: Tâm vô yếm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ Tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần giữ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Đệ tứ giác tri: Giãi đãi đọa lạc, thường hành tinh tiến, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Đệ ngũ giác ngộ: Ngu si sinh tử, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí huệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên, Bồ Tát bố thí, đẳng niệm oán thân, bất niệm cựu ác, bất tăng ác nhân.
Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc, thường niệm tam y, ngõa bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sinh, thọ vô lượng khổ, lệnh chư chúng sinh, tất cánh đại lạc.
Như thử bát sự, nãi thị chư Phật, Bồ Tát đại nhân, chi sở giác ngộ. Tinh tiến hành đạo, từ bi trí huệ, thừa pháp thân thuyền, chí Niết Bàn ngạn, phục hoàn sinh tử, độ thoát chúng sinh. Dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, lệnh chư chúng sinh, giác sinh tử khổ, xã ly ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nhược Phật đệ tử, tụng thử bát sự, ư niệm niệm trung, diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ Đề, tốc đăng chính giác, vĩnh đoạn sinh tử, thường trụ khoái lạc.
大正新脩大藏經 第十七冊 No. 779
佛說八大人覺經
後漢安息國三藏安世高譯
為佛弟子,常於晝夜,至心誦念,八大人覺:
第一覺悟:世間無常,國土危脆;四大苦空,五陰無我;生滅變異,虛偽無主;心是惡源,形為罪藪。如是觀察,漸離生死。
第二覺知:多欲為苦,生死疲勞,從貪欲起;少欲無為,身心自在。
第三覺知:心無厭足,唯得多求,增長罪惡;菩薩不爾,常念知足,安貧守道,唯慧是業。
第四覺知:懈怠墜落;常行精進,破煩惱惡,摧伏四魔,出陰界獄。
第五覺悟:愚癡生死。菩薩常念,廣學多聞,增長智慧,成就辯才,教化一切,悉以大樂。
第六覺知:貧苦多怨,橫結惡緣。菩薩布施,
等念冤親,不念舊惡,不憎惡人。
第七覺悟:五欲過患。雖為俗人,不染世樂;常念三衣,瓶缽法器;志願出家,守道清白;梵行高遠,慈悲一切。
第八覺知:生死熾然,苦惱無量。發大乘心,普濟一切;願代眾生,受無量苦;令諸眾生,畢竟大樂。
如此八事,乃是諸佛菩薩大人之所覺悟。精進行道,慈悲修慧,乘法身船,至涅槃岸;復還生死,度脫眾生。以前八事,開導一切,令諸眾生,覺生死苦,捨離五欲,修心聖道。 若佛弟子,誦此八事,於念念中,滅無量罪;進趣菩提,速登正覺;永斷生死,常住快樂。
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Mười Bảy Số 779
Phật Nói Kinh Bát Đại Nhân Giác
Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao Dịch
Thánh Tri Phỏng Việt dịch và viết bài Học Giải
Chính Văn:
Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh
Học Giải:
Phật là chỉ cho đức Thích Ca Mâu Ni Phật, người đã hoàn toàn giác ngộ được Tự Tâm Bổn Tánh của mình một cách triệt để. Ngài phương tiện mà nói ra những lời dạy tốt đẹp để giúp chúng sanh thấy rõ sự thật về thế giới vạn vật và cuộc đời con người là khổ, không, vô thường, vô ngã mà buông xuống tình thức phân biệt chấp trước, mở toan cánh cửa Đại Thừa, hầu đưa tâm đến Giác Ngộ và Giải Thoát nên tạm gọi là “Thuyết Kinh”. Có như vậy chúng sanh mới khỏi chuốc lấy tai họa khổ đau vì nguyên nhân của mọi đau khổ là do vô minh lầm chấp “hiệp trần bối giác” mà ra. Trong kinh này Phật dạy mình phải quán xét triệt để tám điều giác ngộ nên gọi là Bát. Đại Nhân dịch là người lớn. Thế nào mới gọi là Đại? Đại thì vô số lượng, nên siêu vượt tình thức mới gọi là Đại và vượt qua số lượng; bởi có số lượng thì còn tình thức, tức còn giới hạng ở trong vòng tương đối và còn sinh tử khổ đau. Vậy thì đâu thể gọi là Đại!? Do vậy Đại Nhân phải là người đã vượt qua số lượng tình thức vậy, người đã trở về sống thật với Bổn Tâm Tự Tánh nơi mình. Họ là người không còn bị giam cầm trong ngục của Năm Ấm và Mười Tám Giới. Họ thấy rõ được thật tướng của vạn pháp là Như Thị, Bất Nhị, và Không. Do vậy nên dùng chữ “Giác” để chỉ cho cái sự thấy rõ thật tướng của vạn pháp không qua lăng kính của vọng thức, mà trực giác bằng Chân Tánh chiếu soi. Vì vậy Đại Nhân phải là người giác ngộ như Phật Thích Ca vậy.
Chính Văn:
Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao Dịch
Hậu Hán là vào thời nhà Đông Hán bên nước Trung Quốc tức khoảng từ năm 132-167 sau công nguyên, thời vua Hán Hoàn Đế, tên thật là Lưu Chí, nhà vua đời thứ 11 của triều đại nhà Hán.
Nước An Tức tức là nước Ba Tư vậy. Do ngài An Thế Cao là người nước An Tức nên ghi là An Tức Quốc.
Tam Tạng là biệt danh cho vị thầy giỏi và thông thạo cả ba tạng Kinh, Luật và Luận.
An Thế Cao là vị Tỳ Kheo từ nước An Tức, nước nhỏ phía Đông Bắc Ba Tư ngày xưa đến Trung Quốc ở thành Lạc Dương vào năm 148 sau công nguyên để dịch kinh. Và Kinh Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác là một trong những bộ kinh được ngài dịch ra Hán văn. Ngài là một trong những vị cao tăng đầu tiên đem Phật Pháp truyền sang Trung Quốc sau các ngài Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan.
Chính Văn:
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, Bát Đại Nhân Giác:
Học Giải:
Nếu đã Quy Y Tam Bảo thì là đệ tử Phật bất luận là tại gia hay xuất gia. Mà đã là đệ tử Phật thì phải luôn hướng tâm đến con đường Đạo Giác Ngộ Giải Thoát. Thường cả ngày lẫn đêm để chỉ cho sự chuyên tâm tu đạo không gián đoạn (Thường hành tinh tấn). Chí tâm là bài tỏ lòng chí thành tha thiết. Bảo tụng niệm để ghi nhớ, không quên, và quán xét về Tám Điều Giác Ngộ của bậc Đại Nhân này.
Chính Văn:
Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biết dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ nhứt là muốn cho chúng sinh phá trừ Kiến Hoặc (cái thấy sai lầm, không đúng với thực tại của mọi sự vật hiện tượng từ vật lý đến tâm lý nên mới sinh ra ngã kiến và biên kiến; nếu nói cao sâu hơn nữa thì kiến hoặc là do tình thức che mờ Tâm Tánh nên không thể thấy mọi sự vật hiện tượng đúng như nó đang là; nếu như thấy bằng tánh thấy, nghe bằng tánh nghe v.v… không có lập tình thức trước vật thì kiến hoặc sẽ được trừ) bằng cách quán triệt được tất cả mọi sự vật hiện tượng trên cõi đời này từ vật lý đến tâm lý đều là vô thường (không cố định) và vô ngã (không thật thể). Từ trái đất đến ngay thân thể nhỏ bé này cũng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, nên không tự tính (không tự thể, không thật thể, nghĩa là không phải tự nó có một cách riêng biệt và độc lập, mà phải do nhiều nhân duyên tạm hòa hợp mà tạm có). Vì không tự tính (vô ngã) nên không thể thường còn mãi mãi (vô thường) được mà chỉ tạm thời hiện hữu tồn tại trong một khoãng thời gian nào thôi.
Chính vì mọi sự vật thiện tượng từ tâm lý đến vật lý đều là vô thường và vô ngã hay không cố định và không thật thể nên chúng ta không thể đem tâm chấp vào mọi sự vật hiện tượng ấy và cho chúng là ‘có’ hay là ‘không có’ được. Nếu chấp và khẳng định thân này có thật thì phải chỉ rõ được nó là cái gì. Long, tóc, móng, răng, da, bao tử, tim, gan, phèo, phổi, não, v.v…những thứ ấy cái gì là thân này? Không thể chỉ được cái nào cả, vì tất cả những thứ ấy hòa hợp mà tạm thành có cái thân này. Đó là nói sơ ở bên ngoài. Nói theo khoa học thì các thứ long, tóc, móng, răng, da, bao tử, tim, gan v.v… đều được tạo thành bởi các nguyên tử và còn nhiều các chất nhỏ nhoi hơn nguyên tử nữa. Do vậy thân này không phải là do nguyên tử, cũng không phải do tim, gan, phèo, phổi v.v… mà là tất cả những thứ ấy hòa hợp tạo thành. Do vậy nói thân này ‘có’ thì cũng không chính xác. Nếu lại chấp và phủ định thân nầy là ‘không có’ thì cũng không được vì rõ ràng thân chúng ta nó đang đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống tiểu tiện ngay hiện tại đây.
Vì vậy cho nên không thể đem tâm chấp “có” và “không”, cũng như không thể khẳng định và phủ định mọi sự vật hiện tượng là gì hay không là gì được. Có như thế thì tâm mới buông xuống và siêu vượt mọi tình chấp nhị nguyên có không, thì mới thể nhập được Tâm Tánh Bồ Đề, và Trí Bát Nhã hay Tánh Giác mới có thể chiếu soi thấu rõ được thật tướng của vạn pháp là Như Thị, Bất Nhị, và Không. Cho nên quán vô thường vô ngã, hay quán duyên khởi cũng được xem là bước đầu tiên để nhập đạo, để hướng đến phương trời sâu rộng của Đại Thừa và bản thể tuyệt đối của Chân Tâm. Chứ chẳng phải đức Phật dạy quán pháp duyên khởi để phụ định có hoặc khẳng định không.
Giác Ngộ là tỉnh giác thấu rõ được chân lý và có cái thấy biết đúng như thực tại của các pháp. Chân lý thứ nhứt phải quán sát là thế gian vô thường, quốc độ thì nguy kịch dễ tan vỡ, để bỏ tâm tham cầu nơi vạn vật bên ngoài. Lại quán sát thân này cũng là do tứ đại hòa hợp mà thành, do vậy nó theo nhân duyên mà hội thành rồi cũng do nhân duyên mà tan rã vì không thật thể và không cố định hay vô thường vô ngã. Hơn nữa đất, nước, gió, lửa thường không hòa đồng, lại chống đối lẫn nhau, khiến sinh nhiều bệnh tật, do vậy nó là khổ. Sắc thân tứ đại này là sắc trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Sắc thân cùng bốn uẩn kia hòa hợp gọi là năm ấm, đã là hòa hợp huyễn sinh thì không phải là ta (ngã) và của ta (ngã sở). Hoàn toàn chỉ là những pháp sinh diệt biến hoại đổi dời, hư vọng không có chủ. Quán sát thân tâm như thế để không đắm nhiễm sắc thân và không bị vọng tâm đánh lừa cho nó là mình, là của mình. Chính vì mê lầm nên nhận vọng tâm làm mình, là mình, nên bắt cái thân làm theo nó, mới tạo bao nghiệp thiện ác, làm cái nhân cho vòng lưu chuyển sinh tử để sanh ra, có thân hình và lảnh những quả báo tốt xấu tương xứng. Do vậy tâm là nguồn của mọi điều ác, thân là nơi chứa đầy mọi tội lỗi. Trong hiện tại cái tâm nghĩ điều ác nên khiến cái thân cũng làm điều ác như giết, trộm, dâm v.v… Đó là nói thô, còn vi tế thì không thể kiểm soát hết mọi hành vi do cái thân tạo nghiệp bởi tâm luôn khởi vọng dẫn đầu. Nếu có thể quán sát như thế thì từ từ sẽ buông xuống mọi tình chấp và thoát khỏi vòng sinh tử.
Chính Văn:
Đệ nhị giác tri: Đa dục vi khổ, sinh tử bì lao, tùng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ hai là để cho chúng sanh phá trừ Tư Hoặc (tức tâm ý thức tham sân si, phân biệt chấp trước mọi sự vật hiện tượng, nó làm ngăn che Chân Tánh, cho nên vô minh tạo bao nguyên nhân của khổ đau sinh tử mà chẳng hay biết) bằng cách quán triệt được rằng do tâm tham dục mà có sanh tử khổ. Do vậy muốn thoát cái ‘quả’ khổ đau của cái ‘nhân’ tham dục thì phải biết tu thiểu dục và tu pháp vô vi (tức tu pháp Đại Thừa hay tu Giác Ngộ Giải Thoát). Nếu có thể quán triệt dược nguồn gốc của tâm tham dục từ đâu khởi thì mới có thể nhổ tận tâm tham dục. Như thế thì thân và tâm mới được tự tại giải thoát khỏi mọi khổ đau do Tư Hoặc gây ra.
Chính Văn:
Đệ tam giác tri: Tâm vô yếm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ Tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần giữ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ ba là chỉ cho mình thấy rõ được con đường nào là con đường của phàm phu đưa đến khổ đau, và con đường nào là của Bồ Tát Thánh Hiền đưa đến an vui giải thoát. Tâm của người phàm thì thường không biết đủ, không bao giờ thỏa mãn được dục vọng lòng tham, nên thường hay mong cầu cho nhiều. Nhưng chẳng biết chính vì không biết đủ mà còn mong cầu cho nhiều nên mới thêm lớn nhiều tội ác. Từ một tâm xấu nhỏ không thỏa mãn việc này việc kia, nên sanh ra nhiều thứ tâm niệm khác như ta phải có được thêm cái này cái kia, mà vì chúng tranh đấu dành giựt với người khác, chính vì vậy mà tạo thêm nhiều điều tội ác, mỗi lúc mỗi nhiều hơn, bởi lòng tham không đái. Đó là con đường mà người phàm thường hay đi và mắt phải. Còn con đường của người tu hạnh Bồ Tát thì không phải vậy, bởi họ thường luôn biết đủ, họ sống an vui với phận nghèo mà giữ đạo giữ tâm trong sạch, chỉ luôn lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp của đời mình, chứ không màng ngũ dục như danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, và ngủ nghỉ. Do luôn chuyên tâm nơi Tuệ Nghiệp mà họ sống biết đủ, biết an nơi phận nghèo mà giữ đạo vậy. Bởi nếu để tâm nơi tham dục nhiều thì làm mờ tâm trí, ngăn che trí tuệ, nên không biết đủ, dẫn đến tạo bao ác nghiệp mà mang lại khổ đau. Còn chuyên tâm nới Tuệ Nghiệp nhiều thì tâm tham dục sẽ dứt, quả Bồ Đề tất chống nên.
Chính Văn:
Đệ tứ giác tri: Giãi đãi đọa lạc, thường hành tinh tiến, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Học Giải:
Điều giác ngộ thư tư là dạy hành giả phải tinh tấn, bởi vì nếu lười biếng thì ắt sẽ bị đọa lạc. Ở đây cũng cần nên biết, nếu mượn cớ tri túc (biết đủ không làm gì hết) mà giãi đãi không tinh tiến tu hành thì cũng bị đọa lạc như thường. Do vậy điều giác ngộ thứ tư này đặc biệt dạy mình phải tinh tấn tu hành. Nếu tinh tấn tu hành để tâm nơi Tuệ Nghiệp (tham thiền khởi nghi tình) thì mới có thể dẹp trừ được các phiền não ác, phá vỡ và hàng phục tứ ma (ấm ma, phiền não ma, tử ma, và thiên ma), có như vậy mới ra khỏi được ngục tù của ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm) và mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức). Nói ‘Ma’ là chỉ cho những tình thức lăng xăng hay bám chấp phân biệt làm nhiễu loạn tâm mình. Nói ‘Ngục tù Ấm Giới’là vì do ngũ ấm che mờ tâm tánh mình, mười tám giới làm ngăn ngại mình, nên không thoát được vọng thức. Mà còn vọng thức thì còn sanh tử luân hồi, không thể giác ngộ giải thoát vậy. Do vậy phải tinh tấn miên mật công phu thì mới được tự do tự tại nơi Ấm, Giới.
Chính Văn:
Đệ ngũ giác ngộ: Ngu si sinh tử, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí huệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ năm này dạy mình ngu si hay vô minh là nguồn gốc của sinh tử. Như Thập Nhị Nhân Duyên bắc đầu từ vô minh nên duyên sinh ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử. Cũng chính do vô minh mà mình nhận vọng thân, vọng tâm, vọng cảnh là mình, của mình nên chịu khổ luân hồi sanh tử. Không biết được Chân Tâm của mình mà quay về.
Phật dạy muốn thoát khổ sanh tử thì phải hết vô minh, phải giác ngộ bản Tâm Tự Tánh thì mới giải thoát sanh tử được. Ở đây dạy người tu Bồ Tát Đạo muốn hết vô minh dứt sinh tử thì phải học rộng nghe nhiều để tăng trưởng trí tuệ. Xong ở đây không phải dạy mình phải học pháp thế gian cho nhiều bởi nó chỉ tăng trưởng kiến thức thế gian thôi chứ không phải trí tuệ. Ở đây dạy mình phải học pháp xuất thế gian, phải tìm cầu tham học với các bậc minh sư thiện tri thức đi trước để họ chỉ cho mình con đường hướng thượng của Đại Thừa. Có như vậy theo đó tu hành mới có thể phát sinh trí tuệ. Nếu như không có trạch pháp, lại gặp tà sư bạn xấu chỉ dẫn tu sai thì sẽ không bao giờ hết được vô minh và phát sinh trí tuệ. Nếu không tự mình giác ngộ thì khó mà giáo hóa chúng sanh. Do vậy khi có trí tuệ rồi thì mới nói pháp được thông suốt và lưu loát, mới có thể giáo hóa chúng sanh, khiến họ được an lạc. Nên đức Phật dạy “duy tuệ thị nghiệp”.
Chính Văn:
Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên, Bồ Tát bố thí, đẳng niệm oán thân, bất niệm cựu ác, bất tăng ác nhân.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ sáu này dạy cho mình phải học hạnh bố thí với tâm bình đẳng. Có ba loại bố thí: Một là Tài Thí - tức dùng tiền của mà cứu giúp kẻ nghèo khốn; Hai là Pháp Thí - tức giảng dạy cho người cách bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch; Ba là Vô Úy Thí - tức mang lại sự an vui không sợ hãi cho người. Dù là tài thí, pháp thí, hay vô úy thí thì chúng ta phải giữ cái niệm bình đẳng dù đối với người thân hay kẻ oán, cũng đừng vì những lỗi lầm xưa của người đã phạm mà ghi nhớ để rồi không thực hành hạnh bố thí cho họ, cũng đừng ghét người ác mà không bố thí. Hơn nữa người tu Bồ Tát đạo thì phải buông xuống mọi tình chấp thuộc vọng thức, như vậy mới gọi là bố thí. Còn ôm giữ tình chấp rằng đây là người thân của tôi, đây là người ác oán của tôi, xưa họ làm những điều sai trái với tôi, nên giờ tôi không thích bố thí cho họ v.v… còn ôm những những tình chấp đó thì đâu thể nào gọi là bố thí bình đẳng được, vì bố thí nghĩa là buông xã vậy. Còn ôm tiền, chấp pháp, giữ vô úy thì vẫn còn đau khổ sinh tử. Muốn rốt ráo thoát khổ sinh tử thì mình phải buông xuống mọi tình chấp thuộc vọng thức bằng cách bố thí vậy. Nói cao sâu thì nghèo khổ tức không chịu bố thí hay buông xã. Bố thí buông xã mọi tình chấp mới được giác ngộ giải thoát, trở về sống với Tự Tánh nơi mình, như vậy mới được gọi là giàu có, vì Tự Tánh là kho báu nơi mình vậy.
Mình cũng cần phải biết rằng người nghèo khổ thường hay có nhiều tâm niệm oán trách, thù hận, tự ti, mặt cảm v.v... Chính vì vậy nên họ thường kết nhiều nhân duyên xấu; nếu cái tâm lúc nào cũng lo nghĩ oán trời trách người sao tôi sanh ra nghèo khổ thế này, hoặc tôi muốn được như những người giàu kia, thì những niệm này nó cũng làm cho cái tâm đau khổ vô cùng. Từ những tâm niệm này lâu ngày sẽ phát ra hành động bên ngoài, có thể làm những đều không hay như đua tranh, bất chấp thân tình, dùng đủ mọi thủ đoạn xấu, hại người lợi mình để được giàu có hoặc thứ mình muốn có. Những hành động ấy đều kết thêm nhiều nhân duyên xấu nữa, không biết bao giờ mới thoát khỏi được những nhân những duyên xấu mình tạo dựng. Rất đáng thương thay! Do vậy nên mình càng phải thông cảm mà thương những người nghèo khổ nhiều hơn, an ủi, giúp đở, và bố thí tài, pháp, và vô úy cho họ một cách bình đẳng. Đó mới thật là hạnh của người tu trên con đường của Bồ Tát.
Chính Văn:
Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc, thường niệm tam y, ngõa bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Học Giải:
Điều giác ngộ thứ bảy này dạy mình phải xa rời ngũ dục (tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ) vì chúng là tai họa lầm lỗi. Ở thế gian, ai cũng mắt phải ngũ dục, không ham tiền thì cũng ham sắc, không ham sắc thì cũng ham danh lợi, không ham danh lợi thì cũng ham ăn ngon mặt đẹp, không như thế thì cũng thích ngủ nghỉ cho nhiều. Từ xưa đến nay con người từ vua chúa đến thường dân, từ kẻ giàu sang tới người bần khổ, ai ai cũng vì những thứ này mà làm lại lẫn nhau, gây khổ cho nhau, tạo nhiều nhân duyên xấu ác cho nhau, nên chịu nhiều quả báo khổ đau bất tận. Chính vì vậy nên mới gọi ngũ dục là tai họa lầm lỗi.
Ơ đây Phật dạy người tại gia phải nên xa rời ngũ dục. Tuy là thân còn ở thế tục nhưng đừng có nhiễm những cái thú vui dục lạc của thế gian. Ngược lại còn phải thường nghĩ nhớ tới Y Bát của người xuất gia mà mang lòng kính mộ, nuôi cái ý chí xuất gia, giữ tròn phạm hạnh trong sạch và ban bố tâm từ đến muôn loài chúng sanh. Người tại gia đức Phật còn khuyên xa rời ngũ dục và nuôi chí nguyện cao cả xuất gia như thế, huống chi đã là người xuất gia rồi mà không chịu xa rời ngũ dục, không giữ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao vời, không từ bi với muôn loài hay sao? Nếu đã xuất gia rồi mà ngũ dục chẳng chịu rời bỏ thì khác nào là người thế tục, luống bận áo Tăng, oan uổng một đời tu hành, luống uổng sự cúng dường của tín thí. Đến già chết mới ăn năng hối hận thì cũng muộn rồi. Do vậy chúng ta phải suy xét như thế ngay hiện tại mà cố gắng tu đạo giác ngộ giải thoát, xa rời ngũ dục, nuôi cái niệm xuất trần, tự giác giác tha để đền bốn ân, cứu khổ ba cõi.
Chính Văn:
Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sinh, thọ vô lượng khổ, lệnh chư chúng sinh, tất cánh đại lạc.
Học Giải:
Đều giác ngộ thứ tám này dạy mình phải thật vì sanh tử khổ đau, vì chúng sanh khổ đau mà phát khởi cái Tâm Đại Thừa. Chỉ khi nào phát khởi được Tâm Đại Thừa (tức Kiến Tánh) thì mới có thể nhổ tận gốc sinh tử khổ đau, cứu vớt tất cả chúng sanh (ở trong tâm mình) khiến họ vào Vô Dư Niết Bàn mà không thấy có một chúng sanh nào được độ thoát như Kinh Kim Cang đã dạy. Kinh Duy Ma nói “Vì chúng sanh bệnh nên tôi mới bệnh, khi nào chúng sanh hết bệnh thì bệnh tôi mới hết.” Chúng sanh đó tức là chúng sanh trong tâm mình, hay nói thẳng là cái thức tâm phân biệt lăng xăng nơi mình, ngày nào chúng sạch hết thì mình mới ngộ được Bản Tâm mà giải thoát, hết bệnh sinh tử. Độ chúng sanh vào ‘Vô Dư Niết Bàn’ ở Kinh Kim Cang, hay ‘hết bệnh’ ở Kinh Duy Ma mới thật là “tất cánh đại lạc” vậy!
Chính Văn:
Như thử bát sự, nãi thị chư Phật, Bồ Tát đại nhân, chi sở giác ngộ. Tinh tiến hành đạo, từ bi trí huệ, thừa pháp thân thuyền, chí Niết Bàn ngạn, phục hoàn sinh tử, độ thoát chúng sinh. Dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, lệnh chư chúng sinh, giác sinh tử khổ, xã ly ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nhược Phật đệ tử, tụng thử bát sự, ư niệm niệm trung, diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ Đề, tốc đăng chính giác, vĩnh đoạn sinh tử, thường trụ khoái lạc.
Học Giải:
Đoạn cuối này dạy mình tám điều giác ngộ trên là sự giác ngộ của chư Phật, Bồ Tát và các bậc Đại Nhân. Sở dĩ các ngài được giác ngộ là do các ngài tinh tấn hành đạo, tu từ bi và trí tuệ nên mới có thể ngồi thuyền Pháp Thân, vượt tới bờ Niết Bàn (tức giác ngộ giải thoát), rồi trở lại sinh tử để độ thoát chúng sanh bằng cách đem tám điều này để khai mở đạo nhãn cho tất cả chúng sanh, giúp cho chúng sanh rõ được cái khổ sinh tử mà xa rời ngũ dục, tu tâm theo con đường của bậc giác ngộ. Cho nên là đệ tử Phật thì thường đọc tụng, nghi nhớ, và quán xét tám điều ấy thì có thể trừ được nhiều lỗi lầm xưa nay, tiến thẳng đến quả giác Bồ Đề, thành bậc Chánh Giác, vĩnh viễn không còn sanh tử, thường sống bằng Chân Tâm an vui giải thoát.
Tài Liệu Tham Khảm:
1. Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn Online. http://hanviet.org/
2. Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh bằng tiếng Hán. Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA).
http://www.cbeta.org/result/normal/T17/0779_001.htm
3. Kinh Bát Đại Nhân Giác Lược Giải. Ngài Ngẫu Ích Trí Húc Lược Giải. HT Thích Thiện Huệ Việt dịch.
http://viengiac.de/2015/01/kinh-bat-dai-nhan-giac-luoc-giai/
4. Kinh Bát Đại Nhân Giác Giải. HT Thích Thanh Từ. http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/Kinh/BatDaiNhanGiac/TRANG_CHINH.htm
Các bản dụch khác:
Kinh Bát Đại Nhân Giác (Thích Nhất Hạnh)
Kinh Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải (HT. Thích Thanh Từ)
Con Đường Bồ Tát Nhập Thế Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác (Thích Viên Giác)
Kinh Bát Đại Nhân Giác (Thích Trí Thủ)
(Vatthupatnasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. - “Bạch Thế Tôn”, các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, một người thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác - hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía - vải ấy sẽ được màu nhuộm không tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm không sạch sẽ. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm vải không được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải thanh tịnh, trong sạch, một người thợ nhuộm nhúng tấm vải ấy vào thuốc nhuộm này hay thuốc nhuộm khác - hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc tía, vải ấy sẽ được màu nhuộm tốt đẹp, sẽ được màu nhuộm sạch sẽ. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì tấm vải được trong sạch. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế của tâm? Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, phẫn là cấu uế của tâm, hận là cấu uế của tâm, hư ngụy, não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo, quá mạn, kiêu, phóng dật là cấu uế của tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghĩ rằng: “Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm” và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ tham dục, tà tham cấu uế của tâm; nghĩ rằng: “Sân là cấu uế của tâm”, và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ sân, cấu uế của tâm; phẫn... hận... hư ngụy... não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống... ngoan cố... cấp tháo... mạn... quá mạn... kiêu; nghĩ rằng: “Phóng dật là cấu uế của tâm” thì sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ phóng dật, cấu uế của tâm. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo biết được: “Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm”, tham dục, tà tham cấu uế của tâm được diệt trừ,... sân... phẫn... hận... hư ngụy... não hại... tật đố... xan tham... man trá... khi cuống... ngoan cố... cấp tháo... mạn... quá mạn... kiêu; khi nào Tỷ-kheo biết được: “Phóng dật là cấu uế của tâm”, phóng dật, cấu uế của tâm được diệt trừ, Tỷ-kheo ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối, đối với Phật: Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí chứng hiểu; vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối, đối với chúng Tăng: Diệu hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Như lý hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Chánh hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Đến giai đoạn này, đối với vị ấy có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly. Vị ấy tự nghĩ: “Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối, đối với Thế Tôn”, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp, từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ thân được khinh an, thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền định. Vị ấy tự nghĩ: “Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp”, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ thân được khinh an; thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền định. Vị ấy tự nghĩ: “Ta thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Tăng”, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan hỷ sanh; từ hỷ, thân được khinh an, thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền định. Vị ấy tự nghĩ: “Đến giai đoạn này, đối với Ta, có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự xả ly”, và chứng được nghĩa tín thọ, chứng được pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến pháp; từ hân hoan, hỷ sanh; từ hỷ, thân khinh an; thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với lạc thọ, tâm được Thiền định.
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, - nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với các món ăn khác cũng không vì vậy trở thành một chướng ngại cho vị ấy. Này các Tỷ-kheo, như một tấm vải cấu uế, nhiễm bụi, nếu bỏ trong nước sạch, trở thành thanh tịnh sạch sẽ, như bỏ vào lò lửa trở thành thanh tịnh sạch sẽ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo, giới như vậy, pháp như vậy, tuệ như vậy, - nếu có ăn đồ khất thực với gạo thơm, hạt đen được vất đi, với các món canh, với các món ăn khác, cũng không vì vậy trở thành một chướng ngại cho vị ấy.
Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân... biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu hữu với hỷ... (như trên)... biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Vị ấy biết: “Có cái này, có cái hạ liệt, có cái cao thượng, có sự giải thoát vượt qua các tưởng”. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã giải thoát, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là Tỷ-kheo đã được tắm rửa với sự tắm rửa nội tâm.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sundarikabharadvaja đang ngồi không xa Thế Tôn. Rồi Bà-la-môn Sundarikabharadvaja bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama có đi đến sông Bahuka để tắm rửa không?
– Này Bà-la-môn, sông Bahuka là gì? Sông Bahuka có làm được lợi ích gì?
– Tôn giả Gotama, sông Bahuka được nhiều người xem là có khả năng giải thoát. Tôn giả Gotama, sông Bahuka được nhiều người xem là có khả năng đem lại công đức. Và nhiều người đã gội sạch các ác nghiệp trong sông Bahuka.
Rồi Thế Tôn nói lên những bài kệ sau đây cho Bà-la-môn Sundarikabharadvaja:
Trong sông Bàhukà
Tại Adhikakkà,
Tại cả sông Gayà
Và Sundarikà,
Tại Sarassatì
Và tại Payàna,
Tại Bàhumatì,
Kẻ ngu dầu thường tắm,
Ác nghiệp không rửa sạch.
Sông Sundarikà
Có thể làm được gì?
Payàga làm gì?
Cả sông Bàhukà?
Không thể rửa nghiệp đen
Của kẻ ác gây tội.
Đối kẻ sống thanh tịnh,
Ngày nào cũng ngày tốt,
Với kẻ sống thanh tịnh,
Ngày nào cũng ngày lành,
Các tịnh nghiệp thanh tịnh,
Luôn thành tựu (thiện) hạnh.
Này vị Bà-la-môn,
Chỉ nên tắm ở đây,
Khiến mọi loài chúng sanh,
Được sống trong an ổn.
Nếu không nói dối trá,
Nếu không hại chúng sanh,
Không lấy của không cho,
Có lòng tín, không tham,
Đi Gayà làm gì,
Gayà một giếng nước?
Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Sundarikabharadvaja bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Nay con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tăng. Mong con được xuất gia với Tôn giả Gotama! Mong con được thọ đại giới!
Bà-la-môn Sundarikabharadvaja được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Trong thời gian ngắn sau khi thọ đại giới, Tôn giả Bharadvaja sống độc cư, không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần và không bao lâu sau khi tự thân chứng ngộ với thượng trí, chứng đắc và an trú ngay trong hiện tại, vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy đã thắng tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Như vậy, Tôn giả Bharadvaja trở thành một vị A-la-hán nữa.
KINH VÍ DỤ TẤM VẢI, THỨ BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________
>>> 6.Kinh ước nguyện
Kinh Bát đại nhân giác này, nguyên bản dịch chữ Hán của Tổ An Thế Cao là kinh nhật tụng của mọi Phật tử. Lâu nay đã có vài vị phiên dịch ra Việt ngữ nhưng toàn văn xuôi, nay Thượng tọa Thích Trí Thủ lược dịch ra văn vần, bản ý của Thượng Tọa làm việc này là muốn cho hàng Phật tử được thuận tiện trong việc tụng niệm hằng ngày, để bồi bổ thân tâm, tăng phần phước trí. (LỜI TÒA SOẠN LIÊN HOA SỐ 4 VÀ 5 TRANG 30, NĂM 1958)
Làm người Phật tử ở đời
Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên
Tám điều giác ngộ kinh truyền
Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
Thứ nhất là tâm thành giác ngộ
Cảnh thế gian quốc độ vô thường
Sắc, tâm, sanh diệt khôn lường
Tứ đại, ngũ uẩn, theo đường khổ, không.
Nguồn tội ác bởi lòng dục vọng
Nghiệp oan gia như bóng theo hình
Suy đi nghĩ lại cho tinh
Lần lần giải thoát tử sinh luân hồi.
Thứ hai là ghi lời giác ngộ
Tham dục nhiều lụy khổ thêm nhiều
Dạt dào sanh tử bao nhiêu
Cũng vì tham dục mọi điều gây nên
Muốn sống đời bình yên tự tại
Hãy mở lòng quảng đại vô vi.
Thứ ba là nhớ ghi tâm trí
Lòng tham cầu như ý khó vừa
Chất chồng tội ác ngàn xưa
Cũng vì không chán, không chừa cầu mong.
Bậc Bồ tát giữ lòng biết đủ,
An phận nghèo quy củ tu hành
Trau dồi trí thức thông minh,
“Huệ là sự nghiệp” bình sinh đạo thường.
Thứ tư là nhớ đường giác ngộ
Lười biếng gây gốc khổ lầm than
Thường tu tinh tấn không ngần
Dẹp giặc phiền não ma quân phục tùng
Phá địa ngục muôn trùng kiên cố
Thoát thành sầu cùng khổ ấm, duyên.
Thứ năm là giác ngộ cơ thiền
Ngu si là gốc nhân duyên mê lầm
Bậc Bồ tát chuyên tầm học vấn
Nghe thấy nhiều diệt tận nguồn mê
Khai thông tâm trí bồ đề
Biện tài thành tựu đề huề chúng sanh
Thường giáo hóa an lành tất cả
Ban nguồn vui hỷ xả cho nhau.
Thứ sáu là nhớ câu giác ngộ
Nghèo khổ nhiều đau khổ càng nhiều
Nợ oan vay trả bao nhiêu
Dây oan buộc chặt lắm điều đắng cay
Bậc Bồ tát ra tay bố thí
Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân
Càng thương những kẻ ác nhân
Quên điều tội cũ thương phần khổ đau.
Giác thứ bảy thân dầu ở tục
Lòng thường vui ngũ dục tránh xa
Giữ gìn ba áo ca sa
Tay bưng bình bát yên hà vui say
Chí xuất gia tháng ngày giữ dạ
Phẩm hạnh lành đức cả cao xa
Sao cho trong sạch lòng ta
Từ bi cứu thoát hằng hà chúng sanh.
Thứ tám là đinh ninh giác ngộ
Lửa tử sanh đau khổ vô cùng
Bồ đề tâm phát bao dung
Thề đều tế độ thoát vòng truân chuyên
Chúng sanh khổ lòng nguyền thay thế
Dầu lao đao chẳng kể chẳng phiền
Miễn cho muôn loại đều yên
Hoàn toàn giải thoát lên miền chân như.
Tám điều ấy lời chư Phật dạy
Bậc đại nhân như vậy tu hành
Đạo tâm tinh tấn chí thành
Giong thuyền lên bến vô sanh niết bàn.
Thừa nguyện lực nhân hoàn trở gót
Bể trầm luân cứu vớt sanh linh
Y theo tám việc thực hành
Tuyên dương tiếp dẫn siêu sinh giác đài
Ngộ tử sanh đêm dài đau khổ
Thoát năm trần siêu độ tâm linh
Là người Phật tử chân thành
Hằng ngày nhất niệm, phước sanh tội trừ
Đoạn sanh tử lên bờ giải thoát
Chứng bồ đề cực lạc huy hoàng
Cúi đầu lạy đấng Giác Hoàng
Cầu xin chứng giám đạo tràng từ bi.
Nam mô Bổn Sư Thích ca Mâu ni Phật.
(Akankheyyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. - “Bạch Thế Tôn”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nay hưởng thọ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng hành động của những vị tạo ra các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung, nghĩ (đến ta) với tâm hoan hỷ (và nhờ vậy) được quả báo lớn, lợi ích lớn!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chớ không phải bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát Sắc giới, thuộc Vô sắc giới. Mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta trừ diệt ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng trừ diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhứt Lai, chỉ phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, trừ diệt năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết-bàn ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không, ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (Như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham, ta biết tâm có tham. Tâm không tham, ta biết tâm không tham. Tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân, ta biết tâm không sân. Tâm có si, ta biết tâm có si. Tâm không si, ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành, ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, ta biết tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, ta biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, ta biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, ta biết tâm không giải thoát!” Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp, ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật... (như trên)... các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Mong rằng với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Các Tôn giả, chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn các Tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước nguyện: “Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự tri tự chứng, ta chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc!”, Tỷ-kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới. Như vậy, phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
KINH ƯỚC NGUYỆN, THỨ SÁU HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________
>>> 5. Kinh không uế nhiễm
KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ của BẬC ĐẠI NHÂN
(KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC)
Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Giới thiệu:
Kinh Bát Đại Nhân Giác do ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, vào thời Hậu Hán đời vua Hán Hoàn Đế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ 2 (148 CN). Ngài là Thái tử xứ An Tức (Parthie), nay một phần thuộc Ba Tư (Persia, Iran) một phần thuộc A Phú Hãn (Afghanistan). Lúc bấy giờ Đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang rất thịnh hành trong vùng đó. Ngài xuất gia tu học, tinh thông kinh điển. Sau đó, ngài đi Trung Hoa hoằng hóa Phật Pháp và dịch quyển kinh nầy sang chữ Hán. Đây là bài kinh số 779 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Hán Tạng).
Dưới đây là bản dịch và chú giải của HT Thích Nhất Hạnh:
Là đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụng và quán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ.
Thứ Nhất là giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, chế độ chính trị nào cũng dễ xụp đổ, những cấu tạo của bốn đại [1] đều trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, con người do tập hợp của năm ấm [2] mà có, lại không có thực ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, hư ngụy và không có thực quyền. Trong khi đó thì tâm ta lại là nguồn suối phát sinh điều ác và thân ta thì là một nơi tích tụ của tội lỗi. Quán chiếu như trên thì dần dần thoát được cõi sinh tử.
Thứ Hai là giác ngộ rằng càng lắm ham muốn thì lại càng nhiều khổ đau, rằng bao nhiêu cực nhọc trong cõi sinh tử đều do ham muốn mà có. Trong khi đó người ít ham muốn thì không bị hoàn cảnh sai sử, lại cảm thấy thân mình và tâm mình được thư thái.
Thứ Ba là giác ngộ rằng vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi không bao giờ biết chán cho nên tội lỗi cũng theo đó mà càng ngày càng lớn. Các bậc Bồ Tát [3] thì khác hẳn: họ luôn luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui sống với đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là sự thực hiện trí tuệ giác ngộ.
Thứ Tư là giác ngộ rằng tính lười biếng đưa đến chỗ đọa lạc; vì vậy con người phải chuyên cần hành đạo, phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, và ra khỏi ngục tù của năm ấm và ba giới [4].
Thứ Năm là giác ngộ rằng chính vì vô minh nên mới bị giam hãm trong cõi sinh tử. Các vị Bồ Tát thì thường xuyên nhớ rằng phải học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ, đạt được biện tài để giáo hoá cho mọi người, để cho tất cả đạt tới niềm vui lớn.
Thứ Sáu là giác ngộ rằng vì nghèo khổ cho nên người ta sinh ra nhiều oán hận và căm thù, và vì thế lại tạo thêm những nhân xấu. Các vị Bồ Tát biết thế cho nên chuyên tu phép bố thí, coi kẻ ghét người thương như nhau, bỏ qua những điều ác mà người khác đã làm đối với mình và không đem tâm ghét bỏ những ai đã làm ác.
Thứ Bảy là giác ngộ rằng năm thứ dục vọng [5] đã gây nên tội lỗi và hoạn nạn. Người xuất gia tuy là người sống trong thế tục nhưng không nhiễm theo cái vui phàm tục, thường quán niệm rằng tài sản của mình chỉ là ba chiếc áo cà sa và một chiếc bình bát, tất cả đều là pháp khí, rằng chí nguyện xuất gia của mình là sống thanh bạch để hành đạo, giữ phạm hạnh cho thanh cao và đem lòng từ bi để tiếp xử với tất cả mọi người.
Thứ Tám là giác ngộ rằng vì lửa sinh tử cháy bừng cho nên mọi loài đang chịu biết bao niềm thống khổ. Biết vậy cho nên ta phải phát tâm Đại Thừa, nguyện cứu tế cho tất cả mọi người, nguyện thay thế cho mọi người mà chịu khổ đau vô lượng, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt tới niềm vui cứu cánh.
Tám điều nói trên là những điều giác ngộ của các bậc đại nhân, Phật và Bồ Tát; những vị này đang tinh tiến hành đạo, tu tập từ bi và trí tuệ, đã cưỡi thuyền pháp thân đến được Niết Bàn. Khi trở về lại cõi sinh tử độ thoát cho chúng sinh, họ đều dùng tám điều giác ngộ ấy để khai mở và chỉ đường cho mọi người, khiến chúng sanh ai cũng giác ngộ được cái khổ của sinh tử, lìa bỏ được ngũ dục và hướng tâm vào con đường thánh .
Nếu đệ tử Phật mà thường đọc tụng tám điều này thì mỗi khi quán niệm diệt được vô lượng tội, tiến tới giác ngộ, mau lên chính giác, vĩnh viễn đoạn tuyệt với sinh tử, thường trú trong sự an lạc.
Bản dịch và Chú thích của HT. Thích Nhất Hạnh:
(Trích: "Nghi Thức Tụng Niệm", NXB Lá Bối, California, 1989)
Chú Thích :
Bốn Đại là bốn nguyên tố hay là bốn chất cấu thành vũ trụ. Bốn đại gồm có: Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, và Phong đại.
Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Sắc là thân thể có hình có sắc. Thọ là cảm thọ vui buồn. Tưởng là tri giác bằng hình ảnh tưởng tượng lại. Hành là dụng tâm làm việc này hay việc khác. Thức là phân biệt, hay biết. Năm ấm cũng còn gọi là năm uẩn.
Bồ Tát là dịch âm từ chữ Phạn, dịch âm đầy đủ là Bồ đề tát đỏa, có nghĩa là giác hữu tình Bồ Tát là người, sau khi tin Phật, học Phật, phát nguyện tự độ, độ tha, thậm chí hy sinh cả bản thân mình để cứu giúp người. Muốn làm Bồ Tát trước hết phải có tâm nguyện lớn, chủ yếu là bốn lời nguyện:"Chúng sinh vô biên thề nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lương thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Mọi người từ khi phát tâm cho đến khi thành Phật được gọi là Bồ Tát, vì vậy mà có phân ra Bồ Tát phàm phu và Bồ Tát hiền thánh. Các vị Bồ Tát được nói tới trong các kinh Phật thường là các vị Bồ Tát hiền thánh.
Ba giới là dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, là ba cõi sống của chúng sinh: Loài người thuộc về dục giới, cõi sống của chúng sinh còn có lòng tham dục. Sắc giới là cõi sống của loài Trời. Ở cõi Trời sắc giới này, chúng sinh đã thoát khỏi mọi lòng dục, nhưng vẫn còn sắc thân. Vô sắc giới là cõi gồm những chúng sinh, không những không còn có lòng dục mà cũng không còn có sắc thân nữa, chỉ còn có tinh thần thuần tuý mà thôi.
Năm thứ dục vọng là năm thứ ham muốn: sắc, thanh , hương , vị, và xúc .
(Ananganasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở tại đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo. “Chư Hiền Tỷ-kheo”. - “Thưa Hiền giả”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Này chư Hiền, ở đời có bốn hạng người. Thế nào là bốn? Chư Hiền, ở đây, có hạng người có cấu uế, nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Lại nữa chư Hiền, ở đây, có hạng người có cấu uế, và như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Lại nữa chư Hiền, ở đây có hạng người không có cấu uế, nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Lại nữa, chư Hiền, ở đây, có hạng người không có cấu uế và như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Chư Hiền, ở đây, hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Trong hai hạng người có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là hạng người hạ liệt. Chư Hiền, ở đây, hạng người có cấu uế và như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Trong hai hạng người có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là hạng người ưu thắng. Chư Hiền, ở đây, có hạng người không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Trong hai hạng người không có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là hạng người hạ liệt. Chư Hiền, ở đây, hạng người không có cấu uế và như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Trong hai hạng người không có cấu uế, hạng người này vì vậy được gọi là hạng người ưu thắng.
Được nói như vậy, Tôn giả Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên) nói với Tôn giả Sariputta như sau:
– Tôn giả Sariputta, do nhân gì, do duyên gì, trong hai hạng người có cấu uế này, một hạng người được gọi là hạ liệt, một hạng người được gọi là ưu thắng? Tôn giả Sariputta, do nhân gì, do duyên gì trong hai hạng người không có cấu uế này, một hạng người được gọi là hạ liệt, một hạng người được gọi là ưu thắng?
– Ở đây, Hiền giả, hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Với người này, có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm”. Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian càng ô nhiễm hơn, càng đầy bụi bặm hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Với người này, có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ không khởi lên ước muốn, sẽ không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn nhiễm”.
Ở đây, này Hiền giả, hạng người có cấu uế, và như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Với người này, có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm”. Này Hiền giả, giống như cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian được thanh tịnh hơn, được sạch sẽ hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người có cấu uế và như thật tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế”. Với hạng người này, có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ khởi lên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn, để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần, trong khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm”.
Ở đây, này Hiền giả, hạng người không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Với người này, có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người này. Người này sẽ từ trần, trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm”. Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ. Và người chủ cái bát ấy không dùng đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian, càng ô nhiễm hơn, càng bụi bặm hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế nhưng không như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Với người này có thể chờ đợi sau: “Người này sẽ tư niệm tịnh tướng. Do tư niệm tịnh tướng, tham sẽ làm ô nhiễm tâm của người này. Người này sẽ từ trần trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi tâm còn ô nhiễm”.
Ở đây, này Hiền giả, hạng người không có cấu uế và như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Với người này có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm của người này. Người này sẽ từ trần, trong khi không có tham, không có sân, không có si, trong khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm”. Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ về hay mang từ nhà thợ rèn về, thanh tịnh và sạch sẽ và người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy, sau một thời gian, càng được thanh tịnh hơn, càng được sạch sẽ hơn.
– Này Hiền giả, sự thật là vậy.
– Này Hiền giả, như vậy hạng người không có cấu uế, và như thật tuệ tri: “Nội thân ta không có cấu uế”. Với người này có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ không tư niệm tịnh tướng. Do không tư niệm tịnh tướng, tham sẽ không làm ô nhiễm tâm người này. Người này sẽ từ trần, không có tham, không có sân, không có si, không còn cấu uế, tâm không còn ô nhiễm”.
Này Hiền giả Moggallana, do nhân này, do duyên này, trong hai người có cấu uế này, một người được gọi là hạ liệt, một người được gọi là ưu thắng. Này Hiền giả Moggallana, do nhân này, do duyên này, trong hai người này không có cấu uế, một người được gọi là hạ liệt, một người được gọi là ưu thắng.
Này Hiền giả, cấu uế gọi là cấu uế, danh từ gì là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế? - Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng các Tỷ-kheo chớ có biết về ta rằng là đã phạm giới tội”. Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo có thể biết được các Tỷ-kheo ấy đã phạm giới tội. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Các Tỷ-kheo đã biết được ta đã phạm giới tội”. Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng các Tỷ-kheo hãy quở trách ta ở chỗ kín đáo, không phải ở giữa Tăng chúng”. Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo quở trách Tỷ-kheo ấy ở giữa Tăng chúng, không phải ở chỗ kín đáo. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Các Tỷ-kheo quở trách ta ở giữa Tăng chúng, không phải ở chỗ kín đáo”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ, và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Nếu ta có phạm giới tội, mong rằng một Tỷ-kheo đồng đẳng hãy quở trách ta, chớ không phải một vị không đồng đẳng”. Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo không đồng đẳng quở trách Tỷ-kheo ấy, không phải một Tỷ-kheo đồng đẳng. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo không đồng đẳng quở trách ta, không phải một Tỷ-kheo đồng đẳng”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng bậc Đạo sư hãy hỏi ta nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo! Mong rằng bậc Đạo sư không hỏi Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo!”. Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: bậc Đạo sư hỏi một Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo, bậc Đạo sư không hỏi Tỷ-kheo ấy nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Bậc Đạo sư hỏi một Tỷ-kheo khác nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo. Bậc Đạo sư không hỏi ta nhiều lần trong khi giảng pháp cho chúng Tỷ-kheo”. Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng các Tỷ-kheo hãy để ta đi trước trong khi vào làng để dùng cơm! Mong rằng các Tỷ-kheo không để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi vào làng để dùng cơm!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để Tỷ-kheo ấy đi trước trong khi vào làng để dùng cơm. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Các Tỷ-kheo để một Tỷ-kheo khác đi trước trong khi vào làng để dùng cơm, các Tỷ-kheo không để ta đi trước trong khi vào làng để dùng cơm”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng tại chỗ ăn, ta được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất! Mong rằng Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn không được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất; còn Tỷ-kheo ấy tại chỗ ăn không được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất. Tại chỗ ăn, ta không được chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất”. Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng tại chỗ ăn sau khi ăn xong, ta sẽ thuyết tùy hỷ pháp, không phải Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, sẽ thuyết pháp tùy hỷ pháp!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, thuyết tùy hỷ pháp; Tỷ-kheo ấy tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, không thuyết tùy hỷ pháp. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, thuyết tùy hỷ pháp. Ta tại chỗ ăn, sau khi ăn xong, không thuyết tùy hỷ pháp”. Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá, chớ không phải một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá; còn Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá, còn ta không thuyết pháp cho các Tỷ-kheo tụ tập tại ngôi Tinh xá”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng, ta sẽ thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni tụ tập tại ngôi Tinh xá,... (như trên)... ta sẽ thuyết pháp cho các Nam cư sĩ... ta sẽ thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá, chớ không phải một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá; còn Tỷ-kheo ấy không thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá; còn ta không thuyết pháp cho các Nữ cư sĩ tụ tập tại ngôi Tinh xá”. Do đó, vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta; các vị Tỷ-kheo chớ có cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường một Tỷ-kheo khác!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng lễ bái, cũng dường một Tỷ-kheo khác, các Tỷ-kheo không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Các Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác chớ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng các Tỷ-kheo-ni... (như trên)... các Nam cư sĩ... (như trên)... các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta. Các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác, các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Các Nữ cư sĩ cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường một Tỷ-kheo khác; các Nữ cư sĩ không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ta”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng ta nhận được các y phục tối thắng, Tỷ-kheo khác không nhận được các y phục tối thắng!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác nhận được các y phục tối thắng, Tỷ-kheo ấy không nhận được các y phục tối thắng. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác nhận được các y phục tối thắng; ta không nhận được các y phục tối thắng”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả sự tình này xảy ra, ở đây, một Tỷ-kheo có thể khởi lên ý muốn như sau: “Mong rằng ta nhận được các đồ ăn khất thực tối thắng... (như trên)... các sàng tọa tối thắng, các dược phẩm trị bịnh tối thắng. Tỷ-kheo khác không nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng!” Này Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra: một Tỷ-kheo khác nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng, còn Tỷ-kheo ấy không nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng”. Tỷ-kheo này nghĩ rằng: “Một Tỷ-kheo khác nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng; còn ta không nhận được các dược phẩm trị bịnh tối thắng”. Do đó vị này trở thành phẫn nộ và bất mãn. Này Hiền giả, phẫn nộ và bất mãn, cả hai thuộc về cấu uế.
Này Hiền giả, các ác bất thiện pháp, cảnh giới của dục này là đồng nghĩa cái gọi là cấu uế.
Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này còn được thấy và nghe là chưa được diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, sống hạnh khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này còn được thấy và còn được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới dục của Tỷ-kheo chưa được diệt trừ. Này Hiền giả, ví như một bát bằng đồng, mang từ chợ về hay từ nhà người thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh, sạch sẽ. Nhưng người chủ của bát ấy đựng đầy bát với xác rắn, xác chó hay xác người, đậy lại với một cái bát đồng khác rồi mang về hàng chợ lại. Có người thấy vậy bèn hỏi: “Bạn mang cái gì có vẻ đẹp đẽ ngon lành vậy?” Khi cầm cái bát lên, mở ra và nhìn vào, thì với người ấy, không ưa thích khởi lên, sự ghê tởm khởi lên, và sự yếm ố khởi lên. Những người đói còn chưa muốn ăn các thứ ấy, huống nữa là những người đã no. Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào, các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này còn được thấy và được nghe là chưa được diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy là vị sống trong rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, sống hạnh khất thực, thứ lớp khất thực từng nhà một, theo hạnh mang phấn tảo y, mặc y phục thô xấu, thời các đồng phạm hạnh không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này còn được thấy và còn được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này là chưa được diệt trừ.
Này Hiền giả, đối với Tỷ-kheo nào mà các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này được thấy và được nghe là đã diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy sống gần làng mạc, chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y người gia chủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này được thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục của vị Tỷ-kheo ấy đã được diệt trừ. Này Hiền giả, ví như một bát đồng, mang từ hàng chợ về hay từ nhà người thợ rèn về, bát ấy thanh tịnh, sạch sẽ. Người chủ cái bát ấy dựng đầy với gạo ngon, cơm lành, các hột đen đã lấy ra, các loại đồ ăn, đậy lại với một bát đồng khác rồi mang về hàng chợ lại. Các người thấy vậy bèn hỏi: “Bạn mang cái gì có vẻ đẹp đẽ ngon lành vậy?” Khi cầm cái bát lên, mở ra và nhìn vào, thì đối với người ấy, ưa thích khởi lên, sự không ghê tởm khởi lên, sự không yếm ố khởi lên. Người no còn muốn ăn các thứ ấy huống nữa là người đói. Này Hiền giả, cũng vậy, đối với vị Tỷ-kheo nào, mà các ác, bất thiện pháp, cảnh giới của dục này được thấy và được nghe là đã diệt trừ, nếu Tỷ-kheo ấy sống ở biên giới gần làng mạc, chấp nhận biệt thỉnh thực, mang y người gia chủ cúng, thời các đồng phạm hạnh cung kính, tôn trọng lễ bái cúng dường Tỷ-kheo ấy. Vì sao vậy? Vì các bậc Tôn giả này được thấy và được nghe các ác, bất thiện pháp cảnh giới của dục này đã được diệt trừ.
Được nghe nói vậy, Tôn giả Mahamoggallana thưa với Tôn giả Sariputta:
– Hiền giả Sariputta, một ví dụ khởi lên cho tôi!
– Hiền giả Moggallana, hãy nói lên ví dụ ấy.
– Hiền giả, một thời tôi ở thành Vương-xá, tại Giribbaja. Này Hiền giả, rồi tôi đắp y vào buổi sáng, mang theo y bát, vào thành Vương-xá để khất thực. Lúc bấy giờ, Samiti, con một người làm xe, đang đẽo một vành xe, và tà mạng ngoại đạo Panduputta, trước là con của một người làm xe, đang đứng một bên. Rồi tà mạng ngoại đạo Panduputta trước là con một người làm xe, khởi lên ý nghĩ như sau: “Mong rằng Samiti, con người thợ xe, hãy đẽo đường cong này, đường méo này và các mắt gỗ này, để vành xe này không có cong, không có đường méo, không có mắt gỗ, được trơn tru và được đặt vào trong trục chính”. Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo Panduputta, trước là con một người làm xe suy nghĩ như thế nào, thời đúng như vậy, Samiti, con người làm xe, đẽo đường cong này, đường méo này và các mắt gỗ này của vành xe ấy. Này Hiền giả, tà mạng ngoại đạo Panduputta trước là con người làm xe, hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ như sau: “Hình như người này đang đẽo (vành xe ấy) như là với tâm của anh ta, anh ta biết tâm ta vậy”. Này Hiền giả, những ai không có lòng tin, vì mục đích sinh sống, không phải vì lòng tin mà xuất gia, sống đời sống vô gia đình, những vị gian ngụy, xảo trá, khi cuống, trạo cử, kiêu mạn, dao động, lắm lời, tạp thoại, không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chú tâm cảnh giác, không tha thiết với hạnh Sa-môn, không nhiệt thành tôn trọng Phật pháp, ưa sống sung túc, biếng nhác, dẫn đầu về đọa lạc, chối bỏ trọng trách sống viễn ly, giải đãi không tinh tấn, lãng quên không chú niệm, không định tâm, tâm tán loạn, liệt tuệ, đần độn. Tôn giả Sariputta với pháp môn này, như là với tâm của Tôn giả, Tôn giả biết tâm của những hạng người ấy. Những kẻ Thiện nam tử, do lòng tin, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; những vị nào không gian ngụy, không xảo trá, không khi cuống, không trạo cử, không kiêu mạn, không dao động, không lắm lời, không tạp thoại, hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, tha thiết với hạnh Sa-môn, nhiệt thành tôn trọng Phật pháp, không sống trong sung túc, không biếng nhác, bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc, dẫn đầu về viễn ly, tinh cần, tinh tấn, nỗ lực, chú tâm cảnh giác, định tâm, nhất tâm, có trí tuệ, không đần độn. Những vị này sau khi nghe pháp môn này của Tôn giả Sariputta, hình như đang uống, hình như đang nếm với lời nói và với tâm ý. Thật lành thay, một vị Tôn giả đồng phạm hạnh đã khiến cho vượt khỏi bất thiện và an trú vào chánh thiện! Này Hiền giả, ví như một người đàn bà hay người đàn ông, còn đang tuổi trẻ, tánh ưa trang sức, sau khi gội đầu xong, sau khi được một vòng hoa sen xanh hay một vòng vũ sanh hoa, hay một vòng thiện tư hoa, dùng hai tay cầm lấy vòng hoa ấy và đặt trên đỉnh đầu. Này Hiền giả, cũng vậy những Thiện nam tử vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, không gian ngụy... (như trên)... Thật lành thay một Tôn giả đồng phạm hạnh đã khiến cho vượt khỏi bất thiện và an trú vào chánh thiện!
Như vậy hai vị cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.
KINH KHÔNG UẾ NHIỄM, THỨ NĂM HẾT.
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________
>>> 4.Kinh sợ hãi và khiếp đãm
Quyển 2 Phẩm Thứ Năm: Chánh Tín Phẩm Thứ Sáu: Quán Sát Phẩm Thứ Bảy: Giới Hạnh Đầy Đủ Phẩm Thứ Tám: Thọ Ký Quyển 3 Phẩm Thứ Chín: Công Đức Thọ Trì Phẩm Thứ Mười: Mau Chứng Bồ Đề Phẩm Thứ Mười Một: Đầy Đủ Năm Pháp Phẩm Thứ Mười Hai: Xa Lìa Phân Biệt Quyển 4 |
Phẩm Thứ Mười Ba: Vô Tránh Hạnh Phẩm Thứ Mười Bốn: Pháp Bất Cộng Phẩm Thứ Mười Lăm: Công Đức Tùy Hỷ Phẩm Thứ Mười Sáu: Phụng Sự Pháp Sư Phẩm Thứ Mười Bảy: Chúc Lụy
|
Quyển Thứ Nhứt
Phẩm Thứ Nhất: Vấn Đáp
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian Phật ngự tại tinh xá trong vườn tre của ông phú hộ Ca Lan Đà (tinh xá Trúc Lâm) thuộc thành Xá Vệ cùng với trăm năm vị tỳ kheo, các vị tỳ kheo nầy đều là bực A La Hán đã dứt sạch hết các phiền não không còn sanh khởi trở lại, đều được tự tại như con rồng to lớn có khả năng hàng phục tất cả, tâm và trí huệ đều được giải thoát khỏi vô minh, các công hạnh đã hoàn mãn đầy đủ cả rồi, trút bỏ được gánh nặng thân hôi hám nầy sẽ không còn thọ thân sau nữa, thực hành pháp bình đẳng đã được sự lợi ích cho cá nhân một cách thiết thực, an trụ trong chánh giáo qua đến được bờ kia, chỉ trừ có A Nan ra kỳ dư các ngài đều như thế cả.
Bấy giờ lại có năm trăm vị tỳ kheo vào buổi bình minh các ngài rời chỗ ở qua đến nơi Thế Tôn cung kính chấp tay đảnh lễ đầu chấm sát chân Phật rồi lui ra một bên.
Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên sau mùa an cư tại thành Xá Vệ mới cùng với năm trăm vị tỳ kheo đi du hành trong các thôn xóm thành thị qua đến thành Vương Xá vào tinh xá Trúc Lâm đến yết kiến Thế Tôn, lúc đến nơi cung kính lễ Phật rồi lui ra ngồi một bên.
Lúc đó đức Thế Tôn dụng sức thần thông phóng ra ánh sáng vĩ đại, trong các thôn xóm làng ấp thành phố thuộc các nước có bao nhiêu tỳ kheo đều làm cho họ quay về thành Vương Xá vào tinh xá Trúc Lâm, khi đến nơi thế Tôn ngự họ cung kính lạy sát chân Phật rồi lui ra ngồi một bên. Số tỳ kheo tụ họp về tinh xá Trúc Lâm đã lên đến trăm ngàn. Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng nhờ vào sức oai thần của Phật cùng với hai mươi ngàn vị tỳ kheo ni tập hợp lại đồng đến tinh xá Trúc Lâm ra mắt Phật đến nơi làm lễ Phật rồi lui ra ngồi một bên.
Trong thành Vương Xá có vị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt, họ là bậc đại Bồ tát đã trụ chánh đẳng giác vì tu hành theo bổn nguyện nên thường theo Thế Tôn để nghe chánh pháp luôn luôn tinh tấn, cũng để hoàn mãn các pháp trợ đạo nên từ sáng sớm do thần lực của Phật cả bọn đã rời chỗ ở đến yết kiến Phật.
Trong thành Tỳ Xá Ly có vị quý tộc Ly Xa tên là Bảo Sanh làm thượng thủ dẫn dắt hai muôn tám ngàn người thuộc họ Ly Xa. Thành Chiêm Bà có vị phú hộ tên tà Tinh Đức làm thượng thủ lãnh đạo hai muôn tám ngàn vị phú hộ. Chàng Na La Đạt Đa làm thượng thủ dẫn dắt hai muôn tám vị thanh niên có đức tin trong sạch. Hai vị phú hộ ở nước Xá Vệ tên là Đại Thương Chủ và Cấp Cô Độc làm thượng thủ dắt theo hai muôn tám người đến dự. Vị phú hộ Thủy Tiên ở thành Vương Xá cũng cầm đầu dẫn đến hai muôn tám ngàn người. Con trai Hoàng Hậu Vi Đề Hy và vua A Xà Thế chúa nước Ma Dà Đà dẫn đến trăm ngàn thần dân. Bốn vị thiên vương và trời Đế Thích cùng tất cả các vị trời ở cõi Dục, mỗi vị đều cùng với vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng trời đồng đến. Trời Đại Phạm chúa cõi Ta Bà dẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng trời. Vua trời Đại Tự Tại đến với vô lượng chúng trời ở cõi Tịnh Cư. Bốn vị vua A Tu La đến cùng vô lượng trăm ngàn chúng A Tu La. Vua rồng Nan Đà và Bạt Nan Đà đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đồng đến. Vua rồng Ta Già La và A Na Bà Đạt Đa cùng Ma Na Tư, Y Bạt La v.v... đồng với vô lượng trăm ngàn chúng rồng cùng đến. Tại cả tam thiên đại thiên thế giới tất cả tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ và hết thảy trời, rồng , dọa xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân cùng các vị đế vương hạng người tin Như Lai vì thiết tha muốn nghe pháp nên đã đồng nhau đến.
Các vị như trên, khi đến đều trước tiên làm lễ Thế Tôn sau đó lui ra ngồi một bên.
Khi ấy vườn tre Ca Lan Đà biến thành rộng rãi diện tích bằng cả tam thiên đại thiên thế giới, đại chúng đến nghe pháp ngồi chật ních không có chỗ nào trống. Như thế từ trên đến trời Sắc cứu Cánh, dưới đến cung điện Phạm thiên có bao nhiêu các vị trời có thần thông oai đức cho đến tất cả rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân, phi nhân đều tập hợp đến nghe pháp.
Lúc đó Bồ tát Hiền Hộ đứng dậy trịch áo bày vai mặt gối mặt quỳ xuống đất chấp tay hướng về Phật và thưa:
Bạch Thế Tôn! Hôm nay con muốn thưa hỏi đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng chánh giác về các chỗ nghi hoặc trong tâm con, không biết Thế Tôn có cho phép không?
Phật đáp:
Nầy Hiền Hộ! Ông có nghi điều gì ông hãy cứ hỏi, ta sẽ giải thích cho để đem lại nguồn vui cho ông.
Được Phật nhận lời, Bồ tát Hiền Hộ liền thưa:
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát thành tựu hoàn mãn những tam muội gì mà được nhiều thứ công đức vĩ đại? Làm thế nào vừa được bể học rộng nghe nhiều thu hoạch kho tàng trí huệ, bất cứ ai hỏi gì cũng đều biết thông suốt lời hỏi đó không còn nghi hoặc. Làm thế nào đắc giới tụ vô ý, không mất sự thành tựu không thối lui trước trí giác vô thượng? Làm thế nào không thọ sanh vào chỗ ngu si, tà kiến rỗng không lại luôn luôn được nghe chánh pháp? Làm thế nào được trí túc mạng biết tất cả việc quá khứ vị lai? Làm thế nào đắc đại từ bi đại hỷ đại xả bình đẳng đem lại nguồn vui cho chúng sanh? Làm thế nào lúc nghe về pháp chơn không, vô tướng vô nguyện sâu xa tâm tin hiểu được không sanh sợ hãi thối chí? Làm thế nào được sự không ưa thích biếng trễ, có thừa khả năng nắm vững chánh pháp? Làm thế nào được trí huệ thông đạt thấu rõ tất cả, không ai sánh ngang hàng được? Làm thế nào được tùy ý sanh vào tất cả thế giới vì không bị chi ngăn trở? Làm thế nào không bị tất cả ngoại đạo hàng phục được vì họ không đủ năng lực để chiến thắng nổi? Làm thế nào được đức tin vững chắc vì không hề có tà thuyết nào lay động được? Làm thế nào đắc được đại từ lực tín vì không bị chao động? Làm thế nào thể nhập sâu vào đức tin vì không hề vận hành? Làm thế nào được đức tin nhuần thấm đối với tất cả các pháp đều hoan hỷ? Làm thế nào đắc đức tin siêu việt cúng dường hầu hạ các đức Phật không hề nhàm chán? Làm thế nào có các đức tin căn để do vun trồng các căn lành? Làm thế nào đắc đức tin chơn diệu do sự tăng trưởng các công hạnh không hư dối? Làm thế nào được đức tin thanh tịnh vui vẻ vì đã trừ sạch hết cả những bụi ganh ghét? Làm thế nào được đức tin trong sạch vì đã đắc ánh sáng nhứt thiết chủng trí? Làm thế nào đắc đức tin ưa thích các công hạnh vì đã trừ diệt các tội ác che phủ chướng ngại hết rồi? Làm thế nào có đức tin vui thích trí huệ đã thu nhập kinh nghiệm được tất cả cảnh giới Phật? Làm thế nào đắc đức tin trang nghiêm hạnh vượt bực hơn tất cả sự tô điểm của thế gian vì đã thành tựu thế giới Phật thanh tịnh? Làm thế nào đắc giới hạnh thanh tịnh vì đã diệt hẳn tất cả tâm Thinh văn, Bích Chi Phật? Làm thế nào đắc đại thệ trang nghiêm vì tất cả động tác đều đến mức chí thiện? Làm thế nào được làm bực lãnh đạo cho tất cả chúng sanh vì muốn thực hành các công hạnh lành? Làm thế nào đắc được năng lực không bao giờ mệt mỏi vì muốn dạy dỗ cho tất cả Bồ tát học về Ba La Mật? Làm thế nào chơn không vô sở hữu vì đã xa lìa tất cả ý tưởng? Làm thế nào đắc vô tưởng do quán sát tất cả pháp không thấy có hai tướng? Làm thế nào đắc biên tế pháp giới vì tâm bồ đề không có hạn lượng? Làm thế nào đắc được sự không đắm trước tất cả thế giới vì bổn tánh vốn không phân biệt? Làm thế nào đắc hạnh vô ngại có thể đi khắp mười phương tất cả thế giới Phật? Làm thế nào đắc các đà la ni nghe một biết muôn vì thông đạt hết tất cả ý nghĩa của văn tự ngôn thuyết? Làm thế nào đương ở nơi một thế giới Phật chẳng những chưa đắc lục thông của xuất thế ngay đến ngũ thông trong thế gian cũng chưa được lại có năng lực nhìn thấy được tất cả các đức Phật nghe các ngài dạy về chánh Pháp cúng dường chư Tăng, chưa bỏ thân nơi thế giới này sanh qua các thế giới của chư Phật, an trụ ở đó lại thấy các thế giới của chư Phật khác đều được nghe lời các ngài giảng về chánh pháp, nghe xong vâng giữ hết và y theo lời dạy thực hành, từ đó về sau xa lìa các đức Phật được nghe các ngài thuyết pháp ngay cả trong giấc mộng?
Lúc đó Thế Tôn bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Hay lắm! Nầy Hiền Hộ! Ông đã vì muốn đem lại sự lợi ích vĩ đại cho tất cả chúng sanh trong thế gian, mong đưa đến sự an lạc cho chúng sanh, xót thương các loài trời người và cũng để nhiếp phục các vị Bồ tát ở đời vị lai nên ông đã hỏi ta về diệu nghĩa như thế.
Lại nầy Hiền Hộ! Ông đã từng cúng dường vô lượng các đức Phật vun trồng nhiều căn lành nghe, thọ trì, ưa thích, kính trọng chánh pháp, thực hành đại từ bi đối với tất cả chúng sanh sanh tâm bình đẵng, tùy ý được thấy tất cả chư Phật, phát nguyện rộng lớn thực hành diệu hạnh sâu xa, thích nhứt thiết trí, xuôi theo chủng tánh Như Lai, phát tâm Bồ đề kiên cố như chất kim cang, có năng lực thông đạt hết những ý nghĩa của tất cả chúng sanh trong thế gian, công hạnh vĩ đại không thể lấy gì so sánh được.
Này Hiền Hộ! Có một môn tam muội của Bồ tát tên là NIỆM CHƯ PHẬT HIỆN TIỀN, nếu như có vị Bồ tát nào tu tập hoàn mãn môn tam muội như thế sẽ thành tựu được các công đức như ông vừa hỏi ở trên. Nầy Hiền Hộ! Ngoài ra còn được vô lượng vô biên các công đức đặc biệt khác nữa không thể kể ra hết được.
Bồ tát Hiền Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn! Thật là cơ hội tốt cho con! Xin Ngài hãy dạy về môn tam muội Bồ tát niệm tất cả chư Phật hiện tiền, lời dạy về môn tam muội nầy chắc chắn sẽ đem lại nhiều sự lợi ích an lạc cho trời người, Phạm thiên, Ma vương, Sa môn, Bà la môn, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân trong thế gian nầy và cũng đem lại nhiều sự an lạc lợi ích cho vô lượng chúng sanh trong đời vị lai.
Quyển Thứ Nhứt
Phẩm Thứ Hai: Tư Duy
Khi đó đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Hãy lắng tai nghe cho kỹ và ghi nhớ cho rành rẽ ta phân tích giải thích rõ ràng đối với những lời như ông vừa hỏi:
Hiền Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn! Như vậy hay lắm! Con hết sức ưa thích lời dạy bảo của Như Lai.
Phật dạy:
Thế nào lại đặt tên là tam muội Bồ tát niệm tất cả chư Phật hiện tiền? Nầy Hiền Hộ! Nếu có vị Bồ tát nào cầu trí giác vô thượng siêng năng dõng mãnh mang trọng trách cứu độ chúng sanh, hầu hạ cung cấp những nhu yếu cho bậc thiện tri thức, thường tu tập hạnh hướng nội suy gẫm diệt sạch phiền não, xa lìa bạn ác dứt trừ các lời lẽ thế tục thu thúc sáu giác quan. Đầu hôm giữa đêm sớm mai đều giảm bớt sự ngủ nghỉ, không tham đắm nơi y phục món ăn uống thuốc thang nhà cửa phòng xá địa vị, luôn ưa thích ở a lan nhã nơi thanh vắng. Không tiếc rẻ tự thân, không trọng tánh mạng không trau chuốc hình dáng bên ngoài, không buông lung tâm thu thúc lại bằng tình thương cao cả hằng mong đem lại an vui cho chúng sanh, đối với chúng sanh lúc nào cũng vui vẻ xả bỏ xí xóa, phá vỡ phiền não thành tựu thiền định. Không đắm say vị suy tư, quán sát sắc tưởng nhưng tâm lại rỗng rang không loạn động chánh niệm, không chấp giữ các ấm, không đam mê nơi các giác quan (căn), không nghĩ tưởng các giới. Không đam mê chỗ sanh, chế phục mình không tự cao ngã mạn. Không ganh tỵ tài sản của kẻ khác, hằng đem lại nhiều sự lợi ích cho thế gian. Đối với các chúng sanh tâm luôn luôn bình đẳng kính xem họ như cha mẹ hoặc thương xót coi như đứa con độc nhứt. Với tất cả pháp không có tư tưởng đối nghịch. Dù có trì giới nhưng không chấp trước. Luôn an trụ trong thiền định nhưng lại không đam mê. Ưa thích học rộng nghe nhiều lại không sanh khởi sự phân biệt. Không thiếu xót giới hạnh, thiền định không bị xao động, trí không còn hư vọng. Không còn mối hoài nghi nào đối với các pháp. Không đối nghịch với các đức Phật, không hủy báng chánh pháp, không phá hoại chư Tăng. Tu tập thấm nhuần năm pháp giải thoát diệt trừ được mười việc ác, nghĩ nhớ đến mười điều thiện. Dứt sạch được chín món não hại của chúng sanh, trong tâm không xả ly môn quán cửu tưởng, nghĩ cách xả bỏ tám thứ giải đãi, chuyên tâm tu tập tám điều giác ngộ của bực đại nhân. Không nghĩ mình học rộng nên ngã mạn đã trừ. Quán sát dục vọng như đờm mũi, hết sức thích hạnh xuất gia thuận theo lời Phật dạy, khuyên nhũ chúng sanh nên thực hành công đức. Ở trong ba cõi nhưng không ô nhiễm. Thấy tất cả Phật đều hiện ra trước mắt. Thọ tất cả thân đều xem như ảo mộng, suy gẫm sự vận hành lại không thấy quá khứ, vị lai hiện tại. Bình đẵng đối với tất cả pháp không đối nghịch với tất cả thế gian, hành động cần thi hành không có mâu thuẫn. Thông đạt pháp mười hai nhơn duyên sâu xa, đi hết con đường của tất cả Như Lai trải qua, đắc sức nhẫn tối thượng, thể nhập chơn pháp giới, nhìn chúng sanh giới bản tánh không sanh không diệt thấy Niết Bàn giới bổn lai hiện tiền Huệ nhãn thanh tịnh thấy pháp không có hai tướng, tâm Bồ đề không có chặng giữa không có bờ mé tất cả các đức Phật thể tánh vốn không sai biệt. Thể nhập cửa trí huệ thanh tịnh vô ngại thấu rõ trí giác bồ đề tự nhiên, tập họp các Phật công đức không bao giờ cùng tận.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát nào muốn thành tựu tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền trước tiên hết cần nên hoàn mãn các công đức như trên. Hiền Hộ! Ông nên biết lại còn có vô lượng công đức cũng do từ tam muội nầy sanh ra. Nếu như có ai hỏi do tam muội gì lại sanh công đức như thế? Ông có thể trả lời đó chính là tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền sanh ra công đức như vậy.
Lại nầy Hiền Hộ! Thế nào gọi là tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền?
Nầy Hiền Hộ! Nếu có tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ giữ giới trong sạch các công hạnh đã hoàn mãn, ở một mình tại chỗ vắng vẻ suy tưởng như thế này: Ở khắp mọi chỗ bất cứ phương nào chẳng hạn như phương tây có đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác. Người nầy vừa nghe được danh hiệu lập tức tưởng nghĩ như vậy: Như ta vừa nghe danh hiệu đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẵng Giác hiện nay ngài ngự ở thế giới chư Phật. Thế giới của ngài tên là Cực Lạc ngài thường ngự vào các pháp hội của các Bồ tát để nói pháp và giáo hóa. Rồi người nghe y theo chỗ nghe được chuyên tinh tưởng nhớ quán sát không ngừng nghỉ cho đến khi hình ảnh trên hiện rõ ràng trong trí sau cùng được thấy Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẵng Giác.
Lại nầy Hiền Hộ! Thí dụ như trong thế gian có kẻ trai hay gái lúc nằm chiêm bao thấy các vật báu như vàng bạc của cải, kho lúa hoặc thấy bạn bè hạng người quen biết hay đang lúc mơ cảm thấy tâm không ưa thích. Người nằm mộng nầy đối với cảnh được thấy hoặc chống đối hay xuôi theo, hoặc buồn lo hay vui thích. Sau khi người nầy tỉnh dậy nhớ lại cảnh vừa thấy trong giấc mộng bèn hồi tưởng để kể cho người khác nghe và cảm thấy trong lòng có phần vui thích. Cũng như thế, nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ ngồi ngay ngắn tinh thành chuyên chú tưởng nhớ đức Phật A Di Đà tướng tốt vẻ đẹp, oai nghi của ngài như thế, pháp hội như thế, ngài thuyết pháp như thế.... tùy theo sự kiện nghe được hết lòng tưởng nhớ nhứt tâm liên tục có thứ lớp không tạp loạn trải qua một ngày hay một đêm như thế hoặc đến bảy ngày đêm tưởng nhớ liên tục theo như lời diễn tả về đức Phật ấy. Người nầy chắc chắn sẽ được thấy đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, nếu như không thấy được ngài giữa ban ngày thì cũng được thấy trong đêm hay trong giấc mộng đức Phật A Di Đà hiện ra rõ ràng trước mắt.
Nầy Hiền Hộ! Như người trai hay gái trong thế gian nầy mắc phải công việc gì đó phải đi sang xứ khác, trong đêm mơ thấy quê nhà. Đang lúc mơ thật không biết đó là đêm hay ngày hoặc trong hay ngoài hình ảnh chốn quê nhà hiện ra rõ ràng trước mắt không ngăn sông cách núi và cũng không bị trở ngại bởi tối tăm hôn ám.
Hiền Hộ! Tâm của đại Bồ tát không bị chướng ngại cũng giống như thế. Đương lúc chánh niệm dù ngay trước mắt bị thế giới Phật án ở khoảng giữa, tất cả núi tu di, núi thiết vi, núi đại thiết vi và các dãy hắc sơn ngăn chận nhưng tất cả đều không thể che lấp được tâm nầy, không ngăn trở sự thấy của nhãn quan. Người nầy thật ra chưa đắc thiên nhãn nhưng có thể thấy được Phật, chưa có thiên nhĩ lại nghe được lời Phật nói pháp, không có thần thông để bay qua thế giới Cực Lạc lại cũng không ẩn mất tại thế giới nầy rồi sanh qua trước mặt Phật ở thế giới kia, nhưng thật ra chỉ ở tại thế giới này do sức tu tập tưởng nhớ đã lâu nên hình ảnh đức Phật A Di Đà và thế giới phương tây hiển hiện rõ ràng trong trí, vì thế rốt ráo thấy được đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác và Tăng chúng cùng các vị Bồ tát ngồi vây quanh ngài, hoặc thấy tự thân ở pháp hội đó nghe Phật nói pháp, nghe chi nhớ nấy rồi thể theo lời dạy thực tập thọ trì. Hoặc có lúc được thân cận cung kính lễ bái cúng dường đức Phật A Di Đà, sau đó xuất ra khỏi tam muội nầy, lần lượt nhớ lại hết những gì vừa nghe đem ra dạy cho kẻ khác.
Nầy Hiền Hộ! Như trong nước Ma Kiệt Đà có ba gả hào hoa, chàng thứ nhất nghe ở thành Tỳ Da Ly có nàng dâm nữ tên là Tu Ma Na. Chàng thứ hai nghe được một dâm nữ khác tên Yểm La Ba Ly, còn chàng thứ ba lại nghe tên nàng Liên Hoa Sắc cũng là một dâm nữ. Cả ba chàng nghe được như vậy lòng luôn khát khao tìm đủ mọi cách để gặp các nàng cho được, tâm lúc nào cũng tưởng nhớ không phút nào thôi. Nhưng cả ba chưa từng gặp các nàng kia chỉ nghe lóm thôi, tâm nổi dục vọng mơ tưởng liên tục, sau đó nằm mộng mơ thấy gặp được các nàng cùng hành dục sự tại thành Vương Xá. Dục sự đã xong tâm mong cầu dứt hy vọng cũng hết liền bừng tỉnh dậy. Sau khi tỉnh, nhớ lại các việc đã xảy ra trong giấc mộng liền qua đến chỗ ông thuật lại các việc đã nghe, kinh nghiệm, ghi nhớ như thế. Ông nên đem phương pháp khéo léo tùy thuận giáo hóa nói pháp làm cho họ được trụ địa vị bất thối chuyển, cuối cùng thành tựu trí giác vô thượng. Cả ba chàng đó trong tương lai sẽ thành Phật hiệu là Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cả ba chàng nầy đã trụ được bực bất thối chuyển nhớ lại chuyện xưa rõ ràng phân minh.
Nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ nào muốn thành tựu được tam muội Đại Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền, thân người nầy thường ở thế giới đây vừa nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà lại có khả năng nhiếp tâm tưởng nhớ liên tục rành rẽ không hề tạp loạn được thấy đức Phật A Di Đà rõ ràng đó là Bồ tát tưởng nhớ hoàn mãn thành tựu tam muội nầy thấy được Phật A Di Đà nên liền thưa thỉnh với Phật:
Bạch Thế Tôn! Các hàng Bồ tát thành tựu pháp gì để được sanh về thế giới Cực Lạc đây?
Phật A Di Đà đáp lời vị Bồ tát:
Nếu có người nào phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc nầy nên luôn luôn nhiếp tâm tưởng nhớ Phật A Di Đà giữ gìn chánh niệm liên tục liền sẽ được vãng sanh. Người đã được sanh về rồi, đức Thế Tôn biết rõ tâm địa của hắn cũng nghĩ nhớ tới hắn nên hắn mới được thấy đức Phật Thế Tôn. Nầy Hiền Hộ! Ngay lúc đó đức Phật A Di Đà lại dạy thêm cho vị Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Ông nên giữ chánh niệm siêng năng tinh chuyên tu tập, phát tâm rộng lớn nhứt quyết sẽ được sanh về Cực Lạc.
Nầy Hiền Hộ! Khi ấy vị Bồ tát nầy lại thưa:
Bạch Thế Tôn! Như thế nào là niệm Phật siêng năng tu tập phát tâm rộng lớn để được sanh về thế giới Cực Lạc?
Phật A Di Đà lại dạy:
Nầy Thiện nam tử! Giờ đây ông muốn làm kẻ chơn chánh niệm Phật nên niệm như thế nầy: Đứa A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thân sắc sáng vàng như chất vàng ròng tỏa ra ánh sáng vĩ đại ngự trên tòa sư tử trang trí bằng nhiều loại châu báu nói pháp cho chúng sa môn nghe. Ngài dạy rằng: Tất cả pháp bổn lai không biến hoại cũng không bị hủy hoại, như các ấm sắc bất hoại... cho đến thức cũng bất hoại, năm trần sắc bất hoại... cho đến xúc cũng bất hoại, Phạm thiên bất hoại, tất cả thế chủ cũng bất hoại. Như thế cho đến mức không niệm đức Như Lai cũng không được Như Lai niệm, kẻ nầy niệm Như Lai như thế lần lần đắc được không tam muội. Thiện nam tử! Đó là tam muội chánh niệm chư Phật hiện tiền.
Nầy Hiền Hộ! Sau đó Bồ tát nầy xuất ra khỏi tam muội có đến nơi ông hỏi về tướng trạng của tam muội, khi ấy ông nên vì vị ấy nói pháp tùy thuận giáo hóa làm cho vị nầy được bất thối chuyển nơi trí giác vô thượng. Nầy Hiền Hộ! Ta ngay lúc đó cũng thọ ký cho vị nầy đương lai sẽ thành Phật hiệu là Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri... Phật Thế Tôn.
Nầy Hiền Hộ! Ai đã chứng biết tam muội nầy? Đó là ông Ma Ha Ca Diếp, Bồ tát Đế Thích Đức, Thiên tử Thiên Đức và vô lượng Bồ tát tu tam muội Không nầy, đó là chứng. Làm thế nào chứng Không tam muội nầy? Nầy Hiền Hộ! Ta nhớ lại thuở xưa có đức Phật Thế Tôn hiệu là Tu Ba Nhật, vào thời đó có một người đi lạc vào rừng, đói khát khốn khổ mệt lã, người nầy mới nằm ngủ thiếp bên đường mơ thấy dự một buổi tiệc đầy những thức ăn ngon ngọt, ăn no nê xong vừa khi đói lại, mơ đến đây tỉnh dậy vẫn cảm thấy đói khát như cũ, người nầy mới nghĩ rằng các pháp đều không chẳng thật, giống như cảnh vật thấy trong giấc chiêm bao không phải thật hữu, quán sát như thế ngộ được vô sanh nhẫn đắc bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề.
Nầy Hiền Hộ! Cũng giống như vậy, nếu có vị Bồ tát hoặc tại gia hay xuất gia nghe tên các đức Phật theo phương hướng ngài hiện đang ngự liền hướng về đó chí tâm đảnh lễ trong lòng khát khao mong mỏi được thấy Phật nên chuyên tinh tưởng nhớ đến ngài như thế. Lại nữa cũng nên quán sát sắc tướng như thế nghĩ tưởng là hư không, sau đó thành tựu được hư không tưởng rồi an trụ trong chánh tư duy như vậy, kế đó sẽ được thấy Phật với thân thể ngài sáng ngời như lưu ly trong trắng, hình tướng đoan chánh như cây cột thuần vàng.
Lại nữa nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có người bỗng nhiên phải rời quê nhà để đến xứ khác, dù ở xứ người nhưng lòng hằng mong nhớ đến quê hương nơi chôn nhau cắt rún. Như những gì được thấy, nghe, nghĩ nhớ, biết được như vậy tưởng nhớ quá lâu ngày nên trong giấc chiêm bao mơ thấy rõ ràng tự thân ở quê xưa, dạo chơi những chỗ như đã từng thấy từng nghe in hệt như trước không khác.
Nầy Hiền Hộ! Cũng như thế đó Bồ tát tại gia hay xuất gia được nghe kẻ khác nói về danh hiệu đức Phật, tùy theo nơi ngài ngự hướng về đó chí tâm đảnh lễ mong muốn được thấy ngài, giữ chánh niệm không để xao động. Tương ứng với niệm sẽ được thấy Phật, hình tượng, hoặc thân như lưu ly hay thân thuần sắc vàng.
Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có vị tỳ kheo tu pháp quán bất tịnh nhìn thây mới chết màu da vừa đổi hoặc hóa ra xanh, vàng, đen, đỏ rồi tới lúc sình chương lên, thối rả máu mủ tuôn chảy dầm dề, cầm thú chim chóc tới rỉa thịt ăn còn trơ lại xương trắng sắc như màu ngọc. Quán như thế mãi cho đến khi xương tan rã ra mà xương thịt kia không từ đâu đến cũng không đi về đâu, từ tâm hiển hiện trở lại thấy tự tâm. Cũng không như thế, Bồ tát muốn thành tựu tam muội chư Phật hiện tiền nên tùy theo nơi Phật ngự trước tiên hết hướng về nơi đó tưởng nhớ mong mỏi thấy Phật, theo hướng tưởng nhớ tức được thấy Như Lai. Tại sao vậy? Vì có ba nhơn duyên được thấy Phật A Di Đà: một là nhờ nơi năng lực tam muội nầy, hai là nhờ Phật gia hộ, ba là do tự thiện căn thuần thục, Hoàn mãn ba nhơn duyên nầy nên thấy được Phật rõ ràng phân minh.
Nầy Hiền Hộ! Như người trai tráng vóc dạng cân đối vẻ mặt cương nghị muốn nhìn vẻ mặt mình đẹp hay xấu mới lấy thau đựng đầy nước hay dầu xanh hoặc lấy thủy tinh hay gương, dùng bốn vật nầy để soi bóng mình, vẻ mặt đẹp hay xấu ảnh hiện lên rõ ràng. Hiền Hộ! Chuyện nầy có ý gì? Hình bóng của kẻ đó ở trong dầu, nước, thủy tinh, gương là vốn sẳn có trước phải không?
Hiền Hộ đáp:
Thưa không phải.
Vốn là không?
Thưa không phải.
Nó nằm ở trong?
Thưa không phải.
Vậy thì hình bóng ấy ở bên ngoài?
Thưa không, bạch Thế Tôn! Chỉ do dầu, nước thủy tinh, gương các vật nầy trong sáng không bợn nên hình bóng của hắn ảnh hiện lên, nhưng hình bóng nầy không phải từ bốn vật đó sanh ra cũng không phải từ chỗ khác đến, cũng không phải tự nhiên có không phải do ai làm ai, nên biết hình bóng nầy không từ đâu đến cũng không đi về đâu, vô sanh vô diệt không có nơi căn cứ.
Phật đáp:
Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời ông vừa trả lời do các vật thanh tịnh sáng chói nên bóng dáng tự hiện không cần nhiều công. Bồ tát cũng vậy nhứt tâm tưởng nhớ sẽ thấy các Như Lai thấy rồi an trụ trong tam muội, trong khi an trụ mới hỏi các ý nghĩa với đức Như Lai được ngài giải thích rành rẽ, lòng vui mừng mới nghĩ: Phật nầy từ đâu đến và thân ta lại từ đâu ra? Quán sát kỹ Như Lai không từ đâu đến cũng không về đâu, thân ta cũng vậy vốn không xuất xứ làm gì có trở lại. Kế đó cũng nên nghĩ: Tam giới duy tâm nên hiện hữu tại sao theo Tâm nghĩ nhớ lại thấy Tâm? Nay ta từ Tâm thấy Phật, Tâm ta làm Phật, Tâm ta là Phật, Tâm không biết Tâm, Tâm không thấy Tâm, Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, Tâm không tưởng niệm tức là Niết Bàn, các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ tát nhơn tam muội nầy chứng được trí giác vĩ đại.
Quyển Thứ Nhứt
Phẩm Thứ Ba: Tam Muội Hành
Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát nào hoàn mãn được bốn pháp sẽ đắc tam muội Hiện tiền nầy. Bốn pháp đó gồm có: một là tín tâm không hư hoại, hai là không phá vở sự tinh tấn, ba là trí huệ siêu việt, bốn là gần gũi với thiện tri thức.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp khác Bồ tát nào hoàn mãn cũng sẽ thành tựu tam muội Hiện tiền: một là không có tư tưởng chúng sanh dù trong một khoảng khắc, hai là thức trọn ba tháng không ngủ dù là tạm thời đôi chút, ba là kinh hành trọn ba tháng trừ khi tiểu tiện, bốn là trong lúc ăn bố thí đúng pháp không mong danh lợi cũng chẳng đoái hoài đến sự trả ân. Bốn pháp nầy nếu Bồ tát nào hoàn mãn được sẽ đắc tam muội Hiện tiền.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp nữa Bồ tát nào thực hành hoàn toàn sẽ đặng thành tựu tam muội Hiện tiền. Một là khuyên người nhìn ngắm Phật, hai là dạy kẻ khác nên nghe pháp, ba là tâm không ganh tỵ, bốn là khuyên người phát tâm Bồ đề.
Nầy Hiền Hộ! Lại có bốn pháp, Bồ tát cần phải tu tập để thành tựu tam muội Hiện tiền. Một là tạo hình tượng Phật, khuyên người thực hành hạnh cúng dường, hai là in chép kinh điển truyền bá ra để người đọc tụng, ba là giáo hoá kẻ khinh khi chánh pháp làm cho họ phát tâm tin nhận, bốn là gìn giữ chánh pháp để pháp được tồn tại vững bền.
Khi đó Thế Tôn nói bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Các ông nên trụ trong Phật pháp
Thường tin vững chắc chớ thối chuyển
Tinh tấn siêng niệm trừ mê ngủ
Ba tháng không ngồi chỉ kinh hành.
Lúc ăn lại thí cho kẻ khác
Giảng nói pháp vô tỷ của Phật
Không cầu danh tiếng và lợi dưỡng
Nhờ không đắm trước nên chứng thiền.
Các Phật khi xưa và tương lai
Hiện tại siêu việt trong loài người
Các ông nhứt tâm cung kính lễ
Và nên siêng năng cần cúng dường
Các ông cúng dường các Phật đó
Nên dùng hoa, hương đốt, hương bột
Dâng hiến thức ngon khởi tịnh tâm
Chứng tam muội nầy sẽ không khó.
Trước tháp chư Phật trổi âm nhạc
Loa, trống, chiêng, bảng các tiếng hay
Lòng lại vui mừng khôn tả xiết
Chắc chắn thành tựu tam muội nầy.
Khuyên tạo tượng Phật thân vô tỷ
Tô điểm màu đẹp đủ tướng tốt
Sắc vàng sáng chói không bợn vết
Chứng tam muội nầy sẽ không khó.
Liên tục thường niệm, tu pháp thí
Giữ giới trong sạch và học rộng
Siêng năng tinh chuyên trừ biếng lười
Đắc tam muội nầy chẳng bao lâu.
Không mang tâm độc đối kẻ khác
Cũng bỏ dục vọng theo thế gian
Luôn vận từ bi nhớ tất cả
Tam muội nào xa, tại nhãn tiền.
Đối với pháp sư thường vui vẻ
Tôn kính ngang hàng đức Như Lai
Đừng sanh khinh chê cùng keo kiết
Tâm vui cúng dường bỏ ganh tỵ.
Vô lượng chư Phật cùng ca ngợi
Người thường siêng tu tự sẽ được
Thế Tôn trịnh trọng nói pháp nầy
Cho kẻ đã tu pháp tam muội.
Quyển Thứ Nhứt
Phẩm Thứ Tư: Thấy Phật
Đức Thế Tôn lại bảo với Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát muốn thành tựu tam muội, đối với vị thầy dạy cho pháp nầy nên sanh ý tưởng coi như chư Phật, sanh tâm tôn trọng chớ nên kiêu ngạo khinh khi cho đến cũng không có lòng tranh cải chống đối không tùy thuận theo, sau đó mới chuyên tinh tu học một cách siêng năng về môn tam muội nầy chắc chắn sẽ chứng được.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có người đối với vị pháp sư nói pháp hay vị tỳ kheo sanh tâm bất thiện hoặc là tâm chống đối, tâm tranh cải, tâm lăng nhục các tâm bất tịnh như vậy cho đến không tưởng như là Phật, Bồ tát có các tâm niệm như thế là tu hành hư dối rốt cuộc không thế nào chứng được tam muội vi diệu nầy nếu có ai nói chứng được thật là hoàn toàn vô căn cứ.
Nầy Hiền Hộ! Thí như khoảng hư không trong sáng không có một áng mây mù kẻ có mắt sáng vào đêm tối nhìn lên sẽ thấy vô lượng vì sao, vị trí, phương hướng, hình thể các ngôi sao đều khác biệt thật rõ ràng hết sức. Cũng giống như thế, nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát tư duy quán sát pháp tánh hư không do tưởng nên thành được thấy các đức Như Lai việc nầy cũng vậy. Nhưng Bồ tát lúc quán Phương Đông thấy nhiều trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật ức Phật, ức trăm ngàn Phật, ức trăm ngàn na do tha Phật không cần tác ý tự nhiên hiển hiện trước mắt. Bồ tát lúc quán phương Đông như thế xong, kế đến quán qua phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, phương trên phương dưới, các thế giới ở các phương như trên đều thấy nhiều Phật thấy nhiều trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật ức Phật, ức trăm ngàn Phật, ức trăm ngàn na do tha Phật không nhờ vào sức dụng công, tự nhiên hiển hiện trước mắt.
Lại nầy Hiền Hộ! Như thế giới của đức Phật A Di Đà mà các Bồ tát được vãng sanh về, vào ngày ban đầu các vị quán phương Đông thấy nhiều Phật, thấy nhiều trăm Phật... thấy trăm ngàn ức na do tha Phật rồi. Ngày thứ hai quán sát phương Nam kế lần lượt quán hết cả mười phương như thế. Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát thành tựu tam muội Bồ tát niệm chư Phật hiện tiền. Bồ tát như thế ở ngay thế giới mình quán sát mười phương được thấy nhiều các đức Phật, thấy trăm ngàn Phật... cho đến thấy trăm ngàn ức na do tha Phật.
Lại nầy Hiền Hộ! Như các đức Như Lai thành tựu Phật nhãn vừa thấy như vậy đối với tất cả nơi đều biết như vậy đều nhận như vậy. Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát cũng đã thành tựu môn tam muội Bồ tát niệm tất cả chư Phật hiện tiền rồi tự nhiên hoàn mãn các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ ba la mật cho đến các công đức của Bồ tát.
Khi đó Thế Tôn muốn lập lại lời trên nên nói bài kệ:
Dường như trong đêm sạch mây mờ
Kẻ có mắt sáng nhìn khoảng không
Thấy các ánh sao quá trăm ngàn
Đến ngày còn nhớ không quên mất!
Bồ tát đắc định Hiện tiền rồi
Thấy nhiều vô lượng ức ngàn Phật
Lại xuất khởi từ tam muội nầy
Để vì đại chúng giảng pháp diệu.
Như Phật nhãn ta được thanh tịnh
Thấy cả thế gian không chướng ngại
Các Phật tử mắt Bồ tát nầy
Nhờ định có cái nhìn siêu việt
Do tưởng vô tướng nhớ Như Lai
Mà thấy mười phương các đức Phật.
Phá trừ phiền não cùng các tưởng
Ông nghe công đức Bồ tát nầy
Nếu nghe pháp đây tâm mát mẻ
Thể nhập không tịch lòng không sợ
Như ta hiện giờ giảng nói pháp
Và làm chúng sanh chứng bồ đề.
Như thế các Bồ tát an lạc
Thấy nhiều vô lượng Phật Thế Tôn
Bồ tát như vậy vào tư duy
Cũng thấy trăm ngàn đức điều ngự
Tỳ kheo được vậy chỉ A Nan
Vừa nghe ta dạy liền hiểu được
Bồ tát đắc tam muội như thế
Nghe tất cả pháp ghi nhớ hết
Thành tựu tín, tam muội viên mãn
Xả bỏ hết thảy lời thế gian
Thường dùng từ tâm dạy dỗ người
Cần phải đi đến nơi tịch tịnh.
Quyển Thứ Hai
Phẩm Thứ Năm: Chánh Tín
Đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có đại Bồ tát nào cầu báu vật tam muội như thế, nên cần siêng năng hăng hái tu học tự nhiên sẽ được nhập tam muội nầy.
Hiền Hộ! Thí như có người đi trên chiếc thuyền lớn vào bể cả tha hồ chở đầy những báu vật hy hữu, vượt qua hết những nỗi khó khăn to tát giờ đây kề cận bên bờ, bỗng đâu thuyền bị vỡ chìm mang theo hết những châu báu. Ngay khi đó các người ở Diêm Phù Đề nầy hô hoảng lên lòng cực kỳ khổ sở vì sự kiện mất châu báo vô giá như thế. Nầy Hiền Hộ! Cũng giống như vậy, như có kẻ thiện nam thiện nữ nào tai nghe được báu tam muội nầy lại không in chép đọc tụng, thọ trì, lại cũng không nghĩ sẽ thực hành như pháp. Nầy Hiền Hộ! Ngay lúc đó tất cả trời thần ở cả thế gian cũng nên kêu to lên như vậy sanh sự sót thương vô hạn và nói rằng: Các chúng sanh nầy rất đáng thương xót, tại sao ngay ở báu vật tam muội siêu việt của chư Phật Thế Tôn, được các ngài ca ngợi, các ngài ấn chứng, các ngài dạy dỗ, công đức tối thượng mà các ngài đã thành tựu viên mãn không còn thiếu sót, hàng Bồ tát nghe được rồi hết lòng siêng năng tu học, tại sao kẻ đặng nghe trở lại bỏ rơi không ra công in chép, không thích đọc tụng, không thể thọ trì, không giải thích được nghĩa lý cũng không có khả năng suy tưởng sống trong pháp nầy! Hạng chúng sanh biếng nhát như thế tương lai sẽ chịu sự thiệt hại lớn lao.
Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có người cầm khúc chiên đàn đỏ tía đưa cho kẻ ngu si xem, hắn ta vì ngu si nên nghĩ tưởng khúc chiên đàn là vật dơ bẩn. Khi ấy chủ nhân mua chiên đàn là kẻ trí bảo hắn rằng: Ông đừng nên đối với khúc chiên đàn nầy lại nghĩ cho là vật dơ bẩn. Tại sao? Vì chiên đàn nầy rất tinh sạch hương thơm đệ nhứt, giờ đây ông do duyên cớ gì lại nghĩ ngược cho là dơ bẩn? Nếu như ông không tin hãy thử ngửi coi là thối hay thơm và ông cũng nên mở to mắt ra để xem sắc vân của chiên đàn là xấu hay đẹp, tròn trịa hay ghồ ghề? Kẻ ngu si dù được nghe người trí nói thế bằng đủ mọi cách nhưng vì do ngu si hắn trở lại sanh lòng ghen ghét lấy tay bịt mũi không thèm ngửi, che mắt lại không thèm nhìn.
Cũng giống như vậy đó Hiền Hộ! Trong đời tương lai sẽ có hạng tỳ kheo hung ác oán ghét kinh nầy, hạng nầy không biết tu tập thân, giới, tâm, huệ, ngu si vô trí như con dê trắng ngây ngô khờ khạo. Kẻ hung ác nầy vì do kém phước nên dù có nghe kinh điển vi diệu Chánh niệm chư Phật hiện tiền tam muội như vậy cũng không cần in chép, không đọc tụng được, cũng không có khả năng thọ trì, không thể suy tưởng không có năng lực nói cho kẻ khác hiểu biết lại cũng không sanh tâm tùy hỷ rộng rãi, làm thế nào để được tu hành như lời Phật dạy. Lại có khi họ nghĩ rằng: Kinh điển nầy không phải Phật dạy mà kẻ ác tự trứ tác văn chương rồi nói dối là kinh Phật.
Nầy Hiền Hộ! Ông nên biết hạng như trên đã vĩnh viển bỏ rơi báu vật tối thượng vi diệu như kẻ ngu si kia thấy gỗ chiên đàn lại tự che mắt bịt mũi không cần ngửi nhìn. Như có kẻ tỳ kheo tín căn sâu dày huệ nhãn sáng suốt đã từng gần gũi cúng dường pháp, tu hành như lời các ngài dạy, vun trồng nhiều căn lành, tỳ kheo nầy nghe được tam muội Bồ tát niệm như Phật hiện tiền liền vâng lãnh đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý thực hành tam muội, đắc được tam muội nầy rồi dạo chơi các thế giới Phật, khắp giảng nói cho kẻ khác nghe giải thích các ý nghĩa sâu xa, thường nguyện như thế nầy: Sẽ làm cho kinh điển dạy về môn tam muội Bồ tát niệm Phật được truyền bá rộng rãi trong đời và hằng tồn tại ở thế gian.
Phật bảo Hiền Hộ:
Ta lại nói cho ông nghe: Lúc ta đang đối trước tất cả thế gian Phạm thiên, Ma vương, Sa môn, Bà la môn và các trời người a tu la v.v... dạy về môn tam muội vi diệu nầy nếu có thiện nam thiện nữ nào nghe rồi tùy hỷ đọc tụng thọ trì niệm Phật tam muội suy gẫm tin hiểu phát lời như vầy: "Đây chơn thật là lời Phật nói", nên biết người nầy đã tom góp phước đức rất nhiều không thễ nghĩ lường được.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam thiện nữ nào dùng các thứ châu báo đầy cả tam thiên đại thiên thế giới dùng để cúng dường tất cả đức Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng giác được công đức dù to tát nhưng sánh với công đức người trì kinh nầy trăm, ngàn, muôn phần không được một, cho đến không được một phần trong vô lượng, vô biên a tăng kỳ.
Khi đó Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Kẻ ngu mê u tối
Buông lung, căn chưa thuần
Bị bạn ác phá hoại
Không có tâm chánh tín
Phá giới tạo các tội
Chấp say đắm ngã mạn
Họ đều nói kinh nầy
Không phải lời Phật nói.
Kẻ nào đối kinh nầy
Nghe rồi sanh vui vẻ,
Kẻ nầy không nghi nan
Không nói là ngụy tạo.
Như kẻ giới thanh tịnh
Kính pháp sanh tôn trọng
Báu vật đầy tam thiên
Đem cúng dường chư Phật
Để cầu đại bồ đề
Phước đó khó thể nói
Nếu có các tỳ kheo
Nghe Phật ca ngợi định
Vừa nghe sanh tin nhận
Phước đức hơn kẻ trên.
Nầy Hiền Hộ! Có hạng Bồ tát hoặc tại gia hay xuất gia nghe được môn tam muội nầy không sợ hãi hủy báng, nghe rồi vui theo sanh tăm kính tin quyết định chơn thật không còn nghi ngờ gì nữa, chịu đọc tụng thọ trì suy gẫm ý nghĩa. Nầy Hiền Hộ! Các hạng người như trên đức Thế Tôn đã thấy biết hiễu hết về họ cả hết rồi.
Nầy Hiền Hộ! Nếu ai có khả năng đọc tụng thọ trì tưởng nhớ môn tam muội nầy họ không bao giờ làm việc ác, không phá vỡ tịnh giới, không hủy hoại chánh tín, không theo bọn tà kiến. Hiền Hộ! Thiện nam và thiện nữ nầy phân biệt một cách hoàn hảo, thành tựu đức suy tư, hoàn toàn có tín tâm đối với pháp nầy lại có khả năng thọ trì gìn giữ. Hiền Hộ! Ông nên biết rằng kẻ nầy đã từng trải qua trăm ngàn vô lượng vô biên các đức Như Lai đời quá khứ tu hành cúng dường vun trồng căn lành mới có năng lực vừa nghe môn tam muội niệm Phật hiện tiền, nghe rồi phát lòng tin nhận tâm mở mang ý hiểu biết cho đây là chơn thật không còn nghi hoặc, đã được nghe xong lại ưa thích in chép đọc tụng thọ trì cho đến đem ý nghĩa sâu rộng ra giảng cho người khác biết. Tại sao lại làm như thế? Nầy Hiền Hộ! Là vì các thiện nam và thiện nữ nầy đã từng đích thân nghe các Đức Như Lai đời quá khứ nói về môn tam muội nầy rồi đọc tụng thọ trì. Vì lý do nầy, sau khi Đức Như Lai nhập diệt khoảng cuối năm trăm năm sau lúc chánh pháp sắp hoại diệt lại còn nghe được môn tam muội nầy, nghe rồi lại sanh tâm tin nhận không có sợ hãi kinh hoàng thối lui, lòng còn vui mừng khấp khởi ra công đọc tụng thọ trì suy gẫm ý nghĩa lại đem nói cho kẻ khác nghe cho đến trọn cả ngày đêm thực hành môn tam muội nầy.
Hiền Hộ! Nếu có ai nghe về môn tam muội nầy không sợ hãi, không thối lui, không hủy báng, nghe rồi lại vui theo, chịu suy gẫm kỹ lưỡng, nhập pháp nầy là chơn thật, tâm mở mang trí hiểu biết rồi chỉ tạm thời ca ngợi cho người khác nghe, cũng đã thu hoạch phước đức vượt bực không thể tính đếm được, còn nói gì đến việc có thể đọc tụng thọ trì siêng năng tưởng nhớ để thực hành nói cho kẻ khác nghe, trọn cả ngày đêm tu môn tam muội Niệm Phật. Hiền Hộ! Ông phải biết thiện nam thiện nữ nầy nhơn việc trên đã thu hoạch được vô lượng vô số công đức vĩ đại trụ bực bất thối chuyển, tùy theo tâm nguyện đều được thành tựu. Nầy Hiền Hộ! Sự kiện đã rõ ràng như vậy giờ đây ta lại nói thêm thí dụ để ý nghĩa càng rõ hơn.
Thí dụ như có người đem tất cả đất đai trong cả tam thiên đại thiên thế giới đều nghiền nát ra bụi rồi lại đem tất cả cây cỏ lá nhánh đủ cỡ lớn nhỏ cũng nghiền nát ra bụi. Lúc đó người nầy mới lấy một hạt bụi trong đống bụi hết sức vĩ đại kia ra chia chẻ như thế số bằng đống bụi trên, mỗi hạt bụi đều chia chẻ như thế cả lần lần cho đến hết số đống bụi trên. Nầy Hiền Hộ! Theo ý ông nghĩ thế nào? Số bụi kia nhiều hay ít?
Hiền Hộ đáp:
Hết sức nhiều, bạch Thế Tôn.
Phật lại tiếp:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam thiện nữ nào đem số châu báu bằng như số bụi trên ra bố thí, ý ông lại nghĩ ra sao? Phước đức kẻ thiện nam thiện nữ nầy thu hoạch được sẽ nhiều không?
Hiền Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn! Thật hết sức nhiều! Kẻ thiện nam thiện nữ nầy do hạnh bố thí trên đã thu hoạch phước đức nhiều vô lượng vô số.
Phật lại bảo:
Nầy Hiền Hộ! Ta lại nói thêm cho ông nghe: Như kẻ thiện nam thiện nữ bố thí bảy báu bằng đống bụi trên được phước như thế và kẻ thiện nam thiện nữ nghe môn tam muội Niệm Phật hiện tiền tạm thời sanh tin nhận, phân tích rõ ràng nhìn nhận pháp nầy chơn thật, tâm ý mở mang bằng lòng đọc tụng thọ trì cho đến tạm thời nói cho kẻ khác nghe tu hoạch được phước đức. Đem so sánh cả hai đàng lại thì phước đức kẻ dưới thật là vô lượng vô biên không thể tính đếm so sánh suy lường được, vượt bực kẻ trên rất nhiều.
Nầy Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ nào nghe được môn tam muội sanh tâm tin nhận.... vì nói cho kẻ khác nghe như thế thu hoạch phước đức vô lượng vô biên, huống gì kẻ thiện nam thiện nữ đối với kinh điển dạy về môn tam muội nầy sanh tâm tin nhận như chỗ được nghe thấy, thọ trì theo đức tin, diễn nói trên sự kinh nghiệm, thọ trì và thực hành theo như lời nói.
Khi ấy đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ:
Nếu ai chất báu đầy tam thiên
Thành tâm hành hạnh bố thí độ
Ta bảo phước nầy dù rất nhiều
Nhưng không bằng nghe kinh công đức
Bồ tát mong cầu chứa phước đức
Tin hiểu thọ trì lại suy tưởng
Diễn giảng tu hành: Niệm tam muội
Phước thu hoạch được hơn trên nhiều.
Nghiền ba ngàn cõi ra bụi cả
Lại chia hạt bụi bằng số trên
Đem báu bằng như số bụi đó
Thành tâm bố thí mức cứu cánh
Các Phật ca ngợi tam muội kinh
Chỉ đem một kệ dạy kẻ khác
Ta nói công đức của người nầy
Vượt lên phước thí trên rất nhiều
Nếu nói đầy đủ cho người nghe
Cho đến chỉ nói một chút ít
Suy gẫm tăng trưởng các căn lành
Lại hưởng lâu dài vô lượng phước.
Tất cả chúng sanh đều làm Phật
Tịnh huệ rốt cuộc chứng chơn như
Giả sử trong số ức nhiều kiếp
Kể phước kệ nầy khó cùng tận.
Các Phật lần lượt nhập diệt hết.
Nhiều ức số kiếp thường nói ra
Cũng không làm sao hết bờ phước
Của người duyên theo kệ kinh nầy.
Tất cả thế giới có trong đời
Bốn phương, trên, dưới và bốn góc
Chất chứa dẫy đầy các báu lạ
Vì cầu phước báo đem dâng Phật
Công đức kẻ nầy khó lường được
Tính ra số bằng các thế giới.
Lại kẻ nghe được tam muội nầy
Khéo léo giảng nói, phước hơn trên.
Kẻ nào không nghi nơi kinh nầy
Với các pháp khác cũng rõ thấu
Chắc chắn dứt hẳn vào đường ác
Lại nhập thắng tịch tam muội thiền.
Kẻ nầy nếu thường cúng dường ta
Chắc hưởng nhiều phước khó suy lường
Tăng trưởng đa văn chứng bồ đề
Do nghĩ nhớ Phật khen định nầy
Nay ta bảo ông lời thành thật
Nên siêng năng nhớ đừng buông lung
Nhứt tâm ca ngợi, lòng hăng hái.
Tự nhiên mau chứng bồ đề nầy
Lại vì cúng dường trăm số Phật
Có thể lănh thọ tam ma đề
Dù ở vào đời cực ác độc
Tự sẽ mau chứng định vi diệu
Hoặc có thấy ta và tỳ kheo
Và ông Bồ tát Hiền Hộ đây,
Bồ tát như vậy thích đa văn
Quyết định sẽ đắc tam muội nầy
Hoặc ai nghe được thánh tam muội
Nói cho kẻ khác hay biên chép
Là đà la ni, Thế Tôn khen
Sẽ chứng tất cả Phật Bồ đề.
Nếu người hằng tưởng tam muội nầy
Tất cả chư Phật cùng ca ngợi
Sẽ đắc vô sanh và đa văn
Các Phật lần lượt dạy dỗ pháp.
Quyển Thứ Hai
Phẩm Thứ Sáu: Quán Sát
Đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Nếu các đại Bồ tát nào muốn suy gẫm tam muội nầy, nên suy gẫm thế nầy: Như đức Thế Tôn của ta giờ dây đang ở trong chúng hội trời người giảng nói pháp trọng yếu. Nầy Hiền Hộ Bồ tát nhứt tâm suy tưởng các đức Phật Như Lai ngồi trên tòa sư tử đang giảng nói chánh pháp đủ tất cả tướng tốt hết sức đẹp đẽ đoan nghiêm kẻ ngắm không nhàm. Quán sát các tướng đại nhân, mỗi một tướng nên phải chí tâm quán kỹ tức sẽ thấy rõ các đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng giác, đã được thấy các ngài rồi, trước nên tự hỏi tại sao không thấy được đảnh tướng? Vừa tự hỏi xong lại lần lượt quán các tướng cho rõ ràng. Quán như thế và nghĩ rằng tướng của đức Phật Như Lai vi diệu hiếm có. Nguyện cho con đời vị lai sẽ được thành tựu đầy đủ thân tướng vi diệu.
Nguyện cho con trong đời vị lai cũng được gìn giữ cấm giới một cách trong sạch, oai nghi không thiếu.
Nguyệt cho con trong đời vị lai được hoàn mãn môn tam muội như vậy.
Nguyện cho con đời vị lai thành tựu trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy.
Nguyện cho con trong đời vị lai thành tựu viên mãn các thân tướng như thế liền đắc thành trí giác vô thượng, sau khi thành Phật cũng sẽ ở trong chúng hội trời người như thế giảng nói diệu pháp như đây.
Bồ tát quán sát đầy đủ các đức Phật Như Lai cho đến khi thành tựu nhứt thiết trí rồi, lại nên suy gẫm trong đó ai là ta? Ai là của ta (ngã sở hữu)? Các Phật đắc Bồ đề, là thân đắc? Hay là tâm đắc? Nếu thân đắc, thân ngây ngô vô giác vô tri giống như cây cỏ, gạch, vách, bóng trong gương. Còn bồ đề không sắc không hình, không phải bóng, không phải tướng trạng, không thể thấy biết, không thể chạm hiểu. Tại sao lại dùng thân ngây ngô vô giác vô tri, không thấy, không biết, không phân biệt, không tác ý để đắc Bồ đề nầy? Bồ đề như vậy đã không hình sắc không tướng trạng bóng dáng, không thể thấy biết, không thể chạm hiểu, ai lại hành chứng trong đó?
Nếu như tâm đắc, tâm là vô sắc, không thể thấy được, Tâm là vô tướng không thể biết được, Tâm như thế đồng như ảo hóa, nhưng Bồ đề cũng vậy vô sắc không thể thấy, vô tướng không thể biết, vô lậu vô vi cũng đồng như ảo hóa, tại sao lại chứng được? Thế nào giác tri? Mà lại nói rằng thân tâm đắc bồ đề ư? Đại Bồ tát lúc quán sát như thế rõ ràng phân minh là thân tướng không đắc bồ đề cũng biết rằng tâm không đắc Bồ đề. Tại sao thế? Vì các pháp không có chuyện dùng sắc chứng sắc, dùng tâm chứng tâm. Nhưng sự kiện nầy ở trong ngôn thuyết dù biết tất cả là vô sắc, vô hình, vô tướng, vô lậu, không thể nhìn thấy không có chứng biết cũng không phải không chứng biết. Tại sao? Vì do tất cả thân Như Lai không thuộc hữu lậu, thân các ngài vô lậu, tâm cũng vô lậu. Vì các Như Lai tâm vô lậu nên sắc cũng vô lậu, lại nữa các đức Như Lai sắc vô lậu nên thọ, hành, thức cũng vô lậu. Lại nữa giới của các đức Như Lai cũng vô lậu, tam muội, trí huệ cũng vô lậu... cho đến giải thoát, giải thoát tri kiến cũng vô lậu như thế cho đến những lời lẽ của các đức Như Lai nói, đă nói, đương nói, sẽ nói và tất cả pháp được nói cũng đều vô lậu cả.
Hiền Hộ! Các Phật pháp như thế chỉ có người trí mới thông đạt được còn kẻ ngu không thể hiểu biết. Bồ tát lúc quán sát như thế biết tất cả pháp đều không thể được. Tại sao không thể được? Vì nó là năng chứng? Không thể được. Thế nào chứng? Lại không thể được. Duyên gì chứng. Cũng không thể được. Quán sát như thế thể nhập vào tịch diệt định phân biệt các pháp cũng không phân biệt các pháp. Tại sao thế? Là vì các pháp không có.
Nầy Hiền Hộ! Như lửa chưa hiện khởi hoặc có người nói rằng: Ta hôm nay trước tiên làm tắt lửa nầy.
Nầy Hiền Hộ! Ý ông nghĩ thế nào? Lời kẻ nầy nói là thành thật chăng?
Hiền Hộ đáp:
Bạch Thế Tôn! Không thành thật.
Phật bảo:
Cũng giống như vậy, các pháp từ xưa đến nay hoàn toàn vô đắc, tại sao hôm nay lại có người nói lời rằng: Ta có thể chứng biết tất cả pháp, ta có thể thông suốt tất cả pháp, ta có thể giác ngộ tất cả pháp, ta có thể độ thoát tất cả chúng sanh đang ở trong sanh tử. Lời nói như thế không phải là chơn chánh. Tại sao ta nói như vậy? Là vì trong pháp giới vốn không có các pháp cũng không có chúng sanh. Tại sao lại nói rằng độ? Và độ cũng chỉ là nhơn duyên trong thế đế.
Phật bảo Hiền Hộ tiếp:
Thế nên các thiện nam thiện nữ nào nếu muốn thành tựu trí giác vô thượng cho đến trí giác Duyên giác, Thinh văn cần nên phải quán sát tất cả pháp như vậy. Lúc quán sát sẽ nhập vào tịch định không có phân biệt không phải không phân biệt. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Tất cả pháp vốn không thật hữu, nếu định phân biệt tức là kẹt vào một bên, vượt lên trên ngoài lãnh vực suy lường, ngoài lãnh vực phân biệt, chỗ không chứng biết, chỗ không kinh doanh, chỗ không tập hợp, chỗ không nghĩ nhớ, chỗ không phát khởi. Nầy Hiền Hộ! Đó gọi là trung đạo.
Lại nầy Hiền Hộ! Trong chơn thật đệ nhứt nghĩa nếu còn kẹt một bên hay rơi vào chặng giữa đều không thể được. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Tất cả pháp dường như hư không bổn lai tịch diệt, không phải hư vô không phải thường hằng, không có tích tụ, không có nơi dừng lại, không chỗ nương tựa, không tướng, vô vi, không có toán số. Nầy Hiền Hộ! Nó vốn không thể đếm tính được, tại sao lại có toán số? Vì không đếm, nằm trong số đếm, nên không kẹt vào con số cho đến không có danh tự lời lẽ trí tính toán.
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát lúc quán sát các đức Như Lai như vậy không có chấp trước. Tại sao vậy?
Là vì tất cả pháp vốn không chấp trước bởi nó không có nơi chỗ để chấp trước, cũng không có cội rễ để đoạn trừ.
Hiền Hộ! Đại Bồ tát nầy nên suy nghĩ Tam muội Chư Phật hiện tiền như vậy, nếu thấy các đức Như Lai rồi không nên chấp giữ, không nên vịn theo. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Tất cả các pháp vốn không thể nắm giữ dường như hư không, thể tánh tịch diệt.
Nầy Hiền Hộ! Như đem chùy vàng đặt trong lửa đỏ nấu cho chảy ra lúc chảy nóng đến cùng cực, lại như viên sắt đỏ vừa từ lò gấp ra cháy đỏ nóng ran, kẻ có trí đâu thèm bốc tới. Tại sao? Bởi vì vàng chảy ra nước và hòn sắt đều nóng bốc vào chắc chắn cháy tay.
Cũng ý đó nầy Hiền Hộ! Bồ tát lúc quán Phật không nên vin lấy chấp giữ việc đó cũng giống như vậy.
Thế nên Bồ tát lúc quán sắc Phật không nên sanh tâm đắm trước, cho đến quán thọ, tưởng, hành thức cũng không được đắm trước.
Lại nữa lúc Bồ tát quán về giới, định, trí, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến cũng không nên đắm trước.
Tại sao như vậy? Vì hể còn chấp trước giữ lấy là không bao giờ có thể thoát ly sự khổ sanh tử, bởi sự khổ cũng do nguyên nhơn lòng chấp trước.
Thế nên Bồ tát lúc quán sát Như Lai như thế không sanh ý tưởng chấp trước. Dù không chấp trước nhưng lại phải siêng năng cầu mong công đức thắng diệu như Chư Phật Thế Tôn. Đó là: Phật trí, Như Lai trí, trí vĩ đại, trí tự nhiên, trí tự tại, trí không thể nghĩ lường, trí khó tính kể, trí không gì ngang sánh được, trí nhứt thiết trí. Nếu muốn cầu thể nhập những trí như thế suy gẫm quán sát tam muội niệm chư Phật hiện tiền.
Khi đó muốn cho thêm rõ nghĩa nầy, đức Thế Tôn lập lại bằng bài kệ:
Ví như gương sáng và dầu trong
Phụ nữ trang sức soi bóng mình
Kẻ ngu nhìn bóng lại đam mê
Nơi nơi đeo đuổi cho thỏa lòng.
Ái tưởng điên đảo nơi cái Không
Không biết là pháp hư vọng sanh
Nếu có Bồ tát nghĩ như vầy:
"Bồ đề cam lồ trong tương lai
Ta cứu chúng sanh khỏi các khổ"
Gọi người vô trí tâm trước ngã.
Trong đệ nhứt nghĩa không chúng sanh
Thế gian chỉ có sanh lão tử
Các pháp không tướng trăng đáy nước
Há có Bồ đề mà tìm cầu!
Hình tượng khác gì bóng trong gương
Như ảo như hóa như hư không
Phàm phu suy tưởng bị trói buộc
Hạng nầy bị buộc không vô thật.
Nếu có kẻ trí hàng Bồ tát
Biết đời điên đảo nên thấy chơn
Thông đạt không người, ai chịu khổ?
Vị nầy tương lai thành Phật đạo.
Vô ý phân biệt Phật Bồ đề
Tâm kia bổn lai tự sáng trong
Không thấy sanh tử bùn nhơ đục
Vị nầy chứng thật bậc tối thắng.
Tất cả sắc pháp đều vô lậu
Không thể phân biệt, vọng cũng không
Diệt trừ các dục tâm giải thoát
Kẻ biết như thế, chứng tam muội
Trước niệm các Phật thân vô tướng
Sau nghe các pháp vốn thanh tịnh,
Suy gẫm như vậy, niệm không thừa
Chứng tam muội nầy có khó đâu!
Thường nghĩ không tướng để quán sát
Liền diệt được cả những vi tế
Đối tất cả sắc không phân biệt
Mắt dù có thấy, tâm không lụy,
Nếu lấy không thấy, là chứng định
Tất cả kẻ mù cũng chứng sao?
Cũng không dùng thấy, không không thấy
Điều nầy ngoại đạo đều mê mờ.
Thường ly tướng trạng mà suy gẫm
Thấy tâm thanh tịnh của các Phật
Nhận như thế rồi quán tất cả
Kẻ đó mau đắc tam muội nầy.
Nếu muốn quán sát tất cả Phật
Nên tưởng ngài ngồi giảng diệu pháp
Như ta hiện giờ nói pháp nầy.
Kẻ nào thích pháp nhìn thân ta
Đừng nên suy gẫm những gì khác
Chỉ nên nghĩ Phật dạy pháp diệu,
Chuyên nhớ như vậy đừng thấy khác
Vì cầu học rộng và nghe nhiều
Nhứt tâm quán ta dạy định nầy,
Ghi nhớ lại hết lời Phật nói.
Không lời diễn đạt, không sánh được.
Nếu muốn tâm vui và thân an
Cầu Phật công đức khó suy lường
Cho đến chứng đắc diệu Bồ đề
Nên cần tu học tam muội nầy.
Muốn cho trong sạch biển học sâu
Vì chúng sanh nên thường siêng cầu,
Kẻ nầy nên mau bỏ dục trần
Cần tu tam muội thù thắng nầy.
Quyển Thứ Hai
Phẩm Thứ Bảy: Giới Hạnh Đầy Đủ
Hiền Hộ Bồ tát lại bạch Phật:
Thưa Thế Tôn! Ngài rất là hy hữu đã có được tam muội siêu việt như thế. Nếu như có các vị Bồ tát bỏ gia đình đi xuất gia tâm rất ưa thích giảng nói về tam muội nầy cũng như quán sát nó. Bạch ngài! Các vị nầy nên nương theo pháp nào để có khả năng giảng nói và quán sát?
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát bỏ gia đình đi xuất gia, hết lòng ưa thích và mong muốn quán sát tam muội nầy, hàng Bồ tát xuất gia đó trước tiên hết phải ghi nhớ các giới như vầy: giữ gìn giới hạnh cho trong sạch, giới hạnh không thiếu sót, không ô nhiễm, không nhơ bẩn, không đắm trước, không xao động, không bị chê trách, giới hạnh được bậc trí ca ngợi, giới hạnh được bậc thánh kính mến.
Nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát xuất gia làm như thế nào để được giới hạnh trong sạch? Cho đến làm sao được giới hạnh bậc thánh kính mến?
Nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát xuất gia nên y cứ theo Ba la đề mộc xoa thành tựu các oai nghi tế hạnh cho đến viên mãn các giới hạnh vi tế nhiều như bụi. Đối với các giới hạnh nên nghĩ đến sự thành tựu cao xa không chấp trước, lúc được nghe pháp không, vô tướng, vô nguyện tâm không sợ hãi không mê mờ. Hiền Hộ! Do nhơn duyên đó hàng Bồ tát xuất gia thành tựu được giới hạnh không đắm trước, giới hạnh được bậc thánh kính mến.
Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ lại bạch Phật:
Thưa Thế Tôn! Hàng Bồ tát xuất gia do duyên cớ gì lại có giới hạnh không trong sạch, thiếu sót, nhiễm trước, ô uế, ỷ lại, giới hạnh bị kẻ chê trách, bậc thánh ghét bỏ?
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát xuất gia nào còn giữ lấy đắm trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà thọ trì cấm giới tu tập Phạm hạnh. Đã tu rồi còn có quan niệm: Hiện nay ta giữ giới, tu khổ hạnh, tu học như thế nầy, Phạm hạnh như kia, mong rằng đời vị lai ta sẽ được sanh lên cõi trời hay ở nhân gian một cách tự tại hưởng quả đầy đủ.
Hiền Hộ! Vì lý do nầy nên Bồ tát xuất gia thành tựu giới hạnh không trong sạch... cho đến giới bị bậc thánh ghét bỏ. Vì họ cầu có, muốn hưởng quả báo và mong thác sanh nơi an nhàn.
Nầy Hiền Hộ! Hàng xuất gia Bồ tát muốn tuyên nói và suy gẫm môn tam muội nầy trước tiên hết phải thành tựu giới hạnh trong sạch.... cho đến giới được bậc thánh kính mến, luôn luôn ghi nhớ thực hành Bố thí Ba la mật đó là những sự bố thí cao cả, bố thí pháp, bố thí siêu việt, bố thí vi diệu, bố thí tịnh diệu, bố thí vô thượng, thường siêng năng hăng hái không bỏ rơi trách nhiệm to tát dù là chỉ tạm nghỉ thôi.... Hằng nhứt tâm gìn giữ chánh niệm. Đức tin trong sạch không vướng vít danh tiếng lợi dưỡng thế gian, không mang lòng ganh tỵ. Thường hành khất thực, đúng như pháp xin ăn để nuôi thân hình, không nhận thỉnh riêng, lòng nhàm chán thế gian thích cảnh a lan nhã, tôn sùng dòng thánh, vâng giữ hạnh đầu đà dứt bặt chuyện phiếm chỉ luận việc siêu thoát cõi đời. Yên lặng ở giữa đám đông ít lời lẽ thường tôn kính kẻ khác không dám khinh chê, bất cứ lúc nào cũng cảm thấy tự thẹn với mình hổ ngươi đối với kẻ khác. Kẻ gia ân cho mình lòng hằng nhớ báo đáp, với kẻ thiện tri thức mong muốn được thân cận, với bậc sư tôn thì tùy thuận hầu hạ. Nếu gặp được kinh điển sâu xa sẽ hết lòng nghe nhận, tâm hằng không có niệm mỏi mệt, đối với vị pháp sư xem như đấng cha lành hay bậc thiện tri thức cho đến coi như đức Như Lai, vì do người dạy pháp vi diệu nầy làm cho mình được thành tựu trí giác vĩ đại tăng tưởng tâm mến thích kính trọng.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát đi đến nghe bậc Thinh Văn nói về kinh điển sâu xa như đây, lại đối với bậc pháp sư nầy không sanh tâm kính mến, tôn trọng, không nghĩ là bậc cha lành thiện tri thức, giáo sư hay chư Phật nên không thể thân cận cúng dường hầu hạ người đã dạy mình kinh nầy. Hiền Hộ! Ông phải biết hạng Bồ tát nầy sẽ không đủ năng lực để tin nhận, biên chép phổ biến ra, tuyên giảng về kinh nầy để nhờ đó chánh pháp được tồn tại.
Lại nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát nào được nghe hàng Thinh văn nói về kinh điển vi diệu như vậy sanh tâm tôn trọng coi vị pháp sư đó như là Phật gần gũi cung kính cúng dường hầu hạ. Bồ tát như vậy dù chưa tu học kinh nầy cũng tức là đă tu tập, chưa giải nói ra tức đã giải nói, có đủ năng lực làm cho diệu pháp tồn tại lâu dài trên cõi đời, không bị hủy hoại hay tiêu diệt. Tại sao thế? Là vì do có thể kính mến tôn trọng chánh pháp nên kinh nầy mới được tồn tại lâu dài trên thế gian. Nầy Hiền Hộ! Do nhơn duyên nầy giờ đây ta dạy ông: Người nào đối với vị pháp sư sanh tâm ưa mến, kính trọng, tôn quý, coi như thiện tri thức, bậc thầy, thậm chí có khi tưởng như chư Phật nên hết lòng hầu hạ cúng dường cung kính, người như vậy mới gọi là thực hành theo hạnh của ta, vâng lời ta dạy bảo.
Lại nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát xuất gia quyết định muốn và suy gẫm tam muội nầy nên thường ở a lan nhă xa lánh đám đông, làng xóm bè đảng, chỗ tham cầu, không cất chứa lúa gạo món ăn, không tham đắm nơi y phục vật thức, không nhận lãnh tài sản vàng bạc. Không ham mê hằng nghĩ đến việc xả thân, xa lìa lòng tham đắm, thường tu pháp tử quán, luôn hổ thẹn không tạo điều ác gìn giữ chánh pháp. Không còn nghe hoặc, luôn xa lìa không nắm giữ các tướng. Tu từ tâm không mang oán hiềm phát khởi tình thương cao cả, không giận hờn tâm bình thản hằng vui vẻ xí xóa nào có ưa ghét gì đến chúng sanh. Thường đi kinh hành phá trừ mê ngủ.
Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát xuất gia thực hành được pháp như thế sẽ có năng lực tu học, giải nói, suy gẫm về môn tam muội Niệm Chư Phật hiện tiền nầy.
Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ bạch Phật:
Thưa Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đức Như lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác dạy ra kinh điển thật hết sức sâu xa vi diệu siêu việt không thể suy lường được, nhưng các Bồ tát ở đời vị lai biếng nhát ỷ lại dù nghe được kinh điển nầy lại sanh sợ hãi kinh nghi thối lui không phát tâm ưa thích vui mừng. Lúc đó cũng có các Bồ tát siêng năng tinh chuyên ghi nhớ ưa thích pháp nầy giữ vững cùng khuyên người thọ trì, nếu được nghe pháp sư dạy cho pháp nầy dù phải xả thân nơi chánh pháp cũng không tiếc, không đắm trước danh tiếng không mong cầu lợi dưỡng, nghe nhận được pháp môn vi diệu như thế thường đọc tụng, ghi nhớ, suy gẫm nghĩa lý, thực hành như lời dạy, trong đời các Phật vị lai sẽ chỉ vì để thành tựu các công đức vĩ đại nên lòng luôn siêng năng hăng hái.
Lại có thiện nam thiện nữ đã từng cúng dường các đức Phật đời quá khứ vun trồng nhiều căn lành, hạng nầy rất hăng hái, vì mong muốn nghe pháp môn vi diệu nên phát ra đại thệ:
Dù phải khô kiệt da thịt, nát nghiến xương tủy, đốt cháy thân tâm, khổ hạnh liên tục nhưng con cũng không hề tạm thời biếng nhát mỏi mệt, do vì hằng mong thành tựu được kinh điển vi diệu nên siêng năng hăng hái phi thường chỉ muốn để thu phục các Bồ tát làm cho họ nghe nhận kinh điển nầy liền sanh đức tin, tâm vui vẻ.
Khi ấy Thế Tôn khen Bồ tát Hiền Hộ:
Hay lắm! Hay lắm! Nầy Hiền Hộ! Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói! Ta hết sức vui vẻ công nhận, tất cả ba đời chư Phật Thế Tôn số nhiều như cát sông Hằng cũng đều công nhận thế.
Hiền Hộ lại thưa:
Bạch Thế Tôn! Nếu như có Bồ tát tại gia còn ở thế gian nghe được môn tam muội nầy muốn được quán tưởng, nói cho kẻ khác nghe hoặc trọn một ngày đêm thực hành, người nầy gìn giữ bao nhiêu pháp hành để thành tựu được tam muội và có năng lực dạy bảo kẻ khác.
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát gia còn ở trong thế gian lại mong muốn tu tập môn tam muội niệm Phật hiện tiền nầy hoặc trọn một ngày đêm hay đôi giờ, nay ta nói cho ông nghe: Hàng tại gia nầy còn ở trong thế gian cần nên có đức tin chơn chánh, không keo kiệt hằng bố thí giúp đở hoặc ít nhiều hay cho tất cả không mong cầu quả báo, nên quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, không thờ trời cũng không lễ bái, không có lòng ganh tỵ lại hằng vui theo, sanh sống theo như Phật pháp giữ mình cho trong sạch, không mê gái không đắm say thê thiếp, không nhiễm thế tục, không bo bo ôm ấp tài sãn châu báo, hằng ưa thích hạnh xuất gia cạo bỏ râu tóc, thường ở chốn già lam tu bồ đề không nghĩ đến thừa nào khác, gặp bậc tỳ bởn giữ niềm cung kính. Được vị pháp sư nói cho nghe tam muội nầy, đối với vị đó sanh lòng kính mến tôn trọng xem như là bậc thiện tri thức, giáo sư, thậm chí như Phật, đem dâng cúng những gì người cần thiết, hằng nghĩ đến ân đã dạy cho mình diệu pháp nầy nên luôn tìm cách đáp trả.
Nầy Hiền Hộ! Bồ tát tại gia lúc còn ở thế gian ông nên dạy họ thực hành các pháp như trên sau đó mới chỉ cho họ môn tam muội nầy, cách suy gẫm và tu tập như thế.
Quyển Thứ Hai
Phẩm Thứ Tám: Thọ Ký
Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn! Ngài rất là hy hữu đã vì hàng Bồ tát tại gia, xuất gia đức tin thuần thục hâm mộ diệu pháp dạy cho họ pháp vô thượng, để họ an trụ trong vô lượng pháp hành sau đó họ sẽ được quán sát và giảng giải tam muội nầy.
Bạch Thế Tôn! Sau khi ngài diệt độ môn tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề không?
Phật dạy:
Sau khi ta diệt độ khoảng bốn chục năm kinh tam muội nầy còn phổ biến trong cõi Diêm phù đề. Qua năm trăm năm sau lúc chánh pháp diệt, tỳ kheo tạo điều ác, lúc chánh pháp bị phỉ báng, lúc chánh pháp bị phá hoại, lúc ít người giữ giới hạnh, hạng phá giới tăng trưởng, lúc các nước đánh nhau. Vào khoảng trong vòng trăm năm nầy có chúng sanh nào thiện căn bền vững khi xưa đã từng gần gũi chư Phật cúng dường tu hành gieo hạt giống lành, nhờ vậy hàng trượng phu nầy được kinh điển như thế đem ra lưu hành và do đó kinh được phổ biến trở lại trong thế giới Diêm phù đề. Đây là nhờ oai thần của Phật nên khiến cho họ sau khi ta diệt độ được nghe kinh nầy rồi sanh vui mừng biên chép phổ biến, thọ trì đọc tụng, suy gẫm ý nghĩa, dạy bảo kẻ khác, thực hành như lời dạy.
Khi đó Bồ tát Hiền Hộ và chàng Ly Xa Bảo Đức vừa nghe Như Lai nói chánh pháp diệt thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa mới cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục ngay ngắn trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính thưa rằng:
Trong vòng trăm năm sau năm trăm năm đức Như Lai nhập Niết Bàn là lúc chánh pháp diệt, lúc các sa môn điên đảo, chánh pháp bị phỉ báng, phá hoại, kẻ giữ giới ít oi phá giới lại tăng, bậc hộ pháp hiếm hoi, kẻ sống phi pháp lại nhiều, chúng sanh chịu ly loạn, các nước đánh nhau, khi ấy chúng con sẽ đọc tụng thọ trì suy gẫm nghĩa lý kinh điển tam muội vi diệu nầy, lại còn đem giảng nói cho kẻ khác nghe. Tại sao chúng con hành động như vậy? Là vì tâm chúng con không nhàm chán, không tri túc đối với kinh điển Như Lai dạy bảo, vì chúng con có khả năng nghe nhận, biên chép phổ biến, đọc tụng thọ trì, suy gẫm nghĩa lý tu hành và giảng nói cho kẻ khác.
Khi ấy có các cư sĩ thuộc giới thương gia tên là Dà Ha Cấp Đa và Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v... xót thương chánh pháp diệt nước mặt rơi đầm đìa cũng cùng đứng dậy thưa:
Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện bảo vệ kinh điển Như Lai nói và kẻ thọ trì kinh điển làm cho được tăng trưởng. Chúng con sẽ gìn giữ kinh điển vi diệu do Như Lai dạy được lưu hành phổ biến và tồn tại lâu dài trên đời. Do vì kinh điển nầy đã từng trong vô lượng số kiếp đem lại nhiều quả trí giác vô thượng cho chúng sanh.
Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp hy hữu xin nguyện hết lòng thọ trì suy gẫm ý nghĩa, đem dạy lại cho người để pháp được phổ biến.
Bạch Thế Tôn! Với pháp sâu xa tất cả thế gian khó có người tin, con sẽ vì chúng sanh trước tiên gây thiện căn cho họ sau đó sẽ giảng giải ý nghĩa.
Khi đó trong chúng có năm trăm tỳ kheo tỳ kheo ni cư sĩ nam cư sĩ nữ nghe đức Như Lai nói chánh pháp hoại diệt trong thời gian sắp đến lòng cảm thấy đau nhói nước mắt tuôn rơi, đều đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt, gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện thọ trì chánh pháp của Như Lai. Còn các bậc đại sĩ thiện trượng phu vào lúc nầy đã làm bậc y chỉ cho chúng con, đã che chở dạy dỗ làm chúng con hiểu được ý nghĩa chơn thật của kinh điển sâu xa mà Như Lai đã dạy và nhờ đó chúng con thực hành như Pháp. Cúi xin Thế Tôn ngài hãy thọ ký rõ ràng cho các thiện trượng phu và chúng con. Vì con và các ngài đó đủ có năng lực gìn giữ chánh pháp và người thọ trì.
Đức Thế Tôn liền mỉm cười từ miệng toát ra ánh sáng màu vàng ròng soi khắp mười phương các thế giới Phật, và ánh sáng trở về chỗ Phật, xoay quanh Như Lai ba vòng theo chiều mặt xoay lên đến đỉnh đầu thì biến mất.
Tôn giả A Nan thầm nghĩ lúc Thế Tôn cười chắc có việc gì lạ ta nên hỏi ngài gì cớ gì Ngài cười.
Nghĩ vậy xong, ngài đứng dậy sửa sang y phục lại, trịch áo bày vai mặt, gối mật chấm đất chấp tay hướng về Phật dùng kệ thưa:
Tâm ngài trong sáng hạnh không nhơ
Có đại oai đức, thần thông lớn
Cao cả đáng tôn trọng cõi đời
Hiển hiện khác gì ánh trăng trong.
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát
Tiếng Ca Lăng tối thượng cõi trời
Tất cả dị luận không xao động
Nay bỗng mỉm cười do duyên gì?
Thông đạt chánh chơn vì con nói
Đấng lưỡng túc đem nhiều lợi ích
Nên nghe âm thinh vi diệu nầy
Con sẽ hết lòng vui hớn hở.
Chẳng lẽ Thế Tôn luống cười khan?
Khi Phật phóng quang có người lành
Thưa ai hôm nay được lợi lớn?
Ai trong phút nầy được chứng chơn?
Ai hiện giờ đây được quán đảnh?
Ai phút bây giờ lên ngôi Phật?
Ai hiện tại đem lợi cho đời?
Ai sẽ nói hết kho Phật pháp?
Ai hằng thường trụ trong Phật trí
Mà đức Thế Tôn hiện duyên cười?
Phật liền dùng kệ đáp lại:
A Nan! Ông thấy Hiền Hộ không?
Cùng năm trăm người ông giáo hóa
Thân tâm vui vẻ lời thành thật
Bọn họ tương lai được pháp nầy.
Bọn họ nhứt tâm nhìn ngóng ta
Bất cứ lúc nào cũng như vậy.
Đối trước nơi ta phát đại nguyện,
Họ sẽ tương lai đạt đạo nầy.
Lại có tám chúng đứng dậy thưa
Trong đó năm trăm là thượng thủ
Họ sẽ ở vào đời pháp hoại
Vì cả thế gian nói pháp nầy.
Ta cũng bảo ông biết như vầy:
Họ là kẻ có trí vô ngại
Nào từng chỉ ở đời một Phật
Đứng dậy chấp tay kính Thế Tôn,
Ta quán khi xưa vô lượng đời
Trải qua tám muôn các đức Phật
Tám người đã từng đứng dậy thưa
Lại cũng hộ trì diệu pháp nầy
Trước đó tám muôn ức do tha
Cũng gặp vô số Phật như thế
Tâm được giải thoát, tiếng đồn xa.
Lúc đó hạng nầy đã thọ trì
Nay lại ở trong diệu pháp ta
Làm thượng thủ hạng giữ lợi ích
Bọn họ sau khi ta diệt độ
Đem xá lợi ra để cúng dường.
Khéo giữ các Phật sự của ta
Đặt trong rương hộp khắp mười phương
Xây tháp giữa đồng hay trên núi
Dặn dò trời rồng và kim điểu:
Các ông nương tựa kinh pháp nầy
Mạng dứt sẽ đều lên cõi trời
Sau đó trở lại chốn nhân gian
Thường sanh vào nhà họ sang trọng
Khéo gìn việc Bồ đề của ta
Lại phát đại nguyện theo bổn tâm,
Hoặc vì chánh pháp đến nước người
Để tìm cầu kinh sâu như thế
Đắc rồi lại truyền trao kẻ khác
Do tâm vui vẻ không ganh tỵ.
Cầu pháp tinh thành không biếng nhát
Khinh tài nhẹ mạng há yêu thân!
Hàng phục tất cả ngoại đạo luận
Hằng đem chánh pháp ban cho họ.
Lúc đó không ai thọ trì kinh
Cũng không đọc tụng, dạy kẻ khác.
Chỉ có năm trăm đấng hiền nầy
Và tám đại Bồ tát như thế
Tương lai miền Bắc truyền diệu pháp
Phổ biến kinh điển rất sâu xa.
Như thế tỳ kheo và ni chúng
Các cư sĩ nam cư sĩ nữ.
Trí khéo, không hiểm, lên pháp sư
Sẽ thành bậc chánh giác đức lớn.
Kẻ nầy từ đây đến khi chết
Không bao giờ sa vào đường ác
Trong các đời sanh được may mắn
Gặp gỡ Bồ đề việc hy hữu
Đã xa lìa hẳn các đường ác
Lại tránh không gặp các nạn tai
Công đức khó biết được ngằn mé
Hưởng phước như thế nhiều vô cùng
Sẽ gặp được Phật Di Lặc
Tâm hằng tương xứng với Phật nầy
Cúng Phật cung kính lợi chúng sanh
Chỉ vì mong cầu trí Bồ đề
Vào khoảng mạt thế lúc pháp diệt
Họ cũng lại thường giữ gìn pháp
Có thể ở vào khoảng Hiền kiếp
Làm cho thế gian khắp sáng soi
Bảo vệ kinh nầy cùng mọi nơi,
Trụ chỗ không sợ giữa ba đời
Tương lai số ức các đức Phật
Khó thể tính lường và nghĩ suy
Đều cúng dường hết, rộng tu hành
Hằng giữ gìn các thắng Phật sự
Nay đây Hiền Hộ đại Bồ tát
Và ông Bảo đức, báu trong chúng
Thương chủ Cấp Đa Dà Ma Da
Sẽ được gặp Phật nhiều hằng sa
Nghe và lãnh thọ kinh vô lượng
Nếu có chúng sanh được nghe tên
Hoặc lúc tỉnh táo hay ngủ nghỉ
Hạng nầy được trời người tôn kính
Nếu có chúng sanh vừa nghe tên
Liền sanh kính tin và tùy hỷ
Tất cả thành Phật không nghi ngờ
Huống gì cúng dường với các Phật
Họ được thọ ký khó nghĩ lường
Sống lâu, pháp trụ cũng vô lượng
Lợi ích rộng lớn không cùng tận
Công đức trí huệ cũng khó biết.
A Nan nếu người trì kinh nầy
Biên chép đọc tụng và ghi nhớ
Ông nên quyết định sanh kính mến
Không nên xa họ năm trăm dặm,
A Nan! Nếu người trình kinh nầy
Tự siêng năng mong cầu bền vững
Giữ giới trong sạch, bỏ ngủ nghỉ
Chắc chắn đắc được diệu tam muội
Trong luật ta dạy về Mộc Xoa
Các hạng tỳ kheo ở Lan nhã
Thường hành đầu đà không xả bỏ
Đắc được tam muội rất chắc chắn.
Tất cả thỉnh riêng đều từ chối
Dù là vị ngon cũng bỏ qua
Coi thầy như Phật tâm cung kính
Ai nói họ không chứng tam muội?
Trước hết rõ cả tham sân si
Xả bỏ ngã mạn và ganh tỵ
Tình không nhơ bợn niệm vô vi
Đọc tụng suy gẫm tam muội nầy
Nếu có Bồ tát còn tại gia
Tâm hằng bền vững việc xuất gia
Thọ trì đọc tụng thành nghiệp miệng
Tâm hằng nhớ học tam muội nầy,
Luôn giữ gìn năm căn bản giới
Cũng thường thọ trì bát quan trai
Hằng xả tài sản cúng chùa tháp
Đọc tụng quán sát môn tam muội,
Không có mê say hàng thê thiếp
Không đắm nữ sắc và tài sản,
Giữ hạnh cư sĩ hằng hổ thẹn
Chỉ một lòng nhớ tam muội nầy.
Không khởi tâm hại các kẻ khác
Chỉ nghỉ suy bỏ các chơi giỡn
Không kẹt nơi nào, tâm an nhẫn
Chỉ nhớ một môn tam muội nầy.
Chớ nên ôm giữ các tài vật
Hoa hương phấn thoa và vòng hoa
Không đắm nơi nào, hằng an nhẫn
Tam muội như thế luôn giữ gìn.
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh nầy
Nên phải quy kính, bỏ ganh tỵ
Bỏ đùa, cống cao và ngã mạn
Chứng được bồ đề nào khó gì.
Nên phải siêng năng trừ mê ngủ
Tất cả mong cầu đều bỏ lìa
Tâm mến pháp, nuôi mạng trong sạch
Chỉ đọc tụng kinh tam muội nầy,
Hằng không hợp tác với tham dục
Không nổi sân hận dày vò người
Không đem dây ma trói chúng sanh
Chỉ một lòng trì môn tam muội
Không do nịnh hót mà hành động
Không ham áo đẹp và hương xoa
Không nói hai lưỡi chia cách người
Chỉ biết môn tam muội phải trì.
Tiếng sắc gái trai nào bợn tâm
Tịch tịnh hết rối mối nghĩ bậy
Kính thầy nào khác đức Phật đà
Và chỉ thọ trì niệm tam muội.
Sanh ra xa lìa các đường ác
Trong biển Phật pháp nào tin suông
Phá trừ các chướng trong ba cõi
Mong muốn lãnh thọ tam ma đề.
Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Chín: Công Đức Thọ Trì
Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ, chàng thanh niên Ly Xa Bảo Đức, thiện thương chủ phú hộ Da Ha Cấp Đa, Na La Đạt Ma Nạp, Thủy Tiên cùng với năm trăm đồ chúng nghe lời Phật dạy đều lấy làm vui mừng liền đem năm trăm y phục tuyệt đẹp dâng lên Thế Tôn và cúng dường ngài nhiều phẩm vật khác.
Đức Thế Tôn mới bảo A Nan:
Nầy A Nan! Hiền Hộ Bồ tát lúc nào cũng thường làm bậc thầy của năm trăm đồ chúng dạy cho họ các ý nghĩa trọng yếu của các pháp, giáo hóa vỗ về làm cho họ vui vẻ. Do có vui nên bọn họ sanh tâm tùy thuận, chơn thật, trong sạch ly dục phá trừ các phiền não không bị nó bao bọc trói buộc
Liền đó năm trăm người nhứt tâm chấp tay cung kính làm lễ Phật và lui ngồi một bên.
Hiền Hộ mới thưa:
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát cần đủ mấy pháp mới có khả năng đắc môn niệm Phật tam muội nầy?
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát có đủ bốn pháp như sau sẽ đắc được tam muội. Một là không đắm say lý thuyết của tất cả ngoại đạo, hai là không ưa tất cả việc ái dục, ba là thường không bỏ rơi công đức đầu đà, bốn là luôn nhàm chán ba cõi các chỗ thọ sanh do phiền não. Bồ tát thành tựu bốn pháp nầy sẽ đắc tam muội.
Nầy Hiền Hộ! Nếu thiện nam thiện nữ đọc tụng thọ trì kinh tam muội nầy, hoặc có lúc đem ra giảng nói cho kẻ khác hiện tiền liền được năm thứ công đức: một là không bị tất cả các độc tổn hại, hai là không bị tổn thương bởi binh khí gậy gộc, ba là không bị tai nạn nước: chết chìm v.v... bốn là không bị lửa dữ đốt cháy, năm là không bị ác vương, huyện quan có dịp làm hại.
Tại sao được như thế? Là vì nhờ sức từ tâm của tam muội.
Nầy Hiền Hộ! Giả sử thế gian lâm vào kiếp hoại cả thế giới chìm đắm trong biển lửa, trời đất cháy đỏ rực, nếu như có kẻ thọ trì kinh nầy hoặc trai hay gái dù có bị rơi vào lửa đỏ nhưng nhờ oai thần của tam muội, lửa đỏ liền tắt, không bao giờ có chuyện không tắt.
Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ lúc thọ trì kinh nầy không bao giờ bị ác vương, ác huyện quan, trộm cướp, sư tử, cọp, sói, rắn độc làm hại. Lúc họ tu hành kinh nầy cũng không hề bị dạ xoa, la sát, ngạ quỷ, cưu bàn trà, tỳ xá xà cho đến tất cả loài phi nhân cản trở phá hoại được. Kẻ thiện nam thiện nữ lúc đọc tụng kinh nầy, lúc suy gẫm ý nghĩa, lúc giảng nói cho người, lúc nhập vào tam muội, lúc hành phạm hạnh cũng không xảy ra việc mất y mất bát cho đến các việc chướng ngại, trừ ra do dư báo đời trước xoay chuyển không được. Kẻ thọ trì kinh tam muội nầy cũng không mắc bịnh mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, các hoạn nạn khác cho đến tai nạn nguy kịch táng mạng, chướng ngại phạm hạnh. Kẻ thiện nam thiện nữ được nghe, thấy, biết đầy đủ về kinh tam muội như thế nếu như họ không gặp được Phật, không gìn giữ chánh pháp lại phá hoà hiệp tăng trái nghịch với Phật Bồ đề, thật là việc không bao giờ có thể xảy ra!
Nầy Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ thọ trì kinh nầy được tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân phi nhân, bốn đại thiên vương, Đao lợi thiên vương, phạm thiên vương cho đến các đức Phật Thế Tôn đều hết lòng ca ngợi.
Lại nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ thọ trì kinh nầy luôn luôn được sự mến kính của tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân, phi nhân, bốn đại thiên vương, Đao lợi thiên vương, đại phạm thiên vương, các hàng bồ tát cho đến tất cả chư Phật Thế Tôn.
Lại nữa kẻ thiện nam thiện nữ nhờ sức của kinh nên luôn luôn được sự bảo vệ của tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân, phi nhân, bốn đại thiên vương, Đạo lợi thiên vương, đại phạm thiên vương, tất cả hàng Bồ tát Phật Thế Tôn.
Các bậc Bồ tát cho đến chư Phật Thế Tôn trong ngày đêm hoặc trong giấc mộng, các ngài hiển hiện hình tượng tự xưng danh hiệu rồi xoa đầu an ủi người trì kinh tam muội nầy và khen ngợi cùng khuyến khích họ.
Lại nữa kẻ thiện nam thiện nữ dù chưa từng nghe đến các kinh điển khác ngoài kinh này nhưng nhờ sức oai thần tam muội nên khiến xui tự nhiên có người đến nói hay nằm mơ nghe được, nghe rồi ghi nhớ rành rẽ không quên.
Nầy Hiền Hộ! Ta nói về công đức của kẻ thiện nam thiện nữ chỉ tạm thời thọ trì kinh tam muội vi diệu nầy dù trải qua nhiều kiếp cũng chưa hết được, huống chi kẻ đã nghe được tam muội nầy rồi y theo lời dạy tu hành, sống như chánh pháp.
Sau đó Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Nếu người có khả năng giải thích
Tam muội tịch tịnh của chư Phật
Giả sử ta nay nói công đức
Khác nào hạt cát giữa sông Hằng.
Nếu vì kẻ khác nói tam muội
Nước không nhận chìm, lửa không cháy
Không bị thương tổn bởi dao gậy
Ác vương, ác quan không hại được
Nếu hay đọc tụng tam muội kinh
Nào sợ tất cả việc khủng bố
Oai lực kinh nầy diệt trừ hết
Ngay cả nộc độc của đại xà.
Kẻ thọ trì được kinh điển nầy
Cũng không sợ sệt các kẻ ác
Dạ xoa, la sát và các rồng
Bọn nầy đâu có dịp làm hại.
Nếu ai giải nói tam muội nầy
Họ không mắc bịnh và nạn tai
Sanh ra báo nhãn không hề mờ
Lời nói êm ái, biện luận hay.
Nếu người thực nghiệm thiền thâm diệu
Thân thể mạnh mẽ không bịnh hoạn
Cả đời xa hẳn các ác sắc
Nào có lo phải sa địa ngục.
Nếu ai đọc tụng kinh tam muội
Được trời, long thần đều bảo vệ
Da xoa, la sát kẻ oán thù
Vừa đến đã hoảng cùng bỏ chạy.
Nếu ai nói kinh cho kẻ khác
Trời, rồng, dạ xoa lòng mừng vui
Các trời tối ngày luôn ca tụng
Chư Phật Thế Tôn thương như con.
Nếu vì kẻ khác đọc kinh nầy
Không có nghi nan tất cả pháp
Được dung nhan đẹp khó ai bì
Há lại thối giảm Bồ đề đạo
Nếu người đem dạy cho kẻ khác
Dù gặp vua ác, dân ly loạn
Vào năm khô hạn, lúa gạo thiếu
Không bao giờ đói, hoặc bị hại.
Nếu người giải nói tam muội nầy
Thu hoạch công đức khó suy lường
Dù có loài ma hại chúng sanh
Cũng khó đụng đến lông hay tóc
Ta đă nói về kẻ trì kinh
Các nạn, sợ hãi và phiền não
Không có bao giờ tổn hại được
Chỉ trừ nghiệp trước cố định rồi.
Nếu ai bảo vệ được kinh nầy
Chính họ là trưởng tử của Phật
Ta đã ca ngợi họ lâu rồi
Đời tương lai cũng sẽ khen ngợi.
Nếu ai gìn giữ pháp thế nầy
Tự nên luôn sanh lòng hoan hỷ
Đều nên phổ biến chớ bỏ rơi
Lời Phật hôm nay dạy như vậy.
Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Mười: Mau Chứng Bồ Đề
Phật lại bảo Hiền Hộ Bồ tát:
Nầy Hiền Hộ Ta nhớ thuở xa xưa cách đây cũng đã Vô số kiếp rồi, lúc bấy giờ có một Phật hiệu là Vô uý vương Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Đương lúc ngài ra đời có một ông phú hộ tên là Tu đạt đa cùng với hai muôn người nữa đồng đến chỗ Phật Vô úy vương ngự làm lễ đầu chấm sát chân Thế Tôn, lễ xong ngồi qua một bên và Tu đạt đa cầu thỉnh đức Phật Vô úy giảng rộng ra ý nghĩa tam muội sâu xa như thế. Khi ấy đức Phật Vô úy Vương biết ông phú hộ có đức tin sâu dày thật tâm muốn nghe tam muội nầy, nên liền tùy thuận giảng giải ra.
Nầy Hiền Hộ! Tu đạt đa nghe được tam muội Phật dạy ra, liền đọc tụng thọ trì, suy gẫm ý nghĩa thực hành như lời. Đã thực hành xong lại bỏ gia đình cạo râu tóc đi xuất gia mặc áo cà sa, y theo giáo pháp của Vô Uý Vương Như Lai. Trải qua tám muôn năm, suy gẫm gìn giữ tam muội nầy, lại thọ trì tất cả pháp mà đức Vô Uý Vương dạy ra. Sau đó lại nghe các Như Lai khác nói về pháp nầy cũng thọ trì cả, vun trồng rất nhiều căn lành nơi các Phật có thể thành tựu nhiều việc vĩ đại không suy lường được. Sau đó bỏ thân liền sanh lên trên Tam thập tam thiên, trong kiếp đó lại gặp đức Phật thứ hai, đức Phật đó sanh từ cõi trời Đao lợi xuất gia thànhdạo tên là Điển Đức Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác. Tu đạt đa lại xuất gia tu hành theo giáo pháp của Điển Đức Như Lai trải qua tám muôn bốn ngàn năm cũng vẫn quán tưởng tam muội nầy. Kế đó Tu đạt đa lại gặp đức Phật thứ ba xuất thân từ gia đình Bà la môn rồi cũng xuất gia thành đạo hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Tu đạt đa xuất gia tu hành theo pháp của Quang Vương Như Lai cũng trải qua tám muôn bốn ngàn năm thường hằng suy gẫm tam muội nầy.
Hiền Hộ! Từ đó về sau ông Tu đạt đa lại trải qua hơn trăm kiếp nữa thành tựu được trí giác vô thượng. Hiền Hộ! Ông nên biết phú hộ Tu đạt đa đâu có phải là người nào xa lạ chính là đức Nhiên Đăng Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác đời quá khứ.
Nầy Hiền Hộ! Thế nên biết rằng ông Tu đạt đa nhờ lòng ưa thích chánh pháp lại có năng lực cầu pháp như thế nên mau thành tựu được trí giác vô thượng.
Nầy Hiền Hộ! Giờ đây ông hãy quán sát tam muội nầy, vì các Bồ tát và hàng chúng sanh mà làm đôi chút việc ích lợi vĩ đại nầy, chính là sẽ được tất cả trí địa của chư Phật, lại có thể gìn giữ bể cả đa văn của tất cả chư Phật. Hiền Hộ! Vì vậy các ông nên siêng năng mong cầu tam muội nầy, thường thích ưa nghe, đọc tụng thọ trì, suy gẫm tu hành, đã nghe nhận rồi lại khuyên bảo kẻ khác dọc tụng thọ trì, giải thích nghĩa lý để cho họ hăng hái mong cầu, tin nhận được, chánh niệm quán tưởng, tu hành như lời.
Nầy Hiền Hộ! Nếu người siêng năng mong cầu đọc tụng thọ trì chánh niệm tu hành, phổ biến lưu hành tam muội nầy không bao lâu sẽ chứng được các Phật trí, Như Lai trí, đại tự tại trí, bất tư nghị trí, bất khả xứng trí, vô đẳng đẳng trí, nhứt thiết trí cho đến trí bất cộng
Nầy Hiền Hộ! Nếu kẻ nào là kẻ nói giỏi họ sẽ nói rằng: Tam muội nầy chính là đôi mắt sáng của các vị Bồ tát, là cha mẹ của tất cả Bồ tát, nguyên động lực đem lại tất cả Phật trí cho các Bồ tát. Hiền Hộ! Kẻ nào nói như vậy là nói rất giỏi về tam muội nầy.
Nầy Hiền Hộ! Lại có kẻ thiện nam thiện nữ lúc nói rất hay chính là nói rằng: Tam muội nầy tức là Phật tánh, pháp tánh, tăng tánh, là Phật địa, biển đa văn, công đức kho báu đầu đà vô tận, là kho công đức vô tận của chư Phật, là kho báu vô tận phát sanh ra các nhẫn lực, là nguyên động lực sanh ra đại từ, đại bi và bồ đề. Hiền Hộ! Đó là kẻ nói rất hay về tam muội nầy.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có người nói rằng: vua tam muội đầy đủ năng lực phá tan các pháp đen tối, soi sáng tất cả đại pháp, kẻ đó đáng coi là nói rất hay về tam muội nầy.
Hiền Hộ! Ông nên quán sát Bồ tát tu niệm Phật hiện tiền tam muội, vì các chúng sanh hằng đem cho họ sự lợi ích vĩ đại, cho đến tất cả hàng bồ tát trụ ở cõi nầy nhìn thấy khắp mười phương tất cả thế giới chư Phật Thế Tôn, liền qua chỗ các Phật cung kính lễ bái nghe nhận chánh pháp, cúng dường chư tăng nhưng cũng không tham đắm.
Vì lý do nầy, các Bồ tát muốn thành tựu tam muội vương nên luôn luôn siêng năng tinh chuyên quán sát pháp tứ niệm xứ.
Nầy Hiền Hộ! Thế nào là pháp tứ niệm xứ của Bồ tát? Đó là Bồ tát luôn luôn chuyên tâm quán sát tất cả thân hành nhưng rốt ráo không thấy tất cả các thân, luôn luôn chuyên tâm quán sát thọ hành nhưng cũng không thấy tất cả tâm, luôn luôn chuyên tâm quán sát pháp hành nhưng cũng không thấy tất cả các pháp.
Nầy Hiền Hộ! Các việc như vậy ai có khả năng tin nhận được? Duy chỉ có bậc Lậu tận A la hán Bồ tát thối chuyển.
Hiền Hộ! Tất cả phàm phu ngu mê đối với môn tam muội niệm Phật hiện tiền, thường nên suy tưởng đến chư Phật Thế Tôn không đặng sanh chấp trước lại cũng suy tưởng các Phật Thế Tôn nói pháp như đây nhưng cũng không chấp trước, lại cũng suy gẫm ta nghe nhận pháp nhưng đều không nên đắm trước tất cả hữu vi. Tại sao lại hành động như thế? Nầy Hiền Hộ! Là vì các pháp đều không, bổn lại vô sanh. Vì các pháp không thể niệm, không có chỗ niệm. Các pháp xa lìa tuyệt hẳn tâm tưởng, vì các pháp không thể chấp trì, chơn như không thể đắc được. Các pháp không bị nhiểm dường như hư không, các pháp trong sạch vì xa hẳn tướng chúng sanh, các pháp trong sạch vì sa hẳn tướng chúng sanh, các pháp không ô trược vì nhơn duyên diệt. Các pháp vô vi vì không có năng lực đưa loài hữu tình phải luân chuyển trong luân hồi. Các pháp tức niết bàn vì bổn lai vốn thanh tịnh. Các pháp vô sở hữu vì tất cả vật thể không có được.
Thế nên Bồ tát muốn suy gẫm tam muội này không thấy tự thân cũng không thấy chứng các pháp. Tại sao? Bởi vì trong đó không thể lấy sắc tướng để thấy Phật, lấy tướng âm thinh mà nghe pháp, không thể do thừa thinh văn chứng Bồ tát niệm Phật tam muội, cũng như không thể được các nhẫn địa Bồ tát.
Vì vậy hôm nay ta đem môn tam muội nầy ra phó chúc cho hàng thiên vương thế gian nên thọ trì, nên bảo vệ, cũng phó thác ông công việc phổ biến ở đời vị lai, chớ để đoạt tuyệt.
Đương lúc Thế Tôn nói pháp nầy có tám na do tha các thiên tử ở cõi dục phát tâm vô thượng bồ đề, lại có vô lượng trời người cũng phát tâm Bồ đề. Phật thọ ký cho hạng nầy vào đời vị lai qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng đều thành tựu vô thượng Bồ đề đồng một danh hiệu là Chánh giải thoát Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác ở thế gian giáo hóa, sống lâu đồng nhau. Hiền Hồ! Hạng nầy vừa phát tâm bồ đề còn được công đức vô lượng thành tựu viên mãn trí giác vô thượng như thế huống hồ gì kẻ theo ta lúc xưa hành đạo Bồ tát, kẻ cúng dường ta, họ lại không mau thành đạo giác ngộ vô thượng sao?
Hiền Hộ! Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe pháp nầy được tịnh trí Bát nhã, lại có tám trăm tỳ kheo giải thoát khỏi các phiền não.
Và Thế Tôn nói kệ lập lại nghĩa trên:
Ai sẽ thọ trì tam muội nầy
Họ được phước đức khó lường hết
Giới hạnh của họ không nhơ nhớp
Bổn tâm thanh tịnh như gương trong.
Ai sẽ thọ trì niệm tam muội
Được đa văn rộng không bờ mé
Trí huệ tự nhiên không thiếu giảm
Công đức đầy mãn như trăng tròn.
Ai sẽ thọ trì tam muội nầy
Thấy các đức Phật không nghĩ đặng.
Trí huệ quán sát pháp hy hữu
Bậc siêu việt nhân đều ủng hộ.
Ai sẽ thọ trì niệm tam muội
Phật kia dạy pháp khó đo lường
Đều sẽ vâng lãnh và cúng dường
Ai sẽ thọ trì niệm tam muội
Họ vì đời làm đèn soi đường
Tình thương cao cả cứu các khổ
Cúng dường hết thảy đấng Thế Tôn.
Ai sẽ thọ trì niệm tam muội
Vị lai vô số các Thế Tôn
Bồ tát nầy như muốn thấy được
Nên khởi tín tâm, tu cúng dường.
Nếu ai thọ trì tam muội nầy
Họ được thắng lợi khó nghĩ lường
Sanh trong nhân gian nhà cao quý
Thường được xuất gia, món ăn đủ
Ai giữ gìn được kinh tam muội
Họ hưởng nhiều phước lường được đâu
Lại gìn giữ vững đến vị lai
Hưởng được phước đức lợi tối hậu.
Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Mười Một: Đầy Đủ Năm Pháp
Khi đó Bồ tát Hiền Hộ rời chỗ ngồi đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa Phật:
Bạch Thế Tôn! Cúi xin ngài và chư tỳ kheo tăng ngày mai vào giờ độ ngọ quang lâm đến nhà con vì thương xót chúng sanh và con xin nhận sự cúng dường nầy.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời Hiền Hộ. Hiền Hộ biết Phật đã nhận lời làm lễ đầu chấm sát chân Phật, đi nhiễu theo chiều mặt ba vòng và lui ra. Ông lại đến chỗ tỳ khoe ni Ma ha ba xà ba đề làm lễ và thưa rằng:
Cúi xin tôn giả và ni chúng thương xót con sáng mai xin đến nhận chút cúng dường mọn.
Tỳ kheo ni Ma ha ba xà ba đề lặng lẽ nhận lời. Hiền Hộ biết rồi làm lễ lui ra, xong ông tới nói với chàng ly xa Bảo đức:
Nầy Bảo Đức! Ông đến nhà, ông hãy chuyễn dùm lời mời của tôi với tất cả hàng bà con quyến thuộc bạn bè quen biết của ông và các cư sĩ cho đến các vị vừa đến từ thành Vương xá hay các nơi khác thành ấp, thôn xóm qua dự pháp hội nầy. Xin ông nói với họ rằng: Xin nhận bữa cơm tại nhà tôi vào ngày mai.
Khi đó chàng Ly xa Bảo Đức nhận lời Hiền Hộ mới nói với các cư sĩ, bà con quyến thuộc v.v... đang dự pháp hội rằng:
Xin quý vị biết cho Bồ tát Hiền Hộ nhờ tôi mời quý vị: Ngày mai vào giờ ngọ xin các vị đến nhận sự cúng dường mọn.
Khi đó Bồ tát Hiền Hộ, chàng Ly Xa Bảo Đức và phú hộ thương chủ Dà Ha Cấp Đa, Na La Đạt Da Ma Nạp, phú hộ Thủy Tiên cùng với tất cả quyến thuộc bạn bè quen biết v.v... đảnh lễ Phật đầu chấm sát đất và lui về nhà Bồ tát Hiền Hộ. Các vị ấy đến nhà giúp Hiền Hộ sử sang buổi cúng dường, ngay trong đêm đó sai gia nhân lo liệu các món ăn thượng diệu sắc hương mỹ vị đầy đủ trăm vật, lại lo cả các món ăn ngon sạch dồi dào để thí cho các người nghèo đói từ các nước xa xôi đến, món ăn thí ra đồng với đại chúng không khác. Tại sao thế? Là vì hễ là Bồ tát thì tâm các ngài không có ưa ghét không dám kinh khi kẻ khác, đối với chúng sanh đều một lòng bình đẳng.
Khi ấy Ta bà thế giới chủ Đại Phạm Thiên vương, Đao lợi thiên vương Thích Đề Hoàn Nhơn, bốn vị đại thiên vương như Đề Đầu Lại Tra v.v... và thiên tử Thiện Đức cùng với các quyến thuộc đều hiện thân làm người đến tán trợ cho Hiền Hộ vì các vị ấy muốn giúp ông ta sớm thành tựu quả báo Bồ đề.
Còn Hiền Hộ và và con bạn bè quen biết v.v... quét dọn nhà cửa, treo giăng cờ xí đầy cả đại lộ, đường cái, đường hẻm trong đại thành Vương Xá cùng với nhiều vật trang trí tô điểm rực rỡ, rải hoa thơm đầy mặt đất rồi lại đốt lên các loại danh hương đệ nhứt để cúng dường. Hiền Hộ lo trang trí thành Vương Xá nhà cửa và sửa soạn món ăn ngon xong sáng hôm sau mới cùng bà con qua đến nơi Thế Tôn ngự cúi đầu đảnh lễ và thưa:
Bạch Thế Tôn! Con đã sửa soạn xong, xin ngài biết là phải lúc.
Khi đó vào sáng sớm, đức Thế Tôn vì nhận lời Hiền Hộ nên đấp y mang bát cùng với vô lượng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người vây quanh hai bên cùng đi đến nhà Bồ tát Hiền Hộ. Khi đó Bồ tát Hiền Hộ, mới nghĩ: Nhà cửa mình bé nhỏ không thể dung chứa số đại chúng quá đông nhiều mong nhờ oai linh đức Thế Tôn gia hộ làm cho nhà con rộng lớn đều trở thành lưu ly, tất cả nhân dân trong nội thành đều thấy rõ cả và đại chúng trời người được tùy ý thọ dụng không có chi thiếu sót, thật là điều sung sướng cho con.
Đức Thế Tôn hiểu tâm niệm của Hiền Hộ liền dụng thần lực làm cho nhà của ông trở thành rộng rãi các vật dụng đều trở thành lưu ly, cũng làm cho tất cả nhân dân trong thành đều được thấy rõ ràng.
Đức Thế Tôn vào nhà Hiền Hộ an tường ngồi trên sàn tòa và cho phép tất cả tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người tùy theo bộ loại tuần tự mà ngồi. Hiền Hộ, chàng thanh niên Ly Xa Bảo Đức, thương chủ phú hộ cư sĩ Dà Ha Cấp Đa, Na La Đạt Đa đã thấy Thế Tôn và bốn bộ chúng trời người đều ngồi an tường xong. Khi đó Hiền Hộ đích thân mang món ăn hết sức ngon quý dâng lên Thế Tôn, đức Thế Tôn thọ xong sau đó ông mới đem dâng bốn bộ chúng và tất cả đại chúng trời người các món ăn thơm tho quý đều để các vị tuỳ ý thọ dụng đầy đủ. Sau khi bửa cơm vừa dứt các ngài rửa tay súc miệng, rửa bát mang vào mình xong. Hiền Hộ mới đặt một ghế nhỏ thấp trước mặt Thế Tôn, cúi đầu làm lễ ngài sau đó lui ngồi trên ấy nhứt tâm chiêm ngưỡng ngài. Đức Thế Tôn mới vì Bồ tát Hiền Hộ, chàng Ly Xa Bảo Đức, thương chủ cư sĩ Dà Ha Cấp Đa, Na la Đạt ĐA Ma Nạp v.v... cho đến bốn bộ chúng trời người ngài ứng cơ nói pháp làm cho tất cả được mở mang hiểu biết, an ủi vỗ về để họ vui vẻ. Sau đó Thế Tôn cùng các tỳ kheo, tỳ kheo ni, đại chúng trời người trở về tinh xá.
Sau buổi cơm xong, Bồ tát Hiền Hộ cùng với quyến thuộc, bạn bè quen biết và trăm ngàn đại chúng vây quanh hai bên đồng qua đến nơi Thế Tôn cung kính lạy ngài rồi lui qua một bên quỳ gối chắp tay thưa:
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát đầy đủ mấy pháp có thể chứng tam muội hiện tiền nầy?
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát nào thành tựu được năm pháp như sau sẽ thành tựu được tam muội hiện tiền. Một là đủ nhẫn lực cao thâm trừ tận các dục lạc, hai là thật không gì tận không có chỗ tận, ba là vốn không có tạp loạn và sự diệt trừ các tạp loạn, bốn là vốn không có nhơ bợn và sự diệt trừ nhơ bợn, năm là vốn không có trần và sự xa lìa trần lao. Hiền Hộ! Đó là đại Bồ tát thành tựu viên mãn vô sanh nên đắc tam muội hiện tiền này.
Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp Bồ tát thành tựu sẽ đắc tam muội. Một là nhàm chán cực độ các hữu không thọ các hành, hai là sanh bất cứ nơi nào không hề quên tâm Bồ đề, ba là sanh ra nơi đâu cũng được gặp Phật Thế Tôn, bốn là không hề đam mê các ấm giới, nhập, năm là không đắm say nơi các việc dục lạc.
Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp: một là luôn luôn nghĩ nhớ tâm không giới hạn, hai là luôn luôn khéo thể nhập thiền định suy gẫm, ba là phân tách gẫm nghĩ tất cả các pháp, bốn là đối với tất cả chúng sanh không có tâm tranh cải, năm là luôn luôn dùng pháp tứ nhiếp hóa chúng sanh. Nếu Bồ tát thành tựu năm pháp nầy sẽ thành tựu tam muội.
Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp: một là đối với tất cả chúng sanh luôn rải tâm từ bao khắp, hai là lúc nào cũng ghi nhớ tu hành thánh hạnh, ba là thường thực hành hạnh nhẫn dù gặp kẻ phá giới lòng vẫn tôn kính, bốn là không khoe tài trước Hoà thượng A Xà Lê, năm là ở bất cứ nơi nào cũng không có lòng khinh chê kẻ khác. Bồ tát nào đầy đủ cả năm sẽ thành tựu tam muội.
Lại có năm pháp khác: một là luôn luôn y theo thánh giáo tu hành như lời dạy, hai là ý nghiệp trong sạch, diệt trừ sự ác của thân khẩu nghiệp, ba là giới hạnh trong sạch dứt trừ kiến thức, bốn là thường cầu mong học rộng nghe nhiều đức tin sâu dày về thiện nghiệp, năm là thường nghĩ nhớ đến Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác. Hoàn mãn được năm pháp nầy Bồ tát sẽ thành tựu tam muội hiện tiền.
Lại có năm pháp khác Bồ tát thực hành có thể thành tựu tam muội hiện tiền: một là thường bố thí rộng lớn không có tâm keo kiết, đối với các bậc sa môn, bà la môn, người nghèo khó, cô đơn, ăn xin, bố thí cho lòng không tiếc rẻ, những vật quý báu giá trị như món ăn ngon ngọt, y phục tốt đẹp, phòng nhà đệ nhứt bên trong đầy đủ đồ đạc trang trí đèn nến hương hoa, phàm những gì thọ dụng đều tận tâm thí xả. Dù hằng bố thí nhưng không mong cầu phước báo chỉ vì lòng thương xót tất cả, không mảy may nghi hoặc đă thí cả rồi sau cũng không hối tiếc. Hai là thường làm thí chủ mở cuộc thí pháp vĩ đại, đó là những pháp đệ nhứt tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối tinh, lúc tu hành pháp thí vĩ đại nầy có khả năng phát ra tất cả sự hùng biện vô ngại văn nghĩa rõ ràng có lớp lang liên tục không dứt khoảng, an trụ trong những pháp do Như Lai dạy, thành tựu sức nhẫn sâu xa dù bị kẻ khác phỉ báng mạ lỵ đánh đập cũng không sân hận cũng không sợ hãi tâm hằng an nhẫn vui vẻ. Ba là nếu lúc được nghe môn tam muội nầy hết lòng tin nhận ghi chép, đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý giảng rộng phân tích ý nghĩa cho kẻ khác hiểu để cho diệu pháp nầy được tồn tại lâu dài trên thế gian khỏi rơi vào cảnh trở thành "kho tàng bí mật" để rồi chánh pháp lần đi đến chỗ hoại diệt. Bốn là không mang tâm ganh tỵ tránh xa phiền năo xả bỏ những sự trói buộc, dứt hẳn trần cấu không tự khen mình mà cũng không chê kẻ khác. Năm là hằng kính tin tôn trọng chư Phật kính sợ bực Thầy, hổ thẹn với kẻ quen biết, xót thương trẻ thơ ngây, dù chỉ mang chút ân nhỏ cũng nghĩ đền đáp nồng hậu huống gì ơn nặng lại dễ quên đâu, lời lẽ lúc nào cũng thành thật không có nói dối.
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát hoàn măn năm pháp sẽ có thể đắc tam muội nầy.
Đức Thế Tôn muốn lập lại lời trên nên nói kệ rằng:
Nghe pháp sâu xa lòng thích ưa
Xa lìa tất cả thân đời sau
Chí tâm hồi hướng Phật Bồ đề
Nếu được như vậy sẽ đắc định.
Không dùng các luận theo ngoại đạo
Lý thuyết của họ cũng không nghe.
Lìa hẳn năm dục trong thế gian
Được như vậy sẽ chứng tam muội
Giữ giới trong sạch hành Phạm hạnh
Sanh bất cứ chỗ không mê gái
Cực nhàm năm dục, thật con Phật
Được như vậy sẽ chứng tam muội.
Thường thí vĩ đại không cầu báo
Cũng không cưu mang lòng hối tiếc,
Một phen xả thí duyên khó gặp
Lòng chuyên nhiếp niệm nhớ chư Phật
Lúc thương chúng sanh, hành bố thí
Quyết định hết nghi, không đổi thay
Giữ tâm hòa nhã bố thí ra
Nếu được như vậy, chứng tam muội
Như làm thí chủ bố thí tài
Nào có kiêu ngạo, tâm keo kiết
Lúc bố thí lòng khắp vui mừng
Nếu được như thế chứng tam muội.
Nếu làm thí chủ thí chánh pháp
Khéo léo trình bày nghĩa lý kinh
Lại hiểu được pháp sâu vắng lặng
Được như vậy rồi chứng tam muội.
An trụ trong các pháp sâu xa
Dẻo dai chịu đựng, không ganh tỵ
Dù bị đánh chửi không hề giận
Được như vậy chắc chứng định nầy.
Hoặc ai nghe được kinh điển nầy
Biên chép đọc tụng giảng nói hay
Lòng muốn pháp còn, lợi thế gian
Nếu được như vậy chắc đắc định.
Đối tất cả pháp không lẫn tiếc
Không cầu lợi dưỡng và tiếng đồn
Một lòng thiết tha tăng dòng Phật
Được điều như vậy, định chắc chứng.
Xa lìa ngủ nghỉ và phiền não
Bỏ lòng ganh tỵ và phá khuấy
Không tự khen mình và chê người
Diệt được ngã tướng đắc tam muội.
Chánh tín các Phật và pháp tăng
Tâm hằng thành thật không giả dối
Không quên đền đáp các ân sâu
Người nầy sẽ mau chứng tam muội
Nếu nói thành thật không dối láo
Hể làm gì ra không thối thất
Dù làm tuy ít quả lại nhiều
Kẻ nầy chứng định không chướng ngại.
Nếu ai thành tựu đủ pháp nầy
Giữ giới trong sạch nhớ ân nhân
Họ đắc Bồ đề còn không khó
Nói chi môn định thâm diệu nầy.
Khi ấy Thế Tôn mới bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Ta nhớ khi xưa cách đây vô lượng vô số kiếp, lại qua vô lượng vô số kiếp, ban sơ hết từ nơi Phật Nhiên Đăng nghe được môn tam muội nầy. Nghe rồi lại tu chứng được, thấy các Như Lai thường hiện ra trước mặt từ đó về sau trải qua vô lượng vô số các đức Phật đều được lãnh thọ kinh nầy, tu hành cúng dường. Lúc đó đức Phật Thế Tôn thọ ký cho ta rằng: Nầy thiện nam! Ông trong đời tương lai sẽ đặng làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Nầy Hiền Hộ! Các ông cũng nên chuyên tâm suy gẫm tu tập chánh pháp như vậy không phải thuộc về lãnh vực thấy biết của phàm phu, tịch tịnh sâu xa, chỗ diệt hết các tướng. Học xong như thế đời vị lai tự nhiên thành tựu trí giác vô thượng không khó khăn gì không có khác biệt với ta. Các ông nên biết nếu có ai an trụ tam muội nầy tự nhiên sẽ được gần kề bên trí giác vô thượng.
Khi ấy Thế Tôn nói bày kệ để lập lại lời trên:
Khi xưa ta gặp Phật Nhiên Đăng
Thấy rồi liền được tam ma đề
Từ đó luôn gặp các Như Lai
Đầy đủ công đức tiếng đồn xa.
Ông nên tích tập các công đức
Nhứt tâm chuyên niệm liền sẽ thành
Nếu ai hành được pháp thế nầy
Sẽ được đạo Bồ tát vô thượng.
Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Mười Hai: Xa Lìa Phân Biệt
Bấy giờ Hiền Hộ bồ tát thưa Phật:
Bạch Thế Tôn! Làm thế nào quán tưởng về tam muội nầy?
Phật dạy:
Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghĩ muốn quán tưởng tam muội nầy, lúc quán sắc, thinh, vị, xúc, pháp không nên đắm trước, lúc quán về các loài, tất cả nơi chốn, không đắm trước, đối với pháp nầy luôn luôn khởi hạnh đại từ chơn thật. Trong tất cả pháp như pháp hành, nếu các Bồ tát lúc quán niệm xứ nên quán sát thân hành không phân biệt thấy chỗ thân vận hành, quán sát thọ hành cũng không phân biệt thấy chỗ lãnh thọ thay đổi, quán sát tâm hành cũng không phân biệt thấy chỗ tâm vận hành, quán sát pháp hành cũng không phân biệt thấy chỗ pháp di động Bồ tát nên quán sát suy tưởng tam muội như thế. Tại sao vậy? Nầy Hiền Hộ! Là vì khi Bồ tát quán thân hành không sanh suy nghĩ phân biệt nơi thân, quán thọ hành, tâm hành, pháp hành cũng không phân biệt suy nghĩ nơi thọ, tâm, pháp. Tại sao? Vì tất cả pháp đều không thể được làm gì có phân biệt suy nghĩ. Hiền Hộ! Thế nên tất cả pháp không có phân biệt, không người phân biệt, không có suy nghĩ, không người suy nghĩ, phải biết trong đó không pháp nào có thể thấy được. Hiền Hộ! Vì không thể thấy nên vô ngại, trong tất cả pháp không bị chướng ngại tức là Bồ tát hiện tiền tam muội, khi Bồ tát thành tựu tam muội nầy tức đặng thấy vô lượng vô số quá A tăng kỳ các đức Phật và nghe hết những lời gì các ngài dạy, nghe pháp qua rồi đều có thể thọ trì được ngay cả những môn giải thoát vô ngại, giải thoát tri kiến của các đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, cũng có năng lực đắc trí vô ngại.
Lại nầy Hiền Hộ! Lúc Bồ tát quán sát tứ niệm xứ không pháp có thể thấy, không tiếng có thể nghe, vì không thấy nghe nên không pháp có thể phân biệt được cũng không có pháp để suy nghĩ. Tuy vậy nhưng không phải là hạng đui mù điếc lãng, chỉ vì các pháp không thể thấy được, thế nên lúc quán không sanh trụ trước. Lại thấy các đạo, vì suy gẫm về đạo nên đối các pháp không còn kẹt lưới nghi nên thấy Như Lai, thấy được Như lai nên xa lìa hẳn mê mờ, không có mê mờ nên biết tất cả pháp rốt ráo không thể thấy được. Tại sao? Bởi vì nếu Bồ tát có thấy, chấp giữ sự thấy; vì giữ thấy chắc giữ tướng pháp, giữ tướng pháp chắc kẹt vào sự việc, do kẹt sự việc nên thấy chúng sanh, thọ mạng, vì thấy thọ mạng chắc thấy có năng lực đưa loài hữu tình thọ sanh, vì thấy năng lực thọ sanh nên thấy có ấm, vì thấy ấm nên thấy nhập, do thấy nhập nên thấy giới, do thấy giới chắc thấy tướng, vì thấy tướng sẽ thấy vật, do thấy vật chắc thấy nhơn, thấy nhơn chắc lại thấy duyên, vì thấy duyên nên đeo đuổi tìm cầu, do tìm cầu nên hữu sanh. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Vì tất cả pháp rốt ráo không thể nắm giữ, vì không thể nắm giữ nên Bồ tát đối với tất cả pháp không nghĩ không nhớ, không thấy, không nghe. Nầy Hiền Hộ! Không phải như các ngoại đạo, hàng đệ tử ngoại đạo chấp nắm thần hồn và ngã kiến. Bồ tát không bao giờ có sự thấy biết như thế. Nhưng thấy thế nào? Bồ tát thấy như Như Lai thấy không hề thối chuyển, Bồ tát thấy như sự thấy của Duyên giác, Thinh văn. Bồ tát nên thấy như vậy. Vì thấy như vậy nên không ghi nhớ, không thấy, không nghe. Do không ghi nhớ và thấy nghe nên diệt các vọng tưởng tức đắc nội quán tam muội như vậy.
Nầy Hiền Hộ! Thí như hư không vốn không hình sắc không thể nhìn thấy gì, không có gì ngăn ngại, không là nơi nương tựa, không có chỗ dừng, trong suốt không bị nhiễm cũng không nhơ bợn, các hàng Bồ tát thấy các pháp cũng như vậy, nghĩa là đối với tất cả pháp hữu vi vô vi không bị ngăn ngại không có nơi chốn cho đến mắt thanh tịnh không bị chướng ngại nên tất cả pháp tự nhiên hiện tiền, Bố tát niệm như thế tức thấy các Phật hình tượng trang nghiêm rực rỡ như vàng ròng đầy đủ các oai nghi khác gì trăm ngàn ánh sáng tập họp chói sáng một vùng, như ánh trăng tròn mùa thu muôn sao lấp lánh bao quanh, như vua Chuyển Luân quần chúng đông vầy, như Thiên Đế Thích là bậc tối tôn, như đại Phạm vương ngự giữa ngôi trời, như vua sư tử oai khiếp các thú, như chim Hạc sắc lông thuần trắng bay liệng giữa trời, như núi Tu Di sừng sững giữa biển, như đại tuyết sơn sản xuất thuốc hay, như núi thiết vi ngăn đón gió dữ, như thủy giới ngăn chận địa đại, như luồng gió lớn quét sạch hư không, như trên đỉnh Tu di có cung trời tráng lệ. Nầy Hiền Hộ! Các đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến trí dùng ánh sáng trí đức soi sáng tất cả tam thiên đại thiên thế giới chư Phật việc đó cũng như vậy.
Nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát nầy trong lúc chánh quán lại nghĩ thế nầy: Đấng Như Lai có giảng dạy gì con đều nghe nhận nghe rồi đọc tụng, thọ trì, tu hành, nghĩ như vậy rồi xuất khỏi tam muội như trong lúc nhập định nghe pháp, suy gẫm nghĩa lý đem ra giảng nói cho người.
Nầy Hiền Hộ! Ông phải biết tam muội vương nầy đem lại sự lợi ích như thế và các công đức vĩ đại như vậy, đó là: các pháp thế gian và xuất thế gian cho các Bồ tát. Hiền Hộ! Vì vậy nếu thiện nam thiện nữ theo ý muốn cầu chứng vô thượng bồ đề nên nghe nhận tam muội nầy, nghe rồi nên biên chép, đọc tụng thọ trì, tu tập suy gẫm, đem ra phổ biến cho kẻ khác để diệu pháp được truyền bá rộng rãi trong đời.
Và đức Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên:
Các Phật trong sạch, lìa trần cấu
Công đức sâu rộng không chỗ nương
Chuông trống kiên tương các tiếng hay
Đầy đủ muôn loại để cúng dường,
Bày biện các hương thơm nhứt đời
Tràng hoa đẹp lạ lọng báu quý
Đốt đèn cúng dường các tháp miếu
Chỉ vì cầu chứng tam ma đề.
Phật pháp rộng sâu khó thể thấy
Khai mở thế đế cho người biết
Họ như tự tánh trước không đổi.
ông nên tùy thuận trí vô ngại
Như nhật nguyệt thiên vừa hiện ra
Đế thích dẫn theo băm hai trời
Các món trang sức để dẫy đầy
Cần cầu tam muội lòng cũng thế.
Ví như Phạm thiên giữa chúng Phạm
Oai nghi tịch tịnh công đức đủ
Dõng mãnh siêng năng khó sách được
Lòng cầu tam muội giống như vậy.
Lại như y vương ở trong đời
Cấp cho kẻ bệnh các thuốc hay
Thuận theo chư Phật tâm trong sạch
Ban sơ chia ly bổn không tánh
Dường như tuyết sơn là vua núi
Sáng rở đồng như Chuyển luân vương
Cũng như xe báu trang sức đẹp
Thấy tướng các Phật có khó đâu!
Lại như hạc vương lượn giữa trời
Bay đi bay lại rất thong dong
Các Phật thân vàng cũng như vậy
Là hàng Phật tử cần nhớ thế,
Vô cấu tam muội đèn tịnh trí
Phá được tối đen các hắc ám,
Người nào phá hết các vật tưởng
Niệm các Phật trí vô ngại quang.
Các cấu tiêu diệt, vô minh sạch.
Nếu quán sát được không tự tha
Kẻ nầy không khởi các sắc tướng,
Trong không nghi hoặc sanh tịnh trí
Thảy đều dứt sạch các hữu kiến,
Cũng đã diệt sạch tưởng ấm giới
Nghe pháp trừ não đặng thanh lương.
Tỳ kheo nên biết các Phật tử
Và các tỳ kheo ni thanh tịnh
Cùng các cư sĩ được như thế
Nếu như niệm được tam muội nầy.
Quyển Thứ Tư
Phẩm Thứ Mười Ba: Vô Tránh Hạnh
Đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ tát:
Nầy Hiền Hộ! Nếu tỳ kheo nào ưa muốn tu tập môn tam muội nầy, trước tiên hết phải quán tưởng, đã quán sát rồi nhờ đó không sanh ngã mạn trừ được kiêu căng tâm ý nhẹ nhàng xa lìa các tướng, bấy giờ mới vì kẻ khác nói về tam muội, không nên sanh phiền não. Nghĩa của phiền não trong đây tức là vọng tưởng dựa vào rỗng không gọi là phiền não.
Nầy Hiền Hộ! Thế nên các tỳ kheo nhờ vô tranh (không sanh phiền não tham, sân, si) nên có khả năng tu học và dạy dỗ môn tam muội nầy cho kẻ khác.
Hiền Hộ! Có các thiện nam thiện nữ muốn tu học và giải thích cho kẻ khác về môn tam muội nầy cần phải thành tựu đầy đủ mười pháp sau đó mới giải thích môn tam muội nầy cho người khác được: Một là thiện nam thiện nữ nầy trước tiên chế phục ngã mạn sanh tâm cung kính. Hai là nhớ ân không quên lòng thường tìm cách đáp trả. Ba là tâm không ỷ lại cũng không ganh tỵ. Bốn là dứt trừ nghi hoặc và các sự ngăn ngại. Năm là đức tin sâu dày khó hư hoại, nhiếp niệm nội quán. Sáu là siêng năng tinh chuyên kinh hành không mỏi mệt. Bảy là luôn luôn khất thực không nhận thỉnh riêng. Tám là ít muốn biết đủ, thu thúc sáu căn. Chín là tin chơn chánh nơi pháp nhẫn vô sanh sâu xa. Mười là thường nghĩ đắc tam muội nầy, và đối với bậc thầy đã đắc tam muội nầy rồi tưởng như chư Phật, tùy thuận theo thầy tu tập môn tam muội nầy.
Nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ nầy đã hoàn mãn mười pháp trên nên cần tu tập tam muội nầy và cũng khuyến khích kẻ khác thọ trì đọc tụng. Hành giả nầy sẽ được tám việc: một là hoàn toàn trong sạch vì không hủy phạm các cấm giới, hai là tri kiến thanh tịnh hòa hợp với trí huệ không tương xứng với gì khác, ba là trí huệ thanh tịnh vì không còn lưu phiền não, bốn là bố thí thanh tịnh vì không mong cầu quả báo, năm là đa văn thanh tịnh vì đã nghe pháp rồi không bao giờ quên mất, sáu là tinh tấn thanh tịnh vì hằng thời lúc nào cũng mong cầu Phật Bồ đề, bảy là hạnh viễn ly thanh tịnh vì không nhiễm trước nơi danh lợi, tám là hạnh bất thối thanh tịnh sẽ đắc trí giác vô thượng vì tâm ban sơ không xao động. Đó là tám việc mà thiện nam thiện nữ nầy thu hoạch được.
Khi đó Phật muốn lập lại lời trên nên nói bài kệ:
Kẻ trí không khởi tưởng hữu tướng
Cũng trừ kiêu mạn và ngã tâm
Trong môn nhẫn sau không nắm giữ
Vị nầy giảng giải được tam muội.
Trong không xưa nay, diệt phiền não
Niết bàn không tướng đại tịch tịnh
Đối Phật không hiềm, không báng pháp
Kẻ nầy xứng đáng nói tam muội.
Người trí không nổi lòng ganh tỵ
Nhớ Phật ân đức cùng pháp, tăng
Giáng sanh hàng phục không đổi đời
Một lòng phẳng lặng trì tam muội,
Không có ganh tỵ cũng không nghi
Suy tư pháp sâu tin chơn thật
Tinh tấn không lười lìa dục vọng
Ai được thế nầy đắc tam muội
Thường hành tỳ kheo pháp khất thực
Xả bỏ thỉnh riêng huống chi tài
Dứt trừ cấu nhiễm chứng chơn như
Ai được thế nầy đắc tam muội
Ai có được tam ma đề nầy
Nghe lời họ dạy, rộng phổ biến,
Xem họ khác gì đức Thế Tôn
Kẻ hành động thế đắc tam muội,
Nếu người tu hành tam muội nầy
Đầy đủ công đức siêu thế gian
Họ sẽ thu hoạch tám thứ pháp
Xứng hợp tâm Phật, sạch bụi trần
Giữ giới thanh tịnh tuyệt bờ mé
Tam muội, bồ đề và thắng kiến
Kẻ nầy thành tựu trong các hữu,
An trụ tối hậu diệu công đức.
Trí huệ thanh tịnh hết phiền não
Bố thí không nghĩ nhập vô vi
Đắc được đa văn không hề quên
Đó là kho đức của kẻ trí,
Dõng mãnh tinh tấn đắc bồ đề
Không tham danh lợi ở cõi đời
Nếu các kẻ trí khéo thực hành
Họ sẽ nhập diệu thiền vô thượng.
Quyển Thứ Tư
Phẩm Thứ Mười Bốn: Pháp Bất Cộng
Đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát lại còn thành tựu mười tám pháp bất cộng. Những gì là bất cộng? Đó là: Như lai lúc vừa thành đạo đến khi vào Niết Bàn trong khoảng thời gian đó ba nghiệp của Như Lai được trí huệ lãnh đạo: 1. là tất cả thân nghiệp hành động theo trí huệ. 2. là tất cả khẩu nghiệp động tác theo trí huệ. 3. là tất cả ý nghiệp vận hành theo trí huệ. Lại nữa các đức Như Lai: 1 là thấy biết việc quá khứ không chướng ngại, 2 là thấy biết việc hiện tại không chướng ngại, 3 là thấy biết việc vị lai không chướng ngại. Lại nữa 1 là hành động Như Lai không lỗi lầm, 2 là lời lẽ không sơ sót, 3 là không vọng niệm, 4 là không dị tưởng riêng biệt, 5 là thường an trụ trong tam muội, 6 là Phật thông đạt hết tất cả pháp rồi mới xả bỏ, không có pháp biết rồi lại không xả, 7 là mong muốn độ chúng sanh tâm không nhàm chán, 8 là tinh tấn không giảm, 9 là Thiền định không giảm, 10 là Trí huệ không giảm, 11 là giải thoát không giảm, 12 là giải thoát tri kiến không giảm. Đây là 18 pháp bất cộng của Như Lai, các đại Bồ tát cần nên tu tập cho hoàn mãn.
Lại nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát thành tựu sức giữ vững chánh pháp sâu xa khó thấy tức muốn tuyên nói tam muội nầy nên cần phải nhận mười pháp. Mười pháp nầy chính là mười năng lực trí huệ của Như Lai. Thế nào là mười năng lực? Nầy Hiền Hộ! Trong đó Như Lai xứ phi lực nghĩa là Như Lai đối với các việc trái hay phải đều dụng chánh trí biết được như thật. Như lai được năng lực nầy nên đứng giữa đại chúng cất lời như tiếng rống của sư tử chuyển bánh xe pháp cao cả vĩ đại từ xưa nay chưa từng chuyển ngay cả Sa môn, Bà la môn, Trời, Phạm thiên, ma, người... trong tất cả thế gian chưa ai chuyển được. Hiền Hộ đây là trí lực thứ nhứt của Như lai, đại Bồ tát cần nên tu học hoàn mãn.
Nầy Hiền Hộ! Trí lực thứ hai là Năng lực trí huệ Như lai biết tất cả nơi chí xứ. Như lai dụng chánh trí biết như thật tất cả đường lối nguyên nhơn đưa đến kết quả. Như lai được năng lực nầy nên biết được sự chơn thật.
Nầy Hiền Hộ! Trí lực thứ ba: Năng lực trí huệ Như Lai biết các cảnh giới sai biệt của chúng sanh nơi thế gian đều dùng chánh trí biết như thật. Như lai có năng lực nầy nên biết sự thật.
Trí lực thứ tư: Năng lực trí huệ Như lai biết tất cả tâm hành. Như lai đối với các sự vận hành trong tâm của chúng sanh vô lượng sai biệt đều dùng chánh trí biết được như thật.
Trí lực thứ năm: Năng lực trí huệ như lai biết căn tánh sai biệt của chúng sanh. Như lai đối với căn tánh sai biệt của chúng sanh hoặc đặc thù hay yếu kém đều dùng chánh trí biết như thật.
Trí lực thứ sáu: Năng lực trí huệ như lai biết về thiền định. Như lai đối với các tam muội thiền định giải thoát, nguyên nhơn sanh khởi phiền não vào cách diệt trừ đều biết như thật bằng chánh trí.
Trí lực thứ bảy: Năng lực trí huệ như lai biết về nghiệp báo. Như lai đối với tất cả sự sai biệt về nghiệp và sự tương ưng thọ quả ở đời tương lai dù vô lượng sai biệt nhưng Như lai đều thấy biết như thật bằng chánh trí.
Trí lực thứ tám: năng lực trí huệ Như Lai biết bằng thiên nhãn. Đức Như lai thường dùng thiên nhãn thanh tịnh siêu việt nhục nhãn, thấy xa ở đời vị lai các chúng sanh chết ở đây sanh ra nơi kia, bọn họ thọ thân hoặc tốt xấu, lành dữ, vật chất thọ dụng hoặc đẹp, xấu, tốt, thô, hoặc sanh cõi lành hay sa đường ác, lại thấy chúng sanh tạo nghiệp lành hay dữ, có chúng sanh dẫy đầy ác nghiệp về hành động, lời lẽ, ý chí, hoặc chửi mắng thánh nhân, bài báng chánh pháp, phá hòa hiệp tăng.... đủ các ác nghiệp như thế sau khi chết phải đọa vào đường ác. Lại ngài cùng thấy chúng sanh gây các thiện nghiệp như thế sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời cõi người, các việc như thế đều biết như thật.
Trí lực thứ chín: Năng lực trí huệ biết túc mạng. Như lai dụng trí túc mạng biết về các việc đời trước, ngài biết chúng sanh đây chết kia, hoặc thọ sanh tại một chỗ một lần, hai lần, ba lần, năm hay mười lần, trăm ngàn lần cho đến vô lượng trăm ngàn lần, như thế cho đến vô lượng chuyển kiếp, vô lượng định kiếp, vô lượng chuyển bất chuyển kiếp.... Như Lai đều biết như thật. Lại nữa với nơi họ sanh ra: Chỗ như thế nào, nhà, dòng giống, tên họ tướng mạo, đời sống, ăn mặc, hành động, lành dữ, vui buồn khổ sướng như thế nào chí đến mạng sống bao lâu ngài đều biết hết như thật. Lại nữa sau khi chúng sanh bỏ thân cõi nầy lại sanh nơi khác thân tướng thế nào, lời nói kinh nghiệm, sức sống lâu như thế nào, các việc quá khứ như lai đều thấy biết như thật.
Trí lực thứ mười: Năng lực trí huệ vô lậu. Như lai trí huệ vô lậu. Như lai đã sạch hết các phiền não không còn lậu thất, tâm huệ giải thoát tự đã giác ngộ được các pháp rồi nên cất tiếng tự nói rằng: Đời nay ta đã xong, Phạm hạnh thành tựu, việc nên làm đã làm rồi, không còn thừa sót phiền não để tái sanh. Nầy Hiền Hộ! Như lai đã dứt sạch các lậu tâm huệ giải thoát tự giác các pháp nên mới nói như vậy.
Nầy Hiền Hộ! Như lai đầy đủ cả mười năng lực trí huệ như thế nên ở giữa đại chúng cất tiếng như sư tử rống xoay chuyển bánh xe pháp cao cả vĩ đại mà tất cả thế gian sa môn, bà la môn, thiên phạm thiên, ma, người... không ai có thể chuyển được. Bồ tát cần nên tu học hoàn mãn mười thứ trí lực như vậy.
Nầy Hiền Hộ! Nếu các đại Bồ tát thọ trì, đọc tụng suy gẫm, quán tưởng, tu tập môn tam muội nầy chắc chắn sẽ thu gồm được mười năng lực trí huệ của Như lai.
Đức Thế Tôn mới nói thêm bài kệ để lập lại nghĩa trên cho rõ:
Mười tám pháp giác ngộ bất động
Mười trí huệ lực Phật Phật đồng
Bồ tát tu tập diệu thiền nầy
Tự nhiên thành tựu cả hai món.
Quyển Thứ Tư
Phẩm Thứ Mười Lăm: Công Đức Tùy Hỷ
Khi đó Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát nào thành tựu đủ bốn môn tùy hỷ tức sẽ đắc tam muội Hiện tiền nầy, mau hoàn mãn trí giác vô thượng. Những gì là bốn môn tùy hỷ? Đại Bồ tát nên nghĩ như vầy như tất cả các đấng Như lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác đời quá khứ, khi xưa lúc ngài hành đạo Bồ tát đều nhơn nơi sự tùy hỷ nên đắc tam muội. Do đắc tam muội nên được đa văn, do đa văn nên chóng thành tựu trí giác vô thượng. Giờ đây ta cũng nên theo như vậy, nhơn nơi tùy hỷ đắc tam muội để được đa văn nhờ đó mau thành tựu trí giác vô thượng. Đó là tụ công đức tùy hỷ thứ nhứt của Bồ tát.
Nầy Hiền Hộ! Đại bồ tát lại nghĩ như tất cả đấng Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác đời vị lai lúc hành đạo Bồ tát đều nhơn tùy hỷ đắc tam muội. Do đắc tam muội nên được đa văn, do đa văn nên chóng thành tựu trí giác vô thượng. Giờ đây ta cũng nên hành động như thế sẽ nhơn sự tùy hỷ nầy đắc tam muội được đa văn nhờ đó mau thành tựu trí giác vô thượng bồ đề. Đây là tụ công đức tùy hỷ thứ hai của đại Bồ tát.
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát nên nghĩ hiện tại trong vô lượng vô biên vô số thế giới tất cả các đức Như lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng giác lúc xưa hành đạo Bồ tát cũng nhờ tùy hỷ đắc tam muội, do đắc tam muội nên được đa văn, do đa văn nên hiện đều thành tựu trí giác vô thượng bồ đề. Như ta ngày nay cũng nên tùy hỷ vì để mau chứng bồ đề. Đây là tụ công đức tùy hỷ thứ ba của đại Bồ tát.
Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát nên nghĩ ta đã ngưỡng học theo tất cả ba đời các đức Như lai, các ngài trong thuở xa xưa lúc hành đạo Bồ tát đều nhơn tùy hỷ đắc tam muội, đều nhơn tam muội đắc đa văn, đều nhơn đa văn mà được thành Phật. Giờ đây ta đem công đức tùy hỷ nầy nguyện hướng về tất cả chúng sanh đồng sanh tùy hỷ, đồng đắc tam muội, đồng được đa văn, đồng thành chánh giác. Đây là tụ công đức tùy hỷ thứ tư của đại Bồ tát.
Nầy Hiền Hộ! Lại nữa Bồ tát đã thành tựu tùy hỷ, tam muội, đa văn chóng thành chánh giác như thế, đem cả công đức nầy đều ban cho chúng sanh đồng hồi hướng về vô thượng bồ đề. Công đức như thế thật khó mà đo lường nổi. Giờ đây ta nói, một phần ít cho các ông nghe, ông nên nghe kỹ và khéo nhớ.
Nầy Hiền Hộ! Thí dụ như có kẻ nghĩ mình sống được trăm tuổi, thân hắn nhẹ nhàng khí lực mạnh mẽ đi thon thót khác gì chim bay, kẻ nầy có đủ khả năng đi cùng khắp hết cả một thế giới. Trước tiên hắn đi hết phương Đông, kế đến Nam, Tây, Bắc, bốn gốc, phương trên phương dưới hết cả mười phương không sót nơi nào. Hiền Hộ! Ông nghĩ sao? Giả sử có kẻ hết sức thông minh ra đời giỏi toán số có thể tính được kẻ nầy đi qua những đường xá đất đai xa gần dài ngắn không?
Thưa không thể được!
Có thể so sánh được không?
Thưa không!
Có thể quán sát không?
Thưa không!
Có thể suy nghĩ được không?
Thưa không!
Chỉ mới vừa đi mà đã thế rồi, nếu như kẻ nầy đi trọn trăm năm nhanh chân qua lại khắp cả vô tận thế giới ở mười phương, thì kẻ thông minh có thể dùng toán số để tính ra được không?
Thưa Thế Tôn! Lại còn không thể được vì rằng mới đi một thế giới đã tính không ra đường xá đi qua vắn dài thế nào, thì làm sao tính được kẻ kia đã tận lực đi khắp mười phương vô số thế giới! Những đường sá do tuần trải qua số đó nhiều ít nếu biết được họa may chỉ có một mình Thế Tôn và đại đệ tử Xá Lợi Phất cùng các bậc bất thối đại Bồ tát.
Đúng như thế! Đúng như thế! Hôm nay ta nói cho ông nghe: Nếu có thiện nam thiện nữ nào kính tin đem của cải châu báu chất đầy cả thế giới mà kẻ kia đã đi qua để dùng hiến dâng lên mười phương chư Phật họ sẽ được phước nhiều hay ít?
Hết sức nhiều.
Nhưng thật cũng không bằng một phần ít công đức tùy hỷ tam muội. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Là vì đại Bồ tát tu tập tam muội nầy đã đủ bốn môn tùy hỷ như trên, hồi hướng trí giác vô thượng chỉ vì đa văn thành chánh giác. Do nhơn duyên nầy nên công đức bố thí to tát kia sánh với công đức tùy hỷ trên thật không bằng một phần trăm một phần ngàn, một phần trăm ngàn muôn, một phần ức trăm ngàn cho đến dùng toán số thí dụ cũng không thể được.
Hiền Hộ! Ta nhớ thuở xưa cách đây vô lượng vô biên vô số kiếp về quá khứ, lúc đó có Phật hiệu là Sư Tử Ý Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn hiện ra ở đời. Nầy Hiền Hộ! Vào khi ấy thế giới Diêm phù đề nầy nhân dân đông đúc giàu có sung sướng an ổn thật đáng thích ưa. Diện tích Diêm phù đề rất rộng được một muôn tám ngàn do tuần trong đó số thành phố đô thị làng xóm cũng được một muôn tám ngàn đều làm bằng bảy món báu, chiều ngang chiều dài của thành đều mười hai do tuần. Trong mỗi thành đều có chín mươi ức nóc gia. Tên của thành lớn là Hiền Tác. Trong thành dân số được sáu mươi ức, đây vốn là nơi đức Sư Tử Ý Như Lai sanh ra. Đức Sư Tử Ý Như Lai thuyết pháp trong pháp hội đầu tiên độ được chín mươi ức người chứng quả A la hán. Chín ngày sau lại mở pháp hội thứ hai độ được chín mươi ức người nữa cũng chứng A la hán. Mãn pháp hội thứ hai kế đến pháp hội thứ ba lại độ được chín mươi ức người đắc quả A la hán nữa. Qua ba pháp hội nầy lại có chín mươi ức người đều từ phương khác đến tập hợp hạng người nầy đều là các Bồ tát thanh tịnh. Từ đây về sau đức Phật nầy luôn luôn có vô lượng vô số chúng Thinh văn.
Nầy Hiền Hộ! Khi ấy nhân dân đều thực hành mười nghiệp lành không khác gì đời vị lai đức Phật Di Lặc giáng thế độ cho chúng sanh thành tựu được mười thiện nghiệp. Nhân dân lúc đó đều sống lâu tám muôn bốn ngàn tuổi không khác gì tuổi thọ của nhân dân trong thời Phật Di Lặc. Trong đại thành có một vị Chuyển luân thánh vương tên là Thắng Du trị dân như pháp, ngài có bảy món báu: Báu xe vàng, voi báu, ngựa báu, ngọc ma ni, nữ báu, trưởng giả báu, chúa binh báu. Ngài có đến một ngàn người con thân tướng trang nghiêm oai phong hùng dũng đủ năng lực hàng phục kẻ oán địch. Vua cai trị cả thế giới không dùng đao binh cũng không oai vũ không thu thuế, vật phẩm tự nhiên đầy đủ dồi dào. Vào lúc vua Thắng Du vừa đến chỗ Sư Tử Ý Như lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác ngự làm lễ đầu sát chân ngài rồi lui qua ngồi một bên. Phật Sư Tử Ý biết tấm lòng khát ngưỡng chánh pháp của vua Thắng Du nên lập tức giảng rộng về tam muội Hiện tiền. Vua vừa nghe môn tam muội hết sức vui mừng sanh tâm tùy hỷ đem một nắm ngọc báu cung kính dâng lên Phật. Do nhơn duyên thiện căn tùy hỷ, sau khi vua mất được sanh trở lại cõi Diêm phù đề nầy làm vị vương tử tên là Phạm Đức nối ngôi vua cai tri theo chánh pháp. Sau khi Phật nhập diệt, trong thời chánh pháp có vị tỳ kheo tên là Bảo, vừa thông minh lại siêng năng lúc nào cũng nói kinh điển như thế cho bổn chúng nghe. Vua Phạm Đức được nghe về môn tam muội từ vị tỳ kheo nầy được đức tin sâu dầy sanh lòng tùy hỷ đem chiếc áo cực quý giá trị trăm ngàn trùm lên vị tỳ kheo. Hiền Hộ! Lại nữa vua Phạm Đức nghe vị tỳ kheo nói về tam muội liền phát tâm vô thượng bồ đề, vì quá mến yêu chánh pháp nên lìa bỏ gia đình xuất gia cạo bỏ hết râu tóc mặc áo cà sa. Khi đó cũng có trăm ngàn người đức tin kiên cố theo vua mặc áo pháp để xuất gia, họ cũng chỉ vì kinh tam muội nầy. Tỳ kheo Phạm Đức và trăm ngàn chúng tỳ kheo Bảo, không bao giờ mệt mỏi nhưng không bao giờ đắc được tam muội như thế chỉ trừ nghe được một lần, nghe rồi tùy hỷ, đủ cả bốn công đức tùy hỷ mới hồi hướng về vô thượng bồ đề giống tấm lòng tùy hỷ ban sơ thực hành rộng rãi như thế. Tỳ kheo Phạm Đức và chúng tỳ kheo trăm ngàn người nhờ công đức thiện căn nầy liền được gặp hơn sáu muôn tám ngàn đức Phật, sanh ra chỗ nào cũng được thừa năng lực vì chúng sanh giảng nói tam muội nầy. Lại nhơn thiện căn trên Phạm Đức tỳ kheo gắp thêm sáu muôn tám ngàn đức Phật lần lượt vun trồng các căn lành, đắc tam muội nầy, hoàn mãn các pháp trợ đạo Bồ đề xong liền thành chánh giác dưới danh hiệu là Kiên Cố Dõng Mãnh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu. Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn mà rồi trăm ngàn tỳ kheo đắc tam muội nầy cũng thành tựu pháp trợ đạo sau đó chứng bồ đề hiệu là Kiên Dõng Như lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác lại còn làm cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh an trụ nơi vô thượng Bồ đề.
Nầy Hiền Hộ! Chỉ nghe mà được công đức như thế còn nói gì Bồ tát nghe nhận tam muội đọc tụng nhớ giữ, nói cho kẻ khác nghe lại siêng năng suy gẫm thực hành không đắc quả sao? Hiền Hộ! Vì lý do đó nên các Bồ tát nghe được tam muội nầy không ai là không tùy hỷ đọc tụng thọ trì, tu tập giảng thuyết. Tại sao? Vì Bồ tát nghe tam muội nầy tức thành thục pháp trợ đạo mau chứng chánh giác.
Nầy Hiền Hộ! Do nhơn duyên nầy nên ta bảo ngươi: nếu ai có đức tin chơn chánh, tâm trong sạch mong cầu trí giác vô thượng, trước tiên cần phải chí tâm cầu môn tam muội nầy Bồ tát nếu được nghe trong vòng một trăm do tuần có kinh tam muội sâu xa nầy lập tức khép nép đích thân đi đến nghe kinh nầy, nghe rồi phải liền đọc tụng thọ trì tu tập suy gẫm đem nói ra cho người.
Nầy Hiền Hộ! Nào phải chỉ trong vòng trăm do tuần mới đến nghe thôi, Bồ tát nếu nghe trong vòng hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn do tuần có kinh tam muội nầy hoặc ở trong thành phố thôn xóm lập tức đều cung kính đến nghe, nghe rồi tu tập, thọ trì. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Là vì Bồ tát nầy đức tin trong sạch mong cầu thành tựu vô thượng bồ đề. Thế nên Bồ tát không nên sanh tâm biếng trễ, ỷ lại, tán loạn, nhưng phải phát tâm hăng hái tha thiết môn tam muội nầy mau nhanh chân qua đến nơi cách xa ngàn do tuần dù chỉ để nghe tam muội thôi, còn nói gì đọc tụng, thọ trì, suy gẫm, giảng giải. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Là vì tam muội nầy có khả năng hàm chứa tất cả pháp trợ đạo.
Lại nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát tâm thuần tịnh chỉ vì Bồ đề qua đến nơi cách xa ngàn do tuần để nghe pháp tam muội nầy. Lúc đó Bồ tát cũng nên hầu hạ cúng dường vị pháp sư nói pháp, cung phụng đủ hết mọi vật dụng luôn luôn nên đi theo vị pháp sư học tập trong vòng một năm hai năm, mười, hai chục, trăm năm cho đến trọn đời theo vị pháp sư không xa lìa người, thậm chí chỉ vì mong cầu được nghe về môn tam muội nầy, huống chi là đọc tụng, thọ trì, suy gẫm nghĩa lý, đem nói cho kẻ khác. Lúc Bồ tát theo vị pháp sư nên bỏ hết những dự định trong tự tâm, khi hành động chỉ theo ý vị pháp sư, thận trọng hầu hạ ngài không được trái lời, sanh tâm tôn kính và tâm mến trọng thậm chí coi như là Phật.
Lại nầy Hiền Hộ! Giả sử Bồ tát nầy cần xa vị pháp sư, khi xa nên phải thường thường nhớ đến ơn ngài luôn nghĩ cách đáp trả. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Vì nhơn nơi sự tuyên giảng của vị pháp sư nầy kinh điển mới được tồn tại lâu dài không bị mất mát.
Nầy Hiền Hộ! Nếu có Bồ tát nào thiết tha đến môn tam muội nầy còn nên phải đi qua ngàn do tuần để nghe, nói chi khi có pháp hội giảng về tam muội ở trong vòng đô thành, phố xá, thôn xóm, nơi thanh vắng hoặc trong núi rừng lại không đến để nghe, thọ trì, đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý đem nói lại cho kẻ khác nghe sao?
Lại nầy Hiền Hộ! Ta nay nói cho ông nghe nếu có Bồ tát này vì mong cầu môn tam muội có thể lập tức đi qua trăm do tuần dù không may không được nghe, nhưng nhờ tấc lòng tha thiết cầu bồ đề trong pháp nầy vẫn siêng năng hăng hái không có biếng trễ. Hiền Hộ! Ông nên biết hạng người như thế chắc sẽ được không thối chuyển nơi vô thượng bồ đề, nói chi nếu được nghe thọ trì, đọc tụng, suy gẫm tu tập đem ra nói cho kẻ khác.
Hiền Hộ! Ông nên quan sát hàng Bồ tát nầy nghe tam muội rồi lại đủ sức thọ trì, suy gẫm, tu hành tức được công đức vĩ đại như trên, thậm chí đã mong cầu nhưng không nghe được cũng thu hoạch đầy đủ thiện căn vĩ đại, nếu đă nghe hoặc không được nghe đều đã trụ nơi địa vị bất thối chuyển, cuối cùng thành tựu vô thượng bồ đề, còn nói chi đã nghe lại đọc tụng, thọ trì suy gẫm, tu tập, nói lại cho kẻ khác, và cũng làm cho kẻ khác nghe rồi, đọc tụng thọ trì suy gẫm đem truyền bá rộng rãi ra.
Khi đó Thế Tôn muốn lập lại lời trên mới nói kệ rằng:
Ta nhớ thuở xưa có Như lai
Hiệu Sư Tử Ý thầy trời người
Lúc đó có vua lãnh đạo dân
Đích thân đến Phật cầu tam muội
Đức vua thông minh đã nghe rồi
Hớn hở khắp thân tả không xiết
Hai tay dâng báu cúng dường Phật
Thành kính dân lên Sư Tử Ý
Nội tâm suy gẫm cất lời rằng:
Con nay quy y vô thượng tôn
Vì cả thế gian làm việc lợi
Cúi xin ngài nói tam ma đề.
Khi vua gây tạo nghiệp lành xong
Xả thân sanh lại trong cung nầy
Được gặp tỳ kheo tên là Bảo
Đại đức tiếng vang khắp mười phương.
Khi nghe tỳ kheo khéo nói pháp
Tâm sanh vui mừng khó thể tả,
Liền đem y phục rất quý giá
Trùm lên tỳ kheo vì Bồ đề,
Rồi cùng trăm ngàn chúng xuất gia
Cúng dường hầu hạ tỳ kheo nầy
Trải qua đầy đủ tám ngàn năm
Vì cầu môn tam muộn như thế
Ngài nói một lần không lập lại,
Nghe nhận sâu xa như biển cả
Khi ấy tâm trí không mỏi mệt
Cầu mong như thật thắng tịch thiền
Cả bọn tu hành như thế rồi
Gặp được chư Phật đấng uy hùng
Số đến sáu muôn tám ngàn vị
Khoảng đó cũng nghe tam muội nầy.
Đời kế cúng dường và hầu hạ.
Cũng số sáu muôn tám ngàn Phật
Nghe định sâu xa đều vui mừng
Vì nhờ Như lai Sư Tử Ý
Vua nầy tu hành đầy đủ thế
Cuối cùng thành Phật hiệu Kiên Dõng.
Giáo hóa chúng sanh vô số lượng
Dù ở sinh tử lại ly trần.
Ngàn chúng xuất gia theo đức vua.
Cũng đồng thành Phật hiệu Kiên Dõng.
Tiếng đức vang xa cả mười phương
Nghe tên tam muội chứng chánh giác
Huống gì nói lại cho người nghe
Không còn đắm say thế giới nầy.
Lại gắng công suy gẫm kỹ lưỡng
Tam muội Phật dạy như thế nầy.
Nếu có tam muội cách trăm dặm
Mong cầu Bồ đề qua đó nghe
Ở trong ngôn giáo đừng mỏi mê.
Kẻ nghe công đức không xiết kể.
Dù đã đến nơi lại không nghe
Còn được phước đức đồng như thế
Huống gì nghe rồi nghĩ theo lời
Chỉ gấp mong cầu tam muội nầy.
Nên nhớ đến việc ngài Phạm đức
Gần gũi hầu hạ không nhàm chán
Vị tỳ kheo nào có kinh nầy
Lập tức đến nơi kính cúng dường.
Mười Sáu: Phụng Sự Pháp Sư
Đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Ta nhớ thuở xưa cách đây đã quá vô lượng vô số kiếp về quá khứ có vị Phật ra đời tên là Tất Dà Na Ma Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri đủ cả mười hiệu. Trong thời gian nầy có một vị tỳ kheo tên là Hòa luân sau khi Phật diệt độ ca ngợi diễn giảng kinh tam muội nầy, còn ta lúc đó làm một vị Đại quốc vương dốc lòng chuyên cầu diệu pháp, trong giấc ngủ mơ thấy có tiếng bảo: "Đây là chỗ tam muội" liền tỉnh dậy và đích thân theo chỗ chỉ đi qua đến nơi vị tỳ khoe Hoà luân cầu kinh tam muội, do đó mới xin pháp sư làm lễ xuống tóc xuất gia. Lòng ta tha thiết muốn được nghe về tam muội nên đã đích thân phụng sự Pháp sư Hòa luân trải qua thời gian là ba muôn sáu ngàn năm, nhưng bị chướng thiên ma che lấp nên cũng không nghe được.
Ngay khi đó Phật bảo các tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ:
Nay ta lại nói cho các ông nghe, các ông phải nên mau nghe lănh tam muội vương nầy đừng để chậm trễ cũng như đừng để quên mất, phải hầu hạ pháp sư khéo léo đừng để mất dịp cầu nghe tam muội nầy, kỳ hạn hoặc trong một kiếp hay là thậm chí trăm ngàn kiếp quyết không bao giờ biếng trễ, thì không thế nào là không đắc được tam muội nầy.
Hiền Hộ! Nếu có người dốc lòng cầu tam muội thường theo Pháp sư không xa lìa ngài, những vật cúng dường như thuốc thang, món uống ăn, y phục, giường nệm các vật dụng cho đến tất dả vàng bạc châu báu hể là những gì cần dùng đều hết lòng dâng lên pháp sư không luyến tiếc, như không có thì đi xin để hiến cho ngài, vì đắc tam muội không nên sanh tâm nhàm chán.
Hiền Hộ! Trên đây chỉ là mới cúng dường những vật dụng thông thường, hể nói cầu pháp lúc thầy có cần gì thậm chí phải tự cắt thịt da cơ thể để cúng dường theo như cầu của thầy còn không luyến tiếc huống gì những ngoại vật lại không cung phụng sao? Nầy Hiền Hộ! Phụng sự pháp sư gìn giữ trọn niềm thuận thảo việc đó như trên. Lại nữa khi phụng sự pháp sư không khác gì người ở theo lệnh chủ, quan thờ vua.... hạng người như thế sẽ mau đắc tam muội, đắc rồi nên siêng năng ghi nhớ giữ gìn, lại thường nhớ đến ơn thầy lòng hằng nghĩ cách đáp trả.
Nầy Hiền Hộ! Báu tam muội nầy không phải được nghe dễ dàng giả sử có người bỏ ra hơn trăm ngàn kiếp chỉ cầu nghe tên thôi còn nghe chưa được, nói chi đến việc nghe rồi biên chép đọc tụng, thọ trì, rồi trở lại phân tách giảng giải cho người khác hiểu. Hiền Hộ! Giả sử đem của cải chất đầy các thế giới chư Phật số nhiều như cát sông Hằng để hành hạnh bố thí, phước người nầy hết sức to tát nhưng không bằng công đức chỉ được nghe qua tên kinh thôi.
Rồi đức Thế Tôn nói lên bài kệ lập lại nghĩa trên:
Ta nhớ quá khứ vô lượng đời
Hằng theo pháp sư không tạm lìa
Trải qua thời gian sáu muôn năm
Ban sơ chưa nghe tên tam muội,
Lúc đó có Phật hiệu Chí Thành
Tỳ kheo theo ngài hiệu Hoà Luân
Đến khi Thế Tôn nhập diệt rồi
Tỳ kheo Hòa Luân giảng tam muội
Khi ấy ta là vua thiên hạ
Trong mộng mơ nghe chỗ tam muội
Tỳ kheo Hoà Luân thường giảng nói
Vua nghe nên nhận kinh báu nầy,
Từ mộng tỉnh dậy liền tìm cầu
Khép mình thỉnh ngài giảng tam muội
Xả bỏ ngôi vua để xuất gia,
Cung kính cúng dường không tạm nghỉ,
Qua hết ba muôn sáu ngàn năm
Chỉ nguyện được nghe tam muội nầy
Luôn bị thiên ma đến khuấy nhiễu
Rốt cuộc không sao nghe một lần
Thế nên tỳ kheo tỳ kheo ni
Các cư sĩ nam cư sĩ nữ
Nghe ta lời dạy thành thật nầy:
Các ông hết lòng trì tam muội,
Ai có mong muốn hầu pháp sư
Trải qua một kiếp hay nhiều kiếp
Cúng dường thang thuốc món ăn ngon
Mong cầu nghe được tam muội kinh.
Lại lo rất nhiều y phục tốt
Giường nệm đèn đuốc, các châu báu
Siêng năng như thế không biết mỏi
Chỉ vì mong nghe tam muội nầy,
Tỳ kheo không cần phải xin cúng
Ngay đến thân mạng không tiếc gì
Huống chi ngoại vật lại luyến sao?
Kẻ cầu như vậy đắc tam muội.
Mang ân thường nhớ để đáp ân
Kẻ trí nghe rồi nên phổ biến
Ức Na do tha kiếp ròng rã cầu
Diệu tam muội này giờ mới nghe
Giả sử thế giới như Hằng sa
Chất đầy của cải hành bố thí,
Kẻ nói được kinh chỉ một kệ
Phước họ còn hơn kẻ trên kia
Kẻ nói ra được một bài kệ
Hơn cả phước na do tha kiếp
Huống gì nghe rồi lại truyền bá
Công đức người nầy tả không xiết
Nếu ai thích hành đạo Bồ đề
Nên vì chúng sanh cầu pháp nầy
Nghe rồi an trụ trong tam muội
Chắc thành chánh giác vô thượng đạo.
Quyển Thứ Tư
Phẩm Thứ Mười Bảy: Chúc Lụy
Thế Tôn lại bảo Bồ tát Hiền Hộ:
Nầy Hiền Hộ! Thế nên các thiện nam thiện nữ có đức tin trong sạch nên siêng năng tinh chuyên nghe tam muội nầy, đã nghe rồi nên lãnh thọ đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý vì cả thế gian phân tách giảng giải cho họ, nên biên chép kỹ lưỡng để trong kho tàng. Tại sao vậy? Nầy Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ, trong đời tương lai sẽ có hàng đại Bồ tát đức tin trong sạch vì các chúng sanh nên cầu sự học rộng nghe nhiều, vì sự mong cầu nầy nên đi khắp các nơi để nghe nhận chánh pháp.
Nầy Hiền Hộ! Thế nên các thiện nam thiện nữ như có kẻ có lòng ưa thích, kẻ đầy đủ đức tin kẻ gìn giữ chánh pháp, kẻ mến yêu chánh pháp, kẻ tổng trì kinh điển... nên vì các kẻ ấy giảng nói cho họ. Nương theo thần lực của Như lai biên chép kinh đại thừa như vậy rồi dùng Như lai ấn phong nó lại sau đó đem an trí trong hộp để vào kho. Nầy Hiền Hộ! Thế nào là Như lai ấn? Đó là: Tất cả các hành không tạo tác, không tướng, không tưởng, không y, không nhiếp, không thủ không trụ, tất cả hành hết, khổ nhơn hết, hữu hết, tất cả phiền não hết... không sanh, không diệt, không đạo, không đạo quả, tất cả các thánh không bao giờ che giấu, kẻ trí ca ngợi, người khôn ngoan thọ nhận được.
Lúc Như lai nói kinh nầy có vô lượng chúng sanh đều vun trồng căn lành nơi vô thượng bồ đề có vô lượng vô số đại Bồ tát ở các thế giới Phật số nhiều như cát sông Hằng, các vị nầy đều từ thế giới mình qua đây cũng vì để được nghe kinh tam muội, các ngài đắc bất thối chuyển nơi vô thượng bồ đề cả ba ngàn đại thiên thế giới khắp mặt đất đều chấn động sáu cách: động, đại động, đẳng biến động, dũng, đại dũng, đẳng biến dũng, khởi, đại khởi, đẳng biến khởi, chấn, đại chấn, đẳng biến chấn, hống, đại hống, đẳng biến hống, giác, đại giác, đẳng biến giác, thậm chí hết tưng nhảy bên kia lại tưng nhảy bên đây, cả thế giới đều chấn động như vậy.
Khi ấy Thế Tôn mới bảo tôn giả Ca Diếp, Tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả A Nan, Bồ tát Hiền Hộ, chánh Ly Xa Bảo Đức, phú hộ Đại Thiện, con ông phú hộ chàng Tinh Đức, phú hộ Vi Đức Ma Nạp, phú hộ Thủy Tiên v.v... năm trăm người và các vị trời, người đời, bốn bộ chúng v.v... rằng:
Nầy Ca Diếp! Giờ đây ta đem pháp ba đại vô số kiếp tu thành vô thượng chánh đẳng chánh giác giao phó cho các ông, các nghĩa lý như thế cả thế gian không có khả năng tin nhận được. Tại sao? Vì kinh điển do đức Như Lai nói ra hết sức vi diệu sâu xa đệ nhứt trong đời, đương lai sẽ đem lại cho chúng sanh vô thượng Bồ đề. Vì vậy ta ân cần phó chúc cho ông, ông nên nghe và nhận lãnh, ông nên đọc tụng suy gẫm, tu hành, đem ra truyền bá, giảng giải, giải thích, phổ biến rộng rãi đừng để mất mát.
Lại nầy A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nào mong muốn tu tập kinh tam muội nầy, muốn đọc tụng, thọ trì, suy gẫm, khai thị, giảng nói, rồi lại làm cho kẻ khác sanh đức tin chơn chánh phát tâm đọc tụng, thọ trì, suy gẫm, khai thị, giảng nói, ta nay vì họ an trụ đại thừa cho thiện nam thiện nữ đã được khai thị rồi nên học như thế, thường phải ghi nhớ ta có lời dạy bảo như vậy.
Khi đức Thế tôn nói xong kinh nầy, tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, đại Mục Kiền Liên, A Nan và tất cả đại thinh văn khác cùng Hiền Hộ, Bảo đức, phú hộ Tinh Đức, Vi Đức, Thủy Tiên v.v...năm trăm cư sĩ nam và các đại Bồ tát từ mười phương thế giới Phật khác đến đây, cho đến tất cả trời, rồng, quỷ thần, nhân, phi nhân v.v... nghe Như Lai dạy đều hết sức vui mừng theo lời dạy tu hành.
(Bhayabheravasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Đối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Đối với những vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Đối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Tôn giả Gotama.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của họ. Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Ta.
– Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.
– Này Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: “Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định!” Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có ý nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có mạng sống không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước mạng sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục, có ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có tham dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta có từ tâm như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không có hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động, tâm không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi hoặc, do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một trong những bậc Thánh không có khen mình, không có chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ hãi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có run rẩy, sợ hãi, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc dựng ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng ngược như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một trong những bậc Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước biếng nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu định tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu định tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước liệt tuệ, đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy”. Này Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!”. Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy”. Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.
Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: “Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: “Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”. Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được khinh an, không có dao động, tâm được định tĩnh, chuyên nhất. Này Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Diệt tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: “Đây là khổ”, thắng tri như thật: “Đây là nguyên nhân của khổ”, thắng tri như thật: “Đây là khổ diệt”, thắng tri như thật: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”, thắng tri như thật: “Đây là những lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Đây là nguyên nhân các lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Đây là các lậu hoặc diệt”, thắng tri như thật: “Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt”. Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật nhiệt tâm tinh cần.
Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: “Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.
– Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
KINH SỢ HÃI VÀ KHIẾP ĐẢM, THỨ TƯ HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________
>>> 3.Kinh thừa tự pháp
Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp
Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng
Hiệu đính: Thiện Thuận
Lời tựa
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Nếu chúng ta không giải thích kinh thì khác gì kể chuyện, chẳng có ý nghĩa gì. Vì thế, chúng ta biết phát huy ý nghĩa trong kinh, hoặc phát huy kiến giải của mình theo ý nghĩa trong kinh thì càng thú vị vô cùng. Quyển sách này tuy nói giải thích rộng, nhưng thực ra vẫn là giải thích một ít mà thôi. Mỗi câu, mỗi chữ trong kinh Phật mang ý nghĩa sâu sắc vô cùng, huống chi một câu chuyện.
Sự có khả năng hiển bày lý, lý phải dẫn chứng từ sự; cho nên lý sự phải dung hòa. Có người chấp sự bỏ lý, có người chấp lý bỏ sự, đều có thiên lệch. Nói về lý luận phải là bậc căn khí thượng đẳng và trí huệ kiệt xuất mới tiếp nhận được, còn người bình thường phải dẫn chứng tường tận họ mới thấu hiểu, mà còn làm cho họ hứng thú khi nghe pháp.
Nguồn gốc chuyện giải thích kinh đầy đủ sự lý có thể làm tư liệu giảng nói cho mọi người, cũng có thể trở thành đề tài kể chuyện cho trẻ con. Thế nhưng, kiến thức của tác giả còn nông cạn, văn chương vụng về, chưa lột tả hết ý nghĩa sâu xa trong kinh. Chúng tôi hy vọng độc giả hãy phát huy trí huệ biện tài của mình, nếu càng phát huy chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu rộng. Nội dung trong lời bình chắc chắn chưa được thỏa đáng, kính mong các vị đại đức trong mười phương dành ít thời gian chỉ dạy.
Đôi nét về Pháp Sư Thánh Pháp
Pháp sư sinh năm 1922 ở huyện Chương Hoá, Đài Loan.
Năm 1945, Pháp sư xuất gia đầu Phật với trưởng lão Vô Thượng ở chùa Linh Ẩn, Tân Trúc.
Năm 1953, Pháp sư tốt nghiệp khoá đầu tiên tại Phật Học Viện Linh Ẩn, Tân Trúc.
Năm 1955, Pháp sư thọ giới cụ túc ở chùa Bảo Giác, Đài Trung.
Năm 1956, Pháp sư khai sáng chùa Từ Quang ở Đài Bắc.
Năm 1970, Pháp sư đăng cơ trụ trì chùa Linh Ẩn ở Tân Trúc.
Năm 1973, Pháp sư khai sáng chùa Từ Liên ở Liên Hoa.
Năm 1981, toàn tỉnh tổ chức hội nghị hoằng pháp Phật học; đồng thời, tiến hành nghiên cứu học tập Phật pháp và hoằng dương Phật pháp đến các quốc gia ở vùng Đông Nam Á.
Năm 1982, Pháp sư chủ biên tạp chí “Pháp Hải Điểm Tích” và nguyệt san Pháp Nhĩ.
Năm 1990, Pháp sư làm lý sự trưởng hội Phật Giáo Liên Hoa khoá thứ tư.
Năm 2001, Pháp sư thành lập Phật Học Viện Từ Quang.
Ngày 24 tháng 3 năm 2007, Pháp sư độ sinh viên mãn, ngài thị tịch ở chùa Từ Quang, Đài Bắc, hưởng thọ 86 tuổi.
KINHBÁCH DỤ
Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp
Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng
Hiệu đính: Thiện Thuận
Chuyện 1
Người ngu ăn muối
Thuở xưa, có một người ngu. Một hôm, hắn đi thăm người bà con ở rất xa. Đến nơi, chủ nhà đón tiếp hắn rất ân cần niềm nở, lại còn nấu những món ăn ngon để tiếp đãi; nhưng khi nấu thức ăn, chủ nhà quên nêm muối nên các món ăn đều bị lạt. Hắn vừa nếm liền nói với chủ nhà:
- Hôm nay, anh nấu thức ăn đều là những món đắt tiền, tiếc là hơi lạt nên mất ngon.
Chủ nhà vội vã đáp:
- Ồ, xin lỗi! Tôi quên nêm muối.
Chủ nhà liền xuống bếp đem muối lên nêm vào các món ăn rồi trộn đều; sau đó mời khách nếm thử, mỗi món ăn đều rất vừa miệng, ngon tuyệt vời. Hắn hỏi chủ nhà:
- Anh nêm thứ gì mà làm cho thức ăn ngon tuyệt vời thế?
Chủ nhà đáp:
- Tôi nêm muối.
Muối là gia vị chính trong các loại gia vị, cho nên nó làm cho thức ăn ngon. Hắn nghĩ: “Muối là món ăn ngon, khi trở về ta mua muối ăn ngon hơn, khỏi phải nấu nhiều món ăn”. Vì thế, trên đường về hắn mua một bao muối, vừa về đến nhà hắn vội vàng mở ra, bốc một nắm bỏ vào miệng. Chao ôi! Mặn chát không chịu nổi. Hắn cho rằng mình bị người bà con chơi xỏ.
Bài học đạo lý
Kính thưa các vị! Mỗi người ở thế gian đều có trí thức của riêng mình, trí thức cũng có sâu cạn chẳng đồng; nó là vũ khí cải tạo mình và làm lợi ích cho người khác. Nếu như chúng ta dùng trí thức không thích hợp thì có thể tự hại mình và nguy hiểm cho xã hội, còn như biết dung hòathì mới có thể phát huy hiệu lực và tác dụng; giống như thuốc hay mà uống không đúng bệnh thì biến thành thuốc độc.
Thí dụ này muốn nói đến người luôn thích ăn ngon và người keo kiệt không dám ăn, cả hai đều ăn uống không điều độ; chủ nghĩa hưởng thụ quá mức và khổ hạnh đều không cân bằng cuộc sống. Muôn sự ở thế gian cần phải ở mức độ vừa phải; nếu quá mức hoặc quá thấp thì có thể làm hỏng sự việc. Ví dụ, những người làm việc thiếu trách nhiệm có thể đời này họ không làm nên được gì; nhưng nếu có người chạy theo danh lợi không biết chán thì cũng gây nên sự tranh chấp, tính toán mà tạo thành ác nghiệp; hoặc có người cả đời bôn ba xuôi ngược luôn bị phiền não trói buộc, cho đến nhiều đời nhiều kiếp trôi lăn trong luân hồi không dứt.
Trong thế gian làm việc phải thích hợp thì lập nghiệp mới thành công. Dùng vật thích hợp mọi việc đều tốt đẹp, dùng người đúng việc thì họ đem hết tài năng ra phục vụ. Có thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì mọi việc đều thông suốt; nếu không thì việc gì cũng gặp chướng ngại. Sự vật ở thế gian đều phải dựa vào trí huệ của chính mình để vận dụng. Vì thế, Phật giáo là tôn giáo trí huệ, từ văn, tư, tu để chứng đắc. Nếu người biết tu hành thì nhiều đời kiếp hưởng phước báo chẳng hết.
Thưở xưa, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong thời kỳ tu nhân có nghe người đọc nửa bài kệ: “Các hành vô thường là pháp sinh diệt…” như được của báu, Ngài liền xả thân để đi cầu pháp, nhờ đó mà thành Phật. Ngày nay, mọi người lại đem ba tạng kinh điển làm học vấn nghiên cứu, đọc nhiều mà không chịu thực hành, không nương theo pháp để tu; do đó, nói hưởng nhiều châu báu mà không được lợi ích của Phật pháp.
Các vị Tổ sư trong Thiền tông thường dùng một lời hay nửa câu để khai ngộ trí huệ cho người tham học. Có người suốt đời ở trong thiền đường, vùi đầu trong kinh điển tham cứu. Vì sao họ không khai ngộ được? Cơ duyên, thiện căn, trí huệ, đối cơ, đối pháp, gặp duyên thì ứng; nếu không thì uổng phí công phu tu tập biết bao mà chẳng được gì. Cho nên, người thật tu dù hiểu một chút Phật pháp vẫn có thể được lợi ích, nhưng người không có căn lành, không duyên phận thì dù hiểu nhiều cũng chẳng được gì.
Có những người phạm pháp nói: “Một cân đức hạnh đáng giá bao nhiêu tiền?”. Họ cho rằng đạo đức, lương thiện không đáng một đồng xu. Nhưng đối với người tu hành mà nói thì đức hạnh là của báu vô thượng; giống như một đồ vật, có người xem như bảo bối, có người coi như cỏ rác; đây chính là cách nhìn của mỗi người có tác dụng hay không. Giống như những người tín ngưỡng Phật giáo nói: “Hiện nay, tôi không rảnh niệm Phật, cũng không có thời gian để tu hành; đợi con cái trưởng thành, tôi sẽ nỗ lực tu cũng không muộn”.
Một ngày hai mươi bốn giờ, thật sự chúng ta không rảnh một chút hay sao? Có phải chúng ta luôn nghĩ đến danh lợi đầy ắp trong đầu, thì làm sao rảnh rang được! Người có tín tâm lấy Phật pháp làm của báu, người không có tín tâm xem Phật pháp làm trò tiêu khiển khi nhàn rỗi. Chúng ta có tu hành Phật pháp được hay không chính là chỗ này. Người có khả năng tu hành dù một chút cũng làm của quý, người không biết tu hành thì nghe nhiều lại trở thành sở tri chướng. Vì thế, chúng ta học Phật phải chuyển pháp luân, đừng bị pháp chuyển. Căn bản ý nghĩa câu chuyện là ở đây.
Chuyện 2
Chứa sữa trong bụng bò
Ngày xưa, có một người rất hiếu khách. Một hôm, hắn muốn mở tiệc chiêu đãi, nên mời rất nhiều người bà con, bạn bè và những khách quý có danh tiếng ở địa phương đến dự tiệc. Khi ấy ở địa phương này sữa là thực phẩm cao cấp, chủ nhà đã mời rất nhiều khách, tất nhiên phải có nhiều sữa để thết đãi. Nhưng tìm đâu ra có nhiều sữa như thế? Do đó, hắn nghĩ ra một cách là chứa nhiều sữa trong bụng bò. Nghĩ thế, người này liền bắt bò mẹ và bò nghé nhốt riêng để bò nghé không bú sữa mẹ; hắn cũng cắt cỏ non về cho bò mẹ ăn, để được có nhiều sữa.
Đến ngày đãi tiệc khách đến rất đông, hắn dắt tất cả bò mẹ ra. Hắn muốn vắt sữa ngay tại chỗ để mời khách, nhưng hắn vắt đi vắt lại vẫn không chảy ra một giọt sữa. Có rất nhiều khách nhìn thấy sự việc này, đợi mãi họ sốt ruột ùn ùn kéo nhau ra về. Có người tức giận nói:
- Anh mời khách đến đây làm gì, rõ là bỏ đói mọi người, để làm trò đùa.
Kì thật, hắn muốn làm cho mọi người cảm tình và khoe khoang sự giàu sang của mình; nhưng trái lại làm cho mọi người oán trách, hắn mất đi thể diện quá nhiều.
Bài học đạo lý
Khi nhân loại còn sống trong hang, lúc đói bụng họ mới đi tìm thức ăn; dần dần về sau mới có chế độ gia đình, mọi người bắt đầu biết để dành thức ăn là vì “trời nắng chứa lúa gạo, để trời mưa có ăn”. Lúc đầu, con người chỉ tích chứa lương thực cho mùa mưa. Sau đó, tâm tham nổi lên, dần dần cất chứa càng nhiều, lương thực thiên nhiên tất nhiên không đủ để phân phối, nên họ nghĩ ra cách săn bắt chim thú. Về sau, nhà vua chỉ dạy mọi người trồng trọt cho đến ngày hôm nay, nhân loại càng văn minh thì lòng tham con người càng không đáy.
Việc cất chứa vốn là tri thức tiến bộ của nhân loại, nhưng cất chứa bất hợp pháp cũng trở thành kẻ ngu, hoặc dẫn đến tội ác trong thoáng chốc. Ví dụ, thời xưa cất chứa trái cây trải qua vài ngày thì nó trở thành hôi thối, thịt thú vật để lâu cũng bị sình lên, sinh giòi ô nhiễm chịu không nổi; chẳng những con người tàn sát thú vật mà còn tạo thành nguyên nhân hai bên đánh nhau giành thức ăn.
Có người thường nói: “Đợi khi có tiền, tôi sẽ bố thí làm từ thiện”. Nhưng bố thí không bắt buộc chúng ta phải có tiền mà nên đem tri thức, học vấn, sức khoẻ, năng lực của mình bất cứ lúc nào cũng có thể giúp mọi người khi cần; đâu phải cầm tiền cho người, cũng không nhất định để dành đủ tiền mới đem ra bố thí. Bố thí ở tấm lòng thương xót, thông cảm, sẻ chia với mọi người; thậm chí tâm cung kính đối với mọi người. Nếu người có tâm như vậy là tùy tâm, tùy lực mà bố thí thì công đức vô lượng. Nếu chúng ta không làm được như vậy thì không gọi tùy duyên bố thí.
Muôn sự ở thế gian đặc biệt là của cải, cần phải sử dụng hợp lúc, hợp nơi, hợp người thì mới có thể thông suốt mọi việc. Nếu chúng ta sử dụng không thích hợp thì ở đâu cũng tạo nghiệp, đánh nhau, kết oán, bị mọi người chán ghét; lại còn chuốc lấy nguyên nhân tai họa và khổ não. Chúng ta kết oán nhiều đời nhiều kiếp, luân hồi không dứt cũng bắt đầu do đây.
Cất chứa là bước khởi đầu văn minh và tri thức tiến hóa của nhân loại. Cá nhân mỗi người dành dụm là để phòng thân khi ốm đau hay lụt lội, thiên tai, khốn khổ đem ra sử dụng. Gia đình dành dụm của cải là để “nuôi con để dưỡng già; chứa gạo phòng khi đói”. Nhưng“con người sống không quá một trăm năm, thường lo lắng đến nghìn năm”. Chúng ta muốn dành dụm tiền của để lại cho con cháu nhiều đời, vô tình lại tiếp tay hại con cháu, bọn chúng quen ăn sung mặc sướng, lười lao động; hoặc có sẵn tiền đi cờ bạc, nhậu nhẹt trở thành hư đốn. Quốc gia cất chứa lương thực là để nuôi binh lính, mua ngựa, chuẩn bị dùng khi chiến tranh xảy ra; nhưng càng tích lũy nhiều càng đưa đến việc không hay là: “Con người khi no ấm thì nghĩ tới chuyện sinh hoạt tình dục”. Tích góp nhiều sinh ra cờ bạc, rượu chè, ăn chơi ắt có một phần của nó. Hoặc tích chứa quá nhiều, cuộc sống con người quá đầy đủ sẽ đưa đến lười biếng, kiêu ngạo, ỷ thế giàu sang gạt gẫm mọi người. Có tiền kết nhiều bạn bè nhậu nhẹt, lại khích động lòng tham bất chính của con người. Có người muốn kiếm chác. Có người muốn ăn cắp. Có người muốn lừa gạt. Có người muốn chiếm lấy. Có người muốn chia chác. Tất cả mọi người đều muốn cái lợi về mình, tất nhiên chuyện phải trái đều xảy ra. Việc này họa hay phúc? Đều có nhân duyên thôi.
Cổ đức nói: “Dành dụm của cải để lại cho con cháu chưa chắc gì chúng nó được hưởng; làm thiện được ghi công vào sử sách để lại con cháu chưa chắc gì chúng nó đọc; chi bằng tích đức để cho con cháu, làm cho chúng được giàu sang”. Hoặc nói: “Cho con nhiều của cải, không bằng dạy con một nghề”. Có người nói: “Con cháu tự có phúc của nó, đừng thay nó làm trâu ngựa”. Vì thế, chúng ta dành dụm của cải để lại cho con cháu là việc làm vô cùng ngu ngốc. Nếu như chúng ta tích đức, làm thiện mới là tài sản vô hình để lại cho mình và con cháu; còn như chúng ta ra sức tu hành, vun bồi trí huệ, nuôi dưỡng công đức, tu thiền định; như thế là gần thành Phật và giải thoát sinh tử.
Qua câu chuyện này, bất luận là nhà khoa học, triết học, tôn giáo học, y học, hay nhà chính trị, quân sự v.v…đều giúp bổ ích bài học tích lũy tri thức và kinh nghiệm của rất nhiều người. Nếu chúng ta biết vận dụng thích hợp, dù tốn rất ít thời gian, nhưng được rất nhiều kinh nghiệm và tri thức, đem sự lợi ích cho nhân loại rất nhiều; còn như chúng ta ứng dụng không thích hợp thì tri thức càng cao hại người càng nhiều. Cho nên, mỗi việc ở thế gian đều có hai mặt lợi và hại, chỉ cần chúng ta khéo vận dụng thì lợi và hại khác nhau một trời một vực.
Chuyện 3
Ôm đầu chịu trận
Thuở xưa có một người bị bệnh đầu sài, người nhà mua cho hắn một cái mũ đẹp sặc sỡ để hắn đội che mụt ghẻ lở. Một hôm, có gã bán trái lê nói với hắn:
- Này! Anh hãy để tôi ném trái lê vào mũ anh, cho dù ném bao nhiêu trái nhưng đều cho anh hết được không?
Hắn đáp:
- Được! Tôi đứng ở đằng xa, nếu anh ném trúng mũ của tôi thì tôi đưa mũ cho anh; còn ném không trúng tôi lấy hết trái lê của anh.
- Nếu tôi ném trúng đầu anh thì sao?
- Cũng không sao cả.
- Rất tốt! Lời nói như đinh đóng cột nhé!
Gã bán lê đứng đằng xa ngắm ngay chiếc mũ của tên đầu sài mà ném. Lúc đầu, gã ném được mấy trái nhưng đều không trúng. Khi tên đầu sài cúi xuống nhặt trái lê thì ngay lúc đó bị gã ném trúng. Hắn vẫn ngoan cố bất chấp, chỉ quyết nhặt trái lê cho bằng được; cho dù đầu hắn bị ném trúng mấy lần, máu chảy lênh láng cũng chẳng màng tới, mục tiêu của hắn là những trái lê. Cuối cùng, chẳng những hắn thua độ mất chiếc mũ đẹp mà chiếc đầu sài bị đau đớn chịu không nổi, chỉ vì được mấy trái lê.
Bài học đạo lý
Người xưa nói: “Tham thì thâm” chẳng sai tí nào. Con người chúng ta đều mắc bệnh chứng tham vặt. Nói ví dụ, người bình thường đến ngày lễ hay ngày tết đều có phong tục đi biếu quà cáp; nếu như chỉ là tình cảm bạn bè qua lại hai bên thì không có vấn đề gì. Nhưng sự kết bạn vì có ý đồ vụ lợi người khác, hoặc vì kinh doanh mua bán, hay tặng quà cáp cho những cơ quan, xí nghiệp thì người nhận quà sẽ chịu thiệt thòi rất lớn. Chúng ta biết rõ là họ thả mồi, thả con tép bắt con tôm; đây là những người thiếu lý trí để chọn lựa. Chúng ta có biện pháp gì không?
Chúng ta biết U, Lệ, Kiệt, Trụ là những ông vua thời xưa, vì tham đắm sắc đẹp mà vô đạo; chẳng những họ mất đi giang sơn, mà còn làm cho nhiều trung thần và nhân dân chịu tai họa, ngay bản thân họ cũng để lại tiếng xấu cho muôn đời sau. Ví dụ này, chẳng phải vì ham việc nhỏ mà hỏng việc lớn hay sao?
Ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta vì tham chút danh lợi mà tính toán tranh đoạt với mọi người; hoặc bán rẻ nhân cách và đạo đức; hoặc tạo rất nhiều ác nghiệp, nhưng lại hưởng được chẳng bao nhiêu, khiến trải qua nhiều đời kiếp chịu khổ báo vô cùng. Có đáng làm không? Cổ đức dạy: “Giang sơn muôn dặm, ăn ngày ba bữa”. Hoặc: “Nhà rộng nghìn phòng, đêm ngủ hai thước”. Nhưng khi chúng ta chạy theo giang sơn muôn dặm và nhà lớn nghìn phòng này phải trả giá biết bao nhiêu tâm huyết và tạo bao nhiêu ác nghiệp, lại kết oán thù biết bao nhiêu người. Chúng ta biết không? Nếu như vì hạnh phúc nhiều người trong xã hội, chúng ta trả giá bao nhiêu cũng xứng đáng; còn vì bản thân chúng ta thì hãy nghĩ đến tương lai nhiều đời nhiều kiếp mà tu nhân tích đức.
Mỗi ngày trên các trang báo đều đưa tin trộm cướp, giết hại, lừa gạt, tham ô, đánh ghen v.v… xảy ra hàng ngày. “Lưới pháp luật lồng lộng, tuy rộng nhưng khó mà thoát”. Ai là người có thể trốn thoát sự trừng phạt của pháp luật? Vì sao người thế gian có tầm nhìn hẹp hòi như thế? Vì họ tham việc nhỏ mà bỏ việc lớn.
Đời người vốn rất ngắn ngủi, nên nói: “Sống chưa đến một trăm năm mà thường lo nghìn tuổi”. Chúng ta chi tiêu tiết kiệm để phòng khi có việc cần, nếu như còn dư thì làm từ thiện xã hội cũng là tích đức cho tương lai. Tại sao cứ khăng khăng tích lũy mầm tai họa cho mình và con cháu. Linh hồn của con người và muôn vật dùng ở đâu mới đúng?
Có người nói: “Hôm nay có rượu uống say; chớ đợi qua ngày ngồi ngáp ly không”. Khi bạn sống say chết mộng, mơ mơ màng màng đi vào cung điện Diêm Vương cũng không biết; đến khi vua phán xử bạn đi đầu thai làm thân trâu, ngựa, heo, chó thì mới hối hận hay sao? Vậy bạn uống rượu có tốt không? Hay uống nước đồng sôi, nuốt hòn sắt nóng? Đương nhiên uống rượu cũng không nhất định làm ác. Nhưng tiền tài, rượu ngon, sắc đẹp làm mê muội con người, bạn nắm chắc mình chống cự được mấy phần trăm? Bằng không bạn nên tu học Phật pháp, hiểu rõ nhân quả trước sau. Nếu bạn không nỗ lực tu hành thì có người nào thoát được mê hồn trận?
“Đời người như giấc mộng”. Nếu như chúng ta tranh thủ thời gian tu học, mặc dù ngắn ngủi nhưng vẫn tu học được pháp xuất thế, thoát khỏi sinh tử; lại vun trồng các công đức, làm cho nhiều đời nhiều kiếp sống an vui. Dẫu cho ngắn ngủi nhưng cũng có giá trị và ý nghĩa cuộc sống vô cùng. Nếu như bạn cứ “sống say chết mộng”. Hoặc gây nhân khổ báo vào đời sau thì một khi mất thân người muôn kiếp khó lại được; bạn sẽ không có cơ hội tu hành được nữa. Tham việc nhỏ mà hỏng việc lớn; hoặc nương việc nhỏ mà thành việc lớn, chỉ khác nhau có một chữ (cách nhau một niệm thiện ác). Quả báo khác nhau một trời một vực.
Chuyện 4
Đáng đời vợ ngu giả chết
Xưa kia có một chàng trai cưới được cô vợ rất xinh đẹp, anh ta rất thương yêu và chiều chuộng vợ; nhưng cô ả thương yêu chồng không thật lòng vì ả ngoại tình. Vì thế, cho dù anh ta thương yêu, chiều chuộng cỡ nào, nhưng ả vẫn không hài lòng.
Ban đầu cô ả và gã tình nhân lén lút qua lại, nhưng thời gian gần nhau quá ngắn làm họ cảm thấy không được thỏa mãn với giây phút bên nhau.
Một hôm, người chồng đi buôn bán rất xa. Cô ả cho rằng đây là cơ hội rất tốt, cùng người tình xa chạy cao bay; nhưng ả sợ người chồng về tìm không thấy, truy tìm sự việc thì biết phải làm sao. Vì thế, ả bàn tính với người hàng xóm: “Sau khi tôi đi, bà hãy tìm dùm một tử thi phụ nữ để thay tôi, nói dối chồng tôi là vợ anh đã chết”.
Trải qua thời gian không lâu, người chồng trở về. Bà hàng xóm làm theo lời ả dặn, khuyên can: “Vợ của anh đã chết rồi, anh đừng đau buồn quá, cuộc đời là vậy!” Quả nhiên, người chồng tin thật chẳng chút nghi ngờ, đau đớn khóc kể rất lâu, mới lo hậu sự cho vợ. Anh ta đem thi hài hỏa táng, rồi nhặt hài cốt đựng trong hũ mang theo bên mình, để bày tỏ sự chung thủy.
Cô ả đi theo tình nhân bôn ba xuôi ngược ở không cố định, chịu bao cực khổ thiếu thốn. Gã tình nhân thỏa mãn dục vọng đâm ra chán chê ả. Do đó, ả hối hận, lặng lẽ trở về nhà đến trước chồng nói:
- Thiếp chính là vợ yêu của chàng.
Người chồng nói:
- Vợ tôi đã chết rồi.
- Đó là thiếp giả chết, thi hài này là của người khác.
- Tôi không tin, vợ của tôi rõ ràng đã chết rồi, chính tôi lo hậu sự cho nàng. Làm sao có chuyện tử thi người khác được? Đừng gạt tôi, cô hãy đi đi.
Bất luận cô ả cầu xin, giải thích như thế nào, anh ta vẫn không chịu tin, vẫn giữ vững lập trường của mình. Cuối cùng hai người cãi nhau ồn ào, cô ả đành gạt lệ ra đi.
Bài học đạo lý
Con người là tối linh trong muôn vật, có lý trí, có tình cảm, lại còn có đạo đức, có lương tâm; nhưng cũng rất gian xảo, dối trá và tàn nhẫn. Vì sao? Bởi vì từ vô thỉ đến nay họ luân hồi trong sáu đường, tiêm nhiễm tính thiện, lý trí và đạo đức thì rất ít; nhưng thói xấu gian trá, tàn nhẫn, tính ác lại rất sâu nặng. Chúng ta trồng nhân gì thì gặt quả ấy, cho nên có sự khác biệt giữa gian trá và lương thiện.
Thế gian có đúng-sai, tà-chính, công có công lý; bị cáo, nguyên cáo ở tòa án đều có lý nhất định. Tất cả mọi việc đều y theo pháp luật mà xử cho công bằng chính trực; chúng ta dựa theo công lý mới có thể xét xử sự việc đúng hay sai. Cho nên mọi việc đều có công lý và chân lý, nếu không thì thế giới này nổi loạn; người, trời trong sáu đường cũng trở thành luận bàn suông.
Nhưng kiến chấp vẫn là chứng bệnh nặng nhất của nhân loại; bất luận là người thông minh hay kẻ ngu si không có tài năng đều có kiến chấp, họ khăng khăng cố chấp đến chết vẫn không chịu mình sai. Trái lại họ còn nói: “Nếu tôi không có kiến chấp thì bị người khác sai khiến, lợi dụng và không có lập trường của mình”. Họ làm việc thì do dự không quyết định. Gió đông thổi đến thì ngã bên tây, gió tây thổi đến thì ngã bên đông. Làm sao tài giỏi được?
Đức Phật dạy: Có bốn thứ y theo:
1. Y theo pháp chẳng y theo người.
2. Y theo trí chứ chẳng y theo thức.
3. Y theo nghĩa chứ không y theo ngôn ngữ.
4. Y theo kinh Liễu nghĩa chẳng Y theo kinh Bất liễu nghĩa.
Lời bậc thánh nói chắc chắn lợi ích cho thiên hạ Ngài mới nói, cho nên lời nói không có dối gạt, không có sai lầm. Nhưng người bình thường nói thì rất khó tin, vì lời họ nói ra bao nhiêu đi nữa đều có xen lẫn sự khoe khoang và danh lợi. Vả lại trí thức cũng có giới hạn, cho nên phần đông mọi người y theo người mà không y theo pháp. Đức Phật là bậc thánh đứng đầu, pháp Ngài nói ra không có sai lầm.
Theo trí chứ chẳng dựa vào thức. Vì thức chỉ là biểu hiện những điều thấy nghe, chưa đạt đến cứu cánh thật sự. Trí là thâm nhập, trong đó có nhân trước quả sau mà nghiên cứu đạt đến nhận thức triệt để; vì vậy phải theo trí chứ chẳng dựa vào thức.
Theo nghĩa chứ không theo ngôn ngữ. Ngôn ngữ như ngón tay, nghĩa như mặt trăng; chúng ta theo phương hướng ngón tay mà thấy được mặt trăng, chẳng phải thấy ngón tay. Cho nên phải theo ý nghĩa lúc đó đã nói, không thể y theo ngôn ngữ mà bỏ bớt lời văn.
Đức Phật thuyết pháp dựa vào người, dựa theo nơi chốn mà nói ra nhiều pháp môn, có rất nhiều kinh điển Ngài nói theo phương tiện; cho nên nói y theo kinh Liễu nghĩa, đừng theo kinh Bất liễu nghĩa; giống như chúng ta đi học từ tiểu học, trung học lên đại học; nếu như chúng ta chấp cứng kiến thức thời tiểu học thì không thể tiến bộ được. Vì thế, y theo kinh Liễu nghĩa chẳng theo kinh Bất liễu nghĩa. Câu chuyện vợ ngu giả chết lừa chồng là ý nghĩa chỉ kiến chấp sai lầm của con người.
Chuyện 5
Chết khát bên sông
Lời dẫn:Có người thường nói: “Chúng ta là phàm phu làm sao có tư cách học Phật, người học Phật phải có thiện căn, nhân duyên đặc biệt. Hàng ngày, chúng ta lo cuộc mưu sinh cơm áo, gạo tiền; lo nuôi con cái không xong, còn đâu tâm trí và thời gian để học Phật?”.
Lại có một hạng người ngạo mạn nói: “Những người học Phật có tài giỏi gì, chẳng qua vận số của họ may mắn một chút mà thôi. Nếu có cơ hội thì chúng ta hơn hẳn họ”. Hạng người này xem mọi người chẳng ra gì, dường như thiên hạ chỉ có họ mới làm được.
Cho dù họ tự tôn cũng được, hay tự ti cũng không sao. Nhưng nếu như quá đáng đều thuộc dạng tâm bất bình thường; đặc biệt người tự ti mất đi quá nhiều. Nhân loại có một loại bệnh phiền não, không phải tự ngã cống cao, coi ai không ra gì mà là kẻ tự ti tự hủy mình không chịu cầu tiến bộ. Kẻ cống cao, ngã mạn làm cản trở sự tiến bộ. Kẻ tự ti tự hủy mình cũng là chướng ngại cầu tiến thân. Vì thế, con người không nên kiêu căng và không tự ti mới là trung đạo.
Chúng tôi nêu một câu chuyện để dẫn chứng.
Ngày xưa có một người đi xa, gặp lúc mùa hè thời tiết rất nóng, hắn đi trên đường vào ban trưa, vừa đói vừa khát; bụng đói thì còn chịu được một lúc, nhưng khát rất khó chịu được. Các bạn xem thử hắn tìm được nước giải khát không? Đang đi hắn chợt nhìn thấy một dòng sông, nước trong xanh mát lạnh, thật sự như vị cứu tinh xuất hiện. Nhưng hắn lại nghĩ: “Nước nhiều như thế này, làm sao ta uống hết được?”. Vì thế, hắn đứng ngây bên bờ sông không dám uống. Ngay lúc đó, có người đi ngang qua hỏi:
- Vì sao anh đứng bần thần ở đây?
Hắn đáp:
- Tôi khát nước sắp chết, không dễ gì tìm được dòng sông này; nhưng nước sông nhiều như thế, tôi sợ uống không hết thì phiền phức.
Người đi đường nói:
- Anh chỉ cần uống hết khát thì thôi, cần gì uống hết nước sông?
Bài học đạo lý
Câu chuyện này là ví dụ. Hàng phàm phu chúng ta từ vô thỉ đến nay luân hồi trong sáu đường, chịu khổ báo nhiều vô lượng, thật không dễ gì gặp được Phật pháp - phương pháp giải thoát sinh tử. Nhưng chúng ta cảm thấy Phật pháp vô biên, ba tạng, mười hai bộ kinh điển nhiều như thế. Làm sao có thể học hết được? Vả lại, con đường tu hành xa như vậy. Từ ba chỉ, tu sáu độ biết đến khi nào tu thành công? Cho nên “nhìn Phật mà than mình bé nhỏ”. Từ chỗ đó, chúng ta không chịu nỗ lực tu hành, cũng không chịu nghiên cứu Phật pháp.
Chúng ta phải biết cả đời Đức Phật thuyết pháp, Ngài quán căn cơ chúng sinh mà nói; đối với người cần pháp gì thì Ngài thuyết pháp đó. Phật pháp cần phải thích hợp người thượng căn, trung căn và hạ căn nên thuyết nhiều pháp môn. Vả lại trên thế giới, mỗi địa phương đều có phong tục tập quán riêng của họ; mỗi người đều có tư tưởng, kiến giải riêng mình. Vì thế, Phật pháp nhiều vô lượng vô biên; bất luận sĩ, nông, công, thương, hay già, trẻ, trai, gái đều có thể học Phật. “Phật pháp vô biên”chính là nghĩa này.
Mỗi người chỉ cần học điều mình cần, tự mình có thể thụ trì tu hành; giống như đi học có người chỉ học tốt nghiệp tiểu học; có người học lên trung học, cao đẳng; có người học lên đại học, cao học, cho đến nghiên cứu sinh nước ngoài; đều do hoàn cảnh, chí nguyện của mỗi cá nhân cầu học, không phải ai cũng tốt nghiệp đại học, cũng không phải tốt nghiệp đại học mới có khả năng làm việc.
Chúng ta đọc sách một năm có học vấn và tri thức một năm, đọc sách hai năm có học vấn và tri thức hai năm; cho dù không học ở trường, nhưng vừa làm vừa học ở nhà vẫn có thể học lên. Người đi học không phải ai cũng thi lên học vị tiến sĩ, có bao nhiêu tri thức thì có khả năng làm bấy nhiêu việc.
Phật pháp lưu truyền ở thế gian đã hơn 2500 năm, truyền đến Trung Quốc đã có 2000 năm lịch sử. Phật pháp đi vào nhân gian cùng với tín ngưỡng người bình dân tạo thành một khối, có thể nói biển chữ vàng hiệu của Lão Tử. Ngoại đạo thường lợi dụng biển chữ vàng này mà rêu rao lừa bịp, lại không chịu khiêm tốn nghiên cứu Phật pháp, chỉ bắt chước danh từ của Phật pháp sửa thành của mình; hoặc luợm lặt câu chữ trong sách xưa xen tạp tà tri kiến, rồi tùy tiện nói thông suốt, lừa gạt chính mình và mọi người; một người mù dắt một tốp người mù đi vào hầm lửa, rơi vào ma đạo.
Điều này đâu chỉ là khát nước không uống, mà là uống độc dược để giải khát, tự phá hỏng huệ mạng của mình; lại còn làm phá hại huệ mạng của vô số chúng sinh. Thật đáng thương thay! So với người khát nước không chịu uống càng đáng thương hơn.
Chuyện 6
Giết con thành gánh
Lời dẫn: Mỗi ngày đọc báo hay xem truyền hình, chúng ta thường thấy báo đưa tin những bọn lừa đảo dùng tiền giả để gạt mọi người mua đồ dùng thật; hoặc có những kẻ háo sắc thừa tiền cặp bồ với các người đẹp; hoặc có kẻ thừa cơ hội nhảy vào kiếm chác v.v… Những chuyện này làm cho bọn chúng thân bại danh liệt, ở đâu cũng có.
Chúng tôi xin kể một câu chuyện thời hiện đại rất lý thú. Có một thanh niên ở vùng nông thôn, vì bị sâu ăn răng nên hắn ra thành phố tìm bác sĩ nha khoa để nhổ răng. Hắn hỏi:
- Bác sĩ ơi! Tôi nhổ một cái răng trả bao nhiêu tiền?
Bác sĩ đáp:
- Anh nhổ một cái năm trăm đồng, nhưng nhổ hai cái thì tám trăm.
Hắn nghĩ mỗi lần đi ra thành phố rất khó, nếu nhổ một cái thì tốn thời gian đi và tiền bạc; chi bằng nhổ luôn hai cái lại được rẻ hơn, khỏi đi lần nữa lại tiết kiệm. Vì thế, hắn nhổ luôn hai cái răng; vốn bị sâu ăn có một cái, vì ham rẻ mà hắn nhổ hai cái. Hắn là người thông minh hay ngu si, rẻ hay là mắc?
Trong kinh Phật cũng có một câu chuyện ngụ ngôn rất hay.
Thuở xưa, có một nông dân sinh ra bảy đứa con, không may chết một đứa, nên hắn đặt tử thi đứa bé ở trong nhà. Vì tử thi này nên hắn cảm thấy làm việc gì cũng bất tiện, nên hắn bảo mọi người trong nhà: “Chúng ta dọn đi nơi khác ở nhé! Để không còn thấy tử thi, khỏi đau lòng, lại khỏi sợ, tránh được bất tiện”. Người hàng xóm thấy hắn muốn dọn nhà, nên hỏi:
- Vì sao anh dọn nhà đi?
Hắn đáp:
- Vì trong nhà có đặt tử thi nên làm cho cả nhà vừa sợ vừa đau lòng, nên tôi phải dọn nhà.
- Tại sao anh không đem tử thi chôn đi.
Hắn nghe người hàng xóm nói như người tỉnh mộng. Đúng rồi! Vì sao ta không đem con đi chôn? Nhưng làm cách nào để đem thi thể này ra ngoài? Hắn ta suy nghĩ hồi lâu thì ngay lúc đó có người gánh đồ đi ngang qua. Hắn suy nghĩ: “Nếu như ta gánh con giống như người này thì chẳng phải rất tiện hay sao?”. Do đó, hắn giết thêm một đứa con nữa, rồi gánh ra ngoài chôn luôn. Thế gian có chuyện hoang đường như thế này không?
Bài học đạo lý
Ý nghĩa câu chuyện nói lên thế gian có rất nhiều kẻ thô lỗ, chỉ tham của rẻ một chút trước mắt mà đánh mất tương lai tốt đẹp -tham việc nhỏ mất việc lớn. Hoặc có người tham tiền của, đắm sắc đẹp mà thân bại danh liệt- lỡ bước một phen thành mối hận nghìn đời. Hoặc có người lỡ một niệm sai lầm mà gây ác nghiệp rất lớn, tạo thành sự việc muôn kiếp không thể làm được thân người. Ví như một người học Phật, cho dù anh ta tu hành như thế nào, nhưng việc đầu tiên phải giữ năm giới thanh tịnh; nếu như anh ta không cẩn thận phạm một giới thì phải mau sám hối; niệm Phật, lạy Phật thật nhiều để tiêu trừ tội nghiệp. Nhưng phần đông mọi người đều che dấu, không muốn người khác biết. Nếu như họ muốn sám hối thì họ cho rằng chi bằng phạm giới vài lầm rồi sám hối luôn. Há không tiện lợi nhiều hay sao? Điều này giống như giết con thành gánh nào có khác gì?
Người chưa gặp nghịch cảnh, chưa gặp tai nạn, nên không biết nỗi đau khổ của cuộc đời, cũng không biết giác ngộ. Người gặp nghịch cảnh, gặp tai nạn, hoặc từng nếm mùi đau khổ của cuộc đời, mới nghĩ đến tu hành tiêu trừ nghiệp chướng. Lại có người vẫn tham đắm năm dục ở thế gian- tài, sắc, danh, thực, thùy, họ muốn hưởng hạnh phúc sung sướng ở thế gian vài năm, rồi tu hành cũng không muộn; một năm trôi qua rồi một năm nữa đến, họ muốn tu hành nhưng sợ cực khổ, muốn hưởng cuộc sống sung sướng, nhưng lại mong đắc đạo nhanh chóng hay cảm ứng, cầu trời quan tâm đặc biệt, lại muốn có bí quyết nào tu tập không tốn nhiều thời gian mà được nhiều công đức. Cho nên, tà sư ngoại đạo lợi dụng nhược điểm của họ, phao tin đồn nhảm: “Trời ban chân đạo”, “mật truyền bài vè v.v…dụ dỗ dân chúng. Kì thực, bọn chúng dắt mọi người đi theo tà, như câu chuyện giết con thành gánh nào có khác gì?
Chuyện 7
Dua nịnh trục lợi
Lời dẫn:Cuộc sống thế gian có muôn màu: người giàu sang, kẻ bần cùng; người gặp vận may, kẻ bị xui rủi; trong tâm con người cũng có tham, sân, si và gian ác; cũng có tâm từ bi, hỉ xả và lương thiện; về tinh thần của con người có mừng giận, vui buồn, thương ghét. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; lại có bão lớn, động đất, chiến tranh, lụt lội, cháy thiêu và các tai nạn khác; nhưng cũng có thái bình, yên vui, lúa, đậu được mùa và những công việc được thuận lợi. Vì sao Thượng Đế ban cho người được hạnh phúc an vui, lại gây cho người bị tai nạn và đau khổ?
Khi chúng ta làm việc thuận lợi được thăng quan tiến chức, trở nên giàu có thì vênh váo đắc ý, thái độ hống hách xem mọi người không ra gì. Lúc chúng ta làm ăn sa cơ thất thế, nản lòng thì cúi đầu vâng dạ cầu xin mọi người giúp đỡ; thậm chí như chó vẫy đuôi cầu xin người thương xót. Khi vận may đến chúng ta được thăng chức, phát tài thì được mọi người cung kính chúng ta, bợ đỡ, đút của hối lộ; lúc làm ăn thất bại chẳng ai màng ngó đến, xem thường; thậm chí họ còn tìm cách vùi dập. Cho nên nói: “Nghèo ở phố thị không ai hỏi, giàu lánh rừng sâu lắm kẻ tìm”.
Trong kinh Phật cũng có câu chuyện ví dụ như thế.
Có anh chàng kia ở một thành phố nọ, vừa giàu sang vừa thông minh; nhà anh luôn có khách đến viếng thăm, họ tâng bốc nịnh bợ và ca tụng anh. Anh hàng xóm luôn gần gũi, cung kính lại gọi anh xưng em, ân cần hầu hạ mọi việc. Ở trước mọi người hắn thường ca ngợi anh ta nhân từ vĩ đại. Chẳng bao lâu, anh chàng ta gặp thiên tai phá sản, gia đình lâm vào cảnh bần cùng, phải vay mượn tiền bạc mọi người để sống qua ngày. Thấy vậy, tên hàng xóm dần dần tránh xa anh ta, không muốn gặp mặt.
Có người hỏi hắn:
- Khi anh chàng kia giàu có giúp đỡ anh rất nhiều, nay anh ấy bị thiên tai phá sản vì sao anh không giúp anh ấy để hồi phục lại cơ nghiệp?
Hắn nói:
- Khi anh ta giàu thì tôi muốn hưởng kiếm chác sự vinh hoa và giàu sang của anh ấy; nay anh ấy đã sa cơ tôi giúp anh ta chỉ có cực khổ. Vì sao tôi tự chuốc khổ vào mình? Ngay cả gặp anh ấy, tôi cũng chưa hề hỏi thăm một tiếng.
Người xưa nói: “Thế thái nhân tình bạc như vôi, biết rõ như thế ngắm hoa thôi”. Thật là không sai.
Bài học đạo lý
Thế gian có rất nhiều ngoại đạo, họ nghe chân lý Phật pháp cảm thấy rất vi diệu; nhưng họ không chịu quy y Tam bảo mà tìm mọi cách lén trộm kinh văn Phật giáo, lại đem chỉnh sửa xen tạp trở thành tà thuyết của mình. Họ lấy mắt cá trộn với hạt châu nói là hàng thật. Có người học nghi thức Phật giáo trang điểm bề ngoài nghi lễ của mình, lừa gạt quyên góp tín đồ. Có người hỏi hắn:
- Anh chỉ học danh từ và nghi thức của Phật giáo, sao không học giới luật và phương pháp tu hành?
Hắn đáp:
- Tôi học nghi thức của Phật giáo là để kiếm tiền, học kinh điển của họ là để bổ sung giáo lý của chúng tôi được phong phú; tôi học giới luật và tu hành phương pháp tu hành chỉ chịu cực khổ không có lợi ích. Tôi cần gì phải chuốc khổ vào thân?
Sự việc ở thế gian khi có lợi ích cho mình thì họ tìm mọi cách như ăn trộm, cướp giật, dối gạt, lừa đảo để thâu tóm về mình; khi không được lợi ích, hoặc bị người biết ngăn chặn thì áp đảo người trước, phỉ báng, bài xích; giống như oan gia sống chết. Có người học giáo lý vì nương nhờ cửa chùa để sống qua ngày. Có người lợi dụng tôn giáo để làm giàu. Có người thay trời hành đạo. Có người hoằng pháp lợi sinh. Có người tinh tiến tu hành. Có người làm việc cứu đời lợi người. Tư tưởng của mỗi người chính xác là tất cả việc làm đều đúng theo ý mình; bằng không thì trái lại.
Con người là tối linh trong muôn vật có thể dựa vào muôn vật mà phát triển hạnh phúc nhân loại. Trí thức con người sáng suốt cũng có thể dựa vào tài năng để làm lợi ích cho mọi người. Người gian xảo cũng có thể lợi dụng nhược điểm của họ mà tận dụng cơ hội tìm điều lợi ích. Có người mượn danh thần thánh mà bóc lột nhân dân. Người ngu muốn lợi dụng người giàu sang để được lợi thì lộ ra bản chất thấp hèn và gian ác của họ. Người tín ngưỡng tôn giáo theo Thiên Chúa giáo hay Phật giáo đều là nhiệm vụ của thần thánh; nếu vì danh lợi làm mê lý trí thì trở thành tội nhân của tôn giáo. Cho nên thế lợi vẫn là ma vương, đời sau sẽ kêu gọi những dân ma trở về cõi ma, lẽ nào chúng ta không đề cao cảnh giác?
Chuyện 8
Lý luận của kẻ trộm
Lời dẫn:Mỗi loài chúng sinh trong vũ trụ đều có cách sống không giống nhau. Con người có giàu sang và nghèo cùng, cuộc sống của họ cũng khác nhau; đó là nguyên do phúc báo và nghiệp báo. Người có phúc báo được hưởng thụ văn minh vật chất thời hiện đại; người không có phúc giống như cuộc sống thời nguyên thủy; cho dù có máy móc và các dụng cụ tối tân hiện đại họ cũng không biết sử dụng; giống như phương tiện giao thông ngày nay ngày càng đổi mới, có người vận dụng nó làm rất nhiều việc, đạt được lợi ích rất nhiều. Có người chẳng những không biết vận dụng, mà còn vì nó đánh mất sinh mạng quý báu.
Thuở xưa, có một người rừng ở trong núi thẳm, quanh năm chưa từng va chạm với ai để trải nghiệm việc đời, cuộc sống của hắn là những ngày rất chất phác và đơn giản.
Một hôm, có gã thợ săn đuổi thú rừng đến rừng sâu này. Gã nói với người rừng:
- Này anh! Cuộc sống thành thị sung sướng và giàu sang như thế, như thế...
Nghe thợ săn nói, hắn rất ngưỡng mộ cuộc sống xa hoa ở thành thị. Một hôm, hắn trèo đèo vượt núi đi đến thành thị, hắn nhìn thấy nam thanh, nữ tú đều xinh đẹp, đâu đâu cũng nhà cao cửa rộng; thức ăn là những món sơn hào hải vị, thịt cá ê hề; thật sự quá sung sướng. Nhưng ta hai bàn tay trắng phải làm thế nào?
Một hôm thừa dịp đêm khuya, hắn lén đột nhập vào cung trộm lấy long bào của nhà vua; nhưng chỉ qua vài ngày hắn bị quân lính bắt trói đem về cung giao cho vua. Hắn vẫn cãi leo lẻo:
- Tâu bệ hạ! Long bào này là phẩm vật của tổ tiên thảo dân để lại.
Nhà vua bảo:
- Ngươi nói phẩm vật của tổ tiên ngươi để lại thì hãy mặc cho trẫm xem thử?
Vì vậy, ở trước mặt nhà vua hắn muốn mặc long bào nhưng cứ lật qua lật lại mặc thế nào cũng không đúng. Nhà vua nhìn thấy cười lớn nói:
- Ngươi nói của tổ tiên ngươi để lại mà ngay cả mặc cũng không biết. Quân sĩ đâu! Bắt hắn giam vào ngục cho trẫm.
Thế là hắn bị nhà vua tống vào nhà ngục.
Bài học đạo lý
Đức Phật thuyết pháp có tư tưởng đặc biệt trong giáo pháp của Ngài. Mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ và giáo pháp riêng của họ, chúng ta đem Phật pháp ứng dụng vào tôn giáo khác thì không phù hợp; huống gì tà giáo, quan điểm bất đồng rất lớn.
Đức Phật dạy: “Vạn vật là do nhân duyên sinh”. Từ sinh tử khổ vui, cho đến họa phúc, thiện ác của tất cả chúng sinh đều là mình làm mình chịu. Theo tư tưởng của các tôn giáo khác tất cả mọi việc đều do thần điều khiển chi phối. Như thế cách thuyết pháp mỗi tôn giáo không giống nhau, có thể hợp lại được không?
Phật giáo có giới luật và phương pháp tu hành của Phật giáo, các tôn giáo cũng có pháp tu riêng của họ. Có những người tu hành không nương theo Phật pháp mà chỉ trộm những danh từ, tùy tiện sửa đổi, hay xen tạp những tà thuyết; hoặc chỉ học những nghi thức để làm nổi bậc bề ngoài của mình; chẳng những tâm mình không biết hổ thẹn mà còn lộ ra nhân cách thấp hèn. Bọn họ nói ba tôn giáo hợp lại một, hoặc nhiều tôn giáo trở về một, trời ban chân đạo, thần nào đó, Phật nào đó giáng xuống đàn tràng giảng đạo; lại vâng lịnh của trời v.v…chẳng ra cái gì, chỉ là dọa nạt và dụ dỗ mọi người; dựa vào trời, thần để mượn thánh chỉ lừa gạt nhân dân. Thực sự vừa buồn cười vừa đáng thương.
Nhân loại có một chứng bệnh giống nhau, thích nghe lời giả dối; giống như người làm kinh doanh nói: “Chịu lỗ vốn gốc”, “bán giảm giá khuyến mãi” hay“bán hàng thanh lý” v.v…thì mọi người kéo đến mua hàng giảm giá đông như kiến. Nếu như họ kinh doanh chân thật thì làm ăn chịu nhiều thiệt thòi. Điều này không phải làm cho kẻ gian lường gạt hay sao?
Một số danh từ: lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, mượn danh nghĩa để làm bậy, không phân biệt trắng đen v.v…đều là tham và ngu. Có người vì danh, có kẻ vì lợi, có kẻ tham của rẻ mà đánh mất lý trí. Những kẻ tham tài, tham lợi mới có thể phủ lên sự giả dối. Tham và lừa gạt muôn sự ở thế gian, họ chỉ đạt được một chút lợi ích trước mắt mà chịu nhiều thiệt thòi về sau. Trong tín ngưỡng, tu hành lừa dối là việc nhiều đời nhiều kiếp; lại lừa thần, dối Phật thì tội lỗi càng chồng chất, hiện tại tuy chưa thấy được báo ứng nhưng tội lỗi lại chịu nhiều đời nhiều kiếp; giống như đứa bé vì được lợi ích viên kẹo mà đời sau lại mất tài sản vô lượng. Quả thật là đáng thương!
Chuyện 9
Hăng quá hoá dở
Lời dẫn:Cá tính mỗi người ở thế gian đều không giống nhau. Có người khiêm tốn, tự ti; có người tự đại, kiêu ngạo; có người đầy đủ tài năng, trí thức, học vấn mà không khoe khoang; có người đầu óc rỗng tuếch làm được một chút việc thì khoe khoang khoác lác, mong khắp thiên hạ đều biết. Người quá khiêm tốn cũng trở thành giả dối. Kẻ luôn cống cao, kiêu mạn cũng sẽ chuốc lấy nhục nhã, lại không giúp đỡ được gì cho người khác. Vì thế, bất cứ việc gì đều nên ở mức trung bình.
Xưa kia, ở một làng quê nọ, mọi người tổ chức lễ hội ca ngợi đức hạnh của cha mình. Lúc khai mạc buổi lễ, vị chủ trì lên tuyên bố lý do:
- Kính thưa quý vị! Hôm nay, cử hành lễ hội mục đích là truyền bá rộng hiếu đức và để khuyến khích lẫn nhau với “ý nghĩa nhìn thấy đức tài kiêm toàn của người khác mà nghĩ ta phải học giống như họ”. Vì thế, chúng tôi hy vọng các vị hãy dựa vào sự thật của cha mình mà nói, không cần khoe khoang, cũng không nên tự ti che giấu không dám nói. Các vị hãy nói thoải mái theo sự thật, để mọi người lấy đó làm tấm gương xử thế làm người.
Người thứ nhất nói: “Cha tôi là người có tài năng, thân hình cao lớn mạnh mẽ, làm việc xử lý quyết đoán nhanh gọn; cho nên được mọi người ca ngợi”.
Người thứ hai nói: “Cha tôi là người đàn ông khôi ngô tuấn tú, anh hùng hào kiệt; lại đối xử lễ phép với mọi người, nên ai nấy đều tôn kính”.
Người thứ ba nói: “Cha tôi là một trưởng giả nhân từ thường bố thí cứu giúp người nghèo khổ; là người ưa làm việc thiện thích bố thí”.
Có người nói: “Cha tôi dũng cảm làm việc nghĩa”. Có người nói: “Cha tôi hiểu biết rất sâu xa, học rộng nghe nhiều”. Có người nói: “Bất cứ làm việc gì, cha tôi đều được mọi người tin cậy”. Có người nói: “Cha tôi đối với mọi người rất hòa nhã và lễ phép”. v.v…
Trong hội trường có một thanh niên hiếu thắng chạy ra nói:
- Cha tôi mới thật sự là người vĩ đại.
Mọi người hỏi:
- Thế nào là vĩ đại?
- Cha tôi là một người thanh tịnh vô dục.
- Hả! Mọi người ở thế gian đều đắm năm dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) và bị năm dục sai khiến; người nào đạt được vô dục là người vĩ đại thật sự. Chúng tôi không biết cha anh vô dục ở phương diện nào?
- Cha tôi từ nhỏ đã đoạn tuyệt sinh hoạt tình dục, cho nên là người rất thanh tịnh.
- Cha anh đoạn tuyệt tình dục từ nhỏ. Vậy thân thể của anh sinh ra từ đâu? Là trên trời rớt xuống chăng?
Ha.ha…mọi người cùng cười vang. Thanh niên vừa ngu dốt vừa hiếu thắng, nên bị mọi người sỉ nhục.
Bài học đạo lý
Con người sinh ra ở đời ai cũng muốn giữ thể diện, thích được mọi người ca ngợi, không muốn mọi người nghi ngờ chuyện này kia, không thích người khác nói khuyết điểm của mình; hoặc việc không đáng, lại thích khoe khoang người thân của mình; người khoe khoang quá lố có lúc tự hạ thấp nhân cách của mình. Nhưng thông thường mọi người vẫn thích nghe lời giả dối; giống như người làm kinh doanh nói: “Chịu lỗ vốn gốc” hay “bán giảm giá khuyến mãi” để thu hút khách hàng. Ở trước mặt người đó thì khen họ thông minh, tài giỏi như thế; hoặc nhân từ, học vấn v.v…Khi ở sau lưng họ thì nói xấu không ra gì. Do đó, xã hội biến thành ai ai cũng giả dối- “lừa mình dối người, bị người lừa”.
Mọi người đều thích nghe lời giả dối, thích nói lời không chân thật; cho nên thế gian này tiểu nhân nhiều hơn quân tử; giống như diễn kịch hai bên thể hiện vai diễn cho đạt. Con người đối xử với nhau bằng tâm chân thật rất ít có. “Kết bạn với người quân tử nhạt như nước, kết bạn với tiểu nhân ngọt như mật”. Vì ai nấy đều thích ngọt, chẳng ai thích nhạt, nên người giả dối càng nhiều. Nhạt phần đông là tâm chân thật, ngọt phần đông là giả dối, nhạt có thể lâu dài, nhưng ngọt khó giữ được bền lâu. Muôn sự muôn vật ở thế gian: “Tức nước vỡ bờ”. Lại có đối lập với nhau: thiện-ác, tốt-xấu, chính-tà, đúng-sai, ngọt-đắng v.v…có thân ắt có oán, có hạnh phúc thì có khổ đau; đây là một loại tuần hoàn xoay vần.
Vì sao họa-phúc, khổ-vui ở thế gian thường tuần hoàn xoay vần như vậy? Vì tâm người có thiện có ác. Quá khứ từng tạo nghiệp thiện ác, cho nên có lúc họa, có lúc phúc; nếu người tạo thiện nghiệp nhiều thì được hạnh phúc an vui nhiều; còn người gây ác nghiệp thì chịu nhiều đau khổ và tai họa. Ai bảo chúng ta quá khứ chưa từng làm nhiều việc thiện? Bậc Cổ đức nói: “Có của không thể dùng hết, có chức quyền không thể ức hiếp mọi người mãi”. Chúng tôi nói cách khác, người có của mà không biết sử dụng cứu đời giúp người, là người mê muội keo kiệt, tham lam cũng làm nô lệ cho tiền của. Người có chức quyền không biết tạo phúc cho xã hội thì giống như bù nhìn. Vì thế, làm người phải luôn luôn tạo phúc, tạo duyên lành thì tương lai mới được hưởng phúc. Đó là: “Mình giúp đỡ người, được người giúp lại”.
Chuyện 10
Xây lâu đài trên hư không
Lời dẫn:Một cây cổ thụ cao to, ban đầu phải từ hạt giống, chúng ta đem giống gieo xuống đất; sau đó, nó nảy mầm dần dần lớn lên. Tri thức, học vấn của mỗi người cũng phải học lúc còn nhỏ, từ mỗi chữ, mỗi câu dần dần tích lũy mà thành công. Cây có gốc, nước có nguồn. Tri thức nhờ học vấn mà học thành tựu, xây nhà cũng từ móng mà xây lên cao. Làm sao có thể xây lâu đài trên hư không được? Nhưng thế gian có rất nhiều việc như thế, họ không cần xây móng mà vẫn muốn xây nhà trên hư không.
Ngày xưa, ở địa phương nọ có một phú ông, nhà của ông rộng lớn và rất xinh đẹp. Phú ông này tuy giàu có, nhưng ít giao tiếp rộng rãi nên hiểu biết rất nông cạn; lại là người keo kiệt, tham lam.
Một hôm, ông nghe mọi người đồn: “Ở thôn kia có một địa chủ, xây biệt thự ba tầng rất hoành tráng nguy nga”. Phú ông này là người hiếu kỳ, cũng là kẻ hiếu thắng; cho nên, ông không quản đường xa muôn dặm tìm đến nhà ông địa chủ kia. Đến nơi, ông ta đứng ở ngoài cửa nhìn vào ngơ ngẩn; bởi vì, tòa lâu đài này chẳng những nguy nga tráng lệ mà còn cao chọc trời, ông ta vô cùng ngưỡng mộ. Trở về nhà, ông suy nghĩ suốt đêm, muốn xây một tòa lâu đài giống như thế.
Do đó, ông đi hỏi thăm kiến trúc sư để xây lâu đài. Chẳng bao lâu, ông tìm được anh ta, ông liền thương lượng giá cả kinh phí và thời gian xây. Anh ta nói:
- Thưa ông! Xây lâu đài này thời gian phải một năm và kinh phí bấy nhiêu đó.
Phú ông nghe anh ta nói thời gian một năm và kinh phí tốn nhiều như thế, liền nói:
- Tôi không cần xây tầng một và tầng hai, chỉ cần anh xây tầng ba là được rồi; đồng thời, anh xây một tháng phải xong.
- Ông không chịu xây tầng một và tầng hai, tôi không có cách nào xây tầng ba được; lại thời gian chỉ có một tháng quá nhanh, xin ông hãy mời người tài giỏi khác nhé!
Bài học đạo lý
Người hiện đại hiếu thắng thích làm việc lớn, một gian hàng nhỏ cũng treo bản hiệu công ty A; một nhà trọ nhỏ cũng treo tấm biển khách sạn B. Người học Phật chỉ hiểu biết một số danh từ Phật học cũng tự xưng pháp sư, cư sĩ tại gia. Học ngồi thiền chỉ ba ngày tự cho mình khai ngộ, đắc đạo, thần thông v.v…không muốn học Phật từ cơ bản, lại muốn làm pháp sư giảng kinh thuyết pháp. Họ không chịu tu tập, chứng từ quả thứ nhất, quả thứ hai, quả thứ ba mà muốn chứng ngay quả A-la-hán. Người này khác nào như phú ông muốn xây lâu đài trên hư không?
Đức Phật là Bậc Chính Tri, Chính Giác Vô Thượng. Ngài từ tam chỉ[1]tu sáu độ, trải qua trăm kiếp tu hành mới được tướng hảo. Phúc đức, trí huệ, thần thông của Ngài đều là Vô Thượng; cho nên, Ngài làm thầy trong chín cõi, bậc gương mẫu trời, người. Hiện nay, có những ngoại đạo bịa đặt ra một danh từ Vô Cực Lão Mẫu đặt lên đầu Đức Phật. Họ nói Phật, tiên, thần đều từ Vô Cực Lão Mẫu sinh ra; nhân loại cũng do bà sắp đặt. Bà là vị thần từ nguyên thủy tối cao. Nếu bà đã sinh ra Phật, tiên, thần. Vì sao xưa nay còn sinh ra những gian thần, người ác? Bà đã sắp đặt con người, vì sao không sắp đặt nhân loại toàn là những người thông minh, xinh đẹp, hiền lành mà còn có những kẻ ngu dốt, xấu ác, gian trá? Làm cho thế gian chẳng những xảy ra chiến tranh, lừa gạt, tranh giành không dứt; lại còn, xảy ra bão xoáy, động đất, chiến tranh, lụt lội, nạn cháy, trùng độc, bệnh dịch v.v…làm điêu đứng cuộc sống nhân loại. Có phải kiệt tác của vị thần tối cao này không? Vì sao lúc đầu thần không ban cho nhân dân được yên ổn? Đây là ân huệ hay là hình phạt? Chúng ta nghĩ thử vị thần này khác nào câu chuyện xây lâu đài trong hư không, nghe qua rất hay; nhưng lại là những thứ bịa đặt.
Thần bịa đặt này sẽ giáng hạ thời mạt kiếp (kiếp tai) mới sai người đưa mọi người về. Thế giới này bốn tỉ người, nếu thần đưa về e rằng chưa được một phần trăm, còn những người khác đều phải chịu kiếp tai họa; như thế thật tàn nhẫn. Thần đã sắp đặt lại muốn mọi người chịu khổ nạn kiếp tai họa; vậy có hợp lý không? Tất cả mọi người đều do một tay thần đạo diễn tạo thành. Đây là thần gì không nói chúng ta cũng biết được, đúng không?
Thần này gọi là kẻ phạm pháp nhận lấy ý chỉ của trời, ban đặc quyền của trời, chỉ đường cho người để họ biết đường trở về nhà; giống như nhà ảo thuật và giống như kể chuyện cho trẻ con. Thế gian này thật kỳ lạ, chúng ta nói thật, giảng chân lý mọi người không thích nghe, nhưng nói chuyện thần thoại, ma quỷ, chuyện tiểu thuyết như Phong Thần Bảng, Tây Du Kí, Du Thiên Đường, Du Địa Ngục v.v… thì họ nghe chăm chú, lại cho là sự thật. Điều này khác nào xây lầu đài trên hư không?
Chuyện 11
Quạt mật cho mau nguội
Lời dẫn:Bậc Cổ đức nói: “Dùng đức để chinh phục người giàu, dùng lực để bắt người chạy trốn”. Thế gian này, phần đông đều dùng lực để kiềm chế sức mạnh, dùng tranh chấp ngăn chặn tranh chấp. Cho nên xưa nay, lịch sử ghi lại chiến tranh xảyrakhông dứt. Mỗi ngày trong xã hội đều xảy ra việc đấu tranh đúng sai. Chúng ta lấy chum bể chứa đầy nước, muốn nước đừng chảy là việc không thể được. Ban đêm ra ngoài phơi nắng, muốn được nắng ấm là kẻ ngu ngốc. “Con người là tối linh trong muôn vật”. Nhưng họ cũng thường làm những việc ngu xuẩn.
Thuở xưa, có một người nuôi ong. Một hôm, hắn suy nghĩ: “Ta nhờ nuôi ong bán mật nên kiếm tiền lời nhưng không được nhiều, ta phải nghĩ cách pha chế để mật có giá trị hơn, sản xuất nhiều thực phẩm để bán thì mới có thể kiếm được nhiều tiền, phát triển công việc kinh doanh của ta”. Do đó, ban đầu hắn đem mật ra nấu, muốn nấu keo lại thành mật đường, rồi chế tạo nhiều thực phẩm hấp dẫn. Lúc hắn đang làm thì có khách đến thăm. Hắn bảo:
- Xin anh đợi một tí! Tôi đang sắc mật ong, sắc xong anh hãy nếm thử thành phẩm của tôi ngon tuyệt vời.
Vì mật đang sôi, hắn muốn làm cho mật mau nguội để đãi khách, nên hắn giở nắp nồi và lấy quạt ra sức quạt. Nhưng hắn cố sức quạt lấy quạt để mồ hôi ướt dầm dề mà mật trong nồi vẫn sôi ùng ục. Hắn càng sốt ruột ra sức quạt mạnh hơn, nhưng mật trong nồi chẳng nguội chút nào. Người khách nhìn thấy liền nói:
- Anh đừng sốt ruột, hãy quạt từ từ.
Vị khách đi xuống nhà bếp nhìn kỹ, té ra lửa dưới nồi vẫn bốc cháy hừng hực thì mật trong nồi làm sao nguội được? Cho nên khách hỏi chủ nhà:
- Anh muốn mật mau nguội phải không?
Hắn đáp:
- Đúng vậy! Nhưng bất luận tôi quạt thế nào, mật cũng không nguội được, phải làm cách nào?
- Anh chỉ ra sức quạt trên nồi mà không chú ý lửa đang cháy dưới nồi; cho nên mật không nguội được.
- A, đúng rồi! Hóa ra dưới đáy nồi củi còn cháy. Tại sao tôi không nghĩ ra nhỉ?
Thế là, cả hai cùng cười vang.
Câu chuyện đạo lý
Chuyện này chứng minh có những kẻ ngoại đạo không y theo Phật pháp tinh tiến tu hành mà chỉ lén trộm cắp danh từ Phật học đem sửa lại, muốn lập một tôn giáo khác; hoặc làm theo nghi thức của Phật giáo để tu hành, nhưng trong tâm đầy ắp danh lợi, làm những việc trái với Phật pháp.
Tu hành học Phật và hoằng pháp lợi sinh chính là công việc của người xuất gia. Nếu như chúng ta không chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp và nỗ lực tu hành thì không thể nào làm được; hoặc không có chính tri, chính kiến thì dễ lạc vào tà đạo. Cảnh năm dục ở thế gian đầy cám dỗ, dễ lôi cuốn như thế, nên chúng ta cần có nội lực. Thời đại mạt pháp, bọn tà sư ngoại đạo thuyết pháp rất đông. Nếu chúng ta không có chính kiến thì bị chúng lôi kéo; hoặc không tinh tiến tu tập định lực trí huệ thì không thể khắc phục được cám dỗ năm dục, danh lợi, giống như mật ong đang sôi mà ra sức quạt thì không thể tiêu diệt lửa phiền não đang bốc cháy.
Con người từ vô thỉ kiếp đến nay đã tích chứa nghiệp, cho nên trong thân đầy ắp năm dục và phiền não. Nếu chúng ta không tu giới, định, huệ thì không cách gì dập tắt được lửa dữ phiền não. Bất kỳ, chúng ta muốn độ mình hay độ người thì trước tiên phải dập tắt dục vọng của mình.
Nếu như chúng ta còn tâm danh lợi mà làm việc thì tất nhiên lấy việc lợi mình là trên hết, làm việc như thế thì tà nhiều chính ít. Thông thường người thế gian qua lại với nhau đều muốn lợi dụng nhau, có lợi cho mình thì mới chịu làm việc. Còn trong tôn giáo, nhiệm vụ của họ là “thay trời hành đạo”, hoặc “hoằng pháp lợi sinh”, nên không có tâm mong cầu. Ngược lại thì giống như quạt cho mật mau nguội, phiền não của chúng ta càng sinh khởi mạnh.
Quạt mật cho mau nguội chỉ là một thí dụ, chúng tôi nghĩ người thế gian không có ai ngu xuẩn như thế. Nhưng kẻ ngoại đạo học Phật pháp chỉ biểu hiện bên ngoài, còn trong tâm không tha thiết cầu học. Có người hoằng pháp không có chính tri chính kiến, tâm còn ham muốn, phiền não mà muốn độ người thì giống như câu chuyện quạt mật cho mau nguội.
Chuyện 12
Nghe lỗi liền nổi giận
Lời dẫn:Con người đều có tâm tự tôn, cũng là sinh vật rất sĩ diện. Cho dù là kẻ ngu si đần độn, cũng không chịu người khác nói khuyết điểm của mình. Đặc biệt là người chuộng sĩ diện làm việc hiếu thắng, họ chỉ biết men say thành công chứ không chấp nhận nếm mùi thất bại và sỉ nhục. Nhưng ở thế gian này, mười việc không vừa ý thì có đến tám, chín việc; vả lại, tất cả việc thành công ở đời đều phải nếm trải mùi thất bại. Người nặng tâm tự tôn thì không chịu nổi sự phê bình dễ sinh phiền não, nản chí không chịu cầu tiến, hoặc tự hủy hoại mình; đây là việc rất nguy hiểm. Chúng ta phải biết có được sự nghiệp huy hoàng ở thế gian thì phải chịu phê bình, nếm mùi thất bại mới đạt được.
Thuở xưa, ở một vùng nông thôn, ban đêm mọi người thường tụ họp lại rất đông để tán gẫu, luận bàn việc đời, cả chuyện trên trời dưới đất. Một hôm, họ bàn chuyện anh A. Anh B nói:
- Anh A có đức hạnh rất tốt, cũng là người nhân từ; nhưng đáng tiếc có một chút tính xấu.
Mọi người tranh nhau hỏi:
- Xấu điểm gì?
Con người thật là kỳ lạ, thích nghe chuyện thị phi của người khác. Anh B đáp:
- Anh A tuy là người tốt, nhưng tính tình nóng nảy một chút, làm việc hay hấp tấp.
Ngay lúc đó, anh A đi ngang qua, nghe anh B phê bình mình, liền nổi giận đùng đùng nói:
- Tao nóng nảy khi nào?
Hắn tát ngay anh B. Người bên cạnh bảo:
- Tại sao anh đánh người ta như thế?
Hắn nói:
- Tại sao tao không đánh? Nó dám nói tao tính tình nóng nảy, làm việc hấp tấp. Tao nóng nảy, làm việc hấp tấp khi nào? Các anh nói thử xem?
Mọi người nói:
- Chẳng phải anh đang nóng nảy đó sao, hành động đánh người không phải thô lỗ là gì?
Hắn nghe mọi người nói bị đuối lý, ngượng ngùng vội vã bỏ đi.
Bài học đạo lý
Mỗi người chúng ta đều có ưu điểm và khuyết điểm, nếu chúng ta biết phát huy ưu điểm của mình, sửa bỏ khuyết điểm là người thành công. Còn chúng ta sợ người phê bình, lại không chịu sửa đổi thì ưu điểm cũng do đây mà bị mai một. Vì thế, ngày xưa bậc Thánh thường dạy: “Nghe lỗi liền vui”. Nghĩa là chúng ta khiêm tốn tiếp nhận nghe người khác phê bình, cũng là người thành công. Người học Phật tu hành lại càng khiêm tốn, cầu người chỉ dạy, tiếp nhận người khác phê bình thì mới có thể thường xuyên sửa đổi. Nếu người không chịu nghe người khác phê bình, khi nghe họ nói lỗi của mình liền buồn giận; hoặc muốn tranh cãi đến cùng, thậm chí còn thượng cẳng tay, hạ cẳng chân. Người như vậy, chẳng những làm trở ngại tương lai tốt đẹp mà còn xảy ra chuyện tranh cãi thị phi đều do đây mà ra.
Bậc Cổ đức dạy: “Người đời ai mà không lỗi, người biết sửa sai là bậc Thánh”. Đức Phật dạy: “Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh ngụp lặn trong sáu đường luân hồi; người làm nhiều việc thiện thì trong tâm có nhiều tính thiện. Kẻ làm nhiều việc ác thì trong tâm cũng chứa nhiều tính ác”. Tính thiện nhiều là người tốt; tính ác nhiều là người xấu; chỉ cần chúng ta chịu sửa đổi tính ác để phát huy tính thiện của mình thì mọi người đều có thể thành Thánh hiền. Chúng tôi nói cách khác: “Nếu người không chịu sửa đổi ác là để tính ác ngày càng tăng trưởng thì chẳng những là người ác mà tương lai nhất định đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh”.
Thế gian có rất nhiều người thích uống rượu, cờ bạc, mê gái đẹp, ăn chơi trác táng mà không chịu làm ăn; hoặc có người chơi bời lêu lỏng, làm ăn bất chính, làm những việc hại người lợi mình. Nếu có người thiện ý khuyên nhắc, chẳng những họ không chịu nghe lời mà còn tức giận oán hận người tốt. Có người ưa tranh cãi vô lý; cho nên, làm người tốt rất ít. Nếu mọi người cùng đồng lõa theo thói xấu với họ, hoặc kết bạn cùng chơi thì bạn xấu càng nhiều.
Trước đây, chúng tôi nghe nói tự viện ở Trung Quốc, người xuất gia ở từ năm, sáu trăm người, hoặc trên một nghìn người; cho nên quy củ và giới luật rất nghiêm túc. Hiện nay chùa ở Đài Loan mỗi chùa ở mười mấy người, hoặc năm, sáu người. Bởi vì, chùa nhiều người ít, quy củ cũng hơi dễ dàng; cho nên bạn nói họ quá lời năm, sáu câu thì họ bỏ đi. Họ cũng chọn địa phương nào không có người quản lý thì họ mới chịu ở. Quy củ như thế, làm sao nghiêm túc được? Tất nhiên đạo nghiệp tu hành như vậy thì nhất định sống buông lung, muốn cầu thoát khỏi sinh tử thật là khó.
Chuyện 13
Giết con cầu danh
Lời dẫn:Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là đức hạnh tốt của người Trung Quốc. Giả dối, lừa đảo là điều xấu xa trong nhân loại. Đức hạnh tốt và điều xấu xa là đối lập nhau cũng trở thành chứng cớ rõ ràng. Nếu không có mặt xấu thì không hiển lộ được mặt tốt. Văn hóa nhân loại tiến bộ, trí thức của con người cũng hiểu rộng thì dường như lừa dối, xảo trá cũng đi đối với nhau, bộ mặt xấu xa được trang điểm rất xinh đẹp. Làm người, ai cũng muốn mình có đức hạnh tốt thật sự phải không? Nhưng khi họ làm không được thì giở trò gian xảo, lừa dối để che đậy, làm cho vẻ đẹp của nhân sinh bị bóng tối tội ác bao trùm.
Xưa kia, ở Ấn Độ có một vị bà-la-môn. Thường ngày, hắn rất chuộng sĩ diện, lại thích danh lợi, nhưng làm việc bất chính, thường dùng thủ đoạn lừa đảo để được chút danh lợi nhỏ. Trải qua thời gian, mọi người biết việc làm của hắn; do đó, hắn không thể tiếp tục sống ở địa phương mình nên dắt vợ con đi xa đến làng khác. Sống nơi đất lạ quê người, vì lo cơm áo, gạo tiền mà hắn đành phải hành nghề coi bói ở trên đường phố. Hắn tùy tiện viết bản quảng cáo: “Nơi đây xem thiên văn, thông cả địa lý, tiên đoán họa phúc của người và biết nhân quả ba đời”. Nhưng hắn làm ăn vẫn thất bại.
Một hôm, hắn nghĩ ra diệu kế nói với mọi người: “Tôi biết được quá khứ và tương lai, nếu mọi người không tin thì chúng ta có thể làm thí nghiệm; tôi đoán biết thằng bé con tôi, bảy ngày sau sẽ chết. Xin các vị bảy ngày nữa hãy đến chứng minh lời nói của tôi là sự thật”.
Đến ngày thứ bảy, vì để chứng minh lời tiên đoán của mình, hắn giết chết đứa bé, nên được mọi người tin tưởng. Từ đó, mọi người tranh nhau kéo đến nhờ hắn coi bói, xem nhân quả. Nhà của hắn lúc nào cũng ồn ào, hắn thu được một ít đáp lễ của mọi người. Nhưng chẳng bao lâu, ai ai cũng biết lời hắn nói không có linh nghiệm. Hắn lại không thể tiếp tục sống ở đây, nên lưu lạc phương khác.
Bài học đạo lý
Con người có tâm hiếu kỳ, lại mắc chứng bệnh chung ham của rẻ. Cho nên, họ vì chút lợi mà thường hi sinh tương lai tốt đẹp; hoặc tự đánh mất nhân cách của mình. Nếu người không có chính tri chính kiến; hoặc người tu hành cho qua ngày thì khó thoát được hai cửa danh lợi này. Như những người hành nghề đồng bóng; có người lợi dụng coi bói, xem nhân quả để lôi cuốn mọi người; có người lợi dụng uy danh của thần để lừa gạt tiền của, gái đẹp; có người lợi dụng một chút thần thông của quỷ thần mà trục lợi; có người học chút pháp thuật để mê hoặc người lấy tiền; có người dụng công tu hành chút ít, lại đi khoe khoang tôi đắc thần thông, giải đáp tất cả vấn đề, tự nêu cao tên tuổi mình làm việc cứu đời; kỳ thật là vì danh lợi cá nhân.
Câu chuyện giết con cầu danh chỉ là một thí dụ, loài người không đến nỗi ngu ngốc như thế. Nhưng chúng ta tìm hiểu kĩ có rất nhiều người giống gã ngu này. Như có người vì vợ con mà bất hiếu với cha mẹ; có người vì cầu danh lợi mà phản bội thầy; có người vì chút địa vị hư danh mà bán nước bán dân; có người vì được vài đồng tiền mà tranh cãi đỏ mặt tía tai. Những kẻ đó, đều là hạ thấp nhân cách, đánh mất đạo đức, hủy diệt tương lai, chỉ cầu chút ích lợi trước mắt mà thôi. Họ khác gì kẻ ngốc?
“Trời có đức hiếu sinh, người có lòng trắc ẩn”. Nếu chúng ta làm trái lòng trắc ẩn là đánh mất nhân cách; huống gì, vì một chút lợi nhỏ mà hủy diệt tương lai của mình. Cho nên, trung hiếu, nhân nghĩa là căn bản làm người xử thế, không làm được nhân nghĩa thì cũng phải giữ bản vị nhân tính, mới không đánh mất tối linh trong muôn vật. Bằng không thì một khi mất thân người muôn kiếp khó được lại. Thật là oan uổng.
Chuyện 14
Giết người dẫn đường tế thần
Lời dẫn: Tất cả học vấn, trí thức, tài nghệ ở thế gian đều phải nhờ thầy chỉ dạy; mỗi người đều có chuyên môn và tri thức của mình. Chúng ta muốn học một về nghiên cứu giảng dạy, hay học nghề nào để mưu sinh cũng phải theo thầy chỉ dạy. Cho nên, đối với thầy- bậc tiên tri tiên giác, chúng ta phải hết lòng tôn trọng và cung kính, mới có thể đạt được lợi ích, cũng là phù hợp nguyên tắc căn bản làm người. Bằng không, chúng ta tự hủy hoại nhân cách và tương lai của mình.
Ngày xưa, có mấy vị thương buôn thân nhau muốn ra biển tìm châu báu. Thời đó, chưa có la bàn và đài thiên văn dự báo thời tiết như ngày nay, chỉ dựa vào người có kinh nghiệm để dẫn đường- gọi là người dẫn đường đi biển. Vì người dẫn đường mới có thể biết được phương hướng trên biển và thời tiết thay đổi. Nhóm người thương buôn này muốn ra biển thì phải mời một người dẫn đường. Vì thế, họ đi các nơi dò la, thăm hỏi, thật khó khăn lắm họ mới tìm được người dẫn đường, họ đem vàng đến biếu trước để mời người này. Mọi người chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần dùng, chọn ngày tốt cúng bái thần thánh rồi khởi hành ra biển.
Trải qua mấy ngày, thuyền chạy trên biển, sóng lặng gió êm rất thuận lợi. Bỗng một hôm, trên biển nổi sóng gió, tiếp đến sấm chớp mưa to gió lớn nổi lên, liên tục suốt mấy ngày, đoàn người sống trong sợ hãi. Trước tình thế cấp bách, chợt có người nhớ lại nói: “Chúng ta đi biển phải cúng tế thần biển mới được sóng lặng gió êm”. Nhưng tế thần phải có sinh mạng động vật làm vật cúng tế, vì mọi người trong đoàn đều là người thân, chỉ có người dẫn đường là người ngoài; kết quả, mọi người bàn luận, chỉ có hi sinh người dẫn đường giết anh ta làm vật tế lễ. Đoàn người chí thành cầu nguyện thần biển, cầu xin thần gia hộ biển lặng, tìm được châu báu yên ổn trở về nhà.
Đúng ngày hôm sau, thời tiết thay đổi tốt. Nhưng biển cả mênh mông, họ không biết đi về hướng nào mới tìm được châu báu; ngay cả hướng trở về nhà họ cũng không cách gì nhận định được. Do đó, họ cứ lênh đênh trôi dạt trên biển cả, dần dần lương thực mang theo đã hết cạn, mọi người vừa đói vừa khát; cuối cùng, cả đoàn người đều chết hết trong biển cả.
Bài học đạo lý
Người đi đường vào ban đêm cần phải có đèn; ra ngoài lúc trời mưa phải có dù và áo mưa. Con người sống ở thế gian phải có cha mẹ, thầy tổ, thiện tri thức, nuôi dưỡng và chỉ dạy; lẽ nào chúng ta vong ân phụ nghĩa. Tục ngữ có câu: “Học Phật một năm, hai năm Phật ngay trước mắt; ba năm, bốn năm không Phật đã đi xa”. Người không nghe Phật pháp thì không có trí huệ. Người không tinh tiến tu hành thì không có định lực, không thể đoạn trừ phiền não. Người mới tin Phật cho rằng việc gì cũng có Đức Phật gia hộ; vì thế, họ rất cung kính, cúng dường Tam bảo. Nhưng dần dần lâu ngày họ sinh ra lười biếng, gặp nghịch cảnh thì trách Phật không gia hộ; cho nên, họ khinh thầy, xem thường Phật, hoặc phá giới, lòng tin đạo trước đây cũng không còn.
Có người chỉ cầu Phật gia hộ mà không chịu gần thiện tri thức, không nghe Phật pháp nên lòng tin không kiên cố. Có người không có chính tri chính kiến, chỉ hiếu kỳ cầu cảm ứng. Bởi vì, thời đại mạt pháp, tà sư, ngoại đạo thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng; cho nên, mọi người bị ngoại đạo dụ dỗ, mê hoặc đi vào đường tà. Khác nào như người đi biển mà chẳng có người dẫn đường?
Thế gian có rất nhiều người muốn học Phật, muốn vào biển cả Phật pháp tìm châu báu. Khi họ mới đến đạo Phật rất nỗ lực tu tập, nghiên cứu Phật pháp; lại nghiêm trì giới luật. Trải qua thời gian, họ sinh lười biếng, lại còn làm ác, phá giới mà chẳng lo sợ. Điều này khác gì giết người dẫn đường đi biển? Người học Phật lấy giới làm thầy, phá giới là mất đi căn bản học Phật mà muốn thoát khỏi biển khổ sinh tử là điều vô lý.
Chuyện 15
Bé vừa sinh lại muốn lớn ngay
Lời dẫn:Pháp sư Huyền Trang ở đời Đường đi Ấn Độ thỉnh kinh, phải mất thời gian hai, ba năm mới đến. Ngày nay, chúng ta ngồi máy bay khoảng sáu tiếng thì đến. Ngày xưa, làm việc gì cũng phải dựa vào sức người. Ngày nay, mọi việc đều dựa vào máy móc hiện đại, khoa học tiến bộ, quả thật mang đến cho nhân loại hạnh phúc rất nhiều. Con người sinh ra có thể bằng thụ tinh nhân tạo, cũng có thể hạn chế được kế hoạch sinh đẻ. Y dược có thể chữa trị được nhiều chứng bệnh nan y, bác sĩ dùng phương pháp phẫu thuật thay tim, ghép thận; hoặc chữa bệnh bằng cách máy móc tối tân hiện đại, kéo dài mạng sống con người. Nhưng không thể làm cho con người vừa sinh ra lớn ngay lập tức.
Xưa kia, ở Ấn Độ có một vị vua, vì lớn tuổi mới sinh được một cô công chúa, nên nhà vua muốn cô lớn nhanh lập tức. Nhà vua liền triệu tập tất cả đại thần văn, võ vào để thảo luận, trình bày ý kiến của mỗi người. Nhà vua thấy không có phương pháp nào làm cho công chúa lớn nhanh được. Vị quan võ thưa:
- Tâu bệ hạ! Nếu quốc gia bị giặc xâm chiếm thì chúng thần có thể hi sinh thân mình để đánh dẹp quân địch; cho dù, địch có thiên binh vạn mã, chúng thần cũng không lùi bước, nhưng việc bệ hạ muốn làm cho công chúa lớn ngay thì chúng thần đành bất lực, xin bệ hạ thứ tội.
Vị quan văn thưa:
- Tâu bệ hạ! Bất kỳ việc lớn nhỏ của quốc gia, chúng thần đều có thể vận dụng trí tuệ, mưu lược xử lý, giải quyết mọi vấn đề; còn về việc công chúa lớn nhanh, xin lỗi chúng thần không am hiểu việc này.
Vị thần khác thưa:
- Tâu bệ hạ! Ngài muốn làm công chúa lớn nhanh chóng, đây là vấn đề sinh lý y học can thiệp. Vì sao bệ hạ không mời một vị thầy thuốc tài giỏi đến luận bàn thử.
Do đó, nhà vua liền cử người đi mời tất cả thầy thuốc nổi tiếng trong nước đến. Vua hỏi:
- Các khanh giỏi về y dược, không biết có loại thuốc nào làm cho công chúa lớn ngay lập tức không?
Các thầy thuốc nghe nhà vua nói muốn làm cho công chúa lớn ngay, nên vô cùng kinh hãi, suy nghĩ: “Vua muốn làm cho cô bé lớn ngay, khắp thiên hạ làm gì có việc này, nhưng nếu chúng ta nghĩ không ra biện pháp thì nhà vua nổi giận, bay đầu như chơi còn cả nhà phải làm thế nào?”. Trong lúc nguy cấp, có một thầy thuốc chợt nghĩ ra kế vội thưa:
- Tâu bệ hạ! Nếu ngài muốn công chúa lớn ngay, quả thực có linh dược này, nhưng rất khó tìm, có thể nói nghìn năm mới thấy gặp được thuốc hay; nó lại mọc trong núi thẳm hang cùng, nơi không có người đi đến, cũng phải đợi đến thời kỳ nó chín mới có thể hái được; cho nên cần phải có thời gian rất lâu để đi tìm. Thần không biết bệ hạ có kiên nhẫn đợi được không?
Nhà vua bảo:
- Chỉ cần khanh làm cho công chúa lớn ngay lập tức, bất luận thời gian bao lâu trẫm vẫn đợi được; nhưng phải có kỳ hạn là chờ bao lâu?
- Tâu bệ hạ! Lâu nhất là 15 năm, sớm nhất là 10 năm; nhưng trước khi thần chưa tìm được linh dược, tạm thời bệ hạ cho thần bế công chúa đi. Bởi vì, khi tìm được linh dược phải bào chế thuốc ngay và uống liền tại chỗ mới có hiệu quả, nếu để lâu thuốc không có linh nghiệm; cho nên thần muốn bế công chúa đi.
- Rất tốt! Cách này hay lắm!
Từ ngày công chúa bị thầy thuốc ẵm đi, không còn ở trong cung, dần dần nhà vua cũng quên lãng việc này, thấm thoát đã 12 năm trôi qua. Một hôm, thầy thuốc này đem công chúa trở vào cung, nhà vua nghe tin vui mừng khôn xiết, lập tức cho họ vào. Vua thấy công chúa đã trở thành thiếu nữ, xinh đẹp tuyệt trần, càng hớn hở vui mừng ban cho thầy thuốc rất nhiều vàng bạc châu báu.
Bài học đạo lý
Chúng ta học Phật, trước tiên phải quy y Tam bảo, gần gũi thiện tri thức, tu lục độ vạn hạnh, tích lũy công đức và tu tâm tính, bồi dưỡng dần dần mới được thành tựu. Có người dám ngụy xưng trời ban chân đạo. Họ có bí quyết gì làm cho mau đắc đạo, thật giống như nhà vua trong câu chuyện, đứa bé vừa sinh mà muốn lớn ngay lập tức, giống như trẻ con làm trò cười.
Đức Phật là bậc Chính Tri Chính Giác Vô Thượng đầy đủ từ bi, trí huệ, phúc đức và thần thông vô lượng. Ngài tu hành tích lũy nhiều đời nhiều kiếp. Trong đạo Phật tuy có pháp môn đốn ngộ, nhưng cũng phải dựa vào một nửa nỗ lục tu hành, một nửa căn lành, trí huệ sắc nhạy bén đời trước, mới có khả năng đốn ngộ. Sau khi đốn ngộ, cũng phải tiệm tu, tích lũy công đức, mới có thể thành Phật. Thế gian này không có chuyện một bước lên trời.
Chuyện 16
Lấy nước mía tưới cây mía
Lời dẫn:“Lòng cha mẹ như trời biển”. Người làm cha mẹ trong thiên hạ, không ai mà không yêu thương con mình. Nhưng thương con không đúng cách thì dẫn đến con cái thành thói hư tật xấu. Trong giới sĩ, nông, công, thương mỗi người đều phải làm việc kiếm tiền sinh sống; nhưng cách kiếm tiền bất hợp pháp sẽ đưa đến nguyên nhân thất bại. Mỗi người đều có một công việc, nhưng làm việc phải chính đáng, nếu làm bất chính là kẻ hư hỏng. Chúng ta suy một mà ra ba, muôn việc ở thế gian đều có chính-tà và có đúng-sai.
Ngày xưa, ở một vùng nông thôn nọ có hai người nông dân rất thân nhau. Một hôm, hai người ngồi bàn tán thảo luận về việc trồng mía. Anh A nói:
- Chúng ta thi nhau trồng mía người nào thắng thì được nhận một số tiền thưởng, người nào thua phải chi ra số tiền thưởng nhé! Anh thấy thế nào?
Anh B đáp:
- Được đó! Như thế thật là thú vị, cũng là khích lệ công việc sản xuất, nâng cao thành phẩm, lời nói như đinh đóng cột nhé!
Hai người giao kèo quy ước thi đấu xong. Họ chia đám đất mỗi người một nửa và bắt đầu thi đấu.
Trải qua mấy ngày, anh A vắt óc suy nghĩ muốn tìm cách nào để thắng được thi đấu lần này. Sau mấy ngày suy tính, cuối cùng anh chọn một cách. Anh nghĩ: “Mía ngon là nhờ ngọt, chắc phải dùng thứ ngọt tưới nuôi dưỡng nó. Vì thế, ta dùng nước mía tưới lên, nhất định sẽ thu hoạch bội phần”. Vài ngày sau, hai người bắt đầu cày đất, trồng mía. Anh A thường đem nước mía tưới lên. Anh B vẫn làm những công việc bình thường, nhưng chăm chỉ hơn; anh siêng năng xới đất, nhổ cỏ, bón phân, tưới nước.
Sau vài tháng, đám mía của anh A dần dần vàng úa. Mía của anh B ngày càng tươi tốt, cao lớn mập mạp. Cuối cùng, đám mía của anh A chết khô héo; mía của anh B lại được trúng mùa. Đây vì nguyên nhân gì? Là làm đúng phương pháp hay không đúng mà thôi.
Bài học đạo lý
Tục ngữ có câu: “Giặc trộm kế của trạng nguyên”. Người thông minh lại mắc phải sai lầm thông minh làm hại, việc này đâu đâu cũng có. Những kẻ lưu manh, trộm cắp cho rằng không cần lao động cực nhọc mà vẫn được hưởng. Kẻ lừa dối, gạt người cho mình động ba tấc lưỡi thì được tiền của. Nhưng theo luật nhân quả “thiện có quả báo thiện, ác có quả báo ác”. Báo ứng liền theo sau.
Muôn sự ở thế gian, chúng ta làm việc một phần thì hưởng một phần; tuyệt đối không có chuyện kẻ lười lao động mà hưởng thành quả. Cho nên đạo Phật nói: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”. Không có đạo lý trồng cỏ um tùm mà được gặt lúa.
Trong giới sĩ, nông, công, thương nỗ lực làm việc đều có phương pháp của họ. Nếu người chỉ chuyên vắt óc suy nghĩ tìm cách chiếm đoạt tài sản của người khác; hoặc dùng thủ đoạn đầu cơ trục lợi để mình có lợi thì sẽ chịu quả báo hại mình. Như người làm việc văn phòng tham ô trái pháp luật. Người nông dân dùng phân bón hóa học quá liều lượng để thu hoạch cao có hại sức khỏe người tiêu dùng. Công nhân tham lam lấy trộm vật liệu, làm việc qua loa. Doanh nhân dùng hàng giả bán lừa gạt người tiêu dùng để được lời nhiều. Kết quả, họ đều chịu báo ứng thích đáng tội mình làm. Mỗi người ở thế gian đều có một nghề, ai cũng có thể làm lợi ích cho xã hội. Chúng tôi nói cách khác, mọi người đều có thể bóc lột xã hội, vấn đề là chúng ta có lương tâm hay không.
Tiền đồ của mỗi người sáng sủa hay mờ mịt, nhân cách thanh cao hay thấp hèn, tương lai tiến thân hay sa đọa đều bắt đầu từ một ý niệm của chúng ta. Nếu người giữ tâm lương thiện, mặc dù hiện tại chịu thiệt thòi một chút nhưng tương lai nhất định được quả báo tốt đẹp. Kẻ gian ác tuy trước mắt chiếm được lợi phẩm một chút, nhưng dần dần nhân cách bị sa đọa. Mọi người chán ghét, tương lai nhất định sẽ tăm tối, chính là do có tâm xấu. Dùng người, làm việc không đúng phương pháp, cũng tạo thành kết quả không tốt. Vì thế, chúng ta phải học theo Đức Phật, Thánh hiền dạy, lý do là ở đây.
Chuyện 17
Tham việc nhỏ mà bỏ việc lớn
Lời dẫn:Rất nhiều người ở thế gian này gặp việc lớn thì mê muội còn việc nhỏ thì sáng suốt; đây chính là nói: “Chỉ tham một chút lợi nhỏ mà bỏ việc lớn”. Như nói: “Người làm nghề buôn bán ngồi tính từng đồng, từng cắt, nhưng khi ăn chơi thì xả láng, vung tay quá trán”. Kẻ trộm cắp lưu manh kiếm được tiền từ lừa đảo cướp giật, cũng đốt vào chuyện ăn chơi cờ bạc, rượu chè, trai gái. Kẻ làm quan lớn tham ô tiền của nhà nước, lại bị sạch túi vì các em chân dài. Những ví dụ này đều là tham việc nhỏ mà bỏ việc lớn.
Thuở xưa, có một lão phú ông rất giàu, tiền của, châu báu nhiều vô số; lại còn có ruộng đất, đồn điền cò bay thẳng cánh, có thể nói lão địch nổi với các nước giàu có. Nhưng khi buôn bán, lão tính toán từng đồng, từng cắt tỉ mỉ. Nếu có khách hàng lỡ thiếu lão một đồng, lão cũng tìm trăm phương nghìn kế đòi lại cho bằng được.
Bốn năm về trước, có một khách hàng thiếu phú ông một đồng. Một hôm, lão bỗng nhớ đến việc này. Mỗi lần, lão đến nhà người kia đòi phải tốn hai đồng tiền xe. Vì khách hàng không có ở nhà nên lão phải tốn thêm hai đồng trở về. Vài ngày sau, lão lại đi đòi nợ, người này vẫn không có ở nhà; tổng cộng lão đi ba lần mới đòi được một đồng tiền nợ. Tổng cộng lão tốn mười hai đồng tiền xe, lại còn hao tổn tinh thần và sức khỏe rất nhiều để đòi được một đồng. Chuyện này chẳng phải khôi hài hay sao?
Bài học đạo lý
Thực tế trong xã hội có rất nhiều người lòng dạ hẹp hòi, như trong cuộc sống thường ngày, mọi người vì một việc rất nhỏ mà mắng chửi nhau. Có người vì giành nhau một tờ giấy, một tách trà mà đánh nhau mẻ đầu sứt trán; hoặc vì một câu nói không hợp ý nhau, hay trái tai thì liền hạ cẳng tay thượng cẳng chân; cho đến, đặt điều vu oan kéo nhau ra tòa án. Chuyện mua bán thường ngày, chẳng những tính toán thiệt hơn mà còn vì tranh chấp vài đồng tiền lẻ mà cãi nhau đỏ mặt tía tai. Kết quả thế nào? Đánh mất nhân cách, mọi người đều xa lánh, cho đến kết oán thù. Những việc này xảy ra hàng ngày như cơm bữa.
Trong tôn giáo vốn khuyên người làm thiện, hướng dẫn mọi người theo chánh tín; cho đến, chỉ dạy mọi người tu hành, giải thoát sinh tử và thờ cúng thần thánh thì nhân cách và tu dưỡng của người này cao thượng hơn người bình thường. Nhưng có những người từ việc thờ thần, cho đến làm chức vụ trong Phật giáo. Bất kỳ, chánh pháp, tà pháp; nội đạo, ngoại đạo; chánh tín, mê tín họ đều làm càn, kêu gọi tín đồ quyên góp tiền của vì chút lợi ích cho mình mà rơi vào đường tà. Lẽ nào không oan uổng, đáng thương?
Con người sinh ra thế gian này là theo nghiệp lực, vì cuộc sống mà phải lao tâm khổ tứ, suốt đời cũng vì cơm ăn áo mặc mà ra sức làm việc, thậm chí tạo nhiều ác nghiệp như sát, đạo, dâm, vọng v.v…làm cho nhiều đời nhiều kiếp luân hồi trong sáu đường, oán thù lẫn nhau không dứt. Đây không phải vì tham việc nhỏ mà bỏ việc lớn hay sao?
Xã hội ngày nay, có một số người sống thực dụng. Bạn đối với tôi có lợi thì tôi cung kính, tôn trọng, nịnh nọt, hối lộ. Còn không có lợi thì tôi xem thường, ganh ghét, lừa dối, tàn hại lẫn nhau; thậm chí, giở trò gian trá liều mạng hạ gục anh để tôi tiến thân, mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé. Đạt Nhĩ Văn nói: “Muôn vật ở trong sự cạnh tranh hơn, kém. Vật hơn thì được sinh tồn, vật kém thì bị đào thải”. Làm cho thế gian như bãi chiến trường của a-tu-la. Là cõi người, hay cõi súc sinh? Truy tìm đến tận gốc, chỉ vì chút lợi nhỏ mà thôi.
Chuyện 18
Mài dao trên lầu
Lời dẫn: “Người phải vươn lên, nước thường chảy xuống”. Ai mà không muốn vươn lên cuộc sống? Khi con người sống cảnh thiếu thốn cơm ăn, áo mặc, nhà ở thì họ nỗ lực phấn đấu làm việc để cuộc sống đầy đủ về mặt vật chất. Lúc đầy đủ vật chất thì tìm cầu chuyện làm đẹp bản thân. Khi cuộc sống tạm đầy đủ, họ vẫn chi tiêu tiết kiệm cũng dành dụm chút đỉnh, họ càng gom góp càng muốn cho nhiều; cho nên, ham muốn của con người mãi mãi là túi tham không đáy. Người chưa đạt danh vọng, địa vị trong xã hội thì họ làm cho bằng được, được rồi lại muốn thăng quan tiến chức. Vì thế, sự mong cầu của con người không bao giờ thấy đủ.
Ngày xưa có một người rất nghèo, phải đi xin ăn khắp mọi nơi để duy trì cuộc sống. Hắn thường bị chó dữ ức hiếp, hoặc bị mọi người khinh bỉ, mắng chửi, hủy nhục. Trải qua những ngày tháng rất khổ sở tủi nhục như thế, hắn nghĩ mình sinh nhầm thế kỉ. Trong lúc hắn tuyệt vọng thì gặp được một người hỏi hắn:
- Anh còn trẻ mạnh khỏe, lại không tật nguyền vì sao phải đi ăn xin như vậy?
Hắn đáp:
- Nếu tôi không đi ăn xin thì tôi biết làm nghề gì để sống; vả lại, kiếp sống ăn xin tôi cũng làm chưa nổi, tôi sống chẳng có ý nghĩa gì?
- Anh đừng quá bi quan thất vọng, tôi sẽ giúp anh tìm công việc làm. Anh có đồng ý làm không?
- Tôi tìm được công việc nhưng không thích hợp nên mới đi ăn xin. Anh nói thử công việc để tôi xem thử nhé!
- Hiện nay trong cung vua đang thiếu người coi chăm sóc vườn hoa, tôi giới thiệu giúp anh đến làm việc ở đó.
Nhờ vậy, hắn được làm việc ở trong cung rất chăm chỉ, làm mãi cho đến khi tuổi về hưu. Nhà vua ban thưởng cho hắn rất nhiều của cải, một con lạc đà đã chết và ngôi nhà lầu nhỏ xinh xắn.
Gã người nghèo dọn về ngôi nhà của mình. Hắn muốn làm thịt con lạc đà cắt từng miếng thịt nhỏ ướp muối, để dành ăn từ từ. Hắn đi tìm con dao, nhưng dao quá cùn; hắn đi lên lầu mài xong, vừa xuống lầu cắt được vài miếng thì lại cắt không được, hắn lại lên lầu mài tiếp. Cứ như thế, hắn chạy lên, chạy xuống không biết bao nhiều lần, thật là cực khổ. Cuối cùng, hắn nghĩ ra một cách: “Ta cứ chạy lên lầu xuống lầu như thế quá mệt, chi bằng ta vác con lạc đà lên lầu, vừa lóc thịt, vừa mài dao, khỏi phải cực nhọc chạy lên chạy xuống”.
Bài học đạo lý
Chúng sinh từ vô thỉ đến nay luân hồi trong sáu đường, cứ mãi trôi lăn trong sinh tử không biết mấy nghìn vạn lần, xương của chúng sinh chất cao như núi, nước mắt chúng sinh khóc cho nỗi khổ sinh tử nhiều như biển cả, vẫn không thoát được luân hồi trong sáu đường. Chúng ta sống ở thế gian này, giống như gã nghèo muốn ăn miếng thịt. Hắn chạy lên lầu, xuống lầu, dụ cho luân hồi trong sáu đường, thật khó mà nghĩ ra biện pháp hay. Hắn đem thịt lên lầu, dụ cho sinh lên cõi trời vừa được hưởng thụ khoái lạc thì lại bị đọa. Hắn ăn được miếng thịt phải chạy lên xuống thật là cực khổ, lại luân hồi trong sáu đường.
Tất cả chúng sinh lặn ngụp trong sinh tử, vì cuộc sống của họ vừa cực khổ vừa tạo nghiệp, chịu đau khổ kiếp người rất nhiều mới có thể sống. Có người cho rằng đó là vận mệnh, hoặc thần thánh sắp đặt, hoặc sinh lên trời là hiện tượng tự nhiên, không có biện pháp tự làm chủ mình. Vì thế, chấp nhận số phận trôi qua một đời trong mờ mịt, hoặc tạo các nghiệp ác để cầu chút an vui, được vui tạo nhân khổ, không biết quả về sau càng đau khổ hơn. Khi nào họ mới thoát khổ được an vui? Điều này phải tìm trong Phật pháp mới biết được.
Có ai bằng lòng đi làm những việc tốn công vô ích, ai mà không muốn mình tiến thân? Ai mà không muốn sinh lên cõi trời để được hưởng thụ cuộc sống sung sướng? Hoặc giải thoát sinh tử không còn nghiệp lực trói buộc; hoặc sinh về Tịnh độ được an lạc tự do tự tại? Tất cả những điều này đều dựa vào sự nỗ lực của chúng ta, không phải nằm trong tay thần thánh điều khiển; chỉ cần chúng ta nương theo Phật pháp tu hành thì chúng ta có khả năng làm được những việc này. Đức Phật dạy: “Thế gian và xuất thế gian thành tựu theo nguyện”. Chúng ta muốn không còn mê hoặc sinh tử thì về đi thôi! Tây phương Tịnh Độ sao ta không về?
Chuyện 19
Khắc dấu dưới nước
Lời dẫn:Thế gian có rất nhiều việc mà mọi người cho là sự thật. Nhưng trên thực tế là một dạng nhận thức sai lầm mà theo thói quen cho là đúng; hoặc tự mình sai lầm mà không biết được. Như ngày xưa con người cho rằng mặt trời xoay quanh trái đất, trên thực tế là trái đất xoay quanh mặt trời. Khi chúng nhìn thấy con đường quốc lộ, hay đường sắt ở trước mặt, nhưng khi cách xa thì con đường càng nhỏ, trên thực tế con đường vẫn như vậy. Ban đêm, chúng ta nằm mộng thấy rõ ràng có nhà cửa, có con đường, có những người nào đó và cũng có xảyra những sự việc; nhưng khi tỉnh dậy chẳng thấy có việc gì.
Chúng ta sống ở thế gian này, cũng giống như nằm mộng, chẳng có vật gì là thật. Nhưng trong ý thức hoặc cảm nhận của chúng ta mỗi sự việc đều là thật. Vì cảm nhận sai lầm nên gây ra sự đau khổ và tạo nghiệp suốt một đời; đây là chúng sinh bị mê hoặc.
Ngày xưa, có một thương nhân muốn vượt biển ra nước ngoài để mua bán. Lúc đó, chưa có máy bay, đi thuyền cũng chưa có máy móc như ngày nay, chỉ giương buồm mà đi; cho nên không may gặp sóng to, gió lớn là việc rất nguy hiểm. Thương nhân này vì muốn kiếm tiền lời nhiều, nên không tiếc thân mạng, mạo hiểm vượt biển để đi buôn. Một hôm, thuyền đang chạy ra giữa biển; lúc đó, hắn đang đứng trên mũi thuyền ngắm nhìn phong cảnh, vì sơ ý nên đánh rơi xâu chuỗi ngọc xuống biển. Hắn muốn lặn xuống nước để tìm xâu chuỗi, nhưng vì đi cho kịp nên liền khắc dấu một đường lằn sóng dưới nước để nhớ. Khi trở về, hắn có thể nhờ dấu khắc này mà biết chỗ vớt xâu chuỗi lên cũng không muộn; vì thế, hắn vội giương buồm chạy.
Thời gian trôi qua rất nhanh, thoáng chốc đã qua hai tháng, khi trở về hắn tìm dấu khắc, vẫn tìm không được, thật không dễ gì tìm được lằn sóng, hắn chạy tìm xuôi ngược, nhưng làm sao tìm được. Người bên cạnh nói: “Mặc dù đường lằn sóng nước giống nhau, nhưng mỗi chỗ khác nhau. Làm sao tìm được?”
Bài học đạo lý
Mỗi người đều có quan niệm. Người thông minh có quan niệm của người thông minh. Người ngu si có quan niệm của người ngu si. Ngoại đạo có quan niệm của ngoại đạo. Trong Phật giáo, mỗi người hiểu Phật pháp cũng không giống nhau. Quan niệm có chánh có tà. Bậc Cổ đức dạy: “Chọn điều thiện mà giữ”. Nếu chúng ta quan niệm chính pháp là trợ giúp tu hành giải thoát; còn quan niệm tà kiến thì hại không biết bao nhiêu người rơi vào pháp tà, có làm việc cũng uổng công vô ích.
Người thông minh trí huệ nhạy bén, nếu cố chấp quan niệm không chịu học hỏi và không tiếp nhận ý kiến hữu ích thì thường chấp sai cho là đúng, chấp tà cho là chánh; hoặc mưu mô xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản của người khác, nhất định tương lai họ sẽ bị đọa. Người ngu kiến thức hẹp hòi, đem tâm tiểu nhân đo lòng quân tử thì sai lầm nhiều. Nếu họ khiêm tốn thỉnh giáo thiện tri thức, cũng được hưởng là người có phúc. Ngoại đạo chấp tà kiến, vào trước là chủ, khăng khăng không nhận sai lầm, chắc chắn đọa vào đường tà, thật là đáng thương.
Phật pháp có tám vạn bốn nghìn pháp môn, vì theo căn cơ của mỗi người mà Đức Phật thuyết pháp. Có người tự cho mình đúng, người khác sai; hoặc bài trừ những điều khác mình; hoặc khăng khăng cố chấp cho mình là đúng, đều là tôn sùng quan niệm của mình.
Có người sáng thế này, chiều thế khác tu hành xen tạp. Tuy họ không có kiến chấp nhưng vẫn là người không được thành tựu, giống như một khoảnh đất gieo nhiều loại hạt giống, chúng ta có thể thu hoạch được nhiều trái cây không? Chúng ta tinh tiến tu hành cũng phải có mục tiêu, chỉ chuyên tu hành một pháp môn thật sự thì mới đạt được thành tựu. Vì thế, xả bỏ quan niệm không phải là người không có chủ kiến mà phải khiêm tốn nghiên cứu, cầu thỉnh thiện tri thức chỉ dạy. Sau đó, chúng ta chọn pháp môn thích hợp căn cơ của mình rồi bắt đầu tu, phải thấy được trí huệ và thiện duyên của mình.
Chuyện 20
Cắt mười cân đền một trăm cân
Lời dẫn: Ánh điện dễ tắt, lửa đá xẹt nhanh, nước chảy ra biển cả, hoa nở thì hoa tàn. Nhân loại hàng ngày cũng thường nói với nhau, tuy lời nói gió bay nhưng điều tốt, xấu lưu lại trong lòng người. Bậc Cổ đức dạy: “Nói nhiều lỗi nhiều”. Ai cũng biết nói, nhưng khi nói thường mắc phải sai lầm; hoặc nói lỗi lầm của người khác; hoặc phê bình họ, xảy ra nhiều chuyện phiền phức. Mỗi người đều có thể phê bình người khác, và cũng bị người khác phê bình lại mình; nhưng ai cũng sợ người khác phê bình mình.
Thuở xưa, có một vị vua rất sợ người khác phê bình mình; cho nên, vua rất căm ghét những người nói chuyện đúng sai của mình. Vì vua là bậc đứng đầu trong nước, cho nên tùy tiện đặt ra những điều trong pháp luật, có thể khép tội người phải chết. Đây chính là khuyết điểm của thời đại chuyên chế. Mặc dù vị vua này thường giết những người dám nói chuyện đúng sai của ông ta, nhưng nhân dân không sợ vẫn cứ nói. Có người dám nói xúc phạm vua rồi chịu chết chứ không thể im lặng. Do đó, người nói chuyện đúng sai của vua ngày càng nhiều.
Một hôm, khi vừa bãi triều, vua rình sau bức rèm lén nghe các đại thần phê bình mình. Có người nói: “Ông vua này là kẻ hôn quân bạo tàn vô đạo, so với loài thú dữ càng ghê gớm hơn”. Vua nghe đại thần nói nổi giận đùng đùng, giống như thú dữ điên cuồng, giận dữ nhìn các đại thần. Nhưng lúc đó, các vị đại thần đã đi nơi khác rất nhiều, chỉ còn lại vài vị lão thần lớn tuổi. Trong cơn thịnh nộ, vua không biết rõ thủ phạm là ai, chỉ nghe theo lời sàm tấu của kẻ tiểu nhân bên cạnh. Vua liền hạ lệnh bắt ngay một lão thần tra khảo và cắt hơn mười cân thịt trên thân ông, mới hạ cơn phẫn nộ lôi đình, làm cho lão thần đau đớn chết đi sống lại. Trải qua vài ngày, nhà vua điều tra sự việc rõ ràng, vua biết lão thần không có nói nên vô cùng áy náy, liền bồi thường cho lão thần này một trăm cân thịt, nhưng lão thần vẫn rên rỉ đau đớn. Vua nói:
- Trẫm chỉ cắt khanh mười cân thịt, nay bồi thường lại một trăm cân không đủ hay sao?
Lão thần mệt mỏi hỏi:
- Nếu như bệ hạ bị người khác cắt mất một cái đầu, rồi họ đền lại một trăm cái đầu; ngài có đồng ý không?
Vua hét lên:
- Việc này không thể được!
Khi vua hiểu rõ đạo lý này thì lão thần từ từ trút hơi thở cuối cùng.
Bài học đạo lý
Có khi, chúng ta đưa ra ý kiến sai lầm trong nhất thời, hoặc tạo tội nghiệp. Sau đó, cho dù có hối hận nhưng đã muộn. Vì thế, chúng ta phải học Phật, tu học trí tuệ mới hiểu rõ đúng-sai, tà-chánh, thiện-ác sẽ không tạo nghiệp làm ác; nếu không thì, khi báo ứng đến có hối hận cũng không kịp. Mỗi người đều có ưu điểm và khuyết điểm. Người có chút ưu điểm thì luôn khoe khoang, muốn mọi người ca ngợi mình; còn có khuyết điểm thì che dấu không muốn cho ai biết; lại thích nói chuyện thị phi của người khác và phê bình khuyết điểm của họ. Cho nên, chuyện thị phi ở thế gian rất nhiều.
“Mạnh hiếp yếu”, “ cậy thế ức hiếp người”, làm cho người yếu, người ngu chịu hàm oan nuốt hận, cũng là chuyện thường tình ở thế gian. Khiến cho con người nhiều đời, nhiều kiếp oan gia đối đầu tìm cách báo thù lẫn nhau, là khổ báo sinh tử xoay chuyển không ngừng.
Bậc Cổ đức dạy: “Có lúc sao sáng, có lúc trăng sáng, gió nước theo sự di chuyển”. Khi có tiền, có thế lực không thể có suốt đời. Nhưng con người vẫn mong muốn ai ai cũng kính phục mình, nói ra một câu ai nấy đều vâng theo, không muốn ai cãi lại câu nào. Người thấp hèn, người yếu đuối chỉ biết nói lén sau lưng vài câu bất bình cho hả dạ; nhưng họ thường chuốc họa vào thân. Lòng oán hận như thế, ức chế lâu ngày thành, khí oán thù đầy khắp vũ trụ, nhân duyên thành thục nhất định có báo ứng. Cho nên, thế gian mãi mãi không có cuộc sống thái bình.
Chuyện 21
Giết con cầu con
Lời dẫn: Lòng cha mẹ như trời biển. Làm người, ai cũng mong muốn: “Nhiều phúc, sống lâu, con cháu đông đúc”. Con cháu đông là nhờ phúc của tổ tiên, lại còn nối dõi tông đường; đây là tâm nguyện rất lớn của bậc làm cha mẹ. Lại nữa, họ còn mong “con trai thành rồng, con gái thành phụng”. Ai mà không mong muốn con cái mình hơn mọi người? Nhưng nguyện vọng của mọi người đều phải tốn nhiều công sức, cực khổ nuôi con lớn khôn, lại phải lao tâm khổ tứ dạy dỗ, mới trở thành một người có học vấn, có tri thức, lương thiện. Tất cả những điều này đều phải tốn rất nhiều về tinh thần và sức lực. Nếu như mọi người không tốn công sức trước thì e rằng tất cả mọi hi vọng đều trở thành thất vọng; lại còn có kết quả ngược lại. Đây là lẽ thường của người thế gian? Hay là nghiệp chướng?
Ngày xưa, có một quả phụ trung niên, chồng nàng mất đã mấy năm để lại một đứa con trai; nhưng nàng vẫn muốn có thêm một đứa con nữa. Thường ngày, ngoài công việc làm lụng trồng trọt cực khổ ra, nàng còn đi khắp mọi nơi đốt hương cầu thần, khấn Phật gia hộ: “Con không cầu vinh hoa, phú quí, cũng không muốn tái giá, chỉ mong ước có thêm một đứa con”. Việc này có mâu thuẫn không?
Có một bà đồng biết được việc này, liền chạy đến nhà nàng nói:
- Chị muốn có thêm đứa con nữa phải không?
Quả phụ đáp:
- Đúng thế! Bà có cách nào làm cho tôi có thêm đứa con không?
- Chỉ cần chị cầu thần, thần là đấng có quyền tuyệt đối, bất cứ việc gì thần cũng làm cho mọi người thỏa ước nguyện.
- Cầu như thế nào mới được cảm ứng?
- Chỉ cần chị cúng tế thần trọng hậu.
- Thế nào là cúng tế trọng hậu?
- Đem người để cúng tế.
- Là phải giết chết một người hay sao?
- Đúng vậy! Tốt nhất là người thân của chị.
- Tôi chỉ có một đứa con.
- Đúng rồi! Cách tốt nhất là con của chị.
Quả phụ này vì cầu con tha thiết, cũng bị mê tín thần là đấng quyền năng tuyệt đối. Cho nên, chẳng cần suy nghĩ liền giết con mình cúng tế thần.
Khi đứa bé chết rồi, thần có từ trên trời xuống ban cho quả phụ đứa con không? Mọi người hay chuyện liền kéo đến mắng quả phụ vừa ngu si vừa mê tín; bà đồng gian trá hại người. Đây là lỗi do thần hay do bà đồng?
Bài học đạo lý
Con người không thể không có tín ngưỡng tôn giáo, không có tín ngưỡng tôn giáo thì tinh thần không có nơi nương tựa, cũng không có chỗ để xoa dịu nỗi đau khổ; giống như con mất cha mẹ, chẳng những không có người giáo dục mà còn học theo thói hư tật xấu. Bởi vì, con không có cha mẹ, không có người trông nom dạy bảo, ngoài xã hội rất nhiều cạm bẫy xấu ác; cho nên, chúng nó rất dễ lôi cuốn học theo những thói xấu, một khi đã nhiễm thành thói quen thì tương lai đi vào ngõ cụt.
Tín ngưỡng theo tôn giáo cũng phải có lý trí mới đúng, nếu tin mù quáng theo tà giáo thì chi bằng không tin. Xã hội cũng có rất nhiều tà sư ngoại đạo, nếu chúng ta không có trí tuệ thì rất dễ bị bọn chúng lôi kéo. Khi mê tín bị tổn thất của cải là việc nhỏ mà nếu như qua lại giao thiệp với quỷ thần thì càng nguy hiểm. Tục ngữ có câu: “Mời thần đến thì dễ, đưa thần đi thì khó”. Điều đáng sợ hơn là tương lai đi vào tà đạo, mới là điều oan uổng rất lớn.
Có những kẻ ngoại đạo nói: “Thần là đấng quyền năng tuyệt đối”. Chỉ cần mọi người tin theo thần thì việc gì thần cũng giải quyết cho bạn êm đẹp. Bạn có tin thần làm được không? Nếu bạn phạm tội người khác có thể thay bạn ngồi tù được không? Người khác có thay bạn chịu đau đớn vì tật bệnh hay chết thay được không? Bạn ăn no có thay cho người khác không còn đói được không? Bạn vào nhà vệ sinh người khác có thay bạn được không? Những điều này không thể thay được. Lại nói làm con của thần, cầu tiền thì được tiền, cầu sống lâu thì được sống lâu; thậm chí, có thể thoát được tai nạn, tương lai được sinh lên cõi trời. Thần thật sự có quyền năng tuyệt đối như thế sao? Vậy tại sao thần không làm cho mọi người được giàu sang hạnh phúc, khắp thiên hạ được thái bình? Nếu như thần đòi hỏi mọi người đi cầu khẩn, cúng bái; hoặc đem lễ vật cúng tế thì mới được thần gia hộ. Vậy khác nào như quan tham ô?
Thần là bậc Thánh hiền thời xưa; hoặc là người trung hiếu, nhân nghĩa được mọi người tôn xưng là thần. Người tin thần phải học tập theo những điều vĩ đại của ngài. Nếu có việc cầu thần gia hộ, giống như nhờ cha mẹ giúp đỡ con cái. Cha mẹ giúp con thành tựu sự nghiệp, tạo công ăn việc làm cho mọi người, làm người vĩ đại, chứ không phải nuông chiều. Chúng tôi nói cách khác: “Nếu mọi việc đều ỷ lại thì sẽ thành người không làm nên việc gì”. Còn nếu có cầu ắt có ứng, e rằng không phải thần chân chính- giống như bọn lưu manh giúp bạn làm việc.
Có những ngoại đạo ở Ấn Độ nói: “Tất cả sự đau khổ của con người đều là tội nghiệp đời trước, cho nên cần phải làm cho hết khổ mới được an lạc (sinh về cõi trời)”. Vì thế, họ tu nhiều pháp môn khổ hạnh; có người đứng suốt ngày đêm; có người nằm trên lửa nóng chịu thiêu đốt; có người ngồi trên gai nhọn chịu đau đớn; có người treo ngược thân mình trên cây; có người chịu đói khát, không ăn uống. Mục đích họ tu khổ hạnh là được sinh về cõi trời thì cũng giống như câu chuyện giết con cầu con là không đúng chính pháp.
Chuyện 22
Đốt trầm hương
Lời dẫn:Trong cuộc sống, những đồ dùng giá rẻ thì được mọi người mua nhiều, được nó rất dễ dàng; nhưng hàng cao cấp, đắt giá thì rất ít người mua. Con người có người giàu sang và kẻ nghèo hèn. Người nghèo qua lại với nhau thân thiện, gần gũi. Người giàu sang đi lại với nhau thật là khó.
Chúng tôi nói về học vấn, tri thức, tài nghệ. Có những môn học dễ thì khi đi làm kiếm tiền không được nhiều, những môn học khó thì giá trị đương nhiên cao hơn, khi đi làm kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng thế gian có rất nhiều người khăng khăng thích làm việc dễ mà cãi nhau ồn ào. Họ không muốn làm việc khó nhọc tốn nhiều công sức.
Ngày xưa, có một thương nhân muốn ra biển tìm châu báu, nên rủ rất nhiều người và tốn thời gian rất lâu mới đóng xong thuyền, lại chuẩn bị lương thực dùng trong hàng ngày. Họ xuất hành đi đến hải đảo rất xa. Họ đi tìm khắp mọi nơi thì phát hiện trên hải đảo có cây trầm hương. Thương nhân bảo mọi người đốn chặt những cây trầm hương ở trên đảo, chất đầy thuyền rồi mới trở về. Vừa về đến nhà, mọi người lập tức chở ra chợ bán; nhưng trải qua mấy ngày chẳng có người nào đến mua.
Một hôm, thương nhân thấy người bên cạnh bán than; anh ta bán rất đắt. Hắn nghĩ: “Tại sao chúng ta không đốt trầm hương thành than, để bán đắt như than?”. Do đó, hắn bảo những người bạn đem trầm hương đốt thành than. Quả nhiên, chỉ qua mấy ngày tất cả than trầm hương đều bán sạch, tất nhiên bán theo giá tiền than củi. Vậy mà, hắn đắc chí cho mình là người thông minh, mới nghĩ ra cách này.
Bài học đạo lý
Ở đời, có những người được cha mẹ nuôi dưỡng suốt mấy mươi năm cực khổ, nhưng họ lại xem cha mẹ không ra gì. Lương tâm, bản tính của chúng ta, từ vô thỉ đến nay luân hồi trong sáu đường, bị năm dục phiền não che lấp; cho nên, tạo nghiệp luân hồi sinh tử, chịu rất nhiều khổ báo, thật không dễ gì gặp được Phật pháp khai thị phát tâm Bồ-đề. Nhưng chúng ta thường vì một chút lợi ích- vì kiếm vài đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, chẳng phải là việc đáng tiếc hay sao?
Có những người rất muốn học tập, muốn học theo thánh hiền. Ban đầu, họ rất tinh tiến chuyên cần, hi vọng tương lai làm được việc lớn đem lại lợi ích cho xã hội. Nhưng chính nhân quân tử rất khó học, phải có đạo đức và nhân cách, có chí hướng rộng lớn và phải có tiết tháo thanh liêm, không tùy tiện v.v… rất khó làm được. Vì vậy, lâu ngày họ sinh ra chán nản, dần dần lười biếng, trở lại một người bình thường thích cặp bồ gái đẹp, cờ bạc, ăn chơi trác táng. Cần gì khép mình theo quy củ cho mệt?
Bởi vì trí thức, tư tưởng, nghề nghiệp của mọi người đều không giống nhau; cho nên cách nhìn sang-hèn của mỗi người cũng khác nhau. Bậc Cổ đức dạy: “Mỗi nghề nghiệp đều xuất hiện nhân tài”. Nguyên nhân thành công của mọi người rất nhiều, phương pháp làm việc cũng có sai khác, đối với mỗi sự việc đúng hay không đúng, quan niệm của mỗi người cũng có khi giống nhau. Có kẻ nói: “Một cân đạo đức giá bao nhiêu tiền?”. Có kẻ cho rằng: “Tâm thiện không thể làm ra cơm ăn, áo mặc”. Nhưng cũng có người thà hi sinh tính mạng để bảo vệ tiết tháo và đạo nghĩa.
Nghề nghiệp không có sang hèn, chỉ có tư tưởng và quan niệm của mỗi người mới là then chốt sang-hèn. Nếu như tư tưởng, quan niệm bất chấp đạo đức và nhân nghĩa thì làm bất cứ việc gì cũng là thấp hèn. Còn như tư tưởng, quan niệm cao thượng có tiết tháo thì việc gì cũng đều cao quí. Vì thế, làm người trước tiên phải có lòng tự trọng rồi sau mới được mọi người tôn trọng mình. Chúng tôi nói cách khác, tự mình thấp hèn rồi mới đến người thấp hèn. Việc này không phải lẽ bất di bất dịch hay sao?
Chuyện 23
Tấm lụa bọc chăn rách
Lời dẫn:Thế gian có rất nhiều người hình dáng xấu xí, nhưng trong đầu đầy ắp học vấn và tri thức. Nhưng có người dáng vẻ trí thức, dung mạo xinh đẹp, nhưng đầu óc rỗng tuếch, chẳng có một chút học vấn và tri thức. Có người biểu hiện đạo đức, nhân cách rất cao thượng, lại còn khiêm tốn và hòa nhã. Có người không có tài năng và học vấn mà lại kiêu căng ngạo mạn. Nói tóm lại, thế gian có rất nhiều người chuộng sĩ diện, trau chuốt bề ngoài cho đẹp. Nhưng rất ít người chú trọng nội tâm và thật lực.
Thuở xưa, có một người hàng ngày thường làm việc bất chính, luôn dùng thủ đoạn tinh vi để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì hắn khéo che đậy nên rất ít người biết được việc làm của hắn.
Một hôm, tình cờ hắn thấy một gia đình rất giàu có. Hắn cho rằng gia đình này nhất định có rất nhiều châu báu, của cải; nếu ta lấy trộm được một số châu báu thì tha hồ hưởng thụ suốt đời. Vì thế, hắn chủ ý sắp đặt, tìm trăm phương nghìn cớ, nhờ người giới thiệu để hắn trà trộn vào nhà này làm người giúp việc. Sau đó, hắn tìm được nhân sĩ, người ở địa phương giới thiệu hắn vào gia đình giàu có, cho hắn làm người quản lý chăm sóc vườn hoa.
Ban đầu, hắn làm việc rất chăm chỉ, cắt uốn cây cảnh, trồng hoa cỏ, nên được chủ nhà tin tưởng không đề phòng. Nhờ vậy, hắn dò xét mọi ngõ ngách trong nhà kĩ càng. Một hôm, vào lúc nửa đêm, hắn lén vào phòng chủ nhà, mò mẫn hồi lâu hắn mới tìm được chiếc rương đựng châu báu, trên rương phủ lên tấm chăn cũ rách. Hắn không hề lấy một thứ châu báu nào mà chỉ lấy mảnh vải lụa bọc tấm chăn rách rồi mang đi. Sáng hôm sau, chủ nhà không thấy người giúp việc, kiểm tra toàn bộ đồ vật trong nhà không mất thứ gì, chỉ mất tấm chăn rách nên chẳng bận tâm.
Nhưng hắn lại dương dương đắc ý, đem mảnh vải lụa bọc tấm chăn rách cho là hàng quý đi khoe với mọi người, chứng tỏ là hắn rất giàu có. Mọi người cho rằng nhất định mảnh vải lụa bọc đồ quí giá, sự thật một tấm chăn cũ rách.
Hắn đã tìm trăm phương nghìn kế để vào được nhà giàu sang, lại tốn rất nhiều công sức làm việc cho họ, thăm dò tất cả ngõ ngách trong nhà, mới trộm được một tấm chăn cũ rách; hắn lại vênh váo tự đắc với mọi người. Quả thật là một thằng ngốc đáng thương.
Bài học đạo lý
Đức Phật dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Thật khó khăn lắm chúng ta mới khởi lòng tin Phật pháp, đi vào cửa lớn Phật giáo. Ban đầu, chúng ta nỗ lực tu hành rất chí thành và làm việc thiện tích lũy công đức. Nhưng trải qua một thời gian, dần dần chúng ta lười biếng, lại bị ham muốn thúc giục, bị danh lợi thế gian lôi kéo; hoặc tham đắm cuộc sống sung sướng, chỉ giả học Phật bề ngoài lại không chịu khó tu hành. Khác nào như gã ngốc dùng mảnh vải lụa bọc tấm chăn rách?
Có người bề ngoài mặc y phục, mang giày dép sang trọng, giống như nhà trí thức, nhưng đầu óc rỗng tuếch. Có người không có trí huệ, không có tài năng, nghèo xơ xác; nhưng khi mời khách thì đến nhà hàng sang trọng, đãi tiệc thịnh soạn, tốn tiền rất nhiều để rồi mang nợ. Có kẻ nhà có cúng kỵ thì mổ heo, giết dê để đãi khách cho đông, dành dụm thu hoạch trong một năm hết sạch, hàng ngày ăn uống rất kham khổ, chi tiêu tằn tiện. Việc gì phải chịu như thế!
Xã hội ngày nay có rất nhiều kẻ kiếm tiền phi pháp, dùng mọi thủ đoạn tinh vi. Cũng có kẻ liều mạng cướp của, không tiếc thân mạng. Lúc kiếm tiền họ cũng tính từng đồng từng cắt, không sợ phạm pháp luật, cũng không sợ làm trái đạo đức, lương tâm, tranh cãi, thanh toán nhau như đại anh hùng. Lúc xài tiền như người làm từ thiện, không tính nhiều ít chỉ sợ mất thể diện. Đây là nhân sinh chăng? Nếu như lúc buôn bán kiếm tiền làm người lương thiện, khoan dung một chút, chi tiêu tiết kiệm một ít để làm việc có ích cho xã hội. Lẽ nào thiên hạ không được thái bình, nhân dân không được hạnh phúc an vui?
Khi họ kiếm tiền tranh cãi, thanh toán nhau kết thành oán thù. Đời này, sống không được an vui, gắng gượng cho qua ngày. Đời sau, họ bị luân hồi trong sáu đường, đền trả lẫn nhau; nợ nghiệp, nợ tình, nợ ân oán mãi mãi không có kỳ hạn, cũng vì một chút sĩ diện mà đưa đến nguyên nhân; giống như mảnh vải lụa bọc tấm chăn cũ rách.
Chuyện 24
Đem rang hạt giống
Lời dẫn: Làm người, có người lương thiện, cũng có kẻ hung dữ, có người nhân từ đức hạnh, cũng có kẻ gian trá, nham hiểm; chỉ có sai khác một niệm thiện và ác. Bậc Cổ đức dạy: “Người đời ai mà không lỗi, biết sửa lỗi là Thánh hiền”. Người không chịu sửa lỗi hướng thiện thì tương lai mãi mãi trong tăm tối, cũng là nghiệp nhân thiếu điều thiện. Mỗi người nên có đức hạnh tốt, khiêm tốn sửa lỗi lầm thì trong tâm được trong sáng. Nếu như cố chấp gian trá thì giống như nhà không có cửa, không khí trong lành chẳng vào được, cũng không có ánh sáng mặt trời chiếu vào, trở thành căn nhà tối tăm u ám, người ta không thể ở được lâu dài.
Xưa kia, có một anh nông dân, quanh năm cần cù cày bừa, gieo trồng lúa mè. Có một năm, hắn trồng mè thu hoạch trúng mùa. Mặc dù, hắn được mùa nhưng không biết cách làm mè như thế nào ăn cho ngon. Một hôm hắn nghĩ: “Gạo dùng nước nấu chín để ăn, mè có dùng nước nấu không nhỉ?” Do đó, hắn đi hỏi thăm mọi người. Có người bảo: “Anh đem mè rang thì ăn mới thơm ngon”.
Hắn làm theo lời người này chỉ dẫn, rang mè xong, hắn ăn liền, vừa thơm vừa ngon. Vì thế, hắn lại suy nghĩ: “Mè rang ăn thơm ngon như thế. Xưa nay, ta trồng thứ gì thì mọc lên thứ đó, ta nên đem mè rang gieo xuống đất, nhất định sẽ thu hoạch mè thơm ngon, lại bán được giá cao. Lẽ nào không được giàu to?”.
Vì thế, hắn đem toàn bộ số mè ra rang để làm giống, rồi hắn ra sức cày đất, nhổ sạch cỏ, gieo mè xuống. Hàng ngày, hắn cần cù làm việc tưới nước, bón phân, làm cỏ. Từ đó, mỗi ngày hắn luôn trông đợi mè nảy mầm lớn nhanh. Nhưng vài tháng trôi qua, cỏ mọc lan tràn um tùm, chẳng thấy mè mọc lên. Hắn mới biết cách nghĩ của mình là sai lầm.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này chứng minh cho những người học Phật, phát tâm tu hành đạo Bồ-tát, mong muốn chứng đắc quả Phật Vô Thượng. Xưa nay, Bồ-tát phải độ khắp chúng sinh, làm việc khó làm, nhẫn điều khó nhẫn và tích lũy công đức mới là chính nhân thành Phật. Nhưng có người thích cuộc sống sung sướng an nhàn, đem danh lợi thế gian làm việc tu hành. Hàng ngày, họ tiếp xúc phan duyên theo cư sĩ mà không dạy cư sĩ tinh tiến tu hành. Chúng ta không trồng hạt giống Phật pháp thì làm sao có chính nhân Bồ-đề?
Bậc Cổ đức dạy: “Không có trời sinh Di-lặc, hay tự nhiên có Thích-ca”. Đức Phật Di-lặc, Phật Thích-ca, cho đến ba đời tất cả chư Phật trong mười phương đều phải nhiều kiếp tu hành, chẳng phải trên trời rơi xuống. Vì thế, chúng ta học Phật nỗ lực tu hành một phần là thành tựu định tuệ một phần; làm lợi ích chúng sinh một phần là thành tựu công đức một phần. Chúng ta đã tin Phật, học Phật thì nỗ lực tinh tiến tu hành, độ khắp chúng sinh. Nếu chỉ mang danh học Phật mà chúng ta không chịu tinh tiến tu hành, chẳng những không được thành tựu chính quả, mà e rằng sẽ bị đọa lạc lún sâu thì khác nào hạt giống đem rang?
Bậc Cổ đức dạy: “Việc đời khó hay là dễ? Người quyết chí làm việc thì việc khó trở thành dễ, người không chịu làm việc thì việc dễ trở thành khó”. Vì thế, mọi việc ở thế gian chỉ cần chúng ta nỗ lực thì không có việc gì khó. Lại nói: “Việc đáng buồn nhất là tư tưởng ngu dốt, không có cảm giác”. Hay “Nghèo vật chất đừng nghèo ý chí”. Người tâm vô cảm, không có chí cầu tiến thì làm việc gì cũng không được thành tựu. Kẻ không có chí hướng thượng, e rằng làm việc nhỏ cũng không xong. Có người cho rằng giàu sang ở thế gian là công lao sự nghiệp của tổ tiên để lại, hoàn cảnh, học vấn, tri thức là chỗ dựa vững chắc. Chúng tôi cho rằng chỗ dựa vững chắc tốt nhất là ý chí. Người không có ý chí thì mãi mãi là người nghèo. Xưa nay, những người thành công sự nghiệp, phần đông đều dựa vào ý chí và nỗ lực. Người không có ý chí và nỗ lực thì cũng là hạt giống đem rang phải không các bạn?
Chuyện 25
Hi vọng tan theo mây khói
Lời dẫn: Làm người, ai cũng có hi vọng, mong muốn tương lai mình được tốt đẹp hơn, nhưng khi thất vọng thì vô cùng đau khổ. Nếu như chúng ta muốn thực hiện tương lai tốt đẹp thì hiện tại phải cố gắng nỗ lực, phải lao tâm khổ tứ và kiên nhẫn, thậm chí chuẩn bị tâm lý nếm mùi đau khổ cay đắng thất bại; cuối cùng, mới hưởng hạnh phúc ngọt ngào của sự thành công.
Tâm lý con người thường rất mâu thuẫn, khi họ làm việc trong môi trường yên tĩnh thì muốn bôn ba bên ngoài. Lúc họ ra ngoài làm việc một thời gian thì sinh tâm chán ghét, lại mong muốn cuộc sống yên tĩnh. Cho nên nói: “Tĩnh quá muốn động, động quá muốn tĩnh”. Cuộc sống luôn mâu thuẫn động tĩnh như thế. “Đời người mười việc thì có tám, chín việc không như ý”. Người sống trong động không được yên tĩnh; người sống yên tĩnh lại không ra được bên ngoài tham gia hoạt động. Do vậy, con người khổ não rất nhiều.
Ngày xưa có một người. Khi mùa đông lạnh rét, hắn ở trong phòng đốt củi sưởi ấm, để tiện ban đêm được ấm áp cả căn phòng và ngủ ngon giấc. Một hôm ở bên lò sưởi, hắn chợt ngủ gục, trong giấc mơ hắn thấy mình từ từ bay lên cao, lên đến tận tầng mây xanh, ở dưới mặt trời rất ấm áp, dần dần gió lạnh thổi đến, thổi xuống dưới tầng mây, từ không trung hắn thấy mình hạ xuống núi rất lạnh. Bỗng từ trên núi hắn thấy mình rớt xuống hang sâu thăm thẳm, hắn hét to lên, chợt tỉnh giấc, thấy trên thân mình không có đắp chăn, lửa trong lò sưởi cũng đã tắt khi nào, khắp thân hắn lạnh tê cứng, mới biết đây là mộng.
Bài học đạo lý
Đời người vốn là một giấc mộng dài. Khi chúng ta nằm mộng hi vọng được làm quan, mau giàu có, kiếm được nhiều tiền, nổi tiếng khắp thiên hạ v.v…Vì vậy, hàng ngày chúng ta mới cần cù chịu khó làm việc; bất luận băng rừng vượt suối, hay chịu đựng một nắng hai sương đều mong muốn một ngày mình được thành đạt hoài bão. Tục ngữ có câu: “Cuộc đời có lạnh, có nóng, có gian khổ, có hạnh phúc”. Con người có lúc làm việc khổ nhọc, có khi hưởng thụ thanh nhàn, đều là mong muốn tương lai tốt đẹp hơn hiện tại. Mong muốn tương lai như thế này, hay như thế kia, tất cả đều là ảo tưởng không dừng.
Người học Phật hi vọng tương lai chứng được quả Phật Vô Thượng, cho nên khi mới phát tâm, tinh tiến tu hành chí thành tha thiết. Sự tu hành giống như ở trong căn phòng lạnh lẽo, phải đốt củi sưởi ấm, lửa cháy lên dần dần ấm áp căn phòng, xua tan khí lạnh lẽo; sau đó con người mới hưởng thụ ấm áp thích thú .
Trong lòng mỗi người chúng ta đều có những phiền não tham, sân, si, phát tâm tinh tiến tu hành giống như ngọn lửa bắt đầu cháy, phải liên tục đút củi vào thì mới có thể xua đuổi tất cả phiền não, làm cho thánh đạo sưởi ấm khắp thân tâm. Cuối cùng, phiền não không còn, phước huệ viên mãn, đạo quả mới có thể thành tựu.
Nhưng có người chú trọng ham muốn vật chất, dập tắt lửa thánh đạo; hoặc dập tắt lò sưởi đang bùng cháy, vì danh lợi làm cho ngọn lửa thánh đạo không còn hiệu quả. Rốt cuộc, lửa thánh đạo đã lạnh, khổ công tu hành không biết chạy đến đâu, đạo quả càng lúc càng xa người.
Mỗi người ở thế gian đều có hi vọng. Đứa bé vừa ra đời thì mong bú sữa, rồi muốn đi; lớn lên một chút, muốn ăn bánh kẹo, đi chơi chạy nhảy; tuổi thiếu niên mong được chạy xe máy, đeo đồng hồ; tuổi thanh niên mong thương được cô gái xinh đẹp; tuổi trung niên mong làm nên sự nghiệp, kiếm được nhiều tiền, làm chức vụ cao cấp; tuổi già mong được cháu ngoan, con hiếu. Nhưng thế gian này mười việc thì có tám, chín việc không như ý, đau khổ nhiều hơn.
Hi vọng có chính, có tà. Bậc Cổ đức dạy: “Người có nguyện tốt thì trời ban cho”. Chúng ta muốn thực hiện hi vọng chính đáng, cũng phải trả giá thích hợp- lao tâm lao lực; nếu không thì trở thành ảo tưởng. Bất cứ việc gì ở thế gian đều phải cần cù chịu khó mới có thành tựu; huống gì việc lớn xuất thế gian thoát khỏi sinh tử. Nếu như chúng ta sống cho qua ngày thì làm sao có được thành tựu. Tục ngữ có câu: “Học Phật một năm, hai năm Phật ở trước mắt; ba năm, bốn năm Phật ở trên trời”. Đây là bệnh chung của người học Phật. Danh vọng, địa vị ở thế gian đều phải trải qua muôn nghìn thử thách. Chúng ta học Phật vì sao không chịu trải qua sự rèn luyện?
Chuyện 26
Làm theo nhà vua
Lời dẫn: Ban đầu mọi việc ở thế gian đều do bắt chước mà ra, giống như đứa bé bắt đầu đi học, nó tập đọc sách, học viết, học vẽ, học kĩ năng v.v…Nhưng bắt chước có tốt, có xấu; bắt chước chính đạo và bắt chước tà đạo. Cho nên, có lợi cũng có hại; có thành công, có thật bại; có tiến bộ, cũng có lạc hậu.
Thuở xưa, có một kẻ đi lang thang, hắn rất thích bắt chước theo người khác, ngay cả tiếng kêu của súc vật hắn cũng làm theo được, đặc biệt là tiếng chó sủa; cho nên hắn được nhà vua gọi vào làm quan nuôi chó. Nếu như hắn an phận giữ mình làm quan nuôi chó thì chẳng có việc gì để nói, nhưng hắn luôn mơ tưởng đến chuyện thăng quan, làm giàu. Một hôm, hắn vắt óc suy nghĩ: “Ta phải làm bằng cách nào được thăng quan và mau giàu có?”.
Có một ngày hắn cùng với quan chăm sóc vườn hoa, quan coi nhà vệ sinh cùng nhau tán gẫu. Hắn hỏi:
- Này nhé! Các anh có muốn được thăng quan, làm giàu không?
Các quan đáp:
- Tất nhiên là muốn rồi.
Hắn bảo:
- Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ làm bằng cách nào mới được thăng quan, làm giàu?
Một vị quan nói:
- Tôi cho rằng chỉ cần chúng ta nỗ lực làm việc thì có hi vọng.
Vị quan khác nói:
- Chúng ta phải luồn cúi nịnh nọt thì mới có khả năng tiến thân.
Hắn nói:
- Chỉ cần làm cho nhà vua hài lòng thì có thể được thăng quan mau làm giàu.
Hai quan kia hỏi:
- Chúng ta làm cách nào cho vua hài lòng? Không phải chăm chỉ làm tốt công việc của mình hay sao?
Hắn bảo:
- Không! Chỉ cần chúng ta bắt chước giống nhà vua thì nhất định ngài sẽ hài lòng.
Ngày hôm sau nhà vua đến, quan nuôi chó quan sát tỉ mỉ từng động tác của vua; nhà vua chớp mắt liên tục, hắn cũng chớp mắt liên tục; vua ho, hắn cũng bắt chước ho. Thấy vậy nhà vua hỏi:
- Khanh bị đau mắt hả, lại còn bị cảm cúm hay sao mà ho dữ vậy?
Hắn thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần không bị đau mắt, cũng không bị cảm, chỉ vì thần muốn làm cho bệ hạ vui lòng, nên bắt chước theo ngài.
Nhà vua nghe hắn nói, chẳng những không vui lòng mà còn rất tức giận nói:
- Nhà ngươi quả thật là to gan! Ta làm vua, ngươi cũng bắt chước làm vua phải không? Quân lính đâu! Bắt quan giữ chó này đánh năm mươi gậy; sau đó, đuổi hắn ra khỏi cung cho trẫm.
Thế là, hắn không được thăng quan mà còn bị đánh một trận bầm giập, cuộc mưu sinh cũng thất bại. Hắn trở lại làm người lang thang rày đây mai đó, thông minh lại bị thông minh hại. Kì thật, hắn không phải là người thông minh mà bị danh lợi ham muốn che lấp tâm trí, những việc làm này đều là nô lệ cho dục vọng, là hành vi của kẻ ngu si.
Bài học đạo lý
Khi đứa bé còn nhỏ, bất cứ việc gì nó cũng làm theo người lớn. Hàng hóa đồ dùng ở thế gian rất nhiều, đều do con người bắt chước mà làm ra; hoặc có khi nhái theo hàng thật làm hàng giả dán nhãn hiệu lên. Các nước còn lạc hậu phải học theo các nước tiên tiến phát triển khoa học kỹ thuật. Nếu như mọi việc, con người không có sáng kiến chế tạo mà chỉ làm theo thì mãi mãi vẫn là lạc hậu.
Những việc ứng phú đạo tràng của Phật giáo bị mọi người bắt chước làm theo cũng rất nhiều. Thí dụ những việc tán tụng, tổ chức pháp hội, làm Phật sự, lễ trai đàn chẩn tế v.v…Có những người bắt chước các vị hòa thượng ở Nhật Bản, cưới vợ, ăn mặn, thịt cá. Lại làm trụ trì, nửa tăng, nửa tục. Ở nơi đông đúc thì không học được, ở nơi hẻo lánh thì mọi người tiếp đón tất cả. Bắt chước như vậy có tăng trưởng giới hạnh không? Hay tự mình cam chịu sự sa đọa? Chúng tôi nghĩ đạo lý này giống như quan nuôi chó bắt chước nhà vua.
Bắt chước cầu tiến bộ, hay là thất bại, động cơ bắt chước của mỗi người không giống nhau; hoặc giữ tâm lương thiện, bất thiện cũng có liên quan. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc và khắp thế giới, nhất định có điểm đặc biệt của Phật giáo. Trải qua thời gian khảo nghiệm, có rất nhiều người nỗ lực hoằng dương Phật pháp, ngày nay mới được nổi tiếng khắp thế giới. Ngọai đạo muốn bắt chước Phật giáo cũng chỉ học ở bên ngoài, chưa học đến nội dung của Phật pháp, chỉ có hai bên được lợi mà thôi.
Ngoại đạo không biết điểm đáng qúy của Phật giáo là sự tu hành, trì giới, phạm hạnh. Họ chỉ học nghi thức tán tụng của Phật giáo, trở thành giáo môn chẳng ra cái gì. Nếu là tín đồ khác mà ngưỡng mộ Phật pháp, lại không thể sửa đổi hoàn toàn, chỉ sửa thành nửa thần nửa Phật; đây là việc không thể phê phán gắt gao.
Chuyện 27
Bắt chước thầy thuốc trị vết thương
Lời dẫn: Tất cả khổ nạn của con người, đa số là do hành vi sai lầm mà đưa đến nghiệp báo. Chúng tôi nói cách khác, tất cả hạnh phúc, an vui cũng là hành vi có trí huệ mà được; cho nên, trí huệ là nguồn gốc của tất cả sự an vui và hạnh phúc. Chúng ta muốn thành Phật giải thoát sinh tử thì không thể không có trí huệ. Như thế, tất cả sự tranh đoạt, tạo nghiệp ở thế gian cũng từ làm bậy, ngu si gây nên. Nhờ có trí huệ chúng ta cân nhắc hành vi để làm việc là hành vi chính đáng. Vì ngu si vô tri chúng ta làm việc sai trái là hành vi tạo nghiệp tội ác.
Ngày xưa, có một người rất giàu sang, sống trong vinh hoa phú quí, thường đến trong cung vua. Hắn hi vọng được hầu hạ nhà vua, không cần tốn nhiều tâm trí và sức lực mà vẫn hưởng thụ cuộc sống giàu có; đồng thời, mỗi bữa ăn đều có sơn hào hải vị; mỗi phòng trong cung vua đều lộng lẫy sang trọng, thật sung sướng biết bao. Chẳng bao lâu, mơ ước của hắn thành sự thật. Hắn được làm chức vụ hầu hạ vua. Nhưng sau khi nhận nhiệm vụ, hắn thấy không dễ dàng như hắn đã nghĩ, phải luôn sắp xếp long bào, vương miện của nhà vua cho gọn gàng, dù công việc nhẹ nhàng nhưng phải để ý cẩn thận, ngăn nắp và phải chú ý để đúng vị trí, nên việc làm này chỉ cần sơ suất một chút nhà vua bực mình thì bị đuổi.
Có một lần, hắn sơ ý đem vương miện của nhà vua treo dưới cái giá y phục, đem y phục móc trên vương miện. Nhà vua nhìn thấy rất tức giận, lập tức hạ lịnh cho quân lính đánh bốn mươi roi, mông của hắn đường lằn ngang dọc chảy máu, đau đớn không chịu nổi. Nhà vua lại ra lịnh cho thầy thuốc chữa trị vết thương cho hắn. Thầy thuốc lấy phân ngựa bôi lên vết thương, chỉ trong thời gian ngắn vết thương lành lặn.
Lúc đó, có một gã ngốc nhìn thấy tên hầu vua bị quân lính đánh chảy máu mà chỉ dùng phân ngựa bôi lên vết thương lành nhanh chóng, gã rất thích thú. Trở về nhà, gã bảo thằng con lấy roi đánh vào mông gã thật đau. Ban đầu đứa con không chịu. Gã nói:
- Này con! Phải nghe lời cha dạy, cha muốn thử nghiệm linh dược chữa trị vết thương rất hay. Con hãy giúp cha thử thuốc hiệu nghiệm này, con không làm việc bất hiếu đừng sợ.
Thằng bé nghe cha nói như thế, đành phải vâng theo, nên lấy roi đánh mạnh vào mông gã chảy máu, rồi gã bắt chước thầy thuốc, bảo con lấy phân ngựa bôi lên vết thương. Kết quả, gã không thể ngờ chịu một trận đòn oan uổng và đau đớn vô cùng.
Bài học đạo lý
Đức Phật dạy: “Biển khổ vô biên quay đầu là bờ”. Hay: “Đồ tể buông dao, lập tức thành Phật”. Nghĩa là người biết sám hối tội lỗi thì trở thành con người tốt. Có người học chỉ làm bấy nhiêu mà thôi. Người không có tâm sám hối thì không có ý hồi tâm hướng thiện, họ nghe nói tụng kinh, lạy sám hối có thể tiêu trừ tai nạn, cũng làm theo tụng kinh, lạy sám; nhưng tâm họ chạy theo vọng tưởng lăng xăng thì làm sao tiêu trừ được tội nghiệp?
Có kẻ nói: “Thần có thể chuộc tội thay người”. Cho nên, mọi người đua nhau cầu khẩn, lễ lạy thần. Sau đó, theo thần làm việc xấu. Như thế, thần có chuộc tội được không? Bất cứ việc gì có lợi thì có hại; phương pháp cũng có chính là có tà; có thật có giả. Chúng ta thật tâm tín ngưỡng tu hành; hoặc học theo chính pháp thì có lợi ích, lại có mục đích và ý nghĩa. Nếu dùng phương pháp thiên vị, hoặc tâm ý giả dối, chẳng những lừa dối người khác mà còn dối cả chính mình; lại dối gạt cả Phật, thần thì tương lai sẽ bị quả báo gì?
Đây là một câu chuyện thí dụ, nhà vua dụ cho tâm chúng sinh, gã ngốc dụ cho thân của chúng ta. Bậc Cổ đức nói: “Thân bị tâm sai khiến”. Đức Phật dạy: “Nếu người muốn biết rõ, ba đời tất cả Phật, nên quán tính pháp giới, hết thảy do tâm tạo”. Tất cả chúng sinh lặn ngụp trong luân hồi sinh tử, cho đến cực khổ cả một đời đều do tâm tạo nghiệp, tâm điều khiển thân này. Nhưng có lúc thân cũng bị ảnh hưởng tâm lý. Chúng tôi nói thí dụ, thân đói khát, nóng lạnh sinh ra tật bệnh làm ảnh hưởng đến tinh thần, trở ngại việc tu hành; lại còn ảnh hưởng đến việc tiến bộ hay lui sụt trên đường đạo, hoặc điên đảo sa đọa. Gã ngốc sơ ý để sai vị trí vương miện, long bào của nhà vua là giống như hành vi điên đảo, lấy ác làm thiện, lấy tà làm chính, lấy giả làm thật, đều là điên đảo, nhất định phải chịu đau khổ luân hồi.
Chúng ta muốn thoát khỏi khổ não sinh tử luân hồi thì phải tinh tiến tu hành tránh xa tất cả sự ham muốn, lìa hết thảy điên đảo; điều này giống bị đánh chảy máu lấy thuốc bôi lên chỗ vết thương được mau lành. Nhưng thế gian này có rất nhiều người hồ đồ, họ học Phật pháp lại dùng tham dục để tu quán bất tịnh, càng thêm tạo nghiệp, thêm luân hồi sinh tử, cho đến chịu khổ vô lượng vô biên. Điều này khác nào thằng ngốc tự chịu đánh thân mình, để thử nghiệm thuốc phân ngựa?
Chuyện 28
Tai hại làm vợ đẹp
Lời dẫn: Thế gian này, không có người nào xinh đẹp mười phân vẹn mười, dù người xinh đẹp hoàn mỹ vẫn có chỗ khiếm khuyết; nếu như họ đẹp toàn diện thì trở thành tiên nữ trên trời. Về cá tính cũng không có người nào hoàn hảo, người tốt mặt này thì xấu mặt khác; nếu họ hoàn hảo thì trở thành Thánh nhân. Đức tính cao quí của thánh nhân thì không thể ghép vào thân phàm phu được. Hình dáng con người làm sao đẹp hoàn hảo được? Cá tính con người đã có khiếm khuyết thì làm sao có thể sinh ra thân hình xinh đẹp hoàn mỹ?
Trong Phật pháp nói nghiệp có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp là nói vật thể đã hình thành khó mà thay đổi được; giống như nói vàng và sắt đều là kim loại giống nhau, nhưng bản chất đắt và rẻ của nó sai khác rất nhiều. Vật thể đã thành ở thế gian, giống như con người có đẹp, xấu; vật thể có đắt, rẻ; cá tính có thiện, ác đều khó mà thay đổi được. Nếu chúng ta muốn thay đổi thì phải tốn công sức rất nhiều và thời gian rất lâu, thậm chí nhiều đời nhiều kiếp; còn chúng ta muốn thay đổi nhanh chóng thường thì đẹp sửa thành xấu; hoặc kết quả tương phản.
Thuở xưa, có một chàng trai trí thức cưới được cô vợ rất xinh đẹp; chẳng những cô ta xinh đẹp mà còn là tiểu thư con nhà giàu có, có thể nói họ là một đôi trai tài gái sắc. Mỗi khi chàng trai này có công việc tham gia hoạt động ở ngoài xã hội đều đưa cô vợ đi theo để tham gia, có rất nhiều người ngưỡng mộ cô ta. Nhưng có một người bạn nói vợ anh ta tuy xinh đẹp, đáng tiếc là mũi hơi bị tẹt. Chàng trai này nghe bạn nói như thế nên rất buồn khổ. Mỗi lần ở nhà đều chú ý đến mũi của vợ, càng nhìn càng buồn. Anh ta nghĩ: “Vì sao nàng bị khiếm khuyết một chút thế này?”.
Cuối cùng, anh ta quyết tâm xẻo mũi của vợ mình đổi cho người khác. Anh ta đi tìm khắp mọi nơi, mới tìm được một cô gái có chiếc mũi dọc dừa rất xinh đẹp. Nhân lúc cô gái không để ý, anh ta chạy đến xẻo mũi cô gái, vội vàng chạy thẳng về nhà xẻo mũi vợ mình để đổi cho cô gái kia. Cho dù anh ta đặt mũi lên mặt vợ bằng mọi cách vẫn không đặt được. Kết quả hai người bị xẻo mũi, trở thành hai người xấu xí, hại người hại mình. Đây là kết quả của kẻ ngốc là việc ngốc.
Bài học đạo lý
Thiên tính con người thường chuộng sắc đẹp, đặc biệt là phái nữ, mặt thường bôi son đánh phấn, thân mặc y phục vải mềm mại, may phải thích hợp kiểu dáng, cho đến đeo những đồ trang sức vàng bạc, xâu chuỗi; quí bà, các cô tìm trăm phương nghìn kế để làm cho mình tăng thêm vẻ đẹp. Đây là đặc tính bệnh chấp ngã của chúng sinh.
Chấp ngã chính là nguồn gốc tạo nghiệp sinh tử luân hồi của tất cả chúng sinh. Cho nên chúng ta muốn lìa dục, giải thoát sinh tử thì phải tu quán bất tịnh có năm pháp quán: một, chỗ sinh ra bất tịnh; hai, chủng tử bất tịnh; ba, thân tứ đại bất tịnh; bốn, chín lỗ thường bài tiết chất bất tịnh; năm, xét đến cùng đều bất tịnh. Chúng ta tu năm pháp quán bất tịnh này có thể lìa dục, giải thoát sinh tử.
Người thế gian, ai cũng muốn mình đẹp, thân hình quyến rũ mọi người. Chúng ta phải biết vẻ đẹp hình dáng bên ngoài chỉ là tạm thời, theo định luật thời gian da sẽ nhăn, tóc sẽ bạc, sắc đẹp nhanh chóng héo tàn, mọi người nhìn thấy ngán ngẩm. Chỉ có vẻ đẹp trong tâm ngày càng lan tỏa hương thơm đức hạnh, mãi mãi được mọi người kính trọng, cho đến nhiều đời nhiều kiếp vẫn còn để lại tiếng thơm; đến khi thành Phật được ba mươi hai tướng tốt. Người nào đắc cứu cánh, người nào bị sa đoạ, chúng ta phải lựa chọn.
Có những người không hiểu Phật pháp, họ ngưỡng mộ tu học Phật pháp để được làm đại đức nổi tiếng, nhưng khi thấy người khác được mọi người cung kính cúng dường thì trong lòng cũng khâm phục và cũng ganh tị. Vì thế, họ mạo xưng danh tiếng đại đức này; hoặc nói bậy Phật kia, Bồ-tát nọ giáng sinh. Tự nói bậy mình là người tu chứng thần thông, dối gạt Phật tử để được cúng dường. Kết quả, chính họ phá hoại thanh danh của Phật giáo và cũng đánh mất nhân cách của mình. Điều này khác gì kẻ ngu si xẻo mũi người khác và xẻo mũi vợ mình?
Chuyện 29
Gã nghèo đốt y phục
Lời dẫn: Người làm nghề kinh doanh muốn được có lãi, họ bỏ vốn đầu tư muốn kiếm được tiền lời cho nhiều. Người nông dân cày cấy cực khổ mong được thu hoạch trúng mùa. Nhưng có người bỏ vốn đầu tư bị phá sản, khác nào ráng chiều le lói hư huyễn. Chúng ta nhìn thấy họ giàu sang, quí phái; nhưng trong thoáng chốc trở thành kẻ trắng tay. Đây không phải cuộc đời là một giấc mộng hay sao?
Ngày xưa, có một gã nghèo xơ xác, hắn làm việc rất cần cù chăm chỉ, giúp đỡ mọi người làm việc nặng nhọc; nhưng họ trả tiền công cho hắn rất ít, chỉ đủ cho hắn sống tạm qua ngày. Một hôm, hắn muốn sắm thêm cho mình một bộ quần áo, hắn cũng phải chi tiêu rất dè sẻn, ra sức làm việc dành dụm một thời gian dài; hắn mới tạm đủ mua cho mình một bộ quần áo vải xấu.
Bỗng một ngày, có người bà con xa đến nói với hắn:
- Vì sao anh mặc y phục vải xấu thế này?
Hắn đáp:
- Y phục vải xấu có gì là không tốt, chỉ do tâm phân biệt vải xấu, vải đẹp mà thôi.
- Anh không muốn mặc y phục đắc tiền và cuộc sống sung sướng sao?
- Tất nhiên là muốn rồi, nhưng làm bằng cách nào? Số phận tôi như vậy, anh có biện pháp gì?
- Không! Anh là hậu duệ của hàng quí tộc, chỉ cần anh chịu cầu thần thì thần sẽ ban cho anh cuộc sống sung sướng.
- Cầu bằng cách nào?
- Anh đem bộ y phục vải xấu này đốt đi, chí thành cầu thần thì sẽ ban cho anh một bộ y phục đắt tiền xinh đẹp; lại ban cho anh cuộc sống hạnh phúc. Thần sẽ ban cho anh toại nguyện.
Gã nhà nghèo tuy cuộc sống túng thiếu, nhưng không đến nỗi khó khăn lắm, hắn bằng lòng cuộc sống hiện tại; nhưng khi, hắn nghe người bà con xa dụ dỗ, liền hi vọng niềm tin mộng đẹp giàu sang. Vì thế, hắn nhờ người bà con chủ trì nghi thức cầu thần, đem đốt bộ y phục vải xấu và chí thành cầu nguyện. Cho dù hắn cầu lạy sói đầu, y phục vải đẹp vẫn không xuất hiện. Sau đó, hắn hối hận nói: “Tại sao ta lại ngu si như thế này? Đem đốt y phục của mình để cầu thần ban cho hạnh phúc và y phục đẹp, nhưng lại mù mịt không biết thần ở đâu?”.
Bài học đạo lý
Đây là câu chuyện thí dụ, người nghèo khổ là chỉ cho hàng phàm phu chúng ta; y phục vải xấu giống như cuộc sống cực khổ. Mặc dù y phục vải thô xấu nhưng gã nhà nghèo phải khổ công làm việc rất lâu mới sắm được nó. Hiện tại con người tuy khổ cực, nhưng đời quá khứ cũng có tu các căn lành mới có thể được thân người. Nếu như chúng ta không nương vào thân này, cố gắng tu pháp xuất thế, thoát khỏi sinh tử mà tạo các ác nghiệp làm cho nhiều đời sau chịu đau khổ vô cùng, cho đến sinh tử luân hồi không dứt thì chẳng phải là kẻ ngu si hay sao?
Đức Phật dạy: “Trồng nhân không chân thật thì gặt quả đèo cong”. Tất cả mọi việc có nhân thì có quả, nhân chánh thì kết quả chánh; nhân tà thì quả tà. Cho nên, khi chúng ta làm việc gì, hay nói điều gì phải chú ý nhân chánh mới là đạo lý làm người. Thí dụ hàng ngày chúng ta làm việc có chánh đáng không, lời nói có dối gạt, thêu dệt, lừa đảo v.v... Do đó, chúng ta biết được quả báo tương lai như thế nào? Cho nên, mỗi việc ở thế gian có họa có phúc, có khổ có vui đều do nhân quá khứ mà chiêu cảm quả báo hiện tại.
Nói theo tín ngưỡng, chúng ta tin theo vị thần nào thì cảm ứng với vị thần đó, tương lai cùng loại với vị thần đó; giống như chúng ta tin theo những vị thần như thần đá, thần cây v.v… thì tương lai phần đông cũng cùng loại với vị thần này; hoặc làm thuộc hạ của thần, tuyệt đối không thể vượt hơn thần này.
Chúng ta đốt hàng mã, tiền bạc cho quỷ thần, những thứ này con người không dùng được; vậy quỷ thần có dùng được không? Nếu dùng được thì quỷ thần này cũng là loài thấp hơn người; bằng không thì gạt mình, gạt quỷ thần, tương lai cũng bị người gạt lại. Lúc đó, làm kẻ câm nuốt hoàng liên. Vì vậy, bất cứ việc gì chúng ta cũng phải dựa theo lý trí để phán đoán đúng sai, không thể ai nói sao nghe vậy. Người ta bảo sao chúng ta làm theo như vậy, chẳng những là mê tín mà còn cuồng dại ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Chuyện 30
Tham cái nhỏ bỏ cái lớn
Lời dẫn: Con người sinh ra ở đời, bất luận là người giàu sang hay nghèo hèn. Từ bậc lãnh tụ nguyên thủ quốc gia, giàu có nổi tiếng, cho đến kẻ binh lính, người buôn thúng bán bưng, người không có đất cắm dùi đều có khuyết điểm và không thể nào tất cả mọi việc đều như ý muốn. Tất cả chúng sinh đều có lòng tham, vừa sinh ra đã có đầy đủ. Lòng tham này, tham không biết chán, càng nhiều càng tốt; đúng là lòng tham không đáy. Cổ đức có nói một bài thơ:
Lương Vũ ngất ngưỡng con trời,
Quyền cao danh hiển còn đòi thành tiên.
Thạch Sùng kho đụn đầy tiền,
Biển xanh muốn biến ao điền thêm tươi.
Tây Thi diễm lệ rạng ngời,
Soi gương hiềm nỗi trên đời kém xinh.
Bành Tổ tuổi thọ tám trăm,
Muốn còn sống mãi nghìn năm chưa vừa.
Cho nên, con người khó mà bằng lòng với những gì mình có.
Lòng tham cũng có tham thiện, tham ác, tham chính, tham tà; hoặc là tham chính đáng, chỉ cần không trở ngại đạo đức và cuộc sống của chúng ta. Nhưng con người vừa thấy những thứ mình thích thì trong tâm thôi thúc phải tìm cho bằng được. Nếu tìm không được thì họ dùng mọi thủ đoạn, bất kể phạm pháp luật phải có cho được. Do đó, tất cả ác nghiệp cũng từ đây mà gây nên. Chúng tôi nói cách khác, tiết kiệm là một đức hạnh tốt của con người. Nếu người keo kiệt không chịu giúp đỡ người khác, và bản thân mình cũng không dám ăn mặc thì trở thành kẻ nô lệ giữ tiền của. Mặc dù tiền của làm cho con người sung sướng hạnh phúc, nhưng cũng khiến cho con người sa đọa và đau khổ. Có người giàu nứt đố đổ vách mà còn dòm ngó của cải người khác. Có người nghĩ có tiền đẻ ra tiền nên dùng cách cho vay nặng lãi. Có người lừa đảo, trộm cắp của người khác. Có người muốn chiếm lấy của người khác làm của mình. Tóm lại, vì muốn có tiền của mà con người phải chịu nhiều đau khổ.
Vì muốn có được tiền của. Có người sống chi tiêu tiết kiệm mà được. Có người nhịn ăn nhịn mặc, dành dụm từng đồng từng cắc. Có người dùng thủ đoạn tinh vi lừa đảo mà có được. Có người tạo các ác nghiệp mà có được. Thế gian này không có chuyện không lao động cực nhọc mà có của cải. Do đó, khi làm việc gì chúng ta phải cân nhắc kĩ đến hậu quả của nó.
Ngày xưa, có một người ở vùng nông thôn, tính tình chất phác, thật thà, thường ngày hắn sinh sống bằng nghề chăn dê. Nhờ hắn biết cách nuôi, chăm sóc dê nên thời gian không lâu bầy dê sinh con đẻ cái rất đông; hắn lại gặp thời, ăn nên làm ra trở thành một người giàu nhất địa phương. Mặc dù, hắn có rất nhiều tiền, nhưng lòng dạ rất hẹp hòi, keo kiệt, bản thân không dám ăn mặc, cũng không giúp đỡ cho người nghèo khổ; cho nên, mọi người gọi hắn là trùm sò keo kiệt.
Một hôm, có một tên lừa đảo, gã chuyên đi lừa gạt rất nhiều người nên tìm cách tiếp cận tên chăn dê, giả vờ thân thiện nói:
- Này anh! Chúng mình là bà con xa, nên chúng ta có tình cảm rất sâu đậm. Hiện nay, anh là người giàu có nổi tiếng, nhưng còn thiếu một điều quan trọng.
Tên chăn dê hỏi:
- Tôi thiếu điều gì?
- Anh thiếu một người vợ trẻ xinh đẹp, có đức hạnh.
Nghe tên lừa đảo nói như thế, hắn chợt thấy đúng thật. Thường ngày hắn chỉ lo gầy dựng sự nghiệp, nay cuộc sống đã sung túc, không thể không có một người vợ để quán xuyến việc trong nhà, và tương lai còn phải có con cái nối dõi tông đường.
Hắn bảo tên lừa đảo:
- Này anh! Không biết anh có cách gì giúp tôi cưới được cô vợ trẻ, hiền thục, thông minh không?
Tên lừa đảo hớn hở nói:
- Tất nhiên là được rồi. Hôm nay, tôi đến đây vì việc này.
- Anh có chắc là tìm được cô gái như tôi đã nói không?
- Tôi tìm được rồi, ở xóm dưới có một thiếu nữ rất xinh đẹp, hiền thục, đoan trang lại có đức hạnh tốt, làm vợ anh rất thích hợp.
- Có thật không?
- Đương nhiên là thật rồi.
Gã chăn dê nghe gã nói rất hài lòng, vui mừng khôn xiết hỏi:
- Vậy hoàn tất việc hỏi cưới này, chi phí khoảng bao nhiêu?
Tên lừa đảo nói:
- Tất nhiên tiền càng nhiều thì khả năng thành công càng cao, anh càng nổi tiếng.
Xưa nay, tên chăn dê là trùm sò keo kiệt, nhưng lần này hắn hào phóng vung tay quá trán, đưa cho tên lừa đảo một số tiền rất lớn. Hắn hi vọng việc này tốt đẹp nhanh chóng. Trải qua vài ngày, gã lừa đảo đến nói:
- Cô gái này đã đồng ý kết hôn với anh rồi, nhưng anh phải chi thêm một số tiền để làm lễ đính hôn.
Hắn lại đưa tiền cho gã để làm lễ hỏi vợ. Từ đó, hắn cứ lâng lâng vui sướng bay bổng, quên ăn bỏ ngủ; lúc nào cũng nghĩ đến cô vợ trẻ, xinh đẹp hiền thục.
Vài ngày sau, tên lừa đảo lại đến nói lễ đính hôn đã xong, chuẩn bị lễ kết hôn; trước tiên phải mua căn nhà xinh xắn. Hắn lại đưa cho gã một số tiền.
Trôi qua vài ngày, gã lại đến đòi tiền để mua đồ trang trí nội thất. Hắn lại đưa tiền cho gã. Sau vài ngày nữa, hắn lại đến bảo, cô dâu muốn của hồi môn, xin hắn cho một số tiền. Hắn lại giao tiền cho gã. Tên lừa đảo gạt được một số tiền khá lớn rồi chuồn mất. Gã chăn dê cứ mãi trông ngóng đợi chờ, năm tháng trôi qua, tài sản của hắn bị gã lừa đảo lấy sạch mà chẳng thấy cô dâu; hắn mới hiểu rõ đạo làm người.
Bài học đạo lý
Việc tốt thì keo kiệt, lại đem tiền của gom góp khổ nhọc cả đời đưa sạch cho gã lừa đảo. Đây có phải là kẻ thông minh không? Tham của rẻ là bệnh rất nặng của loài người, qua lại với bạn bè thì mong cho họ tặng quà cáp. Khách có tiệc mời thì mong có nhiều người mời ta. Công nhân tham lam trộm lấy vật liệu, làm việc qua loa . Kẻ lười lao động lại mong người trả tiền công nhiều, muốn nhiều người khác giúp đỡ ta v.v…
Người sẵn lòng giúp đỡ người khác nhưng không mong cầu họ đền đáp lại thì rất ít; phần đông mọi người đều muốn bỏ ít mà được nhiều. Do đó, mà đưa đến tranh chấp lợi lộc, lừa đảo, gạt gẫm rất nhiều. Người nhận chút ân huệ của người thì sau đó phải trả lại rất nhiều. Cho nên vô tình con người rơi vào vòng xoáy năm dục, tính toán làm được lợi một chút, dần dần cũng hạ thấp nhân cách, trở thành kẻ tiểu nhân ở thế gian.
Con người đến thế gian này là trả nghiệp. Đức Phật dạy: “Nghiệp không nặng không sinh Ta-bà”. Vì thế, làm người phải làm việc để trả mới tiêu nghiệp cũng có thể là trả nghiệp; nhân cách, đạo đức cũng sẽ từ từ nâng cao. Kẻ hám của rẻ dần dần sa ngã, tốt hay xấu ở trong một niệm; tương lai khổ hay vui lại khác nhau một trời một vực.
Chuyện 31
Con lừa đập đồ sứ
Lời dẫn: Chúng ta xây cất một căn nhà lầu cao lớn, chẳng những tốn rất nhiều vật tư mà còn tốn rất nhiều công sức cực khổ mới hoàn thành được. Nhưng chỉ cần một cơn động đất thì trong thoáng chốc bị sụp đổ tan nát, lẽ nào không uổng phí công sức nhiều năm cực nhọc và của cải. Nhưng người nào có khả năng ngăn chặn được trận động đất? Hay khi xây dựng nghiên cứu tỉ mỉ, kiến cố an toàn thì khỏi lo?
Như có một người rất giàu sang, ông ta cũng vất vả làm lụng suốt mấy mươi năm, chi tiêu tiết kiệm, tích góp từng đồng mới trở nên giàu có. Nhưng khi ông bị chết bất đắc kỳ tử, tất cả tài sản, danh lợi khác nào như mộng huyễn, bọt nước. Vậy người nào có khả năng ngăn chặn khi tử thần đến? Chỉ có tu hành tích đức mới là tài sản nhiều đời nhiều kiếp xài không hết.
Suốt một đời người, lúc còn nhỏ lo đi học để trau dồi kiến thức, rồi học nghề, lại phải cực khổ làm việc nếm trải mùi thất bại, tích góp của cải mới có nền tảng sự nghiệp vững vàng. Một ngày nào đó, làm ăn thất bại phá sản, uổng phí cực khổ cả một đời thì người này đau khổ biết bao! Họ trách số phận kém may mắn; hay trách ông trời không giúp đỡ? Bạn muốn trách vì sao không trách ác nghiệp của mình ở đời trước hay đời này quá nặng? Hoặc trách tự mình không có trí huệ, mới dẫn đến sai lầm sự việc.
Ngày xưa, có một bà-la-môn muốn tổ chức một bữa tiệc để đãi bạn bè thân thuộc và những người hàng xóm. Nhưng trước khi đãi tiệc phải chuẩn bị rất nhiều khâu. Ông ta chuẩn bị một số tiền lớn, tìm mua những món ăn vật lạ, tìm mời đầu bếp giỏi, cả bàn ghế, chén tách và che rạp v.v… tất cả mọi việc phải chuẩn bị đầy đủ. Ông gọi tất cả người hầu đến để phân chia công việc. Trong đó, ông chia một người hầu phụ trách công việc chuẩn bị chén đĩa, ly tách. Hắn liền đi hỏi thăm lò làm đồ sứ. Khi hắn đến nhà người thợ gốm thì thấy chủ nhà đang buồn rầu khóc lóc. Tên hầu vội bước đến hỏi:
- Vì sao ông buồn khóc vậy?
Người thợ gốm đáp:
- Tôi đã tốn thời gian suốt năm, sáu năm ròng rã mới làm được đồ dùng nhiều như thế. Hôm nay, đem chất trên lưng con lừa chở ra chợ bán, không ngờ bị nghiêng rớt đồ xuống con lừa đập bể sạch tan tành. Làm sao tôi không đau buồn?
Trái lại, tên hầu cho rằng con lừa này rất tài giỏi. Người thợ gốm phải tốn thời gian suốt năm, sáu năm làm được số đồ sứ này, nó chỉ đập phá nát trong chốc lát. Nay ta mua dắt con lừa này về làm việc rất nhanh, chẳng phải giảm bớt công sức của nhiều người? Vì thế, hắn liền mua con lừa dắt về nói với bà-la-môn:
- Thưa ông chủ! Con lừa này rất tài giỏi nên con mua về, nó có khả năng làm việc rất nhanh, đỡ tốn công sức của nhiều người; bởi vì, chỉ trong chốc lát nó đập hết đồ sứ mà người thợ gốm phải tốn công sức suốt năm, sáu năm.
Bà-la-môn nghe hắn nói, liền nổi giận đùng đùng quát:
- Thằng ngốc này! Thiên hạ làm nên cơ nghiệp phải tốn công sức cực khổ rất nhiều và tốn thời gian rất lâu mới được thành công, phá hoại và thất bại chỉ cần trong thoáng chốc; huống gì con lừa này làm bể hết đồ dùng chẳng lấy được một cái chén nào. Ngươi mua nó dắt về làm gì?
Ông bà-la-môn vì không có chén, đĩa nên không tổ chức đãi tiệc được.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này là nói lên rất nhiều người giàu có muốn làm công đức, làm việc thiện, nhưng lại sợ tốn nhiều tiền; hoặc do nhiều nhân duyên, điều kiện không thích hợp, như không biết làm việc đó có công đức không? Làm thế nào mới có công đức? Lại nghĩ người kia có thật sự làm việc thiện không? Khi gặp được cơ hội làm việc thiện thì không có tiền; lúc có tiền thì không có cơ hội v.v…Những lý do đó đều không thể thực hiện được nguyện vọng của mình.
Có người suốt đời phát tâm cúng dường ngoại đạo, nhưng vì ngoại đạo không chú trọng tu hành nên cúng dường họ cũng không có công đức. Lại có người bề ngoài hiện vẻ tu khổ hạnh, nhưng lại ham ăn lười biếng; lúc có tiền đam mê cờ bạc hay nhậu nhẹt, cặp bồ với gái đẹp, ăn chơi trác táng v.v…Bạn bố thí cho họ thì khác nào giúp họ tạo nghiệp. Vậy có công đức không?
Mỗi người ở thế gian muốn tạo dựng sự nghiệp đều phải trải qua thời gian dài, nỗ lực làm việc, nếm mùi thất bại, tích lũy kinh nghiệm mới được thành công. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta là ăn, mặc, ở, đi lại, một việc vô cùng vất vả đối với mọi người phải không? Bởi vì, bạn xây được ngôi nhà, trước phải mua mảnh đất, rồi sau lo đi làm nuôi sống cả nhà đủ cơm ăn áo mặc là việc cực khổ nhiều năm; lại tính chuyện dành dụm chi tiêu tiết kiệm, tích góp từng đồng để phòng thân. Nhưng không may, một trận bão to, một ngọn lửa vô tình, một trận lũ ập đến, trong chốc lát bạn liền trắng tay, cho đến tốn của vì con ăn chơi đua đòi, trộm cắp, đất nước loạn lạc chiến tranh đều có thể ba đời bạn tích góp hết sạch trong thoáng chốc. Người đời tạo lập sự nghiệp khó khăn như vậy, hủy diệt rất dễ dàng. Vì sao chúng ta không tạo dựng tài sản mà nhiều đời nhiều kiếp dùng không hết? Đó là tu hành tích lũy công đức.
Chuyện 32
Gã bán vải trộm vàng
Lời dẫn: Bản chất con người có tính thiện hay làm việc thiện một chút thì sợ mọi người không biết; còn có tính ác, làm việc ác thì sợ mọi người biết được. Cho nên, họ luôn che giấu, bình thường chúng ta không thấy được, chỉ khi có cơ hội thì tính xấu, việc làm xấu mới lộ ra; tính thiện cũng như vậy. Con người vốn có hai mặt, tính thiện và tính ác, chỉ khác nhau tính thiện nhiều hay tính ác nhiều mà thôi. Nếu như con người hoàn toàn chỉ có tính thiện không có tính ác là bậc thánh rồi; còn nếu hoàn toàn là tính ác không có tính thiện thì đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Làm người là có nửa thiện nửa ác. Vì thế, chúng ta học Thánh hiền, học Phật, thân cận thiện tri thức là một việc rất quan trọng.
Ngày xưa, có hai người bạn thân nhau thường đi buôn bán ở phương xa. Một người bán vải, một người bán vàng.
Một hôm, họ đến bán ở thôn quê. Trong thôn có một người muốn mua vàng, nhưng không biết vàng giả hay thật. Tục ngữ có câu: “Vàng thật không sợ lửa thử”. Người mua vàng yêu cầu đem lửa nấu thử vàng mới chịu mua. Do đó, họ liền ôm củi chất lại đốt lên đem vàng bỏ trong lửa; nếu muốn vàng chảy ra thì phải đợi một khoảng thời gian. Người mua vàng và người bán vàng đều đợi rất lâu. Người bán vàng vào nhà vệ sinh đi tiểu. Người mua vàng vào trong nhà ngồi uống nước.
Lúc này, gã bán vải thừa cơ hội lén gắp vàng ở trong đống lửa, rồi vội vã bỏ vàng nhét vào trong vải. Người bán vàng đi ra, hắn giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, chờ cơ hội chuồn lẹ. Nhưng vàng bọc trong vải bốc cháy lên, hắn bị bắt ngay tại trận. Chẳng những hắn không lấy trộm được vàng mà vải cũng bị cháy sạch. Người đời thường vì ham lợi mà bị che mờ tâm trí, làm những việc thật ngu ngốc.
Bài học đạo lý
Phật pháp dụ như vàng. Ngoại đạo không biết phương pháp tu hành của Phật pháp, cũng không nương theo pháp mà tu hành, giữ giới. Họ chỉ lấy danh từ của Phật pháp rồi đem sửa lại; hoặc lén học theo nghi thức rồi cho là đạo của mình. Họ đem ra tán tụng ở đạo tràng; chẳng những không phù hợp đúng cách thức mà còn chẳng ra giống gì, chỉ giả làm hình thức mà thôi. Họ không biết được quí giá của Phật pháp ở đâu, cũng tự đánh mất lập trường của mình. Chẳng phải như người bán vải trộm vàng hay sao?
Trong tâm mỗi người đều ẩn chứa tập khí xấu ác tham, sân, si. Có người thì nhẹ, có người bị nặng, gặp nhân duyên thì nó lộ ra. Có người biết tự trọng thì tự mình khắc phục lòng ham muốn để tránh phạm pháp. Khi Khổng Phu Tử còn tại thế, có người đến hỏi:
- Thưa Phu Tử! Giả như ngài gặp cảnh khốn cùng bức bách, bỗng có hai lượng vàng trước mặt và khi ngài ở trong núi thẳm hang cùng, chợt có cô gái vô cùng xinh đẹp. Xin hỏi ngài có động tâm không?
Phu Tử đáp:
- Động, động, động!
Phu Tử nói liên tục mấy chữ động. Phu Tử là bậc Thánh ở Trung Quốc, tất nhiên không đến nỗi lấy trộm, hoặc làm việc phi pháp; nhưng ngài không dám nói trong tâm mình không động. Vì thế, chúng ta khởi tâm động niệm đều là mầm móng làm thiện hay ác.
Chúng ta có thể thấy tâm tham là thiên tính của nhân loại. Thiên tính này từ đâu? Có phải tự nhiên trời sinh ra không? Trời ban cho người này tính hiền lành, ban cho người kia hung ác; lại có người thì nhẹ, có người thì nặng. Như thế là không công bằng rồi.
Đức Phật dạy: “Liên quan đến tính thiện hay tính ác của con người là do tích tập từ vô thỉ đến nay, có người tích chứa nhẹ, có người tích chứa nặng”.
Đã là con người thì có ý nghĩ tham, gặp duyên xấu liền làm ác, gặp duyên tốt thì tính ác cũng biến thành thiện; ngược lại, gặp duyên xấu tính thiện cũng biến thành ác. Vì sao? Vì nó có liên quan đến duyên thiện, ác đời trước mà duyên thiện, ác ảnh hưởng đến đời này. Nhưng có những người đời này mới bắt đầu gặp duyên thiện, ác. Cho nên, chúng ta học Phật, thân cận được thiện tri thức là một việc rất quan trọng.
Chuyện 33
Vua ra lệnh đốn cây hái trái
Lời dẫn: Con người là tối linh trong muôn vật, có hiểu biết, có tài năng, có tầm nhìn xa trông rộng, có lương tâm, có đạo đức. Bất cứ làm việc gì, họ cũng suy nghĩ kĩ, dự tính cho tương lai, mới có giá trị tối linh trong muôn vật.
Nhưng có những người sống thực dụng, bất cứ việc gì cũng chỉ thấy lợi trước mắt mà không nghĩ đến tương lai, việc này đâu đâu cũng thấy. Như kẻ giết người để cướp của. Kẻ chuyên đi trộm cắp làm nghề sinh sống. Kẻ thừa tiền đi cặp bồ mại dâm làm thú vui. Kẻ có chức quyền tham ô để làm giàu. Kẻ dùng lời ngon tiếng ngọt chuyên đi lừa đảo để sinh sống. Những việc này đều có thể nói là đốn cây hái trái.
Xưa kia có một nhà vua. Trong vườn hoa của vua có trồng một cây ăn trái rất cao to, cành lá sum sê. Mỗi năm, cây này kết trái sai nặng trũi, lại rất thơm ngọt. Người ăn trái cây này chẳng những thơm ngọt mà còn được mạnh khỏe, trẻ đẹp; cho nên, nhà vua rất quí. Nhân dân trong và ngoài nước nghe đồn trái cây quí báu như vậy, ai mà không muốn ăn nó? Đáng tiếc là cây này sống trong hoàng cung, được nhà vua yêu qúy thì ai mà dám hái?
Một hôm, có sứ giả người nước ngoài đến yết kiến nhà vua. Vua ra lệnh tiếp đón sứ thần trong vườn cây này. Từ lâu, sứ giả đã nghe trong vườn nhà vua có một cây ăn trái rất qúy nên rất muốn ăn thử mùi vị trái cây. Nhưng nhà vua chưa ban cho, làm sao sứ giả dám hỏi? Ngày hôm sau, sứ giả được vinh hạnh yết kiến nhà vua. Vua hỏi:
- Sứ thần không quản ngại đường xa đến đây có điều gì chỉ dạy?
Sứ giả thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần không dám. Lần này thần phụng mệnh đại vương nước thần đem phẩm vật đến đây cống nộp, xin ngài vui lòng tiếp nhận.
Nhà vua rất vui vẻ sai bày yến tiệc đãi sứ thần. Sau khi dùng yến tiệc xong, sứ thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần có nghe trong vườn của ngài có trồng cây ăn trái, quả rất thơm ngọt, người nào ăn trái này được mạnh khỏe, trẻ đẹp. Nhưng cây rất cao lớn không biết bằng cách nào hái cho thần một trái ăn thử có được không?
Suy nghĩ một lúc, vua liền ra lệnh:
- Quân lính đâu! Hãy đốn cây để hái cho sứ thần vài trái.
Sứ thần được vua ban cho trái cây hớn hở trở về nước. Nhưng trôi qua vài ngày, cây liền héo úa, trái rụng xuống đầy mặt đất. Nhà vua vô cùng hối hận, phải chi đừng đốn cây. Từ đó về sau, trong hoàng cung không còn trái cây qúy báu thơm ngọt để ăn.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức, con người là động vật có hiểu biết, có tầm nhìn xa trông rộng; nhưng vì hám lợi trước mắt và hưởng thụ vật chất mà không tiếc qúy hạnh phúc và tiền đồ vào tương lai nên vứt bỏ sạch. Nhà vua trong câu chuyện là vị đứng đầu cả nước, chúng tôi nghĩ ông không đến nỗi ngốc mà không biết rõ quy luật chặt cây sẽ không sống lại được. Câu chuyện chỉ là thí dụ mà thôi, thí dụ có rất nhiều ý nghĩa. Chúng tôi xin nêu ra vài điều:
Khi con cái còn nhỏ, tất cả mọi việc đều nhờ vào cha mẹ, con cần gì cha mẹ liền đáp ứng. Bất luận là y phục, thức ăn, phương tiện đi lại, tiền học, thuốc men v.v…tất cả mọi việc đều là công sức, tâm huyết của cha mẹ. Thậm chí, cả đời cha mẹ chi tiêu tiết kiệm, tích góp của cải cũng là để lại cho con cái. Phận làm con phải cảm kích và hiếu thuận muôn phần với cha mẹ mới đúng. Nhưng con cái cứng đầu bướng bỉnh làm cho cha mẹ thất vọng, đau buồn. Như thế, chẳng phải làm tổn hại nhân cách và tiền đồ của mình hay sao?
Chúng ta sinh ra ở đây, lớn lên ở nơi này; nơi đây là đất nước của chúng ta. “Mọi người vì ta, ta vì mọi người”. Phải nên đồng tâm hiệp lực. Nhưng có người muốn phá hoại sự bình yên của xã hội. Có kẻ muốn làm hán gian. Có người tham nhũng tổn hại tài chính quốc gia. Nếu bị mất nước chúng ta có được sống yên ổn không?
Giao tiếp bạn bè, chúng ta phải dìu dắt, giúp đỡ lẫn nhau là có lợi ích với nhau cùng thành công với nhau. “Thấy lợi quên nghĩa” là chúng ta hại người cũng chính là hại mình. Xã hội, quốc gia đều là một thể giúp đỡ lẫn nhau, là được lợi ích với nhau; làm hại lẫn nhau là có hại chung. Đức Phật dạy: “Nhân quả với nhau”. Chúng ta muốn làm người trung hiếu, tiết nghĩa; hay muốn làm người bất trung, bất hiếu, bất nghĩa; muốn làm người lưu lại tiếng thơm muôn đời; hay làm người để lại tiếng xấu vạn năm là trong một niệm của chúng ta.
Chuyện 34
Rút ngắn đoạn đường gánh nước
Lời dẫn: Có một ông cụ nhìn thấy đám trẻ con đang chơi vui đùa, liền bảo:
- Này các cháu! Các cháu rất ngoan, rất thông minh; cụ lại nghe nói các cháu rất giỏi, ta rất thương yêu các cháu.
Bọn nhóc nghe ông cụ khen như thế, hớn hở vui mừng, chạy lại gần ông. Ông cụ dùng chiêu dụ cao hơn:
- Các cháu ơi! Lá cây rụng đầy sân dơ quá, các cháu giúp ông quét sạch được không?
Bọn nhóc vui vẻ quét sạch xong rồi trở về nhà.
Đây là một loại phương tiện gạt trẻ con. Nhưng vì sao ông cụ lại gạt trẻ con? Vì mưu đồ của mỗi người không giống nhau. Có người làm lợi ích cho mọi người. Có người vì ích kỉ cho cá nhân mình. Có người cố tình lừa đảo vì có mục đích riêng. Có người dạy người khác làm điều thiện v.v…Trong đó, có sự khác biệt giữa thiện-ác, trung-gian, chính-tà.
Đức Phật cũng có một câu chuyện thí dụ rất hay:
Ngày xưa, có một thôn nọ cách hoàng cung của nhà vua khoảng tám mươi dặm. Thôn này có một con suối nước chảy trong veo rất ngọt, nhà vua ra lịnh cho dân chúng ở thôn này: “Mỗi ngày gánh nước suối vào cung vua”. Ban đầu, dân chúng họp bàn cách gánh tiếp sức, họ làm một cách miễn cưỡng. Nhưng lâu ngày, dân chúng cảm thấy con đường quá xa, họ đâm ra mệt mỏi, ai nấy đều muốn đi khỏi thôn này, để khỏi phải hàng ngày gánh nước cho nhà vua, công việc nặng nhọc, mất nhiều thời gian, nhưng chẳng có đồng công nào.
Trưởng thôn biết được tin tức này, liền suy nghĩ: “Nếu như dân chúng bỏ đi thì ta tâu với vua như thế nào?”. Do đó, trưởng thôn liền triệu tập mọi người mở cuộc họp. Ông nói:
- Kính thưa đồng bào! Hôm nay chúng tôi mời các vị đến đây là để thảo luận vấn đề cải thiện gánh nước như thế nào cho đỡ cực nhọc. Mỗi ngày, các vị gánh nước cho nhà vua rất vất vả, đường đi lại rất xa, nhưng chúng ta không thể không có tinh thần trung thành với vua và yêu nước. Cho nên chúng tôi nghĩ đành phải rút ngắn con đường, đó là cách tốt nhất.
Trưởng thôn vừa phát biểu xong, mọi người đều vỗ tay tán thành, cả hội trường đều nhất trí đồng thanh nói lớn: “Hoan hô hay lắm!”.
Trưởng thôn lại hỏi:
- Xin các vị hãy yên lặng! Mọi người có biết từ thôn chúng ta đến hoàng cung có bao nhiêu dặm không?
Mọi người cùng trả lời:
- Dạ, tám mươi dặm.
- Chúng tôi sẽ tâu lên nhà vua từ tám mươi dặm sửa lại thành năm mươi dặm được không?
- Rất tốt! Rất tốt!
Dân chúng trong thôn đều hớn hở đồng ý. Vì thế, thôn trưởng đến thỉnh cầu nhà vua con đường từ tám mươi dặm sửa lại thành năm mươi dặm. Nhà vua phê chuẩn rút ngắn đoạn đường, dân chúng vui mừng khôn xiết như điên cuồng. Họ cho rằng từ nay về sau không còn đi con đường xa như trước. Mặc dù có những người thông minh nói với họ con đường không có rút ngắn, vẫn giống như trước đây. Nhưng dân chúng vẫn không tin.
Bài học đạo lý
Các vị đạo đức! Đức Phật dạy hành đạo Bồ-tát phải tu tam chỉ tu lục độ, trải qua trăm kiếp tu hành mới được tướng hảo. Có người vừa nghe Phật đạo tu lâu dài như thế, liền không dám tinh tiến vươn lên. Do vậy, Đức Phật thuyết pháp khai mở phương tiện nói có ba thừa hoặc năm thừa, chính là nói theo căn cơ của chúng sinh mà có nhiều pháp, cũng có thể làm cho chúng sinh dần dần vào Phật đạo Đại thừa. Nếu bậc thượng căn lợi trí thì Phật nói nhất thừa Phật pháp, đốn ngộ Phật pháp thành Phật, hoặc tức thân thành Phật.
Có rất nhiều chúng sinh đều tham cuộc sống sung sướng hiện tại mà mãi mãi đánh mất tương lai. Nếu bậc trí nói: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, giống như đàn khảy tai trâu, gợi mở tâm Bồ-đề của họ không được. Cho nên phải nói: “Lạy Phật, niệm Phật có linh nghiệm và cảm ứng như thế, họ mới chịu học Phật”. Đặc biệt là ngày nay thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, mọi người đều tham hưởng thụ cuộc sống vật chất. Nếu chúng ta nói Phật pháp phải tu khổ hạnh như thế, như thế… thì mới thành tựu Phật đạo, họ sẽ tránh xa.
Hiện nay lại gặp thời đại mạt pháp, ngoại đạo thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, chúng nói: “Tu đắc đạo nhanh chóng”. Trở thành hướng chung của mọi người, dù sao họ cũng bằng lòng đến với đạo. Bạn nói đi, bạn đúng? Hay họ đúng? Phương tiện thuyết pháp phải dùng ngôn từ hiện đại để giải thích Phật pháp? Hay dùng khoa học để chứng minh Phật pháp? Hay dùng ngôn từ hoa mỹ để giảng nói Phật pháp? Nếu như dùng phương pháp lừa dối để giảng nói Phật pháp thì Phật pháp trở thành tà pháp. Thuyết pháp không phải là vật để đùa giỡn. Then chốt hướng dẫn mọi người vào chính đạo; hoặc vào tà đạo, chính là ở đây.
Chuyện 35
Bóng người trong gương báu
Lời dẫn: Kinh Kim Cang ghi:
Tất cả pháp hữu vi.
Như mộng huyễn, bọt nước.
Như sương như điện chớp.
Cần phải quán như vậy.
Đây chính là nói: “Tất cả mọi sự vật ở thế gian đều luôn thay đổi, như mộng như huyễn”. Bãi bể biến thành nương dâu, nương dâu biến thành bãi bể. Sóng trên sông Trường Giang làn sau đẩy làn trước. Người thế hệ trẻ không lâu thành thế hệ già. Tất cả sự vật trôi qua trong thoát chốc, chỉ lưu lại trong trí nhớ, làm cho chúng ta luân hồi trong sáu đường, sinh tử vô tận, khổ báo vô cùng, không biết khi nào mới thoát khỏi biển khổ?
Xưa kia, có một thanh niên con nhà giàu có. Bởi vì, cha mẹ mất sớm để lại cho hắn một gia tài khổng lồ. Gã thanh niên này chưa từng nếm mùi thất bại, trải nghiệm sự đời, cũng không biết sự cực khổ kiếm được đồng tiền. Hắn ỷ mình giàu có nên ăn chơi tác tráng, sống buông thả cho qua ngày. Nhưng của cải có giới hạn mà hắn vung tay quá trán thì vô hạn; chỉ qua vài năm, hắn xài phá sạch gia tài khổng lồ của cha mẹ để lại.
Thoáng chốc, hắn trở thành tên bần cùng không còn gì để duy trì cuộc sống. Ban đầu, hắn đến bạn bè quen thân, hoặc bà con để vay mượn sống cho qua ngày. Sau đó, họ đều từ chối không cho hắn mượn nữa, hắn đến hỏi mượn người lạ; hoặc làm kẻ ăn xin bên đường. Vì các chủ nợ bao vây đòi tiền, hắn không có cách gì trả nổi nên phải bỏ làng ra đi. Do đó, hắn đi thẳng vào rừng sâu vắng vẻ. Đến nơi, hắn thảng thốt bàng hoàng, liều mạng tìm rau, trái cây dại ăn cho đỡ đói. Cuộc sống của hắn tuy cực khổ thân nhưng tinh thần an vui.
Một hôm, ở trong rừng vắng, bỗng nhiên hắn phát hiện một cái rương đan bằng mây, mở rương ra hắn thấy trong đó rất nhiều của báu vật lạ. Hắn vui mừng khôn xiết chợt thốt lên: “Trời ơi! Ông đã ban của cải cho con”. Hắn nghĩ sẽ thanh toán hết nợ nần trước đây hắn đã vay mượn, không còn bị mọi người xem thường và hủy nhục.
Lúc hắn sắp lấy của báu, chợt thấy dưới đáy rương có một chiếc gương. Hắn nhìn vào gương phát hiện có người ở trong đó, làm cho hắn vô cùng sợ hãi. Hắn cho rằng hành vi hắn muốn lấy của báu bị người trong gương phát hiện; vì hắn cho là vật không có chủ, hóa ra là vật có chủ ở đây giữ gìn. Hắn lập tức nói rối rít:
- Tôi xin lỗi! Tôi tưởng là vật không có chủ, té ra ông ở đây. Xin ông hãy tha thứ. Tôi chưa hề lấy vật báu nào, thành thật xin lỗi, xin lỗi!
Hắn nói xong, co giò chạy thục mạng không dám quay đầu lại, sợ người trong gương đuổi theo.
Bài học đạo lý
Một rương đựng đầy châu báu vốn là vật không có chủ, gã thanh niên phát hiện phải thuộc về hắn. Nhưng vì bóng của mình hiện trong gương làm hắn sợ hãi bỏ chạy. Đây không phải là việc đáng tiếc và đáng thương hay sao?
Nhân sinh như trò đùa, như giấc mộng. Cuộc sống con người luôn đi đôi hai mặt: mừng-giận, khổ-vui, giàu sang-nghèo hèn, thành công-thất bại, lợi-hại, được-mất; như một màn diễn tuồng trên sân khấu. Tình thương của cha mẹ, anh em ruột thịt, vợ chồng cũng không thật, chỉ làm cho chúng ta từ mê đến mê, mà còn tạo nghiệp mãi cho đến khi hơi thở sắp tàn vẫn còn nghĩ đến để lại của cải cho con cháu. Tắt thở tức là nghìn thu vĩnh biệt. Cho nên nói: “Khi chết ta chẳng đem theo vật gì, chỉ mang theo nghiệp bên mình”.
Bậc Cổ đức dạy: “Mười năm đèn sách không ai hỏi, phút chốc nổi danh vạn người hay”. Thế nào là nổi danh? Là được đậu trạng nguyên, nhà vua phê chuẩn ngồi trên xa giá diễu hành ba ngày, cờ xí rợp trời, về quê lễ bái ông bà, làm rạng rỡ tổ tiên, mọi người hân hoan chào đón. Nhưng nếu trong thoáng chốc bị gian thần hãm hại thì cả gia tộc đều bị tịch thu tài sản, gia đình tan nát, trở thành kẻ lang thang đi xin ăn khắp đầu đường xó chợ. Xưa nay, bước thăng trầm chốn quan trường là việc khó tránh khỏi. Vấn đề quan trọng nhất là con người đến phút cuối cùng vẫn vui đùa trên sân khấu, mờ mịt không biết quay về nơi đâu.
La Trạng Nguyên nói: “Làm quan xử án mấy mươi năm, những chuyện đúng sai có vạn nghìn, một nhà ấm no nghìn nhà oán, công danh nửa đời oán trăm đời”. Người nào tránh khỏi oan khiên? Cho dù đời nay không có, nhưng khi xuống âm phủ, vua Diêm La truy cứu thiện ác nhiều đời thì có oan gia trái chủ đời trước đến tính sổ. Bạn thiếu họ, họ thiếu bạn đều tính mãi không xong. Chúng ta đừng vì hạnh phúc nhất thời mà tạo oan khiên nhiều đời, thật không dễ gì gặp được kho báu Phật pháp, mà để năm dục phiền não lôi cuốn, không chịu tinh tiến tu hành; đây là điều thật đáng tiếc và đáng thương.
Chuyện 36
Vì tham mà móc mắt tiên nhân
Lời dẫn:Lòng tham là thiên tính của con người, nhưng tham cũng có tham thiện, tham ác, tham chính, tham tà. Phần đông mọi người đều vì tự tư tự lợi mà tham. Con người vì tham của cải, sắc đẹp, danh lợi mong được càng nhiều càng tốt nên dẫn đến hành vi tạo tội ác. Vì thế, Đức Phật dạy tham, sân, si là ba độc.
Ngày xưa, có một tiên nhân ở chốn rừng sâu tu học đạo khổ hạnh, cuối cùng ngài chứng đắc ngũ thông. Ngũ thông là Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông và túc mạng thông. Thiên nhãn thông là có thể nhìn thấu sự vật ở rất xa, dù ở trên trời hay dưới nhân gian. Thiên nhĩ thông là có thể nghe tất cả mọi âm thanh. Thần túc thông là bay đi tự tại khắp thiên hạ năm châu bốn biển. Tha tâm thông là biết được trong tâm người khác đang suy nghĩ điều gì. Túc mạng thông là biết được sự việc mình và người khác ở quá khứ đời trước.
Vị tiên nhân này, vì chứng thiên nhãn thông thấy được châu báu nằm ẩn dưới lòng đất nên chuốc lấy tai họa vào thân. Bởi vì, dân chúng nghe tiên nhân nhìn thấu rõ châu báu ở dưới lòng đất nên một đồn mười, mười đồn trăm, truyền khắp cả nước. Nhà vua nghe được tin này, liền hỏi các cận thần:
- Này các khanh! Các ngươi có nghe dân chúng đồn trong núi kia có vị tiên nhân tu chứng ngũ thông thấy được châu báu nằm ẩn dưới lòng đất không?
Các đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Chúng thần có nghe nói, nhưng chưa thấy vị tiên nhân này.
- Chúng ta hãy mời tiên nhân này về ở luôn trong nước của chúng ta, để ông ta chỉ chúng ta khai thác tài nguyên ở dưới lòng đất. Khanh nào mời được ông ta để chỉ kho tàng châu báu?
Có một đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần xin đi vào trong núi thỉnh vị tiên nhân này.
Vị đại thần này đi vào núi mời tiên nhân. Nhưng bất luận đại thần dùng mọi cách khuyên mời, cưỡng bách, dụ dỗ mà tiên nhân vẫn không chịu nói kho tàng châu báu. Cuối cùng đại thần móc mắt của tiên nhân đem về dâng lên nhà vua. Vua hỏi:
- Tại sao khanh lại móc mắt của tiên nhân?
Đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Cho dù thần dùng đủ mọi cách nhưng tiên nhân cũng không chịu hợp tác, ông ta có thể thấy châu báu trong lòng đất chính là đôi mắt này; cho nên thần móc mắt của ông ta thì thấy được châu báu trong lòng đất. Chúng ta cần gì hợp tác với ông ta?
Bài học đạo lý
Nhà vua vì muốn khai thác kho tàng châu báu trong lòng đất mà cầu tiên nhân chỉ dạy. Tên đại thần vì không sai khiến được tiên nhân nên móc mắt của ông. Một người là tham, một người là ngu si, cấu kết với nhau hại tiên nhân. Hại người lại không lợi mình thành bất chính là do tâm tham thôi thúc phải không?
Lòng tham như là thiên tính của nhân loại. Thật ra là thói quen từ vô thỉ đến nay, chúng ta gọi thiên tính cũng được, thói quen cũng chẳng sai. Làm người không thể không có lòng tham, có tham người ta mới cạnh tranh lẫn nhau, thúc đẩy xã hội, quốc gia tiến bộ nhanh chóng. Nếu như con người không có lòng tham thì ai nấy đều sinh ra lười biếng, ngay cả chuyện ăn uống cũng trở thành vấn đề bàn cãi tiến bộ cái gì?
Mỗi việc ở thế gian đều có hai mặt đúng sai. Chúng ta theo phương pháp chính đáng để cạnh tranh cầu tiến bộ, tất nhiên là đúng. Nhưng thường ở thế gian là tham không biết đủ, đưa đến tranh giành, tính toán so đo, tạo nghiệp. Vậy mọi người có thể ngăn chặn được lòng tham phạm pháp không? Có người hiểu sai nói: “Phật pháp tiêu cực dạy người không được tham”. Kì thật, tham hợp tình hợp lý và không trái với Phật pháp. Bởi vì: “Phật pháp ở thế gian không lìa thế gian mà giác ngộ”. Phật pháp ở thế gian làm lợi ích cho thế gian, giác ngộ ngay thế gian, bằng không thì Phật pháp chẳng có ai đến. Có hạng người tham là tham không đáy, đều là tham hại người lợi mình, tham bóc lột người khác, là tham tạo nghiệp làm ác. Vì thế, Phật pháp nói tham, sân, si là ba độc. Chúng ta muốn tránh khỏi tham ác này thì phải có trí huệ.
Chuyện 37
Giết oan đàn trâu
Lời dẫn:Dân gian ta có câu: “Ăn không được thì phá cho hôi.” Đây chính là nói những gì mình muốn không được thì cũng không muốn người khác có được; đó là căn tính thấp hèn của nhân loại. Người làm việc sai trái thường hay che giấu. Khi sự việc bị người khác phát giác không thể che giấu thì thấy xấu hổ hóa khùng, làm những việc thật đáng tiếc; đây cũng là căn tính thấp hèn của con người. Là do lỗi của ai? Nên trách người phát giác hay trách mình làm việc sai trái? Cả hai. Nếu hai bên có lý trí một chút thì sẽ không xảy ra sự việc đáng tiếc. Tốt nhất là mọi người đều phải có lý trí, hay mọi người đều không nên làm việc sai trái phải che giấu.
Thuở xưa, có một người nông dân nuôi hai trăm năm mươi con trâu. Mỗi ngày, hắn thức dậy từ sáng sớm đến tối mịt chăm sóc đàn trâu chu đáo. Vì do chăm sóc đàn trâu có lúc hắn quên ăn bỏ ngủ, lao tâm khổ tứ vì chúng. Nhờ hắn cần cù chịu khổ như vậy, nên cuối cùng hắn trở thành người chăn trâu giàu có nhất trong thôn. Đàn trâu sống trong môi trường thoải mái, ăn uống đầy đủ nên mập mạp, lông bóng mượt.
Một hôm, có một con cọp từ trên núi xuống, nó xông thẳng vào chuồng tấn công bầy trâu ăn no ngủ kĩ, thân trâu tuy mập to nhưng ít linh hoạt lại ngu cực kỳ; cuối cùng, cọp vồ giết chết một con. Trong chốc lát, nó ăn no rồi lặng lẽ trở về rừng. Khi gã nông dân phát hiện trâu bị giết thì không biết cọp đi về hướng nào.
Gã nông dân chẳng những không nghĩ cách để bảo vệ an toàn cho đàn trâu mà còn càm ràm với chúng: “Ta đã khổ công nuôi hai trăm năm con trọn vẹn, nhưng nay lại bị cọp ăn mất một con thì giống như bình ngọc có vết nứt, còn có giá trị gì đâu mà nuôi giữ?”. Hắn rất đau buồn tự nói lầm bầm: “Tại sao lúc đầu ta bỏ ra một số tiền vốn rất lớn để nuôi đàn trâu này? Vì sao ta phải cực khổ đi khai hoang vùng đất rộng rãi trồng cỏ nuôi trâu như thế? Mà nay đàn trâu không còn được đầy đủ, để chúng nó sống có ý nghĩa gì?”.
Hắn ngồi cúi đầu trầm tư suy nghĩ trong chốc lát, cuối cùng hắn quyết định táo bạo. Hắn lùa hết đàn trâu nhiều năm nuôi nấng cực khổ đến bên mé vực thẳm, hang sâu thăm thẳm, hắn đánh đập đẩy từng con lao xuống vách núi hang sâu; cả đàn trâu hai trăm bốn mươi chín con đều chết oan hết. Hắn lại khinh khỉnh ra về.
Bài học đạo lý
Người xuất gia thụ trì hai trăm năm mươi giới, nếu không chuyên tâm giữ gìn, lỡ phạm một giới không lo sám hối, lại nghĩ: “Ta đã không giữ giới trọn vẹn, chi bằng phạm nhiều giới; hoặc phạm tất cả giới thanh tịnh”. Như thế, chẳng những không ra thể thống một người xuất gia mà ngay cả cư sĩ tại gia cũng không bằng, thì khác nào như gã nông dân nuôi dưỡng bầy trâu cực khổ rồi đẩy hết xuống hang sâu?
Kiến thức của con người có nông-cạn không giống nhau. Thiện-ác, trung-gian cũng khác nhau rất xa, hành vi tà-chính cũng sai biệt rất lớn, tâm con người là biến thiên vạn hóa. Cho nên, chúng ta muốn đánh giá tốt xấu về người nào đó thật không dễ dàng. Bậc Cổ đức dạy: “Quen biết khắp thiên hạ, hiểu mình được mấy người”.
Có những người có học vấn, kiến thức rất rộng nhưng làm việc lại làm những việc rất ngu xuẩn. Có người tuy học vấn, kiến thức kém nhưng làm việc lại hợp tình hợp lý. Đây gọi là: “Người làm việc giỏi có kiến thức kém, người làm việc dở có kiến thức rộng”.
Tại sao tâm con người biến thiên vạn hóa? Tại sao người làm việc giỏi mà kiến thức kém? Có người nói vận mệnh sai khiến. Có người nói quỉ thần sai nó như vậy. Phật pháp nói: “Tất cả mọi việc đều do nghiệp sai khiến”. Bởi vì từ đời vô thỉ đến nay, chúng ta đã tích tập rất nhiều nghiệp thiện ác, nghiệp lực thiện ác này sinh khởi hiện hành, gặp hoàn cảnh như thế nào thì nghiệp lực dẫn dắt như thế ấy. Cho nên, dù người trí thức rộng, nhưng cũng làm những hành vi thấp kém; hoặc hành vi lúc thiện lúc ác.
Vì thế, chúng ta học Phật, trước phải học chính tri, chính kiến; giống như chúng ta muốn đến một nơi nào phải biết rõ đường đi. Tin theo mù quáng, chẳng những không đạt được mục đích mà còn rời xa mục đích càng ngày càng xa. Chúng ta làm người, xử thế cũng phải có chính tri, chính kiến thì mới có thể tránh được làm ác, tạo nghiệp. Chúng ta tu hành cũng vậy phải nỗ lực tinh tiến, tu tập chính định mới có thể khai mở trí huệ. Nếu không thì đi vào tà đạo thật đáng tiếc biết bao.
Chuyện 38
Mong nước đừng chảy
Lời dẫn:“Người phải vươn lên, nước thì chảy xuống”. Đây chính là tính chung của sự vật. Con người sống mà không vươn lên là người không có chí khí. Nước không chảy xuống trừ phi có vật chặn nó lại, lý lẽ này rất rõ ràng. Nhưng vẫn có người không biết nguyên lý này, lại không chịu học theo chí khí của người khác để hiểu biết mà chỉ mong thành công, giống như nước không chặn lại mà muốn nó đừng chảy, chẳng phải là hành vi của kẻ ngu si hay sao?
Thuở xưa, có một người rất thích đi du lịch, có thể nói năm nào hắn cũng đi khắp đó đây. Bậc Cổ đức dạy: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.”. Người đi du lịch nhiều nơi làm tăng trưởng sự hiểu biết, tâm trí càng nhìn rộng. Nhưng hắn chẳng có tăng trưởng kiến thức tí nào, trái lại còn cố chấp bị vật trói buộc.
Một hôm, hắn đi trên đường vừa mỏi mệt vừa đói khát, nhưng phía trước là một cánh đồng hoang vu, không có một con sông cũng không có ao hồ. Biết tìm nước uống ở đâu đây? Đang lúc buồn rầu hắn chợt phát hiện ở phía đông cánh đồng thấp thoáng một ngọn núi. Hắn nghĩ: “Có núi ắt phải có nước”, nên hắn đi thẳng đến chân núi. Quả nhiên, có người đang cày ruộng dưới chân núi, họ nối nhiều ống tre để dẫn nước vào ruộng, nước từ trong ống tre chảy ra trong veo mát lạnh. Hắn nhìn thấy dòng nước chảy ra vui mừng khôn xiết, liền uống một hơi thoả thích.
Hắn uống nước no xong, bỗng nhiên nghĩ ra một cách kỳ quái: “Ta mong nước trong ống tre đừng chảy ra nữa vì ta đã uống no rồi, đã khát rồi. Tại sao nước vẫn chảy mãi nhỉ”. Do đó, hắn nổi tức giận, điên cuồng quát lên: “Ta đã uống no rồi. Tại sao mi cứ chảy mãi thế?”. Lúc hắn đang tức giận đùng đùng thì có một người nông dân ở bên chân núi đến hỏi:
- Này anh! Người nào chọc anh tức giận thế?
Hắn đáp:
- Dòng nước này không biết gì cả, lúc nãy tôi khát khô cổ họng nên tìm đến đây, giờ đã uống thỏa thích rồi. Vì sao nước cứ chảy mãi thế này? Thật là tức chết đi được.
Hóa ra là tên quá thô lỗ, ngu si cực kỳ. Người nông dân không thèm đếm xỉa đến hắn bỏ đi về phía trước.
Bài học đạo lý
Muôn sự muôn vật ở thế gian đều có nhân mới có quả. Chúng sinh vì ưa tham đắm năm dục mà tạo nghiệp, không chịu buông bỏ thì làm sao không bị quả báo khổ nạn? Khi họ chán ngán cảnh trần, không còn hứng thú; nhưng nếu không đoạn tham dục trong tâm thì làm sao ngăn được dòng nước ham muốn đừng chảy? Hoặc không đoạn nguồn gốc năm dục thì cũng giống như gã ngu si kia không ngăn dòng nước mà muốn nó đừng chảy, thật là nực cười.
Cây có cội, nước có nguồn. Bậc Cổ đức dạy: “Vật có gốc ngọn, sự có thỉ chung, người biết trước sau là gần đến đạo”. Con người có sang-giàu, nghèo-hèn, khôn-dại, hiền-dữ; cho đến tính tình có thiện-ác, trung-gian, chính-tà đều là nghiệp nhân từ quá khứ, chiêu cảm quả báo khổ vui đời hiện tại. Chúng ta không biết truy tìm nguồn gốc, chỉ trách móc nghiệp quả; hoặc oán trời trách người thì có ích gì?
Vì thế, Đức Phật dạy: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bậc giác ngộ biết rõ tạo nhân gì sẽ đưa đến quả đó. Cho nên, Tử Tư nói: “Mỗi ngày ta xét lại thân ta ba lần”. Các ngài như vậy làm việc có sai lầm không? Có nói lời đắc tội với người khác, hay nói sai lầm không? Hành động có lỗi với người khác không? Người luôn kiểm điểm như vậy ít tạo ác nghiệp mà tăng trưởng đạo nghiệp. Còn hàng phàm phu nói ra hay hành động đều tăng trưởng tội nghiệp mà tự mình không biết; cho nên lưu chuyển trong sinh tử, nghiệp báo vô cùng.
Đời trước, chúng ta có tạo nhiều nghiệp, nên đời nay chịu nhiều quả báo, xảy ra những chuyện tai nạn, đau khổ; nhưng không biết sám hối tu hành, lại mê muội cầu thần, khấn Phật; giống như “trèo cây bắt cá” phải không? Đức Phật dạy nhân nào thì quả đó. Nhưng mọi người cố chấp không tin, lại tin xem bói, đoán mạng; khi xử lý sự việc khác nào trèo cây bắt cá? Từ vô thỉ đến nay, chúng ta đã tích tập những thói ác tham, sân, si; cho nên sinh tử vô cùng, khổ báo vô tận. Nếu không chịu nỗ lực tu hành mà oán trời trách người thì giống như gã ngu si trong câu chuyện trách nước chảy mãi phải không?
Chuyện 39
Uổng phí bột gạo
Lời dẫn:Ở Đài Loan có một câu tục ngữ rất hay: “Vật có hình dáng thì nhìn thấy được, nếu không có hình dáng thì tự mình suy nghĩ”.Vật có hình dáng là chúng ta học rất nhiều người mới đuổi kịp thời đại văn minh. Tự mình tư duy là có người phát minh sự vật càng nhiều, càng tốt, càng lý tưởng. Nhưng phần đông biến khéo thành vụng, làm trò cười cho thiên hạ. Người tự cho mình là thông minh thì chẳngphải tự chuốc nhục vào thân?
Ngày xưa có một gã thích đi ngao du đó đây. Một hôm, hắn đến nhà người bạn lâu ngày mới gặp lại. Hắn thấy trên vách tường nhà người bạn láng coong rất xinh đẹp, hắn rất ngưỡng mộ vội hỏi:
- Này anh! Hãy chỉ dùm tôi vật liệu quét trên vách tường là thứ gì?
Người bạn chỉ:
- Việc này chẳng có khó khăn gì, tôi đem gạo xay thành bột rồi thêm bùn và nước trộn đều; sau đó, tôi trét lên rồi chà cho phẳng láng, nên được đẹp như thế.
Hắn nghe người bạn nói khoái chí vô cùng, liền nghĩ: “Khi ta trở về phải làm cho nhà mình láng coong như thế mới xinh đẹp”.
Sau khi, hắn trở về nhà, chuẩn bị các vật liệu bột gạo, bùn. Hắn lại suy nghĩ: “Gạo xay thành bột mịn đẹp như thế rồi, nếu như ta đem bột gạo trộn với bùn thôi, không cần nước thì trét lên tường chẳng phải xinh đẹp, sang trọng hơn nhà anh bạn hay sao?”.
Nghĩ sao làm vậy, hắn lấy bột gạo trộn với bùn rồi trét lên vách tường. Nhưng khi hắn trét lên chẳng những không thấy bằng phẳng, láng bóng mà cả vách tường đều bị lòi lõm, xù xì rất là xấu xí; lại bắt đầu nứt nẻ rớt xuống. Đây không phải là biến đẹp thành xấu hay sao?
Bài học đạo lý
Có những kẻ ngoại đạo nghe bậc Thánh hiền dạy tu các pháp thiện sẽ được sinh lên cõi trời; hoặc thành Thánh hiền. Nhưng sau khi họ suy nghĩ kĩ, lại kết luận: “Con người sau khi chết không thể sinh cõi trời, chúng ta tốn nhiều công sức tu hành, làm việc thiện để làm gì?”. Vì thế, họ muốn mau sinh lên cõi trời nên liền tự sát. Họ cho rằng phương pháp tự sát là khỏi tốn nhiều công sức tu hành, làm việc thiện là con đường tắt thẳng đến cõi trời.
Ai cũng biết họ tự sát, chẳng những không sinh lên được cõi trời mà còn phải chịu đau đớn, lại tăng thêm tạo tội nghiệp sát, sẽ chịu quả báo đọa địa ngục. Việc này khác nào lấy bột gạo trét tường, chẳng những không làm cho vách tường bóng láng xinh đẹp mà còn xấu xí hơn lúc đầu. Thật lãng phí bột gạo, tiền bạc và công sức.
Ở đời, người tự cho mình là thông minh rất nhiều. Nếu như một sản phẩm nào bán chạy thì có kẻ liền làm hàng giả, nhái theo nhãn hiệu để tung ra thị trường; kết quả hàng giả vẫn là hàng giả, lừa đảo chỉ một lúc nào đó không thể lâu dài được. Bọn buôn lậu vì hám lời nhất thời, cho đó là việc làm thông minh. Nhưng hại sức khoẻ của người tiêu dùng, họ được lợi ích; trái lại, họ tự phá hủy danh dự uy tín của minh, đến khi bị mọi người phát hiện thì nhân cách và đạo đức của họ suy đồi trầm trọng, không còn uy tín, mọi người nhìn thấy lánh xa. Họ có làm việc gì cũng không ai chịu hợp đồng; đây chính là quả báo thất bại.
Kẻ trí thức cùng với người xấu làm điều xấu, cùng nhau tham ô, bòn rút của công. Người nông dân vì hám lợi gieo phân bón hóa học cho nhiều, thúc lúa lớn nhanh, dẫn đến hại sức khỏe mọi người. Công nhân trộm lấy vật tư đi bán lén bên ngoài, làm cho nhiều công trình không đảm bảo chất lượng bị sụp đổ. Kẻ kinh doanh dùng nhiều chất hóa học, hàng giả tung ra thị thường bán giảm giá, hại người dân tiêu dùng, mình được giàu to. Như vậy, ai nấy đều tàn hại lẫn nhau, làm cho xã hội bất ổn khắp nơi.
Có những quốc gia hao tốn rất nhiều tinh thần và vật chất để bồi dưỡng nhân tài, phát minh ra những thành phẩm mới. Lại có những nước đi trộm lấy chất xám của người nước khác đã cực khổ nghiên cứu tìm tòi, chế tạo ra hàng dỏm để cạnh tranh với hàng thật. Có những người đầu tư số vốn rất lớn để quay dựng một bộ phim, vừa hoàn thành thì lập tức có kẻ gian sang đĩa trộm tung ra thị trường để bán đại hạ giá.
Phật giáo hoằng dương giáo pháp suốt mấy nghìn năm khắp thế giới, mới đi vào trong dân gian, kiến lập sự tín ngưỡng đến với mọi người. Có những kẻ lưu manh trộm danh từ Phật pháp sửa đổi thành một giáo môn riêng của mình, lại còn dùng lời bịa đặt dụ dỗ, hăm dọa dân chúng, dã tâm tham vọng muốn thu phục nhiều tôn giáo quy về một. Xã hội như thế làm sao bình yên được?
Chuyện 40
Thầy thuốc thành thật
Lời dẫn:Người làm thầy thuốc trị bệnh cho mọi người, nhưng tự mình mắc bệnh lại không chữa được. Người làm thầy giáo đi dạy con cái của người khác, nhưng không dạy được con mình. Tiên sinh Giám Dự xem địa lý, phong thủy cho mọi người, nhưng địa lý, phong thủy nhà mình thì lại rất xấu. Thầy bói xem tướng, đoán vận mạng cho mọi người, nhưng không biết vận mạng của mình ra sao. Thế gian có rất nhiều việc tự mình không biết cũng không làm được lại đi dạy cho thiên hạ, chỉ vì cuộc sống kiếm đồng tiền mà làm việc trái với lương tâm, nói điều giả dối. Thế gian này, bạn gặp được bao nhiêu người thẳng thắn và thành thật?
Thuở xưa, có một tên bị đầu sài, hắn vô cùng đau khổ vì cái đầu sài của mình. Mùa đông có thể mặc nhiều y phục thân được ấm áp; nhưng trên đầu cho dù đội chiếc mũ rất dày mà vẫn sợ lạnh. Mè hè thời tiết nóng nực, hắn phải đội mũ mãi quả là một cực hình; nhưng không đội mũ thì ruồi, lằn, mũi luôn vo ve bay đậu ở trên đầu thật là bực mình, làm cho hắn ngày đêm sống không yên ổn.
Một hôm, tình cờ hắn gặp lại người bạn nhiều năm không gặp. Hắn than thở với bạn. Người bạn bảo:
- Cách đây khoảng hai mươi dặm có một thầy thuốc rất giỏi, bất cứ bệnh nan y nào qua tay thầy đều chữa khỏi bệnh. Vì sao anh không tìm đến vị thầy này?
Tên đầu sài nghe bạn mách bảo rất vui mừng. Do đó, hắn theo địa chỉ người bạn ghi để lại tìm đến nhà thầy thuốc; cuối cùng hắn cùng tìm ra được. Hắn đến nhìn thấy tấm bảng treo ghi: “Bạn hãy ngồi đợi một lúc, rồi gặp được thầy thuốc tài giỏi”.
Khi hắn gặp thầy thuốc bày tỏ nỗi đau khổ của mình, xin thầy khám chữa trị dùm. Vị thầy thuốc lấy mũ đang đội xuống nói:
- Anh xem, tôi cũng bị bệnh đầu sài, bệnh của tôi không chữa trị được; làm sao chữa cho anh?
Vị thầy thuốc này rất thẳng thắn chân thành, ông có khả năng chuyên tâm trị bệnh cho nhiều người, nhưng có những bệnh ông thấy mình không chữa được thì nói cho bệnh nhân biết để họ tìm cách chữa, không để chậm trễ. Ông quả thật là một vị thầy thuốc tốt không lừa dối mọi người để moi tiền.
Bài học đạo lý
Ở đời có rất nhiều việc tự mình không hiểu rõ mà cứ khăng khăng y theo văn tự, nghi lễ chỉ dạy cho người là mình mê người mê, dối mình lừa người. Cuộc đời này, nếu ai cũng ngay thẳng chân thật, không lừa dối thì không biết sẽ giảm biết bao nhiều điều thị phi, ít đi kẻ tạo tội nghiệp. Vì sao tiên sinh Giám Dư không tìm cho mình địa lý và phong thủy tốt để được làm ăn giàu có, hay được làm quan? Thần đồng, thầy bói vì sao không chỉ cho mình kiếm được số tiền lớn hay gặp nhiều cơ hội vận may? Những điều này rõ ràng là tự mình cũng không biết được. Vậy tại sao lại đi xem vận tốt, vận xấu cho mọi người? Mọi người vì danh lợi mà dẫn đến việc lừa dối rất nhiều.
Trước đây, có một phụ nữ đến chùa thưa với chúng tôi:
- Bạch sư phụ! Thầy bói nói tướng mạng con tháng đó, năm nay bị sao xấu, làm ăn thất bại, e gặp tai nạn. Xin sư phụ tụng kinh cầu nguyện cho con tiêu trừ tai nạn, giải trừ vận xấu được không?
Chúng tôi nói:
- Này cô! Tai nạn phải tự mình tiêu, vận xấu cũng tự mình giải; người khác không giải thay cho cô được. Bởi vì, tất cả nghiệp báo tai nạn đều do đời quá khứ mình đã tạo, tự mình phải biết tu hành, sám hối mới có thể tiêu trừ. Người khác tụng kinh, sám hối hồi hướng cho cô chỉ là gián tiếp; tự mình tu hành sám hối mới là việc trực tiếp. Vả lại, người khác tụng kinh cầu nguyện cho cô cũng là việc một, hai ngày; tu hành sám hối là việc hàng ngày phải tu, phải thực hành. Tai nạn không phải việc một ngày, hai ngày bạn tụng kinh có thể tiêu trừ hết được; cho nên, tự mình phải tu là việc thích hợp nhất.
- Bạch sư phụ! Con không biết tụng kinh.
- Cô không biết tụng kinh thì niệm danh hiệu Phật đều tiêu trừ tai nạn giống nhau.
Từ đó, cô ta trở về nhà bắt đầu niệm Phật.
Vậy làm thế nào người đời chân thành thẳng thắn không lừa dối? Trừ phi bạn không màng tới danh lợi, vì danh lợi nên mọi người sống không chân thật rất nhiều.
Chuyện 41
Ngư ông được lợi
Lời dẫn:Trong sáu đường có cõi a-tu-la, còn gọi là phi thiên, ý nghĩa là có phúc trời nhưng không có đức trời. Đặc biệt chúng rất thích đánh nhau, nên gọi là a-tu-la. Chúng thường khởi binh đánh nhau với trời Đao Lợi. Kết quả thế nào? Chúng thường chuốc lấy thất bại. Bởi vì, liên quan phúc báo của mỗi người không phải ra sức đánh nhau mà giành được phần thắng.
Người thế gian cũng là thế gian thường xảy ra chuyện đánh với nhau, giữa nước này đánh với nước kia, nhà này tranh chấp nhà nhà nọ, dân tộc này đánh với dân tộc kia. Bất luận là mối quan hệ anh em, bạn bè, bà con thường xảy ra xích mích rồi đánh nhau. Kết quả cuộc chiến thế nào? Phần đông cả hai đều mẻ đầu sứt trán. Bậc Cổ đức dạy: “Giết địch một vạn, ta mất ba nghìn”. Không có chuyện người khác thương vong mà mình bình yên vô sự. Như thế, chẳng phải mượn đao người khác rồi tự đâm mình bị thương hay sao? Huống gì tạo cơ hội cho kẻ thứ ba được lợi?
Trong kinh Phật cũng có câu chuyện thí dụ rất hay:
Ngày xưa, có hai con quỷ rất thân với nhau; cho nên, chúng nó ở chung. Một hôm, cả hai con đi đến nói đồng trống vắng vẻ cùng phát hiện một chiếc rương báu, một cây gậy và một đôi giày cỏ. Cả hai đều biết diệu dụng của ba thứ báu này. Vì vật báu nằm ngay trước mắt nên chúng nó cãi nhau om sòm, con nào cũng nói mình thấy trước, phải được thứ báu này, không ai chịu nhường ai nên chúng đánh nhau.
Lúc đó, có một người đi ngang qua nhìn thấy chúng nó đánh với nhau, liền vội bước đến giải hòa. Hai con qủy mời người này phân xử đúng sai. Qủy A nói:
- Tôi phát hiện trước ba thứ vật báu này, nó phải thuộc về của tôi.
Qủy B nói:
- Không được! Tôi nhặt nó lên trước, phải thuộc về của tôi.
Người đi đường bảo:
- Rốt cuộc ba vật báu này có diệu dụng gì? Làm cho hai ngươi tranh giành như thế?
Hai con qủy đáp:
- Rương là rương báu, nó làm theo ý muốn của chúng ta. Chúng ta muốn ăn ngon, mặc đẹp hay vàng bạc, châu báu thì lấy trong rương này. Cây gậy cũng là gậy báu, nó có khả năng hàng phục kẻ thù. Còn giày cỏ khi mang vào sẽ bay đi tự tại.
Người đi đường nói:
- Thôi! Để ta thử xem nhé! Nếu thực sự nó có diệu dụng như vậy thì ta chia công bằng cho hai ngươi; còn như chỉ là đồ phế bỏ thì cần gì phải tranh giành?
Người đi đường mang giày cỏ, tay cầm cây gậy, tay xách chiếc rương bay lên hư không nói:
- Hai ngươi vì lợi ích riêng mình mà đánh mất tình bạn và nhân nghĩa để tranh giành của báu này. Vật báu này chính là thứ phá hoại tình bạn thân thiết của các ngươi, nay ta đem nó đi để các ngươi sống chung hòa thuận, nối lại tình cũ. Các ngươi hãy cố gắng sống chung vui vẻ nhé. Ta đi đây!
Hai con qủy đứng tiếc ngơ ngẩn nhìn vật báu bị người khác mang đi, chúng đều trắng tay. Chuyện này giống như “Trai, cò giành nhau, ngư ông được lợi”. Câu nói này, chúng ta nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn rất quen thuộc. Từ xưa hai nước đánh nhau thì nước thứ ba được lợi. Hai gia đình dắt nhau ra tòa án kiện thì luật sư được lợi. Đánh bạc, phạt sát hơn thua cũng là kẻ làm cái được lợi.
Bài học đạo lý
Đạt Nhĩ Văn nói: “Muôn vật nằm trong sự cạnh tranh nhau hơn, kém. Vật hơn thì được sinh tồn, vật kém thì bị đào thải”. Con người đấu tranh không ngừng thì mới được tiến bộ. Nhưng trở thành thế giới a-tu-la thì chỉ có lợi, hại mà không có đạo đức và nhân nghĩa, là phúc hay là họa của nhân loại đây? Nếu người kinh doanh sản xuất, chế tạo ra hàng hóa có chất lượng, bền và đẹp để cạnh tranh, được người tiêu dùng ưa chuộng là có phúc. Nhà chính trị đi khắp nơi ngoại giao các nước, vì muốn đẩy mạnh sự tiến bộ văn minh cho đất nước, cho nhân dân là dân có phúc. Nếu như người trung và kẻ gian không hòa thuận thì xảy ra việc bất ổn.
Chúng ta cạnh tranh về trí tuệ, đạo đức làm người dẫn đường, đưa nhân loại tiến bộ và hạnh phúc. Nếu như chúng ta cạnh tranh vì ham muốn, có lợi cho cá nhân thì tạo nghiệp và làm ác. Vì thế, tôn giáo chính là nơi đào tạo nhân cách và người dẫn đường đạo đức cho nhân loại. Người theo tôn giáo mà vì nghề nghiệp mà cạnh tranh tức là tội nhân trong tôn giáo. Cho nên, mọi người muốn vươn lên hay sa đọa chỉ trong một niệm, tương lai khổ hay sướng khác nhau một trời một vực.
Chuyện 42
Dùng hàng hoá trùm da lạc đà
Lời dẫn:Muôn vật ở đời có khác biệt đắt và rẻ, gặp tai nạn cấp bách thì lấy đồ qúy giá bỏ đồ rẻ tiền. Việc làm gấp rút nhưng hiện tại chưa cần gấp thì có thể làm cẩn thận, mới là người thông minh. Nhưng thế gian này lại có chậm mau điên đảo, bỏ của qúy lấy của rẻ, há chẳng phải là chúng sinh ngu si hay sao?
Thuở xưa, có một người thương buôn dẫn theo hai người con trai và một con lừa chở rất nhiều hàng hóa quí giá, họ muốn đến những nơi rất xa để buôn bán. Cả ba con chọn sáng sớm ngày xuân, cảnh xuân tươi đẹp mà xuất phát. Đang lúc mùa xuân mọi người thích ngắm cảnh xem hoa, ba cha con dắt con lừa tiến về phía đồng ruộng. Họ nhìn thấy nông dân đang cày ruộng. Người cha dạy:
- Này hai con! Tất cả mọi việc ở đời và cả việc buôn bán của chúng ta cũng phải trải qua muôn nghìn gian khổ mới được kết quả thành công. Các con nhìn thấy người nông dân kia, nếu mùa xuân họ không cày cấy vất vả thì mùa thu làm sao có lúa để thu hoạch được?
Hai người con nói:
- Thưa cha! Chúng ta đi buôn bán xa nhà, cũng giống như người nông dân cày cấy; nếu như không chịu cực khổ bôn ba xuôi ngược thì làm sao kiếm được nhiều tiền lời.
Người cha nghe hai con trình bày gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Họ đi qua đồng trống, băng khỏi rừng già, phải bắt đầu trèo núi; nếu họ vượt qua ngọn núi này thì đến nơi họ cần buôn bán. Nhưng thật không may, khi họ vừa trèo lên núi; vì lạc đà chở hàng hóa quá nặng làm nó ngã quỵ xuống, chết liền trên đường đi. Điều này làm cho họ cảm thấy khó khăn vô cùng, cả ba cha con chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau than thở, không biết thu xếp thế nào cho ổn? Cuối cùng, người cha bảo:
- Này hai con! Trước tiên chúng ta hãy mở hàng hóa trên thân lạc đà xuống.
Hai người con làm theo cha, vừa mở xong, người cha lại bảo:
- Con lạc đà này chết rồi, da của nó vẫn có ích. Chúng ta hãy lột da của nó nhé!
Họ lại bận rộn lo lột da con lạc đà. Người cha nghĩ: “Hàng hóa nhiều thế này mà không chở ra chợ bán được chắc phải lỗ vốn, ta phải trở về nhà dắt con lạc đà khác đến chở hàng hóa”. Vì thế, ông lại dặn các con:
- Này hai con! Nay cha phải trở về nhà dắt con lạc đà khác đến, các con hãy cố gắng giữ hàng hóa này; đặc biệt là da của con lạc đà đừng để nó hư thối.
Người cha dặn các con xong, một mình xuống núi. Bất ngờ, ngày hôm sau mưa như trút nước, hai người con thấy trời mưa nhớ lời cha dặn: “Đặc biệt quan tâm tấm da lạc đà” nên liền rút tấm chăn lông trắng rất quí giá trong đống hàng hóa, trùm lên tấm da lạc đà. Mưa dầm suốt mấy ngày, chẳng những tấm chăn lông trắng bị hư mà da lạc đà cũng bị thối rữa, tất cả hàng hóa cũng bị hư hoại; cuối cùng, không còn vật gì. Nếu lúc đó, hai người con có lý trí lấy tấm da lạc đà trùm lên hàng hóa thì có thể giữ gìn được một số. Nay tất cả hàng hóa đều bị hư hoại, không phải là việc vô cùng đáng tiếc hay sao?
Bài học đạo lý
Con người sống ở đời không thể thiếu cơm ăn, áo mặc và nhà ở. Nhưng vì chuyện ăn mặc mà bươn chải mưu sinh cả đời, hoặc gây ác tạo nghiệp làm cho nhiều đời nhiều kiếp chịu khổ, đó là người thông minh hay kẻ ngu si? La Trạng Nguyên nói: “Một nhà ấm no, nghìn nhà oán hận; nửa đời công danh, trăm đời oan ức”. Chúng tôi không biết các vị nghĩ như thế nào?
“Lòng cha mẹ như trời biển”. Cha mẹ cực nhọc suốt một đời, hoặc chi tiêu dè sẻn cũng là vì con; thậm chí có thể hi sinh thân mạng mình để che chở cho con cái. Tình cảm cha mẹ dành cho con cái như thế, nếu như mọi người trong xã hội đều như vậy thì ai ai cũng có thể thành Phật. Nhưng người làm con cháu, họ chỉ vì tình yêu của mình mà không cần đến cha mẹ. Có người vì ham muốn lợi cho mình mà chà đạp lên nỗi đau khổ của người khác, bóc lột công sức của mọi người. Có người vì cuộc sống của mình mà sát hại sinh mạng chúng sinh, đều là gây nhân tạo nghiệp, quả báo sinh tử đau khổ.
Người tu hành học Phật vốn thoát khỏi sinh tử. Nhưng nếu tu hành có chút linh ứng liền đi khoe khoang với mọi người. Ngoại đạo lợi dụng chút thần thông của qủy thần mà mưu cầu danh lợi, giả danh cứu đời, lợi mình hay lợi người khác chỉ có lương tâm mỗi người tự hiểu. Thân này chỉ sống vài mươi năm, nhưng tính linh tịnh hay uế lại ảnh hưởng đến nhiều đời nhiều kiếp. “Thân người khó được, nay ta đã được, Phật pháp khó gặp, nay ta đã gặp”. Đời này, chúng ta không nỗ lực tu hành độ mình thì đợi đến khi nào độ thân này? Con người là có trí tuệ, nên phân biệt được qúy, rẻ, nhanh, chậm mới đúng.
Chuyện 43
Gã điêu khắc ngu xuẩn
Lời dẫn:Có người suốt đời cực nhọc tính toán, tranh giành với mọi người tạo các ác nghiệp mới kiếm được tiền của thì đem cung cấp hết cho gái đẹp, đánh mất danh dự. Có người vì thể diện mà đi kiện tụng suốt mấy năm, tài sản hết sạch cũng không lấy lại được thể diện. Có người từ một nhân viên bình thường làm ở công ty, nhờ nỗ lực khoảng hai, ba năm được thăng lên chức trưởng phòng, rồi giám đốc; nhưng vì tham nhũng một số tiền nhỏ mà bị cách chức phải ngồi tù, lại đánh mất tương lai tốt đẹp lâu dài, thân bại danh liệt. Ở đời có những kẻ thông minh, nhưng thường làm việc ngu xuẩn.
Xưa kia, có một nhà điêu khắc rất tài giỏi. Một hôm, hắn nghĩ phải khắc một tác phẩm tuyệt tác để lại cho đời. Nhưng muốn khắc tượng đẹp thì phải có đá ngọc mới có thể khắc được tác phẩm tuyệt tác. Vì thế, hắn đi vào rừng sâu tìm đá ngọc. Cuối cùng, hắn cũng tìm được một tảng đá, nhưng đục được tảng đá lớn này rồi, lại phải tốn rất nhiều người và sức lực mới chở được về nhà.
Hắn lại tốn thời gian mấy năm, từ từ đẽo tảng đá này. Rốt cuộc, hắn đẽo tảng đá nhỏ bằng nắm tay. Có người nhìn thấy hắn đẽo tảng đá lớn như thế thành một hòn đá nhỏ, liền hỏi:
- Vì sao anh phải tốn nhiều công sức để đẽo tảng đá lớn như thế thành một hòn đá nhỏ?
Hắn đáp:
- Vì tôi muốn khắc một con trâu nhỏ.
- Khắc một con trâu nhỏ, chỉ cần hòn đá nhỏ thì được rồi. Tại sao anh phải tốn công đẽo tảng đá lớn thành nhỏ?
- Vì anh không biết, hễ muốn khắc tượng khéo đẹp cần phải tốn thời gian càng lâu, đầu tư tinh lực càng nhiều để sáng tác, mới khắc được tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp mới có giá trị.
Nhà điêu khắc này lý luận cũng hay, nhưng xem ra tinh thần của hắn không được bình thường, chính là một kẻ quá ngu ngốc.
Bài học đạo lý
Người đục tảng đá là dụ cho người nhiều năm làm lụng cực khổ chăm chỉ, lại còn bôn ba xuôi ngược, chịu gió sương tuyết lạnh, thậm chí tính toán, tranh đoạt với người, tạo các nghiệp ác. Rốt cuộc được cái gì? Ngày ăn ba bữa mà thôi. Họ tạo ác nghiệp và các khổ báo, tương lai nhiều đời nhiều kiếp chịu luân hồi sinh tử. Chúng ta học Phật tu hành, một ngày chỉ tốn một ít thời gian mà được công đức nhiều đời nhiều kiếp hưởng không hết, cho đến giải thoát sinh tử mãi mãi, lợi ích khác nhau một trời một vực.
Bậc Cổ đức dạy: “Mười năm đèn sách không ai hỏi, phút chốc nổi danh vạn người hay”. Miệt mài mười năm đi học, tất cả chỉ đợi một ngày này. Ngày nay, mọi người từ tiểu học lên đến đại học phải tốn mất mười sáu năm, rồi mới tìm được việc làm, ban đầu chỉ là nhân viên, họ lại phải nỗ lực phấn đấu hơn mười năm, chi tiêu tiết kiệm mới mua được ngôi nhà; tiếp tục tốn mất một thời gian khá lâu để gầy dựng sự nghiệp, tạo dựng sự nghiệp vững vàng thì thân này đến lúc lâm bệnh. Thân này tạo tội, tương lai nhiều đời nhiều kiếp không biết lưu lạc về đâu. “Muốn biết quả đời sau, là nhân nay ta làm”. Tuổi già đến, thời gian sống không còn bao lâu, muốn ráng hưởng thụ thì thân không làm chủ được, ăn món ngon cũng không ăn được, ngủ giường rộng chỉ có hai thước, muốn ăn chơi xa xỉ, cặp với gái đẹp thì ta không còn sức lực. Nhớ lại những việc ta đã làm trong suốt cuộc đời chịu khổ, chịu cực mà thân nổi da gà. Vì sao lúc này ta không tín ngưỡng tôn giáo để làm nơi nương tựa?
Có người được ông bà ba đời tích góp của cải để lại; hoặc đời cả nỗ lực cực khổ làm việc, ăn tiêu tiết kiệm, tích góp kiếm được đồng tiền bằng mồ hôi, nước mắt; lại đem nướng sạch vô sòng bạc chỉ trong chốc lát. Có người ưa thích nhậu nhẹt, sáng xỉn chiều say. Có người quen thói trăng hoa cặp bồ nhiều người đẹp, tiền của cung phụng các nàng là bòn rút từ mồ hôi và nước mắt của mọi người. Những kẻ này, chỉ hưởng thụ ham muốn nhất thời mà phải trả giá lao tâm khổ tứ suốt mấy mươi năm.
Người học Phật suốt mấy mươi năm nỗ lực tinh tiến tu hành, một khi phá giới trọng thì công phu tu tập trước đây đều xóa sạch, tương lai phải đọa vào ba đường ác. Thật là đáng thương! Tại sao chúng ta không tỉnh giác? Chúng ta đã tốn rất nhiều công sức mà được một chút lợi ích; hoặc tốn một chút công sức mà được lợi ích rất nhiều, đều do chúng ta chọn lựa.
Chuyện 44
Ăn no cái bánh thứ bảy
Lời dẫn:Muôn sự ở thế gian, bất luận thành công hay thất bại, việc tốt hay việc xấu, đều có nguyên nhân tích lũy từ đời quá khứ. Bậc Cổ đức dạy: “Còn nghèo thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên”. Khi còn nghèo, nếu chúng ta không cực khổ phấn đấu học tập thì làm sao đỗ trạng được? Việc này giống như bệnh cảm mà chúng ta thường thấy, tuy bị cảm lạnh chỉ nhất thời, nhưng tìm ra nguyên nhân cũng có liên quan đến thân thể suy yếu. Khi sức khoẻ suy yếu là có rất nhiều nguyên nhân khác. Trước đây, chúng ta ăn uống không điều độ, thiếu chất, thức ăn không đảm bảo vệ sinh tích tụ dần dần. Chúng tôi nói mỗi việc đều có nhân từ quá khứ, mới có quả hiện tại. Nhưng có người cố chấp không chịu tìm nguyên nhân của nó, mà dựa vào quả hiện tại đivào bước đường cùng, sinh ra khổ não vô lý. Bạn nói họ đáng thương hay là đáng trách?
Ngày xưa, có một người rất nghèo khổ. Mỗi ngày, hắn đều lên núi đốn củi rồi gánh ra chợ bán, tiền bán củi chỉ tạm lây lất nuôi sống cả nhà. Một hôm, đang ở trên núi đốn củi, hắn bị trượt dốc té ngã xuống, nhưng bị thương nhẹ. Tối hắn trở về nhà, hàng xóm nhìn thấy liền hỏi:
- Tôi nghe nói hôm nay anh trượt té bị thương có nặng lắm không?
Hắn đáp:
- Tôi bị thương cũng nhẹ, chẳng hề gì; chắc là hôm nay số phận tôi không may là trúng ngày xấu. Nếu như tôi biết trước như vậy, thà ở nhà chịu đói còn hơn đi lên núi.
Sau đó, hắn vẫn hàng ngày lên núi đốn củi, nhưng hắn cứ cho rằng ngày té bị thương là ngày không tốt. Hắn nghĩ thế giới này rộng lớn như vậy, hàng ngày đều có người tốt kẻ xấu. Rốt cuộc ngày nào tốt, ngày nào xấu? Có những người sinh ra cùng năm, cùng tháng, cùng giờ, nhưng chưa chắc họ thành công hay thất bại cùng một lúc. Cuối cùng ai bị tai nạn, ai được hạnh phúc, có định số không?
Một hôm, hắn mãi mê đốn củi quá trưa bụng đói meo, tiền bán củi hắn đem mua bảy cái bánh. Hắn ăn một cái chẳng thấm thía gì, ăn tiếp hai, ba, bốn, năm, sáu cái cũng chưa no; nhưng hắn ăn đến nửa cái bánh thứ bảy thì no. Hắn liền hối hận nói: “Nếu ta sớm biết ăn cái bánh này no thì chỉ mua một cái bánh này thôi, cần gì phải tốn nhiều tiền mua bảy cái bánh uổng phí thế này. Thật là tiếc quá!”.
Người ngồi bên nghe hắn nói, liền mắng:
- Gã ngu này nói mê sảng, ở đời sao lại có kẻ ngu si như thế!
Bài học đạo lý
Một hòn núi có rất nhiều đất cát tích tụ lại mà thành. Một cây cổ thụ cũng từ hạt giống trồng xuống bén rễ nảy mầm dần dần lớn lên. Thân thể của mỗi người cũng rất nhiều tế bào hợp lại thành. Muôn sự, muôn vật ở đời do nhân duyên hợp lại mà thành.
Con người ở đời có người giàu sang, kẻ nghèo hèn; người thông minh, kẻ ngu si; người đức hạnh, kẻ xấu ác đều có nhân xa và cũng có nhân gần của nó và cũng có rất nhiều trợ duyên, tích tụ dần dần thành quả. Người có đức hạnh, trí huệ; hoặc kẻ gian ác, lừa đảo, thông thường mọi người cho rằng tự nhiên trời sinh ra. Kỳ thực, muôn sự ở đời đều có nhân mới có quả. Trí huệ, đức hạnh, hung dữ, lừa đảo, tính thiện, tính ác đều là tích tập nhiều đời nhiều kiếp.
Hàng ngày, những người làm nghề sĩ, nông, công, thương đều luôn bận rộn nỗ lực làm việc, chi tiêu tiết kiệm, tích góp tiền của. Kẻ trộm muốn chiếm làm của mình, kết quả bị bắt, phải ngồi tù. Chẳng những hắn không được hưởng thụ mà còn khổ cực ngồi trong tù, đánh mất tương lai hạnh phúc cả một đời, làm hoen ố danh dự, ngay cả người thân trong gia đình đều thấy xấu hổ với mọi người, ông bà ở nơi suối vàng cũng thấy hổ thẹn. Kết quả, chiếm của người khác thì mình được cái gì?
Đức Phật dạy tam chỉ tu lục độ, tu trăm kiếp được tướng hảo, tích chứa nhiều công đức mới được thành Phật vạn đức trang nghiêm. Người ngày nay chê tu hành như vậy là quá chậm, chủ trương phương pháp tu hành liền đắc đạo, hoặc giác ngộ tức khắc, thành Phật lập tức. Việc này có hay không cũng rất khó nói. Người đời bỗng phát giàu to, làm quan lớn không phải là không có, đều là đầy đủ nhiều điều kiện mới có. Làm thế nào họ giàu có nhanh chóng, được làm quan lớn thì phải xem xét nhân duyên của mỗi người.
Chuyện 45
Đầy tớ giữ của
Lời dẫn:Kiến thức của mỗi người có sâu-cạn, cao-thấp; cá tính, thói quen, sở thích của mỗi người cũng không giống nhau. Cho nê, lời nói, việc làm của mỗi người có điều hợp nhau, có điều không hợp nhau. Nên có người nói: “Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa”. Có người nghe một biết hai. Có người nghe một biết mười. Có người vừa nghe liền giác ngộ. Có người nói một đằng hiểu một nẻo. Có người nói chỉ một câu mà nói đi nói lại mấy lần nghe cũng không hiểu. Có người thông minh nhạy bén, tu hành đắc định, hiểu thấu mọi vật. Con người thông minh hay đần độn, hoặc bất cứ việc gì phải trải qua mới biết được. Có người sống chung cả đời mà không hiểu rõ tính tình của đối phương. Có người hiểu rõ mỗi cử động của người khác như nằm trong lòng bàn tay, biết được ý nghĩ của họ. Vì sao mọi người khác nhau như một trời một vực như thế? Đức Phật dạy: “Tất cả mọi việc đều có liên quan nhân duyên đời trước”.
Thuở xưa, có một phú ông giàu nứt đố đổ vách. Một hôm, ông có việc phải đi xa. Trước khi đi, ông gọi tên đầy tớ đến căn dặn:
- Này con! Khi ông đi xa, con ở nhà cố gắng giữ cửa và chăm sóc con lừa nhé!
Tên đầy tớ thưa:
- Xin ông chủ yên tâm, con luôn làm theo lời ông dặn.
Chủ nhân yên tâm đi lo công việc.
Ông chủ ra đi được một ngày, thật sự tên đầy tớ giữ cửa rất cẩn thận và chăm sóc con lừa chu đáo. Nhưng được vài ngày, ở trong thôn tổ chức lễ hội. Họ mời gánh hát nổi tiếng đến biểu diễn, nghe đồn gánh hát này, tài tử vô cùng xinh đẹp. Tên đầy tớ không nén được tính hiếu kỳ muốn đi xem hát. Nhưng ông chủ đã giao giữ cửa và chăm sóc con lừa thì làm sao đi được?
Do đó, hắn suy nghĩ: “Trước khi đi, ông chủ dặn ta giữ cửa và chăm sóc con lừa, chỉ cần ta lấy dây cột cánh cửa trên lưng con lừa cho nó chở cùng ta đi xem hát, như thế thì hay quá!”. Hắn vui mừng khôn xiết làm theo điều mình đã nghĩ. Trước tiên, hắn tháo cánh cửa xuống đem đặt trên lưng con lừa, lấy dây cột thật chặt, rồi ngông nghênh đi xem hát.
Lúc này, nhà của phú ông chẳng những không có người coi nhà mà ngay cánh cửa cũng không có để đóng lại. Tên trộm nhân cơ hội này vào nhà phú ông lấy sạch hết của cải.
Phú ông trở về thấy tài sản trong nhà không còn gì, liền hỏi hắn:
- Này thằng kia! Của cải trong nhà tao đâu mất hết rồi?
Hắn đáp:
- Thưa ông chủ! Trước khi ông đi dặn con chỉ giữ cánh cửa và chăm sóc con lừa, con làm hai việc này rất tốt; còn các việc khác con không biết.
- Trời ơi, tức chết đi được! Ta bảo ngươi giữ cửa là phải giữ gìn của cải trong nhà; nếu ta không có của cải thì dặn ngươi giữ cửa làm gì?
Phú ông tức giận điên cuồng, đành cười ra nước mắt với tên đầy tớ ngu xuẩn; sự việc đã xảy ra rồi ông đành chịu vậy.
Bài học đạo lý
Sự hiểu biết của con người có sai khác. Người khác nói chẳng những ta nghe không hiểu mà còn thường làm sai ý của họ. Cá tính của mỗi người cũng có quái gở, người khác muốn ta đi về hướng đông mà ta khăng khăng đi về hướng tây. Có người tự ngã cống cao chỉ muốn mọi người nghe theo mình, mình không chịu nghe theo họ. Có người thích ăn ngon, mặc đẹp. Có người chuộng sĩ diện. Có người thích nhậu nhẹt. Có người thích ăn chay v.v…mà xảy ra xích mích xung đột, dẫn đến chuyện thị phi ở đời rất nhiều.
Mỗi người đều có khuyết điểm và ưu điểm. Nếu như chúng ta biết phát huy ưu điểm của mình, sửa đổi khuyết điểm là người thành công. Còn như chúng ta làm theo khuyết điểm của mình và muốn người khác cũng theo khuyết điểm của ta thì đau khổ càng chồng chất, chắc chắn là người gặp thất bại.
Tu hành cũng vậy, nếu như chúng ta tự biết thói quen và khuyết điểm của mình, hàng ngày cố gắng sửa đổi thì ngày càng tiến bộ trên đường đạo. Còn như chúng ta để cho năm dục phiền não lôi kéo thì ngày càng tạo nghiệp thêm nhiều, tương lai siêu thoát hay đọa lạc khác nhau rõ ràng. Đức Phật dạy: “Cùng nghiệp thì tương ưng”. Người có trí huệ, đức hạnh chẳng khác nhau; hoặc cá tính ưa thích giống nhau, họ rất dễ hiểu đối phương. Người trí huệ cao siêu mỗi cử động của người khác, hay ý nghĩ họ muốn gì đều hiểu rất rõ ràng. Còn ngược lại thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Phật pháp là pháp môn trí huệ. Tâm Kinh ghi: “Ba đời chư Phật, vì y theo bát-nhã ba-la-mật-đa nên chứng đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác”. Phật là đấng Đại Giác, cho nên học Phật là tu pháp môn trí huệ. Nếu như chúng ta không có trí huệ quán giữ sáu căn thì tất cả của báu công đức đều bị tên trộm phiền não lấy cắp, trôi lăn trong sáu đường luân hồi, rốt cuộc cũng là kẻ bần cùng mà thôi, vẫn làm chúng sinh chịu khổ não, khổ báo vô biên.
Chuyện 46
Chúa đảng thú tội
Lời dẫn:Mỗi người chúng ta đều có điều bí mật, nhưng bí mật cũng có điều tốt và điều xấu, giống như “xấu che, tốt khoe”. Chúng ta che dấu lỗi lầm của người khác và khen đức hạnh tốt của họ là tốt. Ngược lại, chúng ta đi rêu rao lỗi lầm của họ, còn tâm thiện, việc thiện của họ thì che dấu là xấu. Đối với người khác như thế, còn đối với mình thì sao? Đối với mình thì ngược lại, nếu phạm lỗi lầm dù nhỏ cũng nên nói ra cho mọi người biết, để bày tỏ sám hối. Bất luận chúng ta có nhiều công đức hay làm việc tốt thì cũng nên che dấu, không cần nói cho mọi người biết, đây mới là hành động của bậc quân tử. Phật pháp dạy: “Tam luân thể không[2], mới là công đức vô cùng”.
Xưa kia có một làng. Trong làng có một bọn cướp chuyên đi lùa trộm trâu, đã là bọn cướp chắc chắn bọn chúng luôn dùng thủ đoạn tinh vi để đi bắt trâu, mới làm được gọn gàng dứt khoát. Các nhà chăn nuôi biết được nên phòng bị rất chặt chẽ. Do đó, bọn chúng muốn đi lùa trộm trâu cũng không cách gì ra tay được.
Một hôm, bọn chúng bàn bạc tìm ra diệu kế nhử hổ ra rừng. Tên chúa đảng phân chia công việc. Hắn chia một nhóm thuộc hạ cải trang làm nghệ sĩ hát tuồng, nơi chúng diễn cách xóm nuôi trâu khoảng một dặm. Trước tiên, chúng khua chiêng đánh trống, dựng lên cảnh tượng rất rầm rộ, mục đích dụ những người này đi xem hát tuồng, để chúng lùa trộm trâu.
Hắn chia một nhóm thuộc hạ đi thám thính, thường theo dõi mọi sự động tĩnh của những người nuôi trâu; chia nhóm khác đi lùa trâu; nhóm nữa chuyên mổ trâu và khâu chế biến nấu thức ăn. Hắn sắp đặt, chia cắt công việc rất kỹ càng nên cả bọn thi hành hưởng ứng nhiệt tình. Những người chăn nuôi nghe chúng khua chiêng đánh trống ồn ào, nên rất hiếu kỳ cùng rủ nhau đi xem. Nhóm thám thính bí mật báo cho nhóm lùa trộm trâu. Nhóm này lặng lẽ vào chuồng lùa trâu đi giao cho nhóm mổ thịt và chế biến thức ăn nhanh lẹ, gọn gàng.
Những người chăn nuôi trở về thấy mất trâu vô cùng lo lắng, nhưng không dám la to mà âm thầm báo cho quan điều tra. Sau một thời gian, quan lặng lẽ điều tra biết được bọn cướp chuyên đi lùa trâu. Quan thản nhiên đi thẳng vào sào huyệt của chúng yêu cầu gặp tên chúa đảng hỏi:
- Xin hỏi anh là trưởng thôn ở đây?
Tên chúa đảng thừa nhận:
- Ở đây không có trưởng thôn.
- Tối hôm trước anh ở trong thôn kia phải không?
- Nơi tôi ở không có thôn xóm.
- Phía trước thôn có một cái ao phải không?
- Không có!
- Có cây cổ thụ không?
- Cũng không có!
- Có phải các anh đã lùa trộm trâu ở thôn phía đông không?
- Không có phía đông.
- Lúc các anh lùa trâu là giờ đó phải không?
- Không có giờ đó.
Quan điều tra hỏi điều gì hắn cũng không biết và luôn phủ nhận.
Quan nói tiếp:
- Xưa nay làm gì có đạo lý không có thôn xóm, không có cây, ngay cả thời gian, không gian, đông, tây, nam, bắc cũng không có; vì trên thực tế tất cả thứ này đều có. Chúng tôi đủ chứng cứ kết tội chúng mày lùa trộm trâu sợ bị phát hiện.
Tên chúa đảng chủ mưu chỉ đạo lùa trộm trâu, từ đầu đến cuối hắn phủ nhận tất cả vấn đề, lại lộ tẩy hắn nói dối. Cuối cùng, hắn đuối lý, mới thành thật thú nhận đã lùa trộm trâu.
Bài học đạo lý
Mỗi người chúng ta đều có điều bí mật, nhưng điều bí mật của mỗi người có trung-gian, tà-chính; nhân cách có cao-thấp. Có người giấu kĩ tiền ở phòng riêng. Có người cấu giấu vàng bạc ở phòng gái đẹp. Có người lén làm những tội ác như sát, đạo, dâm, vọng, tham ô, lừa đảo. Nhưng “lưới trời lồng lộng, tuy rộng mà khó thoát”. Một ngày nào đó cũng sẽ lộ ra.
Có người che giấu bí quyết tài nghệ của mình; hoặc phương pháp bí truyền y dược; hoặc kinh nghiệm làm việc đạt được bí quyết thành công, nhưng không chịu dạy mọi người. Tóm lại là những kẻ ích kỉ. Nếu như họ chịu đem bí quyết chỉ dạy cho mọi người thì nhân cách của họ thật cao thượng. Chúng tôi nói cách khác, chúng ta che giấu bất cứ việc gì, nhưng làm sai mà không chịu thừa nhận thì tự hạ thấp nhân cách của mình. Bậc Cổ đức dạy: “Người đời ai mà không lỗi, biết sửa lỗi là Thánh hiền”.
Phật pháp chủ trương sám hối, cho dù quá khứ trải qua bao nhiêu đời, chúng ta tạo bao nhiêu tội nghiệp, nhưng biết sám hối thì tội liền tiêu trừ. Vấn đề là chúng ta có chí thành tha thiết sám hối hay không? Hoặc tội lỗi đó chưa tiêu trừ hết, nếu tiêu trừ được một phần là tiêu tội nghiệp một phần. Còn như chúng ta che giấu, cho dù trải qua nghìn đời vạn kiếp không sám hối thì tội nghiệp vẫn còn. Vì thế, trong kinh dạy: “Dù qua trăm nghìn kiếp, nghiệp tạo cũng không mất, khi nhân duyên hội ngộ, tự mình chịu quả báo”.
Chuyện 47
Vì chiều vợ mà mang hoạ
Lời dẫn:Trong tâm mỗi người luôn có hổ thẹn, bất luận lời nói hay việc làm có sai trái thì tâm luôn lo sợ bất an, không thể yên tâm làm việc; cho nên, dù họ có làm việc cũng không được hài vừa ý. Bậc Cổ đức dạy: “Cúi xuống không hổ thẹn”. Cho dù chết đến nơi “xem chết như trở về”. Vì vậy, làm người phải “không thẹn với lương tâm” thì mới có thể “hoàn toàn yên lòng”, cũng chính là bậc đại trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất”. Ngược lại thì không biết hổ thẹntư cách làm người, mà còn là ký sinh trùng trong thế gian.
Ngày xưa có một quốc gia. Mỗi khi đất nước có ngày lễ, tất cả phụ nữ trong nước đều cầm một đóa hoa sen xinh đẹp đi tham gia ngày lễ, để chứng tỏ sự cao qúy của phái yếu. Nếu người nào không có hoa sen thì cảm thấy như đánh mất thể diện.
Lúc đó, có một phụ nữ nhà rất nghèo, nàng thấy mọi người đều cầm hoa đi chúc mừng ngày lễ, nghĩ mình không mua nổi một đóa hoa nên rất đau khổ. Nàng bảo chồng:
- Chàng ơi! Ngày mai là ngày lễ quốc khánh nước ta, mỗi người phụ nữ đều cầm một đóa hoa sen. Chàng phải nghĩ cách tìm cho thiếp một đóa, nếu không có hoa sen thì chúng mình chia tay đó.
Người chồng nghe vợ nói, vô cùng lo sợ vội vàng bảo:
- Được thôi! Vợ yêu! Ta nhất định tìm cho nàng một đóa hoa sen, nàng đừng nói chia tay làm cho ta đau lòng.
Nhưng khi ấy, hoa sen rất đắt, nhà nghèo không thể nào mua nổi, đi tìm hoa sen ở đâu đây?
Gã chồng nghèo này thật đáng thương, vì chiều lòng vợ mà mạo hiểm lén vào vườn hoa của nhà vua để hái trộm. Hồ sen trong vườn hoa nhà vua nuôi rất nhiều chim uyên ương. Hắn chợt nhớ trước đây đã từng học qua tiếng kêu chim này. Vì thế, đêm đến hắn vừa giả tiếng chim uyên ương kêu, vừa lén vào trong vườn hoa. Lúc hắn ở dưới hồ hái hoa sen, làm giật mình bầy chim uyên ương, chúng đồng loạt kêu lên. Tên lính giữ vườn kinh ngạc hỏi:
- Ai ở dưới hồ đó?
Trong tình thế khẩn cấp, bất giác hắn trả lời:
- Là tôi!
Tên lính lao xuống hồ kéo hắn lên. Hắn chợt nhớ liền bắt chước tiếng chim uyên ương kêu lên. Tên lính nói:
- Vừa rồi sao ngươi không bắt chước tiếng chim kêu, bây giờ kêu lên đã muộn rồi. Ta dẫn ngươi đến nộp cho nhà vua.
Hắn nghe tên lính bắt đem nộp cho nhà vua, chợt hội hận thì đã quá muộn.
Bài học đạo lý
Trong xã hội có các ngành sĩ, nông, công, thương; mỗi người làm một nghề mình thích hợp. Có người có nghề nghiệp vững vàng nhưng không chịu làm, lại làm những việc đầu cơ trục lợi, bòn rút của công, đi chiếm của người, thậm chí xâm phạm quyền lợi của người khác. Có người làm những việc sát, đạo, dâm, vọng, tham ô, lừa đảo, khiến cho mọi người đều chán ghét, chửi mắng thậm tệ, tương lai nhất định họ sẽ chịu quả báo đau khổ. Rốt cuộc, đây là người thông minh hay là kẻ ngu si?
Bất cứ chúng ta làm nghề gì ở thế gian, hay làm thì khéo tay giỏi hơn người, thành công sự nghiệp là ở đây. Vậy mà, có người cố chấp đường chính không chịu đi, đi vào đường tà, đầu cơ trục lợi; hoặc lừa đời, dối người, tương lai nhất định đi vào tăm tối, đúng không?
Có người học Phật mà không chịu học chánh tri, chánh kiến, chánh pháp; lại khăng khăng học những pháp tà ma ngoại đạo, vì danh lợi chánh đạo ít quá nên họ không đi theo mà đi vào tà đạo. Tương lai sa đọa, lẽ nào không oan uổng? Tục ngữ có câu: “Mỗi nghề nghiệp đều xuất hiện nhân tài”. Nghề nào cũng có người thành công và nghề nào cũng có người thất bại. Then chốt thành công và thất bại nằm ở đâu? Chúng tôi nghĩ: “Liên quan đến chân thật và gian ác chiếm phần lớn”. Khi chúng ta có tiền, có thế lực không chịu bố thí, không chịu làm việc thiện. Lúc mạnh khỏe tinh thần hăng hái không chịu nỗ lực tu hành. Đến khi tiền không còn mới nghĩ đến bố thí, làm việc thiện. Khi thân thể mang bệnh, hoặc gặp tai nạn, khốn đốn thì mới nỗ lực tu hành, chẳng phải quá muộn hay sao?
Chuyện 48
Nhẫn được mình an vui
Lời dẫn:Đức Phật dạy: “Chúng ta ở thế giới này, gọi là thế giới Ta-bà”. Ta-bà dịch là “Kham nhẫn”. Ý nghĩa nói người ở thế giới này là kham nhẫn chịu nhiều đau khổ. Chúng ta kham nhẫn chịu đau khổ những gì? Có rất nhiều điều đau khổ như hoàn cảnh môi trường bão lụt, động đất, thiên tai, sạt lở. Khí hậu có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; lạnh rét, nóng bức. Thân người có các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết. Tinh thần, có vui-buồn, mừng-giận, thương yêu phải chia lìa, oán ghét luôn gặp nhau, mong cầu không được. Chúng ta phải nhẫn chịu những điều đau khổ như vậy, gọi là thế giới Ta-bà. Nếu chúng ta không nhẫn chịu được? Là tự mình hủy diệt (tự sát); hoặc oán trời trách người, làm những điều ác sát, đạo, dâm, vọng; thậm chí tạo các ác nghiệp để trốn tránh đau khổ. Người nào biết được khổ mà lại tạo khổ thì càng thêm khổ.
Ngày xưa, có một con cáo và một con nai cùng ở trong rừng dưới gốc cây cổ thụ. Một hôm, vì gió mạnh làm gãy cành cây, rớt xuống trúng ngay lưng chúng nó. Con nai thấy chẳng có việc gì, vì ở trong rừng gió thổi mạnh làm cho cây gãy là chuyện bình thường. Nhưng con cáo chịu không được, nó dự định dời đi chỗ khác. Khi nó sắp đi, con nai khuyên:
- Anh cáo ơi! Cây cổ thụ này chẳng những chắn gió, che mưa cho chúng ta mà còn cung cấp cho chúng ta trái cây thơm ngọt. Vì sao anh muốn đi nơi khác?
Con cáo đáp:
- Không! Tôi không chịu đựng nổi, anh cho ở đây tốt thì cứ ở đi. Tạm biệt anh!
Nó cong đuôi chạy không quay đầu lại.
Con cáo đến một nơi đồng trống, ban ngày thời tiết rất nóng bức, đến ban đêm thì rất lạnh rét; nó cảm thấy lúc lạnh, lúc nóng rất khó chịu. Ở được vài ngày nó chịu không nổi lại đi tiếp. Khi nó sắp đi, có một con nai khác đến khuyên:
- Này anh cáo! Tại sao anh lại phải đi? Mặc dù ở đây thời tiết thay đổi thất thường nhưng chúng ta sống yên ổn không có cọp sói, chẳng tốt hay sao? Thế gian này làm sao có chuyện hoàn hảo được, anh đến nơi khác cũng sẽ gặp chuyện không vừa ý. Anh hãy nghe tôi an tâm ở lại đây nhé!
Con cáo đáp:
- Không! Ở đây lúc lạnh, lúc nóng tôi không chịu đựng nổi. Tôi phải đi nơi khác.
Nó lại đến vùng rừng núi, cây xanh bạt ngàn. Nơi đây, khí hậu rất dễ chịu, phong cảnh rất đẹp nên nó quyết định ở lại đây. Ở được vài ngày, nó nghĩ nơi đây không phải nơi lý tưởng. Bởi vì, ở đây có sư tử rất hung dữ, cũng có chó sói nham hiểm, nó thường nghe tiếng rống của chúng làm cho nó hãi hùng khiếp hãi; nhưng vì tham phong cảnh đẹp nên nó cứ chần chừ ở lại. Một hôm, nó vừa ra ngoài tìm thức ăn liền bị chó sói bắt ăn thịt. Đến phút cuối nó chợt hối hận không chịu nghe lời bạn khuyên nên ngày nay mới thảm.
Bài học đạo lý
Làm người chẳng có ai mà hoàn hảo, hoàn cảnh cũng chẳng có nơi nào tốt đẹp trọn vẹn; đây gọi là thế giới Ta-bà. Thời tiết có lúc lạnh, lúc nóng, chúng ta sinh ra ở đây, tất nhiên phải thích ứng khí hậu và cuộc sống ở đây. Mỗi dân tộc đều có cách sống riêng của họ, tập quán là sống tự nhiên, chúng ta chịu đau khổ hay hưởng hạnh phúc nhiều ít đều có nghiệp nhân từ quá khứ.
Mỗi người đều có cá tính riêng, hiểu biết, ưa thích và thói quen cuộc sống đều không giống nhau, người biết nhường nhịn lẫn nhau mới sống chung lâu dài. Mỗi người đều có cá tính và sở thích riêng, nhưng chúng ta phải tùy thuận theo người khác thì mới có thể sống chung với nhau được. Làm người ai cũng có hi vọng, nhưng tương lai của mỗi người thành tựu thì khác nhau. Do vì mọi người luôn muốn người khác bất cứ việc gì cũng nghe theo mình, nên có xảy ra chuyện tranh cãi. Nếu như ai ai cũng tùy thuận theo người khác thì không có chuyện thị phi và tranh đấu.
Làm người ai cũng có những tính xấu tham, sân, si và cũng có những đức tính lương thiện từ bi, hỉ xả; tính nào nhiều thì trở thành thói quen tính ấy. Lục tổ Huệ Năng dạy:
Xưa nay không một vật.
Nơi nào dính bụi bặm.
Bản tính vốn thanh tịnh thì dính bụi bặm nơi nào? Chỉ vì chúng ta tiêm nhiễm thói xấu lâu ngày, đã là tiêm nhiễm thì không phải tự tính, không phải chân thật. Mọi người đều có thể sửa đổi tính nết xấu trở thành tính tốt, chỉ là chịu làm hay không mà thôi.
Bậc Cổ đức dạy: “Giang sơn dễ đổi, tính tình khó sửa”. Vì nguyên nhân tập khí nặng nề, nhưng không phải là không sửa được. Nếu chúng ta có trí huệ, có nỗ lực tu hành sửa đổi thì tính nết gì cũng thay đổi được. Chúng ta sửa đổi hoàn toàn tất cả thói xấu thì mới ra khỏi sáu đường sinh tử. Cho nên, thói xấu chẳng phải là cố định, cũng không phải không sửa được. Chúng ta cần phải dựa theo trí huệ để nhìn thấy rõ phá trừ, phải nỗ lực tu hành mới tiêu diệt nó. Khi ấy, thiên hạ được thái bình, thoát khỏi luân hồi, được tự tại.
Chuyện 49
Không trả lời thẳng câu hỏi
Lời dẫn:Tất cả việc làm và nghề nghiệp ở thế gian đều có liên quan đến kiến thức và kinh nghiệm của mỗi người. Có người được kiến thức nhờ di truyền từ nhiều đời. Có người học hỏi tích lũy kiến thức và kinh nghiệm của nhiều người mà có được. Có người nỗ lực khổ công tu luyện rất lâu mới được khai ngộ. Cũng có người lợi dụng kiến thức của quỉ thần mà được. Chúng ta đạt được ba điều trên là thật khó, chỉ có điều sau cùng là dễ dàng nhất. Người đời đều là tự tư tư lợi, cho nên họ muốn che giấu kiến thức để làm công cụ trên danh lợi của mình; hoặc làm ra vẻ huyền bí để cho mọi người cảm giác là điều kỳ diệu quí báu; thật ra là danh lợi ở trong đó. Bậc Thánh hiền, Thiền sư thời xưa có ẩn ngữ thiền cơ là một phương tiện khai mở trí huệ cho thiền sinh, không phải cái gì cũng thiên cơ bất khả lộ; hoặc là bí quyết một lời nói, nửa bài kệ làm cho thiền sinh khai ngộ đắc đạo. Còn người muốn tu dễ dàng, thường đi vào ma đạo. Điều này chúng ta không thể không biết, không đề phòng.
Ngày xưa, có hai chú bé đang bơi dưới dòng sông. Bỗng bé A bảo:
- Chúng mình cùng thi nhé! Được không?
Bé B hỏi:
- Thi bằng cách nào?
- Chúng ta cùng lặn xuống đáy sông, bốc một nắm cát hay bùn, người nào ngoi lên trước là thắng nhé!
- Rất tốt! Cứ thế mà làm, lời nói như đinh đóng cột!
Hai chú bé cùng bơi ra giữa dòng nước, đồng hô lớn: “Nào bắt đầu”. Cả hai cùng lặn xuống nước, khoảng một lúc cả hai chú đều ngoi lên và bơi vào bờ. Có thể nói hai chú bơi rất cừ, tài nghệ ngang nhau. Hai chú cầm vật trong tay đem lên bờ. Một chú bốc bùn, một chú bốc một nắm tóc trắng. Bé A nói:
- Này! Cậu thấy không! Đây là râu tóc của tiên nhân đó.
Bé B hỏi:
- Làm sao cậu biết được đây là râu tóc của tiên nhân?
- Tớ nghe người lớn nói tiên nhân thường tu hành ở bên bờ sông, ngài cạo râu tóc ném xuống sông, nên tớ bốc được.
- Tớ cũng nghe nói râu tóc của tiên nhân rất quí báu hiếm có ở thế gian. Nếu đúng là râu tóc của tiên nhân thì chúng ta gặp vận may rồi.
- Có phải râu tóc của tiên nhân không, hiện tại chúng ta chưa xác định được. Chúng ta phải đi tìm tiên nhân để chứng minh sự thật.
Vì thế, hai chú đi men theo bờ sông, tìm vị tiên nhân để chứng minh sự thật là râu tóc của tiên nhân. Hai chú đi không lâu thì gặp tiên nhân râu tóc trắng xóa, cả hai chú đến trước ngài cung kính xá chào. Sau đó hỏi:
- Thưa ông! Cho chúng cháu hỏi râu tóc này có phải của ông không?
Tiên nhân nhìn kĩ chúng một lúc, không trả lời trực tiếp điều chúng hỏi mà bốc một nắm gạo và hạt mè bỏ vô miệng nhai, rồi nhả ra bảo:
- Này các cháu! Đây là phân con công.
Tiên nhân nói xong liền nhắm mắt, không nói lại nữa. Hai chú bé nghe xong chẳng hiểu gì cả. Rốt cuộc điều tiên nhân nói là ý nghĩa gì.
Bài học đạo lý
Các vị thiền sư trong Phật giáo thường hỏi một đường trả lời một nẻo. Thí dụ có thiền sinh đến hỏi:
- Thưa thầy! Đại ý Phật pháp là gì?
Thiền sư đáp:
- Là ba cân mè.
- Thưa thầy! Thế nào là ý chỉ của Tổ sư từ phương Tây đến?.
- Là đống phân trâu.
Đây là gì? Ý nghĩa của Thiền tông là tự tham học, tự ngộ. Qua sự giải thích của người khác giảng giải là không liên quan đến tự tính của họ và bạn. Cho nên các ngài không dùng ngôn ngữ, văn tự để giải thích, cũng không trả lời trực tiếp vấn đề bạn đã hỏi.
Người bình thường cùng nghề nghiệp mới có thể hợp nhau; kiến thức, tư tưởng gần giống nhau, nên dễ hiểu nhau hơn. Nếu như hai người thân nhau mà kiến thức, tư tưởng quá chênh lệch thì cũng sẽ hỏi một đường trả lời một nẻo; hoặc dễ hiểu sai ý người kia.
Ban đầu, tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc yết kiến vua Lương Vũ Đế. Vua hỏi:
- Trẫm xây chùa, độ chúng tăng rất nhiều, không biết có công đức hay không?
Tổ sư đáp:
- Tâu bệ hạ! Không có công đức.
- Người nào đang đối diện với trẫm?
- Tâu bệ hạ! Thảo dân không biết.
Nhà vua và tổ sư nói không hợp ý với nhau. Vì thế, Tổ đến chùa Thiếu Lâm ngồi suốt chín năm xây mặt vô vách. Sau đó, Tổ gặp Thần Quang mới truyền pháp lại.
Vì sao nói không hợp ý với nhau? Bởi vì kiến thức của mỗi người cao-thấp không giống nhau; tư tưởng, cá tính nhận định sự vật cũng khác nhau; trình độ hiểu Phật pháp cũng không ai giống ai; cho nên nói không hợp ý với nhau.
Đức Phật là Đấng trí huệ rất sâu rộng, Ngài thuyết pháp theo căn cơ của chúng sinh. Vì thế, trong kinh điển có nói quyền-thật, sâu-cạn, phương tiện-cứu cánh. Mọi người cùng nghiên cứu kinh điển, nhưng trình độ hiểu biết khác nhau. Cho nên mỗi người đều có quan điểm riêng. Chánh tri, chánh kiến cũng có quan điểm riêng. Tà tri, tà kiến cũng có quan điểm riêng. Làm thế nào chúng ta phân biệt được đúng và sai? Điều này trong kinh điển đạo Phật và đạo Nho đã ấn chứng. Kinh điển như tấm gương rọi yêu ma. Kẻ tà tri, tà kiến muốn đầu cơ trục lợi thì không trốn thoát được.
Chuyện 50
Lang băm trị lưng gù
Lời dẫn:Chúng ta đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân. Thông thường những thầy lang băm trị bệnh, bệnh càng nặng thêm, chẳng phải thầy thuốc mà là lang băm chính hiệu hại người. Làm thầy trong tôn giáo mà đáp ứng theo sự mong cầu, đòi hỏi của người là thầy tầm thường. Thầy tà hướng dẫn mọi người thành tà tri, tà kiến, tin theo tà; hoặc dạy người tu hành tà hạnh cùng đi vào đường ma, mới là thật đáng thương.
Ngày xưa, có một thanh niên rất mạnh khỏe, đi nhanh như bay, bình thường anh ta gánh hàng nặng một, hai trăm cân. Bất luận công việc nặng nhọc cỡ nào, anh ta đều vui vẻ làm chu đáo. Nhưng ở đời ai đâu học được chữ ngờ. Một hôm, bỗng nhiên anh ta ngã bệnh, sau đó trở thành lưng gù. Cú sốc này, làm cho anh ta đau đớn tột cùng không còn tha thiết sống. Anh ta suy nghĩ: “Ta tàn phế như thế này làm sao làm việc được? Không làm được lấy gì để sinh sống?”.
Bạn anh thấy vậy an ủi:
- Cần gì anh phải bi quan như thế? Có bệnh thì có thầy thuốc. Thế gian này thầy thuốc nổi tiếng rất nhiều, từ từ chúng ta tìm ra thôi, nhất định sẽ trị khỏi.
Anh ta đáp:
- Tôi rất cảm ơn sự quan tâm của các anh! Sức khỏe là vàng, chỉ trong thoáng chốc tôi trở thành người tàn phế. Làm sao tôi sống nổi?
Một người bạn khác chỉ:
- Tôi nghe mọi người nói có thầy thuốc kia rất tài giỏi. Anh có bằng lòng đến đó chữa trị không?
Anh ta đáp:
- Cũng được! Nhưng tôi biết rõ bệnh của mình, sống như thế này cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Thế là, người bạn dẫn anh ta đi tìm đến nhà thầy thuốc khám bệnh. Thầy thuốc hỏi:
- Anh bị bệnh gì?
Anh đáp:
- Thưa thầy! Tôi bị bệnh gù lưng, có chữa được không?
- Tất nhiên là chữa được rồi, nếu không chữa được làm sao gọi là thầy thuốc?
Thầy thuốc nhìn sắc mặt của anh, rồi sờ lên lưng gù, hỏi anh nguyên nhân bệnh. Sau đó, hắn bắt mạch cho bệnh nhân. Thầy thuốc này hoàn thành bốn bước; nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Chẩn đoán xong, hắn nói:
- Bệnh của anh có thể chữa trị được, nhưng anh phải chịu đau đớn.
Anh ta đáp:
- Chỉ cần thầy chữa khỏi bệnh, cho dù đau đớn như thế nào tôi cũng chịu được.
- Anh bị bệnh vì gánh quá sức, làm cho cột xương sống bị cong, mới bị như vậy. Nếu dùng vật nặng đè lên làm cho cột xương sống thẳng ra thì khỏi bệnh.
Hắn vừa nói vừa bảo anh nằm xuống và kêu người bưng hai tấm cửa chất lên thân anh ta. Hắn lại kêu mấy người khiêng bốn cái cối đá giã gạo chất lên nữa. Mặc dù bệnh nhân kêu la thảm thiết, hắn vẫn không đếm xỉa đếm; lại còn đè thêm lên.
Trôi qua một lúc, bệnh nhân không còn kêu la. Hắn nói:
- Bệnh nhân không còn kêu la, chắc khỏi bệnh rồi.
Hắn sai mọi người khiêng bốn cái cối đá và hai tấm cửa xuống, thì thấy hai mắt bệnh nhân lồi ra, miệng trào máu ra ngoài lênh láng, anh ta đã chết từ lâu.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Chàng trai mắc bệnh dụ cho tất cả chúng sinh. Thầy thuốc dụ cho ngoại đạo. Chúng sinh bị mắc bệnh nặng sinh tử và bệnh tham, sân, si. Ngoại đạo chưa hề nghiên cứu Phật pháp, cũng chẳng tinh tiến tu hành. Làm sao nương theo chánh pháp cứu độ chúng sinh được? Kết quả, chúng sinh bị ngoại đạo dắt vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; hoặc lao vào đường tà. Khác nào như thầy lang băm?
Khổng Tử nói: “Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết”. Nhưng có người cố chấp không biết mà nói biết. Vì thích làm thầy thiên hạ, giết hại dân đen. Chẳng những lang băm ở đời hại người mà giới sĩ, nông, công, thương, cảnh sát, thầy giáo cũng có những kẻ tầm thường. Lang băm không chữa bệnh được, chỉ vì muốn kiếm tiền mà lừa gạt người khác, dẫn đến hại rất nhiều mạng người.
Trong tôn giáo, nếu làm không đúng chân lý là hại tuệ mạng của người trong nhiều đời nhiều kiếp. Hại người không thể giải thoát sinh tử, không được thoát khổ được vui. Không phải mắc tội quá nặng là gì? Kẻ tà tri, tà kiến dẫn mọi người đi vào đường tà, đó là tội ác rất nặng. Như thế, chẳng những làm thầy lang băm mà còn là thầy tà.
Chuyện 51
Năm anh em sai một tớ gái
Lời dẫn:Tài, sắc, danh, thực, thùy là năm dục của con người. Mọi người khó tránh khỏi năm dục này. Ai sai khiến được năm dục này? Là tâm, chủ nhân của thân chúng ta. Tài, sắc, danh, thực, thùy là chúng ta sử dụng. Nhưng chúng sinh bị mê muội điên đảo, bị năm dục sai khiến ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nó bảo chúng ta đi hướng đông thì liền nghe theo nó; nó bảo chúng ta đi hướng tây, cũng vẫn nghe theo; cho đến, nó bảo chúng ta vượt núi băng đèo, lao tâm khổ tứ, cướp giật, trộm cắp, sát sinh, nói dối, lừa đảo v.v…Chúng ta đều nghe theo nó tất tần tật. Cho nên, tâm chúng ta bị nó sai khiến, lại còn loạn động cả ngày. Cuối cùng, chúng ta phải chịu các khổ báo, luân hồi sáu đường. Bạn nói thử đi có oan uổng không?
Ngày xưa, có năm anh em cùng làm công việc kinh doanh trong một nhà máy; mỗi người làm việc phụ trách công việc một bộ phận. Người phụ trách đi tìm mua nguyên liệu. Người phụ trách khâu chế biến sản phẩm. Người phụ trách đóng bao bì, vận chuyển. Người phụ trách đi tiếp thị hàng hóa. Năm anh em hợp tác làm việc rất vui vẻ. Cho nên, hàng hóa sản xuất có chất lượng, mẫu mã lại đẹp, được khách hàng ưa chuộng bán rất đắt. Cả năm anh em suốt ngày bận rộn như chong chóng quay. Một hôm, anh cả đề nghị:
- Mỗi ngày, chúng ta làm việc rất bận rộn, về nhà lại phải nấu ăn, giặt quần áo thật là cực khổ. Chi bằng chúng ta mua một tớ gái để làm việc nhà thay cho chúng ta được không?
Anh hai nói:
- Ý kiến này rất hay.
Anh ba, anh tư đều tán thành, giao việc này cho người em thứ năm đi tìm mua tớ gái.
Khi mua được tớ gái về nhà, cả năm anh em đều yên tâm làm việc, chẳng còn lo lắng việc nhà. Nhưng mỗi ngày tớ gái phải làm việc hết cho năm anh em, quả thật làm không xuể. Vì thế, cô phải chia thứ tự trước sau, làm cho anh cả xong trước, rồi đến làm cho anh hai, anh ba, anh tư. Nhưng khi cô làm cho anh cả, anh hai trước thì anh ba, anh tư không vui nói:
- Chúng ta là anh em giống nhau, vì sao cô ưu tiên làm cho anh cả và anh hai trước. Lần sau, cô phải làm cho chúng tôi trước.
Cô gái đáp:
- Vâng, thưa ông! Xin vâng lịnh.
Lúc cô làm cho anh ba, anh tư trước thì anh cả và anh hai không chịu bảo:
- Trước đây cô làm cho chúng ta trước, vì sao lần này cô làm khác?
Cô gái thưa:
- Vâng, thưa ông! Con làm theo ông dạy.
Lần này, đến người em thứ năm trách:
- Cô làm hết thảy mọi việc cho bốn anh tôi, vài ngày cô phải đổi một lần. Lần sau, cô phải ưu tiên làm cho tôi trước mới đúng.
Cô gái đáp:
- Vâng, thưa ông! Con xin tuân lịnh.
Khi cô làm cho người em thứ năm thì anh cả ra lịnh:
- Tôi là anh cả, cô phải làm cho tôi trước.
- Dạ! Con làm theo ông dạy.
Anh tư, em năm cũng bảo:
- Cô làm cho chúng tôi trước.
- Dạ.
Người tớ gái như một cái máy, làm quần quật suốt ngày mệt bở hơi tai. Còn bị người này quát:
- Cô khinh thường tôi phải không?
- Dạ, con không dám! Không dám!
Người kia nạt:
- Vì sao cô làm chậm như rùa thế?
- Dạ, con sẽ cố gắng làm nhanh ạ!
Người nọ hét lên:
- Tại sao cô không chịu giặt quần áo cho tôi? Cô không muốn sống nữa phải không?
- Dạ, con giặt liền.
Người này quát:
- Cô không muốn làm việc nữa phải không?
- Dạ, đâu có, đâu có!
Cứ thế, người này đẩy, người kia xô, người nọ mắng, người kia chửi. Thân phận tôi tớ, cô không biết cách nào cho hài lòng họ. Cô than: “Ông trời ơi! Hãy bắt con chết sớm đi”.
Cô tớ gái này, hàng ngày chăm chỉ làm việc. Nhưng vẫn phải chịu đánh, chịu mắng đành cam chịu thân phận bất hạnh, mãi đến khi cô chết mới thôi. Suốt ngày, cô luôn bận rộn vô số công việc không tên, lại còn bị mắng chửi, đánh đập mà không dám phản kháng, cũng không đủ sức để chống lại. Bạn nói thử có đáng thương không?
Bài học đạo lý
Con người vì năm dục: tài, sắc, danh, thực, thùy mà hàng ngày bận rộn. Có người vượt suối bằng rừng chịu khổ mưa gió, lạnh rét, nóng bức. Có lúc cam chịu người khác ức hiếp, hủy nhục. Có khi chịu mắng chửi, đánh đập cũng đành im hơi lặng tiếng. Vì sao? Vì tài, sắc, danh, thực, thùy- Nó sai khiến chúng ta cực nhọc cả một đời. Nó bảo chúng ta tính toán, tranh giành, tạo các ác nghiệp với mọi người. Nó làm cho chúng ta chịu khổ, chịu nạn, đã thành thói quen của mọi người, nên họ cho là đúng. Sự cao quý của nhân cách, đạo đức và lương tâm đều đặt ở phía sau, để đổi lấy chút ít tài, sắc, danh, thực, thùy.
Năm dục đối với mọi người quan trọng như thế sao? Vậy nhân cách và đạo đức của chúng ta còn có giá trị bao nhiêu? Chúng ta hãy nghĩ thử xem, tiền tài, địa vị, sắc đẹp, danh lợi đều như hoa đốm trong hư không, thoáng qua nhanh chóng. Nhân cách và đạo đức sẽ còn mãi nhiều đời nhiều kiếp, tâm của chúng ta phải làm chủ tất cả mới đúng. Vì sao, chúng ta để năm dục lôi kéo vào vòng xoáy không lối thoát; lại còn chịu khổ báo nhiều vô biên. Rốt cuộc cái nào quan trọng nhất, chúng ta phải xem xét lại nhé!
Chuyện 52
Thanh sắc như huyễn
Lời dẫn:Tâm Kinh ghi: “Không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý; cũng không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Thật sự không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp phải không? Nếu chúng ta không chấp trước sắc, thanh thì Có và Không giống nhau. Còn như chúng ta chấp nó thì như thế nào? Là chấp muôn sự muôn vật đều Có. Chấp Có lại như thế nào? Có tức là mê, giống như vào mê hồn trận, không biết đông, tây, nam, bắc; chẳng biết ra hướng nào. Vì nó mà chúng ta làm những việc bất trung, bất nghĩa; thậm chí gian xảo, chiếm đoạt, nham hiểm, lừa đảo đều là si mê, bất giác; suốt ngày chìm đắm trong mê muội. Vì thế, Đức Phật dạy:
Biết huyễn nên xa lìa.
Lìa huyễn là giác ngộ.
Người giác là“Đạo đúng thì tiến, đạo sai thì lui”. Tiến lui có đạo, bằng không thì vô đạo.
Ngày xưa, có một ca sĩ rất nổi tiếng. Anh ta đi hát khắp mọi nơi đều là nơi rất đông người, nên fan hâm mộ rất nhiều. Mỗi khi anh ta hát nhạc trữ tình, giọng hát truyền cảm, trầm bổng, du dương, làm cho người nghe cảm xúc dạt dào, vừa buồn vừa khóc. Ca sĩ này muốn chúng ta khóc thì chúng ta khóc, muốn chúng ta cười thì chúng ta cười, muốn chúng ta buồn thì chúng ta buồn, muốn chúng ta vui thì chúng ta vui. Thật là linh nghiệm hơn linh chú.
Nhà vua nghe được tin này, liền hỏi đại thần:
- Trẫm nghe nói trong thành này có một ca sĩ rất nổi tiếng, dân chúng nghe hâm mộ rất đông. Chuyện này có thật không?
Đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Hình như là có như vậy!
- Khanh phải xác định có hay không, nếu sự thật có một ca sĩ như thế thì hãy mời anh ta vào cung để trẫm thưởng thức giọng ca.
- Tâu bệ hạ! Thần xin tuân chỉ!
Đại thần gặp ca sĩ nói chuyện, muốn mời anh ta vào cung để hát. Đại thần nói:
- Anh vào được trong cung hát cho hoàng thượng nghe là một vinh hạnh của đời anh, và anh cũng được nổi tiếng.
Ca sĩ đáp:
- Thưa đại nhân! Thảo dân làm nghề này chỉ vì cuộc sống, danh vọng không thật, ca ngợi rỗng tuếch, nó chỉ đem được cơm ăn, áo mặc cho thảo dân.
- Đúng lắm! Đúng lắm! Ở trước hoàng thượng anh nói hay như vậy, nhất định sẽ được ban thưởng ít nhiều.
- Thảo dân xin đa tạ đại nhân.
Do đó, ca sĩ theo đại thần vào trong cung. Anh ta ở trước nhà vua và đại thần bắt đầu hát. Đúng thật, giọng hát anh ta rất hay, lại truyền cảm; như áng mây ráng chiều, vừa đẹp vừa rực rỡ, giống như tiên nữ đang ca múa, quả thật anh ta làm cho người ta say mê đắm chìm trong tiếng hát. Nhà vua suy nghĩ: “Không biết ca sĩ này đã làm say mê bao nhiêu dân chúng, nhưng ta phải cho anh ta một bài học”. Ca sĩ hát xong, nhà vua bảo đại thần mang ra một nghìn lượng vàng đặt trước mặt anh ta, nhưng ý không nói là ban cho. Nhà vua nói:
- Mặc dù ngươi hát rất hay, nhưng tiếng hát chợt mất liền, để lại trẫm nỗi mừng hụt.
Ca sĩ thưa:
- Tâu bệ hạ! Tiếng hát vốn vừa hát lên thì bay theo gió thoảng, nhưng nó làm cho ngài vui tai.
- Cũng như trẫm để trước mặt ngươi một nghìn lượng vàng, nó làm cho ngươi vui mắt. Như thế, chẳng ai lấy được của ai, Ha.ha…
Ca sĩ rất tức mình, nhưng đành im lặng. Nếu nói tiếp chọc giận nhà vua thì bay đầu như chơi; vì thế, anh ta lặng lẽ trở về.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Mặc dù thanh sắc là giả, nhưng làm say mê không biết bao nhiêu anh hùng, hào kiệt từ xưa nay. Ngày xưa, anh hùng say đắm mỹ nhân. Tiếng hát cũng có thể làm cho tiên nhân ngũ thông mất hết thần thông. Xưa nay, rất nhiều anh hùng có thể “trâu sắt làm sao sợ tiếng rống sư tử, như người gỗ xem tranh Hoa Điểu” phải không? Cuộc đời này có bao nhiêu người không say mê thanh sắc? Có người nói: “Mê thì mê vậy thôi”. Có thể giải trí tạm thời cũng tốt! Nhưng âm thanh khắc sâu vào tâm thức của chúng ta, thật khó phai mờ. Đây chính là hạt giống tạo tội nghiệp, cũng là nguồn gốc sinh tử, luân hồi.
Nói về tâm lý của con người. Mỗi người đều có gặp việc không như ý muốn; hoặc gặp chuyện buồn đau. Lúc đó, chúng ta cần nhờ âm nhạc để giải trí, làm cho tinh thần bớt căng thẳng. Nhưng âm nhạc có tốt, có xấu; có chánh, có tà. Có bài hát kích động tác dụng tâm lý chí lớn yêu nước của chúng ta tận trung, tận nghĩa. Nhưng cũng có bài làm cho chúng ta suy nghĩ sai lầm, chìm đắm trong men rượu và gái đẹp. Mọi người đều thích nghe nhạc tình ca lãng mạn, các nhà thơ (phổ nhạc), các nhạc sĩ cũng thích sáng tác những ca từ làm mọi người say đắm. Cho nên. người say mê thì nhiều mà người được lợi thì ít. Người tu hành cần phải tránh xa, như tránh loài rắn rết. Bởi vì, thanh sắc tuy huyễn ảo, nhưng để lại lòng người rất sâu sắc, cũng do đây mà trở thành nhiễm tịnh sai khác.
Chuyện 53
Huynh đệ ganh tỵ nhau
Lời dẫn:Cuộc đời luôn có thiện-ác, thị-phi, tà-chánh đối đãi nhau. Bởi vì, lập trường của mỗi người không giống nhau, nên cách nhìn cũng khác nhau. Cùng một sự việc, có người cho việc đó là đúng, có người cho việc đó là sai, bạn cho việc đó là thiện, người khác cho là bất thiện, bạn cho là đúng, người khác cho là sai. Giống như tượng Phật, theo Phật giáo cho là hình tượng từ bi, vĩ đại; ai nấy đều tôn sùng. Nhưng theo ngoại đạo cho là hình tượng ma quỉ thấy liền tránh xa. Tham, sân, si là nguồn gốc của tội ác. Nói về phương diện làm thiện khích động chí trong sáng, đều là pháp thiện. Còn ganh tị đồng nghiệp, ganh tị người có đạo đức và tài năng là tội ác. Căm ghét tội ác kẻ khác, căm ghét kẻ nham hiểm, lừa đảo đều là ý niệm nghĩa khí trung thành; cho nên, không tham, sân, si là rất tốt. Như có người nói, thay đổi theo thiện tức là thiện, làm theo ác tức là ác.
Thuở xưa, có hai thanh niên, vì học chung một môn nghệ thuật, nên học cùng một thầy. Vị thầy rất thương yêu hai học trò và chỉ dạy rất tận tình; ngược lại, hai học trò cũng rất thương kính thầy. Bởi vì, thầy giáo tuổi cao, mắc bệnh phong thấp, nên hai học trò thường xoa bóp cho thầy làm cho khí huyết được lưu thông. Vì thế, mỗi người có trách nhiệm xoa bóp một chân. Ban đầu, hai học trò xoa bóp thầy rất chăm chỉ, cẩn thận. Và sự học vấn lâu ngày thành tích của mỗi người lộ khác nhau, sư đệ học không bằng sư huynh nên đâm ra ganh tị. Sư huynh cũng kiêu ngạo xem thường sư đệ. Do đó, hai học trò ngấm ngầm lục đục với nhau.
Sư huynh xem thường sư đệ, sư đệ ganh ghét sư huynh; cho nên, hai người thường xung đột cãi nhau. Căm ghét là hành vi phát sinh hại người. Một hôm, sư huynh có việc phải đi xa, sư đệ ở nhà bẻ gãy chân thầy để trả thù tính kiêu mạn của sư huynh. Sư huynh trở về thấy chân trái thầy bị gãy, liền tức giận nói:
- Làm sao có lý này, tự mình xoa bóp không tốt, lại còn phá hoại người khác.
Nói xong, sư huynh bẻ gãy chân phải của thầy để báo thù tính ganh tỵ của sư đệ. Huynh, đệ bất hòa, cuối cùng bẻ gãy hai chân của thầy để báo thù đối phương. Đây là việc không nên làm, lại còn là đại nghịch vô đạo.
Bài học đạo lý
Ganh tỵị, sân hận là hành vi ngu xuẩn sẽ sinh ra “tao sống mày chết.” “ăn không được thì phá cho hôi”, cũng là người căn tính thấp hèn của con người. Nếu là bậc chính nhân quân tử thì “Thà hi sinh cái tôi nhỏ bé để hoàn thành việc lớn”. Hoặc “Hi sinh thân mình vì chính nghĩa”; hoặc suy rộng ra “Quân tử thúc đẩy người khác làm nên việc tốt”. Kẻ tiểu nhân gặp chút việc nhỏ cũng tìm cách báo thù. Khi tâm ganh tỵ xúi giục thì việc ác gì cũng không từ.
Người học Đại, Tiểu thừa trong Phật giáo, nếu y theo giáo pháp mà tu hành thì không có phân biệt Đại, Tiểu; khác nhau chỉ do phát tâm Đại, Tiểu mà thôi. Nếu như người cố chấp học Đại thừa xem thường Tiểu thừa thì người học Tiểu thừa cũng cho mình học Phật giáo Nguyên thủy xem Đại thừa vẫn là biến chất của Phật giáo. Rốt cuộc, ai đúng, ai sai? Chúng ta hãy tĩnh tâm nghiên cứu, cũng không khó hiểu lắm. Nếu như chúng ta công kích, phỉ báng lẫn nhau là trong tâm có vấn đề, trở thành pháp ác.
Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo đều có ưu điểm và có sâu, cạn khác nhau. Nếu như họ xuất phát vì mục đích cứu đời, độ người thì không có chuyện chánh-tà, thị-phi. Có chuyện thị-phi là do tâm bất chính, lòng dạ không ngay thẳng, lợi dụng tôn giáo để kinh doanh làm lợi riêng; giống như người kinh doanh buôn bán. Có người lợi dụng tôn giáo dã tâm làm chính trị, chính là biến chất tôn giáo.
Chúng tôi nói về quan hệ con người, mỗi tôn giáo đều chiếm cứ một sự liên kết, khuyến khích mọi người làm thiện, tu tâm dưỡng tính; tu đức, tu hạnh là hướng đến phụng thờ thần thánh. Chúng ta phải sống theo phép tắc, thân tâm nỗ lực tu hành mới đúng. Nếu như chúng ta ganh tị lẫn nhau, hoặc tranh giành tín đồ cứ lục đục với nhau thì đánh mất vẻ đẹp, lập trường của tôn giáo, cũng làm mất đi đức hạnh của tôn giáo; khác nào bọn buôn lậu.
Ganh tỵ chính là kẻ thù lớn nhất của nhân loại. Nước này đánh chiếm nước kia. Nhà nọ tranh giành nhà kia. Giữa người với người lắm chuyện thị phi, phần đông đều xuất phát từ lòng ganh tỵ. Bậc Cổ đức dạy: “Cùng nhau ở phía trước chống thuyền”. Từ xưa, người vĩ đại luôn tha thứ cho người khác. Hễ người nào có thể làm được việc lớn, là chắc chắn người đó có lòng dạ rộng rãi, có thể tiếp nhận ý kiến hữu ích của người khác, phân biệt được đúng sai thì mới có thể làm nên việc lớn.
Nếu như người ganh tỵ càng nặng thì càng thể hiện tính cách tiểu nhân, nhân cách và đạo đức cũng có sai biệt. Tham, sân, si, tật đố càng sâu thì nghiệp chướng càng nặng. Làm người, làm việc nhất định gặp chướng ngại chồng chất, chắc chắn cũng hãm hại người khác. Cho nên, người càng tạo nghiệp, làm ác thì tương lai chịu sinh tử vô biên, oán thù vô lượng, khổ báo cũng vô cùng, mãi mãi không có ngày giải thoát.
Chuyện 54
Con rắn tranh công
Lời dẫn:Con người sinh ra ở đời, ai cũng có nhiệm vụ. Một quốc gia có trăm quan văn, võ; mỗi người đều có nhiệm vụ. Một gia đình, ai nấy đều có bổn phận, lớn nhỏ có thứ tự, cha hiền con hiếu, em cung kính anh, vua thương dân, quan tận trung với vua, với nước. Nếu như làm đảo lộn nhiệm vụ của mỗi người thì cha không ra cha, con không ra con, vua quan trên dưới bất hòa. Trách nhiệm vợ chồng, anh em cũng đảo lộn. Như thế, một quốc gia không thể nào được thái bình. Đời sống gia đình sẽ không được hạnh phúc, an vui.
Thuở xưa, có một con rắn sống trong rừng. Có lúc, nó bò đến đám cỏ um tùm rậm rạp. Có khi, nó bò ra đồng trống tìm thức ăn, cuộc sống của nó rất tự do thoải mái. Một hôm, đuôi nói với đầu:
- Này anh! Mỗi ngày anh muốn đi phía đông thì tôi phải theo anh đi phía đông, anh muốn đi phía tây thì tôi phải theo anh đi phía tây. Xưa nay, anh không hề bàn bạc với tôi điều gì, lúc gặp thức ăn ngon cũng chỉ mình ăn hưởng hết, tôi chẳng có phần. Như thế, thật là bất công.
Đầu rắn nói:
- Chú có cách gì không? Ai bảo chú làm phần đuôi?
Đuôi rắn tức giận quát to:
- Anh câm mồm! Trời ban cho tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Anh xem kìa! Ánh sáng mặt trời chiếu khắp mặt đất, có đối xử một chút nào không công bằng?
- Chú nói như vậy còn gì ý nghĩa phận làm em?
- Nhiều năm nay anh dành đi trước, nay phải đổi cho tôi đi trước mới công bằng.
- Vậy là chú muốn đi trước phải không?
- Rất đúng!
- Chú có mắt không? Có biết đường đi không?
- Đây là việc của tôi không cần anh phải lo.
Đầu thấy đuôi tranh cãi vô lý, nhưng đành phải thuận theo nói:
- Thôi được! Chú muốn đi trước thì cứ đi!
Do đó, đuôi rắn đi trước. Vì nó không thấy đường nên cố sức bò về phía trước, những chỗ gập ghềnh nó dốc hết sức lực để trườn lên, bò đến bên hầm lửa nó cũng không biết. Cuối cùng, nó lao xuống hầm bị lửa thiêu chết và đầu rắn cũng chung số phận.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Sống trong xã hội, mỗi người đều có nhiệm vụ nghề nghiệp của mình. Một quốc gia đều có trăm quan văn võ, chia ra các cấp ban ngành; ai nấy đều làm việc tròn bổn phận của mình để lo cho nước, cho dân. Tục ngữ có câu: “Mỗi người đều phát huy hết tài năng của mình, và phát huy hết tác dụng của sự vật” thì con người mới có thể hạnh phúc an vui, thế giới hòa bình. Nếu chúng ta trên dưới ganh tỵ với nhau, tranh giành, hãm hại lẫn nhau thì nhân loại mãi mãi không có ngày an vui. Điều đáng quý nhất là mỗi người phải tự hiểu rõ mình, tự mình có khả năng làm việc gì thì nên làm việc đó. Nếu việc nào mình không biết thì phải học, cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân mình. Còn như kẻ bất tài cứng đầu cố chấp không biết mà làm càn. Người tài giỏi không chịu làm, đều là bất hạnh cho xã hội.
Mỗi người đều có ưu điểm và khuyết điểm. Chúng ta cố gắng học hỏi làm việc tốt phát huy ưu điểm, bỏ lần khuyết điểm là người thành công. Người cố chấp sĩ diện thì không thể nào làm được người tài giỏi, chẳng những hại mình mà còn hại người khác. Tại sao có người tài và người bất tài? Chúng tôi nói xa một chút là nhiều đời nhiều kiếp từ quá khứ đến nay, có liên quan đến tích tập thói nhiễm; nói gần là có liên quan sự lười biếng và nỗ lực học tập. Vì thế, người giỏi phát huy tài năng của mình, người bình thường cố gắng học hỏi vươn lên. Chúng ta học Phật cũng như vậy.
Nếu bất cứ việc gì, chúng ta cũng cầu trời, cầu thần; tuy có thể an ủi tinh thần, nhưng không cứu cánh được. Phật, thần, trời có thể làm chỗ dựa an ủi tinh thần cho chúng ta. Người làm thầy giáo là người mẫu mực để chúng ta học hỏi, chứ không thể bất cứ việc gì cũng ỷ lại thầy. Người yêu thương chúng ta nhất là cha mẹ. Người truyền trao cho chúng ta kiến thức và học vấn là thầy giáo, họ nâng đỡ chúng ta, nhưng không thể làm dùm chúng ta thành công sự nghiệp. Chúng ta muốn thành công, muốn làm nên việc lớn đều phải dựa vào chính mình. Nếu như tất cả mọi việc chúng ta đều dựa vào cha mẹ thì chẳng những là người yếu hèn mà cơ hội thành công rất ít.
Chúng tôi nói cách khác, kẻ tự đại tự kiêu thì không thể nào làm được việc lớn. Hoặc bất cứ việc gì không chịu nghe theo người tài năng đức hạnh, lại còn ganh tỵ với họ thì tự mình chuốc lấy thất bại. Bởi vì, chúng ta làm việc chung với mọi người, tất cả mọi việc đều phải dựa vào lý trí phán xét để tiến thân. Cho nên, người học Phật là học trí huệ, giác ngộ, đức hạnh. Cuộc sống hàng ngày luôn xảy ra chuyện người tranh quyền đoạt lợi. Giới sĩ, nông, công, thương cũng vì danh lợi. Người tài tự cho mình giỏi dùng mưu trí tranh chiếm danh lợi. Kẻ ác dùng thủ đoạn tinh vi hại người lợi mình để được danh lợi. “Điều thiện như cây tùng xanh, điều ác như hoa nở rộ; hiện tại tùng không bằng hoa. Một sớm tuyết sương rơi xuống, chỉ thấy tùng xanh không thấy hoa”. Kẻ lừa đảo luôn giành lấy danh lợi trước mắt. Người lương thiện tính chuyện danh lợi lâu dài.
Bậc Cổ đức dạy: “Đường xa mới biết ngựa hay, sống lâu mới hiểu lòng người”. Người sống có phép tắc và giữ đạo đức sẽ có cuộc sống yên vui, hạnh phúc lâu dài. Điều đáng qúy nhất ở thế gian là tự biết rõ mình, khả năng mình làm được việc gì thì cố gắng làm việc đó. Việc mình làm chưa được thì học từ từ, chắc chắn thiết thực. Chúng ta làm được một phần là tính một phần, làm không được thì nhường lại cho người hiền tài, không thể không biết làm mà làm càn, chỉ phá hỏng việc. Như kẻ cố chấp nói: “Thà làm hư, chứ không biết người ta khinh”, “thà làm ngọc vỡ chứ không làm ngói lành.” Người này là tội nhân trong xã hội.
Bậc hiền tài ở đời, làm lợi mình lợi người; kẻ ngu si làm hại mình hại người; giống như danh lợi làm sao ra sức tranh giành mà được? Bậc Cổ đức nói: “Có thành tựu thực tế thì có danh tiếng tương ưng”. Chúng ta cũng có thể nói: “Có thành tựu thực tế thì có danh lợi tương ưng”. Chúng ta cố gắng làm việc một phần thì được một phần là danh ngôn rất hợp lý. Vì thế, danh lợi đổi bằng mồ hôi và nước mắt mới là thật; con như tính toán, tranh đoạt mà được là không thật. Cho nên, người hiền tài biết nhìn xa trông rộng; kẻ ngu si tham lợi trước mắt. Như thế mà thôi.
Chuyện 55
Cạo râu cho vua
Lời dẫn:Con người sinh ra, có người rất gan dạ muốn làm những việc chấn động trời đất, nhưng không có năng lực. Có người lại nhút nhát, có cơ hội làm việc lại không dám làm, đánh mất tương lai tốt đẹp. Có người nuôi chí nguyện lớn muốn làm việc lớn, nhưng “chưa thực hiện được chí lớn mà thân đã già suy”. Có người ôm hoài bão chí lớn nhưng không thực hiện được. Có người sống cầu an, chỉ cầu ngày ba bữa no ấm là được rồi. Có người chỉ nhổ sợi lông để làm lợi cho thiên hạ vẫn không chịu làm. Vì sao?
Ngày xưa, có một thanh niên làm chức bình thường hầu vua. Một hôm, nhà vua chỉ huy một đạo binh đi chinh phạt nước láng giềng, anh ta cũng theo hầu vua xuất chinh. Lúc ở chiến trường cùng đánh với quân địch, vào sinh ra tử, anh ta dũng cảm chiến đấu. Không may, quân của nhà vua bị rơi vào chỗ mai phục của quân địch. Lúc này, chỉ có phá vòng vây mới giữ được mạng. Cho nên rất nhiều tướng sĩ liều mạng mở đường máu thoát ra ngoài, ai nấy đều lo thân mình, đội quân tan rã. Chỉ còn một mình anh ta theo bảo vệ nhà vua, tả xung hữu đột đánh lui quân địch; cuối cùng, anh ta phá được vòng vây trở về đất nước.
Sau khi trở về cung, nhà vua triệu tập tất cả đại thần văn võ đến bảo:
- Này các khanh! Cuộc xuất chinh lần này, nếu không có chàng trai này thì trẫm đã bỏ thân nơi chiến trường; cho nên trẫm muốn khích lệ tinh thần anh ta. Vậy trẫm ban thưởng cho anh ta chức gì?
Có một vị đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Nên phong cho anh ta làm đại tướng quân.
Có đại thần thưa:
- Tâu bệ hạ! Nên phong cho anh ta chức tổng quản trong cung.
Nhà vua bảo:
- Mặc dù anh ta dũng cảm, nhưng không có uy phong của người làm tướng, cũng không có mưu trí, khả năng để chỉ huy quân lính. Chỉ còn tất cả chức vụ trong cung; hoặc châu báu, tùy anh ta chọn lấy có được không?
Các đại thần đều thưa:
- Tâu bệ hạ! Ngài rất cao kiến, ban thưởng như thế rất hay.
Nhà vua bảo anh ta:
- Trẫm ban thưởng cho khanh hãy tùy ý chọn, tất cả chức vụ trong cung và châu báu, khanh chọn thứ nào?
Anh ta thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần không muốn thứ gì cả, chỉ muốn làm công việc cạo râu cho ngài thôi.
- Đây là ý nguyện của khanh sao?
- Tâu bệ hạ! Đúng vậy! Thần mong được cạo râu cho ngài là thỏa mãn lắm rồi.
Từ đó, anh ta làm công việc cạo râu cho nhà vua.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Chàng trai trong câu chuyện này, dũng cảm đánh dẹp thiên binh vạn mã, quyết mở đường máu, đột phá vòng vây quân địch để bảo vệ nhà vua, chỉ vì muốn cạo râu cho vua sao? Anh ta không thích làm quan, cũng không thích châu báu; quả thật quá ngu si. Đây là một câu chuyện thí dụ.
Dụ cho con người chúng ta, bất luận sĩ, nông, công, thương; hàng ngày luôn bận rộn, bôn ba xuôi ngược, tính toán, cạnh tranh, chỉ vì cơm ăn áo mặc phải không? Hoặc vì danh lợi, hay nuôi con cái? Những việc này nhỏ như hạt mè, giống như cạo râu cho nhà vua.
Việc quan trọng nhất của của con người là con đường tương lai dài vô hạn, tài sản vô cùng. Vậy tiền đồ vô hạn là gì? Chính là việc giải thoát sinh tử đời tương lai. Tài sản vô cùng là gì? Nhân cách, đạo đức, tu hành. Những điều quan trọng này, chúng ta lại xếp nó qua một bên để lo chuyện cơm áo gạo tiền, bận rộn cả đời, lại còn tạo nghiệp vô lượng, làm cho tương lai đau khổ chồng chất. Như thế, có đáng không?
Cuộc sống con người quan trọng nhất là điều gì? Kiến thức của mỗi người có cao thấp, cá tính và sự ưa thích cũng không giống nhau; cho nên cách nhìn của mỗi người cũng khác nhau. Có người cho rằng cuộc sống chỉ cần có tiền là có tất cả, làm việc gì cũng đều thông suốt, tha hồ hưởng thụ; cho nên đối với họ tiền quan trọng nhất. Có người cho danh lợi là quan trọng. Có người nói cuộc sống ăn chơi trác táng, cặp bồ gái đẹp làm thú vui là quan trọng. Có người thích nhậu nhẹt là quan trọng. Có người thích cờ bạc là quan trọng. Tục ngữ có câu: “Có người thích nấu rượu, có người thích đậu hũ”. Như vậy, sở thích của con người không có tiêu chuẩn nhất định. Bởi vì, kiến thức có cao- thấp, tầm nhìn có rộng-hẹp; cho nên cách nhìn của mỗi người đều không giống nhau.
Người học Phật phải nhìn theo góc độ Phật pháp. Chúng ta sinh ra ở đời là vừa trả nghiệp vừa trồng hạt giống cho tương lai. Vậy chúng ta phải gieo giống gì mãi mãi cho tương lai? Là lập ba thứ còn mãi: Lập đức, lập công và lập ngôn. Chúng ta tinh tiến tu hành cầu thoát khỏi sinh tử, độ khắp chúng sinh. Cho dù gặp hoàn cảnh như thế nào, chúng ta vẫn theo kiến thức của mỗi người để tạo dựng tiền đồ của mình. Người có trí huệ lớn tạo dựng tiền đồ lớn. Người có trí huệ nhỏ tạo dựng tiền đồ nhỏ. Kẻ không có trí huệ nên không biết tạo dựng tiền đồ. Đọc qua câu chuyện nói về chàng trai ngu ngốc là để chúng ta thể hội, làm thế nào để tạo dựng tiền đồ cho tốt đẹp.
Chuyện 56
Đền ơn không có lễ vật
Lời dẫn: Bất luận chúng ta làm công việc gì, tất cả mọi người đều có nghề nghiệp trong xã hội. Khi chúng ta làm việc gì, ai cũng mong muốn được trả công xứng đáng, lại có người muốn trả công càng nhiều càng tốt. Có người nào chịu ra sức làm việc mà chẳng cần trả công không? Chỉ có người làm từ thiện, hay vì tình cảm bạn bè thân thuộc, họ làm việc không cần trả công; nhưng họ cũng mong tương lai được đền đáp lại. Nếu như mỗi người ra sức làm việc một phần thì tương lai sẽ được hưởng một phần. Như thế là hạnh phúc ở thế gian, ai nấy đều ra sức làm việc. Có người nào không chịu cực khổ làm việc mà được kết quả không? Hay có người làm việc cực khổ mà không thu hoạch được thứ gì?
Thuở xưa, có hai người bạn cùng nhau đi du ngoạn. Trên đường đi họ gặp một người kéo xe, trong xe chất đầy hàng hóa. Lúc đi vào đường núi gập ghềnh, người kéo xe ra sức kéo cũng không cách gì xe lăn bánh được. Bỗng nhiên, anh ta dừng lại, lễ phép nói với hai người bạn:
- Thưa hai anh! Hoan hỉ giúp dùm tôi đẩy xe qua đoạn đường này nhé! Nhất định tôi cảm tạ hai anh.
Hai người hỏi:
- Anh cảm tạ chúng tôi bằng vật gì?
Anh ta đáp:
- Tôi cảm tạ hai anh không có món quà.
Hai người dường như chưa hiểu hỏi lại:
- Vì sao anh lại đi vào con đường hẹp, gập ghềnh như thế?
Anh ta đáp:
- Đường đời sẽ chẳng bao giờ bằng phẳng mãi mãi, bất cứ người nào sống trong cuộc đời đều phải gặp những con đường khó đi. Có con đường chật hẹp nhiều nguy hiểm rình rập. Có con đường cực nhọc phải băng rừng vượt núi. Cũng có con đường thủy nhiều sóng to gió lớn. Chúng ta phải đi thận trọng từng bước. Nếu lúc đó, chúng ta gặp được bạn bè, hay thiện tri thức đẩy dùm thì sự giúp đỡ này chẳng phải rất lớn hay sao? Có người chỉ biết đi trên con đường hiện tượng nhân sinh nên con đường này không bao giờ được bằng phẳng. Nếu như mọi người biết đi trên con đường thanh tịnh tâm linh thì tất cả cảnh giới đều bằng phẳng.
- Nếu chúng ta không đi con đường hiện tượng thì đi đường nào?
- Chúng ta phải đi con đường tâm linh.
- Con đường tâm linh bắt đầu đi từ nơi đâu?
- Ngay trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường tu sửa mình, để thể nghiệm tâm linh của mình.
Trong lúc, họ vừa nói chuyện, vừa đẩy xe ra khỏi con đường gập ghềnh, đi đến con đường bằng phẳng. Hai người bạn nói:
- Chúng tôi đã đẩy xe cho anh ra khỏi con đường gập ghềnh, anh trả công cho chúng tôi vật gì?
Người kéo xe nói:
- Món quà tôi báo đáp cho hai anh hay nhất là không có thật.
- Quà không có thật là như thế nào?
- Quà không có thật nhưng dùng mãi không hết.
Một người bạn nói:
- Cảm ơn anh!
Người bạn còn lại hỏi:
- Rõ ràng hắn không chịu đưa vật gì trả công cho chúng ta. Vì sao anh còn cảm ơn hắn?
- Tôi sẽ giải thích cho anh hiểu sau. Chúng ta đi nhé!
Hai người vừa đi, người bạn vừa giải thích: “Vừa rồi người kéo xe nói: ‘báo đáp không có vật’ ý nói: Ngay trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nên giúp đỡ người khác và thường tu tập sửa đổi để thể nghiệm chân tâm của mình, không nên để nghiệp thức lôi kéo mà thường khởi tham, sân, si tạo nghiệp so đo tính toán; hoặc tạo các ác nghiệp, làm cho đời tương lai chịu nhiều đau khổ. Chúng ta tu tập tâm linh thanh tịnh, sẽ được an lạc, hạnh phúc vô cùng. Đây không phải là món quà rất quý hay sao? Ý anh ta vốn là như thế”.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người suốt ngày bận rộn đều ở thế giới hiện tượng để tìm cầu thoả mãn vật chất. Nhưng thế giới hiện tượng là hữu hạn mà đáp ứng ham muốn của con người thì vô hạn; cho nên, con người không bao giờ thấy đủ. Kinh Kim cang ghi:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bọt nước
Như sương, như điện chớp
Hãy nên quán như thế.
Giả sử chúng ta cầu được như mong ước thì như thế nào? Thì như mộng, như huyễn, như hóa, có đó liền mất đó. Còn chúng ta tạo ác nghiệp lại đi theo ta mãi mãi, tương lai chịu khổ báo vô cùng. Cái nào thật, cái nào giả; chúng ta phải nhận thức sự việc.
Báo đáp vật có thật là hữu hạn, báo đáp vật không có thật mới là vô hạn. Tất nhiên chúng ta phải xem xét đồ vật không có thật, nó có giá trị hay không; chúng ta phải thấy công dụng của nó như thế nào để xác định.
Một câu Phật pháp có thể làm cho chúng ta nhiều đời nhiều kiếp hưởng không hết, lợi ích vô cùng. Chúng ta cũng có thể nói giá trị một đồng tiền cũng không có. Như có người nói: “Một cân đạo đức đáng giá bao nhiêu tiền?”. Giá trị đạo đức có thể có giá trị ngang nhiều thành quách, cũng có thể không đáng một đồng tiền, là do cách nhìn của chúng ta xem trọng nó hay không mà thôi. Nếu có người biết ứng dụng nó thì giá trị khác xa với người không biết ứng dụng. Vì thế, vật có thật, chúng ta có thể dùng tiền để mua bán; còn vật không có thật thì không cách gì đánh giá được.
Chuyện 57
Giờ phút sai lầm
Lời dẫn: Bất luận lúa, mè, đậu ở thế gian, hay các loại trái cây đều phải đợi nó chín mới hái được. Nếu trái cây chưa chín mà chúng ta hái xuống thì nó còn chua, chát, ăn không được. Vì sao có người hái trái cây còn non xanh? Hái như vậy là dú ép, khác nào làm việc lãng phí. Chúng ta đợi trái cây chín vừa ngon, vừa ngọt, lại vừa có chất lượng bổ. Mọi việc ở thế gian đều có quan hệ thời cơ đến và chưa đến. Nếu như thời cơ chưa đến mà chúng ta làm càn thì rốt cuộc hiệu quả không đạt được như mong muốn.
Ngày xưa, có một phú ông, nhà ông có rất nhiều kẻ hầu, người hạ. Ai nấy cũng muốn làm hài lòng ông chủ, nên tìm mọi cách nịnh nọt được hầu ông. Phú ông có hai thói quen là ông thường ngủ từ sáng sớm đến chiều tối mới thức dậy và ông thích nhổ đàm xuống nền nhà. Vì thế, khi ông vừa thức dậy, luôn có người túc trực thay y phục, thay giày. Trong số đầy tớ có một tên rất ngốc. Mỗi khi, hắn muốn hầu ông chủ đều bị những người hầu khác giành làm trước, cho nên hắn không được ông chủ hài lòng.
Một hôm, hắn chợt nghĩ ra ý nghĩ kỳ quái muốn hầu ông chủ trước, mong ông chủ đối xử hắn đặt biệt. Do đó, khi ông chủ còn ngủ, hắn đến gõ cửa phòng kêu:
- Ông chủ ơi, dậy đi! Dậy đi!
Phú ông bực mình quát:
- Có việc gì thế?
- Con thay quần áo, giày cho ông.
- Ngươi cút đi! Ta còn đang ngủ. Tại sao gọi ta dậy?
Vì vậy, hắn bị mọi người chế giễu. Chẳng những hắn không lấy được lòng ông chủ mà còn mất việc làm, phải đi lang thang đầu đường, xó chợ.
Còn một tên hầu nữa cũng ngu cực kỳ, hắn cũng muốn lấy lòng ông chủ. Mỗi khi, hắn thấy ông chủ khạc đàm, lập tức có người đến lau ngay. Hắn rất muốn lau nhưng chưa tìm ra cơ hội. Một hôm, hắn muốn lau trước mọi người khi ông chủ khạc đàm. Cho nên từ sáng sớm đứng canh theo dõi động tác của ông chủ. Trước khi ông chủ khạc thường ho trước mấy tiếng. Vì vậy, hắn đợi khi ông chủ vừa ho, liền đưa mạnh chân ra để hứng đàm. Kết quả tuyệt chiêu của hắn, ông chủ bị gãy hai cái răng, môi cũng bị giập chảy máu. Ông chủ tức giận quát:
- Tại sao ngươi đá ta làm gãy hai cái răng và giập môi như vậy?
Hắn đáp:
- Thưa ông! Con không cố ý đá ông, bình thường khi ông khạc đàm, luôn có người hầu hạ lau chùi. Hôm nay, con muốn hầu ông, nên nghĩ khi ông khạc đàm chưa rớt xuống đất, con đưa chân ra hứng khỏi lau nhà. Không ngờ, con đưa chân quá mạnh làm gãy răng và giập môi ông. Con xin lỗi, mong ông tha thứ.
- Tha thứ à! Ngươi đá mạnh làm cho ta ra nông nỗi này, còn xin ta tha thứ. Hãy cút đi ngay! Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa.
Do đó, hắn cũng bị mọi người cười chê.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Câu chuyện này nói với chúng ta. Con người làm việc gì đều phải đúng thời, đúng chỗ, đúng người; nếu như ba thứ này làm không đúng lúc thì chẳng những làm hỏng việc mà còn sợ kết quả sẽ ngược lại. Cho nên, chúng ta phải đúng thời gian, nơi chốn, con người có hợp hay không là then chốt thành công hay thất bại của mỗi người.
Người học Phật phải tích lũy công đức. Từ bi, trí huệ, công đức đều phải tăng trưởng mỗi ngày. Bậc Cổ đức dạy: “Làm việc thiện như cỏ trong vườn mùa xuân, không thấy nó lớn nhanh, nhưng nó lớn dần mỗi ngày”. Chúng ta tích lũy từ từ như vậy, đến khi trí huệ, công đức viên mãn, mới gọi là thành Phật.
Hiện nay, có người học Phật ba ngày thì muốn được cảm ứng thần thông gì đó; hoặc mong có bậc minh sư nào chỉ cho bí quyết tu đắc đạo liền; hoặc mong trời ban chân đạo gì đó, người có phúc mới được; hoặc ban cho bí quyết chân ngôn gì, chỉ một niệm liền đắc thần thông.
Ngoài xã hội lại xuất hiện những hàng rẻ tiền, hàng hóa dỏm dùng nhiều chất hoá học; hoặc công nhân ăn cắp vật liệu xây dựng đem ra bán rẻ. Nói rõ ra, các thức ăn đều dùng chất hoá học; hoặc ăn bớt làm dối phải không?
Xã hội hiện đại hóa, công nghiệp hóa, thời gian là vàng; mọi người chạy đua thời gian để kiếm tiền, không có thời gian nghiên cứu chân lý. Vì thế, bọn tội phạm dùng nhiều chiêu thủ đoạn phao tin nhảm, dụ dỗ, lừa đảo mọi người; vì tâm con người vốn hám rẻ, tất nhiên là cấu kết với nhau.
Chúng ta ăn một bữa cơm thật không dễ. Người nông dân phải cấy lúa, nhổ cỏ, bón phân, cực khổ một nắng hai sương, mới được thu hoạch; lại phải vận chuyển, phơi khô, giơ lúa, sàng sảy đem về nhà, xay giã thành gạo, nấu chín thành cơm. Trải qua nhiều công đoạn vất vả, mới được một bữa ăn. Vậy việc tu đắc đạo thành đạo có dễ dàng không?
Có những người không hiểu biết, khi có người muốn lừa gạt thì họ bị lừa như chơi; thật sự rất kỳ lạ, cũng rất đáng thương! Đức Phật là Đấng đạo đức, từ bi, trí huệ viên mãn. Nếu như chưa được viên mãn thì không thể cho là thành Phật, lại không có một chút tính toán đầu cơ trục lợi. Hay nói cách khác,, không có phương pháp đắc đạo dễ dàng như thế. Người ngu trong câu chuyện là bài học sâu sắc cho chúng ta.
Chuyện 58
Công bằng ngu xuẩn
Lời dẫn: Mỗi người ở thế gian đều hi vọng mình được giàu sang, hạnh phúc; hoặc mình có quyền hành mà người khác không được. Do đó, xã hội xảy ra rất nhiều việc không công bằng, cũng xảy ra nhiều chuyện tranh cãi đúng sai; hoặc làm việc tham ô, lừa đảo phạm pháp. Vì thế, có người lãnh đạo đề xướng những việc tự do, bình đẳng, bác ái. Công bằng cũng phải công bằng hợp lý trí; nếu công bằng không hợp lý thì sẽ trở thành hành vi ngu xuẩn. Cho nên, bất luận tự do, bình đẳng, bác ái, công bằng đều phải dựa theo lý trí để giải quyết sự việc mới được công bằng thật sự.
Ngày xưa, có một trưởng giả rất giàu có. Thời trai trẻ, ông quên mình vì đất nước chinh chiến khắp nơi, đánh nam dẹp bắc, lập rất nhiều chiến công lao lẫy lừng nên được nhà vua ban thưởng rất nhiều vàng bạc, ông trở nên giàu có. Tuổi cao, ông về hưu để hưởng thụ cảnh thanh nhàn. Nhưng vì tuổi cao sức yếu, tai điếc, mắt mờ; lại bị tật bệnh hành hạ, muốn làm việc gì để giải trí cũng không làm được, muốn nghĩ điều gì hay để chỉ dạy con cháu thì tinh thần cũng bị lẩm cẩm, đành phải chờ ngày Diêm Vương rước về.
Dường như ông hiện thân thuyết pháp, nên thường nói với mọi người: “Con người sinh ra ở thế gian này chịu vô thường và khổ nạn, thời gian trôi qua nhanh chóng. Thời tuổi trẻ, ta như rồng như hổ, chinh chiến khắp nơi, chỉ huy thiên binh vạn mã, vào sinh ra tử; vì đất nước, ta lập nhiều chiến công vang dội. Đến nay, tuổi cao sức khỏe suy yếu, đi lại khó khăn, lại thường bị bệnh tật hành hạ thân thể thì mới biết con người bị vô thường chi phối. Nếu như chúng ta không có tín ngưỡng tôn giáo thì không biết đời sau sẽ trở về nơi đâu? Chẳng lẽ chúng ta sống trong thê lương đau khổ để trôi qua đời này? Vì vậy, mọi người cần phải tìm đến cứu cánh để trở về mới đúng”.
Ông biết mình sống ở đời chẳng còn bao lâu, nên đem việc nhà giao lại cho các con rõ ràng. Một hôm, ông gọi hai người con đến và dặn: “Sau khi cha mất, hai anh em con hãy cố gắng sống hòa thuận và làm việc, đừng ỷ vào công danh sự nghiệp của ta; còn tài sản phải chia đôi công bằng”. Sau khi dặn dò các con xong thì ông từ trần. Hai công tử làm theo lời cha dặn, lo việc mai táng chu đáo xong, liền mời thôn trưởng đến phân chia tài sản. Thôn trưởng nói:
- Hai công tử muốn công bằng thì đem những đồ vật chia hai ra mới công bằng.
Hai anh em liền đem hết đồ dùng trong nhà ra để phân chia. Như chiếc áo thì cắt ra thành hai mảnh; bàn, ghế, tủ đều chẻ làm đôi, cho đến tiền bạc cũng xé ra làm hai v.v…Mọi người cho rằng chia như vậy rất công bằng. Rốt cuộc, tất cả tài sản trong nhà đều trở thành phế liệu, tiền bạc cũng không dùng được. Công bằng như thế có thích hợp không?
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người là tối linh trong muôn vật, có lý trí, có lương tâm, mới có giá trị làm người. Nếu chúng ta có lý trí mà không có lương tâm thì trở thành động vật máu lạnh. Còn như chúng ta có lương tâm mà không có lý trí thì giống như loài súc sinh. Con người vì muốn chiếm nhiều lợi phẩm, muốn có quyền lực, nên bắt đầu xảy ra mối tranh chấp. Bình đẳng mà không có lý trí thì cũng là một trong những nguyên nhân hủy hoại sự vật; cho nên, lý trí và công bằng đều không nên thiên vị bên nào. Giả sử lý trí và công bằng không thể song hành được, thà chúng ta chọn lý trí, chứ không thể chọn công bằng theo cách ngu xuẩn.
Lý trí của con người có thiện, có ác; có lợi, có hại. Nhưng nếu chúng ta làm việc bằng lương tâm, đạo đức thì có lợi không có hại. Đạo lý giống như công bằng có lý trí là công bằng thật sự; công bằng không có lý trí thì có thể phá hại sự việc, cũng làm chướng ngại sự tiến bộ của con người.
Ông trời là danh từ đại biểu công lý và chính nghĩa. Có người mượn cớ y theo trời sinh ra muôn vật, nuôi dưỡng quần sinh, nên bất cứ việc gì cũng muốn mọi người vâng theo lịnh trời. Bọn gian tà nịnh nọt lại mượn trời ra lịnh cho mọi người. Thí dụ “Đời mạt kiếp đến rồi”, “Trời giáng tai họa” con người chịu cảnh chiến tranh, gặp nhiều tai nạn; nạn lụt, nạn lửa, nhiều giặc cướp, nhiều bệnh dịch, đều là trời muốn tiêu diệt nhân loại. Vì thế, mọi người không còn đường trốn thoát tai họa.
Một mặt, bọn chúng lại nói trời ban chân đạo, muốn đưa mọi người trở về nhà. Trời ra lịnh bọn chúng truyền chân đạo; cho nên, bọn chúng có đặc quyền, cũng có đạo bí mật truyền cho mọi người. Do đó, tất cả mọi người đều phải nghe theo bọn chúng là thuận theo trời. Nếu chống lại trời thì phải chịu tai họa mà không về nhà được, đã không về nhà được còn bị núi đè vĩnh viễn; đây là thủ đoạn giết hại độc ác của bọn chúng. Giống như bọn chúng là sứ giả của trời, được đi truyền lệnh, có đặc quyền; có thể bảo chúng ta lên trời, cũng có thể phạt chúng ta vào địa ngục. Thuyết pháp như thế có hợp lý không? Người có lý trí tự sẽ phân biệt được.
Chuyện 59
Thích xem nặn đồ gốm
Lời dẫn: Bậc Cổ đức dạy: “Một tấc thời gian là một tấc vàng, nghìn vàng không mua được thời gian”. Con người sinh ra ở đời, từ lúc còn bé cho đến già, một ngày một đêm hai mươi bốn tiếng, hầu như một phần ba thời gian dành cho việc ngủ nghỉ, lại còn bệnh tật, đau buồn. Vậy thời gian có ích còn lại được bao nhiêu? Chúng ta tranh thủ thời gian có ích làm được những gì? Người biết cố gắng tranh thủ thời gian, tức là người thành công. Còn kẻ lãng phí thời gian là sa đọa.
Thuở xưa, có một thôn nọ, mọi người trong thôn đều thích đồ gốm, nên hàng ngày có những người bỏ cả công ăn việc làm của mình đi đến lò xem thợ nặn đồ gốm. Nếu như một, hai ngày; hoặc năm, ba ngày thì chẳng có gì đáng nói, nhưng dân làng ở đây thời gian quanh năm suốt tháng đều đốt vào xem đồ gốm. Nếu họ học làm nghề, hay ở nhà rảnh rỗi thì cũng cho là được; còn đây, họ chỉ vì cố chấp tính hiếu kỳ, không biết chán đến xem đốt cháy thời gian mà thôi. Nhưng thợ nặn đồ gốm làm theo một khuôn khổ, chẳng có gì mới lạ thích thú mà xem quanh năm suốt tháng như vậy có chán chê không? Ngay cả người đẹp hay cảnh non nước hữu tình, chúng ta ngắm lâu cũng đâm nhàm chán. Nhưng vì họ sao không biết chán?
Trong đó, có một người giác ngộ khuyên: “Chúng ta là những thanh niên mạnh khỏe có việc làm, hãy vì tương lai của mình mà gầy dựng sự nghiệp một lần thì tương lai mới có hạnh phúc. Tại sao các bạn lại bỏ phí thời gian qúy báu vào việc vô ích này? Tôi xin nói cho các bạn một tin vui. Hiện nay, nhà vua của chúng ta đang ở đây không xa, tổ chức đại lễ bố thí, hễ người nào đến tham gia thì được ăn những món sơn hào hải vị, lại còn nhận phần thưởng món quà rất có giá trị. Xin mọi người đừng để mất cơ hội, chúng ta cùng đi lãnh thưởng nhé!”
Nhưng mọi người đều im lặng, dường như chẳng có ai muốn đi. Trong đó tuy có người muốn đi, nhưng bị đồ gốm mê hoặc giữ chân lại, không cách gì đi được. Người này thấy mọi người không muốn đi lại đưa ra chiêu khác hấp dẫn hơn: “Nếu bạn nào đi tham gia đại hội thì được nhà vua ban cho một phần quà quí trọng, lại còn được chiêm ngưỡng nhà vua, được nghe ngài chỉ dạy những lời quí báu, dạy đạo lý làm người làm việc, thật là lợi ích vô cùng”.
Nhưng xem ra những người này vẫn thích xem nặn đồ gốm hơn, dù suốt năm họ chẳng được thứ gì, lại còn tốn nhiều tinh thần và thời gian, về nhà lại tranh cãi với người mọi trong gia đình, tai họa về sau khó lường. Chẳng phải là rất đáng tiếc và đáng thương hay sao?
Bài học đạo lý
Mọi người ở đời đều là như vậy, hàng ngày chúng ta bận rộn mà không biết vì sao? Hôm nay bận việc này, mai bận việc kia, việc này chưa xong thì có việc khác, luôn luôn bận rộn. Ngày nay xã giao với anh A, ngày mai đi nhà hàng cùng anh B; bận rộn qua lại đều là đạo lý đối nhân xử thế, cũng vì cơm ăn áo mặc. Bậc Cổ đức dạy: “Giang sơn muôn dặm, ngày ăn ba bữa; nhà rộng nghìn gian đêm ngủ hai thước”. Chúng ta suốt ngày bận rộn, bận đến khi tử thần đến thăm, xuôi tay nhắm mắt mới hết bận.
Chúng ta đến thế gian này hai bàn tay trắng và từ giã thế gian này cũng trắng tay. “Giã từ cuộc đời chúng ta không đem theo được gì, chỉ có mang theo nghiệp bên mình”. Lúc đó, chúng ta mới biết tất cả thế gian đều không. Cho nên Cổ đức dạy:
Kiếp phù sinh như hình như ảnh.
Có câu rằng vạn pháp giai không.
Tất cả pháp thế gian đều không thật có. Nhưng chúng ta tạo tội nghiệp rất nhỏ, Diêm Vương cũng không bỏ qua.
Nếu là người tu hành Phật pháp thì hàng ngày phải thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ làm cho phúc báo, trí huệ, đạo đức ngày càng tiến bộ. Khi phúc đức, trí huệ được viên mãn là thành Phật. Người có hành trì Phật pháp, ngay ở đời này được mọi người tôn kính, ủng hộ, tinh thần an lạc vui vẻ. Sau khi chết, được vãng sinh về Cực Lạc, giải thoát sinh tử. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu vài điều, các vị tốn thời gian rất ít, nhưng được lợi ích rất nhiều. Còn việc thế gian tốn thời gian rất nhiều, nhưng được an vui rất ít, lại còn có thể tạo ác nghiệp, tai họa về sau khó lường. Ai chánh, ai tà, ai chân, ai giả, ai làm lợi, ai làm hại; người thông minh hãy cố gắng chọn lựa.
Chuyện 60
Bóng vàng in đáy nước
Lời dẫn: Bậc Cổ đức dạy:
Trần gian vốn là mộng
Thực hư cũng là mộng
Say mộng hay tỉnh mộng
Vẫn là mộng mà thôi.
Hàng ngày chúng ta thường thấy sơn, hà, đại, địa, sâm la vạn tượng đều như ảo ảnh, mộng huyễn; huống gì nằm mộng thấy mộng? Nhưng người bình thường sống trong ảo ảnh này vẫn không tự biết. Hàng ngày, họ tìm cầu cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, phương tiện đi lại cho đầy đủ mà không ngừng tính toán chiếm đoạt tài sắc, danh lợi. Đến khi, sắp trút hơi thở cuối cùng vẫn khư khư cố chấp ảo ảnh không chịu buông bỏ, không biết mình bị ảo ảnh lừa gạt cả một đời, ôm nhiều uẩn khúc vĩnh biệt trần gian.
Có người chạy theo tài, sắc, danh, thực, thùy giống như sư tử vớt trăng dưới nước; chẳng những uổng phí công sức mà thân còn tạo tội nghiệp. Người ngu thấy bóng vàng in dưới nước, cho là vàng thật, uổng công ra sức vớt; khác nào như vớt trăng trong nước?
Ngày xưa, có một người cha rất giàu có, ông rất yêu thương chiều chuộng con trai mình, chỉ cần chú bé thích bất cứ vật gì thì ông đáp ứng ngay. Nếu không có thì ông phải tìm trăm phương nghìn kế để tìm cho bằng được; huống gì những thứ nhu cầu thường ngày như cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, phương tiện đi lại, chẳng cần nói đến.
Một hôm, chú bé thấy ở nơi khác có một hồ tắm, liền nói:
- Cha ơi! Con muốn bơi. Cha cho con đến hồ đó bơi được không?
- Được! Nhưng con cẩn thận nhé! Con đi trước, lát nữa cha đến sau.
Chú bé đến hồ tắm một mình, rồi ngồi trên bờ hồ, ngắm nhìn nước trong xanh; chim sẻ ở đâu cũng kéo đến đậu trên cây hót lúi lo, hoa nở rực rỡ, cây cối xanh tươi phong cảnh rất đẹp. Bỗng nhiên, chú nhìn thấy dưới đáy nước có thẻ vàng chiếu sáng lấp lánh, làm cho chú vô cùng thích thú reo lên: “Ta phải vớt thẻ vàng này lên”. Vì thế, chú liền nhảy tõm xuống nước, mò tới mò lui trong hồ, vốc từng nắm bùn cát dưới đáy hồ lên xem, làm nước trong xanh trở thành đục ngầu, chú cũng không tìm được thẻ vàng. Thân thể đầy bùn lấm len, mệt mỏi chú mới chịu leo lên bờ.
Chú kinh ngạc nói lẩm bẩm: “Thật kỳ lạ! Ta nhìn thấy thẻ vàng rõ ràng, tại sao tìm không ra nhỉ?”. Chú ngồi một lúc, nước lắng trong trở lại. Chú lại nhìn thấy thẻ vàng, vội nói: “Lần này, ta nhất định không để mi thoát đâu nhé!”. Do đó, chú để ý chỗ có vàng, khi chú sắp nhảy xuống nước vớt lên thì cha chú đến đúng lúc hỏi:
- Này con trai! Con đang làm gì vậy?
Chú đáp:
- Cha ơi! Con muốn vớt thẻ vàng lên.
- Dưới nước làm gì có vàng? Nhất định con thấy lầm rồi.
- Dạ, không lầm đâu cha ơi! Con nhìn thấy dưới nước có thẻ vàng rõ ràng.
Cha chú bước đến nhìn xuống nước theo tay chú chỉ, liền bảo:
- Này con! Dưới nước không có vàng mà vàng thật đang ở trên cây kìa. Con trèo lên cây mới lấy được vàng.
- Cha nói không đúng! Rõ ràng con nhìn thấy vàng dưới đáy nước. Vì sao nó ở trên cây?
Chú bé vẫn không tin lời cha nói. Người cha bảo:
- Nếu con không tin, bây giờ con không cần nhìn xuống nước nữa mà hãy ngước lên cây thì thấy vàng thật.
Chú bé liền ngước nhìn lên cây, quả nhiên có thẻ vàng treo trên đó. Chú chợt hiểu vừa rồi chú tìm trong nước là bóng vàng in xuống, làm cho chú tốn công phí sức mà chẳng được gì.
Bài học đạo lý
Qua câu chuyện này, chúng ta có thể chứng minh tất cả sự vật ở thế gian quý ở chỗ biết và không biết.
Có người mê muội không biết. Có người cố chấp quan điểm tự làm hại mình. Có người không biết tự cho mình biết, chỉ vì chuộng sĩ diện. Cho nên, thế gian có những loại tà kiến. Suốt đời con người chạy theo tài, sắc, danh, thực, thùy, giống như chạy theo ảo ảnh mà không biết nó là huyễn. Sau khi, nghe Phật pháp nói mới biết tất cả sự vật đều là không thật. Nhưng nhu cầu cho sắc thân năm uẩn phải có những thứ này. Chúng ta phải biết sắc thân năm uẩn này cũng là không. Nếu chúng ta không biết thân này là không thì lao nhọc cả đời; giống như chú bé trong câu chuyện tìm vàng dưới đáy nước.
Cái gì gọi là chân? Là bản tính của chúng ta, từ quá khứ đến vị lai, vô thỉ vô chung. Chúng ta muốn tìm bản tính của mình, phải tu tập tâm. Tâm là báu vật vô hạn, giá trị như các thành nối liền nhau, kẻ đánh chiếm không lấy hết được, lương thực không bao giờ cạn. Vì sao lại muốn ở thế gian huyễn mộng để lao tâm khổ tứ? Cái nào là chân? Cái nào là giả có liên quan hiểu biết sâu cạn của mỗi người, cũng có liên quan đến tri kiến, tà kiến của mỗi người.
Chúng ta lấy tri kiến của Phật làm tri kiến, nếu như mọi người có kiến giải khác nhau, cũng là việc không có biện pháp. Việc này giống như mỗi người đi đường Dương Quan[3]của mình. Đức Phật mong muốn chúng ta giải thoát sinh tử, nên Ngài dạy đạo giải thoát; Ngài mong cho chúng ta thành Phật, nên nói hành đạo Bồ-tát; cho đến cõi trời, cõi người, ba đường ác, mỗi người đi theo con đường của mình. Chúng tôi cũng hi vọng các vị đi vào con đường bậc thánh. Nếu như chúng ta muốn đi vào ba đường ác thì dù có Đức Phật còn ở đời cũng không có cách gì cứu được. Chúng tôi mong muốn mọi người bỏ giả tu chân nhé!
Chuyện 61
Tranh nhau tạo người
Lời dẫn: Ban đầu con người từ đâu đến? Có người nói từ vô cực đến. Có người nói tiến hoá từ loài khỉ. Có người nói thượng đế sáng tạo ra. Có người nói lão mẫu nương sinh ra loài người. Bất luận nói theo cách nào, vẫn không thỏa đáng. Vì sao? Vì vô cực là danh từ trống rỗng. Nói con người tiến hoá từ loài khỉ. Vậy loài khỉ từ đâu đến? Nói thượng đế tạo ra con người. Vậy thượng đế từ đâu đến? Lão mẫu nương sinh ra loài người. Vậy lão mẫu nương từ đâu đến? Đều là nguồn gốc vô cùng vô tận. Muôn sự muôn vật trên thế giới, vốn là một sự tuần hoàn, luân chuyển không dứt. Làm sao chúng ta tìm được nguồn gốc?
Xưa kia, bà-la-môn giáo ở Ấn Độ, cũng theo Đại Phạm Thiên tự cho mình sáng tạo muôn vật. Vị Phạm Thiên lại là vạn đức vạn năng, họa phúc sinh tử của con người đều nằm trong tay ông điều khiển. Con người là con cháu của thần, nếu như chúng ta làm trái ý thần là có tội thì thần chẳng chút khách sáo, liền giáng tai họa. Còn như chúng ta ngoan ngoãn nghe theo thì thần sẽ ban phúc. Đây là luận điệu đế chế của vua chúa. Người xưa nói: “Vua bảo thần chết, thần không chịu chết là bất trung. Cha bảo con chết, con không chịu chết là bất hiếu”. Thời đại văn minh tiến bộ, tuy đã lột bộ mặt giả của thần, nhưng tín đồ của thần vẫn liều mạng bôi son thếp vàng lên mặt thần.
Xưa kia, bà-la-môn giáo ở Ấn Độ cho Phạm thiên là chúa sáng tạo ra muôn vật, nhưng Phạm thiên có một vị đệ tử cũng tự cho mình là quyền hạn tuyệt đối. Một hôm, vị đệ tử đến thưa sư phụ:
- Thưa thầy! Con sẽ tạo ra con người.
Phạm thiên quát:
- Ngươi không được ăn nói tùy tiện hồ đồ. Người làm gì đủ tài năng này? Người cũng không được tùy tiện tạo con người, không được làm trái ý của ta.
Phạm thiên không cho đệ tử tạo người. Nhưng đệ tử vừa hiếu kỳ, vừa không chịu nghe lời Phạm Thiên; cho nên lén tạo ra một người.
Phạm thiên biết được rất tức giận, nhưng việc tạo người đã thành sự thật, có tức giận cũng vô ích, chi bằng thể hiện thái độ rộng lượng, nên ông đi đến chỗ người đệ tử tạo người thử ra sao. Đệ tử thấy sư phụ đến vội vàng cung kính thưa:
- Thưa thầy! Xem thử con tạo ra con người như thế nào? Xin thầy chỉ dạy.
Phạm Thiên đáp:
- Rất tốt! Ngươi biết cách tạo ra người, nhưng ngươi chưa biết kỹ thuật cách tạo ra người
- Xin thầy chỉ dạy.
- Ngươi hãy xem người này đầu quá to, cổ lại nhỏ, tay và chân tạo không cân xứng, tay này quá to, tay kia lại nhỏ, chân cũng như vậy. Làm sao giống con người được?
Phạm Thiên vô cùng hả hê vì được phê bình đệ tử cái gì cũng sai, ông lại nói tiếp:
- Ta đã bảo ngươi không được tạo người, ngươi cố chấp không chịu nghe lời. Kết quả, ba phần không giống người, bảy phần không giống quỷ; người cần học tập nhiều mới làm được.
Từ đó, tình cảm thầy trò bị rạn nứt.
Bài học đạo lý
Qua câu chuyện này, chúng ta hãy nghĩ thử xem thần còn ganh tỵ không? Thần không muốn cho đệ tử có cơ hội thể hiện tài năng. Nếu có thần như vậy thì khác gì hàng phàm phu chúng ta? Có điều gì vĩ đại?
Thật ra, mỗi chúng sinh đều biết cách tạo ra con người, nhưng nghiệp lực của mỗi người mà tạo ra con người không giống nhau. Có người thiện, có kẻ ác, có người đẹp, có kẻ xấu, có người thông minh, có kẻ ngu si v.v…đều sai khác; cho nên gọi là nghiệp lực. Tạo ra con người, không phải chỉ có vị thần kia có năng lực đặc biệt. Nếu như thần có tài năng đặc biệt thì nặn ra thân quả báo tốt đẹp, như thân trời, người; hoặc thân thanh tịnh - pháp thân.
Nếu như thần tạo ra con người vĩ đại và quyền lực thì mỗi người nam đều thượng đế, mỗi người nữ đều là lão mẫu nương. Vậy chúng ta ai tôn kính ai? Ai tín ngưỡng ai? Muốn tạo nghiệp (tạo ra người) muốn chịu sinh tử luân hồi dễ dàng, muốn ra khỏi sáu đường (tu hành), muốn giải thoát sinh tử khó khăn. Nếu chúng ta không nỗ lực tu hành vượt thoát sáu đường, ra khỏi sinh tử mà chỉ hướng đến cầu thần giúp đỡ có ích gì? Có được không?
Loài người có phải con cháu của thần không? Người Trung Quốc tự cho mình là con cháu của Viêm Hoàng. Như thế, Viêm Hoàng chính là hoàng đế của Trung Quốc. Chúng ta uống nước nhớ nguồn, không quên tổ tiên, huyết thống của mình; đây chính là thể hiện trung hiếu, đạo đức. Nếu nói thượng đế sáng tạo ra muôn vật, thượng đế sáng tạo ra nhân loại thì đây thuộc về chuyện vu vơ, vậy cầu khẩn thần làm gì? Con người là tự mình sáng tạo thân quả báo của chính mình, cho đến tất cả chúng sinh do nghiệp lực mình mà sáng tạo ra, cho đến tất cả Hiền thánh, Phật, Bồ-tát cũng là tự mình sáng tạo ra mới đúng.
Chuyện 62
Bệnh nan y muốn chữa khỏi liền
Lời dẫn: Chúng ta muốn đi xa thì phải xuất phát ở chỗ gần, rồi từ từ đi đến chỗ mình cần đến. Đứa bé vừa sinh, phải trải qua thời gian nuôi dưỡng mới lớn lên thành người. Thân thể bệnh lâu ngày, làm sao uống một thang thuốc mà bình phục được? Nhưng ở đời vẫn có người muốn nhảy một bước lên tận trời. Bạn nói, có điều này không?
Thuở xưa, có một người đã bệnh lâu năm. Một hôm, ông ta than thở với vợ:
- Nàng ôi! Tôi mắc bệnh thật là đau khổ, khi thân thể mạnh khỏe có thể trèo đèo vượt suối, cho dù lạnh rét hay nóng bức cũng chẳng sợ. Lúc ngã bệnh rồi, chẳng những không làm được việc gì mà đi lại cũng khó khăn, còn phải làm phiền người khác chăm sóc. Thật sự, ta đành bất lực, khổ quá đi thôi!
Vợ ông nhỏ nhẹ an ủi:
- Chàng ơi! Đừng buồn đau than thở như vậy, làm người ai mà không bệnh; chàng hãy cố gắng chịu đựng, an tâm dưỡng bệnh từ từ sẽ chữa khỏi thôi. Nếu như chàng cứ mãi suy nghĩ buồn rầu thì bệnh càng nặng thêm, xin chàng hãy yên lòng có thiếp chăm sóc chàng chu đáo, đừng đau buồn nữa nhé!
Người vợ mời thầy thuốc đến chẩn đoán. Thầy thuốc bảo:
- Bệnh ông nhà chỉ suy dinh dưỡng, vì suy nghĩ nhiều và buồn rầu nên dẫn đến bệnh lâu ngày, chỉ cần tinh thần thoải mái, sống an vui tịnh dưỡng thì bệnh sẽ khỏi. Sau khi bệnh khỏi, phải ăn uống tẩm bổ. Bà đem gà và thuốc hầm chung để ăn; chẳng bao lâu, ông nhà sẽ hồi phục sức khỏe.
Vợ ông nghe thầy thuốc bảo, liền đi ra chợ mua một con gà và một thang thuốc bổ về hầm chung lại đem cho ông ăn; mong ông sớm bình phục sức khỏe. Nhưng ông ta lại nôn nóng mong hết bệnh ngay, lại hét toáng lên:
- Tại sao thế! Thuốc ta cũng uống rồi, gà hầm cũng đã ăn, sao chẳng đỡ tí nào vậy? Ta thấy gã thầy thuốc này đúng là lang băm. Nàng mau đi tìm thầy thuốc giỏi về cho ta. Nhanh lên!
Bài học đạo lý
Ở thế gian này làm sao có thầy thuốc chữa bệnh nan y mà khỏi liền được? Mỗi người mắc bệnh đều do tích chứa lâu ngày. Chúng ta ăn uống hàng ngày thải ra chất độc trong cơ thể đưa ra ngoài không hết, mỗi ngày dồn một chút trở thành bệnh. Khi uống thuốc trị bệnh cũng vậy, phải từ từ; mỗi ngày chữa trị một chút, mới có thể chữa trị tận gốc.
Phương pháp trị bệnh có rất nhiều; tập dưỡng sinh, uống thuốc, nghỉ tịnh dưỡng, tinh thần thoải mái, ăn uống điều độ, làm việc nghỉ ngơi hợp lý, chú ý giữ vệ sinh v.v…phối hợp những điều trên mới có thể hết bệnh. Bằng không thì, cho dù thầy thuốc tài giỏi cỡ nào cũng phải bó tay, giống như một đống rác muốn dọn sạch nó, cũng phải hốt lần lần, mới dọn sạch hết được. Chúng ta mắc bệnh uống thuốc cũng như vậy, mỗi ngày uống thuốc bệnh giảm bớt một chút. Sau khi, bệnh hết rồi, cũng phải bồi dường nghỉ ngơi, mỗi ngày khỏe một ít, mới hồi phục sức khỏe; nếu muốn uống thuốc thật nhiều trong một ngày khỏe liền là việc không thể có.
Người tu hành Phật pháp, mỗi ngày đều phải nỗ lực tu tập. Ngay trong cuộc sống hàng ngày thường hành trì Phật pháp, tu dưỡng từ bi, đức hạnh, trí huệ, phúc báo, mới có thể dần dần thành tựu Phật đạo. Ngày nay, có người chủ trương tu đắc đạo thành Phật ngay lập tức. Họ học được một chút phép thuật cho mình đắc đạo; hoặc dựa theo pháp thuật nào đó được chút linh ứng cho là đắc đạo; hoặc giống như quỷ thần cho rằng con người sau khi chết biến thành ma, biến thành thần, căn bản cũng không cần tu hành. Như thế, họ cho rằng giá trị Đức Phật đáng năm đồng tiền cũng không có. Đây là bọn người gian tà, bỡn cợt; hoặc là người không hiểu rõ Phật pháp.
Hàng phàm phu chúng ta từ vô thỉ đến nay, luân hồi trong sáu đường, tích chứa phiền não tham, sân, si, nhiều vô lượng. Nếu như trước đây, những phiền não này chưa đoạn trừ thì không thể đắc đạo chứng quả. Trước đây, phúc đức, trí huệ chưa được viên mãn thì không thể thành Phật. Vì thế, Đức Phật là Đấng viên mãn phúc báo, thần thông, đức hạnh, từ bi, trí huệ cao tột. Không phải có chút thần thông tự xưng mình thành Phật. Thành Phật là việc phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chẳng phải một khắc, một giờ mà mong được thì giống như uống một thang thuốc mà muốn bệnh đã lâu khỏi liền, bồi dưỡng một chút thì muốn hồi phục sức khỏe ngay.
Tâm trạng của bệnh nhân là nóng nảy, là đau khổ, lại muốn mau hồi phục sức khỏe, cũng là chuyện thường tình. Nhưng vì sao trước khi chưa mắc bệnh không chịu chú ý sức khỏe của mình? Ngã bệnh rồi không chịu khó cố gắng tịnh dưỡng? Còn thích nghe tin theo bọn gian tà nói lời đường mật, mê hoặc mọi người; đây là nhược điểm rất lớn của con người, cũng là kẻ hở để bọn chúng lợi dụng. Người có kiến thức mà tính tình nóng nảy cũng dễ đánh mất lý trí. Chúng tôi chỉ mong mọi người dựa theo lý trí mà chọn lựa chánh tà.
Chuyện 63
Lấy giả làm thật
Lời dẫn: Dân gian ta có câu: “Một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng”. Chúng ta bị rắn cắn một lần thì cả đời cứ ám ảnh, ban đêm thấy sợi dây cho là con rắn mà sợ hãi; đây là một loại bệnh tưởng. Người nhút nhát, bất cứ việc gì, như gió thổi cây rung cũng tưởng là ma quái; cho nên, việc gì họ cũng lo sợ, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh ngay trong cuộc sống hàng ngày. Có người bị tên trộm lén vào nhà; từ đó, họ suốt ngày cứ lo đóng chặt cửa. Do đó, mỗi người đều có nỗi lo sợ, nhưng cảm giác sai lầm thì nhiều.
Ma, rắn, kẻ trộm thật sự đáng sợ như thế không? Có người chuyên đi bắt rắn, bắt ma làm nghề mưu sinh. Có người bắt kẻ trộm làm nghề nghiệp. Tục Ngữ có câu: “Rắn, ếch, rết; ba loài này không khuất phục nhau”. Rắn sợ rết, rết sợ ếch, ếch sợ rắn. Kẻ trộm sợ cảnh sát, cảnh sát sợ cấp trên, cấp trên sợ dân, dân sợ kẻ trộm. Như thế, ai sợ ai đây? “Một điều chánh khắc phục vạn điều tà, vạn điều tà không bằng một điều chánh”. Người chánh tâm, chánh hạnh, chánh tri kiến thì cái gì cũng không sợ. Kẻ tà tri, tà kiến luôn có những càm giác sai lầm, nên việc gì cũng sợ. “Chí khí ngất trời”. Người có chí khí, ngay cả trời cũng sợ hãi, huống gì quỷ thần.
Ngày xưa, có một đoàn hát kịch, gặp lúc quê nhà bị nạn mất mùa, nên chuyện cơm ăn, áo mặc trở thành vấn đề nan giải cho cả đoàn, vì người dân không còn thích thú để xem hát. Do đó, đoàn hát không thể tiếp tục ở lại quê hương, họ chuẩn bị dời đi nơi khác biểu diễn để lo cho cuộc sống. Cả đoàn người, ngựa xuất phát từ quê hương đi suốt năm ngày, mới ra khỏi vùng thiên tai mất mùa. Mặc dù trên đường đi, họ biểu diễn được vài, ba suất, nhưng thu nhập rất ít cũng chẳng thấm vào đâu. Một hôm, lúc về chiều họ đi vào trong khu rừng; lúc này, mặt trời đã lặn xuống núi, không còn cách nào hơn mọi người đành phải nghỉ chân trong rừng. Đến nửa đêm, vùng núi cao nguyên rất lạnh, mọi người cùng đi kiếm củi khô chất lại đốt lên để sưởi ấm và cũng nấu một ít thức ăn, ăn cho đỡ đói.
Vào lúc nửa đêm, có một diễn viên lạnh rét run, ngồi dậy tiện tay kéo trúng y phục hóa trang giả ma rồi mặc vào cho đỡ lạnh. Bỗng có một diễn viên khác thức giấc, chợt thấy bên đống lửa có một con ma, anh ta hốt hoảng hét to lên bỏ chạy. Mọi người trong đoàn cũng tỉnh giấc, không hỏi nguyên do mà ai nấy đều tranh nhau chạy. Diễn viên mặc y phục hóa trang ma thấy mọi người chạy cũng chạy theo. Ai nấy đều thấy ma đuổi theo sau, nên càng cố sức chạy, càng chạy càng sợ, càng sợ càng chạy nhanh hơn.
Cả đoàn người băng rừng, trèo núi, vượt sông, ai cũng sợ hãi; mặc cho gai nhọn đâm bị thương khắp thân mình, anh chạy theo tôi, tôi chạy theo anh; mãi khi đến lúc trời sáng, mọi người mới thấy rõ người mặc y phục ma là diễn viên trong đoàn. Có người hỏi:
- Anh có phải là diễn viên trong đoàn chúng tôi không?
Anh ta đáp:
- Đúng vậy!
- Vì sao anh mặc y phục hóa trang ma để dọa chúng tôi?
- Không có, nửa đêm lạnh quá, tôi chịu không nổi nên ngồi dậy, kéo đại y phục này mặc vào cho đỡ lạnh. Khi tôi nhìn thấy mọi người chạy, tôi cũng chạy theo.
- Chúng tôi tưởng ma xuất hiện đến mới bỏ chạy.
- Tại sao mọi người không nhìn kĩ một chút.
- Lúc đó, mọi người đều hốt hoảng, ai đâu bình tĩnh mà nhìn kĩ.
Lúc này, mọi người mới yên tâm nói:
- Chúng ta sợ hãi chuyện này quả thật quá oan uổng, bằng rừng lội suối cũng phí sức, cả thân bị thương chịu đau đớn, chỉ vì một niệm sai lầm.
Bài học đạo lý
Con người đến thế gian này, có cha mẹ, con cái, anh em, chị em, vợ con, bạn bè đều giống như một đoàn hát kịch. Mỗi ngày, con người có biết bao nhiêu điều vui-buồn, mừng-giận, thành-công, thất-bại; giống như diễn kịch trên sân khấu. Kinh Kim cang ghi:
Tất cả pháp hữu vi.
Như mộng huyễn, bọt nước
Như sương, như điện chớp
Phải nên quán như vậy.
Nhưng hàng phàm phu chúng ta luôn diễn kịch vai diễn của mình rất xuất sắc. Có lúc nghe người khác nói những điều mình không thích thì đỏ mặt tía tai cãi nhau ỏm tỏi. Có người vì năm đồng tiền mà quyết chí tranh giành mày chết tao sống. Những màn kịch này, ai làm đạo diễn? Nếu như thần làm đạo diễn thì thần quá tàn nhẫn, hoàn toàn đều xếp vào những bi kịch, tai kịch, khổ kịch. Theo ý của chúng tôi là chúng ta tự biên, tự diễn thì mới đúng. Nhưng vì sao phải xếp vào khổ kịch mà không xếp vào hài kịch? Điều này phải hỏi lại chính mình mới biết. Đức Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước, đời nay chịu như thế; muốn biết nhân đời sau, đời nay làm thế nào?” Vì vậy, tất nhiên phải tự hỏi mình.
Vui buồn, mừng giận là chuyện thường tình của con người, cãi nhau ồn ào là việc khó tránh khỏi. Nhưng điều quan trọng, việc nhỏ như hạt mè mà tạo các ác nghiệp để đạt được mục đích, để rồi tương lai nhiều đời nhiều kiếp chịu biết bao đau khổ, gây kết oán thù, luân hồi trong sáu đường báo thù lẫn nhau, mãi mãi không thoát ra được biển khổ luân hồi; đây là điều quá oan uổng cho con người. Đức Phật dạy:
Biết huyễn thì nên lìa,
Lìa huyễn là giác ngộ.
Chuyện 64
Sinh tâm nghi ngờ bị ma ám
Lời dẫn: “Sinh tâm nghi ngờ bị ma ám”. Câu nói này là sự hiểu biết trải nghiệm của người xưa. Ở đời có rất nhiều chuyện phải trái dẫn đến đánh nhau đều do tâm nghi ngờ. Thiền tông nói: “Nghi nhiều thì ngộ nhiều, nghi ít thì ngộ ít, không nghi thì không ngộ”. Đây là phương pháp dụng công tham thiền. Nhưng nói nghi ngờ theo người bình thường chúng ta là nguồn gốc thị phi phiền não. Nghi ngờ giống nhau, nhưng có tà-chánhkhác nhau một trời một vực.
Kinh Duy ma ghi: “Trực tâm là đạo tràng”. Người tâm ngay thẳng ở đâu cũng là đạo tràng tu hành- ai ai cũng là người tốt, tất cả hoàn cảnh đều là trợ duyên tu hành. Chúng tôi nói cách khác, người có tâm nghi ngờ đến nơi đâu cũng gặp chướng ngại, đều là thị phi, đều có ma quấy phá, hàng ngày luôn sống trong sợ hãi, chẳng có ngày nào được an tâm và yên ổn, cuộc sống đương nhiên là không tốt. Như thế, người không có tâm nghi ngờ thì đến đâu cũng thấy mọi người đều tốt, nhưng bản thân mình có thiệt thòi. Tục Ngữ có câu: “Tâm hại người không có, tâm gây chướng ngại người cũng không”. Chỉ có sinh tâm nghi ngờ thì bị ma ám, còn tâm ngay thẳng luôn thấy mọi người đều tốt. Điều nào tốt hơn?
Muôn sự ở thế gian đều dựa theo trí huệ mà chọn lựa tà chính. Điều nên nghi thì nghi, điều không nên nghi thì không nghi. Bậc Cổ đức dạy: “Người mình nghi thì không nên dùng, người mình dùng thì không nghi”. Đây là nguyên tắc tốt nhất nghi và không nghi.
Ngày xưa, có một ngôi nhà cổ mục nát rong rêu phủ kín; bởi vì, nhiều năm không có người ở, nên thường có ma, chẳng có ai dám đến ở.
Một hôm, có một người đi lỡ đường, vì gã đến đây trời đã về chiều, nên hỏi thăm người địa phương:
- Này anh! Cho tôi hỏi nơi đây có nhà trọ không; hoặc có nơi nào có thể ở tạm được không?
Người kia đáp:
- Ở đây không có nhà trọ.
- Vậy có nơi nào ở tạm qua đêm không?
- Trong thôn này có một ngôi nhà cổ không có người ở, anh có thể đến đó tạm nghỉ, nhưng tôi nghe ngôi nhà này thường có ma; nếu anh không sợ thì đến đó tạm nghỉ.
- Cảm ơn anh! Thật quá tốt, quá tốt! Tôi không sợ.
Vì thế, người lỡ đường đến ngôi nhà này. Bấy giờ trời đã tối, lại có thêm một người lỡ đường đi ngang qua nơi đây, hắn cũng hỏi thăm nơi tạm nghỉ qua đêm. Người trong thôn cũng chỉ hắn đến ngôi nhà cổ và cũng nói nhà có ma. Hắn nói:
- Tôi không sợ ma.
Do đó, hắn cũng đến ngôi nhà này.
Gã lỡ đường đến trước ngôi nhà cổ muốn vào, nhưng cửa đóng chặt im ỉm, gã cố sức đẩy mạnh vào bên trong ở trước. Trong lúc gã định nghỉ ngơi thì không ngờ có tên lỡ đường đến sau xô cửa. Vì vậy, gã chặn cửa lại nói:
- Ác ma này! Vì sao mới vừa tối lại đến quấy phá giấc ngủ của ta?
Tên ở bên ngoài quát:
- Con ma ích kỷ này thật đáng ghét. Vì sao không chịu mở cửa, để ta đứng bên ngoài; nếu như ta phá cửa vào được, ta sẽ lột da ngươi, rút gân ngươi.
Hai tên cãi lộn om sòm suốt đêm, cho đến khi kiệt sức vẫn còn đứng đó. Khi trời tảng sáng thì họ mới biết đều là đi lỡ đường.
Bài học đạo lý
Ở đời vì tâm nghi ngờ mà xảy ra nhiều chuyện phải trái. Kẻ làm chồng nghi ngờ vợ không còn trinh tiết, vợ nghi ngờ chồng ngoại tình, cũng là việc rất bình thường. Còn tất cả những chuyện thị phi khác, phần nhiều đều do tâm nghi ngờ mà dẫn đến ẩu đả đánh nhau long trời lở đất, chuyện này đâu đâu cũng có; kết quả, hai bên đều thiệt hại. Nếu như chúng ta bình tĩnh giải quyết sự việc thì tất cả đều trở nên dễ dàng.
Kế đến, trên không thương yêu, dưới không trung thành; mặc dù đâu đâu cũng có, nhưng nếu hai bên đều không có tâm nghi ngờ thì vẫn có thể duy trì mối quan hệ bền lâu, nói không chừng gần gũi lâu ngày có thể hóa giải tâm lý xung đột. Bằng không cứ ấm ức mãi trong lòng, khi có cơ hội bùng phát ra thì không có cách gì giải hòa được; hoặc tranh giành cấu xé nhau, toan tính hại nhau đều là việc xấu. Nếu như một người nghi ngờ mà người khác không nghi ngờ thì mới là thắng lợi cuối cùng.
Nghi ngờ có thể tăng thêm sự hiểu biết, nhưng cũng đưa đến cãi nhau chuyện đúng sai; điều này phải nhìn lại vấn đề nên nghi hay không. Chúng ta dùng người hay dùng vật cũng như vậy. Bản thân nghi ngờ không có tốt xấu, chỉ là dùng người có sai khác tà-chánh, khôn-dại. Nghi có thể sinh ra oán hận, nghi cũng có thể phát sinh Phật (trí huệ), chỉ có khác nhau vì sao đưa đến nghi ngờ.
Có hạng người vì sao sinh nghi ngờ bị ma ám, vì sao phần đông không sinh trí huệ? Đây chính là vấn đề ứng dụng nghi ngờ. Phải không?
Chuyện 65
Chuyển hoạ thành phúc
Lời dẫn: Bậc Cổ đức dạy: “Họa phúc không đến cửa, chỉ có người tự mời; quả báo thiện ác như bóng theo hình”. Họa và phúc ở thế gian không có thời gian nhất định, cũng không nhất định giáng xuống trên đầu người nào. Chỉ cần chúng ta thấy tâm người thiện hay ác mà xác định; hoặc xem hành vi của người làm việc thiện hay ác mà kết luận. Cho nên nói, báo ứng thiện ác, như bóng theo hình.
Báo ứng thiện ác có nhân đời trước mà chiêu cảm, cũng có duyên thiện ác đời này mà chuyển họa thành phúc. Do đó, thế gian có thiện tri thức hướng dẫn chúng sinh tu học Phật đạo, hoặc hướng đến thiện đạo. Nhưng cũng có ác tri thức dùng lời đường mật, đe dọa, dụ dỗ đưa mọi người đi vào tà đạo. Cũng có kẻ dẫn người vào ba đường ác. Có người theo thiện, nói điều thiện, khuyên người làm thiện. Cũng có kẻ nói lời gian trá, dụ dỗ mọi người tạo tội làm ác. Có người gặp thuận duyên, nghịch cảnh mà làm thiện, làm ác. Nhưng cũng có người gặp nghịch cảnh, nghịch duyên mà làm thiện, làm ác.
Có người học Phật gặp môi trường hoàn cảnh đầy đủ tốt đẹp, tinh tiến tu hành thuận lợi. Nhưng cũng có người thích lối sống buông thả; hoặc đắm nhiễm trong năm dục sống phóng túng, chẳng chịu nỗ lực tu hành. Cho dù họ gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh, nhưng nếu có người bỗng đến hủy nhục mắng chửi, hoặc xem thường, hoặc gây tranh cãi làm kích động ý chí của họ, làm cho họ quay đầu lại, tinh tiến tu hành, phấn đấu vươn lên thành tựu đạo nghiệp, sự nghiệp; đây chính là nghịch tăng thượng duyên. Thế gian có rất nhiều nguyên nhân âm mưu hãm hại người khác, nhưng họ chuyển họa thành phúc cũng rất nhiều.
Xưa kia, có một người phụ nữ trung niên rất xinh đẹp, nhưng ả quen sống buông thả dâm đãng, hành vi lẳng lơ, ăn mặc khêu gợi. Ả có tình nhân bên ngoài, tất nhiên ả không hài lòng người chồng của mình. Ả nghĩ ra rất nhiều thủ đoạn tinh vi muốn hãm hại chồng mình, nhưng chưa có cơ hội để ra tay.
Một hôm, thời cơ đã đến, vì chồng ả được nhà vua cử đi sứ đến nước khác. Ả liền làm năm cái bánh có tẩm thuốc độc, giả bộ buồn rầu nói với chồng:
- Thưa tướng công! Lần này, chàng đi sứ ra nước ngoài, thiếp lo cho chàng đi đường sẽ đói, nên thiếp làm năm cái bánh này, chàng hãy mang theo khi đói lấy ra dùng.
Người chồng nói:
- Hiền thê! Ta cảm ơn nàng vô cùng, ta rất quý trọng nó sẽ mang theo luôn bên mình.
Sáng hôm sau, anh ta lên đường. Khi đi đến vùng biên giới thì mặt trời đã lặn xuống núi, lại không có nhà trọ để nghỉ chân nên anh ta đành phải nghỉ dưới bên gốc cây, vì sợ thú dữ nên trèo lên cây ngồi nghỉ. Lúc đó, anh ta muốn lấy bánh vợ đã chuẩn bị đem ra ăn thì phát hiện bỏ quên túi xách ở dưới gốc cây, anh ta định trèo xuống lấy tay túi xách lên thì ngay lúc này có năm tên cướp đang đi tới gốc cây. Năm tên này lấy trộm rất nhiều châu báu và ngựa giỏi của vua nước láng giềng.
Năm tên cướp đi đường xa vừa mệt vừa đói, nên bọn chúng đến ngồi nghỉ bên gốc cây. Bỗng chúng phát hiện một túi xách, liền vội mở ra, bên trong ngoài y phục còn có năm cái bánh. Bọn chúng liền chia nhau mỗi thằng một cái ăn ngay tại chỗ. Không ngờ, bánh có chất độc cực mạnh, chưa qua một phút, cả năm tên kêu la lăn lộn, tai miệng đều trào máu ra chết lập tức.
Sứ giả ở trên cây nhìn thấy năm tên cướp vô cùng sợ hãi, không dám nhúc nhích. Đợi mãi khi đến sáng thì anh ra thấy năm tên đã chết từ khi nào, anh cũng không biết vì sao bọn chúng chết.
Sứ giả thấy rất nhiều châu báu và ngựa giỏi, nghĩ chắc bọn cướp lấy từ trong cung vua, nên gom hết châu báu đặt trên lưng ngựa chở đến nước láng giềng. Anh ta đi được nửa đường nhìn thấy ở phía trước một toán binh lính cưỡi ngựa rầm rộ đang đi về phía mình. Anh ta nghĩ chắc là binh lính của nhà vua nên muốn đến gặp vua để trình bày rõ sự việc về số châu báu và ngựa giỏi.
Nhà vua đưa anh ta về cung hỏi:
- Ngươi là người nước nào? Được số châu báu này ở đâu?
Anh ta thưa:
- Tâu bệ hạ! Thần ở nước đó, vâng lịnh nhà vua đi sứ đến nước ngài, giữa đường…
Nhà vua nghe sứ giả trình bày sự việc vô cùng cảm động, nên ban cho anh ta rất nhiều châu báu, lại phong làm quan. Nhưng những cận thần hầu vua lâu năm rất ghét anh ta. Một hôm, có một đại thần đến thưa:
- Tâu bệ hạ! Gần đây có một con thú dữ, thường đến xóm làng phá hại dân lành. Xin bệ hạ hãy cử sứ giả nước ngoài đến giết thú dữ là hợp lý nhất. Thần không biết ý của ngài như thế nào?
Vua nói:
- Rất tốt! Trẫm đồng ý!
Do đó, nhà vua cử sứ giả này đi vào rừng sâu trừ diệt thú dữ. Anh ta vừa đi vào rừng thì con thú dữ xuất hiện. Anh ta sợ quá vội leo tuốt lên ngọn cây, con thú ngẩng đầu lên há miệng gầm vang khu rừng. Anh ta quá sợ hãi run cầm cập, kiếm đeo bên hông bỗng rớt xuống trúng ngay miệng con thú, nó đau đớn lăn lộn gầm rú một hồi rồi chết.
Sứ giả này lại lập công lớn được nhà vua ban thưởng, vinh quang trở về nước.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này, sứ giả trải qua hai sự cố lại hợp tình hợp lý. Chúng ta cũng có thể nói người trung hậu hiền lành, nhất định chuyển họa thành phúc. Họa phúc ở thế gian theo nhau, trong họa có phúc, trong phúc cũng có họa. Người tâm ngay thẳng có thể chuyển họa thành phúc. Kẻ gian xảo biết có chuyển được họa thành phúc không?
Chuyện 66
Đơm hoa mà không kết trái
Lời dẫn: Người nói lý luận mà không có kinh nghiệm thực tế thì giống như biết mà không thực hành. Người thích nói những lời đường mật mà tâm không chân thật thì khác nào chỉ có lý luận cao thượng mà nhân cách thì thấp hèn. Như cây đơm hoa mà không kết trái, chỉ để ngắm nhìn mà thôi, chẳng có ích lợi thật sự.
Tục Ngữ có câu: “Nói được mà làm không được, dễ đọa mười tám tầng địa ngục”. Người chỉ biết nói mà không chịu thực hành, chỉ có lý luận suông mà không hành động thực tế thì giống như “bàn việc binh trên giấy”. Có người thuyết pháp hùng hồn lôi cuốn mọi người, nhưng bản thân không chịu tu hành. Người có trí huệ mà không có định lực, khi gặp tài sắc rất dễ đắm nhiễm. Vì thế, Đức Phật dạy: “Người có trí mà không có định dễ sa đọa; người có định mà không có trí chỉ tăng trưởng tà kiến”. Người có thực hành tinh tiến tu tập mới có định lực; có văn, tư, tu tăng trưởng trí huệ. Chúng ta có thể thấy trí huệ và thực hành là việc cần nên làm.
Ngày xưa, có một người chuyên nghiên cứu về đi biển. Nếu như giảng nói về việc đi trên biển thì hắn nói rõ tường tận “khi gặp gió lớn phải lái thuyền đi như thế nào; gặp nước chảy xiết phải lái thuyền làm sao; khi thuyền cập bến; hoặc thuyền chạy ngược dòng phải ứng phó như thế nào v.v…hắn đều thuộc làu, nói thao thao bất tuyệt” giống như thủy thủ lái tài vĩ đại, làm cho mọi người vô cùng khâm phục.
Gặp việc đúng lúc, khi các thủy thủ ra biển chưa được một tháng thì thủy thủ lái tàu ngã bệnh, bệnh càng ngày càng nặng, cuối cùng anh ta vĩnh viễn ra đi. Vị thuyền trưởng nhìn biển cả mênh mông, chỉ trong thời gian ngắn mất đi thủy thủ lái tàu, mọi người đều buồn lo nhưng không dám nói ra. Lúc đó, gã chuyên nghiên cứu đi biển hùng hồn nói với các thủy thủ:
- Các anh đừng sợ có tôi đây, tôi sẽ lái tàu bảo đảm an toàn.
Mọi người không còn cách nào khác, đành phải giao buồng lái cho hắn điều khiển.
Lúc này, hắn gánh trách nhiệm nặng nề, biết bao mạng người nằm trong tay hắn. Hắn ngồi chễm chệ trong buồng lái ra vẻ ta đây tài giỏi, cũng lái tàu chạy bên này, quẹo bên kia. Tàu chạy được một đoạn thì bị chòng chành, dường như hắn cũng chưa quen điều khiển. Khi tàu sắp cập bến, hắn không phanh tàu dừng lại được, lại chạy thẳng ra ngoài khơi, lao vào đá ngầm. Kết quả, thuyền bị vỡ tan tành, chìm xuống đáy biển, mọi người trên thuyền không còn ai sống sót.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Khổng Tử nói: “Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết”. Không nên mình không biết mà cố cho mình biết. Người thông minh lại bị sai lầm của sự thông minh. Ngược lại chúng ta làm việc biết một phần làm một phần, biết hai phần làm hai phần, mới là người làm giỏi và cũng làm người thành công. Người không biết mà cố nói biết; hoặc không biết rõ sự việc mà cố nói biết; chẳng những tự mình làm sai mà mọi người làm theo cũng sai. Đó là một thằng mù dắt nhiều thằng đui; hay thích làm thầy mọi người; hoặc tự cho mình thông minh, đều là hại mình hại người.
Phật pháp là biết, hiểu và thực hành. Có người chỉ đọc vài quyển kinh, liền đi khoe khoang khoác lác, ta đây hoằng dương giáo pháp, chuyển đại pháp luân, được cảm ứng hoa trời rơi xuống lả tả. Nhưng phương diện tu trì, đức hạnh lại rỗng tuếch. Họ dạy mọi người tinh tiến tu hành mà bản thân mình không chịu tu; dạy người bố thí làm phúc đức mà tự mình lại chạy theo danh lợi, tài sắc càng nhiều càng tốt; đạo đức tu hành chẳng dính chút nào. Họ đem Phật pháp làm hàng hóa kinh doanh mua bán. Than ôi! Buồn thay, đời mạt pháp!
Ngoại đạo nhìn thấy Phật pháp thù thắng, có nhiều tín đồ như thế, nên muốn hưởng ké. Họ học lén nghi thức của Phật pháp để ứng dụng; hoặc đem giáo lý của Phật pháp chỉnh sửa lại rồi nói đây là Phật pháp kiểu mới, hay hơn kiểu cũ; lại cũng là tinh yếu trong Phật pháp, chân lý bí quyết, cơ trời, trời ban. Bọn chúng tha hồ thổi phồng, tất nhiên có quảng cáo thì có người mua, phải không?
Kỳ thực, bọn chúng làm đảo lộn Phật pháp, khiến cho mọi người cho rằng Phật pháp bị xen tạp không thanh tịnh, chân chính. Nếu như người hiểu biết không chính xác, tin theo không đúng thì không có mục tiêu phương hướng đúng đắn, tương lai không có chỗ trở về thực sự, mới là điều oan uổng rất lớn.
Học Phật pháp quý ở sự tu hành, có giới, định, huệ. Nhưng có người chỉ cần biết nghi thức Phật pháp để tụng tán kiếm tiền là được rồi. Có người nương theo Phật pháp để thu hút tín đồ cho đông, chẳng những bản thân mình không chịu tu hành mà không biết dạy mọi người tu hành như thế nào, chỉ cần làm nổi bật bề ngoài là được. Có người chỉ cần ở trước tượng Phật lạy lục cầu khẩn, tín đồ đến lạy theo là được; những điều này, đều là đơm hoa mà không kết trái. Vì thế, muôn sự ở thế gian, cần phải có lý luận, có thực nghiệm, có đơm hoa, có kết trái, mới có lợi ích thật sự.
Chuyện 67
Vợ chồng giành ăn
Lời dẫn: “Con người là tối linh trong muôn vật” nên phải có lý trí, có lương tâm mới đúng. Nhưng có lúc, họ vì một mục đích nào đó mà đánh mất lý trí, lương tâm là chuyện thường xảy ra. Trong lịch sử, Trụ Vương sủng ái Đát Kỉ; Lệ Vương sủng ái Muội Hỉ mà chém giết rất nhiều trung thần; cuối cùng giang sơn cũng mất. Vì sao? Họ không có lý trí? Hay không có lương tâm? Xưa nay, bọn gian thần mưu mô xảo quyệt, tham ô, lừa đảo mọi người. Bọn chúng có lý trí và lương tâm không? Đều là hồ đồ nhất thời, sa đọa vạn kiếp không thể vươn lên.
Có người vì việc lớn, hay vì tương lai của mình mà giả điên giả khờ. Như Tôn Tẫn ở thời đại chiến quốc vì để giữ toàn sinh mạng mà giả điên ăn phân, mới thoát khỏi bàn tay hiểm độc của Bàng Quyên; cuối cùng Tôn Tẫn cũng thành tựu chí lớn. Chúng ta xem diễn viên trên truyền hình đóng phim hay kịch nói. Có lúc họ giả cười, giả khóc, giả điên ngây dại như thật, nên mới thu hút nhiều khán giả hâm mộ đều là gì?
Ngày xưa có cặp vợ chồng nọ rất ham ăn. Một hôm, bà hàng xóm đi chợ mua thức ăn, sẵn dịp bà mua luôn một bao bánh, gặp vợ chồng này bà cho họ ba cái. Vợ chồng chia mỗi người ăn một cái, còn lại một cái, vợ muốn cầm lên ăn nhưng chồng bảo:
- Ta là chồng của nàng, là trụ cột trong gia đình nên ta đáng ăn cái bánh này.
Do đó, gã chồng định cầm bánh lên ăn. Mụ vợ liền ngăn lại:
- Đàn ông các anh thường bù khú bên ngoài nhậu nhẹt ăn uống, nên cái bánh này phải nhường cho thiếp.
- Làm phận đàn bà phải biết tam tòng tứ đức[4] bất cứ việc gì đều phải nhường cho chồng, mới là vợ hiền; nàng hãy nhường cho ta ăn cái bánh này.
- Chàng làm chồng phải biết thương yêu vợ, phải quí thân liễu tay yếu chân mềm, mới là người chồng tốt; cho nên, chàng để thiếp ăn cái bánh này.
- Chỉ một cái bánh mà chúng ta tranh cãi hoài, cũng chẳng giải quyết được gì, chi bằng chúng ta thi cá độ một lần nàng bằng lòng không?
- Thi cá độ là như thế nào?
- Chúng ta hãy đặt cái bánh ở giữa, ta ngồi một bên, nàng ngồi một bên, không được cựa quậy, cũng không được nói. Người nào động đậy hay nói trước là thua, người thắng được ăn bánh. Như thế có được không?
- Được! Lời nói như đinh đóng cột nhé!
Do đó, hai vợ chồng ngồi im từ sáng đến tối vẫn không ăn uống, cũng không đi đại tiểu tiện. Lúc đó, có tên trộm đi ngang qua, nhìn thấy vợ chồng ngồi cứng đơ một chỗ, liền lén vào nhà trộm đồ.
Cả vợ chồng đều thấy tên trộm vào, nhưng vì thi cá độ ăn bánh nên ai cũng giả như không thấy, cũng không hỏi không nghe. Tên trộm lấy hết đồ đạc, của cải trong nhà bỏ vô bao, hắn lặng lẽ đi ra, cả hai đều thấy. Lúc này, mụ vợ nhịn không được, quát to lên:
- Thằng chó chết! Đồ đạc trong nhà của chúng ta để tên trộm lấy đi hết mà còn ngồi lì ra đó, mau chạy ra bắt tên trộm đi!
Chồng vui mừng reo lên:
- Hay quá! Ta thắng rồi!
Gã chẳng đếm xỉa đến chuyện bắt tên trộm, chỉ lo đưa bánh vào miệng nhai, còn vênh váo hét to:
- Ta thắng rồi! Ta thắng rồi!
Bài học đạo lý
Vợ chồng này thắng cái gì? Chỉ thắng được một cái bánh mà của cải trong nhà bị tên trộm vơ vét sạch. Thế gian có người nào ngu xuẩn như thế không? Đây chẳng qua là câu chuyện thí dụ. Dụ cho mọi người ở đời, hàng ngày luôn bận rộn tính toán tranh giành. Vì cái gì? Vì ăn ba bữa? Hay gom góp của cải? Địa vị danh vọng, giàu sang? Những thứ này đều như mộng huyễn, bọt nước; giống như một cái bánh mà thôi. Nhân cách, đạo đức và trí huệ của mỗi người là tài sản vô lượng. Con người chỉ tính toán tài sản mộng huyễn hữu hình, đánh mất tài sản vô hình mà chẳng biết.
Thực sự, thân này phải cần cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, phương tiện đi lại. Gia đình quyến thuộc cũng phải cần vàng bạc, của cải để phòng thân. Chúng ta có tài sản hữu hình để tha hồ hưởng thụ ngay hiện tại. Nhưng tài sản vô hình là nhân cách, đạo đức, huệ mạng không nhìn thấy được, sờ không được; cuối cùng có sử dụng được nó không, vẫn không biết. Vậy cần gì bỏ gần tìm xa, để tìm tương lai mờ mịt như thế?
Đây là vấn đề tín ngưỡng, vấn đề trí huệ, cũng là vấn đề tầm nhìn xa rộng. Người có nhân cách, có đạo đức, có trí huệ thì mới có thể hưởng thật sự, không cần cầu vào tương lai; tương lai lại càng hưởng mãi không hết cũng là sự thật. Nếu là người thông minh thì tự mình có thể suy xét, tự mình chọn lựa tiền đồ cho chính mình, chọn đúng thì tương lai hưởng mãi không hết. Nếu chúng ta chọn sai thì đau khổ vô cùng. Câu chuyện này cho chúng ta một bài học sâu sắc.
Chuyện 68
Hận thù khó quên
Lời dẫn: Bậc cổ đức dạy: “Giết địch một vạn, ta mất ba nghìn”, đây là nói về thắng lợi. Nếu như binh lực ta và địch ngang nhau có thể cuộc chiến bất phân thắng bại. Còn binh lực của ta yếu hơn không bằng đối phương thì cũng có thể tất cả quân ta đều bị tiêu diệt, hận thù cũng như thế. Khi chúng ta nổi tức giận, giống như đao nhọn đâm vào mình, như ngọn lửa đang thiêu đốt thân ta. Lúc đó, chúng ta tự hạ thấp đạo đức và nhân cách của mình, cũng đánh mất lý trí. Làm sao làm được việc tốt? Hậu quả sự việc lại như thế nào? Nếu như chúng ta bình tĩnh suy xét sự việc lại lần nữa thì có thể thắng lợi. Tự mình trả giá bao nhiêu? Bị tổn hại bao nhiêu?
Ai mà không quý trọng bản thân mình, nhưng khi ma vương sân hận nổi lên chiếm trọn trong lòng chúng ta thì bất chấp tất cả, làm những việc điên cuồng mà tự mình không muốn, tự hại mình và hại người. Kết quả là kết oán thù nhiều đời nhiều kiếp trong tương lai mà chúng ta không biết được. Nó khiến chúng ta tính toán tranh đoạt, nó bảo chúng ta tạo các ác nghiệp, chúng ta bị nó lừa gạt lại không biết quay đầu, còn tự cho là trời sinh tự nhiên phải không?
Ngày xưa có anh A. Một hôm trong buổi đãi tiệc, anh bị một đại thần hủy nhục ngay tại chỗ làm cho anh không chịu được. Hắn khinh khi nói:
- Hôm nay, khách của ta đến đều là những người có địa vị uy tín và biết lịch sự, lễ phép. Chỉ có những kẻ thấp hèn không biết lễ phép, lịch sự không mời mà đến ngồi trong bữa tiệc như thế này; quả thật làm cho chúng ta vô cùng xấu hổ. Kẻ thấp hèn này lại ngồi đối diện với ta, làm cho ta nôn mửa, ăn không vô. Các bạn thấy có xui xẻo không? Ha ha…
Anh giận run lên quát:
- Mày hơn tao được bao nhiêu? Chẳng qua mày được làm quan đương triều, giàu có ở vùng này, nên tỏ ra ta đây chứ gì?
- Mày ở đây mà không phục tao phải không? Không phục thì hãy nếm quả đấm của ông đây!
Do đó, anh A vô duyên vô cớ bị đánh một trận. Anh ta hét lên:
- Mối hận này ta không bao giờ quên.
Vì thế, trải qua hơn mười mấy năm anh ta ăn không ngon, ngủ không yên giấc luôn nghĩ đến mối hận, nhưng chưa tìm được cơ hội báo thù; cho nên, anh ta đau khổ suốt mười mấy năm, lại bị lửa sân hận thiêu đốt ngần ấy thời gian.
Một hôm, tình cờ anh gặp người bạn hỏi:
- Anh A sao thế? Tôi nhìn thấy sắc mặt anh sầu khổ suốt ngày. Anh có tâm sự gì không? Nếu có tâm sự nói ra thử xem, không chừng tôi nghĩ cách giúp được anh đó.
Anh ta được dịp trút hết nỗi oán hờn, ôm hận suốt mười mấy năm; anh ta kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người bạn nghe. Người bạn hỏi:
- Vậy anh muốn trả thù phải không?
Anh A đáp:
- Đúng thế! Suốt mười mấy năm, tôi luôn nhớ đến mối thù này. Anh có cách nào giúp tôi không?
- Có rồi, nhưng anh cũng phải trả giá rất đắt.
Người bạn ấp úng không dám nói ra. Anh A hối thúc:
- Anh cứ nói ra đi, cho dù trả giá như thế nào tôi cũng bằng lòng.
Người bạn nói:
- Có một loại ma chú, gọi là chú Tì-đà-la, uy lực rất mạnh, có thể hại được kẻ khác. Khi anh trì chú, tuy hại được đối phương nhưng đồng thời cũng hại chính mình. Anh hãy suy nghĩ kĩ có nên đem đau khổ của mình để hại kẻ thù; hoặc đem sinh mạng của mình để hại sinh mạng đối phương.
- Bất cứ giá nào tôi cũng phải trả thù, tôi bằng lòng làm thử việc này.
Do đó, anh ta trì chú Tì-đà-la để trả thù đối phương cũng là hại mình. Kết quả, hai bên cùng chết, tâm sân hận hại người thật là khó trừ.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Tất cả chúng sinh đều có tâm sân hận, sai khác nhau là nhiều hay ít. Khi sân hận nổi lên, chúng ta quên mất chính mình, đánh mất lý trí. Lúc này, nếu như chúng ta suy nghĩ lại: “Ta có làm điều gì sai không? Hay là do người đó. Vì sao họ đối xử với ta như thế? Chúng ta bình suy nghĩ kĩ, then chốt vấn đề ở đâu? Thiên hạ không có việc gì mà không giải quyết được”.
Chỉ có người đánh mất lý trí; hoặc thích làm theo ý của mình thì mới xảy ra tranh cãi không thể hòa giải được, nên cả hai đều thiệt hại. Chúng tôi nói xa hơn một chút, sẽ kết oán thù nhiều đời nhiều kiếp, cũng chỉ vì việc rất nhỏ mà dẫn đến. Như thế, người đời sân hận, chẳng phải giống như chú Tì-đà-la? Cho dù bạn thắng cũng tốt, thua cũng được, nhưng đều phải trả giá rất đắt. Tại sao chúng ta cứ sân hận? Làm thế nào có thể tiêu diệt được sân hận?
Đức Phật dạy: “Một niệm sân hận khởi, liền mở tám vạn cửa chướng ngại”. Cho dù người có lý trí, có thông minh, có học vấn; nhưng khi sân hận bốc lên thì lý trí bị che lấp làm việc không theo đạo lý, cũng không nghĩ đến hậu quả, dẫn đến làm những việc bất trung, bất nghĩa, bất hiếu. Nếu như người nào luôn ôm mối hận thù thì hàng ngày có ăn sơn hào hải vị cũng chẳng thấy ngon. Còn người tâm an lạc, cho dù ở rừng sâu núi thẳm, ăn uống đạm bạc mà vẫn sống vui vẻ. Vì sao? Vì họ không có phiền não khổ đau, không có sân hận. Vì thế, mọi người không có sân hận là đời sống thanh nhàn. Kẻ ôm sân hận thì tâm luôn đau khổ.
Chúng ta làm thế nào diệt trừ được tâm sân hận? Chúng ta vừa hiểu rõ nguồn gốc tâm sân hận, từ nhân đến quả và quan hệ lợi hại của nó; vừa nỗ lực hành trì Phật pháp thì mới có thể hàng phục được ma vương này.
Chuyện 69
Tính xấu khó sửa
Lời dẫn: Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán. Mỗi người cũng có tính tình và thói quen của mình. Thói quen tốt đương nhiên chúng ta phải giữ gìn; thói quen xấu tất nhiên chúng ta phải sửa đổi thì con người mới có tiến bộ. Nhưng có người cố chấp tính tốt không chịu giữ mà ôm tính xấu ngày càng bành trướng ra. Điều bất chính là nhược điểm rất lớn của nhân loại.
Thuở xưa, có một gã thanh niên nhờ cần cù làm việc, sống tiết kiệm trở nên khá giả. Nếu như hắn tiếp tục siêng năng làm việc như thế thì nhất định sẽ giàu nứt đố đổ vách. Nhưng con người có nhược điểm “Ăn no nghĩ đến chuyện sinh hoạt tình dục”. Nếu như hắn lập gia đình chí thú làm ăn thì chẳng có chuyện gì để nói. Nhưng tính xấu của con người, đường thẳng không chịu đi lại vào đường gập ghềnh quanh co. Con người khi nghèo thiếu thì lo phấn đấu làm việc tìm cơm ăn, áo mặc, nhà ở; khi cuộc sống đầy đủ, sinh ra cờ bạc, nhậu nhẹt bê tha. Chúng ta học điều tốt thì rất khó, nhưng học theo thói hư tật xấu lại rất dễ dàng. Nếu cứ sống buông thả theo thói quen, nhiễm lâu ngày thật khó bỏ.
Gã thanh niên này, không chỉ biết nhậu nhẹt bê tha mà tất cả thói hư tật xấu của con người hắn đều có đủ, như việc làm thì tự tư tự lợi chỉ biết bản thân mình, một chút cảm thông với mọi người cũng chẳng có, muốn bóc lột mọi người để mình được lợi, dễ nổi giận, tính tình nhỏ mọn, không biết phải trái, thường tranh cãi với mọi người. Nói tóm lại, tất cả thói xấu ở đời, hắn đều hội đủ. Đây là bản tính tự nhiên, hay là thói quen? Là do tiêm nhiễm từ đời này, hay do tích tập từ đời trước?
Bài học đạo lý
Người Trung Quốc có rất nhiều truyền thống phong tục tập quán, như việc tang, cưới đều có những điều kiêng kị và nghi lễ. Việc cưới vợ gả chồng phải chọn ngày lành tháng tốt, phải nói điều tốt đẹp, kị nói những điều không hay, phải lấy cành trúc buộc lại để cúng tế, treo một miếng thịt heo cúng cọp trắng, dùng mộc bát quái để cúng tế, lấy vải lụa màu hồng cột xe hoa, bên cửa treo một củ cải; biểu thị màu sắc đẹp v.v…Đều là truyền thống tập quán, làm như thế thì vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc; còn ngược lại là bị xung khắc.
Việc tang cũng có rất nhiều điều kiêng kỵ và nghi lễ. Trước tiên phải chọn ngày, giờ nào có thể nhập liệm, di quan, đưa đám, cúng bảy thất, cúng một trăm ngày, cúng lễ tiểu tường và đại tường, mua nước tắm thân thể, phải đốt vàng mã liên tục, thắp đèn sáng suốt ngày đêm. Khi di quan con cháu phải quỳ trước nhà, mời người bên ngoài đến đóng đinh, con cháu phải lạy đầu heo. Lúc đưa quan tài đi, trên đường rải tiền giấy giả liên tục, cầm ngọn đuốc cháy sáng. Cúng sơ thất là bảy người nam, cúng thất thứ ba là bảy người nữ, cúng thất thứ năm là bảy đứa cháu. Con trai thì mặc đồ vải sô, con gái thì bịt khăn tang, vẫn để kho tiền, đập bồn máu, phá địa ngục v.v…Con gái phải khóc lóc, kể lể. Khi ăn phải đứng, trong một trăm ngày không được cắt tóc, không được mặc y phục màu đỏ, xanh v.v…nghi thức rất nhiều. Tục Ngữ có câu: “Không thêm lệ mới, không bỏ lệ cũ”. Vì thế, không có người nào dám sửa đổi những nghi thức này.
Đi xa, xây nhà cửa, đặt đòn dông, về nhà mới, tổ chức sinh nhật đều phải chọn ngày, lại phải đãi mời khách. Cưới vợ, gả chồng, cúng đầy tháng cho con, việc tang, đi xa trở về, chúc thọ cha mẹ v.v…đều phải mời đãi khách.
Thời xưa, xã hội nông nghiệp có thể nói mọi việc đều dựa vào thần ban phúc, cũng lễ lạy, hay cúng thức ăn ngon. Nhiều lần, có kẻ ỷ vào thần gây họa, kiếm tiền nhưng dùng đãi khách. Tục Ngữ có câu: “Đạo lý đối nhân xử thế, giúp đỡ người chu đáo, cho cơm ăn áo mặc đầy đủ.” Như thế, lạy thần là lạy đến cùng. Đây là thói quen tốt hay thói quen xấu? Người ỷ có tiền giao tiếp bạn bè rộng rãi, kẻ không tiền thì thảm hại.
Muôn sự ở đời đều dựa vào lý trí mà chọn lựa tà chính, không thể theo phong tục tập quán từ xưa mà không thể sửa đổi. Sửa đổi tính xấu làm cho con người tiến bộ, thói xấu là mê tín của con người. Chẳng những người Trung Quốc có mê tín mà người nước ngoài cũng có nhiều thói xấu và mê tín. Nếu như thời đại khoa học kĩ thuật, người đời sau phổ biến học thuyết của người đời trước là tiến bộ, nhưng luôn y theo tập tục mê tín, không thể sửa đổi. Vì sao? Đây là vấn đề chúng ta cần tìm hiểu.
Chuyện 70
Nếm thử hết trái cây
Lời dẫn: Nước biển tuy mênh mông, nhưng chúng ta chỉ nếm một giọt là biết vị mặn của nước biển. Mọi người đều có tay, chân, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cùng giống nhau. Đất, nước, gió, lửa khắp thế giới này cũng không khác nhau; mặc dù nó có thay đổi hình dáng, nhưng bản chất của nó vẫn như vậy. Trăng sáng ở nước ngoài cũng không thể tròn hơn và sáng hơn ở nơi đây. Mỗi đồ vật vì thời gian và nơi chốn không giống nhau, nên có khác đôi chút, nhưng bản chất của nó cũng giống như vậy.
Có người nghe một biết mười. Có người nghe một biết hai. Có người vừa nghe qua liền giác ngộ. Nhưng có người chỉ nói một câu giảng đi giảng lại nhiều lần mà vẫn không hiểu. Có người mới thấy biết liền. Có người thấy nghe nhiều lần vẫn không biết. Con người giống nhau, nhưng vì sao sự hiểu biết khác nhau rất lớn như thế. Có người nói là trời sinh tự nhiên. Có người nói số phận như thế. Đức Phật dạy đều có nhân duyên đời trước.
Ngày xưa, có một trưởng rất giàu, thường ngày ông rất thích ăn trái cây. Có một vườn trái cây cách nhà ông không xa, nên ông thường sai người đến đó mua về. Một hôm, ông gọi người hầu mới đến đi mua trái cây. Ông dặn:
- Con hãy lựa những trái chín thơn ngọt, đừng lấy những trái sống chua chát.
Tên hầu ngoan ngoãn đáp:
- Thưa ông chủ! Nhất định con sẽ mua những trái chín thơm ngọt về cho ông.
Tên hầu đến vườn trái cây, liền hỏi chủ vườn:
- Ông ơi! Trái cây ở đây có chín thơm ngọt không?
Chủ vườn đáp:
- Đúng thế! Ở đây chúng tôi bán trái cây đều chín thơm ngọt.
- Ông vui lòng cho tôi nếm thử được không?
- Được! Xin mời anh!
Thế là, tên hầu hái xuống, cắn nếm hết trái này đến trái khác. Kết quả, một đống trái cây, hắn hái xuống đều cắn nếm thử hết. Nếu như hắn nếm thử một, hai trái thì chủ vườn sẽ không tính. Nhưng hắn cắn nếm thử hết một đống trái cây, nên chủ vườn bắt hắn mua hết. Vì thế, hắn mua hết chở về nhà.
Khi hắn về đến nhà, trưởng giả thấy đống trái cây đều cắn qua hết, liền hỏi:
- Việc này là thế nào?
Hắn trả lời:
- Thưa ông chủ! Chẳng phải ông đã dặn con mua tất cả trái cây chín thơm ngọt?
- Đúng vậy!
- Vì thế, mỗi trái con đều cắn nếm thử, bảo đảm với ông đều thơm ngọt tuyệt vời.
- Trái cây mà ngươi đem cắn hết, làm sao ăn được?
- Con không cắn làm sao biết được nó thơm ngọt.
Trưởng giả tức giận đùng đùng nhưng không nói được, ông cũng không biết xử lý đống trái cây này như thế nào cho ổn thỏa, đành sai người ném hết vào đống rác.
Bài học đạo lý
Con người sinh ra ở đời đều có kiến thức, tư tưởng đều không giống nhau. Người có kiến thức nghe một biết mười, xử lý sự việc đều rõ ràng hợp tình hợp lý, bất cứ việc gì cũng làm cho mọi người hài lòng. Kẻ ngu nói đông hiểu tây, bảo đi phía nam, lại khư khư đi về hướng bắc. Bất cứ việc gì cũng làm theo tư tưởng và cách nhìn của họ, không chịu nghe theo ý kiến của người khác, vừa ngu si, vừa cố chấp. Hạng người này khó mà thành công được. Có ai dám nhắc nhở họ không?
Mỗi người đều có cá tính của riêng mình, nhưng có tà, có chánh. Mỗi người đều có lý luận của mình, nhưng có lý luận chính đáng và không chính đáng, có đúng và không đúng. Có ai cam đảm thừa nhận mình sai? Ngày xưa, các bậc Thánh hiền xuất thế; tư tưởng và cách nhìn của các ngài làm tấm gương cho chúng ta noi theo. Đức Phật thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm để lại tam tạng kinh điển, chúng ta theo đó làm người, làm việc, tu tâm, tu hành. Nếu chúng ta không theo kinh thì như thế nào?
Đức Phật dạy: “Muôn sự muôn vật ở thế gian, có nhân ắt có quả”. Kẻ không sợ nhân quả thì chúng ta phải làm thế nào? Chỉ có tự mình gây nhân thì tự mình chuốc quả. Nếu họ cố tình chống lại pháp thì làm sao? Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Vì Phật tính của họ bị mê muội nên để năm dục tài, sắc, danh, thực, thùy quấy nhiễu. Hoặc trí thức của họ bị mê muội sai khiến.
Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, bị luân hồi trong sáu đường từng nếm mùi đau khổ, hạnh phúc. Làm người sống ở thế gian suốt mấy mươi năm ai mà không nếm mùi đắng cay cuộc đời, không biết họ có khả năng giác ngộ “thấy khổ sinh tử mà phát tâm Bồ-đề” không? Hàng phàm phu chúng ta ở trong sáu đường luân hồi, không biết khi nào mới thoát khỏi sinh tử?
Chỉ có người học Phật mới giác ngộ “thấy khổ sinh tử mà phát tâm Bồ-đề” thì mới có thể lợi mình, lợi người, tự mình giác ngộ, dạy người khác giác ngộ. Người chưa giác ngộ, dù họ có nếm nhiều mùi khổ vui trong sáu đường luân hồi thì giống như gã khờ trong câu chuyện nếm hết trái cây, có chỉ bày cho nó biết cũng uổng công thôi. Người có trí huệ thì nếm quả an vui. Kẻ ngu si thì nếm quả khổ. Chúng ta phải chọn lựa một con đường phải không?
Chuyện 71
Hai bên làm khó
Lời dẫn: Mọi người ở đời luôn hám của rẻ, nên thường bị lỗ. Chúng tôi nói cách khác, người chịu thiệt thòi vì thường hám của rẻ; đây là nhân quả tuần hoàn. Chúng ta thân cận thiện tri thức đều là những người hiểu biết dạy chúng ta giữ đạo đức, nhân nghĩa, tu tâm dưỡng tính; nhìn hiện tại chúng ta có thiệt thòi, nhưng về sau được quả báo tốt đẹp. Nếu thân cận ác tri thức đều dạy chúng ta những hành vi xấu cờ bạc, nhậu nhẹt, nhìn theo hiện tại làm cho chúng ta ăn chơi sung sướng, nhưng quả báo tương lai sẽ chịu đau khổ. Chúng ta nên thân cận thiện tri thức? Hay thân cận bạn bè cờ bạc, nhậu nhẹt?
Ngày xưa có một ông chồng cưới hai bà vợ. Tục Ngữ có câu: “Nếu như trong nhà lục đục, vì cưới thêm vợ nhỏ”, chẳng sai tí nào. Bởi vì, phần đông phụ nữ đều có tính ích kỷ hẹp hòi, lại nổi máu Hoạn Thư rất dữ dằn; đặc biệt là chồng mình ai cũng muốn chiếm làm sở hữu. Vậy khi chồng cưới thêm vợ nhỏ thì làm sao họ ăn ngon ngủ yên được?
Nhưng ông chồng này có tính nhẫn nại rất giỏi, thường xử sự khéo léo, lo chu đáo cho hai bà vợ, khuyên bà này, an ủi bà kia. Nhưng hai bà vẫn không thông cảm cho ông.
Nếu như hôm nay, ông gần gũi bà lớn thì bị bà nhỏ hờn dỗi nói:
- Chàng là kẻ vô tình vô nghĩa, nếu chàng không yêu thiếp thì đừng cưới. Cưới về lại bỏ rơi thiếp, thật là người vô lương tâm; chúng ta chia tay nhau.
Thế là, ả than khóc ầm ĩ, đòi chia tay. Ông chồng vội an ủi:
- Chẳng phải ta yêu nàng nhất trên đời đó sao? Ta làm điều gì nàng không hài lòng?
Vợ nhỏ ấm ức nói:
- Vợ lớn mới là người chàng yêu nhất, thiếp có gì đâu mà chàng thương.
- Ôi! Té ra nàng đang ghen. Được rồi, được rồi! Người ta yêu chính là nàng.
Ông vừa an ủi bà nhỏ xong. Bà lớn ở bên lại trách:
- Chàng có vợ nhỏ không đoái hoài đến thiếp nữa phải không? Nhớ lại ngày xưa, chúng ta cùng nhau chịu cực khổ, ra sức gầy dựng cơ nghiệp, mới thành tựu cơ ngơi này. Ngày nay, chàng có tiền rủng rỉnh trong túi, đi cưới vợ nhỏ. Qua cầu rút ván phải không?
Ông chồng khổ sở nói:
- Nàng đừng nói thế! Không phải ta rất yêu nàng đó sao?
- Ai mà thèm yêu chàng!
Ông ta vỗ về bà này, bà kia tức giận, dỗ dành bà nọ, bà kia nổi tam bành. Thật là hai bà làm khổ một ông.
Ông gần gũi bà lớn thì bà nhỏ hờn giận, âu yếm với bà nhỏ thì bà lớn nổi máu Hoạn Thư. Một hôm, trong lúc ăn cơm. Bà lớn nói:
- Chàng là kẻ vong ân bội nghĩa, lúc đầu theo đuổi thiếp chàng thề thốt những điều gì. Chàng nói trọn đời chỉ yêu mình thiếp, thiếp mới một lòng chung thủy yêu chàng, không quản cực khổ, ra sức làm việc cùng chàng xây dựng vun bén gia đình ấm êm hạnh phúc. Nay chàng giàu sang, chẳng cần thiếp nữa phải không? Mọi việc đều do con hồ ly tinh này mê hoặc, chàng mới đánh mất lương tâm như vậy.
Vợ nhỏ quát ầm lên:
- Ai là con hồ ly tinh? Bà ăn nói cẩn thận một chút, bằng không con này không khách sáo đâu nhé!
- Không khách sáo gì? Muốn đánh nhau phải không? Đến đây! Mày không dám đến là con điếm giựt chồng bà.
- Có gì mà sợ chứ! Bà xem đây!
Vợ nhỏ lao vào cấu xé bà lớn. Ông chồng đứng ở giữa không biết xử sự như thế nào, can bà lớn cũng không được, bỏ bà nhỏ cũng không xong. Ông kéo bà lớn ra thì bà nói:
- Ông muốn bên vực con hồ ly này phải không?
Ông kéo bà nhỏ cũng la quát:
- Này! Ông muốn bên bà già này đánh tôi phải không?
Thế là, xảy ra cuộc chiến ẩu đả loạn xạ, bà nhỏ lao tới đánh ông chồng, ông chồng với bà lớn đánh bà nhỏ; một lúc sau, ông với bà nhỏ đánh bà lớn. Thật khó phân biệt ai ta, ai địch; cuộc chiến bất phân thắng bại. Đúng là hai bà làm khổ một ông.
Bài học đạo lý
Đàn ông vốn có tính tham nên ai cũng muốn đời sống vật chất sung túc đầy đủ, và nhiều vợ. Bậc Cổ đức dạy: “Con người khi no ấm thì nghĩ đến chuyện sinh hoạt tình dục”. Đây là căn tính thấp hèn của con người. Trừ phi mọi người đều là thần thánh thì thế gian không còn chuyện thị phi. Lúc chưa có cơm ăn, áo mặc, nhà ở phương tiện đi lại, tài sắc, danh lợi thì bôn ba xuôi ngược, tính toán tranh giành, phải được nó cho bằng được. Đến khi có rồi, muốn chiếm hữu nó, muốn giữ cất nó, có nó mãi mãi. Do đó, mới có chuyện phải trái và đau khổ.
Thiên hạ có rất nhiều chuyện mâu thuẫn yêu-hận, thích thú-nhàm chán, hạnh phúc-khổ đau, thương-ghét, thiện-ác, thị-phi, chính-tà, thật-giả, bỏ-lấy, nắm giữ-buông xả v.v…quả thật là hai bên làm khó. Cho nên, chúng ta phải học trí huệ của Phật “Kiếm trí huệ chặt đứt phiền não”. Thì liền giải thoát.
Chuyện 72
Che giấu sai lầm
Lời dẫn: Có người làm được một chút công lao, hay làm được chút việc tốt thì luôn thích khoe khoang với mọi người, lại sợ thiên hạ không biết; còn như họ phạm lầm lỗi, hoặc có khiếm khuyết thì rất sợ mọi người biết được, nên cố che giấu. Bậc Cổ đức dạy: “Nếu muốn người không biết, trừ phi mình đừng làm”. Nếu chúng ta muốn mọi người không biết lỗi của mình, trừ phi tự mình đừng làm. Bằng không thì cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, sớm muộn gì mọi người cũng biết. Chúng ta che giấu chỉ nhất thời, không thể che giấu lâu được. Người ngay thẳng chân thật mới là chính nhân quân tử. Kẻ thích che giấu lỗi lầm là kẻ tiểu nhân.
Ngày xưa, có một đôi vợ chồng trẻ. Một hôm, vợ muốn trở về nhà mẹ đẻ, nên rủ chồng cùng đi. Vợ nói:
- Chàng ơi! Lần này chúng mình về thăm quê, chàng nhớ lịch sự, lễ phép nhã nhặn với cha mẹ, bà con, bạn bè; không được nói năng cộc lốc, làm mất mặt thiếp nhé!
Chồng đáp:
- Ta biết rồi! Nhất định không làm nàng thất vọng đâu.
Về đến nhà vợ, chồng liếc đông, ngó tây, đi chỗ này, đến chỗ kia. Bất giác anh ta đến kho gạo, nhìn thấy gạo trắng nõn nà, thơm phức; bỗng anh ta cảm thấy đói bụng, liền vốc một nắm bỏ vào miệng. Ngay lúc đó, vợ đi vào, anh ta nuốt không được mà nhả ra cũng không xong.
Vợ nhìn thấy chồng mặt mày nhăn nhó khổ sở, liền lo lắng hỏi:
- Chàng sao thế? Trong người không được khỏe sao?
Chồng ngậm một miệng gạo không trả lời được. Vợ nghi ngờ bước đến thấy hai bên má của chồng sưng vù, nên hốt hoảng hỏi:
- Chàng bị đau răng phải không? Thiếp mời thầy thuốc đến khám nhé!
Vợ lập tức lôi chồng đến gặp cha nói:
- Thưa cha! Chồng con không biết bệnh gì mà hai bên má sưng vù; cha mau cho người mời thầy thuốc đến khám bệnh cho chàng.
Vợ luôn theo sát chồng, cho nên anh ta không có cách nào nhổ gạo ra được. Anh ta lo lắng nghĩ: “Tiêu rồi! Ta phải làm cách nào?”.
Thầy thuốc đến khám bệnh cho anh ta xong, bảo:
- Anh ta vô cớ bị trúng độc phải phẫu thuật gấp, bằng không nguy hiểm đến tính mạng.
Thầy thuốc mổ ra chỉ có gạo, mọi người mới biết anh ta ăn vụng. Cả ba người đều lâm vào cảnh khó xử. Cha vợ nói cũng không được –vì một nắm gạo, có đáng giá gì mà nói anh ta; không nói cũng không đúng, tại sao anh ta không nói sớm, báo hại mọi người một phen hoảng hồn. Chàng rể cũng xấu hổ -vì ăn vụng gạo; lại làm cho mọi người lo lắng vô ích. Thầy thuốc cũng quê độ -thầy nói anh ta vô cớ trúng độc, mổ ra chỉ có gạo. Cho nên, mọi người đều không dám nói ra, kết quả ai nấy đều bực mình vội giải tán.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Mỗi người đều thích che giấu lỗi lầm của mình. Bậc Cổ đức dạy: “Người đời ai mà không lỗi, biết sửa đổi là Thánh hiền”. Chúng ta phạm lỗi cứ nói thật, tâm biết hối cải thì mới tiêu trừ được tội lỗi.Nếu như chúng ta che giấu là không biết hổ thẹn thì tội che giấu càng nặng thêm. Còn chúng ta biết mình sai là biết hổ thẹn; cho dù tội nặng cũng nhờ đó mà được tiêu trừ, lỗi tuy nhỏ mà chúng ta không biết hổ thẹn là tạo thành tội nghiệp.
Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi trong sáu đường là do tích chứa rất nhiều tội nghiệp. Nếu không sám hối, hoặc tu Phật pháp thì nhất định trở thành chủng tử tội nghiệp nhiều đời nhiều kiếp. Vì thế, Phật pháp dùng pháp sám hối làm tiêu trừ nghiệp chướng. Hiện nay, trong Phật giáo đang lưu hành sám văn ở đời rất thịnh, đều dạy chúng ta nghi thức cầu sám hối như thế nào, quan trọng chúng ta có thành tâm cầu sám hối hay không. Nếu chỉ thực hành theo nghi thức này, mà không chí thành sám hối thì làm sao tiêu tội nghiệp?
Cho nên trong Phật pháp, mỗi tháng có tụng giới hai lần, cũng chính là lúc tụng giới để tự kiểm điểm lại mình trong nửa tháng có phạm giới không? Nếu có phạm giới thì chúng ta phát lộ sám hối, tội mới tiêu trừ; còn như che giấu tội lỗi thì mãi mãi là chủng tử tội nghiệp. Chúng ta che giấu tội lỗi thì mắc tội gì? Ngoài tâm không biết hổ thẹn, còn có chuyện tự tư tự lợi mới là tội nặng nhất. Người có tâm tự tư tự lợi cá nhân sinh ra tất cả tội nghiệp, tính toán tranh đoạt.
Theo tín ngưỡng dân gian là “ngẩng đầu ba thước có thần thánh”. Thần thánh luôn kiểm soát hành vi thiện ác của chúng ta để ghi vào sổ, tương lai chúng ta xuống điện Diêm La mới tính tổng kết. Đức Phật dạy: “Hành vi thiện ác hàng ngày của chúng ta đều chứa trong ruộng thức thức tám”. Những hành vi này, đợi đến khi các loại nhân duyên thành thục, gọi là nghiệp báo. Nghiệp trước kéo nghiệp sau, từng nghiệp lôi kéo nhau, do thời gian, do chỗ ở, do con người, do sự vật. Nhưng khi chủng tử thành thục thì chịu quả báo. Vì thế, tội che giấu chẳng khác nào che giấu chủng tử tội nghiệp.
Chuyện 73
Anh hùng giả chết
Lời dẫn:Một cô gái mặt rỗ, sẹo lồi lõm nhưng khéo trang điểm thì giống như một cô gái xinh đẹp. Một chàng trai què chân cưỡi ngựa phi nhanh, khác nào một trang nam tử khôi ngô tuấn tú. Một người mù đeo kính đen, nhìn qua giống như người bình thường. Một kẻ giả làm bậc quân tử đi giúp đỡ mọi người, nhưng ai biết hắn đang tính toán âm mưu gì? Muôn sự ở thế gian, con người khéo che đậy, nhất thời mọi người chưa biết được; nhưng đường xa mới biết ngựa hay, sống lâu hiểu rõ lòng người. Con người chỉ che giấu trong chốc lát, không thể che giấu mãi mãi; khi bại lộ sự việc khó mà tránh khỏi tai họa. Vì thế, chúng ta có bao nhiêu tài năng, làm bao nhiêu việc tốt, không cần khoe khoang cho mọi người biết, đó mới là chính nhân quân tử.
Ngày xưa, có một kỵ sĩ rất thích cưỡi ngựa, nhìn tướng mạo bên ngoài, hắn có chút uy phong lẫm liệt. Nhưng thật ra, hắn chưa học qua võ thuật mà đi khoe khoang xưng ta là anh hùng vô địch trong thiên hạ. Lúc đó, trong thôn thường bị bọn giặc cướp rừng xanh lộng hành, làm cho nhân dân trong thôn đều rất sợ hãi; ai nấy đều lo sợ bọn chúng xông đến nhà mình. Vì thế, thôn trưởng liền mời các vị anh hùng để chỉ huy dân chúng đánh bọn giặc. Gã thanh niên này hùng hồn tuyên bố: “Có gì mà sợ, tôi sẽ đánh bọn chúng tan tác tả tơi”.
Một đêm, hắn chỉ huy một đội dân làng, xông thẳng vào sào huyệt của bọn địch. Nhưng đi giữa đường thì chạm trán bọn chúng, bọn chúng sắp đột nhập vào thôn để cướp bóc. Hắn liền hô lớn: “Nào các anh em! Xung phong…Chúng ta hãy giết sạch bọn cướp này”. Nhưng hắn lại sợ hãi lén lùi lại phía sau để mọi người xông lên; nhưng bọn thổ phỉ chém càn tiến lên phía trước, không để mọi người chống đỡ. Hắn đành phải giả té xuống ngựa, nằm giả chết trong đống tử thi. Khi trận chiến kết thúc, hắn chặt đuôi một con ngựa chết, trở về thôn nói với mọi người:
- Trong đêm tối đánh nhau với bạn cướp, hàng ngũ bị tan rã; chỉ còn mình tôi đuổi giết bọn cướp, bọn cướp bắn chết ngựa của tôi, nên tôi không thể đuổi theo bọn chúng, đành phải chặt đuôi con ngựa yêu quí đem về.
Trong đó, có một thanh niên hỏi:
- Thủ lĩnh! Khi xuất phát, ngựa của ông màu trắng; vì sao ông lại đem về đuôi ngựa màu đen?
Hắn ấp a ấp úng không trả lời được. Mọi người mới biết hắn chỉ có danh hư bề ngoài, thực chất không có tài cán gì, lại rất sợ chết.
Kẻ giả tài giỏi, giả quân tử, giả anh hùng; cuối cùng cũng bị mọi người biết rõ. Việc gì phải chuộng chút sĩ diện một lúc, mà bị mọi người xa lánh mãi mãi?
Bài học đạo lý
Kẻ giả tài giỏi, giả tài năng ở thế gian này rất nhiều, nhưng đầu óc chúng rỗng tuếch, chẳng có chút hiểu biết. Có kẻ quê mùa dốt nát lại làm ra vẻ dân trí thức. Người thạo nghề vừa bắt tay làm thì biết giỏi hay không. Người có học vấn, hiểu biết, nhân cách, khi nói năng, hành động, ứng xử đều thể hiện ra bên ngoài. Chúng ta không thể đánh giá con người qua hình tướng. Nhưng khi họ nói chuyện, làm việc, hành vi ứng xử thể hiện ra chúng ta đánh giá được họ. Để đánh giá nhân cách, đạo đức, học vấn của mỗi người theo Khổng Tử nói: “Nhìn hành động của người mà biết được động cơ của họ; nếu người quán sát như vậy thì cái giả làm sao giấu được!” .
Chúng ta sống gần một, hai ngày với mọi người không biết nhân cách, đạo đức và thiện ác của họ. Nhưng “sống lâu hiểu rõ lòng người, đường xa mới biết ngựa hay”. Cho dù chúng ta có khéo giả dối che đậy, nhưng một ngày nào mọi người cũng sẽ biết rõ. Cho nên làm người phải sống chân thật. Làm việc phải thật thà ngay thẳng. Nhưng đáng tiếc thay! Mọi người luôn chuộng sĩ diện, thích danh lợi mà đánh mất sự chân thật. Bậc Cổ đức dạy: “Người thành tựu thực tế thì có danh tiếng tương ưng”. Chúng ta cũng có thể nói: “Người thành tựu thực tế thì có danh lợi tương ưng”. Như thế, mê muội lừa dối mọi người; hoặc giả làm anh hùng; cuối cùng tự mình chuốc lấy hủy nhục. Nhưng vì sao ở đời kẻ giả làm quân tử nhiều như thế? Đều chỉ vì một chút sĩ diện mà thôi.
Một cân thể diện đáng giá bao nhiêu tiền? Có người cố chấp tốn rất nhiều tiền để tranh giành sĩ diện; thậm chí có người liều thân mạng quý báu để giành bằng được sĩ diện; cãi nhau, đánh nhau, kéo nhau ra tòa án cũng vì sĩ diện. Nước này với nước kia, nhà này với nhà nọ, người này với người kia đánh chiếm, tranh giành nhau cũng đều vì sĩ diện. Con người vận động vốn là rèn luyện sức khỏe, cho nên vận động quanh năm suốt tháng; ngày nay lại trở thành vấn đề thi đấu vì thể diện.
Bậc Cổ đức dạy: “Mười năm đèn sách không ai hỏi, phút chốc nổi danh vạn người hay”. Đó là vì vinh hoa phú quý; hoặc vì dân phục vụ; hoặc tranh giành vì sĩ diện. Chúng tôi nghĩ đều có đó nhé! Đặc biệt là thể diện rất quan trọng. Vì thế, có người “không thể để lại tiếng thơm trăm đời mà để lại tiếng xấu vạn năm”, đều là vì chuộng sĩ diện. Từ xưa, những kẻ đại gian ác cũng là vì chuộng sĩ diện. Trong tôn giáo có người vì chuộng sĩ diện mà tung ra những chiêu thủ đoạn, phao tin đồn nhảm, dọa dẫm, lừa gạt mọi người. “Lỡ bước một phen thành mối hận nghìn đời”, cũng vì chuộng sĩ diện. Như vậy, vấn đề chuộng sĩ diện làm hại mọi người rất nhiều.
Chuyện 74
Gỉa làm trang nghiêm
Lời dẫn: Thế gian có chính nhân quân tử, có kẻ tiểu nhân, kẻ giả tài giỏi. Người trung hậu ngay thẳng như đi trên con đường rộng lớn bằng phẳng, không có gai nhọn và sỏi đá, cũng không bị nguy hiểm rình rập các loài rắn độc, trùng độc cắn tổn thương. Nhưng vì sao mọi người đường lớn không chịu đi mà lại đi vào đường hẹp quanh co khúc khủy? Đây chính là trong tâm có liên quan đến ma.
Thuở xưa, người dân Ấn Độ đa số đều tin theo bà-la-môn giáo. Bọn tăng lữ của bà-la-môn giáo được mọi người cúng dường đầy đủ, nên về sau họ dần dần lười biếng tu hành, sống bừa bãi. Có rất nhiều người không giữ quy củ của đạo, làm ô uế tăng lữ. Có người hình dáng tu hành nhưng không trang nghiêm. Có người sống tùy tiện vô kỷ luật. Có người y phục rách rưới và dơ bẩn, giống như dòng dõi thấp hèn. Bà-la-môn vốn là dòng dõi cao sang quý tộc. Như thế, có khác gì dòng dõi thấp hèn.
Nhà vua nghe được tin này, liền truyền lịnh: “Tất cả tăng lữ của bà-la-môn giáo phải tinh tiến học đạo tu hành, phải trang nghiêm thanh tịnh; nếu không thì trở về thế tục, để họ sống theo dòng họ thấp hèn”. Nhà vua vừa ban lịnh, bọn chúng khẩn trương thực hành. Những kẻ ăn mặc rách rưới thì mặc y phục mới. Kẻ sống dơ bẩn thì lo đi tắm rửa sạch sẽ. Kẻ lười biếng lo tinh tiến tu hành. Nhưng thói quen lâu ngày khó sửa, bọn chúng làm theo mệnh lịnh bề ngoài, bên trong vẫn lén lút sống dơ bẩn, vô kỷ luật.
Có tên oán trách nhà vua nói: “Nhà vua không lo việc lớn, lại đi lo ba chuyện lặt vặt của chúng ta. Chúng ta sống dơ hay sạch liên gì đến vua chứ; làm sao vua có thể mỗi ngày theo giám sát sự sinh hoạt của chúng ta?”. Do đó, bọn chúng vẫn sống vô kỷ luật và dơ bẩn như trước đây.
Mỗi khi đi ra ngoài, hoặc ở trước mọi người, bọn chúng giả làm ra vẻ trang nghiêm, đĩnh đạc, nhưng bên trong thì ngược lại. Bọn chúng vốn là thầy tôn giáo phải trang nghiêm thanh tịnh, phải làm mẫu mực cho mọi người, làm tấm gương ở thế gian. Nhưng có người chỉ vì cuộc sống, vì sự cúng dường của mọi người mà bọn chúng giả tạo bề ngoài. Thật sự là dối mình lừa người.
Bài học đạo lý
Thế gian có rất nhiều tôn giáo, cũng có rất nhiều thầy tôn giáo làm nghề tôn giáo. Có người tinh tiến tu hành theo tôn giáo. Có người vì phục vụ cho xã hội; hoặc phục vụ tôn giáo mà theo tôn giáo. Có người vì hoằng pháp lợi sinh, thay trời giáo hóa mà theo tôn giáo. Có người khuyến khích nhân dân tu tâm, làm việc thiện, cứu người, cứu đời mà phục vụ tôn giáo. Có người vì cuộc sống, vì kiếm tiền, đem tôn giáo ra làm kinh doanh, làm xí nghiệp. Có người vì danh lợi, vì tham cúng dường mà đem tôn giáo làm nguồn kiếm tiền, làm hàng hóa mua bán. Vì thế, nhân cách của bậc thầy tôn giáo có khác nhau một trời một vực.
Có người vì tham của cúng dường mà dối thần gạt quỷ, dựa vào quỷ thần để lừa gạt lấy tiền của, chiếm gái đẹp, mượn lệnh của trời để lường gạt dân chúng, vì danh lợi mà bọn chúng không từ thủ đoạn giở trò lừa bịp. Có những kẻ giả thánh, giả thần, giả tiên, giả Phật làm cho mọi người lễ lạy cúng dường. Đây có phải nhiệm vụ của thầy tôn giáo không?
Thầy tôn giáo khuyên mọi người làm việc, phát tâm tu hành, làm bậc mẫu mực, làm gương cho mọi người; đó là tôn kính thần thánh. Nhưng ma lực tài sắc, danh lợi rất lớn, thầy tôn giáo cũng không thoát khỏi bàn tay của chúng. Cho nên, tôn giáo không thanh tịnh, cũng không biết vị thầy tôn giáo đó thật sự có đức hạnh không.
Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Chúng ta thân cận thiện tri thức là tu học chánh tri, chánh kiến, tinh tiến tu hành. Nếu như chúng ta thân cận tà sư là học tà tri, tà kiến, tu mù bậy bạ. Như thế, tốn tiền oan uổng, việc nhỏ mà uổng phí tinh thần, tương lai cùng vào tà đạo, mới là oan uổng rất lớn. Ở đời, bất luận sĩ, nông, công, thương; mỗi người làm mỗi nghề, không có người giả quân tử.
Những người sợ trời, sợ thần, sợ quỷ là người có lương tâm. Người sợ nhân quả, sợ báo ứng là người có căn lành. Những kẻ trời không sợ, đất không ngán, không sợ quỷ thần; ngoại trừ anh hùng có một không hai, là người hết thuốc chữa. Người theo Phật pháp mà không sợ nhân quả, là ma quỷ trong Phật giáo. Trong thần giáo mà giả thần, làm quỉ là tội nhân trong tôn giáo.
Phật giáo giống như con sư tử, nó vừa cất tiếng rống cả trăm loài thú đều sợ hãi. Phật pháp hoằng dương ở đời thu phục nhiều tôn giáo; nhưng chỉ sợ ma vương trong giáo pháp. Phật pháp không sợ ngoại đạo xâm chiếm chỉ sợ những kẻ phá giới trong giáo pháp, càng sợ những kẻ giả làm bậc gương mẫu; giống như trùng trong thân con sư tử, những kẻ giả làm trang nghiêm, nhưng không có đức hạnh; đó là trùng trong thân con sư tử ở trong giáo pháp. Thật đáng sợ thay! Những kẻ bề ngoài là Phật giáo, nhưng bên trong hành tà tri, tà kiến; đây chính là ma vương thật sự trong Phật pháp.
Chuyện 75
Sai một li đi một dặm
Lời dẫn: Vào thời đại Tam Quốc, Tôn Quyền và Chu Du lập mưu muốn dụ Lưu Bị vượt sông Trường Giang cầu hòa; kỳ thật, cả hai người muốn giết ông. Nhưng Khổng Minh đi nước cờ cao hơn, dùng tương kế tựu kế, bảo Lưu Bị đi cầu hòa. Kết quả, biến giả thành chân. Tôn Quyền cùng phu nhân chạy trốn, lại hao binh tổn tướng. Chu Du tức giận hộc máu mà chết. Tục Ngữ có câu: “Người tính không bằng trời tính”. Quả thật là một cuộc đấu trí hấp dẫn. Cho nên, người có trí huệ, tài năng thì giải quyết mọi việc đều thông suốt. Kẻ ngu si dễ bị mắc lừa.
Ngày xưa, có một gã nông dân nuôi một con lạc đà, nó giúp hắn vận chuyển hàng hóa. Tính tình lạc đà hiền lành và nhẫn nại, gặp lúc đi đường xa nó vẫn chịu đói khát, suốt mấy ngày nó không có gì ăn vẫn không hề gì; cho nên, gã nông dân chăm sóc nó rất kĩ. Lúc đầu, hắn cho nó ăn cỏ tươi, nhưng sau đó hắn thấy đối xử với nó như vậy là không công bằng, vì nó chịu cực khổ như thế, phải cho nó ăn lúa gạo mới đúng. Hắn nghĩ phải đem cái vò báu của ông bà để lại, đựng lúa gạo cho nó ăn, để bày tỏ lòng yêu thương nó.
Sáng kiến đã định, hắn đem cái vò báu của ông bà để lại, đựng lúa gạo cho lạc đà ăn, cho rằng như thế là thương yêu nó. Hắn không biết, khi con lạc đà duỗi đầu vào trong cái vò để ăn thì nó không rút ra được. Hắn lo lắng nói:
- Phải làm thế nào bây giờ? Ai có thể kéo đầu con lạc đà ra được?
Mọi người kéo đến xem sự việc xảy ra. Trong đó, có một ông cụ bảo:
- Chú mày hãy cầm búa đập vào đầu nó, có thể kéo ra được không?
Hắn cho là có lý, nên đi vào nhà cầm búa ra đập đầu con lạc đà. Nhưng đầu lạc đà kéo ra được thì cái vò báu bị bể và con lạc đà cũng chết ngay tại chỗ “làm một việc mất cả hai”. Từ đó, hắn không còn lạc đà giúp hắn làm việc “làm một việc mất cả ba”. Bắt đầu từ đó, hắn lâm vào cảnh khốn khổ “làm một việc mất cả bốn”. Cuối cùng, hắn lưu lạc khắp nơi, lang thang khắp đầu đường xó chợ “làm một việc mất nhiều thứ”.
Gã nông dân này, tự cho mình thông minh, chỉ cần một câu nói hại người dễ dàng. nhưng hắn không có trí huệ, không biết đúng-sai, không biết khinh-trọng, mới dẫn đến kết cục như vậy.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Trí huệ đối với con người có quan trọng không? Qua câu chuyện này để lại chúng ta bài học sâu sắc. Đức Phật là Đấng giác ngộ. Phật giáo là tôn giáo trí huệ, dạy chúng ta những vấn đề làm người, làm việc; tu thoát khổ được vui, giải thoát phiền não, tiêu trừ nghiệp chướng như thế nào v.v…
Nhưng chúng sinh tự cho mình thông minh, cho rằng sống ở đời có tiền là có tất cả. Bậc Cổ đức dạy: “Giàu sang chốn trần gian như hoa đốm; địa vị, danh vọng ở đời như bọt nước”. Hạnh phúc, giàu sang ở trần gian trôi qua nhanh chóng; huống gì thế gian này vui ít, buồn nhiều. Chúng ta vì cuộc sống, vì danh lợi mà tạo tội nghiệp rất nhiều, tương lai mãi mãi luân hồi trong sáu đường; khổ báo vô lượng vô biên. Như thế, là người có thông minh hay không? Tương lai có mở ra con đường xán lạn hay không? Đây chính là cách nhìn sai khác giữa người trí và kẻ ngu.
Gã nông dân trong câu chuyện, thật sự là hắn muốn kéo đầu con lạc đà ra, nên mới đem búa đập vào đầu nó phải không? Đây chỉ là thí dụ. Dụ cho con người vì cuộc sống, vì danh lợi mà tạo ra các nghiệp ác. Khi đạt đến mục đích rồi, tự hạ thấp nhân cách, đạo đức của mình, huệ mạng nhiều đời nhiều kiếp cũng mất hết; khác nào đập đầu con lạc đà? Sinh mạng con người là quan trọng, hay huệ mạng quan trọng, đều theo cách nhìn của mỗi người không giống nhau. Nhân cách, đạo đức quan trọng, hay tiền bạc, địa vị, danh vọng quan trọng cũng là quan điểm của mỗi người khác nhau. Vinh hoa, phú quí hiện tại quan trọng, hay tương lai nhiều đời nhiều kiếp thoát khổ được vui quan trọng, cũng là nhận xét của mỗi người không giống nhau. Cho nên, mới có sự sai khác giữa người trí và kẻ ngu.
Có người sống ở đời, đi đến nơi đâu cũng đều bóc lột mọi người để mình được lợi; người khác sống đau khổ, mình hưởng thụ sung sướng. Họ cho như thế mới là người thông minh, lại không biết mình đang tạo ác nghiệp, gây đau khổ vào tương lai, hiện tại chỉ được chút lợi mà khổ báo tương lai lại nhiều vô lượng vô biên. Chúng tôi nói cách khác, chúng ta tu hành bồi dưỡng trí huệ, đạo đức thì tương lai được tài sản lấy mãi không hết, dùng hoài không cạn. Ai là người thông minh, ai là kẻ ngu si? Xin các vị tự chọn lựa nhé!
Chuyện 76
Si mê công chúa
Lời dẫn: Con người quý ở tự biết. Tự biết thân phận, tài năng, học vấn. tri thức của mình. Tự mình làm được việc gì? Đều phải biết. Tình thương trong sáng, bình đẳng không có sang hèn. Nhưng xã hội ngày nay thì có sai biệt sang-hèn. Muôn vật đều có đắt-rẻ; ngọn cỏ và cây cổ thụ, quý ở chỗ có thể coi như nhau. Theo quốc gia dân chủ, mỗi người đều có tư cách làm tổng thống, nhưng không phải ai cũng làm tổng thống được. Trí thức của mỗi người có cao-thấp; năng lực có giỏi-dở; thân phận có sang-hèn, tất cả đều có sai khác, không phải mọi người đều giống nhau.
Thuở xưa, có gã thanh niên ở vùng nông thôn, chất phác thật thà, quanh năm cần cù cày sâu cuốc bẩm, nên trở thành người khá giả, cuộc sống của hắn trôi qua bình yên. Bậc Cổ đức dạy: “Con người khi no ấm thì nghĩ đến chuyện sinh hoạt tình dục.” Gã thanh niên này có đầy đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở nên nghĩ đến chuyện lập gia đình, lập nghiệp. Nhưng hắn nhìn kĩ trong thôn chẳng có cô gái nào hợp ý. Mặc dù hắn chưa đạt được giàu sang nổi tiếng, nhưng cuộc sống cũng yên ổn, an cư lạc nghiệp.
Gã thanh niên quanh quẩn trong thôn đã lâu, nên đi nơi khác để thư giãn tâm hồn, ngắm nhìn phong cảnh mọi nơi. Một hôm, hắn đi đến thành phố. Khi đi ngang qua hoàng cung, hắn chợt thấy công chúa, dung nhan xinh đẹp tuyệt trần. Hắn bị sắc đẹp của công chúa cuốn hút, quên mất thân phận mình là ai? Hắn đứng ngơ ngẩn rất lâu, công chúa đi rồi, hắn mới chợt tỉnh. Tuy hắn đã trở về làng quê, nhưng ngày đêm hắn cứ mơ tưởng đến hình ảnh công chúa đang hiện trước mặt. Từ đó, hắn luôn dệt mộng đẹp ái tình.
Trước đây, khi chưa gặp được công chúa, hắn vui thích sống cảnh đồng ruộng, vui mừng khi lúa được mùa. Sau khi, thấy được công chúa, hắn không còn thích thú công việc đồng áng và hớn hở khi được mùa. Suốt ngày đêm, hắn chỉ nghĩ nhớ đến công chúa là niềm hạnh phúc của hắn. Nhưng hạnh phúc ảo tưởng làm sao đạt được? Ban ngày hắn nằm dài trên giường ngắm nhìn bức tranh treo trên tường, giống như công chúa đang mỉm cười với hắn; ban đêm, hắn nằm mộng thấy cùng công chúa chạy nhảy vui đùa. Vì thế, làm cho hắn lúc nào cũng dệt mộng đẹp, cuộc sống vinh hoa phú quí, bên người vợ kiều diễm xinh đẹp.
Khi con người đang sống trong cơn mộng tình ái thì không phân biệt sự sang hèn; huống gì hắn đang si tình đơn phương, đối tượng hắn nghĩ đến là công chúa con nhà hoàng tộc, còn hắn là nông dân cày sâu cuốc bẩm nghèo cùng. Do đó, sức khỏe hắn ngày càng tiều tụy, luôn sống trong mộng đẹp tình ái. Hắn hạnh phúc hay đau khổ cũng chưa biết rõ. Có người bạn thức tỉnh hắn nói:
- Anh đừng có si mê như vậy, phải biết thân phận của mình là gì? Nếu như anh thích cô nào trong thôn thì chúng tôi sắn sàng giúp anh làm mai mối. Còn công chúa thì anh không nên yêu cuồng si, ảo tưởng như vậy.
Nhưng con người là một động vật rất kỳ lạ, những thứ người ta không đạt được thì càng muốn chiếm hữu. Kết quả, hắn mắc bệnh cuồng si.
Một hôm, những người bạn thân họp lại để bàn bạc cứu chữa bệnh si tình của hắn. Có người nói:
- Đây là tâm bệnh, thầy thuốc đành bó tay.
Có người bảo:
- Tâm bệnh vẫn có thuốc chữa được.
Có người đưa ý kiến:
- Chỉ cần chúng ta biết mở sợi dây tình cảm trói buộc là được.
Cuối cùng mọi người thống nhất ý kiến nói với anh ta: “Chúng tôi đã cử người đến hoàng cung bàn chuyện cầu hôn, công chúa đã bằng lòng lấy anh; chỉ là công chúa còn đi học, nàng bảo anh hãy giữ gìn sức khỏe, vài ba năm sau sẽ tính chuyện cưới hỏi”. Như thế, làm cho tinh thần hắn ổn định sau đó tính nữa”.
Hắn nghe công chúa đồng ý lấy mình, nên vui mừng khôn xiết, liền ngồi dậy nói:
- Cảm ơn các bạn nhiều lắm! Mặc dù hiện tại tôi không thể gặp mặt công chúa, nhưng nàng đồng ý lấy tôi; tương lai tôi được sống mãi mãi bên nàng, sẽ hưởng hạnh phúc ngọt ngào, những tháng ngày ân ái thỏa thích. Tôi còn mong ước điều gì nữa?
Từ đó, hắn khỏi bệnh. Nhưng ngày tháng trôi qua, tin tức về công chúa vẫn mịt mù tăm cá, hắn chỉ mơ tưởng mà thôi.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Mọi người đều có hy vọng, hướng về tương lai. “Người phải vươn lên, nước thì chảy xuống”. Nhưng chúng ta hi vọng phải phù hợp với mình, việc đó mình có thể đạt được mục đích. Không phải chúng ta mong muốn những điều không thật có; hoặc việc đó không thể đạt được mục đích thì giống như nằm mộng, ngày tháng trôi qua, đợi mãi đến khi tàn hơi kiệt sức, có hối hận cũng đã muộn.
Có những ngoại đạo ảo tưởng những mục tiêu không thật có như: vô cực, lý thiên, lão mẫu nương, cùng làm giáo chủ v.v…Những điều này không thật có, cũng là ảo tưởng sáng tạo, mãi mãi không đạt được mục đích; giống như gã thanh niên ở thôn quê trong câu chuyện muốn cưới công chúa, chỉ vọng tưởng hư ảo. Làm sao mà đạt được?
Đức Phật như thế nào? Ngài có dạy mọi người sáng tạo ảo tưởng không? Phật là Đấng đại giác, trí huệ, đạo đức rộng lớn, cũng là Bậc đại từ bi. Nếu như chúng ta tu hành trí huệ, từ bi, đạo đức thật sự thì cũng có thể thành Phật. Vì sao có thể phủ định chỉ có ĐứcPhật?
Chuyện 77
Uống nhầm nước tiểu con lừa
Lời dẫn: Nếu như chúng ta muốn trèo lên cây bắt cá thì mãi mãi không bắt được cá. Hoặc nuôi gà trống mà mong đẻ trứng thì nó có đẻ được không? Người không có công đức, không làm việc thiện mà suốt ngày lạy lục cầu thần, cầu sinh lên cõi trời thì không bao giờ đạt được mong ước. Bởi vì, họ không có nhân thiện thì làm sao có quả thiện. Kinh Nhân Quả ghi: “Nhân như vậy thì được quả như vậy”. “Tự mình gây nhân thì tự chuốc quả”. Mình không có gì mà cố sức cầu cũng không được.
Ngày xưa, có một gã nông dân, không biết hắn nghe tin đồn nhảm từ đâu, nói sữa lừa có thể trị bá bệnh, lại còn làm cho thân thể mạnh khỏe “có bệnh trị bệnh, không bệnh bồi dưỡng thân”. Cũng có người nói hùa theo: “Sữa lừa chẳng những bồi dưỡng sức khỏe mà còn trị những bệnh nan y như ung thư, tai biến mạch máu, bệnh xơ gan v.v…đều chữa khỏi. Trẻ con mắc bệnh đậu mùa, muốn đề phòng bệnh này thì uống sữa lừa có thể ngăn ngừa được trăm chứng bệnh”. Mỗi người thêm một câu, miêu tả giống như thuốc tiên trên trời, uống một viên có thể trẻ mãi không già.
Có người thêu dệt thêm, nói: “Sữa lừa giống như linh đan diệu dược, người bị tai điếc uống vào liền nghe được; người bị mù liền sáng; người điên được tỉnh; người chết sống lại v.v…”. Họ nói đủ điều tốt đẹp suốt cả ngày, giống như thuốc tiên trên trời linh nghiệm cũng không bằng sữa lừa. Có người nghe như vậy muốn có liền, nên nói: “Chúng ta phải làm thế nào có được sữa lừa?”. Ngay lúc đó, có người dắt một con lừa đi ngang qua. Mọi người nhìn thấy con lừa, liền chạy đến bao vây nó.
Có người vắt tai con lừa để lấy sữa. Có người vắt đuôi nó. Có người vắt khắp thân, nhưng chẳng ai được sữa. Trong đó, có một người vắt bộ phận sinh dục của nó chảy ra được một chút nước tiểu. Hắn hớn hở vui mừng hét to: “Vắt được rồi! Vắt được rồi! Đây chính là sữa lừa thật sự”. Mọi người cho là sữa lừa nên tranh nhau vắt. Cuối cùng được một ly rất nhỏ, nhưng bán ra được mấy trăm lượng vàng mà cung vẫn không đủ cầu. Khi mọi người uống nước tiểu lừa thì như thế nào? Chẳng có người nào đạt được hiệu quả, nhưng không dám nói. Người tác dụng tâm lý, nên có chút linh nghiệm, liền loan truyền thêu dệt thêm: “Sữa lừa thật là linh, tôi mắc bệnh nan y kia, uống sữa lừa vào khỏi liền”. Ai nấy đều hùa theo, một đồn mười, mười đồn trăm. Tục Ngữ có câu: “Một thằng mù dắt một đám người mù”. “Một con chó sủa bóng, trăm con chó sủa theo”. “Một người truyền hư, trăm người truyền thực”. “Lời có ích không ra khỏi cửa, lời nói bậy truyền đi nghìn dặm”. Càng đồn càng đi xa.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Mọi người đều thích nghe lời nói ngọt ngào, thích nghe điều không thật; thích nghe những chuyện kỳ dị lôi cuốn. Chúng ta nói sự thật, nói chân lý, họ không thích nghe, vì không có hấp dẫn, hứng thú, nên họ không tin. Chúng ta kể chuyện hoang đường ma quái, như chuyện “Một nghìn lẻ một đêm”. Kể về huyền thoại, không có thật thì họ đều thích nghe. Thật là kỳ lạ! Con người là tối linh trong muôn vật. Tính linh ở đâu? Đang lừa dối người? Đang tính kế tranh giành? Hay đang mưu tính hại nhau? Hay đang tìm cách hại người? Nếu như nhìn theo phương diện tín ngưỡng tôn giáo thì không có linh.
Có người tùy tiện sắp đặt thần có lẽ cũng có, chạm khắc tượng thần cũng có người lễ bái, cũng có linh nghiệm. Vì sao? Vì rất nhiều thần linh ở khắp trong vũ trụ. Có vị nương ở cây cỏ. Có vị nương ở tảng đá v.v…đều có linh hiển, huống gì thần có nơi chốn có miếu, có nhà thờ tự, mà không có linh hiển đáng tin hay sao? Chúng ta tín ngưỡng như thế thì tương lai thần có giúp được gì không? Giống như chúng ta làm nghề buôn bán lâu ngày thì có tình cảm qua lại, anh mua tôi mới bán. Có rất nhiều người là bạn với nhau, anh muốn vươn lên thì tôi nâng đỡ anh, mong muốn anh mãi mãi là bạn của tôi. Nhưng tốt nhất anh luôn là cấp dưới của tôi, không được làm cấp trên của tôi. Tục Ngữ có câu: “Rồng bay với rồng, phượng múa với phượng, bạn của chuột biết đào ngạch”. Chúng ta tín ngưỡng như thế nào thì cầu khẩn thần linh như thế ấy.
Chúng ta cầu khẩn với chính thần như thế nào? Hay Phật, Bồ-tát như thế nào?
Thứ nhất: Phải có tâm cao thượng thì cầu thần cao thượng, tính tình ngay thẳng thì cầu khẩn với chính thần.
Thứ hai: Đức hạnh, ý chí và nguyện lực của họ phải phù hợp đối tượng tín ngưỡng, thì mới tương ưng.
Thứ ba: Ý chí, nguyện lực của đối tượng đó phải bình thường, hành động, việc làm phải phù hợp thì mới có cảm ứng đạo giao.
Vì thế, chúng ta không nên cầu bậy, bằng không thì giống như muốn sữa lừa xằng bậy trong câu chuyện, thật sự rất hoang đường.
Chuyện 78
Uổng công đi và về
Lời dẫn: Chúng ta muốn đến nơi nào, muốn đi chuyến xe nào đó, ban đầu xe đợi khách chậm vài phút, xe mới bắt đầu chạy. Nếu chúng ta đến trễ, xe chạy rồi thì uổng công đi và về. Chúng ta đi thi mà bỏ quên phiếu dự thi ở nhà thì không vào phòng thi được; lúc trở về nhà lấy phiếu dự thi, trở lại mọi người đã thi xong, cũng uổng công đi và về. Chúng ta buôn bán xa nhà muốn kiếm được nhiều tiền lời; không may bị thua lỗ thì cũng uổng công đi và về.
Sinh viên du học xa nhà, ở nước ngoài suốt mấy năm, bôn ba xuôi ngược mà học chẳng ra gì, tốn rất nhiều tiền, lãng phí thời gian quá lâu, trở về chẳng làm được gì, cũng uổng công đi và về. Như người cầm binh xuất chinh dẹp trừ giặc cướp, nhưng không thể trừ được bọn chúng, chưa vì dân trừ giặc, uổng công mang vũ khí, nhọc tướng, mệt binh, cũng uổng công đi và về. Có người đi thu tiền nợ, nhưng quên mang theo sổ, đành phải lêu lỏng, chẳng thu được đồng nào, cũng uổng công đi và về. Những chuyện uổng công đi và về ở thế gian có rất nhiều, không sao kể hết.
Ngày xưa, có một ông già giàu nứt đố đổ vách. Ông có một người con trai rất thông minh và hiếu thuận. Bất kỳ anh ta làm việc gì cũng được cha khen ngợi. Như khi ông đi xa trở về nhà mệt mỏi, anh ta chuẩn bị giường nằm sạch sẽ để ông nằm nghỉ. Lúc ông khát nước, anh ta liền đem ly trà đá đến. Mùa đông lạnh rét, anh ta đem áo lạnh cho ông mặc; mùa hè nóng bức thì anh ta bưng thau nước mát đến để ông lau rửa v.v…Anh ta hầu cha rất tỉ mỉ, làm ông hài lòng vô cùng. Vì thế, người cha và mọi người trong thôn luôn khen ngợi anh ta.
Một hôm, người cha bảo:
- Này con! Cha đã già rồi, tương lai con sẽ kế thừa tài sản cha để lại. Cha có rất nhiều đất đai và cơ sở xây dựng ở vùng khác, cho nên mỗi năm phải đi ghi sổ và thu thuế, đợi đến ngày mai cho đem con đi để biết cách làm việc và biết đất đai ở các nơi, sẵn dịp cha con mình thu tiền thuế luôn.
Đến sáng hôm sau, khi trời chưa sáng, người con tự ý một mình đi thu thuế. Nhưng anh ta đến nơi, không có sổ sách ghi tên người, cũng không biết người nào mắc nợ; cho nên anh ta lêu lỏng cả ngày rồi về nhà. Người cha ở nhà tìm con hoài không biết đi đâu, đến tối thấy anh ta trở về, người cha liền hỏi:
- Ngày nay con đi đâu?
Anh ta đáp:
- Thưa cha! Con sợ cha tuổi cao, sức yếu đi đường xa cực nhọc, nên con đi một mình đến đó thay cha thu thuế và tìm hiểu tình hình công việc.
- Không có cha cùng đi, làm sao con thu thuế được? Vả lại không có cha giới thiệu, giải thích, con cũng không thể nào biết rõ tình hình công việc.
Người con này chẳng phải uổng công đi và về?
Người con tự cho mình là thông minh, có thể thay cha làm việc. Kì thật, có việc cũng cần sự giúp đỡ của người khác, bằng không uổng công một chuyến đi.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người tự cho mình thông minh là rất nhiều; giống như kẻ trộm tự cho mình rất thông minh dùng nhiều thủ đoạn tinh vi. Bất luận giới sĩ, nông, công, thương; hàng ngày bận rộn làm việc kiếm tiền cực khổ. Có người làm việc đổ mồ hôi sôi nước mắt thì bị kẻ khác đến bảo: “ Tôi đến thu của có sẵn”. Họ chỉ cần dùng trí óc một tí. Tục Ngữ có câu: “Giặc trộm kế tài năng của trạng nguyên”. Chính là lấy đi hết của cải cực khổ của người khác mà mình chẳng tốn chút công lao cực nhọc. Như thế là người thông minh chăng?
Hậu quả thế nào? Bị người bắt được “ngồi trong nhà tù dăm, ba năm”. So với đồ của cải mình trộm được, đáng giá bao nhiêu? Từ đây, đánh mất danh dự con người và tương lai một đời. Đáng giá bao nhiêu? Ngay cả ông bà và bản thân mình sau này, vô cùng xấu hổ khi gặp mọi người. Đáng giá bao nhiêu? Mà còn tương lai nhiều đời nhiều kiếp, phải làm thân trâu ngựa để trả nợ cho người. Lấy trộm tài sản của người, bị họ bắt được phải trả lại cho họ số tiền chôm chỉa được, chính là “tiếng xấu muôn đời” và “tiền đồ đen tối”. Như thế, có phải là người thông minh không?
Cán bộ, nhân viên tham ô của nhà nước, cho mình là người thông minh “lấy của công làm tư”, “thu nhập ngoài luồng”, “bí quyết phát tài”. Sự thật là “Lưới pháp luật lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát”. Bậc Cổ đức dạy: “Mười năm đèn sách”. Ngày nay, mọi người phải học mười hai năm phổ thông, bốn năm đại học, hay ba năm cao đẳng, hoặc hai năm trung cấp, mới được đi làm. Nhưng chỉ vì tham ô nhất thời, “tương lai đi vào ngõ cụt”, lại phải ngồi tù, để lại “tiếng xấu muôn đời”; lại còn “một đời làm quan, chín đời làm ngựa”. Chúng ta ngồi tính kỹ như thế, có phải uổng công đi và về không?
Con người sinh ra ở thế gian này, tuy là biển khổ, nhưng cũng có căn lành nhiều đời nhiều kiếp. Đức Phật dạy: “Thân người khó được”. Con người có trí huệ, có lương tâm, có thích hợp hoàn cảnh mới có thể tu hành. Nhưng nhân cơ hội này, chúng ta không chịu tu hành, tạo công đức. Trái lại, đều là tính toán tạo nghiệp, không để đức lại cho đời, lại còn tạo nhiều ác nghiệp, tích chứa oán thù ở thế gian, tương lai nhiều đời nhiều kiếp luân hồi vô cùng, khổ báo vô tận. Không phải uổng công đi và về hay sao?
Chuyện 79
Công tử bưng bàn ghế
Lời dẫn: Con người khi không có tiền, ngày ăn ba bữa đạm bạc, mặc y phục thô sơ, nhưng cũng qua ngày tháng an cư lạc nghiệp. Khi họ có tiền, ăn sơn hào hải vị, mặc gấm lụa mềm mại. Có người bữa ăn phải có rượu thịt. Nhưng không may bị tán gia bại sản thì cuộc sống như thế nào?
Bậc Cổ đức dạy: “Còn nghèo thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên”. Khi chúng ta chịu cực khổ, nỗ lực học tập theo Thánh hiền; lúc đó, ngày ăn một bữa đạm bạc cũng chịu được; bởi vì, chúng ta muốn nghiên cứu học tập, có thể khiêm tốn học hỏi với tất cả mọi người. Khi làm quan to chức lớn, uy phong lẫm liệt, nhân cách cũng cao, kiêu ngạo tự đại cũng đến, luôn muốn mọi người tôn trọng ta, ta không tôn trọng người khác. Tục Ngữ có câu: “Gió nước theo sự di chuyển”. Khi bị bọn gian tà hãm hại tan tác thì cuộc sống của họ như thế nào?
Bậc Cổ đức dạy: “Có tiền không nên dùng hết, có thế lực không thể sai khiến mãi”. Chúng tôi nói cách khác “Có phúc không thể hưởng hết, có tài năng không được ỷ thế ức hiếp người”. Khi có tiền chúng ta nên để lại một ít để khi hết tiền có mà xài. Khi chúng ta có thế lực nên làm việc lợi ích, không được ỷ quyền thế ức hiếp người. Chúng ta có phúc phải quí trọng, có tài năng nên làm việc giúp ích mọi người, không nên lừa gạt và bóc lột mọi người, là tự đào mồ chôn mình, tự tìm ngõ cụt, tương lai khổ báo vô cùng.
Ngày xưa, có một hoàng tử sống trong nhung lụa, nên cho rằng công việc bưng ghế cực nhọc là việc của những người nô lệ thấp hèn. Ta là hoàng tử được quyền hưởng hạnh phúc vinh hoa, phú quí nhất ở cõi trần.
Một đêm, mọi người trong cung đã ngủ say, nhà vua ra vườn ngự uyển ngắm nhìn cảnh đẹp ban đêm, liền bảo hoàng tử bưng ghế đến cho vua ngồi. Hoàng tử thưa:
- Tâu phụ hoàng! Bưng ghế là việc của bọn nô bộc hạ tiện, con là hoàng tử, làm sao có thể bưng ghế được?
Nhà vua bảo:
- Nô bộc cũng là người, hoàng tử cũng là người; tại sao nô bộc bưng ghế được, hoàng tử thì không bưng ghế được?
- Tâu phụ hoàng! Con người có sang-hèn, vật có thật-giả, tốt-xấu. Làm sao giống được?
- Được rồi! Ngươi không bưng thì thôi.
Nhà vua cũng không ép buộc hắn.
Không lâu, nhà vua đem binh chống lại quân địch. Chẳng may, trong một trận càn đánh nhau khốc liệt, vua bị tử trận và đất nước cũng bị diệt vong. Hoàng tử tôn quý ngày nào, cũng lo chạy trốn trong đám người tị nạn. Lúc đầu ở trại tị nạn, ai cũng ăn uống đạm bạc kham khổ. Hoàng tử sống trong cung quen ăn ngon mặc đẹp, tất nhiên ăn không nổi. Trải qua vài ngày chàng đói mờ mắt, than trời không linh, trách đất không ứng, đành phải cố gắng nuốt một ít. Qua một thời gian, chàng ta cũng thích ứng cuộc sống hiện tại.
Trước đây, hoàng tử không hề làm việc gì, có kẻ hầu người hạ đem cơm nước dâng đến tận răng. Nay không đi làm thì phải chết đói; cuối cùng, chàng tìm đến một xí nghiệp sản xuất ghế, công việc của chàng làm là bưng ghế, mới có thể duy trì được cuộc sống. Bưng ghế là công việc mà trước đây mà chàng không đồng ý làm, không ngờ hiện nay chàng là công nhân bưng ghế. Rốt cuộc là tạo hóa trêu người phải không? Hay là số phận an bày? Hay là nhân quả tuần hoàn? Chúng tôi để các vị tự đoán nhé!
Bài học đạo lý
Con người vì sao có lúc gặp vận tốt, có lúc gặp vận xấu? Nếu người có phúc báo thì suốt đời hưởng phú quý mới đúng, vì sao họ lại lâm vào cảnh nghèo đói? Nếu người không có phúc báo thì suốt đời phải chịu nghèo cùng, vì sao họ trở nên giàu có? Cuối cùng, người nào điều khiển vận mạng của con người? Đây chính là bàn đến vấn đề nhân trước, quả sau. Nhân có nhân xa và nhân gần, quả cũng có quả xa và quả gần.
Nhân xa tức là chúng ta làm việc thiện ác ở đời trước, quả là giàu sang, nghèo hèn ở đời này. Đời trước, chúng ta có tu hành hay không; hoặc làm phúc, làm ác, lợi người, hại người, là kết thiện duyên, là kết ác duyên. Đời này làm người giàu sang, làm quan to chức lớn; hay làm người nghèo cùng hạ tiện, đều có nhiều sai khác.
Nhân gần được làm người giàu sang, nếu tham ô, khắc nghiệt, bóc lột mọi người để làm giàu thì sẽ có hậu quả thất bại, đau khổ. Nếu người nghèo khổ, biết chịu khó nỗ lực học tập, vươn lên cuộc sống; hoặc trung hậu, thật thà, ở đâu cũng kết duyên lành, giúp đỡ người khác thì nhất định sẽ có một ngày nghiệp hết phúc đến, cũng sẽ giàu sang.
Con người có giàu-nghèo, sang-hèn luôn thăng trầm, vận mạng thường thay đổi. Người giàu sang khi hưởng phúc thì nên tạo phúc cho tương lai, phúc mới dùng không hết. Kẻ nghèo hèn, tuy cuộc sống cực khổ, nhưng ra sức làm việc tìm cơ hội tích chứa phúc đức. Tục Ngữ có câu: “Cảnh nghèo kích động ý chí mạnh mẽ”. Nếu như họ không chịu cảnh nghèo khổ thì làm sao có chí để vươn lên cuộc sống; cho nên sự nghèo khó cũng là trợ duyên để họ vươn lên. Chúng tôi nói cách khác, người giàu sang vì đắc ý mà vong ân bội nghĩa, vì sung sướng sống trong xa hoa mà kiêu ngạo tự đại, vênh váo hống hách, cũng là nguyên nhân gây thất bại đau khổ. Con người như thế, là phúc hay họa? Chúng ta hãy vận dụng trí huệ để thấy rõ sự việc.
Phật giáo là tôn giáo trí huệ, chúng ta có thể áp dụng Phật pháp ngay trong cuộc sống hàng ngày; vì Phật pháp vô biên lấy không hết, dùng không cạn. Nếu chúng ta lợi dụng Phật pháp vì cá nhân, danh lợi là tự đào mồ chôn mình, là tự chuốc tai họa, là tự tìm địa ngục để đi vào. Phật pháp là làm lợi người, cứu đời, dạy người thoát khổ được vui, dạy người giải thoát sinh tử, cũng dạy người phương pháp làm người, làm việc. Có người lợi dụng Phật pháp để làm lợi cho cá nhân mình, tất nhiên nhân như thế nào thì quả như thế ấy.
Chuyện 80
Dùng phương pháp đảo lộn
Lời dẫn: Muôn vật trong thế gian, từ ngọn cỏ, cành cây cho đến tất cả dụng cụ đều có cách sử dụng của nó. Chúng ta biết sử dụng đúng là vật có ích, còn sử dụng sai thì kết quả ngược lại. Mỗi người đều có tài năng và có ưu điểm, khuyết điểm khác nhau. Chúng ta phải biết dùng người cho thích hợp thì ai nấy đều là người giỏi, là người thành công. Còn chúng ta biết năng lực của họ mà dùng không thích hợp thì ai ai cũng trở thành người bất tài; hoặc bị thất bại.
Khi chúng ta ăn thức ăn, nhất định phải dùng miệng, nếu đem đút vào hậu môn thì sẽ sinh bệnh. Chúng ta ăn bằng miệng, cảm giác ngon, thích thú và bồi bổ thân thể, cũng là chữa trị tất cả bệnh tật. Nếu chúng ta đút thức ăn vào hậu môn, không chỉ đau đớn mà còn sinh bệnh, khổ càng thêm khổ. Vì thế, muôn vật đều có cách dùng đúng hay dùng sai mà sinh ra kết quả an vui hay đau khổ.
Ngày xưa, có một thanh niên rất mạnh khỏe, bất kỳ công việc nặng nhọc nào, anh ta đều làm nhanh gọn; nhưng không biết vì sao anh ta mắc chứng bệnh trĩ nội. Khi bệnh phát tác làm anh ta đau đớn vô cùng, không còn tha thiết sống. Anh ta bảo các bạn:
- Quả thật tôi rất đau đớn, không cách gì chịu đựng nổi. Các anh hãy làm cho tôi chết, tôi van xin các anh đó!
Mọi người khuyên:
- Anh hãy cố gắng chịu đau một chút, chúng tôi đã cử người đi mời thầy thuốc rồi.
Một lúc sau, thầy thuốc đến, khám bệnh cho anh ta rồi hỏi:
- Bệnh của anh ta khi phát tác rất đau đớn phải không?
Mọi người đáp:
- Thưa thầy, đúng vậy! Xin thầy hãy bán thuốc hay nhất để trị bệnh cho anh ta.
- Bệnh này phải dùng phương pháp nhét thuốc vào, mới có hiệu quả; nhưng tôi có thuốc mà quên mang dụng cụ để nhét vào. Các anh đợi tôi về nhà lấy nhé!
Thầy thuốc vừa đi thì bệnh lại phát tác, anh ta lăn lộn trên giường rên la:
- Các anh hãy đem thuốc nhanh lên cho tôi uống đi, nếu không tôi sắp chết mất.
Mọi người không nỡ nhìn thấy anh ta đau đớn như thế, nên đem thuốc đến và nói:
- Thầy thuốc dặn thuốc này nhét vào hậu môn mới có hiệu quả.
Anh ta bảo:
- Mặc kệ, các anh cứ cho tôi uống trước, rồi tính sau.
Thuốc này có công dụng chỉ xức bên ngoài mà anh ta đem uống vào, nên vừa uống xong, bụng to như cái trống chầu. Anh ta vốn đau ở hậu môn, hiện tại lại đau thêm trên bụng, khổ càng thêm khổ, muốn sống không được, cầu chết cũng không xong. Lúc này, thầy thuốc trở lại. Anh ta réo lên:
- Thầy ơi! Nhanh lên, tôi đau bụng quá, không chịu nổi.
Thầy thuốc ngạc nhiên hỏi:
- Ủa! Không phải anh mắc bệnh trĩ à? Vì sao lúc này lại đau bụng?
- Vì tôi uống thuốc của thầy nên mới ra nông nỗi này.
- Tôi đã dặn rồi, thuốc này dùng để nhét mới có hiệu quả. Vì sao anh lại đem nó uống?
Vì thế, thầy thuốc phải cho anh ta uống thuốc súc ruột. Vừa uống xong, anh ta nôn ói và tiêu chảy ra hết. Sau khi, để anh ta nằm nghỉ ngơi một lúc, thầy thuốc lại nhét thuốc vào hậu môn. Anh anh tốn phí rất nhiều sức lực bệnh mới thuyên giảm.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người sinh ra ở đời, ai cũng có một nghề và đều có phương pháp làm việc. Kiếm tiền có phương pháp kiếm tiền, làm việc có phương pháp làm việc, làm người có phương pháp làm người, dùng đồ vật có phương pháp dùng đồ vật, trị bệnh có phương pháp trị bệnh, tu hành có phương pháp tu hành. Mỗi người đều có phương pháp kinh nghiệm của mình. Nếu như chúng ta dùng phương pháp không đúng thì làm việc gì cũng không thể nào tốt được; còn làm đúng phương pháp thì làm ít mà được thành công nhiều, làm sai phương pháp thì làm nhiều mà thành công ít. Vì thế, làm việc gì cũng đều có phương pháp, mỗi người đều có phương pháp kinh nghiệm riêng. Có người tích lũy phương pháp kinh nghiệm nhiều đời, nhưng họ giấu kín không chịu nói ra, lại nói bí quyết, hay cơ trời không được tiết lộ. Ở đời có bí mật cơ trời không được tiết lộ không? Nói thẳng ra, chẳng đáng một xu. Mọi người biết, nhưng giả ngu không nói mà thôi. Tục Ngữ có câu: “Lừa người không biết, người biết không thể lừa”. Đúng vậy.
Muôn sự ở đời, nếu như người biết thì mọi việc đều thông suốt. Người không biết gặp việc gì cũng bị chướng ngại, càng đáng thương hơn họ bị người lừa gạt liên tục, lao lực lại tốn tiền của. Làm quan có kiến thức của làm quan, làm kẻ cướp có kinh nghiệm của kẻ cướp. Kinh nghiệm của nghề buôn bán “không gian xảo thì không buôn bán được”, cũng có cách của thương nghiệp. Chúng ta muốn học kiến thức một nghề, phải mất dăm, ba năm; hoặc đem hết tinh lực cả đời. Người được vận may gặp thầy giỏi, bạn tốt; hoặc gặp được thiện tri thức, thì suốt đời đi trên con đường may mắn. Nếu bị vận xấu gặp ác tri thức; hoặc thầy tà, bạn tà, đi trên đường tà thì một đời như sụp đổ.
Nhưng con người thật kỳ lạ, chúng ta nói lời hay ý đẹp, nói lời chân thật họ không nghe. Họ cứ khăng khăng thích nghe những lời tà ma, lời giả dối, lời đồn nhảm, lời đe dọa, ai nấy đều thích nghe. Người có chánh tri, chánh kiến của mỗi người; cũng có tà tri, tà kiến của mỗi người. Đặc biệt là kiến thức của tôn giáo, chánh-tà càng khó tách rời. Chúng tôi lại nói phương pháp tu hành, là then chốt thăng hoa hay sa đọa. Người tu mù không biết vô tình đi vào đường tà, thật là đáng thương. Cho nên tà-chánh không thể phân biệt.
Chuyện 81
Trút giận sang người khác
Lời dẫn: Ở đời thường có những người làm sai, lại trút giận sang người khác, bản thân mình bất tài không làm được việc gì, lại đùn đẩy trách nhiệm lên vai người khác. Chúng tôi nói thí dụ “tự mình không có năng lực để tiến thân, lại đổ thừa chính trị không tốt, xã hội không được an ninh trật tự, có nhiều hiểm nguy rình rập; lại có rất nhiều kẻ ác, mọi người cạnh tranh nhau, người tốt khó làm việc được v.v…”. Họ che đậy sự bất tài của mình, đùn đẩy công việc cho người khác.
Thời Tam Quốc có Tào Tháo, phụ thân của ông bị bọn thổ phỉ vùng Từ Châu giết chết. Ông ta lại trút giận vào nhân dân Từ Châu, chỉ huy một đại binh kéo đến Từ Châu giết sạch hết dân chúng. Như thế có đúng không?
Hồng Tú Toàn nói: “Trời sinh muôn vật để nuôi người, con người không có chút đức để báo đáp trời. Giết! Giết! Giết”. Ông ta hạ lịnh bảy lần giết. Ông đi đến đâu đều giết sạch hết nhân dân. Người này có còn nhân tính không? Dân chúng có đáng giết không? Là mệnh lệnh của trời, ông ta đi giết người phải không? Tự mình muốn làm việc xấu đều mượn cớ làm theo ý trời.
Ngày xưa, có một nông dân cần cù chăm chỉ làm việc đồng áng. Một hôm, ông dắt con trai đi thăm ruộng nhà. Ông có dụng ý vừa muốn con trai biết ruộng nhà, vừa đi giải khuây. Vô tình, hai cha con đi vào rừng, người cha ngồi bên gốc cây nghỉ ngơi, con trai lại đi thẳng vào rừng sâu. Bỗng chú bé chợt thấy mèo rừng, cáo rừng, lại thấy con cọp đuổi theo heo rừng; cuối cùng chú gặp một con gấu đen, vì sợ quá nên chú bỏ chạy. Do chú bỏ chạy, gây lên tiếng động, con gấu biết có người nên đuổi theo, nó lao tới vồ trên vai chú bé. Chú sợ hãi chạy lao về phía trước, vừa chạy vừa la lớn: “Gấu đen đến rồi! Gấu đen đến rồi! Hãy cứu tôi với!”.
Chú bé la vang cả khu rừng, gặp cha chú thở hổn hển nói:
- Cha ơi! Con vừa bị gấu đen vồ trên vai. Cha xem thử trên vai con có bị chảy máu không?
Người cha nhìn thấy trên bả vai con bị thú dữ cào bị thương, ông ta tức giận vô cùng liền cầm cung tên đi thẳng vào rừng. Ông không thấy loài thú dữ nào mà gặp tiên nhân tu đạo, râu tóc dài trắng xóa. Ông ta không hỏi rõ đầu đuôi, liền lắp tên vào cung chuẩn bị bắn vào tiên nhân. Chú bé chạy theo sau, liền ngăn lại nói:
- Cha ơi! Vị này không phải thú dữ đã hại con bị thương.
Người cha hỏi:
- Chẳng phải người này râu, tóc dài đó sao?
- Cha à! Bờm, lông dài là loài thú. Ông này là người, lại là người tốt tu đạo. Tại sao cha lạị giết một người tốt như thế?
Gã nông dân này không biết lại hồ đồ, hoặc trút giận vào người khác. Ông muốn giết tiên nhân mà không phân biệt đúng sai.
Bài học đạo lý
Thế gian có người tốt, cũng có người xấu. Do đó, có một số người xấu thường đổ lỗi cho xã hội. Họ nói: “Xã hội này thật đen tối, đều là người xấu, tôi muốn bào thù; cho nên tôi làm những việc ác muốn báo thù hết mọi người”.
Mỗi quốc gia, khó tránh được chuyện các quan chức tham ô, cũng là chuyện xảy ra ở khắp trên thế giới, nhưng người bị hại thì trút giận hết vào quốc gia. Mỗi gia đình đều có hàng xóm, trong gia đình thì có con cái, những đứa bé chơi đùa qua lại là chuyện bình thường; nhưng khi bọn chúng cãi nhau lại dẫn đến người lớn chửi nhau. Từ đó, người lớn trở thành bất hòa, ở đâu cũng có chuyện này.
Giữa người với người sống với nhau; nói năng, làm việc, mỗi người đều có cá tính của mình. Mỗi người có tư tưởng và hiểu biết đều khác nhau, nên khó tránh được chuyện va chạm xảy ra và xung đột. Từ chuyện cá nhân, lại trút giận vào xã hội; hoặc từ xóm làng với xóm làng, cho đến quốc gia với quốc gia tạo thành oán thù muôn đời, chuyện này đâu đâu cũng có. Vì chút sĩ diện mà con người gây nên chiến tranh, người chết như núi, chuyện này ở đâu cũng thấy. Vì sao con người thích đánh nhau như thế, vì sĩ diện phải không? Giành được sĩ diện, lại như thế nào? Họ phải trả giá rất lớn.
Có người không kiềm chế hành vi của mình, khi bị người khác phê bình; hoặc bị người sỉ nhục; họ không kiểm điểm lại mình mà trút giận vào người khác; hoặc đi trả thù cả xã hội, người bị hại đều là người tốt vô tội. Trút giận vào xã hội như thế có công bằng không?
Mỗi đoàn thể có qui luật và ràng buộc của đoàn thể, mọi người phải tuân thủ theo, nếu một người nào làm sai thì phá hoại danh dự cả tập thể. Tất nhiên người đó phải chịu trừng phạt theo quy luật, nhưng người chịu hình phạt thường trút tức giận vào tập thể và phỉ báng, phá hoại. Con người thật sự quá đáng thương! Chúng ta làm theo phương diện tốt thì ảnh hưởng rất ít, nhưng làm việc phá hoại thì ảnh hưởng rất nhiều. Trút giận vào người khác cũng thật là đáng thương.
Chuyện 82
Người rừng gieo lúa
Lời dẫn: Người làm ruộng có phương pháp của nghề làm ruộng. Người buôn bán có phương pháp của nghề buôn bán. Người không biết phương pháp càng ra sức làm thì càng hỏng.
Thời đại nguyên thủy, thức ăn của con người đều lấy từ thiên nhiên. Khi đói, con người đi hái rau hay nhặt trái cây về ăn, thiên nhiên cung cấp thức ăn đầy đủ. Nhưng khi con người ngày càng đông thì thức ăn trong thiên nhiên càng thiếu và tâm ích kỷ của con người càng tham nặng, họ lại đem thức ăn cất giấu, ăn không hết thì bị hư thối. Do đó, thức ăn trong thiên nhiên hư hao rất nhiều, không đủ cung cấp cho con người. Cho nên, thần nông chỉ dạy cho mọi người tự trồng trọt. Mọi người ra sức trồng trọt mới có thức ăn để sống. Nếu người không chịu làm việc thì chịu cảnh đói khát, cũng từ đó sinh ra hành vi trộm cắp, cướp giật, tất cả chuyện đúng, sai cũng từ đây mà phát sinh ra.
Thuở xưa, có một người rừng không biết cách làm ruộng. Một hôm, hắn xuống vùng đồng bằng, hắn nhìn thấy đồng ruộng lúa non xanh mơm mởm thẳng cánh cò bay thật là đẹp mắt. Hắn vô cùng ngưỡng mộ, tự nói: “Đồng lúa này thật là xinh đẹp, nhất định có người gieo trồng, mới đẹp như thế. Nếu như ta học cách gieo lúa thì sẽ có một đồng lúa xanh mơm mởm như thế chăng?”. Do đó, hắn đi tìm nông dân để chỉ bày phương pháp làm ruộng.
Người nông dân nói:
- Việc này, chỉ cần anh cày ruộng, ban đất cho bằng phẳng, gieo lúa giống xuống, rồi bón phân. Nếu khi có cỏ mọc thì anh phải nhổ sạch cỏ, qua một thời gian lúa sẽ lớn lên, xanh mơm mởm.
Người rừng nghe nói như vậy rất vui mừng. Hắn trở về nhà, bắt đầu cày ruộng, ban cho bằng phẳng, đất bằng phẳng rồi, đáng lẽ gieo lúa giống xuống thì hắn lại thuê rất nhiều người đến giẫm đạp xuống, lại dùng khúc gỗ tròn lăn trên đất, làm cho đất cứng lại.
Việc gieo lúa giống xuống, đối với người nông dân rất dễ dàng; nhưng hắn lại suy nghĩ rất nhiều thời gian. Hắn cho rằng tự mình lội xuống ruộng gieo lúa giống sẽ để lại nhiều dấu chân, lại sợ đạp lún lúa giống xuống, nên hắn không dám lội xuống ruộng. Hắn đi thuê bốn người khiêng một cái giường, hắn ngồi trên đó gieo lúa giống xuống ruộng. Hắn không biết tuy mình không lội xuống ruộng, nhưng bốn người khiêng chiếc giường có tám chân phải lội xuống ruộng khiêng hắn, tất nhiên phải giẫm đạp xuống. Như thế ruộng có bằng phẳng không? Đất càng giẫm càng cứng, lúa giống gieo xuống khó mà nảy mầm được, phơi nắng tất nhiên sẽ chết.
Bài học đạo lý
Con người là động vật rất kỳ lạ, dạy họ làm việc rất đơn giản bình thường, học việc có ích đối với mọi người thì rất khó. Nhưng học việc không có lợi, làm hư hại thì rất dễ dàng. Chúng ta bảo họ làm việc xấu, vừa hỏi họ biết liền, dạy làm việc tốt nói rất nhiều lần cũng không hiểu. Đây là đặc tính của nhân loại, hay tạo hóa trêu người?
Đức Phật dạy: “Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi trong sáu đường, thói quen, tiêm nhiễm làm việc xấu rất nhiều, việc tốt thì ít”. Cho nên, chủng tử tốt ít, nên tính xấu thì nhiều mà tính tốt thì ít. Do đó, họ học việc tốt thì rất khó mà việc xấu lại rất dễ; bởi vì, chủng tử xấu nhiều, nên dễ đưa đến thói hư tật xấu, làm nhiều việc xấu. Tính tốt ít nên dẫn phát tâm tốt, làm việc tốt cơ hội rất ít.
Nếu chúng ta biết nương theo Phật pháp tu hành, luôn luôn vun bồi thói quen tốt gợi ra chủng tử tốt thì mới có thể làm việc tốt, tương lai sẽ thu hoạch quả ngọt.
Con người có khôn-ngu, hiền-dữ. Vì sao mọi người không thể làm người hiền lành, lương thiện? Bởi vì, chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi trong sáu đường, thời gian đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh quá lâu; cho nên tiêm nhiễm thói xấu quá nhiều, cơ hội sinh lên cõi trời, cõi người rất ít. Vì thế, người thông minh, trí huệ, tính tình từ bi cũng rất ít. Chúng ta muốn có trí huệ và tâm từ bi thì phải nương theo Phật pháp tu hành, vun bồi dần dần; hoặc được thầy chỉ dạy thì mới có thể thường sinh trí huệ và tâm từ bi.
Mọi người đều thích trí huệ và tâm lương thiện, có ai thích ngu si và hung dữ không? Nhưng do bẩm sinh lôi kéo, có cách gì không? Đã nói bẩm sinh lôi kéo, tức là thói quen đã nhiễm nhiều đời, nhiều kiếp ở quá khứ. Đã tiêm nhiễm thói xấu từ đời quá khứ, vì sao hiện tại chúng ta không không chọn thử việc tốt để học tập, vun trồng dần dần phần từ bi, trí huệ và đạo đức? Có người nói như thế là quá chậm, chỉ cần chúng ta tin theo thượng đế toàn năng. Hoặc một vị thần chúa tể của chúng ta, ngài có thể ban cho chúng ta tất cả, ban phúc cho chúng ta, chuộc tội lỗi của chúng ta, chẳng phải quá dễ dàng hay sao?
Sự thật, thần có thể ban cho chúng ta trí huệ và tâm lương thiện không? Có thể ban phúc cho chúng ta và chuộc tội lỗi của chúng ta không? Trên thực tế, chúng ta và thần cùng sinh ra đều có những tâm xấu như tham, sân, si, ngã mạn, nghi ngờ, ganh tị v.v…Khi thượng đế sáng tạo ra con người, vì sao không ban tặng cho con người từ bi, trí huệ, đạo đức và tâm lương thiện giống nhau? Nếu như con người có những tâm tốt thì họ sẽ không đến nỗi lưu lạc cho đến ngày nay. Vị thần nào đó, thật sự ban cho chúng ta tâm tốt; hoặc ban phúc và chuộc tội của chúng ta? Là ban cho tất cả mọi người, hay chỉ người tin theo thần. Nếu như người cầu thần thì thần mới có thể chuộc tội, hay ban cho họ tâm lương thiện. Như thế, vị thần này khác nào quan chức tham ô ở thế gian?
Chuyện 83
Mạnh hiếp yếu
Lời dẫn: Từ xưa đến nay, bất luận ở đâu chuyện vợ chồng cãi nhau xảy ra như cơm bữa. Nếu như đánh nhau, người phụ nữ chân yếu tay mềm bị thua là chuyện tất nhiên. Khi bị chồng đánh, có chị cho rằng số phận mình như vậy nên im lặng cam chịu, nuốt lệ vào lòng. Có chị kể lể với hàng xóm, hay bạn bè để trút nỗi u buồn. Có chị đánh con cái để trút nỗi oán hận trong lòng. Tục Ngữ có câu: “Cấp trên quản cấp dưới, cái cuốc quản cái ki.”
Làm trong công ty, tổng giám đốc bị chủ tịch hội đồng quản trị quở trách, tổng giám đốc tìm giám đốc trút giận, giám đốc tìm trưởng phòng rầy la, trưởng phòng tìm nhân viên mắng. Như thế, cấp trên quản lý cấp dưới. Trong quân đội, cục cảnh sát; hoặc tất cả đoàn thể nhân dân cũng cấp trên quản lý cấp dưới. Đây là mạnh hiếp yếu phải không? Hoặc muốn đùn đẩy trách nhiệm cho người khác; hoặc trút nỗi tức giận trong lòng. Chúng tôi nghĩ chuyện này ở đâu cũng có.
Ngày xưa, có một người nuôi một con khỉ. Khỉ là động vật rất thông minh và lanh lợi, chỉ cần chúng ta đối xử tốt và thân thiện với nó thì nó hiểu được. Bất kỳ chúng ta dạy nó mặc áo, đội mũ; hoặc phụ trèo cây hái trái, nó đều làm rất tốt; cho nên, chủ nhân rất hài lòng nó. Ông chủ này trồng rất nhiều cây ăn trái, nên ông huấn luyện khỉ trèo cây hái trái, nó cũng hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Con khỉ biết quan sát sắc mặt vui-buồn của ông chủ. Có lúc trèo hái cây, nó chuyền từ cây này sang cây khác, nghịch ngợm vui đùa với ông chủ, không chịu làm việc. Khi đó, nếu như ông chủ nạt một tiếng, nó ngừng đùa giỡn, vội đi hái trái cây.
Khi hái trái cây, nó biết phân biệt trái nào chín, trái nào sống. Một hôm, nó cố ý hái trái sống, ông chủ liền cầm trái cây gọi nó xuống, nó nhìn qua biết ông chủ đang giận, biết mình phạm lỗi nó vội tụt xuống, ông chủ cầm hai trái đặt trước mặt nó nói: “Ngươi xem! Trái cây này còn sống, vì sao lại hái xuống?”. Ông chủ véo mạnh vào tai nó, nó đành phải ôm đầu chạy. Người có tâm oán hận, con khỉ thông minh cũng như vậy. Nó cũng đành chịu, nhưng trong lòng luôn nhớ.
Lúc trở về nhà, có chú bé chạy ngang qua, khỉ còn giận, nên véo vào tai chú bé hai cái. Đây có phải là mạnh hiếp yếu không?
Bài học đạo lý
Con người và tất cả động vật, nếu họ càng thông minh; hoặc chức vụ con người càng cao thì họ không chịu đựng để người khác bắt nạt. Người hiểu biết kém cỏi; hoặc động vật ngu si thì cam chịu người khác ức hiếp. Bậc Cổ đức dạy: “Bậc đại trí trông như ngu đần”. Người quá ngu si, hay người thông minh cực kỳ đều có thể chịu đựng người khác ức hiếp. Chỉ có người nửa khôn nửa dại thì bất cứ việc gì cũng tính toán thiệt hơn. Nhưng người có trí huệ và đức hạnh lại rất ít. Người quá ngu si, hoặc người có lương tâm cũng không nhiều. Ở đời phần đông là người vừa khôn vừa ngu, vừa thiện vừa ác thì chiếm số đông; cho nên, thế gian có chuyện tranh cãi thị phi rất nhiều.
Con người giống nhau, vì sao có sự sai khác người khôn, kẻ dại, người mạnh, kẻ yếu, người đức hạnh, kẻ gian ác, và tính tình tốt-xấu? Như thế, ai ức hiếp ai? Vấn đề này có không phải là nên hay không nên, mà là vấn đề ai có đạo đức, ai không có đạo đức, ai thiếu nợ ai v.v…Người có tu dưỡng, có đạo đức thì không nên dùng quyền thế bắt nạt người, mạnh hiếp yếu, cao đè thấp. Những người ngu si hạ tiện, bị người sai khiến, hoặc bị người ức hiếp, cho đến đền trả nghiệp đời trước. Vì thế, mới có sự sai khác mạnh-yếu, sang-hèn; vả lại, nhân quả xoay vần, mãi mãi luân chuyển không dứt. Chúng ta biết có thoát ra khỏi bánh xe luân hồi hay không, thì hãy nhìn việc làm của mình.
Chuyện 84
Nguyệt thực đánh chó
Lời dẫn: Tục Ngữ có câu: “Heo đến nhà thì nghèo, chó đến nhà thì sang, mèo đến nhà thì xây nhà lớn”. Nếu như heo vô duyên vô cớ chạy đến nhà thì nhà này sẽ nhanh chóng rơi vào cảnh nghèo khổ. Bỗng nhiên, chó ở đâu chạy đến muốn ở lại nhà chúng ta thì sẽ phát tài nhanh chóng. Còn nếu mèo tự nhiên chạy đến nhà chúng ta muốn ở lại thì nhất định sẽ xây nhà cao cửa rộng. Đây là quan niệm mê tín chung của mọi người. Không chỉ những điềm trên mà còn “Chim khách kêu là điềm lành, quạ kêu là điềm dữ”. Có người khi đi xa, hay sáng sớm thức dậy, nghe tiếng chim khách kêu là có điềm lành sắp đến nhà; hoặc điềm báo trước vận may.
Bất kỳ lúc nào, khi mọi người nghe tiếng quạ kêu là có điềm dữ, nhất định có tai nạn gì; hoặc việc không may xảy ra; cho nên, mọi người cho rằng quạ là chim dữ. Những loài chó, mèo, chim khách, quạ đen sẽ báo tin cho chúng ta điềm lành-dữ; hoặc đem đến cho chúng ta vận tốt-xấu có đúng không? Tất nhiên là một loại mê tín. Nhưng “Một người nói không thật, trăm người nói thành sự thật”. Mọi người đều nói như thế, việc không giả cũng trở thành sự thật. Làm sao phá trừ mê tín này? Chúng ta phải “thấy điềm kinh dị không sợ thì điềm đó trở thành bình thường”. Hoặc lấy “một điều chánh khắc phục vạn điều tà”. Tâm có chính tâm, chính niệm thì muôn điều tà không xâm nhập được. Đây là pháp bảo phá trừ mê tín.
Thuở xưa, có một địa phương, nếu gặp lúc nguyệt thực thì liền đánh chó làm cho mọi người không hiểu gì cả. Vì sao họ lại đánh chó? Theo truyền thuyết, chó ăn mặt trăng; cho nên mới bị nguyệt thực. Tại sao chó nuốt được mặt trăng? Đây là một loại truyền thuyết mê tín.
A-tu-la là người, đại biểu hung ác và tàn bạo nhất thế gian, phúc báo của họ cũng rất lớn, chuyện cơm ăn, áo mặc, đi đứng họ giống như người ở cõi trời, chỉ là tâm sân hận và ganh tị thì rất nặng. Thần thông của họ có thể lớn thu nhỏ, nhỏ hoá lớn. Vì thế, mỗi lầm họ đánh nhau với chư thiên; nếu bị thua, họ ẩn trốn trong lỗ ngó sen dưới đáy nước, mới thoát được khổ nạn bị chư thiên đuổi theo giết chết.
Nếu a-tu-la không đánh với chư thiên thì phúc báo của họ lớn vô cùng. Có lúc, vua a-tu-la mời thần đến cung điện uống rượu, nghe nhạc và nghe con gái của a-tu-la ca hát, nhảy múa, cũng là cách hưởng thú vui.
Một hôm, a-tu-la ở trong cung đang xem ca múa, bất giác mơ màng ngủ mê, bỗng nhiên tỉnh lại, cảm thấy mặt trăng chiếu thẳng vào mắt. A-tu-la liền lớn tiếng bảo: “Mặt trăng chiếu thẳng vào mắt ta, các người mau đi che lại cho ta”. Bộ hạ của vua a-tu-la và các hạ thần vội vàng đến che mặt trăng.
Mặt trăng chiếu sáng khắp trần gian, bỗng nhiên bị tối sầm lại, mọi người nhìn thấy đám mây đen giống như con chó nuốt mặt trăng; cho nên bảo nhau: “Chó cõi trời nuốt mặt trăng, trăng sáng mới bị nguyệt thực”. Do đó, mọi người liền đánh chó. Nhưng chó cõi trời nuốt mặt trăng có liên quan gì đến chó cõi người không? Từ đó, ở trần gian trở thành phong tục tập quán “Nguyệt thực đánh chó”.
Bài học đạo lý
Nhân gian có rất nhiều truyền thuyết, đều là chuyện vu vơ. Nhưng vẫn truyền từ xưa đến nay, cũng trở thành một phong tục tập quán. “Một người nói không thật, trăm người nói thành sự thật”. Có người nói: “Lời nói bịa đặt một trăm lần cũng trở thành sự thật”. Cho nên, dân gian có rất nhiều truyền thuyết, đều là chuyện vớ vẩn.
Ngày nay, thời đại công nghệ thông tin, kiến thức con người đạt đến tầm nhìn xa trông rộng, mà vẫn còn rất nhiều truyền thuyết mê tín lưu truyền lại. Thế gian có rất nhiều chuyện kỳ lạ không thật, cũng có rất nhiều chuyện phù hợp cuộc sống, lại có những chuyện không thể nghĩ bàn. Mọi người đều nói: “Thà tin là có, còn hơn không tin”. Chuyện mê tín vẫn tiếp tục lưu truyền, từ đời này sang đời khác. Có những chuyện ngay bản thân mình không hiểu gì cả, cũng y theo phong tục tập quán mà làm. Họ cho rằng, dù sao cũng chẳng tổn hại lớn lao gì, y theo đó mà làm. Nhưng tâm lý mê tín này, chúng ta có thể dẫn ma vào nhà đó nhé!
Tín ngưỡng tôn giáo là thiện tâm. Tín ngưỡng là nơi an ủi và gửi gắm tinh thần, nhưng tín ngưỡng mà không có lý trí thì tạo cơ hội cho bọn gian trá, chúng chờ sơ hở để lợi dụng, cũng có khi tạo thành yêu ma quỷ quái, cô hồn cõi âm chờ cơ hội. Những người đó tổn thất của cải là việc nhỏ, giao kết bọn bất lương, cũng là giao kết cô hồn cõi âm, tương lai có tốt đẹp không? Thế gian có rất nhiều người nghèo khổ; hoặc không may họ bị tán gia bại sản. Chúng ta hãy phát tâm Bồ-đề cứu giúp, nhưng không phải nịnh họ, hoặc cầu xin họ. Đạo lý giống nhau, chúng ta sợ cô hồn cõi âm thì nó tìm đến chúng ta gây phiền phức. Nhưng nếu chúng ta nịnh theo nó thì trở thành đầu cơ trục lợi cho nó. Ai có lỗi? Tất cả phong tục mê tín ở dân gian, cũng là cô hồn dựa vào để đầu cơ trục lợi. Chúng ta vì bình yên nhất thời mà nhượng bộ với họ, tức là nhượng bộ cùng với bọn lưu manh ở thế gian, là đồng lõa đút lót của cải cho bọn xấu, có gì khác nhau? Cho nên mê tín chính là tạo cơ hội cho bọn gian tà.
Chuyện 85
Đau khổ vì bệnh mắt
Lời dẫn: Muôn sự muôn vật ở thế gian đều có cách nhìn và nhận xét của mỗi người, có chánh kiến, có tà kiến, có lẽ phải, cũng có lẽ trái. Nhận xét đúng thì lời nói, việc làm mới đúng đắn, tạo nên hạnh phúc, an vui cho con người, vun bồi đức hạnh tôn quí và cao thượng. Kẻ tà tri, tà kiến, hành động thấp hèn, tạo thành nhân cách của kẻ tiểu nhân, gây nên ác nghiệp, sẽ đọa vào đường ác vô biên.
Ngày xưa, có một phụ nữ, vì không được sự giúp đỡ của gia đình, nên không được học hành đến nơi chốn, chẳng có nghề nghiệp để mưu sinh. Do đó, nàng sống qua ngày bằng nghề ai thuê gì làm nấy. Nhưng không may nàng mắc bệnh đau mắt rất nặng, rốt cuộc việc đi làm thuê cũng không làm được. Thường ngày, nàng bị mọi người mắng chửi, ức hiếp đau khổ vô cùng, nhưng không biết tỏ nỗi lòng cùng với ai.
Một hôm, nàng gặp một cô gái có học vấn, hiểu biết, liền than thở:
- Em ơi! Làm người có đôi mắt sáng, thật hạnh phúc biết bao!
Cô gái khuyên:
- Này chị! Không hẳn là như thế. Người có đôi mắt sáng, hàng ngày nhìn thấy những chuyện giả dối, lừa đảo tạo ác nghiệp ở thế gian; nhìn thấy những kẻ gian trá, nham hiểm mà muốn tránh xa; lại thấy những kẻ quan chức tham ô tự đánh mất nhân cách và đạo đức, ba ngày ăn cơm không nổi. Chi bằng không thấy là tốt hơn.
- Em ơi! Chị mong ước được có đôi mắt sáng để nhìn mặt tốt đẹp cuộc đời, ai nấy đều lương thiện, ai cũng đối xử với nhau tình cảm đậm đà, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp hoạn nạn. Còn những kẻ làm chuyện phạm pháp, gian trá thì chị như không nhìn thấy, để họ “ngựa dữ gặp kị sĩ hung”. Chị luôn thương xót họ, tương lai phải chịu báo ứng; lại còn, nhiều đời nhiều kiếp khó mà được siêu thăng. Em nói đi, họ có đáng thương không?
- Em là người sáng mắt, nhưng vẫn hay bị đau, thường đau dữ dội.
- Em bị đau mắt suốt cả ngày, hay đau từng cơn?
- Tất nhiên là không đau liên tục, có lúc đau, có lúc không.
- Sự thật có mắt phải có bệnh, nhất định phải đau đớn. Chuyện này không còn biện pháp, có thân, có tâm thì có khổ, giống như có sinh thì có tử. Nhưng con người có thể nhờ đôi mắt mà xem kinh, ngắm nhìn tượng Phật, nhìn thấy mặt tốt ở đời. Nếu như thấy mặt xấu, những chuyện phạm pháp thì cũng làm cho mình thức tỉnh. Vì thế, mắt giúp chúng ta rất nhiều, đúng không?
- Chị à! Người có mắt sáng tuy có đau khổ thời gian ngắn, nhưng người mù lại đau khổ suốt đời.
- Em ạ! Người có đôi mắt sáng nhìn về tương lai rộng lớn, dự định làm những việc lâu dài cho tương lai. Người bị mù chỉ thấy việc hiện tại, nhưng không biết tương mình sẽ ra sao; đó là nỗi đau khổ nhiều đời nhiều kiếp ở tương lai .
Nói như thế, người mắt sáng tốt? Hay người mù tốt? Chúng tôi nghĩ kẻ ngu cũng biết chọn cho mình phải không?
Bài học đạo lý
Đôi mắt sáng giúp cho chúng ta nhìn thấy tất cả sự vật ở thế gian, nhưng thấy việc tốt làm cho chúng ta vui vẻ, thấy việc xấu làm cho chúng buồn bã; lại có thể lôi kéo chúng ta tạo ác nghiệp, và cũng có thể giúp chúng ta tu hành làm nghiệp thiện. Đôi mắt như thế là tốt hay xấu, là thiện hay ác? Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Chúng ta muốn làm việc lành, việc dữ; muốn thấy tốt, thấy xấu, thấy thiện, thấy ác đều là ý nghĩ của chúng ta; không nên đỗ lỗi cho mắt thấy chuyện tốt, xấu phải không?
Người có đôi mắt thì phải có bệnh, có thân thì có khổ. Như thế, chúng ta cũng không làm chủ được bản thân phải không? Thân có thể làm cho chúng ta an vui, cũng có thể làm cho chúng ta đau khổ; đồng thời, còn có sự liên quan đến hạnh phúc hay khổ đau nhiều đời nhiều kiếp ở tương lai, chỉ do chúng ta biết cách ứng dụng nó như thế nào mà thôi. Ứng dụng thích hợp thì làm cho chúng an vui; ứng dụng không đúng thì làm cho chúng ta đau khổ. Như vậy, mắt sáng và trí huệ là rất quan trọng. Đúng không?
Phật giáo là tôn giáo trí tuệ. Đức Phật là Đấng giác ngộ, có trí huệ thâm diệu mới thành Phật. Vì thế, Ngài thấy rõ tất cả sự vật ở thế gian. Cho nên, những điều Ngài dạy chúng ta đều là những việc kinh nghiệm nhiều đời nhiều kiếp, phát xuất từ trí huệ của Ngài. Tại sao chúng ta không y theo Phật pháp tu hành? Phật pháp như kim chỉ nam trong biển khổ, như thầy thuốc đưa thuốc hay cho bệnh nhân. Người có duyên, có căn lành mới gặp được, cũng mới có thể nương theo pháp mà tu hành. Bằng không thì biển khổ vô cùng; chúng ta giống như người mù đi trên con đường, biết đến khi nào về đến quê nhà bình yên.
Chuyện 86
Tham lợi nhỏ sai lầm việc lớn
Lời dẫn: Làm người, ai mà không muốn mình kiếm được nhiều tiền? Có tiền của ai mà không ra sức giữ gìn nó? Vấn đề kiếm tìm bằng cách nào? Và chúng ta giữ gìn tiền của như thế nào? Có người lừa đảo dùng thủ đoạn tinh vi mà kiếm được tiền. Có người bỏ sức lao động rất ít mà được lợi rất nhiều. Có người tham ô bòn rút của công. Có kẻ lường gạt của cải người khác. Có kẻ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối v.v…để được lợi ích; thậm chí có người đốt nhà, giết người cướp của. Vì có được tiền của hại người như thế sao? Hay là lòng người nham hiểm, gian trá? Con người chỉ vì được của cải ngay trước mắt mà bất chấp tất cả, chỉ mong có được tiền, lại càng muốn giữ gìn nó.
Ngày xưa, có hai cha con. Một hôm, họ nghiên cứu bàn bạc cách làm ra tiền như thế nào? Người con trai nói:
- Thưa cha! Con nghĩ làm nghề buôn bán dễ kiếm lời nhanh nhất.
Người cha bảo:
- Cách kiếm tiền tốt nhất là chúng ta bán kẹo.
- Là sao hả cha?
- Bởi vì, chúng ta bán kẹo vốn ít mà lời nhiều, gánh kẹo đến các thôn quê bán, trẻ con rất thích ăn kẹo, chỉ cần bỏ ít tiền vốn mà dễ kiếm được nhiều tiền lời.
Người làm nghề buôn bán, xuất nhập hàng hóa, có người thách giá bán rất cao; từ đó suy ra, cha con họ nghiên cứu việc này là có kinh nghiệm. Trẻ con ở thôn quê đều thích ăn kẹo, họ đem kẹo bán ở thôn quê, chẳng những bán giá đắt mà còn bán rất chạy; cho nên kiếm được nhiều tiền lời. Sau khi, hai cha con bàn bạc xong; họ liền quyết định làm nghề bán kẹo. Thật sự, nghề buôn bán rất dễ phát tài, buôn bán tuy ít, nhưng được lợi nhuận cao. Do đó, không bao lâu, hai cha con kiếm được rất nhiều tiền.
Một hôm, hai cha con bỏ kẹo trong túi vải mang đi, họ muốn đến làng quê để bán. Đến chiều tối, họ đang trên đường trở về. Bỗng gặp bọn thổ phỉ hung ác. Một tên hỏi:
- Bọn mày làm nghề gì?
Người cha đáp:
- Cha con tôi bán kẹo lặt vặt.
- Buôn bán lặt vặt hay buôn lậu đều giống nhau, bọn mày đi lừa gạt, bóc lột tiền của dân chúng, lòng dạ độc ác so với bọn cướp chúng tao nào có khác gì. Hôm nay, bọn mày gặp chúng tao là còn may đó. Này nhé! Bọn tao bảy phần, mày ba phần, cùng chia của ăn cướp mà.
- Đây là kẹo của chúng tôi, làm sao chia cho các ông được?
- Bọn tao bảy phần, mày ba phần, kể ra chúng ta còn khách sáo với mày. Mày không biết tốt xấu, bọn tao ăn hết.
Bọn thổ phỉ giật lấy hết kẹo. Lúc đó, người cha nhìn thấy trên tai con trai có đeo hoa tai bằng vàng, không thể để cho bọn chúng cướp đi, nên ông bẻ mạnh đôi hoa tai, nhưng cái móc rất chặt không gãy; trong lúc hốt hoảng, ông cầm dao chặt đầu con trai. Trong đêm tối, bọn chúng không thấy hành động của ông. Chúng lấy hết kẹo và của cải cướp vừa được, vui mừng hò hét kéo nhau đi.
Người cha cẩn thận bế thân con trai lên, đem đầu đặt lại, nhưng thân con đã mềm nhũn, ông buông tay, đầu con rớt xuống đất. Ông lại đặt đầu lại lên cổ, cũng rớt xuống lại thì ông mới biết con trai đã chết rồi.
Bài học đạo lý
Bậc Cổ đức dạy: “Tham lợi nhỏ mà sai lầm việc lớn”. Thông thường mọi người có thói quen tham chút lợi, vì tham chút lợi mà sai lầm việc lớn, ở đâu cũng có chuyện này. Con người vì tham chút lợi mà nói dối đủ điều, nơi nào cũng có. Vì họ nói dối mà đánh mất nhân cách, bị mọi người xem thường, cũng mất đi tình cảm và sự giúp đỡ của người khác; nghiêm trọng hơn là đánh mất tiền đồ tốt đẹp. Không phải vì tham lợi nhỏ mà sai lầm việc lớn hay sao?
Bậc Cổ đức dạy: “Giang sơn muôn dặm, ngày ăn ba bữa”. Tương lai mọi người muốn ăn ba bữa cũng không khó lắm. Nhưng vì muốn ăn sơn hào hải vị, nên tìm khắp thiên hạ, lặn xuống biển, đi cùng khắp chân trời góc biển; hoặc rừng sâu, đồng trống, cho đến chúng sinh ở dưới hang cũng đào bắt ăn cho được. Cho nên, họ tạo rất nhiều ác nghiệp, kết nhiều oán thù. Khi ăn chúng ta luôn nhớ nghĩ “ăn qua ba tấc lưỡi biến thành phân”. Nếu chúng ta vì ăn cho sướng miệng mà lao tâm khổ tứ, từ năm này qua năm khác, tương lai sẽ kết oán thù với chúng sinh, nhiều đời nhiều kiếp oan khiên không dứt, vậy tại sao chúng ta không dừng lại tham chút nhỏ mà đánh mất lợi lớn?
Bất kỳ mọi người làm nghề sĩ, nông, công, thương, chỉ cần làm một ngày mà có thể ăn nhiều ngày, thậm chí có thể ăn nhiều tháng. Bởi vì “nuôi con cậy lúc về già, tích chứa lúa gạo phòng khi đói”, hay “trời nắng ráo để dành lương thực khi mưa”. Vốn là tính đặc biệt của con người. Nhưng lòng người càng tham nhiều thì càng độc ác, tạo ác nghiệp cũng nhiều. Kết quả, tính toán tranh giành, kết oán thù nhiều đời nhiều kiếp, tương lai báo thù lẫn nhau không ngừng, luân hồi không dứt và khổ não vô biên. Há chẳng phải chỉ vì tham chút nhỏ mà đánh mất lợi lớn, tham lợi nhỏ mà sai lầm việc lớn.
Chuyện 87
Kẻ cướp có nghĩa
Lời dẫn: Người hiền nhất thế gian cũng có khi làm việc thất đức. Kẻ gian ác khét tiếng cũng có lúc làm việc thiện; làm người chẳng ai mà hoàn hảo. Chúng ta xem xét người tài, người giỏi, người trí tuệ nên dùng họ thích hợp thì mới xác định thiện hay ác. Như một tên cướp khét tiếng, lòng dạ độc ác, có lúc hắn làm những việc rất có tình nghĩa. Vợ chồng, anh em thân thiết nhất, nhưng có lúc vì chút lợi nhỏ mà xảy ra chuyện ẩu đả. Vì thế, tài năng, trí huệ, đạo đức của con người biết ứng dụng thích hợp là người tài giỏi; ứng dụng không thích hợp trở thành kẻ gian ác. Cả đời người, có lúc làm thiện, có lúc làm ác; quả báo có phúc, có họa; khởi tâm động niệm có thiện, có ác nên mới có khổ vui.
Thuở xưa, có một bọn cướp khét tiếng. Bọn cướp này đều là cướp đoạt tài sản của người khác. Chẳng những bọn chúng mạnh mẽ, gan dạ, dũng cảm không sợ chết mà còn độc ác. Vì thế, trong đó có một tên cảm thấy làm nghề này trái với lương tâm, nhưng không làm thì không dễ gì nghỉ được. Một hôm, bọn chúng sắp đi cướp của thì tên này nói:
- Thưa thủ lĩnh! Các anh gan dạ, lại lanh lợi; còn em thì chậm chạp, em đi với các anh chỉ gây phiền phức; chi bằng để các anh đi, cho em ở lại giữ trại tốt hơn. Xin đại ca định đoạt.
Tên tướng cướp nói:
- Được rồi! Chúng ta đi cũng phải có người ở nhà giữ trại, ngươi ở lại nhé!
- Dạ! Em đội ơn đại ca.
Đêm hôm đó, bọn chúng thi hành phi vụ, đối tượng là một gã nhà giàu nứt đố đổ vách, chẳng những hắn trùm sò keo kiệt mà còn làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của dân nghèo. Nếu thấy người nghèo khổ đến xin thì hắn ghét cay ghét đắng; còn hắn bố thí chút ít, giống như cắt thịt thân hắn. Cho nên, mọi người trong thôn gọi hắn là trùm sò keo kiệt. Nửa đêm, bọn cướp mò vào nhà hắn, bắt hắn trói chặt lại, tên tướng cướp bảo:
- Này trùm sò! Thường ngày ngươi ức hiếp dân lành. Hôm nay, đến lượt bọn tao cho mày nếm mùi cay đắng. Nếu mày biết điều hãy đem hết của cải ra đây nộp cho bọn tao, bằng không bọn tao không tha mạng đâu nhé!
Tên tướng cướp kề dao ngay cổ hắn, làm cho hắn hồn xiêu phách lạc. Hắn run rẩy nói:
- Ông…ông trói tôi chặt cứng thế này, làm sao tôi lấy của cải được?
- Được! Bọn tao mở trói cho mày.
Tên tướng cướp ra lệnh mở trói cho hắn. Hắn ngoan ngoãn đem hết của cải trong nhà, mãi đến khi hết sạch, bọn cướp khoái chí, liền trói hắn lại bảo:
- Này trùm sò! Trước đây mày ỷ thế có tiền áp bức dân lành. Sau này, thế nào? Vẫn chứng nào tật ấy phải không?
Hắn van xin:
- Nay tôi đã trắng tay rồi, xin các ông hãy mở trói cho tôi. Từ nay về sau, tôi không dám ỷ thế hiếp người.
- Bọn tao không cho mày bài học thì mày không biết lễ độ.
Vì thế, hắn bị bọn cướp ẵm ném xuống hầm phân. Trước khi hắn sắp chết, vô cùng hối hận nói với người nhà: “Thường ngày ta chưa hề làm điều gì lợi ích cho ai, cho nên mới có quả báo ngày hôm nay. Ta nguyện kiếp sau làm nhiều việc thiện có lợi ích cho mọi người”. Trăn trối xong, hắn trút hơi thở cuối cùng. Dân chúng nghe tin, vô cùng hả dạ. Cho nên, bọn cướp có lúc cũng làm việc tốt.
Bọn cướp lần này trúng mánh đậm, chúng cướp rất nhiều tiền của, châu báu; nhưng bọn chúng phân chia của cải cướp được cũng rất công bằng. Tên ở lại giữ trại cũng được chia một phần. Còn lại một bộ y phục vải lụa rất quý, tuy màu sắc sặc sỡ, nên không ai lấy, tên tướng cướp cho tên giữ trại. Chẳng bao lâu, gã đem ra chợ bán; không ngờ, bán được giá tiền rất cao. Kể ra, lần này gã được chia của cải cũng khá nhiều.
Bài học đạo lý
Mọi người thường cho rằng, kẻ cướp là tên đê tiện, đáng ghét, độc ác nhất thế gian; cũng là kẻ mọi người căm thù nhất. Lại còn có những kẻ gian thần, ác độc, lừa đảo, bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, hay bọn lưu manh, xã hội đen, buôn lậu, bán ma túy v.v…cũng là những kẻ đáng ghét nhất trên đời; ai ai cũng muốn giết bọn chúng. Nhưng nếu bọn người này, chống đối lẫn nhau, triệt hạ lẫn nhau, cũng làm hả hê mọi người. Chuyện này nói về tên nhà giàu bất nhân, bị bọn cướp hãm hại, được mọi người ca ngợi. Trời sinh muôn vật, vật này triệt hạ vật kia, sát hại lẫn nhau, cùng nhau sinh tồn. Đây là báo ứng theo lẽ trời chăng? Hay là chúng sinh có oan khiên lẫn nhau? Vẫn là nhân quả tuần hoàn. Mỗi người đều có nhận xét khác nhau.
Kẻ ác có nghĩa, người thiện dối trá; muôn vật cũng có triệt hạ lẫn nhau. Ai thiện, ai ác, chúng ta phải biết vì sao bị giết, vì sao bị hại, thấy rõ động cơ như thế nào để xác định. Chúng ta không thể nói việc gì cũng theo ý trời, trời giết người không có tội. Như thế có công bằng không? Chúng sinh từ đời quá khứ vô thỉ đến nay, có oan khiên lẫn nhau, cũng có ân huệ với nhau. Oan khiên tức là giết hại lẫn nhau; ân huệ là giúp đỡ lẫn nhau, làm lợi ích cho nhau. Người cố ý giết người, họ sẽ bị báo thù giết lại; người vô ý giết cũng bị báo thù. Chúng sinh cùng cộng nghiệp, cùng chịu quả báo. Cá nhân mình tạo nghiệp thì riêng mình chịu quả báo, cứ mãi tạo nghiệp thì phải chịu báo ứng; tạo nghiệp không liên tục thì chịu báo ứng gián đoạn; không tạo nghiệp thì thoát khỏi báo ứng. Đây là lẽ rất công bằng.
Do đó, kẻ cướp tuy có nghĩa, nhưng làm kẻ cướp thì chịu báo ứng của kẻ cướp; nghĩa cử cứu người thì được thiện báo cứu người. Chúng ta không thể nói: “Nghĩa cử cứu người sẽ tiêu trừ tội báo làm kẻ cướp”. Mỗi tội ác là một báo ứng của điều ác; mỗi việc thiện là một báo ứng của điều thiện, tuyệt đối không thể tiêu trừ được. Trừ khi chúng ta nỗ lực sám hối tu hành thì mới tiêu trừ tội nghiệp.
Chuyện 88:
Khỉ bắt chước người
Lời dẫn: “Người sống phải vươn lên, nước chảy xuống chỗ thấp”. Mỗi người đều mong muốn danh vọng, địa vị càng cao càng hay; của cải càng nhiều càng tốt. Có ai thích làm người nghèo khổ không? Người đời ai cũng muốn được sung sướng, luôn chú trọng đến tài, sắc, danh, thực, thùy; cho nên họ chạy theo tài sắc chiếm cho bằng được; giống như mèo thích ăn thịt mỡ. Có ai ngăn được mèo thích ăn thịt mỡ không? Thông thường ai mà không thích tài sắc? Tài sắc, giàu sang làm cho mọi người nghĩ tìm trăm mưu nghìn kế, dốc hết tinh thần và sức lực để tìm cầu. Chúng ta có thể thấy tài sắc lôi cuốn mọi người rất mạnh. Khi mọi người đắm vào tài sắc, danh lợi thì khó mà buông bỏ được. Từ đó, tạo ra ác nghiệp, do đắm tài sắc có nhiều ít mà tạo tội nghiệp có nhiều ít.
Ngày xưa, có một con khỉ sống trong rừng sâu, khi đói nó tha hồ hái trái cây ăn thỏa thích, khi mệt nó nằm ngủ trên cây, cuộc sống của nó trôi qua bình yên vui vẻ. Nhưng con người có thói xấu “khi no đủ thì nghĩ đến chuyện sinh hoạt tình dục”. Con khỉ này cũng không ngoại lệ, nó muốn kết bạn với con người. Một hôm, nó nghĩ: “Nếu như ta được sống chung với con người cao thượng thì hay biết mấy”. Vì thế, trước đây nó sống trong rừng sâu, nay nó dời đến ở ngoài bìa rừng. Bởi vì, ở ngoài bìa rừng, nó dễ dàng tiếp cận chỗ ở của con người.
Mọi người ở đây, đa số sinh sống bằng nghề nông. Con khỉ nhìn kỹ thấy con người đi bằng hai chân, nó cũng bắt chước đi bằng hai chân; nó thấy họ cầm liềm cắt cỏ, nó cũng làm theo; nó thấy ai ai cũng mặc y phục nó cũng mặc theo. Mỗi khi nó thấy có người đến thì rất vui mừng, nó chạy theo bên cạnh làm theo hành động của người đó.
Gần đó, có một anh nông dân đang làm ruộng, nhìn thấy con khỉ bắt chước người đi đường và làm theo động tác của mọi người, liền nói lẩm bẩm: “Con khỉ này, trước đây ở trong rừng sâu; nay vì sao lại xuống đồng bằng? Ngày nay ở thế gian có rất nhiều người ác độc, không ngờ con khỉ này muốn làm người”. Từ đó, anh nông dân và con khỉ thường gần gũi nhau. Mỗi khi, anh nông dân làm ruộng mệt, lên bờ ngồi nghỉ thì con khỉ cũng lặng lẽ đến ngồi bên anh ta. Anh ta vuốt ve thân thiện và nói với nó: “Thế gian này có rất nhiều người độc ác, nham hiểm, không có tâm địa trong sáng, thuần khiết như loài súc sinh; ta muốn kết bạn với ngươi”. Con khỉ nghe anh ta nói, dường như nó hiểu, nên rất vui mừng liền ra về.
Một hôm, nó thấy anh nông dân gieo đậu xuống đất, nó cũng bắt chước hốt đậu định gieo ở bìa rừng. Nhưng nó sơ ý làm rơi mất một hạt vì lo tìm hạt đậu mà số đậu đang cầm trong tay nó thả tay ra rớt xuống đất hết. Không ngờ nó tìm một hạt đậu không ra mà số đậu nó thả ra trên đất bị chim mổ ăn hết. Cho nên, rốt cuộc khỉ vẫn khỉ, không thể thông minh như con người.
Bài học đạo lý
Con người có giàu-nghèo, sang-hèn, khôn-ngu, hiền-dữ. Người nghèo cùng, ai mà không muốn mình giàu sang, trừ phi kẻ ngu si không có tài cán gì. Ai mà không muốn mình có trí tuệ, có tài năng? Nhưng vì tài năng có giới hạn, đành phải thấy người giàu sang mà tự trách mình thấp kém. Người có chí thì nghĩ: “Người kia cũng là người, ta cũng là người. Vì sao họ làm được, ta làm không được? Ta phải nỗ lực vươn lên”. Bậc Cổ đức dạy: “Giàu to nhờ trời, giàu nhỏ nhờ cần kiệm”. Chúng ta nỗ lực bao nhiêu thì thành công bấy nhiêu.
Chúng ta học làm người thì nhất định làm người, học làm thần thì tương lai có thể làm thần, học làm ma thì tất nhiên tương lai sẽ làm ma, học cờ bạc thì sẽ thành kẻ nghiện cờ bạc, học làm kẻ cướp thì làm kẻ cướp, chúng ta học nghề gì thì làm nghề đó; đây là điều tất nhiên. Như thế, chúng ta học Phật lẽ nào tương lai không thành Phật? Có người mang danh học Phật đã lâu mà thực hành theo ngoại đạo thì tương lai thành tà ma ngoại đạo, việc này chúng ta có thể biết trước. Tục ngữ có câu: “Treo đầu dê, bán thịt chó”, đâu đâu cũng có.
Vinh hoa ở thế gian chỉ hiện ở bề ngoài, điều quan trọng là chánh-tà ở trong tâm mình. Trong tâm như thế nào thì quả báo tương lai như thế ấy. Vì thế, Đức Phật dạy: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”. “Nhân không chân thật thì quả hư dối”. Chúng ta trồng nhân gì thì gặt quả đó, sự việc rất công bằng. Con khỉ muốn học làm người; như vậy, con người là phải học theo thánh hiền? Hay là học lừa gạt, trộm cắp? Tương lai muốn sinh về cõi trời, hay đọa địa ngục? Mỗi người đều tự chọn.
Chuyện 89
Phúc họa do tâm
Lời dẫn:Tục Ngữ có câu: “Rượu không say người, người tự say”, “Sắc không mê hoặc người, người mê sắc”. Tham dục, nghiện rượu làm cho người ta điên đảo. Người không nghiện rượu có khả năng tự làm chủ mình, rượu không làm say người, người tự say rượu; người thấy sắc liền tham đắm, vì trong tâm háo sắc. Người không háo sắc thì sắc làm sao mê hoặc người được? Con người chẳng phải Thánh hiền, ai mà không có tâm háo sắc? Chánh-tà đều do tâm tạo. “Người biết núi có cọp mà vẫn bước xông vào”. Chúng ta biết rượu, sắc đẹp mê hoặc người mà vẫn để nó lôi kéo; như thế, còn gì để nói?
Xưa kia, có một người bán dưa. Hàng ngày, hắn gánh rất nặng đi rao bán khắp hang cùng ngõ hẻm. Một hôm, hắn gánh bán đến thôn nọ, gặp những kẻ rảnh rỗi thấy hắn liền hỏi:
- Này anh bán dưa! Dưa anh bán có ngọt không?
Người bán dưa đáp:
- Dạ, dưa tôi bán rất ngọt.
- Có trái nào hư thối không?
- Nhất định không có.
- Anh nói có thật không? Con người có người tốt, người xấu. Vì sao dưa không có trái thối?
- Trong nghìn vạn người mới chọn được vài người là Thánh hiền, dưa của tôi cũng chọn lựa như vậy; cho nên, tuyệt đối đều là trái ngon ngọt.
- Thật không? Nhất định không có trái nào hư phải không?
- Đúng vậy!
- Nếu đúng như lời anh nói thì đúng là một kẻ ngu xuẩn.
- Vì sao?
- Bởi vì nghìn vạn trái dưa chỉ chọn được một vài trái ngọt; như thế, những trái hư thối ai mua cho hết?
- Trái dưa nào chưa chín để đợi cho nó chín, trái nào hư thì bỏ. Con người không chịu học theo Thánh hiền thì không phải người.
- Vậy chúng tôi thế nào?
- Các anh đều học thánh hiền, nhưng ai cũng không dám bảo đảm mình làm đúng.
Gã bán dưa gánh đi, vừa đi hắn vừa suy nghĩ: “Con người chưa phải Thánh hiền, ai mà không có lỗi lầm? Có người làm việc chăm chỉ. Có người lười biếng lao động. Có người làm việc rất có trách nhiệm. Có người làm qua loa, sơ sài. Làm người có ưu điểm, có khuyết điểm, có thô, có tế, giống như bàn tay của chúng ta có ngón dài, ngón ngắn. Thế gian có người tốt, có người xấu, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm. Bạn cho người kia xấu, nhưng người khác nói là người tốt thì sao? Bạn cho người đó tốt, nhưng người khác bảo là người ấy xấu, không thể theo cách nhìn của mình mà đánh giá tất cả mọi người”.
Hắn vừa gánh dưa đi, vừa miên man suy nghĩ. Bỗng nhiên, hắn chợt thấy bên đường có con chuột vàng chiếu sáng lấp lánh. Hắn cúi xuống nhặt lên, cẩn thận bỏ vào trong bọc. Khi hắn nhặt được con chuột vàng liền vui mừng khôn xiết. Hắn nghĩ: “Từ nay, ta không cần gánh dưa đi bán nữa, có được số tiền vốn lớn như thế, ta tha hồ kinh doanh mua bán, như mở quày hàng bán lúa gạo, hay mở cửa hàng tạp hóa, tự mình làm chủ, rồi thuê người làm những việc lặt vặt thay ta, cuộc sống sung sướng thoải mái biết bao”.
Hắn cứ suy nghĩ mãi, càng nghĩ tâm hồn càng bay bổng lâng lâng. Bất ngờ khi đến bên bờ sông, hắn cởi y phục muốn lội qua sông, nên cẩn thận đặt con chuột vàng trên bờ thì việc kỳ lạ xuất hiện, con chuột vàng biến thành con rắn. Hắn vô cùng kinh ngạc, liền nghĩ: “Con chuột vàng bỗng biến thành rắn độc, cho dù rắn độc ta cũng không bỏ, ta thà chịu nó cắn chết, vẫn phải mang nó về nhà”. Khi hắn nghĩ như thế, con rắn lại biến thành con chuột vàng.
Bài học đạo lý
Việc này, có hai ý nghĩa:
Một, do tham nên mới vừa được con chuột vàng, vì sao biến thành rắn độc? Chúng tôi e rằng là có ảo giác nhất thời, mong muốn có thể biến thành con chuột vàng; vì bỏ chuột vàng không được nên phải mang nó về nhà.
Hai, nhờ lòng nhân hậu sợ rắn cắn chết người khác; thà hi sinh thân mình, chứ không muốn người khác bị thương, nên đem nó về. Rốt cuộc, chính là tâm lý để bạn đọc tự đoán nhé!
Thế gian có rất nhiều ngoại đạo thấy chân lý Phật pháp nhiều như thế, lại chịu không nổi giới luật Phật giáo trói buộc, đành phải chọn lấy những điều cần thiết, làm thành bề ngoài của mình; hoặc giả tu đạo, mong muốn được thí chủ cúng dường. Hoặc tự xưng Phật này tái thế, Bồ-tát kia tái sinh v.v…Họ mượn danh tiếng của Phật giáo mà lừa gạt thí chủ cúng dường; việc này ở đâu cũng có. Đây là hiện tượng thời mạt pháp; hay là nghiệp chướng của chúng sinh, thật tâm tu hành, hay giả dối lừa gạt, tất cả đều do tâm.
Chuyện 90
Được mà lại mất
Lời dẫn:“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, khó mà nói hết được”, “ai cũng có một nỗi khổ riêng”. Hay nói cách khác “ba năm một vận tốt hay xấu xoay vần nhau”, “gió nước theo sự di chuyển”. “Kẻ ăn xin cũng mong ba năm gặp vận tốt”. Vì thế, con người “có lúc trăng sáng, có lúc sao sáng”. Ai cũng phải trải qua một giai đoạn khổ nhọc nỗ lực phấn đấu vươn lên. Khi cơ hội tốt đến, lại giống như sao sáng xẹt qua; nếu như lúc đó, chúng ta không nỗ lực chợp lấy thời cơ thì “mỗi năm hoa nở một lần, tuổi xuân trôi qua nhanh chóng”.
Ngày xưa, có một người rất nghèo khổ, hàng ngày hắn đi xin ăn khắp đầu đường xó chợ mà vẫn chịu cảnh thiếu trước hụt sau, tạm lây lất sống qua ngày.
Một hôm, có người hỏi hắn:
- Anh còn trẻ, mạnh khỏe, vì sao không tìm việc làm, lại phải chấp nhận cuộc sống ăn xin như vậy?
Hắn đáp:
- Việc gì tôi cũng không biết làm, người nào dám thuê tôi?
- Nếu như anh không sợ cực khổ thì tôi sẽ tìm cho anh một công việc.
- Chỉ cần có việc làm thì tôi sẽ làm hết sức mình, không sợ khổ nhọc. Anh yên tâm, tôi nhất định làm theo sự chỉ dẫn của anh.
Chẳng bao lâu, người này tìm được cho hắn một công việc làm. Quả nhiên có được công việc, hắn làm rất tốt. Công việc hàng ngày của hắn là gánh rau từ thôn quê bán cho người trong thành phố. Mặc dù công việc cực nhọc, nhưng hắn cảm thấy cuộc sống rất thoải mái nên không hề thấy mệt mỏi; vì thế, hắn rất hài lòng cuộc sống hiện tại. Có người hỏi:
- Anh gánh rau đi suốt cả ngày, đi và về mười mấy dặm. Anh không thấy mệt sao?
Hắn đáp:
- Trước đây, tôi đi xin ăn, cũng đi suốt cả ngày, nhưng cuộc sống bấp bênh bữa no, bữa đói. Hôm nay có việc làm, cuộc sống ổn định, làm sao tôi thấy mệt được?
Con người ở đời, rất ít người hài lòng với cuộc sống hiện tại nên đau khổ nhiều. Đức Phật dạy: “Biết đủ thường vui” chính là ý này.
Một hôm, hắn đang gánh rau, giữa đường phát hiện một túi đựng rất nhiều vàng; hắn vui mừng khôn xiết, vội mở ra xem và đếm thử được bao nhiêu vàng. Trong lúc, hắn đang say sưa đếm vàng, bỗng người chủ mất vàng chạy đến thấy la toáng lên:
- A! Đây là vàng của tao! Ngươi ở đâu đến, dám lấy trộm vàng của tao. Ngươi hãy đi theo tao đến gặp quan.
Hắn sợ hãi van xin:
- Xin lỗi ông! Túi vàng này tôi lượm nó ở đây, tôi không hề lấy trộm. Tôi trả lại cho ông đầy đủ, xin đừng bắt tôi đến quan.
Hắn tha thiết, cầu khẩn van xin, mới được chủ vàng tha thứ. Sự việc xảy ra, chẳng những làm hắn mừng hụt một vố mà suýt tí nữa bị bắt đến quan oan uổng và suốt cả đời không thể nào rửa sạch tội danh ăn trộm. Kiếp sống con người thật mong manh quá!
Bài học đạo lý
Mỗi người chúng ta đều phải trải qua một thời gian chịu khổ cực nhọc, nỗ lực phấn đấu vươn lên, cũng có lúc “hết cơn bỉ cực, đến hồi thái lai”. Những ngày chúng ta trải qua gian khổ sẽ cảm nhận cuộc sống sâu sắc và trưởng thành hơn, một giờ như trải qua mấy ngày. Ai cũng hi vọng tương lai tốt đẹp, lại mong cực khổ qua rồi được hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc hơn; cho nên, khi làm việc cực nhọc, họ không thấy vất vả. Hay nói cách khác, cuộc sống an vui sẽ trôi qua rất nhanh; một ngày như một giờ, một năm như vài ngày. Vì sao như thế?
Giống như người ăn ngon mặc đẹp, ngày nào họ cũng ăn sơn hào hải vị, nên không thưởng thức được vị ngon của nó. Nếu như một năm, họ ăn món ngon chỉ vài, ba lần thì sẽ cảm nhận vị ngon tuyệt vời và cảm thấy rất thú vị. Có người hàng ngày không làm việc gì, thân thể không hoạt động không ra mồ hôi nên có ăn món gì cũng chẳng thấy ngon. Người lao động cực nhọc, thân thể vận động suốt ngày, mồ ra chảy ra nên ăn món gì cũng thấy ngon miệng. Vì sao? Bởi vì thần kinh của con người cần phải hoạt động; nếu không hoạt động thì như tê cứng. Cho nên, người hằng ngày thích ăn ngon nhưng thần kinh không hoạt động thì chẳng bao giờ cảm thấy được vị ngon, gặp món ăn ngon mà thần kinh hoạt động thì sẽ cảm thấy ngon. Hàng ngày, chúng ta không lao động chân tay và trí óc thì thần kinh cũng bất động tê cứng, có ăn gì cũng không thấy ngon. Thân thể lao động cũng rất cần uống nước nhiều, bồi dưỡng đủ chất và thần kinh cũng cần hoạt động thì chúng ta ăn món gì cũng đều thấy ngon.
Lý luận này chứng minh một việc “làm người có thân thì có khổ”. Thân thể cần cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, đi lại và phải lao động, có lao động chân tay và trí óc thì mới mạnh khỏe, minh mẫn; bằng không sẽ sinh nhiều bệnh tật. Vì thế, chúng ta cần phải trải qua những ngày cực khổ thì mới được hưởng cuộc sống sung sướng, hạnh phúc; bằng không thì đừng mong mình được an vui. Chẳng phải con người sinh ra là trả nghiệp là gì? Không phải chịu khổ hay? “Không sống ở đời mười việc hết tám, chín không như ý”. Như thế đủ để chứng minh đời người vui ít khổ nhiều. Chúng ta phải làm thế nào để được an vui nhiều? Trừ phi tu học Phật pháp, tiêu trừ nghiệp chướng thì mới có cuộc sống cứu cánh an lạc. Nếu không thì được-mất, khổ-vui mãi mãi xoay vần.
Chuyện 91
Người không biết đủ thì khổ
Lời dẫn:Đức Phật dạy:“Biết đủ thường vui”. “Người không biết đủ, dù ở thiên đường cũng thấy khổ”. Vì thế, bất luận chúng ta đang hưởng thụ cuộc sống giàu sang, ăn ngon mặc đẹp; hay sống trong khổ cực, ăn uống đạm bạc, miễn biết đủ thì an vui. Kẻ không biết đủ, cho dù giàu nứt đố đổ vách, địa vị danh vọng cao ngất, nhưng hàng ngày vẫn tìm mọi cách tranh giành chiếc ghế, hạ thủ, đấu đá lẫn nhau, khổ não vô cùng.
Con người có giàu-sang, nghèo-hèn, khôn-dại, hiền-dữ. Đất có đồi núi chập chùng, hay đồng ruộng bằng phẳng mãi mãi không giống nhau. “Làm người có lúc gặp vận may, có lúc gặp rủi ro, chúng ta không thể so bì người này với người kia”. Nếu như chúng ta “thấy người tài đức muốn mình bằng họ” thì càng so sánh càng mệt. Như thấy người giàu sang liền sinh tâm ganh tỵ; hoặc tự ty là điều không nên. Người giàu sang thấy người nghèo hèn thì kiêu ngạo, tự cao tự đại; hoặc người nghèo thấy người giàu sang thì tự ty, ganh ty đều không đúng. Chuyện đúng sai cũng là nguyên nhân tranh cãi, tất nhiên khổ não sẽ đến.
Ngày xưa có một nông dân, gia đình hắn tuy không có của ăn của để, nhưng cuộc sống cũng đầy đủ. Hắn tuy không có nhà cao cửa rộng, nguy nga tráng lệ, nhưng có nhà ngói đỏ tường vôi, rộng rãi thoáng mát, đủ cho một gia đình mười mấy con người sinh hoạt thoải mái; mặc dù, hắn không được ăn ngon, mặc đẹp, nhưng cuộc sống luôn đầy đủ no ấm. Gia đình hắn trôi qua những ngày tháng hạnh phúc đơn sơ như thế.
Một hôm, hắn đến nhà trưởng giả có việc. Hắn thấy nhà ông ta có rất vàng bạc, của cải, ăn toàn những món sơn hào hải vị, ở nhà lầu cao rộng, nguy nga, đầy đủ tiện nghi sang trọng. Sau khi, hắn trở về nhà nhớ lại nhà ông trưởng giả giàu sang như vậy; hắn đâm ra buồn chán, than thở; ăn cũng không ngon, ngủ không yên giấc, thường tự nói lẩm bẩm: “Chao ôi! Vì sao tài sản của ta không bằng trưởng giả? Nhà của ta không sang trọng bằng nhà ông ta?”. Sau đó, hắn ngồi thờ thẫn như người thất tình.
Vợ hắn thấy tình cảnh như vậy, liền an ủi:
- Chàng ơi! Hãy bằng lòng sống với hiện tại, tài sản của chúng ta không nhiều bằng nhà trưởng giả, nhưng cũng đủ chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày. Tiện nghi trong nhà chúng ta tuy không được đắt, sang trọng như nhà ông ta, nhưng đâu thiếu vật gì. Chàng còn mơ ước gì nữa mà không hài lòng?
Hắn trợn mắt nạt:
- Nàng là phận đàn bà biết gì mà nói. Làm người phải tranh tài, Phật phải tranh lư hương. Trưởng giả là người, ta cũng là người, vì sao ta không bằng ông ta?
- Chàng ơi! Trưởng giả là người, chúng ta cũng là người, nhưng con người có giàu-sang, nghèo-hèn, vận mạng có tốt-xấu sai khác. Bởi vì, có người đời trước làm nghiệp thiện nên đời nay được hưởng phúc báo; có người đời trước gây nghiệp ác nên đời nay chịu khổ báo. Có người thông minh, trí tuệ, làm việc có đạo đức, có lương tâm. Có kẻ ngu si, bất tài chỉ làm hại người, lợi mình, những việc họ làm đều trái với lương tâm, đánh mất nhân cách. Thì làm sao có chuyện giàu-sang giống nhau?
- Ý nàng nói ta là kẻ bại hoại đạo đức phải không?
- Thiếp không dám nói như thế, chúng ta làm đúng, ít tạo nghiệp ác là được rồi.
- Nàng hiểu được bao nhiêu? Lẽ nào ta không biết đạo lý này? Con người sống ở đời là phải tranh tài năng, không tranh nhau thì sống có ý nghĩa gì?
- Ý chàng nói là…
- Tài sản của chúng ta không bằng người khác, để lại có ích gì?
- Tài sản của chúng ta tuy không bằng trưởng giả, nhưng đủ chi tiêu sinh hoạt cho cả nhà. Chàng muốn xử trí nó như thế nào?
- Ta dự định đem hết của cải ném xuống biển, không còn của cải sẽ không còn đau khổ so sánh hơn thua với trưởng giả kia.
Đúng là hắn lý sự quạt mo, thế gian này có những kẻ khùng, cũng lý sự ngu si như hắn. Mặc dù vợ hắn khuyên can hết lời, nhưng hắn vẫn không nghe, ngang nhiên đem hết của cải ném sạch xuống biển cả.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người có khôn-dại, hiền-dữ, tư tưởng hiểu biết và cách nhìn nhận ở thế gian đều không giống nhau. Người có chính nhân quân tử và kẻ gian tà; hiểu biết có cao-thấp. Có người nhìn xa trông rộng về tương lai; có kẻ chỉ thấy lợi ngay trước mắt; có người chánh tri, chánh kiến; có kẻ tà tri, tà kiến; công có công lý; nghề có nghề chính đáng. Người sống ngay thẳng có lý lẽ đúng; kẻ tà thường lý lẽ cong quẹo. Người chánh hay tà mới có thể yên ổn đi trên con đường nhân sinh này? Quan trọng nhất là tương lai được hướng thượng vươn lên hay bị đọa; làm người hay làm qủy; được vãng sinh hay đọa làm súc sinh; lên thiên đường hay vào địa ngục, đều do lý trí của chúng ta mà chọn lựa.
Con người tranh tài rất quan trọng phải không? Là tự mình tranh đấu để vươn lên là điều tất yếu; hay vì quốc gia, vì xã hội mà tranh tài cũng cần như vậy; hoặc vì nhân cách, đạo đức của mình mà tranh tài, lại càng quan trọng; hoặc vì sinh tử trong tương lai, hay vì độ chúng sinh mà phải tranh tài thì càng tốt. Nhưng có người vì những danh lợi giả dối, hay vì chút sĩ diện mà tốn rất nhiều tinh thần và sức lực để tranh nhau; thật là oan uổng. Có người vì so sánh tài sản của người khác, tranh nhau vì thể diện mà từ bỏ tất cả; càng tranh giành thì càng đau khổ. Bạn nói họ là người thông minh hay là kẻ ngu si?
Chuyện 92
Đem tài sản đổi lấy kẹo
Lời dẫn:Mỗi người chúng ta đều có thói quen hám của rẻ. Vì thế, từ xưa đã có câu nói: “Ham cái nhỏ, mất cái lớn”. Vì sao nói ham cái nhỏ, mất cái lớn? Chúng tôi nói ví dụ: chúng ta có việc muốn nhờ người khác, trước khi bàn công việc, chúng ta phải đem chút quà; họ nhận quà của chúng ta mà không e ngại từ chối yêu cầu của chúng ta; nếu không thì việc đó không bàn được.
Chúng ta làm việc giúp cho người khác, ít nhất cũng một chầu nhậu; hoặc nhận một phong bì; nếu không thì khó mà được toại nguyện. Nếu chúng ta bàn chuyện buôn bán làm ăn, trước phải mời đi nhà hàng thì bàn chuyện kinh doanh mới thành công; cho đến tổ chức mở tiệc sinh nhật, cưới gả, ma chay, chúc thọ đều phải mời dùng cơm trước rồi mới mời sau. Một bữa ăn, bất luận phải trả giá bao nhiêu cũng phải ăn. Bởi vì, thông thường đã hình thành thói quen như thế, nên lãng phí rất nhiều.
Tục Ngữ có câu: “Muốn bắt trộm gà, phải mất một nắm lúa”. Kẻ muốn bắt trộm chó người ta nuôi, trước không đánh chó làm sao bắt trộm được? Kẻ muốn tham ô, trước tiên cũng phải chi cho người khác một ít thì việc tham ô mới suôn sẻ. Kẻ muốn lừa đảo lấy của người khác, trước tiên cũng phải chi ra một ít tiền để dụ họ thì lừa đảo mới thành công. Vì thế, ham cái nhỏ, mất cái lớn ở thế gian rất nhiều, kể ra không hết.
Ngày xưa có một phụ nữ vì chạy giặc nên rời bỏ quê nhà; nàng dắt theo đứa con trai và mang một bọc đựng rất nhiều của cải, nàng dự định đi thẳng đến nơi yên ổn để sinh sống. Hai mẹ con đi suốt hai ngày, hai đêm, thân thể rã rời, nên phải nghỉ ngơi. Họ liền đi đến ngồi nghỉ bên gốc cây, nàng lại buồn ngủ, nên dặn chú bé:
- Trong bọc này đựng tài sản của chúng ta, lúc mẹ ngủ; nếu có ai muốn lấy bọc này thì con liền kêu mẹ dậy nhé! Tuyệt đối con không được đưa cho ai bọc này nhé!
Chú bé đáp:
- Mẹ ơi! Con biết rồi!
Dặn con xong, nàng dựa vào gốc cây ngủ say. Lúc đó, có một tên giặc nhìn thấy người mẹ đã ngủ say, dường như không hay biết gì, liền đến gần hỏi:
- Này chú bé! Trong bọc đựng gì thế?
Chú bé trả lời:
- Dạ, bọc đựng của cải đó!
- Chú bé ơi! Của cải đâu có ích gì, anh có rất nhiều kẹo nè, em ăn thử ngon không?
Hắn lại giơ kẹo trước mặt chú bé giở trò dụ dỗ:
- Kẹo nè! Em thích không?
- Dạ, em rất thích!
- Thế thì anh đưa cho em kẹo đổi bọc này cho anh có được không?
- Dạ được!
Thế là bọc đồ của cải bị tên trộm chôm lấy đi.
Người mẹ thức dậy không thấy bọc đồ, liền hỏi:
- Này con! Bọc đồ đâu rồi?
Chú bé đáp:
- Con cho chú kia mang đi rồi.
- Tại sao con cho chú đó mang đi? Không phải mẹ đã dặn con rồi, nếu có ai muốn lấy bọc này thì con liền kêu mẹ dậy?
- Mẹ ơi! Tại chú đó cho con rất nhiều kẹo đây nè!
- Con ơi! Có nhiều kẹo đi nữa cũng chẳng đáng giá bao nhiêu, tài sản trong bọc đó trị giá rất nhiều.
- Thế nào là trị giá rất nhiều hả mẹ?
Chú bé chẳng hiểu gì cả, người mẹ có giải thích cho nó cũng chẳng có ích gì; vả lại tài sản cũng bị tên trộm mang đi rồi, có đánh mắng chú cũng chỉ vô ích, nàng chỉ tự than trách mình.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người thường vấp phải ham cái nhỏ, mất cái lớn. Có người vì năm đồng tiền mà cãi nhau đỏ mặt tía tai, đánh mất tình bạn, mất đi khách hàng bị tổn thất rất lớn, trái với đạo đức, trái lương tâm mình, chỉ vì tiền mà đánh mất tất cả. Lại còn tạo tội nghiệp, trong tương lai nhiều đời nhiều kiếp phải đền trả, cũng kết thù oán rất nhiều, báo thù lẫn nhau, mãi mãi không giải oan được. Chúng ta nghĩ thử xem chút lợi trước mắt quan trọng? Hay là đạo đức, nhân cách quan trọng?
Ngoại đạo vì tranh giành tín đồ mà đem tam giáo[5]và danh từ ngũ giáo[6]gộp lại sửa đổi thành những danh tà tà thuyết, tin đồn, dọa dẫm, lừa đảo. Bọn chúng vì tham lợi trước mắt nhất thời mà hại tuệ mạng của mình và tất cả chúng sinh. E rằng nhiều đời nhiều kiếp tội lỗi vô biên. Bọn chúng chỉ sung sướng nhất thời trước mắt mà muôn kiếp đọa vào đường tà. Chúng ta thử nghĩ xem, họ thông minh hay là ngu si? Là được hay mất? Như chú bé trong câu chuyện chỉ vì ham mấy viên kẹo mà đánh mất của cải giá trị rất nhiều. Câu chuyện này đáng làm bài học cho chúng ta.
Chuyện 93
Gây họa cho người
Lời dẫn:Ở đời, có người gây họa cho người. Có người để phúc cho người. Có người để lại tình thương khắp nhân gian, cũng có người để lại căm thù cho mọi người. Chúng ta để lại trí tuệ, để lại của cải, để lại nhân nghĩa, để lại danh tiếng, để lại chân lícho cuộc đời. Nhưng cũng có kẻ để lại sự tàn bạo, để lại nợ nần, để lại tiếng xấu, để lại tà thuyết cho nhân gian. Cho nên ở đời có chuyện sang-hèn, giàu-nghèo, trên trời có hai mươi tám tầng, địa ngục có vô lượng địa ngục; cho đến chúng sinh ở dưới biển, đất liền và trong hư không, mỗi loài đều có phước, tội sai khác.
Người có tâm địa tốt, đến đâu cũng tìm cách giúp đỡ mọi người, cho nên họ để lại lòng yêu thương, phúc đức, trí tuệ cho cuộc đời. Kẻ có tâm địa xấu đi đến chỗ nào cũng bóc lột người khác, để lại tai họa, hận thù và tiếng xấu ở nhân gian. Tuy họ có thể trốn thoát pháp luật, trốn tránh sự khiển trách của mọi người, nhưng không thoát được báo ứng nhân quả, nhân như vậy thì phải chịu quả như thế. Đây chính là chân lý trong vũ trụ rất công bằng và rất thực tế.
Ngày xưa, có một phụ nữ rất nhiều chuyện, suốt ngày thị đi lông bông bên ngoài để nói những chuyện tốt-xấu. Thị không nói chuyện thị-phi của người thì khen-chê người này tốt, người kia xấu; thị đem điều tốt-xấu của mình để phê phán chuyện đúng sai của người khác.
Một hôm, thị gặp một cô gái trẻ đẹp. Thị bảo:
- Này em! Em rất xinh đẹp để ta giới thiệu cho cô một chàng trai khôi ngô tuấn tú, bảo đảm em rất hài lòng. Em đồng ý không? Chàng trai này vừa đẹp trai, vừa có học vấn, hiểu biết, lại giàu sang, có địa vị. Em kết hôn với anh ta quả thật là một đôi trai tài gái sắc, hạnh phúc không gì bằng.
Cô gái vốn không quen biết gì thị. Bỗng nhiên, nghe thị nói làm mai mối, e thẹn không dám nghe, nên đi luôn. Thị tức giận càm ràm: “Cô này không biết điều, mai này nhờ ta làm mai, ta không đồng ý đâu nhé!”. Cô gái nghe thị nói bậy bạ rất bực mình, sau đó mới bình tĩnh lại. Thật là, lời nói làm cho người khác bực tức chỉ là vô nghĩa.
Một lần, có người hàng xóm mất, thị giúp đỡ hết lòng, chỉ dạy con cái của người mất:
- Này các con! Mẹ của các con mất rồi mà các con không chịu khóc lóc gì hết, càng khóc lớn tiếng thì càng tốt, mới bày tỏ tấm lòng hiếu thảo đối với mẹ. Nếu không mọi người sẽ phê bình mà mẹ của các con cũng không được siêu thăng. Các con phải đốt nhiều vàng mã để mẹ các con xuống âm phủ có mà xài; lại còn đốt cả nhà giấy, xe hơi giấy và các dụng cụ đồ giả cho mẹ. Bằng không, mẹ các con sẽ quanh quẩn ở đây. Các con có muốn mẹ làm kẻ ăn xin, hay làm cô hồn, ma quỷ không? Lớn hết cả rồi mà không biết gì.
Thị chỉ bày cho mọi người, nếu bảo họ cảm tạ thị cũng không đúng, tức giận cũng không được, làm theo thị bảo cũng không ổn, không làm theo cũng khó xử; thật là làm khó hai bên. Thị đi đến đâu cũng chỉ gây phiền phức cho mọi người.
Hàng ngày, thị sống không có nề nếp; suốt ngày, thị lông bông ngoài đường, thường thường đến nửa đêm mới về nhà. Một hôm, thị nằm ngủ trưa bên cây cổ thụ. Lúc vừa thức giấc, thị chợt nhìn thấy một con gấu đen chạy đến, thị không kịp chạy trốn, nên đành ôm chặt thân cây, con gấu vồ thị. Vì thị ôm chặt thân cây, nên con gấu dùng hết sức kéo thị; không ngờ, vuốt của nó cắm sâu vào vỏ cây rút không ra được. Thị lập tức đè lên con gấu, nó nhất thời không cử động được. Khi đó, có một thanh niên đi ngang qua. Thị liền lớn tiếng bảo:
- Này chú em ơi! Hãy giúp dùm chị với, chỉ cần chú em giết chết con gấu này thì nó thuộc về chú.
Chàng trai hỏi:
- Tôi giúp chị như thế nào?
- Chỉ cần chú đè chặt bàn tay con gấu, chị cầm dao giết chết nó nhé!
- Dạ được!
Chàng trai đè tay con gấu cho thị; nhưng thị bỏ đi mất không quay lại, để chàng trai chịu trận, đè gấu cứng đơ trong tình cảnh nguy hiểm. Thật là, lỡ cưỡi trên lưng cọp khó mà xuống được, chàng trai không biết làm thế nào cho toàn mạng.
Bài học đạo lý
Thế gian có rất nhiều tà thuyết, nói ra những điều dường như là đúng mà lý thì không phù hợp. Họ dựa vào trời, thần để nói, nếu như mọi người bác bỏ cũng không được mà không bác bỏ cũng không đúng. Họ phao tin đồn nhảm rất nhiều, nói là Ngọc Hoàng thượng đế nói ra, hay Phật kia dạy, rõ ràng là không hợp lí. Chúng ta bác bỏ được không? Dẫn đến mọi người tức giận, bác bỏ được không? Nếu để lại làm cho mọi người tin theo tà kiến điên đảo, cũng làm cho bọn gian tà thức hiện ý đồ lừa đảo, không xiển dương chính pháp được. Thật là người tốt khó làm mà để họa cho người thì dễ.
Chuyện 94
Hiểu lầm ý người khác
Lời dẫn:Người thông minh dễ dàng hiểu rõ ý của đối phương thể hiện qua từng cử chỉ đưa tay, cất chân, cho đến nhíu mày, nhăn mặt. Kẻ ngu si chẳng những nói ra rất nhiều lần họ không hiểu mà còn hiểu lầm ý của đối phương. Những chuyện bi hài này rất nhiều, lại còn làm mất cơ hội rất nhiều việc lớn; thậm bị mất thân mạng quý báu.
Thuở xưa, có một chàng trai lãng tử sống phóng túng, gã yêu một phụ nữ đã có chồng rất xinh đẹp; cả hai người thường lén lút hẹn hò nhau. Có những lúc, chồng của ả vắng nhà thì họ tha hồ bên nhau suốt ngày, trút nỗi niềm nhớ nhung không bao giờ cạn.
Một hôm, gã hỏi:
- Này em yêu! Em có thật lòng yêu anh không?
Ả ỏng ẹo đáp:
- Tất nhiên là em yêu anh thật lòng, nếu không thì em dối chồng lén lút hẹn hò cùng anh làm gì?
- Vậy tại sao em không ly hôn với chồng để cùng anh xây dựng hạnh phúc.
- Vợ chồng em đang sống hòa thuận, anh ấy không phạm lỗi gì, làm sao em ly hôn được?
- Em nói như thế, chúng ta mãi mãi không thể chính thức kết hôn được phải không?
- Vậy anh có cách gì không?
Lúc họ đang tâm sự, bỗng bên ngoài có tiếng gõ cửa kêu:
- Em ơi! Anh về rồi, hãy mở cửa nhanh lên!
Ả nghe tiếng chồng gọi, hốt hoảng bảo:
- Dạ, anh đợi em tí, em ra mở cửa liền.
Ả nói nhỏ với tình nhân.
- Nguy to rồi! Chồng em về tới, anh phải đi ra mau lên. Chồng em ở bên ngoài đã biết chuyện tình của chúng ta, nếu anh ấy vào nhất định sẽ giết chết anh. Dưới nhà bếp nhà em có ma-ni (đường cống ngầm) anh chịu khó chui xuống đó trốn nhé. Nhanh lên, em ra mở cửa.
Trong lúc hốt hoảng, hắn hiểu lầm ý của ả là đi tìm viên ngọc ma-ni thì mới đi ra được, nên hắn tới lui trong nhà bếp tìm châu ma-ni. Lúc này, chồng của ả đã vào nhà, nhìn thấy gã liền nổi điên lên xông đến chẳng hỏi phải trái, cầm dao đâm gã chết tại trận. Trong cơn hấp hối, gã vẫn còn luyến tiếc thều thào nói: “Thật đáng tiếc! Ta chưa tìm được viên châu ma-ni”.
Do đó, hắn ôm hận từ giã cõi đời. Thật đúng như bậc Cổ đức dạy: “Nguyện chết làm hoa mẫu đơn, làm ma vẫn còn phóng túng”.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người ở đời sống phóng túng, đến khi làm ma vẫn sống phóng túng phải không? Chúng tôi e rằng, đối với họ kiếm được một bữa ăn cũng rất khó khăn, đói vẫn đói mà không chết. Quỷ sống không thể sống gọi là ngạ quỷ, nó có thể sống phóng túng như ở đời không? Kẻ sống phóng túng, chết bất đắc kì tử; hoặc có rất nhiều gia đình sống xào xáo, thương nhiều, hận cũng nhiều. Oán hận và tức giận là tội nhân ở hầm lửa địa ngục. Ai cũng sợ bị lửa dữ thiêu đốt mà vẫn thích sống phóng túng phải không?
Lại nói kẻ sống phóng túng thường luôn nơm nớp lo sợ, sợ người phát hiện, cũng là khi làm súc sinh sợ người giết họ. Chúng tôi nói theo thế gian, khi lửa dục đốt cháy tâm họ thì tinh thần không được yên ổn; giống như si mê, say xỉn. Cho dù tinh thần họ có yên ổn trong chốc lát, nhưng cũng là lợi bất cập hại. Chúng ta thử hỏi kẻ sống phóng túng có an lạc không?
Câu chuyện này để giải thích muôn sự muôn vật ở thế gian, sát na sinh diệt khổ, không vô thường, vô ngã. Nếu như chúng ta giác ngộ được sự sinh diệt của mọi sự vật thì trong tâm thanh tịnh thấy được pháp không sinh, không diệt, thoát khỏi sinh tử; lại ngay trong cuộc sống thường được an lạc, không còn bị lửa dục thiêu đốt, đời sống mới có ý nghĩa, có mục đích. Bằng không thì suốt đời cứ mãi tính toán tranh giành, bị năm dục sai khiến không dừng, vẫn luôn một mình tạo nghiệp. Sau khi chết, bị đọa vào ba đường ác, không biết trải qua trăm nghìn kiếp có trở lại thân người được không, đều do một niệm sai lầm mà đưa đến. Đức Phật dạy: “Một niệm giác tức là Phật, một niệm mê là chúng sinh”. Lẽ nào chúng ta vì một niệm sai lầm mà dẫn đến sinh tử khổ não vô cùng tận?
Chuyện 95
Vì hiểu lầm mà giết oan
Lời dẫn: Thương và ghét ở đời cách nhau thật mong manh, chẳng phải người thế gian thương tức là ghét, ghét tức là thương; thương-ghét luôn xoay vần không dừng. Chúng tôi nói nghĩa rộng là luân hồi sinh tử. Tất cả chúng sinh bị luân hồi sinh tử, phần đông đều do thương-ghét mà ra, tạo nghiệp thiện-ác mà chịu quả báo thiện-ác; đồng thời báo thù lẫn nhau, đòi nợ vẫn nợ, cho nên mới có luân hồi. Khổ báo vô cùng cũng là thương-ghét đưa đến.
Ngày xưa, có một đôi chim bồ câu rất thương yêu nhau, cùng sống chung nhau trên cành cây cổ thụ xanh tươi. Hàng ngày, chúng nó bay đi tìm thức ăn, tối về cùng ngủ chung, như bóng không rời hình, thương yêu chân thành. Vào buổi chiều, chúng nó thường đậu trên mái nhà, ánh nắng hoàng hôn chiếu lên bộ lông chúng nó sáng lấp lánh đẹp vô cùng.
Hai con chim sống với nhau rất vui vẻ, thoải mái, hạnh phúc; có lúc chúng nó thể hiện tình cảm ra ngoài. Khi đậu trên cành cây, chim trống thường đậu sát vào chim mái âu yếm rỉa lông. Có những người nhìn thấy như vậy, đều trầm trồ khen ngợi nói: “Chim bồ câu là loài gia cầm mà chúng nó còn biết thương yêu nhau. Con người là tối linh trong muôn vật, vì sao chỉ biết lợi cá nhân mình mà tranh giành, giết hại lẫn nhau, không biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau để cuộc sống được an vui?” Thế gian này có mấy người yêu nhau trong sáng và chân thật? Tình yêu ở thế gian thường xảy ra “yêu quá sinh hận”, “tức nước vỡ bờ”, “vui quá sinh buồn”. Đôi chim bồ câu cũng không ngoại lệ.
Mùa hè năm đó, đến mùa lúa chín vàng rực. Trong lúc, những người nông dân bận rộn thu hoạch mùa màng. Đôi chim bồ câu cũng vất vả đi tha những gié lúa sót lại trên ruộng đem về tổ, chuẩn bị lương thực cho mùa đông để không còn lo hàng ngày đi tìm thức ăn. Cả hai con đều nỗ lực làm việc, chỉ vài ngày tổ của chúng đầy ắp lương thực.
Một hôm, cả hai con đều bay ra ngoài, bỗng chim mái một mình bay về, cẩn thận xem lúa trong ổ. Vài ngày sau, vì thời tiết nóng bức làm cho lúa trong ổ khô héo xẹp ít lại. Chim trống thấy như vậy sinh nghi ngờ, cho rằng chim mái ăn lén; hoặc tha đi chỗ khác. Vì thế, chim trống càng nghĩ càng tức giận, liền nói với chim mái:
- Chúng ta cực khổ cùng đi nhặt lúa tha về, cô lại lén tha đi đâu?
Chim mái đáp:
- Chàng nói gì kỳ vậy? Thiếp không có.
- Không có, vì sao lúa còn ít như thế? Lẽ nào ta tha đi nơi khác? Cô thường bay về một mình làm gì?
- Vì thiếp không yên tâm lúa ở trong ổ nên bay về xem thử.
- Cô nói dối! Rõ ràng cô lén tha lúa đi nơi khác.
- Tại sao chàng lại nói oan cho thiếp như vậy? Thiếp lại cho rằng chàng lén tha lúa đi thì đúng hơn.
Do đó, hai con cãi nhau chí chóe. Chim trống nổi điên ra sức mổ rất mạnh, chim mái chết ngay lập tức. Chim mái chết rồi, nó còn nói: “Thật đáng kiếp! Mày dám phản bội lại tao”.
Vài ngày sau, thời tiết chuyển mùa, trời lạnh và mưa liên tục. Lúa trong ổ lại tươi, phình to trở lại, lúa vẫn nhiều như trước đây. Chim trống thấy sự việc như vậy, nó vô cùng hối hận nói: “Ta đã nghi oan cho nàng. Hóa ra, gié lúa bị trời nóng khô héo giảm ít lại, ta không chịu xem xét kỹ, ta lại giết chết nàng. Tội ta đáng chết! Ta thật đáng chết”. Chim trống quá đau buồn nên nó chết theo chim mái.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người thường là “vui quá sinh buồn”. Tình yêu cũng thường biến thành thù hận. Cuộc sống luôn đi đôi hai mặt: đúng-sai, khổ-vui, thương-ghét, yêu-hận, vận tốt-vận xấu, thành công-thất bại, giàu sang-nghèo hèn đều luôn xoay vần con người. Vì sao như thế? Lẽ nào “tạo hóa trêu ngươi”. Ông trời không ban cho con người hạnh phúc, an vui mà cố ý làm cho họ nếm mùi đau khổ chăng?
Con người được hạnh phúc là có cơm ăn, áo mặc, nhà ở yên ổn. Nhưng khi ăn ngon, mặc đẹp họ lại thích sống đua đòi phung phí, quên đi lúc cực khổ. Có người còn tạo các ác nghiệp như giết người cướp của, mại dâm, rượu chè be bét, cờ bạc. Bậc Cổ đức dạy: “Con người khi no ấm, lại nghĩ đến chuyện sinh hoạt tình dục. Nghèo đói sinh tâm tham”. Đây là căn tính thấp hèn của con người, cho nên bị trời phạt.
Kỳ thật, nhân quả tuần hoàn, xoay chuyển nghiệp thiện-ác từ đời quá khứ, nhiều đời nhiều kiếp đến nay vô lượng vô biên. Nếu như chúng ta tinh tiến sám hối, phát thiện tâm, cũng có liên quan phúc nghiệp đời quá khứ. Sống phung phí, sát sinh, trộm cướp, cúng tế cũng có liên quan ác nghiệp từ quá khứ đưa đến; cho nên có báo ứng đời nay; thương-ghét, yêu-hận cũng lại như vậy. Cho nên, lúc nào chúng ta cũng khởi thiện tâm thì được phước báo vô lượng tu tập thì sinh tâm từ bi, phát khởi trí tuệ thì phước báo tương lai nhiều đời nhiều kiếp hưởng mãi không hết.
Chuyện 96
Móc mắt khỏi làm việc
Lời dẫn: Đôi mắt là ánh sáng, là tương lai của con người; nếu như bị mù thì tương lai như không có. Thế giới này không có ánh sáng thì mọi sinh hoạt chìm trong bóng tối, sống đau khổ chi bằng chết sướng hơn. Thiên đường là nơi đại biểu ánh sáng và hạnh phúc; địa ngục là nơi tăm tối và đau khổ. Người bị mù thì cuộc sống của họ như ở trong địa ngục tăm tối phải không? Nếu như những người mù cùng sống chung nhau thì họ chỉ có cam chịu số phận bất hạnh. Nhưng có những người mắt sáng vì sao lại đi móc mắt? Vì họ muốn thoát khỏi khổ sai phục dịch. Nhưng sự cực khổ phục dịch đến lúc sẽ hết hạn, còn mắt bị mù thì chịu cảnh mù tối suốt cuộc đời. Vậy mà, thế gian lại có những kẻ ngu si như thế.
Ngày xưa, có một nhà vua vì muốn trưng bày tiện nghi trong cung cho hoành tráng xinh đẹp; cho nên ra lệnh rất nhiều thợ mộc nổi tiếng trong nước vào cung đóng, chạm khắc những đồ dùng. Đồ dùng tiện nghi của nhà vua phải khác xa dân thường, chẳng những phải đóng, chạm khắc khéo và đẹp mà còn phải làm cho nhanh nên bắt mọi người làm việc suốt ngày và rất cực khổ. Có lúc, còn bị quan viên quản lý mắng chửi, đánh đập. Ai nấy đều than thở suốt ngày, nhưng không dám nghỉ.
Một hôm, có một người thợ thông minh, ngồi tại chỗ nhưng không chịu làm việc. Quan quản lý hỏi:
- Này tên kia! Vì sao mày không chịu làm việc?
Anh ta đáp:
- Bẩm quan! Mắt con bị đau, nhìn không thấy gì.
Do anh ta giả vờ rất giống nên quan không có nghi ngờ. Quan đến tâu nhà vua, anh ta bị mù không làm việc được. Vua liền hạ lệnh cho anh ta nghỉ. Những người thợ mộc cho làm như vậy sẽ khỏi làm việc cực khổ, nên mọi người cùng nhau giả mù. Nhưng bị quan quản lý phát hiện, bị phạt cả đám.
Trong đó, có một người đưa ra ý kiến:
- Chúng ta muốn thoát khỏi làm việc cực nhọc này, chỉ còn cách hay nhất là làm người bị mù thật.
Mọi người đều đồng ý nói theo:
- Ý kiến rất hay! Chúng ta bị mù cũng khổ thật, nhưng vẫn tốt hơn làm việc cực khổ.
Cho nên, mọi người đều tự móc mắt mình làm cho bị mù. Mặc dù họ khỏi bị khổ sai, nhưng tiền đồ một đời coi như chấm dứt.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Có người vì trốn làm việc kiếm tiền cực khổ, nên đi lừa đảo, phạm tội bị xử. Có kẻ vì lợi ích cá nhân mà tham ô lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Có kẻ dùng nhiều thủ đoạn tinh vi để trộm cắp v.v…để khỏi lao động khổ nhọc. Nhưng tương lai cả một đời của họ bị hủy hoại trong chốc lát. Bậc Cổ đức dạy: “Lỡ bước một phen thành mối hận nghìn đời, quay đầu lại đã trăm tuổi rồi”. Chúng tôi nói xa một chút, nhiều đời nhiều kiếp trong tương lai sẽ làm thân trâu, ngựa trả nợ cho mọi người. Đây là hám của rẻ, phải chịu lỗ phải không?
Một người thông minh phải biết đem tài trí của mình ra tạo dựng cơ nghiệp, làm việc kiếm tiền chánh đáng, không sợ thiếu thốn. Nhưng có kẻ cứ cố chấp lợi dụng sự thông minh của mình làm việc phạm pháp, lại trốn thoát kẽ hở pháp luật. Có kẻ lợi dụng chút thông minh của mình mà làm chuyện bóc lột mọi người; thậm chí tranh giành cấu xé nhau, dùng thủ đoạn tinh vi để hại người. Có kẻ thừa gió bẻ măng. Có người làm tay sai cho giặc. Có người buôn bán ma túy, vũ khí. Những việc họ làm đều là một vốn bốn lời. Kỳ thật, họ tự đánh mất nhân cách và đạo đức, hủy diệt tương lai của mình. Về sau, phải chịu quả báo đau khổ. Chúng ta nghĩ thử xem, họ là người thông minh, hay là kẻ ngu si?
Con người quý ở có đạo đức, có lương tâm, có lí trí, có tầm nhìn ra trông rộng. Nếu vì lợi ích trước mắt mà chúng ta làm trái đạo đức, lương tâm; bất chấp tương lai chịu sinh tử và đau khổ thì khác gì những người tự móc mắt mình. Kẻ không có đạo đức, lương tâm làm việc thì làm càn, không biết đúng-sai, không biết thật-giả, chánh-tà, phải-trái, thiện-ác; họ cho rằng có tiền là đúng tất cả. Những kẻ này khác nào những người mù trong câu chuyện?
Người có trí tuệ biết nhân quả, làm việc suy nghĩ trước sau, lợi mình lợi người; lại tính chuyện tương lai nhiều đời nhiều kiếp, mới gọi là người mắt sáng. Có người chỉ vì danh lợi, bất chấp thủ đoạn, chỉ vì muốn lợi cho bản thân, không đếm xỉa đến sự sống còn, đau khổ và lợi ích của người khác; đó là người mù- tự hủy tiền đồ của mình và cướp đi sự lợi ích của người khác. Phật pháp là mắt của trời, người; mọi người muốn tìm tương lai của mình hãy nghiên cứu Phật pháp.
Chuyện 97
Lôi người chịu hại chung
Lời dẫn:Ích kỷ lợi mình là đặc tính của con người. Bậc Cổ đức dạy: “Người không vì người, trời tru đất diệt”. Nhưng có lúc tự hại chính mình, hoặc gặp tai nạn thì kéo người khác cùng chịu hại với mình. Việc có lợi giành riêng mình, muốn riêng mình được lợi ích; việc có hại muốn bạn bè cùng chịu chung. Đây là căn tính thấp hèn của con người, hay là tâm ganh tỵ?
Ngày xưa, có hai người người bạn rất thân nhau, một người học nghề thợ vàng, một người rất giàu có. Cả hai cùng thích đi du lịch, họ thường hẹn hò cùng nhau đi dạo ngắm cảnh non xanh nước biếc. Một hôm, họ đi dạo trong rừng sâu, quên mất trời đã về tối, nên đành nghỉ qua đêm bên gốc cây. Sáng hôm sau, họ đi xuống núi, vừa ngắm cảnh đồng bằng lúa xanh mơn mởn thẳng cánh cò bay, vừa thưởng thức hương thơm hoa cỏ dại bên đường. Trong lúc họ say sưa ngắm cảnh thiên nhiên; bất ngờ, không biết từ đâu một tên cướp chạy đến, bình thường người bạn giàu có rất cam đảm, nhưng khi gặp tên cướp hắn rất nhút nhát. Lúc tên cướp bắt hắn thì người bạn thợ vàng lẻn núp trong lùm cây. Tên cướp rút con dao ra, hắn run rẩy nói:
- Thưa đại ca! Em chỉ có chiếc áo này thôi, không còn vật gì khác.
Tên cướp quát:
- Đưa ra mau lên!
Trong chiếc áo bọc một cây vàng, hắn hỏi tên cướp:
- Em đưa đại ca cây vàng, đại ca trả lại cho em chiếc áo được không?
- Vàng ở đâu?
- Dạ, vàng trong chiếc áo.
- Tao không biết vàng thật hay giả, làm sao tin mày được?
- Dạ vàng thật trăm phần trăm, đại ca không tin thì có tên thợ vàng núp trong lùm cây kia, hỏi nó thì biết.
Tên cướp không để ý có người bạn thợ vàng, nghe hắn nói liền bước vào lùm cây lấy hết tài sản của người bạn này rồi đi. Lúc đầu, vốn chỉ có mình hắn bị cướp của; sau đó hắn chỉ bạn mình cũng bị mất của luôn. Thật là, hại người rồi hại mình.
Bài học đạo lý
Các vị đại đức! Con người ở đời, bất luận là bạn chí thân, cùng hoạn nạn thì dễ, nhưng cùng giàu sang thì rất khó. Vì thế, dân gian có câu: “Sướng khổ có nhau”; hoặc “cùng sống cùng chết”. Khi ta gặp hoạn nạn bị hại, mong muốn người cũng bị hại theo, nhưng người khác không có gặp nạn, ta cũng muốn họ cam tâm tình nguyện chịu nạn. Đây là tâm lý gì? Ganh tị. Tự mình bị hại, nhưng không muốn người khác được an ổn. Bồ-tát Địa Tạng nói: “Tôi không vào địa ngục thì ai vào địa ngục. Địa ngục vẫn còn tôi thề không thành Phật”. Ngài A-nan phát nguyện: “Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, con nguyện không chứng Niết-bàn”. Tinh thần hi sinh tự ngã, mong cho người khác được thành tựu, khác nhau một trời một vực.
Người ta yêu nhất thế gian, đó là tình chồng vợ. Lúc thương yêu nhau, cả hai cùng sướng khổ có nhau, cùng nhau sống chết. Khi tình cảm rạn nứt, luôn mong muốn mày chết, tao sống. Lúc yêu thương mặn nồng, đem cả thân mạng hi sinh cho đối phương, khi chia tay thì mong đối phương chết ngay lập tức. Đây là không muốn người khác hưởng thụ một mình.
Ở đời có người thích sống buông thả, đánh mất sự nghiệp; hoặc làm ăn thất bại, cũng muốn kéo người khác sống buông thả như mình, mất đi công đức đạo nghiệp. Họ muốn mọi người cùng trầm luân đọa lạc, không muốn cùng nhau nỗ lực tinh tiến tu hành, cùng sinh về Cực Lạc, cùng hành đạo Bồ-tát là vì sao? Đều là do ác duyên đời trước; hoặc do tâm ganh tỵ sai khiến. Ganh tỵ như vậy là ác ma của chúng ta. Thành tựu người khác là thành tựu mình, ganh tỵ người khác là ganh tỵ mình, hại người là hại mình. Vì sao mọi người muốn tự hại mình; hoặc tự cam chịu đọa lạc?
Chuyện 98
Con rùa thông minh
Lời dẫn: Bậc cổ đức dạy: “Người có tài sai khiến người khác, kẻ bất tài bị người sai khiến”. “Người tài dùng miệng, kẻ bất tài dùng thân”. Trâu bò ngu ngốc, mặc dù thân chúng nó to lớn, mạnh mẽ, nhưng vẫn bị con người sai khiến. Con người tuy nhỏ, nhưng có khả năng dời núi lấp biển, chế tạo tàu thuyền, máy bay, xây dựng nhà cao ốc mấy chục tầng, điều khiển nhà máy, xí nghiệp. Chúng ta đủ thấy trí tuệ con người là thứ vạn năng.
Xưa kia, có một chú bé thường chạy đến bên bờ sông chơi đùa. Một hôm, chú nhìn thấy một con rùa liền bắt nó. Chúng ta biết rùa là loài lưỡng thê, có thể bò trên đất liền và cũng có thể bơi lội dưới nước. Khi rùa bị bắt đầu, đuôi và bốn chân của nó rụt vào trong mai, đợi đến khi không có động tĩnh nó mới thò ra, lén chạy đi. Các loài động vật khác khi bị bắt không làm được như nó.
Lúc này, chú bé bắt được con rùa, liền kéo đầu và chân nó ra, nó lại rút vào trong mai. Chú bé nói:
- Ta không cần kéo đầu ngươi, ngươi rút vào mai làm gì cho mệt, ta muốn giết ngươi.
Con rùa đáp:
- Chú muốn giết ta không được đâu, bởi vì mai của ta rất cứng.
- Ta sẽ dùng lửa thiêu chết ngươi.
- Chú muốn dùng lửa thiêu chết ta cũng không được, vì thân ta cứng hơn đá, thiêu không chết.
- Ngươi không sợ lửa, không sợ đao. Vậy ngươi sợ gì?
- Ta rất sợ nước, chú thấy đem đá ném xuống nước thì nó liền chìm. Thân ta và đá giống nhau.
Chú bé cười ha hả và nói:
- Ta không nghĩ ra cách gì để giết ngươi, nay ngươi đã chỉ cách để ta giết chết ngươi. Ngươi đã giúp ta chu đáo, cảm ơn ngươi nhé!
Chú bé liền ném rùa xuống nước, một tiếng “bùm” rùa liền lặn mất xuống đáy sông.
Trong lúc chú bé đang đắc ý, bỗng nhiên rùa nổi lên nói:
- Cảm ơn chú bé nhé! Cảm ơn chú đã đưa ta về nơi ta sinh sống. Ta đi đây!
Chú bé ngạc nhiên nói:
- Việc này là thế nào? Rõ ràng ta ném xuống ngươi chìm mất mà. Vì sao ngươi nổi lên được?
Chú không biết rùa là động vật lưỡng thê, nên nghi ngờ.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này nói người có trí tuệ, cho dù gặp cảnh nguy hiểm hay tai nạn thế nào, họ vẫn có thể hóa nguy thành an. Kẻ ngu vô sự vẫn đi gây sự, tự mình chuốc lấy phiền muộn.
Các vị đại đức! Đức Phật là Đấng giác ngộ, đầy đủ trí tuệ, từ bi, đức hạnh nên thành Phật. Vì thế, Ngài thoát khỏi sinh tử ba cõi, được đại tự tại; cho nên trí tuệ là nguyên nhân thành Phật rất quan trọng. Chúng ta sinh hoạt hàng ngày, cũng cần dựa trí tuệ, mới có thể thành công sự nghiệp, cũng mới có thể yên ổn, an vui trong cuộc sống.
Chúng tôi nói thí dụ: “Người có trí tuệ, họ có kế hoạch sự nghiệp, ứng phó muôn sự ở thế gian, đối nhân xử thế khéo léo, buôn bán thu chi rành mạch”. Người có trí tuệ xử sự mọi việc tốt đẹp làm hài lòng mọi người. Kẻ không có trí tuệ làm việc này không xong, việc kia cũng không được, đi đến đâu cũng làm mọi người phiền lòng, làm việc không tốt, lại còn trầy trật không ra gì. Đến chỗ nào cũng tính toán chi li, tranh cãi với mọi người; lại chuốc nhiều phiền não, đau khổ; nặng hơn một chút là tạo tội nghiệp, làm cho tương lai chịu nhiều quả báo đau khổ. Cho nên trí tuệ là bảo bối của con người rất quan trọng.
Thế gian có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo vốn là nhiệm vụ vĩ đại dạy mọi người tu tâm dưỡng tính, bồi dưỡng tâm tính và đạo đức, nhân cách. Nhưng có người lợi dụng tôn giáo để làm công cụ cuộc sống; hoặc làm công cụ kiếm tiền, cầu danh lợi. Kết quả ngược lại, trở thành công cụ hại họ đọa lạc, đều có liên quan không có trí tuệ. Vì thế, trí tuệ là then chốt quan trọng, thăng hay đọa ở thế gian và xuất thế gian.
Chuyện 99
Nhặt được vàng lại bị đoạt
Lời dẫn: Tục Ngữ có câu: “Ba năm xoay chuyển theo vận tốt hay xấu”. “Gió nước theo sự di chuyển”. “Có lúc trăng sáng, có lúc sao sáng”. Các câu trên đều nói vận mạng con người luôn luôn thay đổi; vạn vật cũng luôn thay đổi. Vận mạng có dừng lại không? Vì sao như thế? Bởi vì tâm người luôn thay đổi, có lúc nghĩ thiện, có lúc nghĩ ác, có lúc làm thiện, có lúc làm ác; cho nên vận mạng cũng thay đổi tốt-xấu. Như thế, nếu khi chúng ta có cơ hội tốt, kiếm được nhiều tiền, gặp vận tốt thì nên cố gắng nắm bắt cơ hội, tích lũy công đức. “Trời nắng ráo tích trữ lương thực dành khi mưa”. “Nuôi con cậy về già, tích trữ lúa gạo phòng khi đói”. Chúng tôi nói rộng một chút, đời nay chúng ta phải tu đời sau được phúc, tốt nhất là tu giải thoát sinh tử.
Ngày xưa, có một người rất nghèo đi lang thang nơi hoang vắng. Bất ngờ, hắn phát hiện một rương vàng, vui mừng khôn xiết. Hắn nghĩ rương vàng này cả đời hắn xài cũng không hết, hắn không còn lo chuyện cơm ăn, áo mặc, có thể xây nhà cao cửa rộng, cũng có quyền cưới năm thê, bảy thiếp, được hưởng thụ tất cả thú vui ở đời. Trong lúc, hắn ngất ngây say sưa đếm vàng,. Bỗng có một tên cướp đi ngang qua nhìn thấy liền cướp đi hết. Gã nhà nghèo vẫn trở lại trắng tay.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này giải thích hàng phàm phu chúng ta từ đời quá khứ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, trôi nổi trong sinh tử, chịu khổ não vô lượng vô biên; ngày nay, gặp được Phật pháp thật không dễ gì. Người muốn tu phúc cõi trời, cõi người; hoặc muốn tu theo đạo Thanh văn giải thoát sinh tử; hoặc muốn tu theo Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh, cuối cùng mới thành Phật. Mọi người đều có thể ở trong Phật pháp tìm những thứ mình cần, lấy không hết, dùng không cạn. Chúng tôi có thể nói là tài sản vô tận. Nhưng vì sáu căn của chúng ta phan duyên theo sáu trần, nên bị sáu giặc là nhãn thức, nhĩ thức lấy trộm đi công đức pháp bảo quí báu vô lượng, rốt cuộc chúng ta vẫn là phàm phu tục tử. Chúng tôi sợ rằng tương lai vẫn chịu sinh tử vô lượng, khổ não vô biên. Đây không phải là điều đáng tiếc hay sao?
Người học Phật vốn phải tín giải hành chứng, từ từ mà tu. Có người dừng ở phương diện hiểu biết mà không chịu tu hành; hoặc có tu hành thì buông lung sáu căn, tham đắm năm dục, sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ở thế gian. Cho nên tài sản công đức trong nhà mình bố thí, trì giới, nhẫn nhục đều bị sáu thức lấy trộm đi. Chúng ta vẫn mãi mãi là một phàm phu khổ não, chẳng phải là việc đáng tiếc hay sao?
Xưa nay chúng sinh đều có Phật tính, đều có của báu vô lượng. Vì giữ cửa-tu hành không nghiêm túc, để sáu trần xâm nhập trộm lấy đi nhiều của cải (sáu độ) mà chịu làm người nghèo cùng. Ngày nay không dễ gì gặp được Phật pháp, có thể làm một đại gia giàu nứt vách. Chúng ta hãy cố gắng nắm lấy cơ hội dụng công tu hành. Nếu như để sáu trần trộm lấy đi (lười biếng), không phải thật đáng tiếc hay sao?
Điều Ngự Trượng Phu một trong mười hiệu của Đức Phật; giống như huấn luyện viên luyện ngựa, có con vừa thấy roi đã chạy nhanh; có con đánh mới chịu chạy; có con đánh đập rất mạnh vẫn không chịu chạy. Đức Phật giáo hóa chúng sinh cũng như vậy. Có chúng sinh nghe Phật pháp liền nỗ lực tinh tiến tu hành. Có chúng sinh dạy nói, khuyến khích thế nào cũng không chịu tu hành. Người nghe Phật pháp mà không chịu tu hành thì khác nào nhặt được của báu mà bị kẻ khác cướp đi?
Xưa nay Thánh hiền, nhiều đời Tổ sư tu học Phật pháp đắc đạo chứng quả nhiều vô số, đều là người nghe pháp dụng công tu hành. Một chữ, một câu trong Phật pháp, mọi người nên lấy làm bảo bối thì mới có thể thụ dụng Phật pháp. Người chỉ nghe mà không chịu tu hành thì giống như có của cải mà không biết xài. Chúng ta hãy đem Phật pháp ứng dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày; giống như của ít mà biết sử dụng, như người biết khai thác tài nguyên nhiều vô số kể, dùng không hết, lấy không cạn. Người không biết sử dụng, có nhiều của cải cũng như không. Chúng ta đừng làm người nhặt được vàng mà bị người khác cướp đi nhé!
Chuyện 100
Tham cái nhỏ bỏ cái lớn
Lời dẫn: Mọi người đều có thói quen hám của rẻ. Như khi chúng ta bàn chuyện làm ăn buôn bán, cần phải đãi một bữa tiệc nhỏ thì chuyện làm ăn mới thành công. Khi chúng ta muốn đi kiện cáo, phải chìa phong bì ra trước thì mới được thắng kiện. Lúc chúng ta lâm bệnh nặng phải vào bệnh viện cấp cứu, cũng phải có phong bì mới được chăm sóc đặc biệt. Chúng ta muốn nhờ người khác làm việc gì, trước phải làm lợi cho họ, sau mới dám nhờ họ giúp đỡ. Mọi người biết nhận quà của người khác là việc làm trái pháp luật, phạm pháp, nhưng không ai từ chối cả. Do đó mà mọi người tự chôn vùi nhân cách, đạo đức, tương lai, danh dự của mình. Đây không phải là tham cái nhỏ bỏ cái lớn hay sao?
Ngày xưa, có một phụ nữ bồng con đi xa, vì đi rất lâu, nên nàng mỏi mệt, ngồi nghỉ bên gốc cây, bất chợt nàng ngủ say. Khi đó, có một tên lưu manh đi ngang qua, đem kẹo đến cho chú bé. Chú bé ham kẹo, nên rất mến hắn. Hắn lợi dụng lúc chú bé mê ăn kẹo, liền lấy hết đồ trang sức của người mẹ và đi mất. Khi người mẹ thức dậy thì tất cả tài sản đã bị tên lưu manh lấy đi sạch.
Bài học đạo lý
Câu chuyện này nói về người học Phật phải tinh tiến tu hành mới đúng, nhưng vì tham đắm danh lợi thế gian, tham chút lợi nhỏ mà tăng trưởng phiền não, đánh mất công đức trí tuệ, giống như chú bé ham ăn kẹo, đem hết đồ trang sức cho kẻ lưu manh; chẳng phải tham cái nhỏ bỏ cái lớn hay sao?
Đây là câu chuyện thí dụ. Người phụ nữ dụ cho chính niệm, ngủ say dụ cho lười biếng, mất chính niệm. Tên lưu manh dụ cho tâm của chúng ta. Kẹo dụ cho chút lợi. Chú bé dụ cho người học Phật phải chính niệm hộ trì thì sẽ không mất tài sản công đức. Chính niệm, chính kiến, chính định, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chínhtư duy, chính tinh tiến đều là pháp bảo hộ trì bản tính của chúng ta, mới không bị tâm viên ý mã lấy trộm đi tài sản công đức của chúng ta.
Người học Phật, nếu không hám của rẻ thì dù có người đến lấy trộm tài sản công đức của chúng ta, nhưng chúng ta luôn cảnh giác, làm cho chính niệm ở trong hiện tại thì tên ý giặc liền bỏ chạy. Đức Phật dạy: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác ngộ muộn”. Niệm khởi liền giác, giác thì vọng niệm không sinh. Đây là quá trình của người tu hành, là việc cần phải trải qua, chúng ta thành công hay thất bại cũng đều ở đây.
Chúng tôi nói cách khác, nếu chúng ta vì tham chút lợi ích, tiếp cận năm dục, cho đến ở chốn ồn náo, sẽ làm cho lòng ham muốn tăng trưởng mạnh. Chủng tử ở trong ruộng thức thứ tám thường say năm dục, cũng dẫn đến lòng ham muốn từ đời quá khứ, làm tăng trưởng mỗi ngày, đạo tâm suy giảm, bị giặc phiền não đánh bại, nên sinh tử khổ não vẫn vô lượng vô biên. Bậc Cổ đức dạy: “Giàu sang không ham mê, nghèo khó không thể lay chuyển, không khuất phục trước uy lực và quyền thế”. “Không lay động trước tám ngọn gió, ngồi ngay thẳng trên tòa sen vàng”. Đó là điều tu hành quan trọng nhất. Lòng ham muốn là ngọn lửa mạnh mẽ, đạo tâm là nước mát lạnh; lửa, nước không dung hòa nhau. Chúng ta nên chọn lấy cái nào? Là do trí tuệ chọn lựa.
Phật giáo có Đại thừa và Tiểu thừa. Đại thừa là người phát tâm rộng lớn, làm lợi ích cho chúng sinh là quan trọng. Tiểu thừa là người tự tu tự lợi làm chủ yếu, họ không có thời gian để làm lợi ích cho người khác, cũng không phát tâm Bồ-đề. Tham đắm lợi mình mà không đi làm lợi ích cho người khác, có phải tham cái nhỏ mất cái lớn không?
Người không phát tâm Bồ-đề, suốt ngày đi làm lợi ích cho chúng sinh, không có thời gian tinh tiến tu tập thì có giống chúng sinh bị trầm luân trong sinh tử hay không? Trước khi họ chưa giải thoát phiền não, tất nhiên sinh tử không thể giải thoát. Nhưng nếu họ giữ được tâm Bồ-đề, không rơi vào đường ác, cũng không mê muội tạo nghiệp ác thì sự nghiệp của họ là làm lợi ích cho chúng sinh, bản thân họ cũng dần dần tăng trưởng phúc đức trí tuệ. Cho nên, làm lợi người tức là làm lợi mình, không phải tham cái nhỏ mất cái lớn.
Tham cái nhỏ mất cái lớn là kẻ mê muội không giác ngộ. Đức Phật dạy: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ-tát làm bất cứ việc gì, việc gì đáng làm, việc gì không nên làm, rõ ràng minh bạch. Chúng sinh sợ quả, vì không biết nhân như thế nào, sẽ sinh ra quả như thế nào, nên tạo tội nghiệp ngay trong cuộc sống hàng ngày. Khi quả đến thì than trời trách đất, cầu khẩn Bồ-tát gia hộ, cũng là tham cái nhỏ mất cái lớn.
(Dhammadayadasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”, – “Bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ: “Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật”. Và này các Tỷ-kheo, nếu các Người là những người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự pháp, thì không những các Người trở thành những người mà người ta nói: “Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp”, mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: “Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp”. Và này các Tỷ-kheo, nếu các Người là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các người trở thành những người mà người ta nói: “Cả Thầy và trò là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật”, mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: “Cả Thầy và trò đều là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Người và Ta nghĩ: “Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật”.
Này các Tỷ-kheo, ở đây, một thời Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực của Ta đáng được quăng bỏ. Khi ấy có hai Tỷ-kheo đến, đói lả và kiệt sức. Ta có thể nói với hai vị ấy: “Này các Tỷ-kheo, Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực này của Ta đáng được quăng bỏ. Nếu các Người muốn, hãy ăn đi. Nếu các Người không muốn ăn, Ta sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay Ta sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy”. Rồi một Tỷ-kheo có thể nghĩ như sau: “Nay Thế Tôn ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy. Nhưng Thế Tôn có dạy như sau: “Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật”. Đây là loại tài vật; món đồ ăn này, ta hãy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày hôm nay, bị đói lả và kiệt sức”. Rồi vị ấy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày ấy, đói lả và kiệt sức. Tỷ-kheo thứ hai nghĩ như sau: “Thế Tôn ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy. Vậy ta hãy ăn loại đồ ăn này, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm nay như vậy”. Rồi vị ấy ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy. Này các Tỷ-kheo, dầu cho Tỷ-kheo này, sau khi ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy, nhưng đối với Ta, Tỷ-kheo đầu tiên đáng được kính nể hơn, và đáng được tán thán hơn. Vì sao vậy? Vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỷ-kheo ấy, trong một thời gian lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào Tinh xá.
Lúc ấy, Tôn giả Sariputta, sau khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả Tỷ-kheo!” - “Thưa vâng Hiền giả”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói: “Này các Hiền giả, như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học viễn ly? Và như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly?” - “Này Hiền giả, chúng tôi từ xa lại để được hiểu nghĩa lý câu nói này từ Tôn giả Sariputta. Lành thay, nếu Tôn giả Sariputta thuyết giảng nghĩa lý câu nói ấy. Sau khi được nghe Tôn giả Sariputta thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì” - “Chư Hiền, vậy hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng” - “Thưa vâng, Hiền giả”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Này chư Hiền, ở đây vị Đạo sư sống viễn ly các đệ tử không tùy học viễn ly. Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ, và họ sống trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp, đáng bị quở trách. Vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này đáng bị quở trách. Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo... (như trên)... các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng bị quở trách. Vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng bị quở trách. Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.
Và như thế nào, vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly? Này chư Hiền, vị Đạo sư sống viễn ly các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. Vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán. Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo... (như trên)... các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. Vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Đó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Đó là trường hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về viễn ly. Đó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán. Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Đạo sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly.
Ở đây, này chư Hiền, tham là ác pháp, và sân cũng là ác pháp, có một con đường Trung đạo diệt trừ tham và diệt trừ sân, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền con đường Trung đạo ấy là gì, (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Đó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Ở đây, này chư Hiền, phẫn nộ là ác pháp và hiềm hận cũng là ác pháp, giả dối là ác pháp và não hại cũng là ác pháp, tật đố là ác pháp và xan lẫn cũng là ác pháp, man trá là ác pháp và phản bội cũng là ác pháp, ngoan cố là ác pháp và bồng bột nông nổi cũng là ác pháp, mạn là ác pháp và tăng thượng mạn cũng là ác pháp, kiêu là ác pháp và phóng dật cũng là ác pháp. Có một con đường Trung đạo diệt trừ kiêu và diệt trừ phóng dật, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền, con đường Trung đạo ấy là gì, (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Đó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.
KINH THỪA TỰ PHÁP, THỨ BA HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________
>>> 2.Kinh tất cả các lậu hoặc
Hồi đó Bụt đang ở thành Xá Vệ với đầy đủ quý vị trong cộng đồng khất sĩ. Một hôm Ngài nói với đại chúng:
- Có pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn phân tích và diễn giải pháp ấn này cho quý vị nghe. Quý vị hãy đem nhận thức thanh tịnh ra để nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, khéo léo sử dụng tâm ý để ghi nhớ mà hành trì.
Các vị khất sĩ bạch:
- Hay quá, thưa đức Thế Tôn! Xin người chỉ dạy cho, chúng con muốn được nghe.
Bụt dạy:
- Tự tính của không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt và vượt thoát mọi tri kiến. Tại sao thế? Vì tự tính của không không có vị trí trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệm được, chưa bao giờ từng sinh khởi, tri kiến không nắm bắt được và thoát ly mọi sự nắm bắt. Vì thoát ly được mọi sự nắm bắt nên nó bao hàm được tất cả các pháp và an trú nơi cái thấy bình đẳng không phân biệt. Cái thấy ấy là cái thấy chân chính và xác thực. Quý vị khất sĩ! Quý vị nên biết rằng không những tự tính của không như thế mà tự tính của tất cả các pháp cũng đều như thế. Đó gọi là pháp ấn.
Quý vị khất sĩ! Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Bụt, là con mắt của chư Bụt, là chỗ đi về của chư Bụt. Vì vậy quý vị nên nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, để ghi nhớ mà tư duy và quán chiếu ngay trong lòng thực tại. (C)
Quý vị khất sĩ! Người tu hành nên tìm nơi tĩnh mịch như vào rừng, ngồi dưới gốc cây để thực tập quán chiếu về tự thân thực tại. Phải thấy mọi hình sắc là khổ, không và vô thường để thoát ly cho được sự bám víu vào hình sắc và trở về an trú trong cái thấy bình đẳng không phân biệt đối với hình sắc. Đối với cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức cũng thế: người ấy nên quán chiếu rằng chúng là khổ, không và vô thường để có thể thoát ly cho được cái thấy có tính cách sai lạc về cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức để đạt tới cái thấy bình đẳng không phân biệt về chúng. Này quý vị khất sĩ, các uẩn vốn là không, vốn được sinh khởi từ tâm, khi tâm không còn hiện hành thì uẩn cũng không còn tác dụng. Thấy biết được như thế tức là đạt được giải thoát chân chính. Giải thoát chân chính rồi thì thoát được mọi tri kiến. Phép quán sát này được gọi là KHÔNG, cánh cửa giải thoát thứ nhất. (C)
Lại nữa, an trú trong định mà quán sát các đối tượng thì hành giả thấy các đối tượng hình sắc đều tan biến hết và người ấy thoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về hình sắc. Các đối tượng khác là thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều tan biến hết và hành giả thoát ly được tính cách hư ảo của mọi tri giác về thanh, hương, vị, xúc và pháp. Phép quán sát này gọi là vô tướng, cửa giải thoát thứ hai. Vào được cánh cửa giải thoát này rồi thì tri kiến sẽ được thanh tịnh; và vì tri kiến đã được thanh tịnh nên hành giả diệt trừ được hết các phiền não tham, sân và si. Tham, sân và si đã tận diệt thì hành giả an trú được trong cái thấy bình đẳng. An trú được trong cái thấy này thì lìa được những cái thấy về ta và về của ta, nghĩa là chấm dứt được mọi cái thấy sai lầm. Cái thấy này không còn cơ hội và căn cứ để sinh khởi nữa. (C)
Lại nữa, các vị khất sĩ! Thoát ly được cái thấy về ta rồi, thì hành giả không còn cho rằng những sự vật mà ta thấy, nghe, cảm và biết là những sự vật có thật ngoài nhận thức nữa. Vì sao thế? Vì nhận thức cũng chính là do nhân duyên mà phát sinh. Nhận thức và các nhân duyên làm phát khởi ra nhận thức đều biến chuyển vô thường, mà vì thức vô thường cho nên ta cũng không nắm bắt được. Thức đã không như bất cứ hiện tượng nào khác thì còn có gì cần được tạo tác nữa đâu? Phép quán sát này được gọi là VÔ TÁC, cửa giải thoát thứ ba. Vào được cửa giải thoát này rồi thì hành giả thấy được chân tướng các pháp một cách triệt để, không còn bị kẹt vào một pháp nào nữa và thể nghiệm được tính cách tịch diệt của các pháp. (C)
Bụt bảo quý vị khất sĩ:
- Pháp ấn mầu nhiệm là như thế. Đó là ba cánh cửa đi vào giải thoát. Quý vị khất sĩ, nếu quý vị tu học theo pháp ấn này thì chắc chắn là sẽ đạt được tri kiến thanh tịnh.
Toàn thể các vị khất sĩ nghe pháp này đều tỏ ra rất sung sướng. Họ làm lễ Bụt sau khi đã tiếp nhận giáo pháp này để hành trì. (CCC)
(Kinh số 104, Tạng Kinh Đại Chánh)
Kinh Ba Cửa Giải Thoát: Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười. Ta có thể tham khảo thêm kinh Thánh Pháp Ấn (103, tạng kinh Đại Chính) do thầy Pháp Hộ dịch vào cuối thế kỷ thứ ba, và kinh số 80 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chính).
(Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org)
(Sabbasavasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo!” – “Bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: “Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc”. Hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói”. – “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vị này vì không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Vị ấy không như lý tác ý như sau: “Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?” Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình trong thời hiện tại: “Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?”. Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: “Ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; “Ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như chơn; “Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; “Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. “Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: “Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại”. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược.
Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau. Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Đó là những pháp không nên tác ý và vị ấy không tác ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Vị ấy như lý tác ý: “Đây là khổ”, như lý tác ý: “Đây là khổ tập”, như lý tác ý: “Đây là khổ diệt”, như lý tác ý: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”. Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ? Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ con mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Vị ấy như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗ tai... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗ mũi... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ lưỡi... (như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ thân căn... (như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ ý căn. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ ý căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ ý căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng. Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn”. Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết, chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh; vị ấy như lý giác sát thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm giác khổ thống đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; kham nhẫn những cách nói mạ lỵ, phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tránh né voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né bò dữ, tránh né chó dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị đồng phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy và các bạn độc ác ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát không có chấp nhận dục niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (dục niệm ấy); không có chấp nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (sân niệm ấy); không có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (các ác bất thiện pháp ấy). Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn diệt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập niệm giác chi, niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng được đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đã được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đã được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn trừ đã được tu tập đoạn trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
Như vậy Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
KINH TẤT CẢ LẬU HOẶC, THỨ HAI HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________
>>> 1.Kinh pháp môn căn bản
KINH ATTHAKA VAGGA
Chương Bốn - Phẩm 8 |Kinh Tập - Sutta Nipata
The Octet Chapter
Trong bài viết Đọc Tạng Pali: Đừng Trụ Bất Kỳ Pháp Nào cư sĩ Nguyên Giác có đề cập đến các bản kinh xuất hiện trong thời kỳ đầu của đạo Phật “Early Buddhism” tức là, những bản kinh được suy đoán là trong những năm đầu tiên thuyết pháp của Đức Phật, hay còn được gọi là những bản kinh cổ.
Kinh “The Parayana Vagga” và kinh “Aṭṭhaka vagga” là hai bản kinh đều có mặt trong “Kinh Tập - Sutta Nipāta thuộc Tiểu Bộ Kinh.
Kinh “The Parayana Vagga” tiếng Anh có tựa đề là The Chapter on the Way to the Far Shore”, tiếng Việt là “Phẩm Con đường Đến Bờ Bên Kia” Kinh này đã được cư sĩ Nguyên Giác giải thích chi tiết trong bài viết nói ở trên.
Trong bài này chúng tôi đề cập đến nhóm kinh thứ hai “Aṭṭhaka Vagga” tức chương 4 Phẩm 8 trong Tập Kinh do HT. Thích Minh Châu dịch. Tiếng Anh là The Octet Chapter, dịch bởi Thanissaro Bhikkhu, bao gồm mười sáu bài kệ về chủ đề của sự không dính mắc. Các bài kệ này xoay quanh bốn loại dính mắc – dính mắc vào cảm xúc, nhìn, thực hành, giới luật, và giáo lý của tự ngã - với sự nhấn mạnh đặc biệt vào hai loại đầu tiên.
Kinh mô tả những gì tạo nên bản chất của sự dính mắc vào từng trường hợp cụ thể, những hạn chế của sự dính mắc, lợi ích của việc từ bỏ dính mắc, phương cách từ bỏ dính mắc, và những nghịch lý tinh tế của những gì nó không có nghĩa dính mắc.
Lời dạy trong kinh Aṭṭhaka Vagga đề cập tới một tăng đoàn sống không gia cư, tu pháp hành nhiều năm và chú trọng thực hành hơn là những đề tài triết lý. Văn kinh giản dị, và sâu sắc lại dễ hành.
Trong tạng Hán có một bản kinh được xem là tương đương với Aṭṭhaka Vagga, là kinh Arthapada, số 198 Đại Tạng Taisho. Thầy Thích Nhất Hạnh đã dịch và chú giải với tựa “Kinh Nghĩa Túc”
Trước hết chúng tôi giới thiệu nguyên bản tiếng Anh dạng PDF và bản dịch phần phụ đính số 1 của bản tiếng Anh bởi dịch giả Kan. Sau nữa là bản dịch của HT. Thích Minh Châu và bản dịch của thầy Thích Nhất Hạnh.
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
Bản tiếng Anh PDF
Pannobhasa-Bhikkhu_Atthakavagga
Aṭṭhaka Vagga (Sn 4)
Tiếng Anh: The Octet Chapter Tiếng Việt Phẩm Tám
Phụ Lục I
Một số dấu vết chứng tỏ tính cổ xưa của kinh Aṭṭhaka Vagga
1. Ngôn ngữ dùng trong Aṭṭhaka vagga chứa một số dạng ngữ pháp làm gợi nhớ tới ngôn ngữ Vedic Sanskrit cổ; những dạng này không thấy trong toàn bộ phần kinh điển còn lại.
2. Aṭṭhaka vagga được nhắc tới ở vài chỗ khác, chẳng hạn trong Udāna 5.6 (4) thuộc tạng kinh, hay trong Đại Phẩm 5.13 (5) thuộc tạng luật. (6) Cả hai chỗ này đều nhắc tới vị tỳ-kheo trẻ tên Soṇa Kuṭikaṇṇa đã tụng lại Aṭṭhaka vagga khi được Đức Phật đề nghị trình bày về pháp. Đoạn Kinh trong Udāna 5.6 còn nêu ra chính xác rằng Aṭṭhaka vagga có 16 phần. Như vậy, Aṭṭhaka vagga phải có trước hai bản kia.
3. Aṭṭhaka vagga là một trong số rất ít phẩm kinh thuộc tạng Pali có bản chú giải cũng thuộc tam tạng, bản chú giải của nó là Mahāniddesa thuộc Tiểu Bộ. (Điều thú vị là dường như mục đích của Mahāniddesa không phải là để bàn chi tiết hơn tính sâu sắc tuyệt diệu của Aṭṭhaka vagga, mà nó chỉ làm giảm giá trị của Aṭṭhaka vagga hơn là tán dương. Hơn nữa, Mahāniddesa được soạn ra dường như không phải để chú giải một bản kinh cổ danh tiếng, bởi tại thời điểm nó được biên soạn thì nhiều bài kinh được xem là cổ hơn Aṭṭhakavagga mà còn không có chú giải nằm trong tam tạng. Mục đích của Mahāniddesa có lẽ là diễn giải lại một phần không nhỏ giáo thuyết của Theravada thời kỳ đầu (7) hay thậm chí là tiền Theravada (8). Phần giáo thuyết này rõ ràng không tương thích với những giáo thuyết phát triển về sau, nhưng chưa bao giờ chúng quá nổi bật để bị loại bỏ khỏi tam tạng.)
4. Dựa trên dấu vết văn bản thì Aṭṭhakavagga (nhưng không phải là toàn bộ Kinh Tập Sutta-nipāta) vốn phổ biến trong nhiều bộ phái, thậm chí có thể phổ biến trong hầu hết hay toàn bộ các bộ phái Phật giáo, kể cả Đại Chúng Bộ vốn được biết tới như một trong hai bộ phái sinh ra từ lần phân phái đầu tiên. Câu chuyện về vị tỳ-kheo Soṇa Kuṭikaṇṇa tụng đọc cũng có mặt trong tạng luật của Đại Chúng Bộ, cũng như trong tạng luật của nhiều bộ phái khác còn lưu lại trong tạng Hán.
5. Văn bản Aṭṭhaka vagga không chứa một đoạn kinh mẫu nào (9), không có một dạng hệ thống hóa giáo thuyết nào cả. Ngoại trừ đoạn mở đầu trong hai kinh Māgandiya Sutta và Sāriputta Sutta thì không có yếu tố thần thông, vốn là một đặc tính của những văn bản hậu kỳ.
6. Những lời dạy trong Aṭṭhaka vagga nói tới một tăng đoàn sống không nhà, lời kinh dù giản dị nhưng vẫn rất sâu sắc. Kinh này dường như xuất hiện trong thời kỳ đầu của đạo Phật, khi những vị tăng hầu hết là có thâm niên tu hành và chú trọng thực hành hơn là những đề tài triết lý. Hình ảnh những vị tăng yên vị tại tu viện tiện nghi để cống hiến toàn lực cho việc khảo sát Dhamma theo lối học thuật (10), vốn là hình ảnh quen thuộc từ rất lâu trong lịch sử đạo Phật, hoàn toàn xa lạ với tinh thần của bản kinh này. (hết phần trích dịch – Kan)
Các bản dịch
Aṭṭhaka vagga (Sn 4) Tiếng Anh: The Octet Chapter
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/index.html
Tiếng Việt: Phẩm Tám
http://thuvienhoasen.org/p15a1547/2/chuong-04-pham-tam
APPENDIX I
Some evidence suggesting the great antiquity of the Aṭṭhaka vagga
1. The language of the Aṭṭhaka vagga contains several rare and archaic grammatical forms reminiscent of Vedic Sanskrit which are absent in the more streamlined grammar of most of the rest of the Canon.
2. The Aṭṭhaka vagga is referred to by name elsewhere in the Tipiṭaka at, for example, Udāna 5:6 in the Suttanta Piṭaka and Mahāvagga 5:13 in the Vinaya Piṭaka. Both of these passages tell the story of a young bhikkhu named Soṇa Kuṭikaṇṇa who, when requested by the Buddha to speak sore Dhamma, recites the Aṭṭhaka vagga. The passage in the Udāna also (correctly) specifies that the Aṭṭhaka vagga has sixteen parts. Thus it was already compiled and named before the completion of the works in which the story is found.
3. The Aṭṭhaka vagga is one of the very few portions of the Pali Canon with a line-by-line commentary that is also canonical—namely, the Mahāniddesa. (Interestingly, the purpose of the Mahāniddesa is apparently not to expound upon the great profundity of the Aṭṭhaka vagga, as it does more to trivialize than glorify it. Furthermore, the Mahāniddesa was probably not composed merely to comment upon a notably ancient text, as at the time of its composition many suttas were believed to predate the Aṭṭhaka vagga—yet they are without a canonical commentary. Its most likely purpose seems to be to reinterpret—to explain away—a large body of proto-Theravadin or even pre-Theravadin philosophy that was clearly at odds with later doctrinal development but was nevertheless too well known to be deleted from the Canon.)
4. According to the literary evidence the Aṭṭhaka vagga (but not the Suttanipāta as a whole) was common to many, probably most, and possibly all of the ancient schools of Buddhism, including the Mahasanghikas, who are historically the first to branch off from the proto-Theravada/ Sarvastivada line (being equivalent to the Vajjiputtas in the Pali account of the second council). The story of ven. Soṇa Kuṭikaṇṇa’s recitation of the Aṭṭhakavagga is also recorded in the Mahasanghika Vinaya, as well as in the vinayas of other ancient schools preserved in the immense Mahayana Tripiṭaka.
5. The text of the Aṭṭhakavagga contains none of the usual stock passages, little if any technical systematization of doctrine, and, with the possible exceptions of the introductory verses to the Māgandiya Sutta and Sāriputta Sutta, no fairy-tail narratives—all of which are characteristic of later material.
6. The teachings of the Aṭṭhakavagga are addressed to a Sangha of homeless, wandering ascetics, and are very simple (often to the point of being enigmatic) yet also exceedingly profound. They appear to come from a time when the Sāsana was still in a primitive state, most of its converts being veterans to the holy life, and being far more inclined to practically realize than to theoretically philosophize. The existence of sedentary bhikkhus living in prosperous monasteries and dedicating their efforts to intellectual investigation of Dhamma, which became the norm very early in the history of Buddhism, is clearly at variance with the spirit of these teachings.
KINH TIỂU BỘ TẬP I
Khuddhaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2543 - 1999
Kinh Tập (Sutta Nipata)
Chương Bốn - Phẩm Tám – Atthaka vagga| The Octet Chapter
ĐẠO BỤT NGUYÊN CHẤT - KINH NGHĨA TÚC
Kinh Nghĩa Túc trong tạng Hán do cư sĩ Chi Khiêm dịch.
Thích Nhất Hạnh dịch ra quốc văn và giảng giải.
Đạo Tràng Mai Thôn 2011
HT. Thích Minh Châu dịch |
HT. Thích Nhất Hạnh dịch |
Sn 4.1: Kama Sutta — Sensual Pleasure.[766-771] Kinh về dục. 766. Ai ao ước được dục, 767. Nếu người có dục ấy, 768. Ai tránh né các dục 769. Người nào tham đắm dục, 770. Như người không sức lực, 771. Do vậy người thường niệm, |
Kinh Nhiếp Phục Tham Dục – Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhất, Đại Tạng Tân Tu 19 tương đương với Kàma Sutta, Sutta-Nipàta 766-771 1. Tâm còn đeo đuổi ham muốn thì dù có đạt tới cái đối tượng ham muốn rồi, mình vẫn càng ngày càng muốn có thêm nữa, vẫn chưa được hài lòng. |
Sn 4.2: Guhatthaka Sutta — The Cave of the Body. [772-779] Kinh hang động ái dục 772. Chúng sanh vào trong hang, 773. Dục cầu làm nhân duyên, 774. Ai tham đắm các dục, 775. Do vậy ở tại đây, 776. Ta thấy ở trên đời, 777. Hãy nhìn những người ấy, 778. Hãy nhiếp phục ước muốn, 779. Do liễu tri các tưởng, |
Kinh Hang Động Ái Dục-Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhì, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Guhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 772-779 1. Bị nhốt vào cái hang động của đủ thứ ham muốn, bị tri giác sai lầm của mình che lấp, người ta đi tách ra khỏi con đường chánh đạo. Cái nhớ tưởng về dục vọng của mình làm cho mình khó có cơ hội thành tựu được tuệ giác. 2. Vướng vào vòng sắc dục là vướng vào vòng sinh tử. Một khi sợi dây sắc dục đã cột vào kiên cố quá thì khó có thể tháo gỡ ra. Nếu không biết quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp, nếu không thành tựu được tuệ giác thì không thể nào chặt đứt được gốc rễ của tham dục. 3. Tham dục được phát sinh từ mù quáng và si mê. Người ta không biết rằng chạy theo tham dục thì cái mê lầm của mình càng ngày càng lớn, rằng sống trong tham dụcthì phải gánh chịu nhiều thống khổ và bi ai, và trong khi chịu đựng, người ta chẳng biết phải nương tựa vào đâu cho bớt khổ. 4. Con người phải thức tỉnh và trở về với giây phút hiện tại. Phải thấy rằng thế gianđang sống trong mê lầm, ta không thể nương tựa vào cấu trúc của thế gian và đi theocái đà của nó. Phải quán niệm về buông bỏ, về sự trở về với con đường chính, về sự thoát ly vướng mắc. Phải nhớ mạng sống là ngắn ngủi và quán chiếu cái chết gần kề. 5. Cuộc đời đi từ khổ đau này đến khổ đau khác, cái ham muốn trong cõi sinh tử đang lan tràn như một cơn lũ lụt. Khi cái chết đến, oán thù và sợ hãi phát sinh, và năng lượng của cái dục ấy sẽ kéo ta đi luân hồi. 6. Người đang nhận chịu khổ đau cảm thấy mình như một con cá thiếu nước, dòng nước chảy vào hồ đã bị cắt đứt. Thấy như thế là có thể dừng lại được và sẽ không còn có khuynh hướng muốn đi về trong ba cõi. 7. Đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan. Những gì mà ta tiếp xúc nếu biết là chúng có tính cách nguy hại thì ta phải quyết tâm buông bỏ, đừng vướng víu. Đừng làm một điều gì để sau này ta sẽ oán trách chính ta. Phải biết từ khước nhìn và nghe những gì có thể làm cho tự thân ta ô nhiễm. 8. Phải sử dụng những giáo pháp của đạo giác ngộ để quán chiếu và vượt qua biển khổ. Vị mâu ni buông bỏ những lo toan, trau chuốt cho cái ngã và tu tập tinh chuyên để nhổ cho được mũi tên tham dục ra khỏi thân mình. Làm như thế vị ấy đạt được tới chỗ không còn nghi nan. Đại Ý Kinh Hang Động Ái Dục tiếp nối chủ đề mà kinh thứ nhất đưa ra. Kinh này cũng chỉ có tám bài kệ. Bị nhốt vào hang động ngũ dục, con người không tìm ra được con đườngchánh đạo thênh thang. Ham muốn là hang động giam hãm con người và cũng là những sợi giây trói buộc làm cho con người mất hết tự do. Nguồn gốc của tham dục là si mê, chỉ có quán chiếu mới buông bỏ được. Ham muốn là gốc của luân hồi sinh tử. Có ba hình ảnh rất sống động trong kinh này: đó là hình ảnh của một cơn lũ lụt, tượng trưng cho tham dục, kéo ta đi; hình ảnh của một con cá thiếu nước, tượng trưng cho khổ đau và hệ lụy; và hình ảnh của một mũi tên cắm vào thân thể, tượng trưng cho tham dục. Một trong những phương pháp thực tập là tránh nhìn và nghe những gì có thể tưới tẩm hạt giống tham dục trong ta. Phương pháp khác là quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp. Phương pháp thứ ba là thực tập con đường trung đạo, đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan: hoặc kham khổ quá, hoặc hưởng thụ nhiều. Trong bài kệ thứ tám, có một chữ chép sai. Đó là chữ tiêm (尖) có nghĩa là mũi nhọn, chép nhầm thành chữ vị (未), làm cho câu kinh mất nghĩa. Hai chữ viết na ná như nhau cho nên có sự nhầm lẫn. |
Sn 4.3: Dutthatthaka Sutta — Corrupted Kinh Sân Hận tám kệ (Sn 153) [780-787] 780. Thật có một số người 781. Người ước muốn dắt dẫn, 782. Người không có ai hỏi, 783. Vị Tỷ-kheo an tịnh, 784. Với những ai các pháp, 785. Đối với các thiên kiến, 786. Vị tẩy sạch loại bỏ, 787. Với ai có chấp thủ, |
Kinh Buông Bỏ Sở Tri Và Ngôn Từ 1. Mình còn mang theo tà niệm mà cứ lo chỉ trích người khác (về những sai lầm thiếu sótcủa họ). Mình chỉ ham đề cao cái thấy của mình về sự thật. Khi gặp được một vị chân tuđích thực, thì mình thấy rằng vị ấy chẳng quan tâm gì tới chuyện thị phi và hơn thua cả. 2. Làm sao sử dụng được công phu hành trì của mình để buông bỏ tham dục trong cuộc đời? Làm sao đạt tới được cái đức hạnh cao quý và vượt thoát mọi nhu yếu tranh cãi? Làm sao chế ngự được tham dục? Người ta sẽ đặt cho mình những câu hỏi (thực tế) như thế. 3. Giả dụ có người, không ai hỏi mà tự khoe là mình giữ giới và thực tập giỏi, người ta sẽ nghi rằng người này không nói thật và không đi đúng vào con đường của đạo pháp. Vì vậy những ai muốn học hạnh sa môn phải biết lo tự tịnh hóa mình trước. 4. Đã thực sự dừng lại rồi, và để không còn bị kẹt vào cuộc đời thế tục thì phải thường tự nhắc nhở là mình phải nắm giữ giới luật cho vững chắc. Phải có đức tin nơi đạo pháp, không nên chỉ ba hoa lo dạy đời. 5. Giáo pháp nói lên không có gì bí hiểm mà cũng không bị hư nát. Khi giảng dạy đừng đưa cái ngã của mình lên, không nên vì vui mà dạy, vì giận mà không dạy. Phải thấy được trong sự hành trì của mình không có gì sai lạc và rơi rụng. Nếu mình không bị kẹt vào cái ý riêng của mình thì còn gì để mừng hoặc để giận? 6. Những cái gì ta đã ngỡ là của ta, cần được buông bỏ. Những giáo pháp minh sátcần phải nắm lấy để hành trì. Nếu tha thiết muốn có lợi ích chân thực thì mình sẽ đạt được tuệ giác về không, bởi vì nhìn vào các pháp và thấy được tướng không của chúng cho nên mình biết tất cả vốn là không. 7. Không nên vướng vào bất cứ một xứ nào (của bốn thiền về sắc giới), trong đó có vô sở hữu xứ. Hành trì mà không có ý định sinh về một trong ba cõi. Nếu tất cả những gì vô minh và điên đảo đã được đoạn trừ thì làm sao cái hành của mình lại còn mang tính cách xứ sở? 8. Ý niệm về “có” được phá vỡ tan tành; ngôn ngữ để sử dụng giải bày cũng không còn bị vướng mắc. Đã không bị vướng mắc, đã có khả năng buông bỏ (mọi ý niệm) thì cái hành của mình sẽ có công năng đưa mình tới cái tuyệt đối không kỳ thị. Đại Ý Kinh này tuy cũng chỉ có tám bài kệ nhưng ý tứ rất sâu sắc. Câu nói: giáo pháp không có gì bí mật (che giấu) và không có gì hư nát là từ kinh này. Một vị mâu ni chân thựckhông quan tâm đến chuyện thị phi và đắc thất. Vị ấy không có nhu yếu tranh cãi và gặt hái tiếng khen. Vị ấy lo tự tu tự độ để có giải thoát trước, chứ không ba hoa lo dạy đời. Vị ấy có khả năng buông bỏ sở tri của mình, cho nên khi được khen không mừng mà khi bị chê cũng không giận. Kinh này đã nói tới tuệ giác không. Nhìn vào tướng trạng các pháp, thấy được tướng không của các pháp cho nên vị mâu ni vượt thoát được ý niệm về có và đồng thờicũng vượt được ý niệm về không như là ý niệm vô sở hữu xứ. Kinh này cũng đã nói tới sự phá vỡ các khái niệm trong đó có khái niệm có và khái niệm không, và nhất là đã đề cập tới ý niệm ngôn ngữ đạo đoạn, ta không nên bị kẹt vào ngôn từ. Cuối cùng kinh này cũng đã nói tới sự buông bỏ (xả) để đạt tới cái không còn kỳ thị. |
Sn 4.4: Suddhatthaka Sutta — On Purity/Pure Kinh Thanh Tịnh tám kệ (Sn 154) [788-795] 788. Ta thấy vị thanh tịnh, 789. Nếu thanh tịnh con người, 790. Bà-la-môn không nói, 791. Từ bỏ tri kiến cũ, 792. Người tự mình chấp nhận, 793. Vị ấy đạt thù thắng, 794. Họ không tác thành gì, 795. Với vị Bà-la-môn |
Kinh Buông Bỏ Khổ Lạc Và Nhiễm Tịnh Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ tư, Đại Tạng Tân Tu 198 (tương đương với Suddhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 788-795) 1. “Tôi đã được chuyển hóa và trị liệu.” Có kẻ tin rằng hễ thấy được (bốn) sự thật thì mình tự nhiên được tịnh hóa. Những kẻ tin rằng cái kiến thức mình có chính là cái chuyển hóa và trị liệu, những kẻ ấy chưa thực sự chứng nhập được khổ đế và tập đế. |
Sn 4.5: Paramatthaka Sutta — On Views/Supreme Kinh Tối Thắng tám kệ (Sn 156) [796-803] 796. Ai thiên trú trong kiến, 797. Khi nó thấy lợi ích, 798. Người y chỉ kiến ấy, 799. Chớ có tác thành ra 800. Đoạn tận, từ bỏ ngã, 801. Với ai, hay cực đoan, 802. Đối vị ấy ở đây, 803. Họ không tác thành gì, |
Kinh Sự Thật Đích Thực-Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ năm, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Paramatthaka Sutta,Sutta-Nipàta 796-803 1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình. Vướng víu si mê, cứ để tháng ngày trôi qua, bao giờ mới có cơ hội thấy rõ chân lý? Chưa có pháp môn tu đạomà cứ nói mình đã thực tập xong xuôi. Tâm còn loạn động, chưa biết hành trì, bao giờ mình mới có được kiến giải thực sự? 2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình. Tự cho rằng cái thấy, cái nghe và cái thực tập của mình là không ai bằng được. Chính mình đang bị sa đọa và ràng buộc vào trong năm cái hang động dục lạc của cuộc đời mà mình vẫn cứ ba hoa nói mình hơn người. 3. Còn ôm chặt si mê và vọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện. Cái học hỏi và sự thực tập của mình còn sai lạc mà mình lại cứ ham muốn độ đời. Những gì thấy, nghe, suy nghĩ, và cả những nghi lễ và cấm giới mà mình hành trì, mình vẫn còn bị kẹt vào đấy, chưa thoát ra khỏi. 4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng. Đừng cho rằng mình bằng người, hơn người hoặc thua người. 5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do. Tuy vẫn có cái biết và cái thấy, nhưng thường quán chiếu để không bị kẹt vào chúng. 6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính. 7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm. Dùng trí tuệ để quán chiếu tâm ý và đối tượng tâm ý để buông bỏ được tất cả, không còn bị vướng vào một pháp nào trong thế gian. 8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào? Phải biết tìm trong pháp hành trì của mình cái đệ nhất nghĩa đế, cái sự thậtđích thực. Không bị kẹt vào nghi lễ và giới cấm, không cho đó là chân lý, nhờ đó mà vượt qua được bờ bên kia, không bao giờ còn trở lại chốn sinh tử.
Kinh này cũng chỉ có tám bài thi kệ, và cũng nối tiếp được giáo nghĩa của các kinh đi trước một cách liên tục. Khi mình ôm ấp một cái thấy, một chủ thuyết rồi cho đó là chân lý tuyệt đối thì mình sẽ có thái độ khinh mạn đối với những người khác và những cái thấy của họ. Mình không chịu tu tập mà chỉ muốn đi truyền bá cái lý thuyết của mình. Một vị khất sĩ chân chính, một vị phạm chí chân chính không thể đi theo con đường ấy. Phải buông bỏ sở tri, phải thực tập để thoát ra khỏi hang động của ham muốn, và phải đạt tới tuệ giác vô ngã để phá tan cả ba thứ mặc cảm là hơn người, thua người và bằng người. Còn chấp vào một cái ngã thì còn so sánh, còn so sánh thì còn mặc cảm. Những mặc cảm ấy gây khổ đau và bệnh hoạn. Theo đạo Bụt, không những mặc cảm thua người đưa tới bệnh tật và khổ đau, mà mặc cảm hơn người và bằng người cũng chứng tỏrằng ta chưa thoát ra khỏi khổ đau và bệnh tật. Ta có những cái biết và cái thấy, nhưng ta không cần phải bị kẹt vào những cái ấy, thì ta mới có tự do và mới có cơ hội đi lên. Đó là giáo lý buông bỏ sở tri; sở tri là cái thấy, cái thấy ấy nếu ta bị kẹt vào là ta mất tự do, là ta không còn cơ hội đi lên. Bài kệ thứ sáu nói tới con đường trung đạo, vượt qua cái nhìn lưỡng nguyên (sinh diệt, có không v.v...), vượt qua ý niệm thọ mạng (kiếp này và kiếp sau) và mở cửa cho giáo lý của kinh Kim Cương Bát Nhã sau này. Bài kệ thứ tám nói về cái không của các pháp (các pháp không thực sự hiện hữu) và cái sự thật đích thực tức là đệ nhất nghĩa đế. Đây chính là hạt giống của giáo lý trí tuệ vượt qua bờ bên kia (cầu vi đế, độ vô cựcchúng bất hoàn). Vị đạo sĩ đạt được cái thấy bất nhị rồi thì không còn nắm bắt cái bây giờ và vướng bận vào cái sau này, vị âý sẽ có thong dong thật sự. Vì kinh này có hơi hướng của Bát Nhã Ba La Mật cho nên thầy Tăng Hội đã đưa nó vào trong phần Minh Độ Vô Cực của kinh Lục Độ Tập do thầy biên dịch. Ta có thể đọc kinh này trong quyển thứ tám của Lục Độ Tập Kinh, kinh thứ 89. Kinh Kính Diện Vương ở Lục Độ Tập Kinh được sao chép kỹ lưỡng nên có ít sai sót hơn, và nhờ thế dễ dịch hơn. Xin mời các vị độc giả so sánh hai bản đã được giữ lại trong Hán tạng của kinh này. |
Sn 4.6: Jara Sutta — On Decay/Old Age (VI) Kinh Già (Sn 158) [804-813] 804. Sinh mạng này ngắn thay, 805. Loài Người sầu vì ngã, 806. Vì loài Người nghĩ rằng 807. Như những gì hiện lên, 808. Các loại hạng người ấy 809. Tham đắm cái của ta, 810. Đối với vị Tỷ-kheo 811. Vị ẩn sĩ không tựa, 812. Giống như một giọt nước, 813. Do vậy bậc tẩy sạch, |
Kinh Buông Bỏ Ân Ái Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ sáu, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Jarà Sutta, Sutta-Nipàta 804-813 1. Kiếp người rất ngắn ngủi 2. Lạc thú sinh lo lắng 3. Không có gì mà cơn lũ của cái chết không cuốn theo nó. Những gì ta ham muốnngày xưa, những gì mà ta trân quý như một cái ta, nếu lấy trí tuệ quán chiếu để tìm rasự thật ta sẽ thấy rằng cái này không phải là ta, và ta không phải là cái này. 4. Những lạc thú của cuộc đời cũng giống như những gì ta thấy trong một giấc mơ. Thức dậy rồi thì không còn thấy gì nữa. Những gì mà người đời đang tham cầu cũng thế. Một khi tâm thức hết biểu hiện thì còn có gì nữa đâu? 5. Tên tuổi người ấy ta còn nghe, nhưng người ấy đã đi rồi. Người ấy dễ thương hay không dễ thương, bây giờ ta cũng không trông thấy nữa. Người ấy đã rời bỏ cuộc đời, người ấy đã đi về đâu? Thần thức đã đi, chỉ có cái tên còn ở lại. 6. Buồn giận nhau, yêu thương nhau, rồi ghen ghét nhau. Người ta không buông bỏđược cái vướng mắc vào tham ái. Bậc trí giả biết vậy cho nên buông bỏ ân ái. Lìa xa được sự sợ hãi và đạt tới cõi an lành. 7. Vị khất sĩ phải sống với sự thực, đừng đánh mất chánh niệm. Phải xa lìa ái dục, biết rằng hình hài này thế nào cũng có ngày hủy diệt. Phải thực tập đừng đuổi theo những đối tượng sắc dục. Phải quán chiếu tâm ý trong tâm ý. Trên con đường tìm cầu chân lý, đừng dừng lại bất cứ ở đâu. 8. Không dừng lại cũng là pháp môn hành trì của các bậc tôn đức. Cái thương, cái ghét, cái tỵ hiềm, cái buồn và cái lo không động được tới mình. Như những giọt nước rơi xuống không giọt nào dính vào được đóa sen. 9. Không vướng mắc, cũng không trông cầu. Những gì thấy và nghe có tính cách bất chính ta không ái trước. Cả đến cái giải thoát mà ta cũng không tìm cầu thì ta còn tìm cầu gì những cái ô nhiễm? 10. Không vướng vào tham ái, (trong sáng) như một đóa sen. Tuy mọc lên từ bùn nhưng bùn không động tới được. Bậc tôn quý trên đời cũng hành xử như thế. Những gì nghe và thấy cũng giống như những gì chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe.
Kinh này nói tới cái lo và cái sợ. Dù mình đang hưởng thọ lạc thú, mình cũng nơm nớplo sợ không biết ngày mai mình còn giữ được cái ngày hôm nay không. Dù mình đang có ân ái, mình cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai người thương của mình có còn hay không. Nhìn cho kỹ thì đối tượng của lạc thú cũng như đối tượng của yêu thương đều là vô thường, còn đó rồi mất đó như một giấc mơ. Khi người mà ta thương yêu không còn đó nữa, thì dù ta có khóc thương cách mấy người ấy cũng không sống lại được. Các vị khất sĩ phải buông bỏ ân ái, đi như một con người tự do, đừng để bất cứ một hình ảnh hay một âm thanh làm vướng bận. Đừng đuổi theo một đối tượng ái dục. Trên con đường đi tới giải thoát không nên dừng lại vì một đối tượng ân ái, dù chỉ là trong khoảnh khắc. Đừng để cái thương, cái ghét, cái buồn, cái lo đụng tới mình. Chính cái giải thoát mà ta cũng không bị vướng mắc vào thì tại sao ta để cho ta vướng mắc vào những cái ô nhiễm? |
Sn 4.7: Tissa Metteyya Sutta — Tissa Metteyya - (VII) Kinh Tissametteyya (Sn 160) [814-823] 814. Tissa Metteyya, 815. Thế Tôn nói như sau: 816. Ai trước sống một mình, 817. Tiếng tốt có từ trước, 818. Chi phối bởi suy tư, 819. Bị người khác buộc tội, 820. Được danh là Hiền trí, 821. Thấy nguy hại như vậy, 822. Hãy học tập viễn ly, 823. Sở hành bậc ẩn sĩ, |
Kinh Xa Lìa Ái Dục Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ bảy, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Tissametteyya Sutta, Sutta-Nipàta 814-823 1. Vướng mắc vào sắc dục là căn nguyên của bao nhiêu si mê lầm lỗi, những si mê lỗi lầmnày ngăn không cho mình tiếp tục đi tới trên con đường Đạo rộng thênh thang. Xin đức Thế Tôn giáo giới cho chúng con, để chúng con có thể hành trì và lìa xa được mọi hệ lụy gây nên do sắc dục. 2. Khi tâm ý đã bị ám ảnh bởi hình bóng một đối tượng ái dục thì chúng con thườngquên mất lời truyền dạy của đức Thế Tôn. Chúng con đánh mất con đường chánh mà chúng con muốn đi, ngay cả những lúc chúng con ngủ nghỉ. Và chúng con cũng quên mất thứ tự trước sau trong công phu hành trì tu tập. 3. Người xuất gia là người đi một mình với cái tâm ban đầu với chủ đích là khám phácho ra được Chân Đế, nhưng sau đó một thời gian có thể đi ngược lại với lý tưởng của mình một khi bị vướng vào ái dục. Cũng như cỗ xe kia không còn chịu đi trên con đường thẳng mà bắt đầu lăn xuống hố, người xuất gia ấy không còn khả năng phân biệt được chánh tà. 4. Ngày xưa vị ấy đã từng được tôn kính và yêu mến vì giá trị đạo đức của mình, nhưng bây giờ vị ấy đã đánh mất tất cả những cái tốt đẹp đó. Thấy được sự thật này, ta phải hết lòng tu tập, quyết tâm xa lìa con đường ái dục. 5. Ta hãy nên quán chiếu về cái lợi và cái hại của sắc dục, phải thấy được một khi đã vướng vào sắc dục rồi thì ta sẽ đi về đâu. Phải lắng nghe những lời dạy tuệ giác liên hệ tới vấn đề này để đề cao cảnh giác. Phải thực tập chánh tư duy để thấy được những thống khổ và những hổ thẹn mà sắc dục có thể đem lại cho ta. 6. Cái hành của ta phải đi theo với cái thấy của ta. Phải học phép độc cư, đừng bao giờ để xảy ra sự chung đụng trái phép. Vướng vào sắc dục sẽ sinh ra tà loạn, khiến cho kẻ hành giả đánh mất đi tất cả năng lượng dũng mãnh của chính mình. 7. Kẻ phạm giới luôn luôn mang theo trong lòng sự sợ hãi. Giây phút giao hoan ngắn ngủi, nhưng cái sợ hãi này phải mang lấy lâu dài. Đã trót vướng vào cái lưới rồi, mình phải liên tiếp nói lên những lời gian dối không thật. 8. Thấy được những hệ lụy gây nên do sự phạm giới, ta phải giữ mình và đừng bao giờ tự phụ là mình đã giỏi. Vị mâu ni kiên trì trên con đường sống độc cư của mình, khi đi cũng như khi về. Vị ấy hướng về nẻo sáng mà đi, không bị tập khí si mê lôi kéo. 9. Sống một mình để đi trên con đường hướng thượng tìm cầu chân lý. Ta đã có con đường rồi nhưng ta không nên tự kiêu. Tuy chưa thực chứng được Niết Bàn, nhưng ta đã ở sát ngay bên cạnh Niết Bàn rồi. 10. Nên phát khởi tâm nguyện vượt cao đi xa, không dừng lại ở cõi sắc và cõi vô sắc. Theo lời đức Thiện Thệ chỉ dạy, ta quyết tâm vượt ra ngoài cõi khổ. Được như thế thì bao nhiêu cám dỗ sắc dục của cuộc đời cũng sẽ không làm gì được ta.
Kinh này gồm mười hai bài kệ. Kinh này cũng nối tiếp đề tài của kinh trước, nói về buông bỏ ân ái. Người xuất gia tuy không còn sống cuộc đời lứa đôi nữa, nhưng vẫn phải đương đầu với vấn đề ái dục, bởi vì năng lượng ái dục là năng lượng tự nhiêncủa con người, mình vẫn phải đối phó, dù mình đã là người xuất gia. Bụt dạy thầy Di Lặc phải thực tập vững chãi các giới điều và uy nghi, đừng để xảy ra sự chung đụng trái phép. Đừng tự phụ là mình đã giỏi, không cần tới những “chi tiết nhỏ nhặt” của giới luật và uy nghi. Phải phát đại nguyện vượt cao, đi xa, và tâm Bồ Đềấy sẽ bảo hộ cho mình. Và phải luôn luôn quán chiếu để thấy những hệ lụy mà sắc dục đem lại. Vướng vào sắc dục rồi, mình sẽ như một cỗ xe không còn đi đường thẳng nữa mà bắt đầu lăn xuống hố, mình không tiếp tục được sự hành trì, mình phải chịu mất đi sự tin tưởng và quý chuộng của các bạn đồng tu, mình bắt buộc phải nói những lời gian dối, chịu đựng rất nhiều thống khổ và những hổ thẹn, tất cả đều là do sắc dục đem đến.
|
Sn 4.8: Pasura Sutta — To Pasura (VIII) Kinh Pasùra (Sn 161) [824-834] 824. Ở đây chính thanh tịnh, Họ thuyết giảng như vậy, Họ nói trong pháp khác, Không có sự thanh tịnh, Họ nói chỗ y chỉ, Ở đây là thanh tịnh, Họ rộng rãi an trú, Trong sự thật của mình. 825. Những ai muốn tranh luận, Sau khi vào hội chúng, Họ công kích lẫn nhau, Họ gọi nhau là ngu, Họ đi đến người khác, Và khởi lên tranh luận, Họ muốn được tán thán, Họ gọi chúng thiện xảo. 826. Ham mê thích tranh luận, Ở giữa các hội chúng, Ước muốn được tán thán, Họ sợ hãi thất bại, Khi bị đánh thất bại, Họ trở thành rủn chí, Bị chê, họ nổi giận, Kẻ tìm lỗi người khác. 827. Khi các nhà thẩm sát, Phê bình các câu hỏi, Tuyên bố cuộc tranh luận, Đi đến chỗ thất bại, Kẻ nói lời hạ liệt, Than khóc và sầu não, Họ rên rỉ than van, Nó đã đánh bại ta. 828. Giữa các vị Sa-môn, Các tranh luận khởi lên, Trong các tranh luận này, Có chiến thắng chiến bại. Do thấy rõ như vậy, Không vui thích tranh luận Dầu có được tán thán, Cũng không lợi ích gì. 829. Hay trong tranh luận này, Nó được lời tán thán, Sau khi đã nói lên, Chính giữa các hội chúng. Do vậy nó vui cười, Nó tự hào kiêu hãnh, Đạt được mục đích ấy, Như tâm ý nói lên. 830. Cái làm nó cống cao, Cũng là đất hại nó, Tuy vậy nó vẫn nói, Lời cống cao kiêu mạn, Khi thấy được như vậy, Hãy đừng có tranh luận, Bậc thiện xảo nói rằng, Thanh tịnh không do vậy. 831. Cũng như bậc anh hùng, Nuôi dưỡng đồ ăn vua, La hét muốn tìm cầu, Một địch thủ anh hùng, Ôi anh hùng hãy tránh, Chỗ nào có vị ấy, Từ trước đã không có, Sự đấu tranh như vậy. 832. Những ai chấp tri kiến, Tranh luận về kiến ấy, Tuyên bố thuyết giảng rằng: Chỉ đây là sự thật, Ông hãy nói với họ, Ở đây không tranh luận, Ông hãy nói thêm rằng Ở đây không địch thủ. 833. Cuộc chiến đấu đã tàn, Những ai sống như vậy, Không có sự va chạm, Giữa kiến này kiến khác, Hỡi này Pasùra! Ông được gì nơi họ, Với người không chấp thủ, Một sự gì tối thượng? 834. Vậy Ông hãy đi đến, Suy tư ngẫm nghĩ kỹ, Với tâm ý suy tư, Trên những loại tri kiến, Hãy hoà đồng chung hợp, Với bậc đã tẩy sạch, Ông không có thể không Cùng vị ấy tiến bước. |
Kinh Buông Bỏ Ý Muốn Hơn Thua Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ tám, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Pasùra Sutta, Sutta-Nipàta 824-834 1. Tự mình cho là mình đã có pháp thanh tịnhcao nhất, kẻ khác không ai có tuệ giác lớn bằng mình. Kẹt vào cái sở tri của mình và thích thú với cái ý nghĩ là mình đã nắm được chân lý, thái độ ấy đưa người ta đến sự hành trì sai lạc. 2. Trong những buổi hội họp thường muốn tỏ ra rằng mình hơn người. Ai cũng cứ nói rằng kẻ kia còn là những người u tối. Lòng cứ đinh ninh là mình có chân lý, nhưng mình không thực sự biết là mình đang nói gì. Cứ thế mọi người đặt cho nhau những câu hỏi về chân lý và hy vọng là phía bên kia người ta sẽ không thể trả lời những cật vấn của mình được. 3. Trong đám đông, họ cật vấn nhau, họ đặt lại những câu hỏi gây khó khăn trong các buổi tranh luận. Khi bị dồn vào thế không trả lời được, người ta nổi cơn giận dữ tại vìđối với những vấn đề gọi là nan giải, ai cũng cho là mình hay nhất. 4. Lúc bấy giờ, trong sự thực tập của mình, mình bắt đầu có sự nghi ngờ tự cho mình là đã đi sai lạc và bắt đầu có tâm hành hối hận. Trong giọng nói của mình, bắt đầu có sự mất tự tin và không còn tin tưởng vào cái biết của mình nữa. Cuối cùng, cái thao thức muốn đặt những câu vấn nạn kia chẳng giúp ích được gì cho chính mình. 5. Buồn rầu, lo lắng và khổ đau khi thấy mình thua cuộc. Mình ngồi không vui mà nằm xuống cũng còn ấm ức hoặc hối hận. Cái công phu học hỏi của mình xưa nay vốn là sai lạc cho nên mới đưa tới những lời nói và những ý định như thế. Một khi thấy mình bị lép vế trong cuộc tranh luận rồi thì mình lại rơi vào mặc cảm thua kém. 6. Thấy điều ấy rồi thì mình ngậm miệng lại, không dám nói nữa bởi vì mình biết nếu gấp gáp nói ra một điều gì nữa thì vấn nạn lại do đó mà phát sinh. Vì có chủ ý vấn nạncho nên mới phát sinh ra những cuộc tranh chấp, nguyên do cũng chỉ vì mình muốn được khen ngợi, được nổi bật giữa đám đông. 7. Những lời ngợi khen đẹp đẽ kia làm phát sinh sự thích thú cho nên ai cũng bị kẹt vào. Chính thái độ tự cao tự đại của mình làm cho mình rơi xuống thấp. Không chịu lắng nghe học hỏi thì làm sao ta có thể đi lên? 8. Nếu quả thực có tâm tu học thì ta sẽ không có nhu yếu tranh luận như thế. Không đi theo con đường (tranh luận) kia thì ta sẽ có cơ hội đi tới giải thoát tốt đẹp. Nếu cứ ỷ vào (cái hay, cái giỏi của mình) thì sẽ có nhu yếu năng nổ đi tìm một đối tượng mà mình muốn nạn vấn hơn thua.
Đại ý Con đường tu đạo là con đường tịnh hóa. Nếu mình cho con đường của mình là cao nhất, nếu cho rằng mình đang đứng trên đỉnh cao trí tuệ thì chính mình đang bị kẹt, và sự hành trì của mình có thể là đang sai lạc. Mình có khuynh hướng muốn tranh luậnvà chứng tỏ là mình đúng, tất cả những kẻ khác đều sai lầm. Tranh luận mà thắng thì cảm thấy hả hê, nhưng chính cái hả hê đó sẽ làm cho mình rơi xuống hố sâu của mặc cảm. Phần lớn người ta chỉ ham chuộng lời hay ý đẹp và họ nghĩ cái ấy là đã đủ với họ. Họ không biết đó chỉ là đồ trang sức. Đó chỉ là cái thứ hoa không bao giờ kết trái. Đây là hình ảnh rất thiết thực được đưa ra trong bài thi kệ thứ chín. Nếu mình có nhu yếu tu học, nếu mình có khả năng lắng nghe và học hỏi thì mình sẽ không có nhu yếu tranh luận hơn thua. Trong kinh này Bụt chỉ dẫn những điều ta cần làm. Thứ nhất là phải phát tâm tìm cầu cánh cửa giải thoát. Thứ hai là những gì mình nói ra phải đi theo với pháp môn mình thực tập. Thứ ba là phải tìm cầu ánh sáng: chỉ có ánh sáng mới xua đuổi được bóng tối u minh, xua đuổi được tri giác sai lầm. Mà cách thức tìm cầu ánh sáng hay nhất là quán chiếu tất cả những đối tượng của tâm ý. Điều này được nói tới trong bài thi kệ thứ mười hai. Ánh sáng của con đom đóm không phá tan được màn vô minh, phải có ánh sáng của trí tuệ Ba La Mật. |
Sn 4.9: Magandiya Sutta — To Magandiya (IX) Kinh Màgandiya (SN 163) [835-847] Thế Tôn: 835. Sau khi thấy khát ái, Bất lạc và tham đắm, Không thể có ưa muốn, Đối với sự dâm dục. Sao, với bao đầy tràn, Nước tiểu, phân uế này, Ta không có ước muốn, Với chân động chạm nó. Màgandiya: 836. Nếu Ngài không ước muốn: Ngọc báu như thế này, Nữ nhân được mong cầu, Bởi rất nhiều đế vương, Hãy nói như thế nào, Là tri kiến của Ngài, Giới cấm và sinh mạng, Cùng sự hữu phát sanh. Thế Tôn: 837. Thế Tôn liền trả lời, Cho Màgandiya, Với Ta không có nói, Ta nói như thế này, Sau khi quán sát kỹ Sự chấp thủ trong pháp, Trong tất cả tri kiến, Ta không có chấp trước, Ta thấy sự cất chứa, Tịch tịnh trong nội tâm. Màgandiya: 838. Màgandiya nói: Các lý thuyết quyết định, Ngài nói vị ẩn sĩ, Không nắm giữ thuyết nào. Còn về ý nghĩa này, Của hai chữ nội tịnh, Thế nào là bậc Hiền trí, Hiểu biết hai chữ ấy? Thế Tôn: 839. Thế Tôn nói như sau: Này Màgandiya, Không phải từ tri kiến, Từ truyền thống, từ trí, Không phải từ giới cấm, Thanh tịnh được đem đến. Người ta nói như vậy, Nhưng cũng không phải là Không kiến, không truyền thống, Không trí, không giới cấm, Từ bỏ tất cả chúng, Không chấp thủ sự gì, Bậc thiện không y chỉ, Không ước muốn sanh hữu. Màgandiya: 840. Màgandiya nói: Nếu không từ tri kiến, Từ truyền thống, từ trí, Không phải từ giới cấm, Thanh tịnh được đưa đến. Người ta nói như vậy, Cũng không phải không kiến, Không truyền thống, không trí, Không giới luật giới cấm, Thanh tịnh được đem đến Con nghĩ rằng pháp vậy, Là pháp kẻ ngu si, Vì rằng thật có người, Nhờ kiến đến thanh tịnh. Thế Tôn: 841. Thế Tôn nói như sau: Này Màgandiya, Nếu y vẫn tri kiến, Ông còn tiếp tục hỏi, Chính do những chấp thủ, Đi đến sự ngu si, Từ đó, Ông không thấy, Một chút gì về tưởng, Do vậy, Ông chớ thấy, Tất cả là ngu si. 842. Bằng ta thắng hơn ta, Hay thấp kém hơn ta, Ai suy nghĩ như vậy, Do vậy đấu tranh khởi, Ai không bị dao động Bởi ba vấn đề ấy, Như vậy, đối vị ấy, Không bằng, không thù thắng. 843. Sao Bà-la-môn ấy Lại nói: "Đây sự thật ", Đây chính là nói láo, Để gây nên tranh luận, Với ai không hề có, Bằng nhau, không bằng nhau. Do đâu nó có thể, Mắc vào tranh luận được. 844. Đoạn tận mọi nhà cửa, Sống là kẻ không nhà, Ẩn sĩ không thân thiết, Với một ai ở làng, Trống không các dục vọng, Không xem trọng sự gì, Không nói chuyện tranh luận, Với một ai ở đời. 845. Vị ấy sống viễn ly, Mọi sự việc ở đời, Bậc Long tượng không chấp, Và không nói đến họ. Như hoa sen có gai, Sanh ra ở trong nước, Không bị nước và bùn, Mắc dính và thấm ướt. Như vậy bậc ẩn sĩ, Nói an tịnh, không tham, Không bị dục và đời, Mắc dính và thấm ướt. 846. Bậc trí, không do kiến, Cũng không do thọ tưởng, Đi đến sự kiêu mạn, Không có tham dự vào, Không để cho hành động, Cho truyền thống dắt dẫn, Không để bị chi phối, Trong trú xứ của ý. 847. Người không ưa thích tưởng, Không có bị trói buộc, Vị được tuệ giải thoát, Không có sự si mê, Và những ai chấp thủ, Tư tưởng và tri kiến, Người ấy sống xung đột, Với mọi người ở đời. |
Kinh Nhân Cách Của Một Vị Mâu Ni 1. Ngày xưa có ba cô con gái (của Ma VươngBa Tuần) đến cám dỗ nhưng tôi đã chẳng mảy may động lòng. Bây giờ nếu thấy được (đối tượng ái dục chỉ là) những cái túi đựng đầy máu, mỡ, phân và nước tiểu thì mình đâu còn muốn đụng tới, dù là với bàn chân của mình? 2. Tôi đã từng nói rằng một khi đã bị vướng vào vòng ái dục thì mình không còn tâm ý để hành trì được pháp môn, và để thực tập được nội quán. Tuy có nghe và tuy có biết rằng chạy theo ái dục là chuyện không nên làm nhưng mình vẫn chưa nhàm chánđược. Một khi bên trong tâm mình chưa dừng lại được thì bên ngoài mình vẫn đi tới để tiếp tục gây thêm khổ đau. 3. Cái vẻ xinh tươi mượt mà ấy chỉ có ở ngoài da, bậc trí giả không bị nó lừa dối. Ta phải quán chiếu cả bên trong lẫn bên ngoài. Có một chút thông minh mình sẽ thấy rằng (đắm say như thế) đó là một lối hành xử u mê. 4. Những gì mình học và mình thấy chưa hẳn đã là tuệ giác. Hành trì giới cấm và lễ nghi chưa hẳn đã làm cho mình thanh tịnh. Dù không học gì, không thấy gì, nhưng mà không khư khư giữ ý riêng của mình và không xao lãng công phu hành trì của mình, thì người ta mới có khả năng tự tịnh. 5. Những kiến thức bây giờ đang có, nên buông bỏ đi, đừng ôm chặt lấy, mặc người ta có nói ra nói vào gì thì nói, mình cứ im lặng mà đi. Những gì mình nghe và thấy qua năm giác quan có tác dụng gây phiền não thì mình phải biết dẹp qua một bên. Tuy thực tập giới, định và tuệ nhưng đừng nghĩ lầm rằng nghi lễ và cấm giới đủ đem lại cho mình sự thanh tịnh. 6. Những lý thuyết ngoài đời đừng tiếp thu một cách u mê. Nghi lễ và giới cấm không đem lại sự tịnh hóa như người ta tưởng. Khi còn kẹt vào sự có mặt của một cái ngã thì người ta vẫn còn bị rơi vào chỗ u tối. Những chủ thuyết mà mình được nghe đâu có khả năng làm cho mình thanh tịnh? 7. Người ta có thể nói rằng những cái mà người ta nghe và thấy về chân lý, nếu nắm bắt được chúng bằng tâm ý thì có thể đạt Đạo. Đi qua tới được bờ chân lý bằng cách ấy, là chuyện khó tưởng tượng được. Và như thế thì làm sao mà khỏi phạm vào cái lỗi xem thường các bậc tôn đức chân chính? 9. Người đã đạt được tuệ giác thì không có nhu yếu nói nhiều. Đã biết các pháp đều có bản tính không tịch, thì làm gì cần phải tranh cãi nữa? Đối với bậc ấy, hoàn toàn không còn có chuyện thị phi, tà chính. Làm sao có thể nói rằng một người như thế còn có thiếu sót sai lầm? 10. Rời bỏ cơn lũ ái dục, không còn nghĩ tới các đối tượng ham muốn, kẻ thức giả đi vững chãi và kiên trì trong cuộc đời. Ái dục không còn, tâm ý đã dừng lại, thì những gì tà độc của cuộc đời đều đã bị nhiếp phục, không bao giờ còn sinh khởi trở lại trong ta. 11. Nếu muốn xa lìa thế tục, muốn chiến thắng khổ đau thì ta phải nghe lời các bậc tôn đức, phải biết cách lánh xa đừng chung đụng (với những gì xấu ác). Như đóa sen kia trong sạch mọc lên ở dưới hồ, bùn đất và bụi bặm không làm nhiễm ô và hư hoại nó được. 12. Bậc tôn đức sống an ổn, không ham muốn gì, không còn vướng bận vào bất cứ một cái gì trong trần thế, cũng không bị lay chuyển bởi những đối tượng của ký ức và tri giác. Bậc ấy tuy đang hành động và độ đời nhưng không bị kẹt vào bất cứ một lý thuyết nào. 13. Giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, vị ấy bước đi không còn nhu yếu bàn luận gì về chuyện đời, kể cả chuyện quá khứ, vị lai và hiện tại, không còn bị vướng vào một tư kiến nào nữa. Đi theo tuệ giác vững chãi của mình, vị ấy đạt tới thảnh thơi, nhưng không bao giờ giải đãi. Điều phục được tâm ý, không bị vướng mắc vào các chủthuyết, trong ba cõi, vị ấy đi từng bước thảnh thơi và không có nhu yếu nói năng gì. Đại Ý Kinh này nối tiếp kinh thứ bảy, kinh Xa Lìa Ái Dục, và đưa ta đi xa hơn. Dấu hiệu đầu tiên của một vị xuất gia chân chính là xa lìa ái dục, không bị cái vẻ xinh tươi mặn mà ở ngoài da đánh lừa, không bị cuốn theo ái dục, như thế mới có thể đi tới trên đường sự nghiệp giác ngộ. Dấu hiệu thứ hai là vị ấy không bị kẹt vào giới cấm, lễ nghi và những gì mình đã học hỏi, kể cả giáo thuyết. Những cái ấy có thể là một phần hành trì của mình nhưng chúng chưa phải là tuệ giác, là giải thoát, là sự tịnh hóa đích thực. Qua được bờ chân lý không phải bằng sự thực tập chuyển hóa mà chỉ bằng sự học hỏi lý thuyết, chuyện này không thể xảy ra. Đó là ý của bài thi kệ thứ bảy. Dấu hiệu thứ ba của một vị khất sĩ thành công là vị ấy không còn phân biệt chấp ngã, do đó không còn mặc cảm hơn người, thua người hay bằng người. Dấu hiệu thứ tư là vị ấy không có nhu yếu tranh cãi hơn thua. Dấu hiệu thứ năm là vị ấy tuy sống trong cuộc đời mà không bị những ô nhiễm của cuộc đời động tới, như hoa sen mọc dưới hồ không bị bùn lầy làm ô nhiễm và hư hoại. Hình ảnh này được trình bày trong thi kệ thứ mười một. Dấu hiệu thứ sáu là vị ấy rất thảnh thơi, không vướng bận quá khứ và tương lai ; ba nghiệp thanh tịnh, vị ấy bước đi từng bước thảnh thơi và im lặng tuyệt đối, không có nhu yếu khoe khoang và tranh cãi. |
Sn 4.10: Purabheda Sutta — Before the Break-up of the Body [848-861] (X) Kinh Trước khi bị hủy hoại (Sn 166) Người hỏi: 848. Người sống đời an tịnh, Kiến và giới thế nào? Con hỏi Gotama, Là bậc người tối thượng. Thế Tôn: 849. Thế Tôn đáp như sau: Ly ái trước thân hoại, Không y chỉ ban đầu, Không y chỉ cuối cùng, Không kể đến vật giữa, Không có ưa thích nào. 850. Không phẫn nộ, không sợ, Không khoa đại, không hối, Nói hòa nhã, không động, Bậc ẩn sĩ thận ngôn. Không ước vọng tương lai, Không sầu muộn quá khứ, Thấy viễn ly giữa xúc, Không để kiến dắt dẫn. 852. Sống riêng, không man trá, Không thích, không xan tham, Không xông xáo nhàm chán, Không đi đến hai lưỡi. 853. Không mê vật khả ái, Cũng không có quá mạn, Nhu hòa, nhưng ứng biện, Không vọng tín, không tham. 854. Không tu tập vì lợi, Không được lợi, không sân, Không bị ái kích thích, Không đam mê các vị. 855. Thường trú xả, chánh niệm, Ở đời, không nghĩ mình, Bằng hơn hay thua người, Vị ấy, không bồng bột. 856. Không y chỉ một ai, Biết pháp, không y chỉ, Vị ấy không có ái, Đối với hữu, phi hữu. 857. Ta gọi vị an tịnh, Không mong cầu các dục, Vị ấy không triền phược, Vượt khỏi các tham trước. 858. Vị ấy không con cái, Thú vật, ruộng, đất đai, Không có gì nắm lấy, Là ta, là không ta. 859. Phàm phu có buộc tội, Hoặc Sa-môn, Phạm chí, Vị ấy không quan tâm, Trong lời nói không động, 860. Không tham, không xan lẫn, Ẩn sĩ không nói cao, Không nói bằng, nói thấp, Không đi đến thời kiếp, Vì vị ấy vượt khỏi, Sự chi phối thời kiếp. 861. Ai không có vật gì, Không có, không sầu muộn, Không đi đến các pháp, Vị ấy gọi an tịnh. |
Kinh Vị Mâu Ni Thành Đạt Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 15, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Puràbheda Sutta, Sutta-Nipàta 848-861 1. Đã tiếp nhận đầy đủ giới pháp, chúng con phải nhận diện như thế nào và phải nói như thế nào cho đúng về bậc có chánh kiến, bậc đã được sinh ra như một vị anh hùng trên thế gian, bậc đã vượt thoát mọi ràng buộc khổ nạn? Xin đức Gotam chỉ dạy. 2. Đó là người đã buông bỏ được mọi hiềm hận về quá khứ, mọi thắc mắc lo âu về tương lai. Trong giây phút hiện tại, người ấy cũng không bị hệ lụy vào bất cứ gì, cũng không bị kẹt vào hư danh và sự tôn kính của kẻ khác. 3. Không tham đắm vào tương lai, không ưu sầu về quá khứ, người ấy trên đường mình đi đã buông bỏ mọi tham cầu, mọi tà kiến, không giữ lại một tư kiến nào. 4. Đã buông bỏ mọi sợ hãi, đã trở nên vững chãi, nuôi dưỡng được chánh tín, người ấy diệt trừ được mọi nghi nan, không tật đố, lòng hoan hỷ với những gì đang có và yêu nếp sống thảnh thơi. 5. Có khả năng tiết chế, không tham vọng, có nhiều tuệ giác, không ganh ghét ai, không nói xấu ai, không trau chuốt bên ngoài, không nói lưỡi hai chiều, người ấy buông bỏ mọi hý luận và nghi ngờ. 6. Tâm ý giải thoát, không đắm trước, lìa tư kiến, không thêu dệt hư vọng, bước đi an tường, người ấy có khả năng giải tỏa được mọi tranh chấp, không bị dục kéo đi, và đoạn trừ được mọi dục tưởng. 7. Không mưu toan để đạt tới một cái gì mình muốn, cũng không lo lắng khi mình không có cái kia, người ấy không oán giận, không bị vị ngọt của ái dục sai sử. 8. Không tự cao, thấy được tự tánh bình đẳng và vô ngã, không có mặc cảm thua người hay bằng người, biết quán chiếu, biết đình chỉ tâm ý, người ấy thấy được cái gì là thiện cái gì là ác và buông bỏ được những vọng cầu về tương lai. 9. Không kẹt vào cái đang xảy ra, không bị cột chân lại bất cứ ở đâu, người ấy biết quán chiếu, nhìn thẳng vào các pháp và không còn bị vướng mắc vào gì nữa. Dù trong cõi dục, cõi sắc hay cõi vô sắc cũng thế, người ấy luôn luôn sử dụng thông tuệ của mình, do đó không có gì mà không vượt thoát được. 10. Ái đã diệt, tâm đã tĩnh, người ấy đã vượt qua những cơn lũ lụt sầu khổ để tới bếnbờ vô ưu, không còn theo đuổi tìm cầu lạc thú gì nữa trong ba cõi. Đã cởi trói, đã buông bỏ tất cả, người ấy không còn có gì để gọi là sở đắc. 11. Không cần con trai, không cần ruộng đất, không cần trâu bò, không cần của cải, người ấy không còn gì để nắm bắt hoặc để đuổi xua. 12. Dù bị đám đông công kích, phỉ báng, xúc phạm, dù có bị các vị phạm chí và sa môn chê bai, người ấy vẫn ngồi yên bất động, vẫn cứ đường mình mình đi. 13. Không tật đố, không xan tham, dù có được thế gian tôn kính người ấy cũng không bị vướng mắc. Người ấy không tự tôn, không tự ti, không đòi bằng người, cái gì đúng pháp thì làm, phi pháp thì bỏ. 14. Thấy được tự tính không, đạt tới vô cầu, vô đắc, không còn vui cái vui phàm tụccủa thế gian, tâm ý đã thực sự dừng lại, vị mâu ni vượt thoát thời gian, đạt tới bản môn, đi vào kiếp ngoại. Đại Ý Kinh này nói về một con người xuất gia lý tưởng. Đây là một vị mâu ni, một người thành đạt trên con đường tâm linh và trở thành một bậc thầy, một người gương mẫucho tất cả những ai muốn sống một cuộc đời xuất trần thượng sĩ. Mâu Ni có nghĩa là người tĩnh lặng (tịch mịch), người đã đạt tới bình an, không còn nắm bắt, không còn trông ngóng, hoàn toàn thảnh thơi, không có nhu yếu phô trương.
|
Sn 4.11: Kalaha-vivada Sutta — Further Questions/Quarrels & Disputes (XI) Kinh Tranh luận (Sn 168) 862-877 Người hỏi: 862. Từ đâu được khởi lên, Các tranh luận, đấu tranh, Than van và sầu muộn, Cùng với tánh xan tham, Mạn và tăng thượng mạn, Kể cả với hai lưỡi, Từ đâu chúng sanh nhiều, Mong Ngài hãy nói lên. Thế Tôn: 863. Từ ái sanh khởi nhiều, Các tranh luận, đấu tranh Than van và sầu muộn, Cùng với tánh xan tham, Mạn và tăng thượng mạn, Kể cả với hai lưỡi, Các tranh luận, đấu tranh, Đều liên hệ xan tham, Những lời nói hai lưỡi, Khởi lên từ tranh luận. Người hỏi: 864. Do những nhân duyên nào, Khả ái sanh ở đời? Hay những tham lam nào, Được lưu hành ở đời? Ước vọng và thành đạt, Là do nhơn duyên nào? Khiến loài Người được sanh, Trong thời gian tương lai? Thế Tôn: 865. Do ước muốn là nhân, Khả ái sanh ở đời, Hay với những tham lam, Được lưu hành ở đời, Ước vọng và thành đạt, Do ước muốn làm nhân, Khiến loài Người được sanh, Trong thời gian tương lai. Người hỏi: 866. Ước muốn sanh ở đời Là do nhân duyên nào? Hay cả những quyết định, Do nhân nào được sanh? Phẫn nộ và vọng ngữ, Cùng với cả nghi hoặc, Hoặc là những pháp nào, Được Sa-môn nói đến? Thế Tôn: 867. Khả ý, bất khả ý, Được gọi vậy ở đời, Do y chỉ nơi chúng, Ước muốn được sanh khởi. Sau khi thấy trong sắc, Cả hữu và phi hữu, Chúng sanh mới làm được, Những quyết định ở đời. 868. Phẫn nộ và vọng ngữ, Cùng với cả nghi hoặc, Những pháp này lưu hành, Khi pháp đôi có mặt, Kẻ nghi hãy học tập, Trên con đường chánh trí, Sau khi biết các pháp, Do Sa-môn thuyết giảng. Người hỏi: 869. Khả ý, bất khả ý, Là do nhân duyên nào, Do cái gì không có, Họ không có hiện hữu. Còn về ý nghĩa này, Về phi hữu và hữu, Hãy nói cho chúng con, Nguyên nhân gì chúng sanh? Thế Tôn: 870. Do nhân duyên cảm xúc, Khả ý, bất khả ý, Nếu không có cảm xúc, Họ cũng không hiện hữu, Còn về ý nghĩa này, Về phi hữu và hữu, Ta nói cho Ông rõ, Nguyên nhân này, chúng sanh. Người hỏi: 871. Còn cảm xúc ở đời, Do nhân gì sanh khởi, Hay các loại chấp thủ, Do từ đâu sanh nhiều, Do cái gì không có, Ngã sở hữu không có, Cái gì không hiện hữu, Khiến không có cảm xúc? Thế Tôn: 872. Do duyên danh và sắc, Nên có các cảm xúc, Do nhân các ước muốn, Nên có những chấp thủ, Nếu ước muốn không có, Ngã sở hữu cũng không, Do sắc không hiện hữu, Khiến không có cảm xúc. Người hỏi: 873. Sở hành như thế nào, Sắc pháp không hiện hữu, An lạc và khổ đau, Thế nào không có mặt, Hãy nói lên cho con, Không có như thế nào, Chúng con muốn được biết, Tâm ý con nói vậy. Thế Tôn: 874. Không có tưởng các tưởng, Không có tưởng vô tưởng, Phi tưởng cũng không có, Vô hữu tưởng cũng không. Do sở hành như vậy, Sắc pháp không hiện hữu, Do nhân duyên các tưởng, Hý luận được hình thành. Người hỏi: 875. Ngài đã nói chúng con, Những điều chúng con hỏi, Có điều nữa hỏi Ngài, Mong Ngài trả lời cho, Bậc Hiền trí nói rằng, Như thế này tối thượng, Nghĩa là ở đời này, Sự thanh tịnh Dạ-xoa Hay là chúng muốn nói, Có điều gì khác nữa? Thế Tôn: 876. Bậc Hiền trí nói rằng, Như thế là tối thượng, Nghĩa là ở đời này, Sự thanh tịnh Dạ-xoa, Như có người nói rằng, Chính là sự hoại diệt, Lại một số thiện nhân, Nói rằng: "Không dư y". 877. Biết được những pháp ấy, Đều nương tựa y chỉ, Biết vậy bậc ẩn sĩ, Suy tư trên y chỉ, Biết được, nên giải thoát, Không đi đến tranh luận, Bậc Hiền không tìm đến, Cả hữu và phi hữu. |
Kinh Đạo Lý Duyên Khởi Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ mười, Đại Tạng Tân Tu 198 1. Vì đâu mà có tranh cãi đấu tụng? Vì đâu mà người ta làm khổ nhau, gây sầu thương cho nhau và ganh ghét nhau? Vì lý do gì mà người đời thường sử dụng ác ngữ để hủy báng nhau? Xin Bụt giảng cho chúng con về gốc rễ của vấn đề này. 2. Cái khả ái là nguồn gốc của mọi tranh tụng. Nó gây ra ganh tỵ, tật đố, ưu sầu, khổ não. Vì muốn hủy báng nhau cho nên người ta mới sử dụng vọng ngữ. Chính nó là gốc rễ đưa tới mọi hủy báng chống đối nhau. 3. Nhưng cái khả ái ấy ở đời do đâu mà có? Từ đâu mà ái phát sinh trong cuộc đời? Bỏ cái gì đi thì ái mới không còn và lúc ấy thì con người mới không đau khổ? 4. Chính ham muốn của mình làm cho mình vướng vào cái khả ái của thế gian. Và khi cái ham muốn lớn mạnh sẽ tạo ra nhiều khổ đau. Không buông bỏ được cái hữu cũng là do nó. Và vì có cái hữu này cho nên mới có những cái hữu tới sau. 5. Cái gì làm phát sinh ra cái ham muốn bắt ta chạy theo dục lạc trong cuộc đời? Do đâu mà phân biệt được cái lành, dữ, xấu, tốt? Do đâu mà có cái bắt đầu và cái chung cuộc? Xin bậc đại sa môn chỉ dạy: chúng con phải tuân thủ theo các pháp môn hành trì nào? 6. Cái ham muốn ấy phát sinh từ chuyện mình thích ý hay không thích ý. Dục cũng từ nhân duyên mà sinh khởi. Chỉ khi nào thấy được lý do sắc thân vì sao từ hưng thịnh lại đi đến tàn hoại thì người đời mới bắt đầu biết phân biệt quán chiếu. 7. Khi biết rằng mình đang bị dối gạt (bởi cái vỏ bên ngoài của các pháp) thì con ngườimới biết hoài nghi. Lúc bấy giờ ta mới nhận diện được hai mặt đối nghịch của các pháp. Thực tập quán niệm như thế nào để khám phá ra được con đường dẫn về tuệ giác. Phải có tâm mong cầu hiểu được giáo pháp ta mới thấy rõ được phép hành trì. 8. Cái có và cái không từ đâu tới? Tại sao người thân và người không thân một ngày kia cũng đều phải chết? Còn vấn đề cái thêm và cái bớt nữa. Xin đức Thế Tôn thuyết giảng cho chúng con về gốc rễ của hiện pháp? 9. Cái ái và cái không ái là do sự xúc chạm mà sinh khởi. Chúng tới rồi chúng đi, chúng sinh rồi chúng diệt, chúng không thể có mặt (nếu không có xúc chạm). Cái có và cái không, cái thịnh và cái suy cũng cùng trong một ý nghĩa đó. Bậc hiền giả giải thích về gốc rễ của hiện pháp một cách tường tận như thế. 10. Nhưng sự xúc chạm kia từ đâu mà đến? Vì nguyên do nào mà người ta lại bị vướng vào sắc dục của thế gian? Phải thực tập quán niệm như thế nào để không còn phân biệt chấp trước? Tại sao lại có sự vướng mắc vào sắc dục? 11. Do có tâm và vật (danh sắc) mà có xúc chạm. Vì có cái có nên danh và sắc mới khởi dậy. Phải vượt qua vô minh mới đạt được giải thoát. Phải thấy được rằng danh và sắc là nền tảng của xúc chạm. 12. Làm thế nào để buông bỏ được sự ham muốn về danh và sắc? Vì lý do gì mà phát sinh các loại tham ái? Làm sao cho tâm đắm trước tham ái được tiêu diệt tận cùng? Phải biết và hành trì theo giáo lý (bốn) sự thật như thế nào mới có thể đạt tới giải thoát? 13. Phải lìa bỏ ý niệm về tưởng, về sắc, về cái vô tưởng và về cái bất hành tưởng. Phải đoạn trừ tất cả và không vướng mắc vào ý niệm nào. Bởi tưởng là gốc rễ của mọi hý luận đem tới nhiều đau khổ. 14. Những điều con thưa hỏi đều đã được giải đáp. Nay xin đức Thế Tôn thuyết giải thêm cho chúng con: hành trì như thế nào để có thể trở nên một bậc toàn thiện? Còn có con đường nào khác hơn con đường mà bậc tôn đức đã chỉ bày hay không? 15. Đã biết là mình đang đi trên con đường (bát) chánh thì còn sợ gì bị sai lạc? Đó là con đường dẫn tới quả vị tuệ giác. Vị mâu ni thiền định dưới một gốc cây trong rừng. Không có con đường nào đẹp hơn thế. 16. Hiểu như thế rồi thì các vị phải một lòng hướng về (sự thực tập). Một bậc tôn đức được giải thoát thì không còn bị ràng buộc vào nghi lễ và giới cấm nữa. Một người như thế có thể vượt qua mọi phiền não một cách mau chóng trong cuộc đời. Vị ấy vượt thoát được thời gian và không còn trở về luân hồi nữa.
Kinh này là dấu hiệu của sự bắt đầu hình thành giáo lý mười hai nhân duyên. Kinh nói tới tám nhân duyên: thức, danh sắc, xúc, thọ, dục, ái, thủ, hữu. Lúc này dục và ái còn là hai cái khác nhau. Chưa nói tới vô minh, thì đã bắt đầu đề cập tới hành. Khi nói về thức, chưa có sinh và lão tử, nhưng sinh và lão tử đã nằm sẵn trong hữu. “Vì có cái hữu này nên có những cái hữu tới sau.” Câu này nằm trong bài thi kệ thứ tư. Trong bài thi kệ thứ nhất, thủ là nắm chặt ý kiến của mình. Trong bài kệ thứ ba, sở dĩmình nắm chặt nó, tại vì nó là đối tượng của sự yêu thích của mình. Nó là cái khả ái. Trong bài thứ tư, dục (ham muốn) là nguyên do của ái, và ái cũng là nguồn gốc của cái hữu bây giờ và những cái hữu tới sau. Bài thứ sáu đề cập tới thọ, cảm thọ dễ chịu (thích ý) hay khó chịu (không thích ý). Chưa nói đến xả thọ. Cái thích ý làm phát sinh cái dục. Bài thứ chín nói về xúc. Bài thứ mười một nói về danh sắc. Và bài thứ mười ba nói tới tưởng. Tưởng là tri giác, là thức, là chủ thể và đối tượng nhận thức. Vọng tưởng là tri giác sai lầm của thức. Vọng tưởng là vô minh, vọng tưởng làm cho thức là thức, nếu không thì nó đã là trí. Vọng tưởng là gốc rễ của mọi suy tư và ngôn ngữ có công năng đem tới khổ đau. Đây chính là bản chất của hành. Kinh này không những trình bày được sự liên hệ giữa tâm vật và nguyên do của luân hồi sinh tử mà còn cung cấp được những chỉ dẫn thực tập. Bài thi kệ thứ bảy và thứ tám đề nghị quán chiếu về hai mặt đối nghịch của các hiện tượng: có và không, tới và đi, thêm và bớt. Tư tưởng này đi tiên phong cho tư tưởngTrung Đạo và Bát Nhã Ba La Mật. Bài thứ 13 cho biết rằng nếu tinh cần quán chiếu về đối tượng tâm ý để đừng bị vướng mắc vào bất cứ ý niệm nào, dù là ý niệm vô tưởngvà bất hành tưởng, thì ta có thể đạt tới giải thoát thật sự, chấm dứt mọi vọng tưởng. Bài thứ 15 khuyến khích ta nắm cho được con đường Bát Chánh Đạo mà đi. Hình ảnh một người ngồi thiền định dưới một gốc cây trong rừng là hình ảnh đẹp nhất. Đó là hình ảnh của một vị mâu ni. Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali. |
Sn 4.12: Cula-viyuha Sutta — The Lesser Array (XII) Những vấn đề nhỏ bé (Sn 171) 878-894 Người hỏi: 878. Mỗi người tự thiên chấp, Về tri kiến của mình, Do chấp thủ sai biệt, Bậc thiện xảo nói lên, Ai biết như thế này, Vị ấy biết được pháp, Ai chỉ trích điểm này, Vị ấy không hoàn toàn. 879. Do chấp thủ như vậy, Họ tranh luận với nhau, Họ nói kẻ khác ngu. Không có khéo thiện xảo. Trong những lời nói này, Lời nói ai chân thật, Hay tất cả vị này, Là những bậc khéo nói? Thế Tôn: 880. Nếu không có chấp thuận, Pháp của các người khác, Nói kẻ khác là ngu, Tuệ như vậy thấp kém. Tất cả là ngu si, Có tuệ thật thấp kém. Tất cả tri kiến này. Đều chỉ là thiên chấp. 881. Nếu các cuộc tranh luận, Được tri kiến gạn lọc, Trí tuệ được thanh tịnh, Thiện xảo trí sáng suốt, Họ không có một ai, Là trí tuệ hạ liệt, Và tri kiến của họ, Được hoàn toàn viên mãn. 882. Ta không có nói rằng: "Đây chính là sự thật". Các người ngu với nhau, Cùng nhau nói như vậy, Với tri kiến tự mình, Họ nói là chân thật, Do vậy các người khác, Được họ xem là ngu. Người hỏi: 883. Một số người nói rằng: "Đây mới là sự thật" Họ nói các người khác, Là trống không, giả dối, Do chấp thủ như vậy, Họ tranh luận đấu tranh, Vì sao bậc Sa-môn, Không cùng nói một lời? Thế Tôn: 884. Sự thật chỉ có một, Không sự thật thứ hai, Người hiểu biết tranh luận, Với người có hiểu biết, Nhưng chân thật họ khen, Chỉ sự thật của họ, Do vậy bậc Sa-môn, Không cùng nói một lời. Người hỏi: 885. Vì sao họ nói lên, Những chân thật sai khác, Vì sao bậc thiện xảo, Lại nói lời tranh luận, Nếu các sự thật ấy, Là nhiều và sai biệt, Hay họ chỉ nhớ đến, Những suy luận của họ. Thế Tôn: 886. Thật sự các sự thật, Không có nhiều sai biệt, Từ các luồng tư tưởng, Về thường còn ở đời, Do họ suy nghĩ đến, Tư tưởng các tri kiến, Họ nói có hai pháp, Sự thật và giả dối. 887. Các pháp được thấy nghe, Được giữ giới, thọ tưởng, Họ y cứ pháp này, Họ suy tư, nhìn thấy, An trú các quyết định, Họ chê cười người khác, Họ nói các người khác, Là ngu si bất thiện. 888. Vì rằng đối người khác, Nó xem là ngu si, Tự mình gọi chính mình, Là thiện xảo tốt đẹp, Do chính mình khen mình, Vị ấy gọi thiện xảo, Khinh thường các người khác, Lời người ấy là vậy. 889. Vị ấy quá say mê, Với tri kiến của mình, Nên trở thành kiêu mạn, Viên mãn tự ý mình, Tự mình với tâm ý, Làm lễ quán đảnh mình, Do vậy, bị say mê, Trong tri kiến của mình. 890. Nếu người khác nói rằng: Nó là hạng hạ liệt. Như vậy đối tự mình, Kẻ kia cũng liệt tuệ, Nếu tự nó sáng suốt, Bậc Hiền trí hiểu biết, Không có ai ngu si, Giữa các bậc Sa-môn. 891. Những ai tuyên bố pháp, Sai khác với pháp này, Đi ngược lại thanh tịnh, Không là người hoàn toàn, Như vậy các ngoại đạo, Tuyên bố thật rộng rãi, Do lòng tham tri kiến, Họ quá sức đam mê. 892. Những ai tuyên bố rằng, Chính đây là thanh tịnh, Họ nói không thanh tịnh, Trong các pháp sai khác. Như vậy các ngoại đạo, An trú thật rộng rãi, Họ kiên trì tuyên bố, Con đường riêng của mình. 893. Ai kiên trì tuyên bố, Con đường riêng của mình, Sao ở đây có thể, Nói người khác là ngu? Vị ấy tự chê mình, Đem lại tiếng liệt tuệ, Người khác nói nói ngu, Không được pháp thanh tịnh. 894. An trú trên quyết định, Tự mình lượng sức người Vị ấy ở trên đời, Chỉ tăng thêm tranh luận, Ai từ bỏ tất cả, Mọi quyết định, chủ trương, Không bị người ở đời, Chê là kẻ liệt tuệ. |
Kinh Chấm Dứt Tranh Cãi Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 11, Đại Tạng Tân Tu 198 1. Ai cũng có quan điểm của mình về chân lý, và đối phương cũng thế. Ai cũng nghĩ là mình có cái thấy cao nhất và muốn diễn bày cái thấy ấy ra. Ai có được cái thấy ấy thì người ấy mới thấy được Pháp. Còn những kẻ khác (vì chưa thấy được sự thật này thì) dù đi khắp nơi cũng không thấy được một góc nhỏ nào của sự thật. 2. Vì thiên hạ chấp thủ như vậy nên mới sinh ra tranh cãi loạn xị. Ai cũng nói rằng kẻ kia si mê; ta mới thật sự là người có trí tuệ. Vậy thì trong tất cả các sự thật ấy, cái nào mới thực sự là sự thật? Bởi vì ai cũng nói chỉ có mình là đang nắm được chân lý? 3. Kẻ nào không biết rằng người khác cũng có quan điểm của họ về sự thật thì kẻ ấy vẫn còn mờ ám, vẫn còn thiếu trí tuệ và vẫn còn kẹt vào trong quan điểm của chính mình. 4. Có cái quan điểm rồi thì mới có cái nói và cái làm. Người ta nghĩ rằng nhờ cái thấy đó của họ mà thân họ đã được tịnh hóa và tâm họ được thánh hóa. Nếu ai cũng đúng thì còn có ai sai lầm nữa? Bởi vì ai cũng đang có và cũng đang kẹt vào cái ý của họ? 5. “Đây là sự thật cao nhất, là đỉnh cao trí tuệ.” Người ngu si có thể suy nghĩ và hành xử như thế, và tìm cách dìm kẻ khác xuống. Mình tự cho mình là người duy nhất đã thấy được sự thật. Tự mình còn là kẻ ngu si mà mình cứ nói là người ta ngu si. 6. Hỏi: Ai cũng nói pháp của họ là không ai bằng, rằng kẻ khác vốn chẳng có tuệ giácgì, chỉ biết vay mượn cái thấy của người khác rồi đi vào tranh chấp với người khác. Tại sao bậc đạo sư lại không đưa ra một chân lý duy nhất để tất cả mọi người có thể đi theo? 7. Trả lời: Chân lý chỉ là một, chứ không thể là hai. Nhưng chân lý chỉ có thể tự mình thực chứng. Một khi chứng thực được chân lý ấy rồi thì ta sẽ không còn bị một ai lung lạc được nữa. Nhưng vì đã có bao nhiêu ý tưởng cho nên đã có bấy nhiêu chân lý. Vì vậy bậc sa môn không cần phải nêu ra thêm một học thuyết về chân lý của riêng mình. 8. Có chân lý nào mà người khác chưa nói lên? Nên tin vào ai và vào chủ thuyết nào mà thiên hạ đang rao giảng? Những chủ thuyết được đưa ra là do đâu, hay cũng là chỉ do sự suy nghĩ riêng của từng người mà có? 9. Sự thực là một, nhưng cách diễn bày của tâm ý thì nhiều. Từ những góc độ tri giáckhác nhau cho nên có những sự phân biệt lựa chọn khác nhau. Những gì mà con mắt nhận biết, nếu ta bị vướng mắc vào, sẽ làm nẩy sinh ra ý tưởng: cái này đúng và cái này sai. 10. Những gì ta nghe, ta thấy, và cả những giới điều cấm kỵ mà ta đang hành trì cũng đều bắt nguồn từ tâm ý ta. Nếu bị kẹt vào chúng thì ta sẽ dấn thân đi vào vòng tranh luận về những cái thấy khác nhau. Phải chấm dứt lại sự đối chiếu, so sánh, và quán sát xem có chỗ nào sai lầm (nơi tri giác ta) không, nếu không thì sự thực là chính mình sai lầm mà mình lại nói người khác sai lầm. 11. Mình sai lầm mà mình lại nói người khác sai lầm, kẻ kia cũng tự cho họ là đẹp là lành và muốn mình đi theo họ. Ai cũng tự khen mình là hay là giỏi, vì vậy cho nên mới sinh ra tranh cãi và oán thù. 12. Giữ chặt tà kiến, chỉ muốn làm thầy thiên hạ, người ta mãn ý tự cho là cái thấy của người ta là chí thiện, tin rằng cái thấy và cái hành của mình là ở ngôi cao nhất, tôi e rằng một người ba hoa như thế tự mình chưa đạt tới đâu cả. 13. Nếu mình cho cái hiểu biết của kẻ kia là sai lạc, là đáng hổ thẹn, thì kẻ kia cũng sẽ cho cái hiểu biết của mình là sai lạc, là đáng hổ thẹn. Nếu tất cả mọi người đều phân biệt và kỳ thị như thế thì trong đời còn ai không phải là kẻ si mê? 14. “Chỉ khi nào bạn chứng nghiệm được chân lý này thì bạn mới có thể nói rằng bạn được tịnh hóa.” Nói như thế thì dễ gây ra biến loạn; đó là nguyên nhân làm phát sinh ra độc đoán, cố chấp và oán hận. 15. Đi theo hành trì một cách khác người, có những kiến giải và những phương phápthanh lọc khác người, đó không có nghĩa là mình đã đạt tới chân lý tối hậu. Đó là thái độ dẫm chân tại chỗ, làm cho người ta càng ngày càng bị kẹt cứng vào tư kiến của mình. 16. Nếu ai cũng khư khư nắm chặt tư kiến, cho mình là minh triết, thì còn có ai là si mênữa? Còn có ai để mình chê trách nữa? Nói rằng pháp của kẻ kia không có khả năng tịnh hóa, mình đang sử dụng cái kế đạt của mình để tự cho mình là cao diệu bậc nhất. 17. Kẹt vào cái thấy của mình, tự cho mình là tự tại, kẻ kia dấn thân vào các cuộc tranh chấp loạn xị trong đời. Buông bỏ mọi ý niệm về sở tác, bậc hiền giả đạt tới sự mầu nhiệm của cái vô tác và cái vô sở tác.
Kinh này nói về thái độ độc quyền về chân lý và những tai hại do thái độ ấy gây ra. Khi ta tin rằng cái thấy của ta là chân lý thì ta cũng tin rằng con đường ta đi là con đườngduy nhất đưa tới chân lý. Đây là gốc rễ của độc tài, của bạo động. Có người đi tìm chân lý bằng cách học hỏi, suy tư, hay đi vay mượn cái thấy của người khác. Cái chân lý ấy không phải là chân lý vì đó chỉ là sản phẩm của trí năng mà không phải là một kinh nghiệm tâm linh mình đã trực tiếp thân chứng. Có bao nhiêu ý tưởng về chân lý là có bấy nhiêu chân lý. Thực ra chân lý chỉ có thể là một, và không thể có hai chân lý chống đối nhau. Kẹt vào cái thấy của mình, điều đó chứng tỏ mình chưa thực chứng được chân lý. Những chủ thuyết được đưa ra là do sự suy nghĩriêng của từng người. Bài thi kệ thứ chín nói rõ: sự thật là một, những cái thấy về sự thật thì nhiều. Cái thấy là kiến, là tư kiến của từng người. Còn tư kiến là còn tà kiến.Chân lý vượt thoát mọi kiến, mọi tư kiến, mọi tà kiến. Chân lý vượt thoát mọi ý niệm. Ngôn ngữ và ý niệm không có khả năng chuyên chở chân lý. Cho nên người đạt đạo không đưa ra một chủ thuyết về chân lý. Cái quan trọng nhất không phải là một chủ trương về chân lý. Cho nên kẻ thành đạo không có nhu yếu thuyết giảng về chân lý, mà chỉ muốn cung cấp những phương pháp giúp người ta đi tới trên con đườngchuyển hóa và tịnh hóa. Nghĩa là diệt trừ vô minh và phiền não. Chân lý không phải là một đối tượng có thể nắm bắt, cho nên người đạt đạo buông bỏ mọi sự nắm bắt và có tự do lớn. Không nắm bắt, bởi vì làm gì có đối tượng nắm bắt, đây là sự hình thành giáo lý vô nguyện, vô đắc, vô sở đắc sau này. Ta có thể thấy được sự khai thị này ở bài thi kệ thứ mười bảy |
Sn 4.13: Maha-viyuha Sutta — The Great Array (XIII) Những vấn đề to lớn (Sn 174) 895-914 Người hỏi: 895. Với những ai thiên vị, Đối với những tri kiến này, Chỉ đây là sự thật, Họ cãi cọ tranh luận, Tất cả những người ấy, Đem lại sự chỉ trích, Hay chính tại ở đây, Họ được lời tán thán? Thế Tôn: 896. Đây chỉ là nhỏ bé, Không đủ đem an tịnh, Ta nói về hai quả Của các loại đấu tranh. Sau khi thấy như vậy, Chớ có nên tranh luận, Nên thấy rằng an ổn, Không phải đất tranh luận. 897. Phàm những thế tục này, Được sanh giữa phàm phu, Bậc trí không dựa vào, Tất cả thế tục này, Đã không có quan tâm, Sao nay tìm quan tâm, Sao có thể kham nhẫn, Với vật được thấy nghe. 898. Bậc xem giới tối thượng, Nói tịnh nhờ chế ngự, Chấp thủ giới cấm xong, Họ an trú như vậy. Ở đây họ tu tập, Do đây được thanh tịnh, Họ chỉ khéo nói năng, Họ bị hữu dắt dẫn. 899. Nếu có ai vi phạm, Giới hạnh và giới cấm, Người ấy sẽ run sợ, Vì sở hành khiếm khuyết. Ở đây người ấy than, Cố gắng được thanh tịnh, Như lữ hành lạc đoàn, Như kẻ bỏ gia đình. 900. Đối với giới cấm thủ, Sau khi đoạn tất cả, Cùng với các sở hành, Có tội,không có tội, Không còn có cố gắng, Thanh tịnh, không thanh tịnh, Hãy sống hạnh viễn ly, Không chấp thủ an tịnh. 901. Người y chỉ khổ hạnh, Người y chỉ nhàm chán, Kẻ dựa vào nghe thấy, Hay dựa vào thọ tưởng, Họ là hạng nói lớn, Tán thán sự thanh tịnh, Chưa đoạn được tham ái, Đối với hữu, phi hữu. 902. Với ai có nỗ lực, Cầu mong và ham muốn, Họ mới phải run sợ, Với những kiến của mình, Với những ai ở đời, Không có sanh và chết, Do gì, khiến họ sợ, Họ tham vọng cái gì? Người hỏi: 903. Có những người tuyên bố, Pháp này là tối thượng, Nhưng người khác lại nói, Pháp ấy là hạ liệt. Ai nói lời chân thật, Giữa hai hạng người này, Hay tất cả hạng này, Đều là hạng khéo nói? 904. Với pháp tự của mình, Nói pháp này viên mãn Chỉ trích pháp người khác, Là thấp kém hạ liệt, Do chấp thủ như vậy, Họ luận tranh đấu tranh, Mọi thế tục tự mình, Họ nói là chân thật. Thế Tôn: 905. Nếu có bị người khác, Khinh rẻ là hạ liệt, Như vậy giữa các pháp, Không gì thù thắng sao? Kẻ phàm phu nói rằng Pháp người khác hạ liệt, Cương quyết tự đề cao, Pháp mình không hạ liệt. 906. Như mọi người tôn thờ, Chánh pháp của tự mình, Giống như họ tán thán, Mọi sở hành bản thân, Tất cả những lời nói Trở thành lời chân thật, Sự thanh tịnh đối họ, Tự mỗi người tác thành. 907. Với người Bà-la-môn, Không người khác lãnh đạo, Sau khi đã nghiên cứu, Chấp thủ trong các pháp, Do vậy nên vị ấy Vượt khỏi các tranh luận, Không thấy pháp người khác, Có thể thù thắng hơn. 908. Họ nói: "Tôi thấy, biết, Cái này là như vậy". Họ đi đến quan điểm, Thanh tịnh nhờ tri kiến, Vị ấy đã thấy vậy, Cần gì kiến người khác, Vượt qua được quan điểm, Thanh tịnh nhờ pháp khác. 909. Người có mắt thấy được, Cả danh và cả sắc, Sau khi thấy được họ, Sẽ biết họ là vậy, Hãy để họ được thấy, Các dục nhiều hay ít, Bậc thiện xảo không nói, Thanh tịnh là nhờ dục. 910. Người đã gọi cuồng tín, Không đưa đến thanh tịnh, Vì đã có thiên vị, Với tri kiến tác thành, Y chỉ nơi cái gì, Nơi đấy là tinh sạch, Người tuyên bố thanh tịnh, Thấy ở đấy như vậy. 911. Phạm chí không rơi vào, Thời gian và ước lượng, Không theo các tri kiến, Không bà con với trí, Biết được các thế tục, Do phàm phu chấp thủ, Các người khác học hỏi, Vị ấy sống hỷ xả. 912. Không chấp thủ triền phược, ẩn sĩ sống ở đời, Giữa tranh luận khởi lên, Không theo phe phái nào, Sống an tịnh, hỷ xả, Giữa những người không tịnh, Các người khác học hỏi, Vị ấy sống không học. 913. Từ bỏ lậu hoặc cũ, Không tạo lậu hoặc mới, Không đi đến ước muốn, Không cuồng tín chấp thủ, Vị Hiền trí như vậy, Thoát khỏi các tà kiến, Không tham dính ở đời, Không bị ngã chỉ trích. 914. Không có sự thù hằn Đối với tất cả pháp, Phàm có thấy nghe gì, Cùng với tưởng và thọ, ẩn sĩ không hệ lụy, Đã đặt gánh nặng xuống Không liên hệ thời gian, Không chấm dứt, không cầu, Thế Tôn nói như vậy. |
Kinh Buông Bỏ Nắm Bắt - Nghĩa Túc Kinh, Kinh thứ 12, Đại Tạng Tân Tu 198 (tương đương với Mahàviyùha Sutta,Sutta-Nipàta 895-914)
1. Khi đã bị kẹt vào cái thấy của mình rồi thì người ta ưa tuyên bố: “đây mới thật là chân lý.” Cái xảy ra sau đó hoặc là bị mọi người chống đối, hoặc được mọi người khen ngợi.
4. Ham được người ta khen ngợi là nguyên nhân khiến cho kẻ khác không ưa thíchmình. Kẹt vào những gì mình thấy và nghe, vướng vào nhận thức và lề thói tranh chấplưỡng nguyên, những kẻ này ai có thể giúp cho họ sáng mắt ra được? Ái dục chưa được đoạn trừ, những kẻ ấy sẽ phải còn tiếp tục trong vòng luân hồi sinh tử.
7. Không nỗ lực trong công phu hành trì thật sự, khi mà cái hiểu và cái làm chỉ còn nằm trong phạm vi tư duy, thì người ta không thể chấm dứt được sinh tử luân hồi. Tuệ giác đối với người ấy chỉ là những lý thuyết. 8. Buông bỏ tất cả những lễ nghi và cấm giới, buông bỏ tất cả mọi ý niệm về tội và phúc, thanh tịnh và ô nhiễm, lúc đó vị hành giả mới không còn bị vướng vào những lo lắng u sầu về vấn đề thanh tịnh và nhiễm ô. 9. Nói rằng tu theo phép này là tốt nhất, và ai không tu tập theo phép này đều là những người đang lầm đường, những người đã đi lạc quá xa, nói như thế thì sẽ gây tranh chấp biến loạn. Ai cũng chỉ nhân danh chân lý để đi tìm kiếm chút lợi danh trong cuộc đời.
14.Chấp nhận và vướng vào một chủ thuyết, cho rằng nhờ đó mà mình đã được giải thoát, tâm ý tuy có tin tưởng vào điều này nhưng trên thực tế chẳng có cái giải thoát thực sự nào xảy ra cả. Lý do là tại mình chỉ biết nói cho hay, và cái chủ thuyết kia chưa bao giờ đem lại sự giải thoát cho mình cả.
16. Có được một pháp môn thực tập có công năng đưa tới tuệ giác thì mình không còn bị hệ lụy (vào bất cứ một chủ thuyết nào). Cái thấy và cái biết (của mình), mình cũng không bị vướng mắc vào đó. Không đi tìm cái khuyết điểm của người, chỉ lo hành trìcho đúng pháp, người hành giả vượt qua mọi tranh cãi, không chấp nhận tham dự vào bất cứ một cuộc tranh cãi nào.
Kinh này nối tiếp đề tài kinh thứ mười một và cũng nói về những tai hại do sự nắm bắt chân lý gây ra. Nhưng kinh cũng đưa ta đi xa hơn. Người xuất sĩ phải quyết tâm diệt trừ ái dục, đừng để vướng vào nhận thức lưỡng nguyên và tranh chấp lưỡng nguyên. Đừng để thì giờ đi tìm và gặt hái tiếng khen ngợi của thế gian. Đó là tinh yếu của các bài thi kệ thứ tư và thứ năm của kinh. Muốn vượt thoát cái thấy nhị nguyên, phải quán chiếu về tính bình đẳng của vạn pháp để thấy được ta trong người, người trong ta, cái này trong cái kia, cái kia trong cái này. Chứng nghiệm được thể tính bình đẳng của vạn pháp sẽ không còn nhu yếu tự hào và tranh cãi. Đừng vướng vào bất cứ một chủ thuyết nào, một tư kiến nào, vì tất cả đều là lý thuyết suông, không phải là pháp môn thực tập. Không có công năng giúp ta chuyển hóa và trị liệu. Đó là thông điệp của bài thi kệ thứ mười hai. Vị mâu ni là người buông bỏ được mọi nắm bắt bởi vì vị ấy thấy được chân lý không phải là một đối tượng có thể nắm bắt. Vị mâu ni cũng không mong cầu trở thành, bởi vì thấy được rằng không có đối tượng trở thành. Cũng như sóng đã là nước, sóng không cần đi tìm để nắm bắt nước, để trở thành nước. Vị mâu ni buông bỏ mọi trông cầu, dù là trông cầu vượt thoát sinh tử. Bởi vì vị ấy đã thoát ra khỏi mọi tín ngưỡng sai lạc, trong đó có ý niệm kiếp này và kiếp sau. Bởi vì vị ấy đã thoát ra được ý niệm thời gian, đi vào kiếp ngoại. Đây là chất liệu của giáo lý buông bỏ bốn ý niệm ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả của kinh Kim Cương và giáo lý thọ mạng vô lượng của kinh Pháp Hoa sau này. Vị mâu ni là người đã buông bỏ được mọi gánh nặng, nhất là gánh nặng trông cầu. |
Sn 4.14: Tuvataka Sutta — Quickly (XIV) Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng) (Sn 179) 915-934 Người hỏi: 915. Con hỏi bậc Đại tiên, Thế Tôn: 916. Thế Tôn đáp như sau: 917. Phàm có loại pháp gì, 918. Chớ có nghĩ như sau: 919. Hãy giữ được an tịnh, 920. Như chính giữa trung ương, Người hỏi: 921. Vị có mắt rộng mở Thế Tôn: 922. Chớ có những con mắt, 923. Trong khi được cảm giác, 924. Các đồ ăn thâu được, 925. Hãy tu tập thiền định 926. Ngủ nghỉ có chừng mực, 927. Chớ có dùng bùa chú, 928. Tỷ-kheo không run sợ, 929. Tỷ-kheo không an trú, 930. Tỷ-kheo không nên nói, 931. Chớ có bị dắt dẫn, 932. Sau khi phẫn uất nghe 933. Sau khi rõ biết được 934. Bậc đã được chiến thắng, |
Kinh Công Phu Thực Tập Căn Bản - Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 13, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Tuvatake Sutta, Sutta-Nipàta 915-934 1. Con xin hỏi bậc thiền giả, bậc thầy tâm linh: Một vị khất sĩ làm sao đạt tới sự lặng lẽ? Làm sao để có được sự mãn nguyện và niềm vui lớn? Vị ấy học hỏi, tu tập như thế nào để chứng nhập được niết bàn và hoàn toànkhông còn nắm bắt gì nữa trong cuộc đời? 2. Người ấy trước hết phải thấy rằng gốc rễ của mọi ham muốn là tin tưởng vào sự hiện hữu của một cái bản ngã. Từ tri giác sai lầm về bản ngã ấy mà biết bao nhiêu loạn động phát sinh. Nếu trong tâm ái dục đang còn thì bên ngoài còn có nhiều đổ vỡ. Phải luôn luôn thực tập cảnh giác chánh niệm về điều này.
4. Đừng kẹt vào cái sở tri và cái mình đã học hỏi. Phải quán chiếu cả bên trong lẫn bên ngoài. Cần nỗ lực tinh tiến hành trì. Không nắm bắt gì, và không thấy có gì cần nắm bắt. 5. Phải làm chủ được mình, phải thực hiện cho được sự bình an nội tâm. Cái bình anấy không thể tiếp nhận được từ kẻ khác. Do sự thực tập quán chiếu bên trong mà tâm ý yên tĩnh lại được. Cái yên tĩnh ấy không tới từ bên ngoài. 6. Nên an trú trong hiện tại như an trú trong chiều sâu của biển cả. Ở đó có sự bình an, không hề có sóng gió. Sống tĩnh lặng, tất cả năm uẩn đều được làm cho lắng dịu. Đừng để cho tâm ý và các giác quan bị kích động. 7. Phải phát tâm cầu mong chứng đạt cho được con mắt của trí tuệ lớn. Tự mình chứng đạt và giúp cho kẻ khác chứng đạt. Phải nuôi dưỡng, chế tác đức từ bi và bao dung. Phải thực tập, quán chiếu và tập trung cho tới mức vững chãi. 8. Con mắt đừng nhìn láo liêng bên này bên kia. Không ham nói nhiều, không mất thì giờ nghe những câu chuyện đàm tiếu. Không chạy theo vị ngọt của tham dục. Không có nhu yếu làm sở hữu chủ của bất cứ một cái gì trong cuộc đời. 10. Khi được cúng dường thức ăn, thức uống và những vật dụng khác như quần áo, thuốc men… phải tiếp nhận vừa đủ nhu cầu của mình, đừng có tâm chất chứa để dành cho mai sau. Phải biết dừng lại, đừng để cho lòng tham kéo đi. 11. Phải siêng năng thực tập thiền định, ưa ngồi trong rừng cây. Đừng đi vào những nơi đám đông tụ họp, vào chốn hý trường tiêu khiển. Khi ngồi cũng như khi nằm, chọn nơi yên tĩnh và đem hết tâm lực mà hành trì. 12. Đừng ngủ nhiều, phải học hỏi và tu tập cho nghiêm túc. Đừng lơ là, cũng không nên bi quan. Không đánh mất thì giờ trong các cuộc vui rộn ràng. Những gì mà kẻ thế gian ưa chuộng và chạy theo, mình đều buông bỏ. 13. Không thực tập phù phép, bùa chú, đoán mộng. Không bói toán, chấm số tử vi, đoán vận mạng, đoán điềm tốt xấu. Không cầu tự, không làm thầy địa lý, không kết nghĩa với người thế gian. 14. Không mua bán, không tạo lãi. Không hùn vốn để kiếm lợi tức. Gặp gỡ người trong xóm làng, đừng đi theo họ với mục đích mưu cầu lợi dưỡng. 15. Đừng vừa đi vừa nói chuyện. Không được nói lưỡi hai chiều. Suốt một đời tu chỉ nhắm tới sự nghiệp tuệ giác. Hành trì giới luật đừng để sơ suất, kể cả những giới điều nhỏ nhặt. 16. Có ai cật vấn, đừng ngại ngùng. Có ai tôn kính, đừng nói lời đại ngôn. Đừng tham lam, đừng tật đố. Đừng nói lưỡi hai chiều, đừng giận dữ hoặc buồn phiền. 17. Không nói những lời thô, lậu, tà vọng. Đừng làm điều gì có thể gây ra thù oán. Những điều sai quấy đừng bắt chước làm theo. Phải biết hổ thẹn, phải đừng tự hào. 18. Khi nghe những lời thô ác, không dễ thương của những bạn đồng tu hoặc của người thế tục nên giữ im lặng. Đừng tham dự vào. Cũng đừng phản ứng bằng những lời nói tương tự. 19. Đã có cơ duyên gặp được chánh pháp của bậc Như Lai thì phải để hết tâm ý hành trì, đừng ham vui nữa. Nên thực tập hết lòng theo lời Gotama chỉ dạy để đạt tới cái yên tĩnh của niết bàn. 20. Nuôi lớn tuệ giác, chánh pháp không bao giờ lãng quên. Phải tập thấy được chân lý bằng con mắt của chính mình. Vị khất sĩ luôn luôn thực tập theo tuệ giác của đức Như Lai mà không chạy theo những cái hào nhoáng bên ngoài của thế gian nữa.
Kinh này là một kinh rất quý đối với người xuất gia vì trong kinh Bụt chỉ dạy rất cặn kẽvà rất thiết thực về công phu thực tập hằng ngày của một vị xuất gia chân chính. Mỗi bài thi kệ là một viên ngọc bích. Có cả thảy là hai mươi bài thi kệ. Kinh này đáng để cho tất cả mọi người xuất gia học thuộc lòng. Kinh này đích thực là cẩm nang của người xuất gia.
|
Sn 4.15: Attadanda Sutta — The Training/Arming Oneself/The Rod Embraced. (XV) Kinh Chấp trượng (Sn 182) Thế Tôn: 935. Từ người cầm các trượng, Sợ hãi được sanh ra, Hãy xem các loài người, Trong khi đấu tranh nhau, Ta sẽ nói sợ hãi, Như Ta đã được biết. 936. Thấy loài, người vùng vẫy, Như cá trong nước cạn, Thấy họ chống đối nhau, Ta rơi vào sợ hãi. 937. Đời toàn không lõi cây, Mọi phương đều dao động Muốn cho mình ngôi nhà, Ta không thấy nhà ở. 938. Cuối cùng là xung đột, Thấy vậy Ta chán ngắt, Đây Ta thấy mũi tên, Khó thấy, gắn vào tim. 939. Ai bị mũi tên đâm, Chạy khắp mọi phương hướng, Ai rút mũi tên ra, Không chạy, liền ngồi xuống. 940. Ở đây sự học tập, Đã được nói rõ lên, Phàm triền phược ở đời, Chớ liên hệ với chúng, Đâm thủng dục hoàn toàn, Tự học tập Niết-bàn. 941. Chân thật không xông xáo, Không man trá, hai lưỡi, Không phẫn nộ, ẩn sĩ, Vượt tham ác, xan tham. 942. Người nghĩ đến Niết-bàn, Bỏ ngủ, nhác, thụy miên, Không sống với phóng dật, Không an trú, quá mạn. 943. Không rơi vào nói láo, Không tham ái các sắc, Cần liễu tri quá mạn, Sống từ bỏ bạo ác. 944. Không hoan hỷ việc cũ, Không nhẫn chịu sự mới, Trong tổn giảm không sầu, Không liên hệ tham ái, 945. Ái, Ta gọi bộc lưu, Mong cầu gọi bọt nước, Sở duyên gọi biến kể, Bùn dục khó vượt qua. 946. ẩn sĩ không rời chân, Phạm chí trú đất liền, Vị từ bỏ tất cả, Thật được gọi an tịnh. 947. Biết vậy, gọi người biết, Biết rồi không y pháp, Chơn chánh sống ở đời, Không tham ái một ai. 948. Ai ở đây vượt dục, Ái khó vượt ở đời, Không sầu, không tham muốn, Cắt dòng không trói buộc. 949. Trước Ông làm khô cạn Sau Ông không vật gì, Ở giữa không nắm giữ, Ông sẽ sống an tịnh. 950. Toàn diện đối danh sắc, Không gì nghĩ "của ta" Không có gì không sầu, Không có già ở đời. 951. Không nghĩ "đây của tôi ", Không nghĩ "đây của người ", Người không có tự ngã, Không sầu vì không ngã. 952. Không tàn bạo, không tham, Không dục, thường đồng đẳng, Được hỏi Ta nói lên, Lợi ích bậc bất động. 953. Bậc ly dục rõ biết, Vị ấy không sở hành, Thoát ly, không tinh cần, Thấy an ổn khắp nơi. 954. Bậc ẩn sĩ, không nói, Bằng nhau, thua, hơn nhau, An tịnh, ly xan tham, Không nhận, không bác bỏ. Thế Tôn giảng như vậy. |
Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi 1. Hãy lắng nghe và quán sát để thấy tại sao mà từ trạng thái an lành người ta đã đưa xã hội tới tình trạng đầy khủng bố bạo động như hiện nay? Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở thành như thế? Tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này và kể cho quý vị nghe làm thế nào mà tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi. 2. Người đời trải nghiệm từ cái khổ này đến cái khổ khác, như con cá sống trong một nơi mà ở đó càng ngày nước càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh và con người vì u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiệnkhủng bố và trừng phạt. 3. Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thực sự còn an ổn. Ai cũng cho mình là hơn người, ít ai biết buông bỏ cái đam mê của mình. Vì không thấy được sự thực ấy, cho nên con người cứ ấp ủ mãi cái tri giác sai lầm của mình. 4. Tự trói buộc mình bằng những tri giác sai lầm ấy, người ta chỉ đem lại thêm cho mình nhiều tối tăm và thống khổ. Tôi đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và tôi đã thấy một mũi dao nhọn được che giấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không trông thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm, cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau. 5. Cái niềm đau gây ra do mũi dao nhọn ấy kéo dài, không thay đổi, và vì cứ tiếp tụcôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ đã làm cho niềm đau trong họ tràn ngập thế giới. Chỉ khi nào có cơ hội nhận diện được nó và lấy nó ra khỏi trái tim thì khổ đau mới không còn và mình mới có cơ hội dừng lại. 6. Trong số những hệ lụy của cuộc đời, mình đừng để cho tự thân vương vấn vào bất cứ một hệ lụy nào. Những gốc rễ của tà loạn phải biết cắt đứt. Phải buông bỏ đừng nương vào chúng nữa. Nếu buông bỏ được tà dục thì ta có thể vượt qua mọi khổ nạn. Kẻ hành giả phải vượt ra khỏi cái vòng khổ nạn thì mới thành tựu được sự nghiệp giải thoát cho chính mình. 7. Kẻ hành giả chân chính phải có tâm dạ chí thành, đừng tự hành động dựa trên vọng tưởng, cứ đường thẳng mà đi, không nói lưỡi hai chiều. Phải biết cách dập tắt ngọn lửa của sự hờn giận, phải biết cách làm tan vỡ khối tham vọng của mình. Nếu biết cởi bỏ được những ràng buộc của phiền não thì mình có thể bắt đầu thấy được bến bờ giải thoát. 8. Nên buông bỏ sự tự hào, đừng ham ngủ, đừng để chìm vào trạng thái hôn trầm. Biết sống và làm việc cho có chừng mực, đừng đánh mất mình trong đám đông. Đừng vướng vào những cái bề ngoài hào nhoáng. Phải biết từ khước chúng. Phải quán chiếu thường xuyên tự tánh không của vạn pháp để đạt tới Niết Bàn tĩnh lặng. 9. Đừng nhục mạ ai, cũng đừng để mình bị níu kéo và vướng mắc vào những hình sắcdối gạt bên ngoài. Đừng dấn mình trong những cuộc vui mà quên đi mục đích của sự hành trì là giải cứu khổ nạn. 10. Những gì thuộc về quá khứ, đừng nghĩ tới chúng nữa. Những gì thuộc về tương lai, đừng vọng tưởng đến chúng. Những gì đang xảy ra trong hiện tại phải được nhận diệnđể đừng bị vương vấn vào. Cứ như thế thênh thang bước một mình khắp năm châu bốn biển mà không còn bị ai ganh ghét. 11. Tôi nói rằng tham dục là mãnh lực gây ra tàn hại nhiều nhất. Đó là cơn lũ lụt làm tràn ngập cả thế gian. Thấy được điều đó thì mới chế phục được mọi nghi ngờ. Cần để tâm quán chiếu về lý duyên khởi. Phải thấy được rằng nếu không thoát ra được cái ô nhiễm của tham dục thì ta khó mà chấm dứt được khổ đau. 12. Trong đám đông, số người có năng lực buông bỏ tham dục rất ít, thời đại nào cũng thế. Nhưng một khi đã buông bỏ được rồi thì kẻ hành giả lại không cảm thấy mất mát gì, cũng không có nhu yếu di chuyển tới một nơi nào khác: cơn lũ lụt kia tự nó sẽ cáo chung và không có gì còn ràng buộc được ta nữa. 13. Nương vào sức mạnh của tuệ giác làm cỗ xe, vị mâu ni vượt tới bờ bên kia. Nhờ có tuệ giác, vị ấy không còn lo lắng và thấy mình đang được bảo hộ. Sinh tử, tai ách và sự ganh ghét không còn xâm phạm tới vị ấy được. Do sức mạnh của tinh tiến, vị ấy đạt được bình an thật sự. 14. Đã xa lìa được (tham dục) thì khổ đau không còn tồn tại, người hành giả quán chiếu về tự tánh không của vạn pháp, không còn vướng bận vào bất cứ một pháp nào. Đã trực tiếp thấy được con đường lớn đưa tới an bình rồi, người ấy không còn vướng vào bất cứ một quan điểm nào của thế gian nữa. 15. Khi hành giả không còn chấp rằng thân này là mình, thấy được tính cách không thể nắm bắt và không thật sự tồn tại của một cái ngã thì vị ấy không còn gì để lo lắngnữa. 16. Khi gốc rễ của si mê đã được nhổ lên và khi những cây non của si mê mới mọc lên cũng đã bị nhổ sạch không còn có cơ hội lớn lên, thì trong hoàn cảnh hiện tại, người hành giả không còn nắm bắt một cái gì nữa và không còn có nhu yếu phân biệt ai là đồng minh ai là kẻ thù. 17. Khi đã không còn bị kẹt vào các khái niệm tâm và vật (như những gì tồn tại ngoài nhau), khi đã không còn bị kẹt vào các ý niệm, khi đã không thấy có gì có thể nắm bắt, khi đã thấy được rằng không gian và vật thể là không, thì không có gì trong thế giancòn có thể làm cho vị ấy oán than buồn giận nữa. 18. Đã vượt được hoàn toàn cái ý niệm về tất cả trong đó có ý niệm về vật thể thì trong tất cả các pháp hành, không pháp nào mà mình không đạt được. Đã được học hỏi, thực tập và thuyết giảng thông thạo được giáo lý vô dục thì dù có bị bất cứ ai đến chất vấn, vị ấy cũng không còn cảm thấy e ngại trong việc ứng đối. 19. Đã đạt được tuệ giác rồi, vị ấy không cần lệ thuộc vào ai nữa cả. Vì không còn mong cầu gì nữa và cũng không còn ghét bỏ gì nữa cho nên vị ấy đạt được sự bình antrong tâm hồn và thực chứng được Niết Bàn tịch tĩnh. 20. Nhìn xuống không thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị Mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ giác mà chẳng thấy mảy may tự hào. Đại Ý Kinh này cung cấp những câu trả lời thiết thực cho tình trạng thế giới hiện tại, đầy hận thù, bạo động, sợ hãi và khủng bố. Kinh này rất có tính cách hiện đại. Chúng ta sống trong một thời đại có quá nhiều bạo lực và hận thù, không gian thảnh thơi an lànhcàng ngày càng bị thu hẹp, giống như tình trạng của một con cá càng lúc càng thiếu nước. Đó là hình ảnh đưa ra trong bài thi kệ thứ hai. Bụt đã nói kinh này từ kinh nghiệm bản thân của Ngài. Ngài nói ra sự thật muôn đời mà bây giờ ai cũng thấy: trong hoàn cảnh khổ đau bức xúc, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh, và con người u mêcứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố trừng phạt. “Cả thế giới đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thực sự còn an ổn.” Bài kệ thứ ba nói tới hận thù, đam mê và vô minh như những yếu tố căn bản làm phát sinh bạo động. Cái ham muốn và cái sợ hãi đi đôi với nhau. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ ta đã có sự sợ hãivề cái ham muốn ấy: sợ chết, sợ bỏ rơi, sợ không ai chăm sóc, và ham sống, ham có người để nương tựa, ham có đủ những phương tiện để sống còn, để khỏi chết. Tất cả những ham muốn và sợ hãi sau này đều đã phát sinh trên cái ham muốn và sợ hãinguyên thủy ấy. Tham vọng, hận thù và sợ hãi là con dao nhọn trong tâm người. Chừng nào chưa lấy được con dao nhọn ấy ra thì chừng đó con người còn lo sợ, còn khổ đau và làm cho thế giới tràn ngập khổ đau. Hình ảnh lưỡi dao nhọn trong trái tim cất giấu dưới những lớp khổ đau và tham vọng là hình ảnh nổi bật nhất trong kinh. Hình ảnh ấy nằm ở bài thi kệ thứ tư và thứ năm. Các bài thi kệ thứ tám và thứ chín nhấn mạnh về sự thực tập đừng lên án ai, đừng nhục mạ ai và khi bị lên án hay nhục mạ thì phải quán chiếu để đừng bị tổn thương. Bị tổn thương thì lập tức con dao nhọn sẽ phát sinh trong tâm, đưa đến hành động hận thù và trách phạt. Muốn lấy con dao nhọn trong tâm ra, ta phải thực tập nhìn sâu. Bài thi kệ thứ mười lăm nói đến tuệ giác vô ngã như yếu tố căn bản đưa tới buông bỏ lo lắng và hận thù: Tri giác sai lầm (vô minh) là gốc rễ của mọi hiềm hận. Chứng được vô ngã thì buông bỏ được mọi mặc cảm, mọi tư kiến, do đó mọi hiềm hận sẽ bị tiêu tan. Những kẻ khủng bố không sợ chết, sẵn sàng chết là vì hai lý do: thứ nhất là họ cho họ có chân lý, và chết vì chân lý là một cái chết đẹp, thứ hai là họ rất muốn trừng phạt những kẻ đã kỳ thị họ, đã xem thường họ, những kẻ này đã làm tổn thương tự ái của họ. Buông bỏ tư kiến và tự hào là sự thực tập căn bản của kinh này, giúp ta lấy đi con dao nhọn trong trái tim ta. Tự độ xong rồi, mình mới có thể giúp được kẻ khác. Sau khi mình đã lấy được con dao nhọn trong trái tim của mình ra rồi thì mình mới có khả năng giúp kẻ khác làm như thế. Có tuệ giác, có tình thương ta mới làm được việc này. Mà khi ta đã có tuệ giác và tình thương, ta sẽ áp dụng các pháp môn ái ngữ và lắng nghe để giúp cho kẻ kia điều chỉnh những tri giác sai lầm trong họ, để họ hết bị tổn thương và tự ái, để họ không còn ý chí muốn trừng phạt, để họ lấy ra được con dao nhọn trong tâm của họ. Diệt trừkhủng bố ta không thể sử dụng đe dọa, trừng phạt và bạo động. Còn sử dụng những phương tiện ấy thì ta còn làm cho hận thù và bạo động tăng trưởng, và thế giới càng ngày càng trở nên khó sống như con cá càng ngày càng thiếu nước. Chỉ với các phương tiện ái ngữ và lắng nghe bằng tâm từ bi ta mới có thể giải trừ hận thù và bạo động. Kinh này là một pháp bảo vô giá cần được phổ biến và đem ra thực tập trong môi trường gia đình, học đường, sở làm và trên lĩnh vực ngoại giao quốc tế. |
Sn 4.16: Sariputta Sutta — To Sariputta (XVI) Kinh Sàriputta (Xá-lợi-phất) (Sn 185) Sàriputta: 955-975 955. Trước con chưa từng thấy, Chưa ai từng được nghe, Tiếng nói thật ngọt ngào, Như tiếng bậc Đạo Sư, Từ cõi Đâu-suất đến, Xá-lợi-phất nói vậy. 956. Bậc có mắt xuất hiện, Đời này và thiên giới, Quét sạch mọi u ám, Độc cư, chứng an lạc. 957. Bậc Giác ngộ, độc lập, Như thật, không man trá, Ngài đến ở đời này, Lãnh đạo các đồ chúng, Từ nhiều người trói buộc, Con đến với câu hỏi. 958. Vị Tỷ kheo nhàm chán, Sống an tọa, trống không, Tại gốc cây, nghĩa địa, Hay núi rừng hang sâu. 959. Tại chỗ cao thấp ấy, Có bao nhiêu sợ hãi, Khiến Tỷ kheo không run, Tại trú xứ vắng lặng? 960. Bao nguy hiểm ở đời, Tỷ Kheo cần chinh phục, Trong hướng đi bất tử, Tại trú xứ xa vắng? 961. Ngôn ngữ và hành xứ Của vị ấy là gì? Có bao nhiêu giới cấm, Tỷ Kheo cần tinh tấn? 962. Chấp nhận học tập gì, Vị Tỷ Kheo nhất tâm, Thông minh, giữ chánh niệm, Tẩy sạch các cấu uế, Trên tự ngã của mình, Như thợ lọc vàng bạc? Thế Tôn: 963. Này Sàriputta, Thế Tôn bèn trả lời: Với người biết nhàm chán, Có gì là khoan khoái! Khi sử dụng sàng tọa, Tại chỗ tịnh trống không, Với ai muốn giác ngộ, Sống đúng với tùy pháp, Ta sẽ nói người ấy, Như Ta đã quán tri. 964. Vị Tỷ kheo có trí, Chánh niệm sống biên địa, Không có sợ năm điều, Đáng sợ hãi ở đời. Các loại ruồi, mối bay Cùng các loài bò sát, Xúc chạm của loài người, Cùng các loại bốn chân. 965. Vị ấy không nên sợ, Tri kiến của người khác, Khi đã được thấy biết, Nhiều sợ hãi của chúng, Bậc tìm đến chí thiện, Thấy được các nguy hiểm Cần phải lo khắc phục Tất cả nguy hiểm khác. 966. Khi thọ lãnh bệnh hoạn, Khi cảm xúc đói khổ, Với lạnh và cực nóng, Cần phải nhiếp phục chúng, Bị chúng cảm xúc nhiều, Kẻ không bỏ nhà cửa Cần tinh tấn cần mẫn, Lòng hết sức kiên trì. 967. Chớ ăn trộm, ăn cắp, Chớ nói lời nói láo, Hãy cảm xúc từ tâm, Đối kẻ yếu, kẻ mạnh, Khi rõ biết tâm tư, Trong tình trạng dao động, Hãy gột sạch, tẩy sạch, Phần hắc ám đen tối. 968. Chớ để bị chi phối, Bởi phẫn nộ, quá mạn, Hãy đào chúng tận gốc, Và an trú như vậy, Đối những gì khả ái, Hay đối không khả ái, Hãy hoàn toàn nhiếp phục, Chớ để bị chi phối. 969. Thiên trọng về trí tuệ, Hoan hỷ trong chí thiện, Hãy chận đứng loại bỏ, Nguy hiểm ách nạn ấy, Hãy khắc phục bất lạc, Đối trú xứ vắng lặng, Hãy khắc phục bốn pháp, Khiến sầu muộn khóc than. 970. Ta sẽ ăn những gì, Và được ăn tại đâu. Thật khó khăn ta ngủ, Nay ta ngủ tại đâu? Với những tư tưởng ấy, Vị ấy có thể than, Bậc hữu học, không nhà, Hãy nhiếp phục trừ chúng. 971. Với đồ ăn, vải mặc, Đúng thời, thâu hoạch được, Cần ước lượng vừa đủ, Với mục đích thỏa mãn, Chế ngự đối với chúng, Sống nhiếp phục trong lòng, Dầu phẫn uất, không nói, Những lời độc thô ác. 972. Với mắt cúi nhìn xuống, Chân không đi lang thang, Chú tâm vào thiền định, Với rất nhiều tỉnh giác, Cố gắng tu tập xả, Tự ngã khéo định tĩnh, Hãy cắt đứt trừ khử, Các nghi ngờ hối tiếc. 973. Bị buộc, tội bằng lời, Chánh niệm, tâm hoan hỉ, Phá hoại sự cứng rắn, Giữa các đồng Phạm hạnh, Nói lên những lời nói, Hiền thiện và đúng thời, Không để tâm suy tư, Các chủ thuyết người khác. 974. Lại nữa, năm loại vua, Hiện có ở trên đời, Hãy học nhiếp phục chúng. Luôn luôn giữ chánh niệm. Đối với sắc và tiếng, Đối với vị và hương, Cùng đối các cảm xúc, Hãy chế ngự tham ái. 975. Hãy chế ngự ước muốn, Đối với những pháp ấy, Vị Tỷ kheo chánh niệm, Tâm tư khéo giải thoát, Rồi đúng thời vị ấy, Chơn chánh suy tư pháp, Với chuyên tâm nhất trí, Hãy đoạn tận hắc ám. Thế Tôn nói như vậy. |
Kinh Phòng Hộ - Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 14, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Sàriputta Sutta, Sutta-Nipàta 955-975 1. Chưa từng thấy ai (sáng rỡ) như Bụt. Chưa từng nghe ai nói lời (tuyệt diệu) như Ngài. Từ cung trời Đao Lợi đi xuống, Đức Thế Tôn là bậc có uy lực tuyệt vời. 2. Được cả hai cõi thiên và nhân ngưỡng mộ, Ngài là hiện thân của một cái thấy có khả năng soi sáng cho cõi đời đầy tục lụy và tham đắm này. Cái bình an vĩ đại của Ngài không có gì có thể lay chuyển được. Mang niềm vui, một mình Ngài đi giữa cõi thế gian. 3. Con đã may mắn tìm tới được với Ngài, bậc giác ngộ, bậc vô ưu. Bậc đã lên tới đỉnh cao của sự giác ngộ và đã trở về cõi trần thế để giáo hóa. Ngài là người đã để ra bao nhiêu công phu tâm ý để đạt tới giải thoát. Đã đánh tan được dục vọng, đã thoát ra khỏi được cuộc đời ác trược. Xin Ngài ban cho chúng con một ít những giáo nghĩa tốt đẹp của Ngài. 4, 5. Nếu một vị khất sĩ quyết tâm từ bỏ cuộc sống trần lụy, can đảm đi tìm tới một chỗ vắng người, dưới một gốc cây, một vùng khoáng dã, nơi rừng sâu, hoặc trong một am thất. Hoặc ở trên núi cao, tìm một chỗ để ngồi và để nghỉ lưng thì vị ấy sẽ có thể gặp những tai nạn hiểm nguy nào? Làm sao để vị ấy đừng có sợ hãi? Làm sao để vị ấy có thể thực tập mà đạt tới chỗ thoát ly sinh tử? 6. Có bao nhiêu loại tai nạn và hiểm nguy của cuộc đời đang chờ đợi vị ấy? Có những dấu hiệu và âm thanh nào báo cho vị ấy biết những tai nạn và hiểm nguy kia? 7. Vị khất sĩ muốn đạt tới an lành cần phải nói gì? Phải làm gì cho đúng? 8. Tu tập như thế nào để giới thân không bị sứt mẻ? Làm sao để khi đi thì đi một mình, không đàn đúm với ai? Làm sao để có ý chí gột sạch được u mê, để tìm cầu tuệ nhãn, giống như một người thợ rèn luyện thép, loại ra được những chất quặng dơ bên trong? 9. Bụt dạy có năm cái hiểm nguy: ác thú bốn chân, sâu, muỗi, rắn rết và những con người có ý đồ không tốt. Nhưng nếu biết sống có chánh niệm và tinh cần thì vị khất sĩsẽ không bị những thứ ấy làm hại. Vị ấy phải hết lòng tu tập, quyết tâm đừng chạy theo những cái khả ái. 10. Thấy những người ngoại đạo đừng để tâm tới họ. Đừng xuất hiện, đừng nói nhiều, đừng phô trương hình thức. Nếu biết quán chiếu lý vô ngã một cách sâu sắc thì có thể nhẫn xả được tất cả. Đừng ham tới lui chốn phố xá đông người. 11. Đau nhức, bệnh tật, đói lạnh, những cái ấy hãy học cách chịu đựng cho quen, đừng sợ hãi chúng. Hãy sử dụng chánh tinh tiến để chống cự lại và để tự bảo hộ mình. 12. Đừng chạy theo những cái vỏ quyến rũ bên ngoài. Diệt tận gốc những mầm mống của cái ác, đừng cho chúng tiếp tục. Đừng nắm bắt những cái không thể nắm bắt và cả những cái có thể nắm bắt. Đừng vướng mắc vào quá khứ, đừng trông ngóng về tương lai. 13. Duy trì tâm bồ đề, nuôi lớn thiện tâm. Vượt qua hàng rào thị phi, không bao giờ nói lời thô ác. Nhẫn nhịn được những điều bất như ý. Khi đi cũng như khi ngồi thực tậpbốn phép nhẫn nhục để vượt qua nhu yếu than trách. 14. “Đêm nay ta sẽ ngủ ở đâu? Sáng nay ta sẽ đi khất thực ở xóm nào? Khi trong người có bệnh, làm sao cho hết bệnh, hết đau nhức?” Nếu cả ngày chỉ cứ suy nghĩ về những chuyện như thế thì thật là đáng thương. Phải biết học hỏi cách thức buông bỏ, phải biết hành trì để có thể đạt tới viễn ly. 15. (Khi được cúng dường thức ăn và y dược), đừng nghĩ tới chuyện ngon hay dở, nhiều hay ít. Phải biết tiếp nhận có điều độ. Phải biết dừng lại khi nên dừng lại. Trong khi bước đi giữa thôn làng nếu nghe tiếng người chửi bới thì hãy giữ im lặng, đừng nói lời thô ác để đáp lại. 16. Vị khất sĩ bước đi, hai mắt nhìn xuống, không láo liêng. Dùng thì giờ mà thực tậpthiền quán, đừng ham ngủ. Quán duyên khởi, làm cho tâm ý an lành. Đình chỉ vọng niệm, đoạn trừ mọi mối nghi ngờ. 17. Đừng nhận những gì không đáng nhận. Không cho những gì không đáng cho. Phải biết nhìn kẻ khác bằng con mắt từ bi, đừng nạt nộ ai. Nếu có xảy ra chuyện tranh chấp, thì biết đối xử với tâm bình đẳng. Đừng quan trọng hóa chuyện ai đúng ai sai. 18. Mỗi khi bị chửi mắng, đừng nổi cơn thịnh nộ. Đừng nói nặng lời với các bạn đồng tu. Lời nói dịu dàng sẽ thấm dần vào được như nước. Đừng có ý tìm cách dìm người khác xuống. 19. Nếu có ai muốn tỏ bày sự cung kính phải thực tập để đừng bị sự tôn kính ấy chạm đến mình. Sắc đẹp, tiếng hay, vị ngọt, hương thơm, cảm xúc dễ chịu, đừng để cho những cái ấy làm tổn hại đến tự thân. 20. Đối với những cám dỗ, đừng để bị đắm trước. Phải biết điều phục tâm ý mới không bị vướng vào chúng. Vị khất sĩ biết sử dụng giới pháp và thiền quán để đạt tới minh tuệ. Đưa tâm chuyên về một mối để phá cho vỡ được khối vô minh đã được chứa chất từ lâu đời.
Kinh này bổ túc cho kinh đi trước, nói thêm về Công Phu Thực Tập Căn Bản của người xuất sĩ. Ta thấy rất rõ ràng là thầy Xá Lợi Phất đang đặt những câu hỏi để Bụt trả lời không phải là cho thầy mà cho tất cả các vị khất sĩ đang có mặt trong lúc ấy. Ngay chính những câu hỏi này đã là những lời dạy dỗ của một vị huynh trưởng cho đàn em rồi. Ví dụ những câu hỏi trong các bài thi kệ thứ bảy và thứ tám: vị khất sĩmuốn được an ổn, cần phải nói gì? Không nên nói gì? Phải làm gì cho đúng? Phải trì giới thế nào? Làm sao để đừng bỏ cuộc nửa chừng? Làm thế nào cho giới thân không bị sứt mẻ? Làm sao để mỗi khi bước đi thì đi một mình, đừng đàn đúm với ai? Làm thế nào để loại trừ các chất độc phiền não nội tâm? Những câu trả lời của Bụt rất thiết thực. Cố nhiên các loài dã thú bốn chân, rắn, rết, sâu, muỗi v.v... có thể làm hại mình, nhưng nếu có chánh niệm thì mình sẽ không bị những thứ ấy làm hại. Nhưng còn một hiểm nguy khác: đó là loài người hai chân. Có những người có ý đồ không tốt, họ không muốn cho mình tu học. Lại có những người cũng ở trong giới tu tập nhưng vì ganh tỵ, vì sợ hãi cũng muốn loại trừ mình. Đối với những tai nạn do giới “hai chân” này gây ra, thì cách thức hay nhất là đừng tranh dành với họ, “Đừng xuất hiện, đừng nói nhiều, đừng phô trương hình thức. Đừng ham tới luichốn phố xá đông người.” Đó là lời dặn dò của Bụt trong bài thi kệ thứ mười. Đã đi xuất gia thì đừng lo lắng về chuyện tối nay ngủ ở đâu, sáng mai ăn ở đâu, khi có bệnh thì ai săn sóc cho mình, khi đói lạnh thì ai lo lắng cho mình. Nếu nương vào Tăng thân và hết lòng tu tập thì mọi việc sẽ được sắp xếp, mình không cần lo lắng về những thứ ấy. Đừng nắm bắt những cái không thể nắm bắt và ngay cả những thứ có thể nắm bắt. Đừng tiếc thương quá khứ, đừng trông ngóng tương lai. Đừng chạy theo cái vỏ hào nhoáng bên ngoài. Nội lời nhắn nhủ này trong bài thi kệ thứ mười hai cũng đã làm kim chỉ nam cho sự thực tập suốt đời của một vị khất sĩ. Bài kệ thứ mười lăm dặn ta tiêu thụ cho có chừng mực. Phải biết dừng lại khi cần dừng lại. Gặp người chửi bới thì giữ im lặng đừng đáp lại. Như vậy sẽ có an ninh. Bài kệ thứ mười sáu dặn vị khất sĩ khi bước đi hai mắt phải nhìn xuống, đừng láo liêng. Bài kệ thứ bảy dạy về cách cho và cách nhận. Chỉ nhận những gì đáng nhận, cho những gì đáng cho. Phải đối xử bình đẳng, không thiên vị. Phải tập nhìn bằng mắt từ bi. Từ nhãn thị chúng sanh. Bài kệ thứ mười chín dạy ta thực tập khiêm cung đừng để sự cung kính của người khác làm hại đến pháp thân của mình. Phải phòng hộ sáu căn, đừng để sắc đẹp, tiếng hay, vị ngọt, hương thơm, lạc xúc và tiếng khen kéo mình đi về nẻo hưởng thụ. Cuối cùng bài kệ thứ hai mươi nhắc ta phải thực tập thiền quán để đạt tới minh tuệ, phá vỡ vô minh. |
http://thuvienhoasen.org/p16a9929/dao-but-nguyen-chat-kinh-nghia-tuc |
(Mulapariyaya sutta)
Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. - “Bạch Thế Tôn”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: “Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người “Pháp môn căn bản tất cả pháp”. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói”. - “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: “Địa đại là của ta” - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.
Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: “Thủy đại là của ta” - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại. Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: “Hỏa đại là của ta”- dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại. Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: “Phong đại là của ta”- dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại. Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù. Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ... Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri... Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả... Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn... Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: “Niết-bàn là của ta” - dục hỷ Niết-bàn, Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.
Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn, khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta”, - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại... Thủy đại... hỏa đại... phong đại... Sanh vật... chư Thiên Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại... thủy đại... hỏa đại... phong đại... sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn”.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ... thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ... thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại... thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta” – không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác”... thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của Ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật”. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
KINH PHÁP MÔN CĂN BỔN, THỨ NHẤT HẾT
Thích Minh Châu
______________________________________________________________
>>> TRƯỜNG BỘ KINH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong; cầm tọa cụ vào trong rừng, tọa thiền nghỉ trưa. Sau khi tọa thiền xong, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, Đức Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Ngươi từ đâu lại?”
Xá-lợi-phất đáp:
“Bạch Thế Tôn, con từ chỗ tọa thiền nghỉ trưa ở trong rừng lại.”
Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Hôm nay ngươi nhập vào thiền nào mà an trú?”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Hôm nay con ở trong rừng, nhập an trụ thiền Không tam-muội[22].”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất, hôm nay ngươi đã nhập thiền trú bậc thượng tọa mà tọa thiền[23]. Nếu các Tỳ-kheo nào, muốn nhập thiền thượng tọa, thì phải học như vầy:
“Khi vào thành, khi đi khất thực, hoặc lúc ra khỏi thành, thì phải tư duy như thế này: ‘Hôm nay mắt ta thấy sắc, có khởi lên dục, ân ái, ái lạc, niệm tưởng, đắm nhiễm không?’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo quán sát như vậy, nếu nhãn thức đối với sắc mà có ái niệm, đắm nhiễm, thì Tỳ-kheo này vì để đoạn ác bất thiện nên phải phát khởi quyết ý tinh cần, có khả năng buộc chặt ý niệm để tu học. Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu và áo, vì muốn dập tắt hết lửa, nên phải phát khởi nỗ lực quyết tâm để dập tắt lửa. Tỳ-kheo này lại cũng phải như vậy, phải phát khởi quyết ý tinh cần, buộc chặt ý niệm để tu học.
“Nếu Tỳ-kheo khi quán sát, hoặc ở giữa đường, hoặc đi khất thực ở trong làng xóm, hoặc đi ra khỏi làng xóm, ngay trong lúc đó mà nhãn thức đối với sắc không có ái niệm, đắm nhiễm, thì Tỳ-kheo này ước nguyện bằng thiện căn hỷ lạc này, ngày đêm tinh cần cột niệm tu tập. Đó gọi là Tỳ-kheo đi, đứng, ngồi, nằm, với sự khất thực đã được thanh tịnh. Cho nên kinh này gọi là Thanh tịnh khất thực trụ.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
(Thanh Tịnh Khất Thực Trú Kinh, Tạp A Hàm kinh 236)
Đây là những điều tôi được nghe trong thời gian Bụt ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất, vào buổi sáng khoác y, ôm bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khất thực xong, thầy trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, mang tọa cụ vào rừng, thực tập tọa thiền buổi ban ngày. Sau đó, thầy Xá Lợi Phất xuất thiền, tới chỗ Đức Thế Tôn ở, làm lễ dưới chân Bụt, rút lui và ngồi xuống một bên, phía trước Đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, Bụt hỏi thầy Xá Lợi Phất: “Thầy từ đâu tới đây?”
Thầy Xá Lợi Phất đáp: “Lạy Đức Thế Tôn, con vừa mới thực tập thiền tọa buổi ban ngày trong rừng. Thực tập xong, con tới đây.”
Bụt hỏi Thầy Xá Lợi Phất: “Trong buổi thiền tập hôm nay, thầy an trụ trong loại thiền định nào?”
Thầy Xá Lợi Phất trả lời Bụt: “Thế Tôn, con ở trong rừng, đi vào an trú trong pháp thiền định “không tam muội”.
Bụt bảo Thầy Xá Lợi Phất: “Hay lắm, hay lắm, Thầy Xá Lợi Phất. Đó là Thầy đang thực tập một loại thiền định cao cấp gọi là thượng tọa thiền.
“Này Xá Lợi Phất, nếu các vị tì khưu nào muốn đi vào thượng tọa thiền thì phải thực tập như sau:
“Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau: trong khi mắt tôi đang thấy sắc, thì tâm tôi có phát khởi dục tưởng (vào sắc ấy) hay không? Tôi đang có bị tâm niệm ân ái ràng buộc hay không?
“Này Xá Lợi Phất, nếu trong khi vị khất sĩ thực tập quán niệm như thế, mà thấy trong khi mắt đối sắc có tâm niệm ái nhiễm phát sinh thì vị khất sĩ ấy lập tức tìm cách đoạn trừ ngay tâm niệm ái nhiễm ấy, tâm niệm không có lợi lạc cho đường tu ấy. Vị khất sĩ ấy phải có thao thức tìm ra những phương pháp có thể giúp mình nắm lấy tâm ý mà tu tập (hệ niệm tu học).
“Ví như có một người kia biết là lửa đang cháy trên chiếc khăn chít đầu của mình, liền lập tức tìm mọi cách dập tắt ngọn lửa, vị khất sĩ cũng phải làm như thế, nổ lực tìm ra phương tiện để nắm lấy tâm ý mà tinh tiến tu học. Nếu vị khất sĩ đang đi trên đường, hoặc đang đi khất thực ở trong xóm làng, hoặc đang rời bỏ xóm làng mà biết phát khởi chánh niệm để quan sát và nhận thấy rằng khi con mắt mình tiếp xúc với hình sắc, mà trong tâm mình không có sự nhiễm trước của ái niệm, thì vị khất sĩ này nên có ý nguyện gìn giữ gốc rễ tốt đẹp của cái niềm vui và cái hạnh phúc này để tinh cần nắm lấy tâm mình mà tu học ngày đêm. Như vậy vị khất sĩ này trong bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, thực tập được pháp tịnh hóa trong suốt thời gian đi khất thực. Ta có thể gọi kinh này là Kinh Thanh Tịnh Khất Thực.”
Bụt đã nói kinh này xong. Tôn giả Xá Lợi Phất nghe lời Bụt dạy vui mừng đem ra thực tập theo những lời ấy.
(Tạp A Hàm, kinh thứ 236)
(DASUTTARA-SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
Tôi nói Thập thượng pháp,
Pháp đưa đến Niết-bàn,
Diệt trừ mọi khổ đau,
Giải thoát mọi triền phược.
iii) Thế nào là một pháp cần phải biến tri? Xúc hữu lậu hữu thủ. Đó là một pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là một pháp rất khó thể nhập? Vô gián tâm định. Đó là một pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là một pháp cần được sanh khởi? Bất động trí. Đó là một pháp cần được sanh khởi.
Như vậy, mười pháp này là thực, chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
iii) Thế nào là hai pháp cần được biến tri? Danh và sắc. Đó là hai pháp cần được biến tri.
vii) Thế nào là hai pháp rất khó thể nhập? Nhơn và duyên làm ác nhiễm các loài hữu tình. Nhân và duyên làm thanh tịnh các loài hữu tình. Đó là hai pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là hai pháp cần được sanh khởi? Tận trí và vô sanh trí. Đó là hai pháp cần được sanh khởi.
Như vậy hai mươi pháp này là thực, chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
iii) Thế nào là ba pháp cần phải biến tri? Ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Đó là ba pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là ba pháp rất khó thể nhập? Ba xuất yếu giới: Xuất ly khỏi các dục vọng, tức là ly dục; xuất ly khỏi các sắc pháp, tức là vô sắc; phàm pháp gì hiện hữu, hữu vi, do duyên khởi, sự xuất ly khỏi pháp ấy tức là diệt. Đó là ba pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là ba pháp cần phải sanh khởi? Ba trí: Trí đối với quá khứ, trí đối với tương lai, trí đối với hiện tại. Đó là ba pháp cần phải sanh khởi.
Như vậy ba mươi pháp này là thực, chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
iii) Thế nào là bốn pháp cần phải biến tri? Bốn thực: Đoàn thực loại cứng hay loại mềm, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. Đó là bốn pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là bốn pháp rất khó thể nhập? Bốn định: Xả phần định, chỉ phần định, thắng phần định, quyết trạch phần định. Đó là bốn pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là bốn pháp cần được sanh khởi? Bốn trí: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí. Đó là bốn pháp cần được sanh khởi.
Như vậy là bốn mươi pháp chân, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
iii) Thế nào là năm pháp cần phải biến tri? Năm thủ uẩn: Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Đó là năm pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là năm pháp rất khó thể nhập? Năm giới hướng đến giải thoát. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo tác ý đến dục... (như kinh Phúng Tụng, II, 1, xxiv). Đó là năm pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là năm pháp cần được sanh khởi? Năm chánh định trí: "Đây là định đưa đến hiện tại lạc và lạc quả tương lai", tự mình khởi trí như vậy. "Định này thuộc bậc Thánh, xuất thế", tự mình khởi trí như vậy. "Định này thuộc hàng hiền thiện thực hành", tự mình khởi trí như vậy. "Định này là thanh lương, thù thắng, hướng đến an tịnh, quy về nhất tâm, không cần nhắc bảo, không bị chống đối, không bị thất bại", tự mình khởi trí như vậy. "Tôi với chánh niệm nhập định này, và với chánh niệm xuất định này", tự mình khởi trí như vậy. Đó là năm pháp cần được sanh khởi.
Như vậy năm mươi pháp này là thực, chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
iii) Thế nào là sáu pháp cần phải biến tri? Sáu nội xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Đó là sáu pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là sáu pháp rất khó thể nhập? Sáu xuất ly giới. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Từ tâm giải thoát của tôi đã được tu tập... (như kinh Phúng Tụng, II, 2, xvii). Đó là sáu pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là sáu pháp cần phải sanh khởi? Sáu hằng trú pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo mắt thấy sắc không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm tỉnh giác; tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi niếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức pháp không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Đó là sáu pháp cần được sanh khởi.
iii) Thế nào là bảy pháp cần phải biến tri? Bảy thức trí. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng sai biệt... (như kinh Phúng Tụng, II, 3, x). Đó là bảy pháp cần được biến tri.
vii) Thế nào là bảy pháp rất khó thể nhập? Bảy thượng nhân pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo tri pháp, tri nghĩa, tri ngã, tri lượng, tri thời, tri chúng và tri nhân. Như vậy là bảy pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là bảy pháp cần phải sanh khởi? Bảy tưởng: Vô thường tưởng, vô ngã tưởng, bất tịnh tưởng, quá hoạn tưởng, đoạn trừ tưởng, ly tham tưởng, diệt tưởng. Như vậy là bảy pháp cần phải sanh khởi.
Này các Hiền giả, ở đây, vị lậu tận Tỷ-kheo, chánh quán như chân tánh vô thường của tất cả pháp hữu vi với chánh tuệ. Này các Hiền giả, vị Lậu tận, Tỷ-kheo chánh quán như chân với chánh tuệ tánh vô thường của tất cả pháp hữu vi, chánh quán ấy là sức mạnh của vị Lậu tận Tỷ-kheo ấy. Nhờ sức mạnh ấy, vị Lậu tận Tỷ-kheo biết được sự diệt tận các lậu hoặc: "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận".
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Lậu tận Tỷ-kheo, chánh quán như chân với chánh tuệ các dục vọng như lửa than hừng... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, vị Lậu tận Tỷ-kheo tâm hướng xuất ly, tâm Thiên xuất ly, tâm nặng về xuất ly, tâm lấy xuất ly làm mục đích, tâm hoan hỷ ly dục, đoạn trừ hoàn toàn mọi lậu hoặc trú. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo, bốn niệm an trú được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo, năm căn được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận".
Này các Hiền giả, lại nữa đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo, Bảy Giác chi đã được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo, Bát Thánh đạo đã được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ-kheo, Bát Thánh đạo đã được tu tập, khéo tu tập, như vậy là sức mạnh của vị Lậu tận Tỷ-kheo. Nhờ sức mạnh ấy, vị Lậu tận Tỷ-kheo biết được: "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Như vậy là bảy pháp cần được tu chứng. Như vậy bảy mươi pháp này là chơn, thực như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
II
iii) Thế nào là tám pháp cần phải biến tri? Tám thế pháp: Đắc và không đắc, không có thanh danh và có thanh danh, chê và khen, lạc và khổ. Như vậy là tám pháp cần phải biến tri.
vii) Thế nào là tám pháp rất khó thể nhập? Phạm hạnh trú, tám bất thời bất tiết, (như kinh Phúng Tụng, III, 2, iv), chín Phạm hạnh trú, trừ đoạn nói về sanh A-tu-la thân, thành ra chỉ còn tám). Như vậy là tám pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là tám pháp cần được sanh khởi? Tám Đại nhân tầm: Pháp này cho người thiểu dục, pháp này không phải cho người đa dục; pháp này cho người tri túc, pháp này không phải cho người không tri túc; pháp này cho người an tịnh độc cư, pháp này không phải cho người ưa tụ hội; pháp này cho người siêng năng tinh tấn, pháp này không phải cho người giải đãi; pháp này cho người có niệm hiền tiền, pháp này không phải cho người thất niệm; pháp này là cho người có định tâm, pháp này không phải cho người không có định tâm; pháp này cho người có trí tuệ, pháp này không phải cho người có ác tuệ; pháp này cho người không ưa thích lý luận, pháp này không phải cho người ưa thích lý luận. Như vậy là tám pháp cần được sanh khởi.
Như vậy tám mươi pháp này là chơn, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
2) Có chín pháp có nhiều tác dụng... có chín pháp cần được chứng ngộ.
iii) Thế nào là chín pháp cần được biến tri? Chín hữu tình trú. (Như kinh Phúng Tụng, III, 2, iii). Như vậy là chín pháp cần được biến tri.
vii) Thế nào là chín pháp rất khó thể nhập? Chín loại sai biệt. Do duyên giới sai biệt, xúc sai biệt sanh; do duyên xúc sai biệt, thọ sai biệt sanh; do duyên thọ sai biệt; tưởng sai biệt sanh; do duyên tưởng sai biệt, tư duy sai biệt sanh; do duyên tư duy sai biệt, dục sai biệt sanh; do duyên dục sai biệt, nhiệt tình sai biệt sanh; do duyên nhiệt tình sai biệt, tầm cầu sai biệt, đắc lợi sai biệt sanh. Như vậy là chín pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là chín pháp cần được sanh khởi? Chín tưởng: Bất tịnh tưởng, tử tưởng, thực yểm ly tưởng, nhứt thiết thế gian bất lạc tưởng, vô thường tưởng, khổ tâm tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên ngã, đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng. Như vậy là chín pháp cần được sanh khởi.
Như vậy là chín mươi pháp này là chơn, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
3) Có mười pháp có nhiều tác dụng... có mười pháp cần được giác ngộ.
iii) Thế nào là mười pháp cần phải biến tri? Mười xứ: Nhãn xứ, sắc xứ, tỷ xứ, thanh xứ, nhĩ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ. Như vậy là mười pháp cần được biến tri.
vii) Thế nào là mười pháp rất khó thể nhập? Mười thánh tri. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, v). Như vậy là mười pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là mười pháp cần được sanh khởi? Mười tưởng: Bất tịnh tưởng, tư tưởng, thực yểm ly tưởng, nhứt thiết thế gian bất lạc tưởng, vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, ly tham tưởng, diệt tưởng. Như vậy là mười pháp cần được sanh khởi.
Như vậy một trăm pháp này là chơn, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác được Như Lai giác ngộ, Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy Tôn giả Sàriputta thuyết giảng. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Tôn giả Sàriputta.
Phẩm Pàtìka
Pàtìka, Udumbarika, Cakkavathi và Aggannaka Sampasàdaniya, Pàsàdika, Mahàpurisalakkhanam, Sigàlovàda, Àtànàtiyà, Sangìtì, Dasuttara...
Với mười một kinh này, được gọi là phẩm Pàtika.
Đoạn trừ mọi khổ đau,
Đem lại chân lạc thọ,
Chứng bất tử, an tịnh,
Dưới bậc Đại Pháp Vương.
HẾT TẬP II KINH TRƯỜNG BỘ
MỤC LỤC KINH TRƯỜNG BỘ TẬP II
HẾT TẬP II KINH TRƯỜNG BỘ
Thích Minh Châu
________________________________________________________________
>>> 33.Kinh phúng tụng
Đây là những điều mà tôi đã được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Trùng Các, trong rừng Đại Lâm, không xa thành phố Tỳ Xá Ly. Lúc bấy giờ đại đức A Nậu La Độ đang cư trú tại một cái am trong rừng, không xa nơi Bụt ở.
Một hôm có một số các du sĩ ngoại đạo đến thăm đại đức A Nậu La Độ. Sau khi trao đổi những lời chào hỏi và chúc tụng, họ hỏi đại đức: "Này hiền hữu A Nậu La Độ, đức Như Lai mà người ta tôn xưng là bậc đã chứng ngộ quả vị cao nhất, thế nào cũng đã nói và giảng giải cho hiền hữu nghe về bốn mệnh đề sau đây: một là sau khi chết, đức Như Lai vẫn còn; hai là sau khi chết, đức Như Lai không còn; ba là sau khi chết, đức Như Lai vừa còn vừa không còn; bốn là sau khi chết, đức Như Lai vừa không còn vừa không không còn. Hiền hữu nói cho chúng tôi nghe đi."
Đại đức A Nậu La Độ trả lời: "Này các hiền hữu, đức Như Lai, bậc tôn quý trên đời, người đã từng chứng ngộ quả vị cao nhất, chưa bao giờ từng nói và giảng giải trong khuôn khổ bốn mệnh đề mà các vị hiền hữu vừa đưa ra."
Nghe đại đức nói như thế, các vị du sĩ ngoại đạo nói với nhau: "Có thể là ông thầy tu này mới đi xuất gia, hoặc giả nếu ông ta đã đi tu lâu rồi, thì ông ta chỉ là một kẻ ngu độn." Không vừa ý với đại đức, họ bỏ đi.
Sau khi các vị du sĩ đi rồi, đại đức A Nậu La Độ suy nghĩ: "Nếu các vị du sĩ ngoại đạo này cứ tiếp tục hỏi như thế thì ta phải trả lời thế nào cho đúng với sự thật và không sai với ý của Bụt ? Ta sẽ trả lời như thế nào cho đúng với chánh pháp và để đừng bị người đồng đạo chê trách?"
Rồi đại đức A Nậu La Độ đi tới nơi Bụt ở, cung kính làm lễ và thăm hỏi Người. Sau đó đại đức trình lên Bụt những điều đã xảy ra. Bụt hỏi: "Này đại đức A Nậu La Độ, thầy nghĩ sao? Có thể tìm Như Lai trong hình sắc không?"
- Bạch đức Thế Tôn, không.
- Có thể tìm Như Lai ngoài hình sắc không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Có thể tìm Như Lai trong cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Có thể tìm Như Lai ngoài cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Này đại đức A Nậu La Độ, thầy có nghĩ rằng Như Lai là một cái gì vượt ra khỏi cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Này, A Nậu La Độ, đi tìm Như Lai ngay trong khi Như Lai còn sống đây mà còn không tìm ra được thì thử hỏi đi tìm Như Lai sau khi Như Lai đã ẩn diệt trong khuôn khổ bốn mệnh đề còn, không còn, vừa còn vừa không còn, vừa không còn vừa không không còn, đó có phải là một chuyện có thể làm được hay không ?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Hay lắm, thầy A Nậu La Độ! Từ trước đến nay, Như Lai chỉ giảng dạy về KHỔ và con đường Diệt KHỔ." (CCC)
Kinh A Nậu La Độ: Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chính). Kinh này tuy ngắn nhưng lại là một đề tài quán chiếu quan trọng vào bậc nhất giúp ta vượt được các ý niệm sinh / diệt, có / không, tới / đi và một / khác. Các tư tưởng của hệ thống Trung Quán đều được phát xuất từ các kinh căn bản như kinh này.
(Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org)
(SANGITI-SUTTANTA)
I
Như vầy tôi nghe.
- Bạch Thế Tôn, ở đây một hội trường tên là Ubbhataka mới được dựng lên giữa dân chúng Mallà ở Pàvà, và hội trường này chưa có vị Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào khác an trú. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn là người đến dùng hội trường này trước tiên. Nhờ Thế Tôn dùng trước tiên, dân chúng Mallà ở Pàvà sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
- Bạch Thế Tôn, hội trường đã được trải nệm tất cả, các ghế ngồi đã được sửa soạn, ghè nước đã được đặt sẵn, cây đèn dầu đã được treo lên, Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời.
- Này Vàsetthà, đêm đã quá khuya. Các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi xem là phải thời.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các vị Mallà ở Pàvà vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và ra đi.
- Này Sàriputta, chúng Tỷ-kheo không có hôn trầm thụy miên. Này Sàriputta, hãy thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo. Ta cảm thấy đau lưng! Ta muốn nằm nghỉ.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! - Tôn giả Sàriputta vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, xếp y Sanghàti (Tăng-già-lê) gấp bốn và nằm xuống như cách nằm con sư tử, thân phía hữu, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, với tâm nghĩ đến lúc ngồi dậy.
- Này Hiền giả, Niganthà Nàthaputta vừa mới từ trần không bao lâu. Sau khi vị này từ trần, các Nigantha (Ni-kiền-tử) chia làm hai phe... và không có người y chỉ.
Nhưng với chúng ta, này các Hiền giả, pháp này được Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh đẳng Giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không cãi cọ nhau, để Phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, thế nào là Pháp được Thế Tôn chúng ta khéo giảng dạy, khéo trình bày, một pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh do vị Chánh đẳng Giác trình bày. Ở đây, tất cả cần phải cùng nhau tụng đọc không cãi cọ nhau, để Phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, có một pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị này đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để Phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là hai pháp?
iii) Hữu kiến và vô hữu kiến.
vii) Thiện ngôn và thiện hữu.
viii) Nhập tội thiện xảo và xuất tội thiện xảo.
xii) Thiện xảo về xứ và thiện xảo về phi xứ.
xii) Chơn trực và tàm quý.
xiv) Kham nhẫn và nhu hòa.
xvi) Vô hại và từ ái.
xvii) Thất niệm và bất chánh tri.
xvii) Chánh niệm và tỉnh giác.
xix) Các căn không được chế ngự và ăn uống không tiết độ.
xxi) Tư duy lực và tu tập lực.
xxii) Niệm lực và định lực.
xxiii) Chỉ và quán.
xxiv) Chỉ tướng và tinh cần tướng.
xxv) Tinh cần và không dao động.
xxvi) Giới thành tựu và kiến thành tựu.
xxvii) Giới suy khuyết và kiến suy khuyết.
xxxiii) Giới thanh tịnh và kiến thanh tịnh.
xxix) Kiến thanh tịnh và tinh cần theo tri kiến ấy.
xxx) Dao động đối với các pháp bị dao động và chánh tinh cần của người bị dao động ấy.
xxxi) Không tri túc với các thiện pháp và không thối thất trong tinh cần.
xxxii) Minh tri và giải thoát.
xxxiii) Tận tri và vô sanh trí.
Này các Hiền giả, hai pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc... vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
iii) Ba ác hạnh: Thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh.
vii) Ba bất thiện tư duy: Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy.
viii) Ba thiện tư duy: Ly dục tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy.
xii) Ba thiện giới: Ly dục giới, vô sân giới, vô hại giới.
xiii) Ba giới khác: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
xiv) Ba giới khác: Sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
xvi) Ba ái: Dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
xvii) Ba ái khác: Dục ái, sắc ái, vô sắc ái.
xviii) Ba ái khác: Sắc ái, vô sắc ái, diệt ái.
xix) Ba kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
xxi) Ba hữu: Dục hữu, sắc hữu, vô minh hữu.
xxii) Ba cầu: Dục cầu, hữu cầu, Phạm hạnh cầu.
xxiii) Ba mạn: Thắng mạn, đẳng mạn, ty liệt mạn.
xxiv) Ba thời: Quá khứ thời, vị lai thời, hiện tại thời.
xxv) Ba biên: Hữu thân biên, hữu thân tập biên, hữu thân diệt biên.
xvi) Ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, phi khổ phi lạc thọ.
xvii) Ba khổ tánh: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ.
xxviii) Ba tụ: Tà định tụ, chánh định tụ, bất định tụ.
xxix) Ba nghi: Đối với vấn đề thuộc quá khứ nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng; đối với các vấn đề thuộc tương lai, nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng; đối với các vấn đề hiện tại nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng.
xxx) Ba điều Như Lai không cần gìn giữ: Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về thân. Như Lai không có ác hạnh về thân mà Như Lai phải gìn giữ: "Chớ để người khác biết việc này về Ta". Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về miệng. Như Lai không có ác hạnh về miệng mà Như Lai phải gìn giữ: "Chớ để người khác biết việc này về Ta". Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về ý. Như Lai không có ác hạnh về ý mà Như Lai phải gìn giữ: "Chớ để người khác biết việc này về Ta".
xxxi) Ba chướng: Tham chướng, sân chướng, si chướng.
xxxii) Ba loại lửa: Lửa tham, lửa sân, lửa si.
xxxiii) Ba loại lửa khác: Lửa của người hiếu kính, lửa của người Gia chủ, lửa của người cúng dường (cha mẹ, vợ con và các vị xuất gia).
xxxiv) Ba loại sắc tụ: Hữu kiến hữu đối sắc, vô kiến hữu đối sắc, vô kiến vô đối sắc.
xxxv) Ba hành: Phước hành, phi phước hành, bất động hành.
xxxvi) Ba loại người: Hữu học nhân, vô học nhân, phi hữu học phi vô học nhân.
xxxvii) Ba vị trưởng lão: Sanh trưởng lão, pháp trưởng lão, nhập định trưởng lão.
xxxviii) Ba phước nghiệp sự: Thi hành phước nghiệp sự, giới hành phước nghiệp sự, tu hành phước nghiệp sự.
xxxix) Ba cử tội sự: Thấy, nghe và nghi.
xli) Ba loại lạc sanh: Này các Hiền giả, có những loài hữu tình (trong quá khứ) luôn luôn tạo ra (Thiền định lạc) hay sống trong sự an lạc, như các vị Brahma - Kàyikà (Phạm Chúng Thiên). Đó là hạng lạc sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Thỉnh thoảng họ thốt ra những câu cảm hứng: "Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!", như chư Thiên Àbhassarà (Quang Âm Thiên). Đó là hạng lạc sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Họ sống mãn túc với an lạc ấy, cảm thọ an lạc, như chư Thiên Subhakinnà (Biến Tịnh Thiên). Đó là loại lạc sanh thứ ba.
xlii) Ba tuệ: Hữu học tuệ, vô học tuệ, phi hữu học phi vô học tuệ.
xliii) Loại ba tuệ khác: Tư sanh tuệ, văn sanh tuệ, tu sanh tuệ.
xliv) Ba loại binh khí: Nghe, xả ly và tuệ.
xlv) Ba căn: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.
xlvi) Ba nhãn: Nhục nhãn, Thiên nhãn, tuệ nhãn.
xlvii) Ba học: Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
xlviii) Ba sự tu tập: Thân tu, tâm tu, tuệ tu.
xlix) Ba vô thượng: Kiến vô thượng, hành vô thượng, giải thoát vô thượng.
1) Ba định: Hữu tầm hữu tứ định, vô tầm hữu tứ định, vô tầm vô tứ định.
lii) Ba thanh tịnh: Thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh.
liii) Ba tịch mặc: Thân tịch mặc, ngữ tịch mặc, ý tịch mặc.
liv) Ba thiện xảo: Tăng ích thiện xảo, tổn ích thiện xảo, phương tiện thiện xảo.
lvi) Ba tăng thượng: Ngã tăng thượng, thế tăng thượng, pháp tăng thượng.
lvii) Ba luận sự: Luận bàn về vấn đề quá khứ: "Sự việc này xảy ra trong quá khứ", luận bàn về vấn đề tương lai: "Sự việc này xảy ra trong tương lai"; luận bàn về vấn đề hiện tại: "Sự việc này xảy ra trong hiện tại".
lvii) Ba minh: Túc mạng trí minh, Hữu tình sanh tử minh, Lậu tận trí minh.
lix) Ba trú: Thiên trú, Phạm trú, Thánh trú.
Này các Hiền giả, ba pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận... vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
iii) Bốn thần túc: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu với tinh tấn thực hiện Dục Thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện Tâm Thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với Tinh tấn thực hiện tinh tấn Thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện Tư duy Thiền định (Dục như ý thần túc, Tâm như ý thần túc, Tinh tấn như ý thần túc, Tư duy như ý thần túc).
Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại? Ở đây, này các Hiền giả, có vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, và trú Thiền thứ nhất... Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... chứng và trú Thiền thứ tư. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại. Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến chứng đắc tri kiến. Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo, tác ý quang minh tưởng, an trú tưởng ban ngày, ban ngày thế nào ban đêm như vậy, ban đêm thế nào ban ngày như vậy. Và như vậy với tâm mở rộng không có đóng kín, tạo ra một tâm có hào quang. Này các Hiền giả, như vậy là tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chứng đắc tri kiến. Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, hướng đến chánh niệm, tỉnh giác. Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo biết được thọ khởi, biết được thọ trú, biết được thọ diệt, biết được tưởng khởi, biết được tưởng trú, biết được tưởng diệt, biết được tầm khởi, biết được tầm trú, biết được tầm diệt. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo an trú, quán tánh sanh diệt trên Năm Thủ uẩn - Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Đây là thọ... Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự tu tập Thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.
vii) Bốn vô sắc: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, vị Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Vượt lên mọi thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
viii) Bốn y chỉ: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo sau khi suy nghĩ, thọ dụng; sau khi suy nghĩ, nhẫn thọ; sau khi suy nghĩ, viễn ly; sau khi suy nghĩ, khiển trừ.
xii) Lại bốn trí khác: Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí.
xiii) Bốn Dự lưu hướng chi: Thiện nhân thân cận, diệu pháp thính thọ, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành.
xiv) Bốn Dự lưu quả chi: Ở đây Thánh đệ tử thành tựu lòng tin tuyệt đối với Phật - "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Vị này thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp - "Pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, Pháp ấy là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến mà thấy, có hiệu năng hướng thượng, chỉ người có trí mới tự mình giác hiểu". Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ diệu hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ trực hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ như lý hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ chánh hạnh, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời", thành tựu giới đức được các bậc Thánh ái mộ, không bị hư hoại, không bị tỳ vết, được thực hành liên tục, không bị khiếm khuyết khiến con người tự tại, được bậc Thánh tán thán, không bị nhiễm ô, hướng đến Thiền định.
xvi) Bốn giới: Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.
xvii) Bốn thực: Đoàn thực, thô hay tế; xúc thực là thứ hai; tự niệm thực là thứ ba; thức thực là thứ tư.
xviii) Bốn thức trú: Này các Hiền giả, khi duyên sắc, thức khởi lên và an trú, thức ấy lấy sắc làm cảnh, lấy sắc làm sở y, lấy sắc làm căn cứ thọ hưởng, được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quảng. Này các Hiền giả, hay duyên thọ, thức... hay duyên tưởng... Này các Hiền giả, hay duyên hành, thức khởi lên và an trú, thức ấy lấy hành làm cảnh, lấy hành làm sở y, lấy hành làm căn cứ thọ hưởng, được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quảng.
xix) Bốn bất hành xứ hạnh: Tham dục bất hành xứ hạnh, sân bất hành xứ hạnh, si bất hành xứ hạnh, bố úy bất hành xứ hạnh.
xxi) Bốn hành: Khổ hành trì chứng, khổ hành tốc chứng, lạc hành trì chứng, lạc hành tốc chứng.
xxvii) Lại bốn hành khác: Bất kham nhẫn hành, kham nhẫn hành, điều phục hành, tịch tịnh hành.
xxiii) Bốn pháp túc: Vô tham pháp túc, vô sân pháp túc, chánh niệm pháp túc, chánh định pháp túc.
xxiv) Bốn pháp thọ: Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo lạc. Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền giả có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo lạc.
xxv) Bốn pháp uẩn: Giới uẩn, định uẩn, công đức uẩn, giải thoát uẩn.
xxvi) Bốn lực: Tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
xxvii) Bốn thắng xứ: Tuệ thắng xứ, đế thắng xứ, xả thắng xứ, chỉ tức thắng xứ (Bốn nguyện).
xxviii) Bốn cách trả lời câu hỏi: Trả lời câu hỏi một cách dứt khoát, trả lời câu hỏi bằng cách phân tích, trả lời câu hỏi bằng cách cật vấn, trả lời câu hỏi bằng cách giả lơ, bỏ qua.
xxix) Bốn nghiệp: Này các Hiền giả, có hắc nghiệp hắc báo. Này các Hiền giả, có bạch nghiệp bạch báo. Này các Hiền giả, có hắc bạch nghiệp, hắc bạch báo. Này các Hiền giả, có phi hắc phi bạch nghiệp, phi hắc phi bạch báo, và đưa đến sự tận diệt các nghiệp.
xxx) Bốn pháp cần phải chứng ngộ: Túc mạng cần phải chứng ngộ bởi niệm. Sanh tử cần phải chứng ngộ bởi nhãn. Tám giải thoát cần phải chứng ngộ bởi thân. Lậu tận cần phải chứng ngộ bởi Tuệ.
xxxi) Bốn bộc lưu: Dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô minh bộc lưu.
xxxii) Bốn ách: Dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách.
xxxiii) Bốn ly ách: Ly dục ách, ly hữu ách, ly kiến ách, ly vô minh ách.
xxxiv) Bốn hệ phược: Tham thân hệ, sân thân hệ, giới cấm thủ thân hệ, thử thực chấp thân hệ.
xxxv) Bốn thủ: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã thuyết thủ.
xxxvi) Bốn sanh: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh.
xxxvii) Bốn nhập thai: Này các Hiền giả, ở đây, có loài không tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập thai thứ nhất. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập thai thứ hai. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập thai thứ ba. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập thai thứ tư.
xxxviii) Bốn phương cách được tự thể mới: Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của mình, không do ý chí của người khác. Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của người khác, không do ý chí của mình. Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của mình và ý chí của người khác. Này các Hiền giả, có tự thể mới được không do ý chí của mình, không do ý chí của người khác.
xxxix) Bốn sự cúng dường thanh tịnh: Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người cúng dường thanh tịnh, người nhận cúng dường không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người nhận cúng dường thanh tịnh, người cúng dường không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, cả người cúng dường và người nhận cúng dường đều không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người cúng dường và người nhận sự cúng dường đều thanh tịnh.
xli) Bốn phi Thánh ngôn: Vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ.
xlii) Bốn Thánh ngôn: Ly vọng ngữ, ly lưỡng thiệt, ly ác khẩu, ly ỷ ngữ.
xliii) Bốn phi Thánh ngôn khác: Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết nói biết.
xliv) Bốn Thánh ngôn khác: Không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không nghĩ nói không nghĩ, không biết nói không biết.
xlv) Bốn phi Thánh ngôn khác: Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biết nói không biết.
xlvi) Bốn Thánh ngôn khác: Thấy nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết.
xlvii) Bốn loại người: Này các Hiền giả, ở đây, có người tự làm khổ mình và siêng năng làm khổ mình. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ người khác, siêng năng làm khổ người khác. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ mình, siêng năng làm khổ mình; làm khổ người, siêng năng làm khổ người. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người không làm khổ mình, không siêng năng làm khổ mình; không làm khổ người người, không siêng năng làm khổ người. Vị này không làm khổ mình, không làm khổ người ngay trong hiện tại sống ly dục, tịch tịnh, thanh lương, an lạc thánh thiện.
xlviii) Lại bốn loại người khác: Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tự lợi, không hành lợi tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành lợi tha, không hành tự lợi. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người, không hành tự lợi và không hành lợi tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tự lợi và hành lợi tha".
xlix) Lại bốn loại người khác: Sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối, sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng, sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối, sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng.
Này các Hiền giả, bốn Pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
II
iii) Năm dục công đức: Sắc do nhãn nhận thức. Sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Tiếng do tai nhận thức... Hương do mũi nhận thức... Vị do lưỡi nhận thức... Xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
vii) Năm hạ phần kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân.
viii) Năm thượng phần kiết sử: Sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử, vô minh.
xii) Năm sự thành tựu: Thân thuộc thành tựu, tài sản thành tựu, vô bệnh thành tựu, giới thành tựu, kiến thành tựu. Này các Hiền giả, không có loài hữu tình nào, vì thân thuộc thành tựu, vì tài sản thành tựu hay vì vô bệnh thành tựu, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, đời này. Này các Hiền giả, có các loài hữu tình, vì giới thành tựu hay vì kiến thành tựu được sanh lên thiện thú, Thiên giới, đời này.
xiii) Năm điều nguy hiểm của người ác giới, phạm giới: Này các Hiền giả, người ác giới, vì phạm giới luật, do phóng dật thiệt hại nhiều tài sản. Đó là điều nguy hiểm thứ nhất của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, với người ác giới, phạm ác giới, tiếng xấu đồn khắp. Đó là điều nguy hiểm thứ hai của người ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, với người ác giới, phạm ác giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát-đế-lỵ, hội chúng Bà-la-môn, hội chúng Cư sĩ hay hội chúng Sa-môn, người ấy vào một cách sợ sệt và dao động. Đó là điều nguy hiểm thứ ba của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, người ác giới, phạm ác giới, khi mệnh chung, chết một cách mê loạn. Đó là điều nguy hiểm thứ tư của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, người ác giới, phạm ác giới, khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm của người ác giới, phạm ác giới.
xiv) Năm điều lợi ích của người đủ giới, giữ giới: Này các Hiền giả, ở đây người đủ giới, giữ giới, nhờ không phóng dật nên được tài sản sung túc. Đó là điều lợi ích thứ nhất cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới được tiếng tốt đồn khắp. Đó là điều lợi ích thứ hai cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, với người đủ giới, giữ giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát-đế-lỵ, hội chúng Bà la môn, hội chúng Cư sĩ, hội chúng Sa-môn, vị ấy vào một cách đàng hoàng, không dao động. Đó là điều lợi ích thứ ba cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới khi mệnh chung chết một cách không sợ sệt và không dao động. Đó là điều lợi ích thứ tư cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là điều lợi ích thứ năm cho người đủ giới, giữ giới.
xvi) Năm cần chi: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai - "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy thiểu bệnh, thiểu não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình hợp với sự tinh tấn. Vị ấy không lường đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chơn đối với bậc Đạo sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng Phạm hạnh. Vị ấy sống siêng năng, tinh tấn, từ bỏ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì nỗ lực, không tránh né đối với các thiện pháp. Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sự sanh diệt của các pháp, thành tựu Thánh quyết trạch, đưa đến sự đoạn diệt chơn chánh các khổ đau.
xvii) Năm tịnh cư: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên.
xviii) Năm bất hoàn: Trung gian Bát Niết-bàn, Sanh Bát Niết-bàn, Vô hành Bát Niết-bàn, Hữu hành Bát Niết-bàn, Thượng lưu thú A-ca-ni-sá.
xix) Năm tâm hoang vu: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Đạo sư. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo nào nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Đạo sư, vị Tỷ-kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy gọi là tâm hoang vu thứ nhất. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ-kheo nghi ngờ đối với Pháp... đối với Tăng... đối với học Pháp... tức giận đối với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu. Này các Hiền giả, khi một vị Tỷ-kheo tức giận đối với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu, vị Tỷ-kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy gọi là tâm hoang vu thứ năm.
xxi) Năm căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.
xxii) Lại năm căn khác: Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.
xxiii) Lại năm căn khác: Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
xxiv) Năm xuất ly giới: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo, có tác ý đối với dục vọng, tâm không hướng nhập dục vọng, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi dục vọng. Khi vị này có tác ý đối với ly dục, tâm hướng nhập ly dục, tín lạc, an trú và bị chị phối bởi ly dục, tâm của vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các dục lạc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên, các dục lạc, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với các dục vọng. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo có tác ý đối với sân hận, tâm không hướng nhập sân hận, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi sân hận. Khi vị này có tác ý đối với vô sân, tâm hướng nhập vô sân, có tín lạc, có an trú, có bị chi phối bởi vô sân, tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với vô sân. Và các lậu hoặc, các tổn hoại, các nhiệt não khởi lên do duyên với sân, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với sân hận. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ-kheo, có tác ý đối với hại tâm, tâm không hướng nhập hại tâm, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi hại tâm. Khi vị này có tác ý đối với ly hại tâm, tâm hướng nhập ly hại tâm, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi ly hại tâm. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ hại tâm. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với hại tâm, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với hại tâm. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo, có tác ý đối với sắc, tâm không hướng nhập vào sắc, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi sắc. Khi vị này có tác ý đối với vô sắc, tâm hướng nhập vô sắc, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi vô sắc. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với sắc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với sắc, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với sắc. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo có tác ý đối với tự thân, tâm không hướng nhập tự thân, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi tự thân. Khi vị này có tác ý đối với thân diệt, tâm hướng nhập thân diệt, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi thân diệt. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ thân diệt. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với tự thân, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với tự thân.
xxv) Năm giải thoát xứ: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo, khi nghe bậc Đạo sư, hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo nghe bậc Đạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, vị ấy, đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu cả văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý và hiểu cả văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ nhất.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo không nghe bậc Đạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp. Như vị ấy, theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, vị ấy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ sanh. Nhờ hỷ sanh, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ hai. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ-kheo, không được nghe bậc Đạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Vị ấy theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng, do vậy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú. Do hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ ba. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo, không nghe bậc Đạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Vị ấy, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy nên đối với pháp ấy hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ tư. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo, không nghe bậc Đạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy, vị Tỷ-kheo đã khéo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo tùy theo khéo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ, nên đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú, nên khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ năm.
xxvi) Năm giải thoát thành thục tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trong vô thường, vô ngã tưởng trong khổ, đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng.
Này các Hiền giả, năm pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người.
iii) Sáu thức thân: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
vii) Sáu tư thân: Sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư.
viii) Sáu ái thân: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái.
xii) Sáu suy tư đến ưu: Khi mắt thấy sắc, ưu khởi lên, sắc ấy được suy tư... như trên... khi ý nhận pháp, ưu khởi lên, pháp ấy được suy tư.
xiii) Sáu suy tư đến xả: Khi mắt thấy sắc, xả khởi lên, sắc ấy được suy tư... Khi tai nghe tiếng... Khi mũi ngửi hương... Khi lưỡi nếm vị... Khi thân chạm xúc... Khi ý nhận pháp, xả khởi lên, pháp ấy được suy tư.
xiv) Sáu hòa kính pháp: Này các Hiền giả, ở đây khi vị Tỷ-kheo thành tựu từ thân nghiệp, trước mặt hay sau lưng đối với các vị đồng Phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa khi vị Tỷ-kheo thành tựu từ khẩu nghiệp trước mặt hay sau lưng... từ ý nghiệp trước mặt hay sau lưng, đối với các vị đồng Phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo, đối với các đồ vật được cúng dường một cách hợp pháp cho đến đồ vật nhận trong bình bát, đều đem chia đồng đều giữa các vị Tỷ-kheo có giới hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo, khi những giới luật của vị này không bị phá hoại, không vi phạm, được kiên trì tuân hành, không có tỳ vết, làm con người được giải thoát, được người trí tán thán, không uế tạp, hướng đến Thiền định, vị Tỷ-kheo ấy giữ giới hạnh Sa-môn như vậy, sống trước mặt hay sau lưng với các vị đồng Phạm hạnh như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo sống đời sống được Chánh kiến hướng dẫn, chơn chánh, đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu với Chánh kiến như vậy, sống với các vị đồng Phạm hạnh, trước mặt hay sau lưng, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.
xvi) Sáu giới: Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
xvii) Sáu xuất ly giới: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy sân tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà sân tâm vẫn ngự trị, an trú, sự kiện không thể xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, từ tâm giải thoát có khả năng giải thoát sân tâm. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy hại tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà hại tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, bi tâm giải thoát có khả năng giải thoát hại tâm. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, bất lạc tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, hỷ tâm giải thoát có khả năng giải thoát bất lạc tâm. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy tham tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần mà tham tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, xả tâm giải thoát, có khả năng giải thoát tham tâm. Này các Hiền giả, lại nữa ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy thức của tôi vẫn chạy theo các tướng". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện không xảy ra như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, vô tướng tâm giải thoát có khả năng giải thoát tất cả tướng. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau: "Quan điểm "tôi có mặt" bị tôi từ khước. Quan điểm "tôi là cái này" không được tôi chấp nhận. Tuy vậy mũi tên nghi ngờ do dự vẫn ám ảnh an trú tôi". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. "Quan điểm "tôi có mặt" bị tôi từ khước. Quan điểm "tôi là cái này" không được tôi chấp thuận. Tuy vậy nghi ngờ, do dự vẫn ám ảnh an trú nơi tôi". Sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, chính nhờ khước từ sự ngạo mạn "tôi có mặt", mà mũi tên do dự nghi ngờ được giải thoát.
xviii) Sáu vô thượng: Kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi đắc vô thượng, học giới vô thượng, hành vô thượng, ức niệm vô thượng.
xix) Sáu Niệm xứ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.
xxi) Sáu sanh loại: Này các Hiền giả, ở đây có người hắc sanh và sống tạo hắc pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có người hắc sanh và sống tạo bạch pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có người hắc sanh và sống tạo Niết-bàn, phi hắc phi bạch pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo bạch pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo hắc pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo Niết-bàn, phi hắc phi bạch pháp.
xxii) Sáu quyết trạch phần tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng.
Này các Hiền giả, sáu pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc... vị lợi ích, vì hành phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
iii) Bảy định cụ: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm.
vii) Bảy thù diệu sự: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp và khát vọng hành trì học pháp trong tương lai; tha thiết quán pháp và khát vọng quán pháp trong tương lai; tha thiết điều phục các dục vọng và khát vọng điều phục các dục vọng trong tương lai; tha thiết sống an tịnh và khát vọng sống an tịnh trong tương lai; tha thiết sống tinh tấn và khát vọng sống tinh tấn trong tương lai; tha thiết quán sát tự niệm và khát vọng quán sát tự niệm trong tương lai; tha thiết với kiến giải và khát vọng hiểu biết sở kiến trong tương lai.
viii) Bảy tưởng: Vô thường tưởng, vô ngã tưởng, bất tịnh tưởng, hoạn nạn tưởng, đoạn tưởng, ly tham tưởng, diệt tưởng.
xii) Bảy tùy miên: Dục ái tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên.
xiii) Bảy kiết sử: Ái kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử.
xiv) Bảy diệt tránh pháp: Có khả năng đình chỉ, trừ diệt các tránh pháp đang khởi lên: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni, ưng dữ ức niệm tỳ ni, ưng dữ bất si tỳ ni, ưng dữ tự ngôn trị, đa mích tội tướng, đa nhơn mích tội, như thảo phú địa.
Này các Hiền giả, bảy pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
III
iii) Tám người đáng cung kính: Hạng Dự lưu, hạng đã thành tựu và chứng Dự lưu quả; hạng Nhất lai, hạng đã thành tựu và chứng Nhất lai quả; hạng Bất lai, hạng đã thành tựu và chứng Bất lai quả; hạng A-la-hán và hạng đã thành tựu A-la-hán quả.
vii) Tám thí sanh: Này các Hiền giả, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được bố thí trở lại. Người này thấy người Sát-đế-lỵ có nhiều tài sản, người Bà la môn có nhiều tài sản, hay người Gia chủ có nhiều tài sản, được sung mãn, cụ túc, thụ hưởng năm món dục lạc. Vị này nghĩ: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh là một trong những người Sát-đế-lỵ có nhiều tài sản, người Bà-la-môn có nhiều tài sản hay người Gia chủ có nhiều tài sản". Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: "Tứ Đại Thiên vương thọ mạng lâu dài, đẹp trai và nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng Tứ Đại Thiên vương". Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.
Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: "Chư Thiên Tam thập tam thiên... chư Thiên Dạ ma... chư Thiên Đâu suất... chư Thiên Hóa Lạc... chư Thiên Tha Hóa Tự tại được sống lâu, đẹp trai, được nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng chư Thiên Tha Hóa Tự tại". Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thì cho Sa-môn hay Bà-la-môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: "Chư Thiên Phạm Chúng thọ mạng lâu dài, đẹp trai và nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng Phạm Chúng Thiên". Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận đây là… trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.
viii) Tám chúng: Chúng Sát-đế-lỵ, chúng Bà-la-môn, chúng Gia chủ, chúng Sa-môn, chúng Tứ Đại Thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng (Thiên) Ma, chúng Phạm thiên.
Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ hai.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ ba.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tư.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ năm.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như bông kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như lụa Ba la nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ sáu.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như bông bandhujĩvaka màu đỏ. Sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như lụa Ba la nại cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ bảy.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như sao mai osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, như lụa Ba la nại cả hai mặt láng trớn màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám.
Tự mình có sắc, thấy các sắc; đó là giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; đó là giải thoát thứ hai.
Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng; đó là giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư "Hư không là vô biên" chứng và trú Không vô biên xứ; đó là giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Hư không vô biên xứ, với suy tư "Thức là vô biên" chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư "không có vật gì" chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát thứ tám.
Này các Hiền giả, tám pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
iii) Chín chỗ an trú của loài hữu tình: Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên, một số ở tại các đọa xứ. Đó là hữu tình trú xứ thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng đồng nhất, như Phạm Chúng Thiên khi mới tái sanh. Đó là hữu tình trú xứ thứ hai. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng sai biệt như chư Quang Âm Thiên. Đó là hữu tình trú xứ thứ ba. Này các Hiền giả, có loài hữu tình trú xứ thứ ba. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng đồng nhất như chư Tịnh Cư Thiên. Đó là hữu tình trú xứ thứ tư. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình không có tưởng, không có thọ, như chư Vô Tưởng Thiên. Đó là hữu tình trú xứ thứ năm. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi sắc tưởng một cách hoàn toàn, diệt trừ các sân tưởng, không có tác ý sai biệt tưởng, chứng được Hư không vô biên xứ: "Hư không là vô biên". Đó là hữu tình trú xứ thứ sáu. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Thức vô biên xứ: "Thức là vô biên". Đó là hữu tình trú xứ thứ bảy. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Vô sở hữu xứ: "Không có gì tất cả". Đó là hữu tình trú xứ thứ tám. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là hữu tình trú xứ thứ chín.
Này các Hiền giả, chín pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
iii) Mười bất thiện nghiệp đạo: Sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham, sân, tà kiến.
Này các Hiền giả, mười pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để Phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu dài, vì hạnh phúc cho mọi loài, vì an lạc cho mọi loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
- Lành thay, lành thay Sàriputta! Này Sàriputta, Ngươi đã khéo giảng, khéo tụng kinh này cho chúng Tỷ-kheo.
Tôn giả Sàriputta thuyết giảng như vậy. Bậc Đạo sư chấp thuận. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Tôn giả Sàriputta.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________
>>> 32.Kinh A-sá-nang-chi
Kệ Khai Kinh
Phật Pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
Như vậy tôi nghe: Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị cùng ở chung, đều là bậc đại A La Hán, mọi người đều biết đến.
Đó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-Lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà, và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn..v..v.. vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.
Bấy giờ đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất: "Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở đó.
Này Xá-lợi-phất! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực Lạc.
Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẩn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực Lạc.
Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sức.
Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng có ánh sánh trắng, thơm ngát vi diệu.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trổi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm, thường dùng đãy y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình, ăn cơm, kinh hành.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này nữa Xá-lợi-phất, cõi nước kia thường có các loài chim mầu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng. Những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng năm căn, năm lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo phần. Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng! Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho rằng chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi lại có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như thế.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Đà. Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn đều là bực đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được, các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế.
Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bực A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được những điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được ở cùng một chỗ với các bậc Thượng thiện nhơn. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu.
Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bẩy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Này Xá-lợi-phất. ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sinh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia.
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Tu Di Sơn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm" này.
Này Xá-lợi-phất, ý của ông nghĩ sao? Tại sao gọi là "Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm"? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.
Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầy: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này.
Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó!
Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la... ở thế gian nghePhật nói rồi đều hoan hỉ tin nhận, lễ Phật mà lui ra.
Chấm dứt Kinh Phật Thuyết A Di Đà
Chú Trừ Tất Cả Nghiệp Chướng Vãng Sanh Tịnh Độ:
Nam mô a di đa bà dạ
Đa tha dà đa dạ
Đa địa dạ tha
A di rị đô bà tì
A di rị đa tất đam bà tì
A di rị đa tì ca lan đế
A di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị dà dà na
Chỉ đa ca lệ
Ta bà ha (3 lần)
Kệ Tán Phật A Di Đà
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
Nam Mô A Di Đà Phật (niệm liên tục)
(ÀTANATIYA-SUTTANTA)
Như vậy tôi nghe.
- Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Đối với họ, Pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Atànàtiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để học được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tai họa.
Thế Tôn im lặng chấp thuận.
Đảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi),
Sáng suốt và huy hoàng!
Đảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí)
Có lòng thương muôn loài!
Đảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà),
Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
Đảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn),
Vị nhiếp phục ma quân!
Đảnh lễ Konàgamana, (Câu-na-hàm)
Bà-la-môn viên mãn!
Đảnh lễ Kassapa (Ca-diếp),
Vị giải thoát muôn mặt!
Đảnh lễ Angirasa,
Vị Thích tử huy hoàng,
Đã thuyết chơn diệu pháp,
Diệt trừ mọi khổ đau!
Ai yểm ly thế giới,
Nhìn đời đúng như chơn,
Vị ấy không hai lưỡi,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
Cùng đảnh lễ Gotama,
Lo an lạc Nhơn Thiên
Trì giới đức viên mãn!
Bậc vĩ đại thanh thoát!
Vầng thái dương tròn lớn,
Khi mặt trời mọc lên,
Đêm tối liền biến mất.
Khi mặt trời mọc lên
Liền được gọi là ngày.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu.
Ở đấy mọi người biết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy
Là phương Purimà, (phương Đông).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chư loài Càn-thát-bà,
Danh gọi Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương).
Càn-thát-bà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ Chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Đảnh lễ bậc Siêu Nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm nhìn chúng con,
Phi nhơn cũng lễ Ngài".
Đã nhiều lần, nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy,
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn".
Nói hai lưỡi, sau lưng,
Sát sanh và tham đắm,
Đạo tặc và man trá,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Dakkhinà (phương Nam).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng,
Chủ loài Kumbhanda (Cưu-bàn-trà)
Danh gọi Virùlha (Tỳ-lâu-lặc).
Kumbhanda hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên,
Tám mươi và mười một,
Đại lực, danh Inda.
Họ Chiêm ngưỡng Thế Tôn
Thuộc giòng họ mặt trời,
Từ xa, họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Đảnh lễ bậc Thượng nhơn!
Thiện tâm, nhìn chúng con
Phi nhơn cũng lễ Ngài".
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
"Quý vị xin đảnh lễ
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí đức viên mãn!"
Vầng thái dương tròn lớn.
Khi mặt trời lặn xuống.
Ban ngày liền biến mất.
Khi mặt trời lặn xuống,
Liền được gọi là đêm.
Biển cả hải triều động,
Như hồ nước thâm sâu,
Ở đây mọi người hết,
Chính biển cả hải triều,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Pacchimà (phương Tây).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương, danh xưng.
Chủ các loài Nàgà,
Danh Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
Loài Nàgà hầu quanh,
Hưởng múa hát của họ.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên.
Tám mươi và mười một
Đại lực, danh Inda.
Họ Chiêm ngưỡng Thế Tôn.
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Đảnh lễ bậc Siêu nhân!
Đảnh lễ bậc Thượng nhân!
Thiện tâm, nhìn chúng con,
Phi nhân cũng lễ Ngài".
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
"Quý vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc trí đức viên mãn."
Đại Neru (Tu-di) đẹp đẽ.
Tại đấy, mọi người sống
Không sở hữu, chấp trước.
Họ không gieo hột giống,
Không cần phải kéo cày.
Loài Người được thọ hưởng
Lúa chín khỏi nhọc công.
Loại gạo không cám trấu,
Thanh tịnh có hương thơm,
Được nấu chín trên đá,
Và họ ăn gạo ấy.
Chỉ cỡi loài bò cái,
Đi phương này phương khác.
Chỉ dùng các loài thú
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn bà kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe đàn ông kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con gái kéo,
Đi phương này phương khác.
Dùng xe con trai kéo,
Đi phương này phương khác.
Họ lên trên các xe,
Đi khắp mọi phương hướng,
Để phục vụ vua mình.
Họ cỡi xe voi kéo,
Xe ngựa, xe chư Thiên,
Đối với vua danh xưng,
Có lâu đài, có kiệu,
Nhiều thành phố của vua,
Được xây giữa hư không.
Các thành Àtannata,
Kusinata, Parakusinàtà, Nàttapuriyà, Parakusitannàtà
Kapivanta thuộc phía Bắc,
Và các thành phố khác,
Như Janogha, Navanavatiya,
Ambara, Ambaravatiya,
Àlakamandà,
Là kinh đô của vua,
Chỗ Kuvera ở.
Vị vua đáng kính này,
Kinh đô tên Visànà.
Do vậy Kuvera,
Được danh Vessavana.
Các sứ quán được tên:
Tatolà, Tattalà, Tatotalà,
Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
Vua Sùra, Arittha, Nemi.
Đây có vùng nước lớn,
Từ đây mưa đổ xuống,
Được tên Dharani.
Tại đây mưa đổ xuống,
Được tên Dharani.
Tại đây có giảng đường,
Tên Bhagalavati,
Chỗ Dạ-xoa tập hội.
Tại đây nhiều cây trái,
Trên cây chim tụ họp,
Các loại công, loại cò,
Diệu âm chim Kokilà,
Ở đây, chim Jiva,
Kêu tiếng "Hãy sống đi",
Và tiếng chim kêu lên,
"Hãy khởi tâm thích thú".
Nhiều loại chim sai khác,
Ở rừng và ở hồ,
Với con vẹt ồn ào,
Và con chim Myna,
Các loại chim thần thoại,
Gọi là Dandamànavakà.
Hồ sen Kuvera,
Chiếu sáng tất cả trời,
Dân chúng gọi phương ấy,
Là phương Uttarà (phương Bắc).
Vị trị vì phương ấy,
Bậc đại vương danh xưng,
Chủ các loài Dạ-xoa,
Được gọi Kuvera.
Các Dạ-xoa hầu quanh,
Hưởng múa hát của chúng.
Vua này có nhiều con,
Ta nghe chỉ một tên.
Tám mươi và mười một
Đại lực danh Inda.
Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Thuộc giòng họ mặt trời.
Từ xa họ lễ Phật,
Bậc vĩ đại thanh thoát.
"Đảnh lễ bậc Siêu nhân,
Đảnh lễ bậc Thượng nhân,
Thiện tâm nhìn chúng con.
Phi nhân cũng lễ Ngài".
Đã nhiều lần nghe hỏi,
Nên đảnh lễ như vậy:
"Các vị xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Chúng con xin đảnh lễ,
Gotama chiến thắng!
Đảnh lễ Gotama,
Bậc Trí đức viên mãn!"
Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Àtanatiya này một cách chính chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà... hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)... hoặc Nàga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.
Inda, Soma, và Varuna,
Bhàradvaja, Pajàpati,
Candana, Kàmasettha,
Kinnughandu, Nighandu,
Panàda và Opamanna,
Devanita và Màtali,
Cittasena và Gandhabba.
Vua Nala, Janesabha,
Sàtàgira Hemavata,
Punnaka, Karatiya, Gula,
Sivakat và Mucalinda
Vessàmitta, Yugandhara,
Gopàla và Suppagedha,
Hirì, Settì và Mandiya,
Pancàla Canda, Àlavaka,
Pajjunna, Sumana, Sumukha,
Dadhimukha Mani Mànicara, Dìgha,
Atha và Serissaka.
Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, van lên: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".
Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.
- Đại vương, Đại vương hãy làm điều gì Đại vương nghĩ là phải thời.
Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.
Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.
- Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa:
"Đảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi) sáng suốt và huy hoàng;
Đảnh lễ đấng Sikhi, (Thi-khí) có lòng thương muôn loài...
Này Tôn giả, đó là Hộ Kinh Àtànàtiyà... như trên... rồi biến mất".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ thọ trì lời dạy Thế Tôn.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________________
>>> 31.Kinh giáo thọ Thi-ca-la-việt
1. Kỳ Viên đại hội.
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.
2. Y báo, Chánh báo.
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
3. Y báo trang nghiêm
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.
Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
4. Chánh báo vô lượng thù thắng.
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.
5. Nhơn sanh vãng lai
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
6. Sáu phương Phật đồng khuyên tin
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
7. Thuyết kinh rất khó
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Đà.
Thích Nghĩa:
1. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Đà Phật.
2. Triều Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
3. Ông Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
4. A-Dật-Đa là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bất-Hưu-Tức Bồ Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..
[6]. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.
6.1 Khổ ở cõi Ta Bà
Tam Khổ:
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..
2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.
3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát Khổ:
1. Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc.
3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
4. Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.
5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong.
6. Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
7. Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.
6.2 Vui ở Cực Lạc
Tam Lạc:
1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...
2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...
3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...
Bát lạc:
1. Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..
2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...
3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...
4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...
5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên...
6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..
7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..
8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..
Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc.
7. Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
9. Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10. Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. — trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
11. Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là a Di Đà.
12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát ..phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
14. Người tu Tịnh Độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].
Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.
15. Ngũ Trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).
(SINGÀLOVÀDA-SUTTANTA)
Như vậy tôi nghe.
- Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng?
- Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con: "Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng". Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng.
- Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.
- Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!
- Này Gia chủ tử, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Singàlaka, Gia chủ tử vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
Thế nào là bốn nghiệp phiền não đã được diệt trừ? Này Gia chủ tử, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo. Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Sát sanh và trộm cắp,
Nói láo, lấy vợ người,
Kẻ trí không tán thán,
Những hạnh nghiệp như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Ai phản lại Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh bị sứt mẻ
Như mặt trăng đêm khuyết.
Ai không phản Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh được tròn đủ,
Như mặt trăng đêm đầy.
Có bạn gọi bạn rượu,
Có bạn, bạn bằng mồm,
Bạn lúc thật hữu sự,
Mới xứng danh bạn bè.
Ngủ ngày, thông vợ người,
Ưa đấu tranh, làm hại,
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Ác hữu, ác bạn lữ,
Ác hạnh, hành ác xứ,
Đời này cả đời sau,
Hai đời, người bị hại.
Cờ bạc và đàn bà,
Rượu chè, múa và hát
Ngủ ngày, đi phi thời
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Chơi xúc xắc, uống rượu
Theo đuổi đàn bà người,
Lẽ sống của người khác,
Thân cận kẻ hạ tiện,
Không thân cận bậc trí,
Người ấy tự héo mòn,
Như trăng trong mùa khuyết.
Rượu chè không tiền của,
Khao khát, tìm tửu điếm,
Bị chìm trong nợ nần,
Như chìm trong bồn nước,
Mau chóng tự hại mình,
Như kẻ mất gia đình.
Ai quen thói ngủ ngày,
Thức trọn suốt đêm trường,
Luôn luôn say sướt mướt,
Không thể sống gia đình.
Ở đây ai hay than:
Ôi quá lạnh, quá nóng,
Quá chiều, quá trễ giờ,
Sẽ bỏ bê công việc.
Lợi ích, điều tốt lành,
Bị trôi dạt một bên.
Ai xem lạnh và nóng,
Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
Làm mọi công chuyện mình,
Hạnh phúc không từ bỏ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Người bạn gì cũng lấy,
Người bạn chỉ nói giỏi,
Người nói lời nịnh hót,
Người tiêu pha xa xỉ.
Cả bốn, không phải bạn,
Biết vậy, người trí tránh,
Như đường đầy sợ hãi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
Bạn chung thủy khổ vui,
Bạn khuyến kích lợi ích,
Bạn có lòng thương tưởng.
Biết rõ bốn bạn này,
Người trí phục vụ họ,
Như mẹ đối con ruột.
Người trí giữ giới luật,
Sáng như lửa đồi cao.
Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao,
Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Để kết hợp bạn bè:
Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.
Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Cha mẹ là phương Đông,
Sư trưởng là phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc,
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ vì gia đình,
Đảnh lễ phương hướng ấy.
Kẻ trí giữ Giới, Luật,
Từ tốn và biện tài,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác,
Bất động giữa hiểm nguy,
Người hiền, không phạm giới,
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
Từ ái, tâm bao dung,
Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành bất cứ ai,
Đồng sự trong mọi việc,
Theo trường hợp xử sự.
Chính những nhiếp sự này,
Khiến thế giới xoay quanh,
Như bánh xe quay lăn,
Vòng theo trục xe chính.
Nhiếp sự này vắng mặt,
Không có mẹ hưởng thọ,
Hay không cha hưởng thọ,
Sự hiếu kính của con.
Do vậy bậc có trí,
Đối với nhiếp pháp này,
Như quán sát chấp trì,
Nhờ vậy thành vĩ đại,
Được tán thán, danh xưng.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________________
>>> 30. Kinh tướng
KINH TẠP A-HÀM
Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La
Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ
Nhà xuât bản Phương Đông
KINH 17. PHI NGÃ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai bên phải, chắp tay bạch Đức Phật rằng:
“Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung. Khi tu tập không buông lung con sẽ tư duy về lý do mà một thiện nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có lòng tin, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỉ vì để ngay trong đời này chứng nghiệm cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo kia:
“Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo, đã khéo nói những lời này: ‘Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung… cho đến, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngươi đã nói như vậy phải chăng?”
Tỳ-kheo bạch Phật:
“Đúng vậy, bạch Thế Tôn.”
Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lắng nghe, lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.
“Này Tỳ-kheo, pháp nào không thích ứng đối với ngươi thì nên nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an vui lâu dài.”
Tỳ-kheo kia bạch Phật rằng:
“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ!”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Đối với những pháp đã được nói tóm tắt, ngươi hiểu rộng ý như thế nào?”
Tỳ-kheo bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, sắc chẳng phải là thích ứng đối với con, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thích ứng đối với con, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an vui lâu dài. Cho nên, bạch Thế Tôn, đối với pháp mà Thế Tôn đã nói tóm tắt con đã hiểu rộng nghĩa của nó như vậy.”
Đức Phật dạy:
“Lành thay! Lành thay! Này Tỳ-kheo, đối với những pháp đã được nói tóm tắt của Ta, ông đã hiểu nghĩa rộng của nó. Vì sao? Vì sắc chẳng phải là thích ứng đối với ông, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thích ứng đối với ông, nên cần phải nhanh chóng đoạn trừ. Đoạn trừ pháp này để được lợi, được ích, được an vui lâu dài.”
Sau khi vị Tỳ-kheo kia nghe những lời dạy của Phật, tâm rất vui mừng, lạy Phật rồi lui; một mình ở chỗ vắng, siêng năng tu tập, sống không buông lung. Sau khi siêng năng tu tập, sống không buông lung, thầy tư duy về lý do mà một thiện nam tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, có lòng tin, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỉ vì để ngay trong đời này chứng nghiệm cứu cánh phạm hạnh vô thượng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’
Bấy giờ, vị Tỳ-kheo kia thành bậc A-la-hán, tâm được giải thoát.
(Trích từ Q1. Kinh Tạp A Hàm: http://thuvienhoasen.org/p16a11438/4/tap-a-ham-quyen-1 )
Kinh liên quan:
Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ (Nguyên Giác)
(LAKKHANA-SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
I
- "Bạch Thế Tôn", các vị Tỷ-kheo đáp lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
- Này các Tỷ-kheo, những ai có đầy đủ ba mươi hai tướng Đại Trượng phu này, những vị ấy sẽ chọn hai con đường này thôi, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia sẽ làm vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, Gia chủ báu và thứ bảy là Tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn Thái tử, những bậc anh hùng, chiến thắng, thân thể dõng kiện, nhiếp phục địch quân. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với Chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này, từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời.
Này các Tỷ-kheo, vị này có lòng bàn chân bằng phẳng. Tướng này được xem là tướng tốt của bậc Đại nhân.
Này các Tỷ-kheo, dưới hai bàn chân của vị này có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe với trục xe vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ. Tướng này được xem là tướng của bậc Đại nhân.
Này các Tỷ-kheo, vị này có gót chân thon dài...
Vị này có ngón tay, ngón chân dài.
Vị này có tay chân mềm mại.
Vị này tay chân có màn da lưới.
Vị này có mắt cá tròn như con sò.
Vị này có ống chân như con dê rừng.
Vị này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể sờ đầu gối với hai bàn tay.
Vị này có tướng mã âm tàng.
Vị này có màu da đồng, màu sắc như vàng.
Vị này có da trơn mướt, khiến bụi không thể bám dính vào.
Vị này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông.
Vị này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt.
Vị này có thân hình cao thẳng.
Vị này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim Ca-lăng-tần-già.
Vị này có hai mắt màu xanh đậm.
Vị này có lông mi con bò cái.
Vị này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ.
Vị này có nhục kế trên đầu. Này các Tỷ-kheo, vị này có nhục kế trên đầu. Tướng này được xem là tướng tốt của bậc Đại nhân.
Vị này có nửa thân trước như thân con sư tử.
Vị này không có lõm khuyết xuống giữa hai vai.
Vị này có thân thể cân đối như cây bàng. Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
Vị này có bán thân trên vuông tròn.
Vị này có quai hàm như con sư tử.
Vị này có bốn mươi cái răng.
Vị này có răng đều đặn.
Vị này có răng không khuyết hở.
Vị này có răng cửa trơn láng.
Vị này có tướng lưỡi rộng dài.
Thế Tôn thuyết nghĩa như vậy.
Sống chân thực đúng Pháp,
Điều phục và tự chế,
Sống với hạnh thanh tịnh,
Ngày trai giới, Bố tát.
Bố thí, không bạo động,
Không làm hại một ai,
Tâm kiên cố hành trì,
Sống thật sự toàn diện.
Với hạnh nghiệp như vậy,
Ngài được sanh cõi Trời,
Sống trong niềm hoan hỷ,
An lạc vô cùng tận.
Từ chỗ kia mạng chung,
Tái sanh lại chỗ này,
Với bàn chân bằng phẳng,
Chạm đất thật đều đặn.
Các bậc chiêm tướng gia,
Hội họp và tuyên bố,
Không ai làm trở ngại,
Vị bàn chân bằng phẳng.
Dầu tại gia, xuất gia.
Nghĩa tướng thật rõ ràng,
Nếu sống tại gia đình,
Không bị trở ngại gì,
Chiến thắng mọi quân thù.
Đại phá cả địch quân,
Không ai ngăn chặn được,
Vị nghiệp báo như vậy,
Nếu xuất gia ly dục,
Sống thiểu dục sáng suốt,
Là bậc Thánh siêu phàm,
Không còn phải thai sanh,
Bậc Vô Thượng, Chánh giác,
Pháp nhĩ là như vậy.
Ngài có đại chúng hầu cận, số đại chúng rất đông, gồm có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, A-tu-la, các loài Thần rắn, Càn-thát-bà. Làm Phật được như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Trong những năm đã qua,
Trong những đời quá khứ,
Khi Ngài được làm Người,
Khiến nhiều người hạnh phúc.
Ngài trừ diệt kinh hoàng,
Hộ trì và bảo vệ,
Nhờ nghiệp ấy, sanh Thiên,
Hưởng an lạc hạnh phúc.
Từ chỗ kia mạng chung,
Tái sanh lại chỗ này,
Dưới hai bàn chân Ngài,
Có bánh xe hiện ra,
Với bánh xe đầy đủ,
Đủ một ngàn tăm xe.
Các bậc chiêm tướng gia,
Hội họp và tuyên bố,
Khi thấy trăm đức này:
Được quần chúng bao vây,
Địch quân được nhiếp phục,
Như bánh xe quay tròn,
Với vành xe đầy đủ.
Nếu Ngài không xuất gia,
Sống đời sống như vậy,
Ngài chuyển vận bánh xe,
Trị vì khắp cõi đất.
Ở đây Sát-đế-lỵ,
Đều chịu thần phục Ngài,
Hầu hạ chung quanh Ngài,
Là bậc Đại danh xưng.
Nếu xuất gia ly dục,
Sống thoát dục, sáng suốt,
Chư Thiên và loài Người,
Đế thích và Dạ xoa,
Càn-thát-bà, Long xà,
Phi điểu, loài bốn chân,
Tất cả đoanh vây Ngài,
Là bậc Đại danh xưng,
Bậc Vô Thượng, Chánh giác,
Được Thiên, Nhơn cung kính.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Tự biết mình sợ hãi,
Sợ chết sợ tàn hại,
Ngài từ bỏ giết hại,
Hết mọi loài chúng sanh.
Nhờ sống hành thiện pháp,
Được sanh lên cõi Trời,
Tự hưởng quả dị thục,
Do thiện báo đem lại.
Từ chỗ kia mạng chung,
Tái sanh lại chỗ này,
Được hưởng tại nơi đây,
Ba Đại trượng phu tướng:
Gót chân đầy và dài,
Thân thẳng như Phạm thiên.
Khả ái, hình vóc đẹp,
Khéo cân xứng, khéo sanh,
Các ngón tay, ngón chân,
Đều mềm mại trẻ đẹp.
Với ba tướng Trượng phu,
Sống lâu luôn luôn trẻ.
Nếu sống tại gia đình,
Thọ mạng sẽ lâu dài.
Nếu sống đời xuất gia,
Tuổi thọ được dài thêm,
Như vậy tướng hảo này,
Là tướng tuổi trường thọ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Bố thí các món ăn,
Thượng vị hợp sở thích
Loại cứng và loại mềm,
Loại liếm cả loại nếm.
Nhờ hành thiện tốt đẹp,
Sống lâu Thiên hỷ lạc.
Được sanh tại chỗ này,
Với bảy chỗ tròn đầy.
Với tay chân mềm mại,
Nhà chiêm tướng thiện xảo,
Tuyên bố Ngài đầy đủ,
Món ăn thật ngon lành,
Loại cứng và loại mềm.
Không riêng gì tại gia,
Được tướng hảo như vậy,
Nếu sống hạnh xuất gia,
Cũng được hảo tướng ấy.
Món ăn thật thượng vị
Loại cứng và loại mềm,
Chặt đứt các trói buộc
Tất cả hàng cư sĩ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Bố thí và lợi hành,
Ái ngữ và đồng sự,
Nhiếp phục nhiều tùy tùng.
Do hành thiện pháp này,
Nhờ vô lượng công đức,
Được sanh lên cõi Trời.
Tạ thế tại chỗ kia,
Tái sanh tại chỗ này,
Do hạnh ấy tay chân,
Mềm mại và có lưới.
Được sắc tướng đoan nghiêm,
Mỹ lệ và khả ái
Dầu còn là niên thiếu,
Trẻ thơ măng sữa vậy,
Quần chúng chịu tùy thuận,
Nhiếp phục cõi đất này.
Luôn luôn dùng ái ngữ,
Cầu hạnh phúc quần sanh.
Như vậy sống thanh tịnh,
Với công đức thù thắng.
Nếu Ngài sống từ bỏ,
Mọi dục lạc tài sản,
Tuyên thuyết vi diệu pháp,
Vị chiến thắng quần sanh,
Họ nghe tâm hoan hỷ,
Vâng hành lời Ngài dạy.
Họ sống thiện hành trì,
Theo Chánh pháp, Tùy pháp.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Thuở xưa lời Ngài nói,
Thuyết giảng cho Đại chúng,
Liên hệ đến mục đích,
Liên hệ đến Chánh pháp.
Ngài là người đem lại,
Hạnh phúc cho chúng sanh,
Không xan lẫn hối tiếc,
Lễ đàn pháp và chơn.
Nhờ hành trì thiện nghiệp,
Sống hoan hỷ cõi Trời.
Tái sanh tại nơi đây,
Ngài được hai hảo tướng,
Hưởng hạnh phúc tối thượng.
Lông mọc xoay thẳng lên,
Mắt cá tròn khéo gọn,
Dưới có thịt, có da
Trên hình dáng đẹp đẽ.
Nếu Ngài sống tại gia,
Tài dục đều tối thượng.
Không ai thắng hơn Ngài.
Chinh phục Diêm-phù-đề.
Nếu hạnh Ngài xuất gia,
Tinh tấn hơn mọi người,
Ngài là bậc tối thắng,
Trong tất cả chúng sanh.
Do vậy không tìm được,
Kẻ tối thắng hơn Ngài.
Ngài sống và ngự trị,
Cùng khắp mọi thế giới.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Trong các nghề, kỹ thuật
Trong cử chỉ, hành động,
Ngài muốn làm thế nào,
Để học biết mau chóng.
Không ai bị thương hại,
Học mau, không mệt mỏi,
Do hành thiện nghiệp này,
Được quả thiện tốt đẹp.
Cân đối xoay nhẹ nhàng,
Trên da trơn mềm mại,
Lông được mọc đứng lên.
Người như vậy được gọi,
Người có chân dê rừng.
Tướng này, người ta đồn,
Khiến học hỏi mau chóng.
Nếu xuất gia ly dục,
Sống thiểu dục sáng suốt.
Mọi sự vật hợp pháp,
Ngài tuần tự chứng đắc,
Sống tinh tấn cao thượng,
Quả chứng thật mau chóng.
Làm Phật được những gì? Được đại trí tuệ, quảng trí tuệ, hỷ tâm trí tuệ, mẫn tiệp trí tuệ, thông nhuệ trí tuệ, yểm ly trí tuệ, không có ai bằng Ngài về trí tuệ hay không có chúng sanh nào hơn Ngài. Làm Phật Ngài được như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Trong những ngày quá khứ,
Ngài tha thiết muốn biết,
Ngài tha thiết muốn hỏi,
Yết kiến vị xuất gia,
Khéo nghe và học hỏi.
Chính nhờ hạnh nghiệp ấy,
Ngài chứng được trí tuệ.
Và sanh vào loài Người,
Ngài được da mịn màng.
Các vị chiêm tướng gia,
Hội họp và tuyên bố,
Vị này biết và thấy,
Mọi ý nghĩa tế nhị.
Nếu hạnh không xuất gia,
Sống hành trì như vậy,
Ngài là vị Chuyển luân,
Ngự trị cõi đất này.
Những vị nắm được nghĩa,
Không ai hơn bằng Ngài.
Nếu xuất gia ly dục,
Sống thoát tục sáng suốt;
Chứng được đạo Bồ-đề,
Tuệ tối hảo vô thượng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Cương quyết không sân hận,
Ngài sẵn sàng bố thí,
Các loại vải mềm mại,
Các đồ đắp mềm mại.
Trong những đời sống trước,
Ngài cương quyết phân phát,
Như thần mưa tung vải,
Mây móc trên đất liền.
Nhờ hạnh nghiệp như vậy,
Từ trần tại chỗ kia,
Được sanh lên cõi Trời,
Hưởng quả báo thiện hạnh.
Tận hưởng thiện báo xong,
Ngài sanh tại nơi đây,
Với thân màu hoàng kim,
Sáng chói như vàng ròng,
Mỹ lệ hùng tráng hơn,
Chẳng khác gì Đế-thích.
Nếu không muốn xuất gia,
Ngài trị vì đất này,
Nhờ sức mạnh quá khứ,
Ngài được thật đầy đủ,
Mềm mại và tế nhị,
Đồ che đắp mang mặc.
Nếu Ngài sống đời sống,
Xuất gia, không gia đình,
Kiên trì Ngài tận hưởng,
Quả báo nghiệp quá khứ,
Những điều Ngài đã làm,
Không bao giờ vô hiệu.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Thuở xưa trong quá khứ,
Trong nhiều đời tiền thân,
Ngài khiến cho sum họp,
Bà con, bạn, thân tín.
Đã đau khổ lâu ngày,
Đã phiêu bạt lâu ngày,
Ngài khiến họ hòa hợp,
Sống hoan hỷ với nhau.
Hạnh này Ngài sanh Thiên,
Hưởng hạnh phúc hỷ lạc,
Chết kia, sanh chỗ này,
Ngài được mã âm tàng.
Ngài có rất nhiều con,
Hơn đến số ngàn vị,
Là những bậc anh hùng,
Chiến thắng nhiếp địch quân,
Đón chào lời hiếu kính,
Khiến tại gia hoan hỷ.
Nếu xuất gia tu đạo,
Uy lực thắng hơn nhiều.
Số con có nhiều hơn,
Biết vâng lời chỉ giáo.
Dầu tại gia, xuất gia,
Hảo tướng thật rõ ràng.
II
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Cân nhắc, tìm, suy tư,
Ngài quán sát Đại chúng,
Ở chỗ này chỗ kia,
Người này xứng thế này.
Hành động Ngài tương xứng,
Sự sai biệt loài Người.
Đứng thẳng không cong lưng,
Hai tay sờ đầu gối,
Thân như cây tròn cao,
Là thiện báo đặc biệt.
Bậc thiện xảo siêu nhân,
Đều tuyên bố như sau:
Đứa trẻ được tất cả,
Những gì xứng cư sĩ,
Là cư sĩ, Ngài được,
Mọi dục lạc tài sản,
Phong phú và thích hợp,
Với vua cõi đất này.
Nếu phát tâm từ bỏ,
Mọi dục lạc tài sản,
Ngài sẽ được tài vật,
Vô thượng và tối thiện.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Tín, giới, văn, trí tuệ,
Thí, pháp, nhiều thiện sự.
Tài sản, lúa, ruộng đất,
Vợ con, loài bốn chân.
Quyến thuộc, bạn, bà con,
Lúa, sắc và hạnh phúc.
Ngài ao ước mong cầu,
Không một ai tổn hại.
Thân trên như sư tử,
Vai vuông tròn đều đặn.
Như hạnh xưa, không hư,
Tại gia được tăng trưởng,
Gạo, tài sản, vợ con,
Cùng với loài bốn chân.
Xuất gia không vật gì,
Chứng Bồ-đề vô thượng,
Không bao giờ tiêu diệt,
Pháp nhĩ là như vậy.
Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia thì làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Thiểu bệnh, thiểu não, tiêu hóa tốt đẹp, nhiệt độ thăng bằng, không lạnh quá, không nóng quá. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Thiểu bệnh, thiểu não, tiêu hóa tốt đẹp, nhiệt độ thăng bằng, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, có thể kham nhẫn, siêng năng. Làm Phật được như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Ngài không hại một ai,
Với tay, gậy, đá, gươm,
Không trói, không dọa dạt,
Không sát sanh hại mạng.
Do vậy Ngài sanh Thiên,
Hưởng quả báo an lạc,
Tái sanh tại nơi đây,
Cảm vị rất nhạy bén,
Cổ họng khéo an trú,
Thượng vị nhạy truyền đi.
Thiện xảo chiêm tướng gia,
Tuyên bố về Ngài rằng:
Người này sẽ được hưởng,
Nhiều hạnh phúc an lạc,
Dầu tại gia xuất gia,
Hảo tướng thật rõ ràng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Không ngó liếc, ngó xiên,
Và cũng không ngó trộm,
Nhưng với tâm chánh trực,
Rộng mở và cao thượng,
Ngài nhìn khắp Đại chúng,
Với từ tâm của Ngài.
Ở đây Ngài tận hưởng,
Quản an lạc chư Thiên,
Ở đây lông mi Ngài,
Như mi con bò cái,
Cặp mắt hết sức xanh,
Đẹp đẽ thật ưa nhìn.
Chiêm tướng gia lão luyện,
Tinh thông về hảo tướng,
Ngài thành bậc Thiện nhân.
Với cặp mắt tế nhị,
Được mọi người hoan nghênh,
Ưa thích ngắm nhìn Ngài.
Cư sĩ ưa nhìn Ngài,
Được mọi người kính yêu.
Tại gia hay Sa-môn,
Ngài được người kính mến,
Như người đã cứu chữa,
Khổ sầu cho Đại chúng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Lãnh đạo các chánh hạnh,
Hoan hỷ trong pháp lành,
Được Đại chúng trung thành,
Hưởng công đức chư Thiên.
Hưởng xong các thiện quả,
Sanh đây được nhục kế.
Chiêm tướng gia thiện xảo,
Đồng tuyên bố về Ngài:
Ngài lãnh đạo Đại chúng,
Được tiền của hiến dâng,
Quá khứ, nay cũng vậy,
Mọi người phục vụ Ngài.
Nếu là Sát-đế-lỵ,
Ngài trị vì quốc độ,
Được đa số quần chúng,
Thành tâm phục vụ Ngài.
Nếu Ngài sống xuất gia,
Thời vị Thượng nhân này,
Tinh thông và thiện xảo,
Đối với các thiện pháp.
Được quần chúng trung thành,
Được mọi người phục vụ,
Vì đã quá hoan hỷ,
Công đức dạy của Ngài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Trong những đời quá khứ,
Ngài giữ hạnh chân thật,
Không nói lời hai lưỡi,
Tránh lời nói hư vọng.
Đối với chung tất cả,
Không bội ước một ai,
Ngài sống trong hoan hỷ,
Chơn chánh và như thật.
Ngài có tướng bạch hào,
Mọc giữa hai chân mày,
Trắng, sáng và mịn màng,
Như bông Đâu-la-miên.
Các lông của Ngài mọc,
Không hai lông một chỗ.
Khi nhiều vị chiêm tướng,
Hội họp chung với nhau.
Những vị tinh thông này,
Đồng tuyên bố về Ngài:
Mười bạch hào hảo tướng,
Và lông mày khéo mọc,
Nên Ngài được mọi người,
Vâng theo ý muốn Ngài.
Là Cư sĩ, Đại chúng,
Tuân theo ý muốn Ngài,
Vì hành động quá khứ,
Quá rõ ràng cao thượng.
Bỏ tất cả, xuất gia,
Ngài được cả Đại chúng,
Tuân theo bậc Giác Ngộ,
Tối vô thượng, tịch tịnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Không nói lời hai lưỡi,
Khiến chia rẽ hòa hợp,
Khiến phát sanh đấu tranh,
Khiến tăng trưởng chia rẽ.
Không nói lời vô ích,
Làm tranh luận tăng trưởng,
Lời nói sinh chia rẽ
Giữa những người hòa hợp.
Ngài chỉ nói những lời,
Tăng hòa ái lâu ngày,
Lời phát sanh liên kết,
Giữa những người chia rẽ.
Những lời có khả năng,
Trừ tranh chấp mọi người,
Ngài hoan hỷ thoải mái,
Trong đoàn kết hòa hợp.
Do nghiệp báo dị thục,
Được sanh cõi thiện thú,
Ngài hoan hỷ thọ hưởng,
Phước báo cõi chư Thiên.
Ở đây răng của Ngài,
Đều đặn, không kẻ hở,
Có bốn mươi tất cả,
Mọc trong miệng khéo bày.
Nếu sanh Sát-đế-lỵ,
Ngài trị vì quốc độ,
Dân chúng Ngài trị vì,
Là dân chúng thuần lương.
Sống làm bậc Sa-môn,
Thanh tịnh không cấu uế,
Dân chúng tháp tùng Ngài,
Kỷ cương, không dao động.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Không nói lời độc ác,
Gây tranh luận có hại,
Lời thô bạo cộc cằn,
Não hại, hiếp Đại chúng.
Ngài nói lời ngọt ngào,
Hòa dịu cùng thân ái,
Lời nói đẹp ý lòng,
Đi sâu vào nội tâm.
Lời nói khiến tai nghe,
Cảm thấy lòng an lạc,
Ngài thọ hưởng quả báo,
Do khẩu hành tốt đẹp,
Hưởng công đức quả báo,
Tại cảnh giới chư Thiên.
Sau khi hưởng quả lành,
Do thiện hành đem lại,
Ngài tái sanh nơi đây,
Với phạm âm thù thắng,
Được tướng lưỡi tốt đẹp,
Vừa rộng lại vừa dài.
Lời nói Ngài phát ra,
Được mọi người chấp nhận.
Nếu làm vị cư sĩ,
Lời nói được thành công.
Nếu Ngài sống xuất gia,
Lời nói được chấp nhận,
Lời nói Ngài càng nhiều,
Càng nhiều người tin tưởng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Không nói lời ỷ ngữ,
Ngu độn và dao động,
Từ bỏ lời có hại,
Chỉ nói lời có lợi.
Những lời đem an lạc,
Cho tất cả Đại chúng.
Làm vậy Ngài tạ thế,
Được sanh lên Thiên giới,
Và hưởng thọ quả báo,
Do thiện hạnh đem lại.
Sau khi Ngài tạ thế,
Được sanh lại nơi đây,
Ngài được làm tối thắng,
Loại chúa muôn loài thú.
Làm vua, thành Đế-thích,
Chinh phục cả nhân loại,
Thống lãnh khắp nhân gian,
Có nhiều đại uy lực,
Là Đế-thích ngự trị,
Thành trì cõi chư Thiên,
Bậc siêu thăng tối thắng,
Trên cả các chư Thiên.
Nhiếp phục Càn-thát-bà,
A-tu-la, Đế-thích,
Dạ-xoa và chư Thiên,
Không ai nhiếp thắng Ngài.
Nếu sống có gia đình,
Ngài sẽ là như vậy,
Cùng khắp cả bốn phương,
Bốn duy và thượng hạ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Từ bỏ sống tà mạng,
Sống thanh tịnh đúng Pháp,
Từ bỏ hạnh có hại,
Chỉ làm hạnh có lợi.
Các hạnh đem an lạc,
Cho tất cả chúng sanh,
Làm Người Ngài hưởng quả,
An lạc ở Thiên giới.
Do vậy đời sống Ngài,
Hưởng hỷ lạc, hoan lạc,
Như vị chúa tối tôn,
Ở kinh thành chư Thiên.
Từ đó xuống làm Người,
Nhờ kết quả thiện hạnh,
Hàm răng Ngài đều đặn,
Thanh tịnh và trong sáng.
Nhiều vị chiêm tướng giỏi,
Đến tụ họp tuyên bố:
Ngài thống lãnh loài Người,
Được kính trọng tối thắng,
Các tùy tùng đồ chúng,
Là những vị thanh tịnh.
Răng thanh tịnh trong sáng,
Trắng bạch đều như chim.
Làm vua, có quần chúng,
Tùy tùng đều thanh tịnh,
Trị vì mọi quốc độ.
Quần chúng sẽ không bị,
Áp bức bởi sức mạnh.
Họ sống đời mong cầu,
Hạnh phúc cho mọi người.
Nếu Ngài sống xuất gia,
Từ bỏ các ác pháp,
Ái nhiễm được gột sạch,
Vô minh được vén lên,
Lo âu cùng mệt mỏi,
Thảy đều được trừ diệt,
Thấy đời này, đời sau,
Nhiều cư sĩ, xuất gia,
Hành trì theo Ngài dạy,
Tránh xa đời bất tịnh,
Lỗi lầm và độc ác.
Tùy tùng đồ chúng Ngài,
Đều là bậc thanh tịnh,
Trừ được mọi uế chướng,
Tội quá cùng phiền não.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________
>>> 29.Kinh thanh tịnh
KIM CANG BÁT NHÃ TRONG DÒNG LỊCH SỬ
Thích Thái Hòa
Nhà xuất bản Hồng Đức 2016
Ngỏ
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
Không lớn khôn, thì không thể nào có trí lực để hiểu được cuộc sống của chính mình, của mọi người và muôn vật. Không có hiểu biết, thì không thể thương quý. Không có thương quý, thì không có sự trân trọng, giữ gìn và bảo vệ.
Quá khứ tuy đã qua, nhưng nếu không có quá khứ ta sẽ không bao giờ có hiện tại và không có hiện tại, ta sẽ không bao giờ có tương lai. Tương lai của ta như thế nào, nó liên hệ chặt chẽ với những suy nghĩ và hành động của ta trong hiện tại và hiện tại là kết quả tất yếu của tư duy và hành động từ quá khứ đem lại.
Kim-Cang Bát- Nhã trong dòng lịch sử Quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là những ý niệm, chúng tương tác với nhau trong dòng chảy nhân duyên, nhân quả. Nên, ta nhìn quả mà thấy nhân hay ta nhìn nhân mà thấy quả. Nhân quả là dòng chảy tương tục chưa bao giờ dừng lại nơi dòng chảy của tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng. Ta hãy nhìn nhân và quả như chính nó. Chính nó được tạo nên và tác động từ những cái phi nó. Cái phi nó không có tên gọi, nhưng chính cái đó có năng lực tạo thành các tên gọi và tạo thành dòng lịch sử của thế gian và xuất thế gian.
Kinh Kim Cang Bát Nhã từ khi đức Thế Tôn dạy cho Tôn giả Tu-bồ-đề và thính chúng lúc bấy giờ, tại Tinh-xá Kỳ-viên ở Thành Phố Xá-vệ, về việc phát Bồ đề tâm, an trú chơn tâm và nhiếp phục vọng tâm đã được chư Tô kết tập, phiên dịch, giải giảng, chú thích và tu tập chứng ngộ trải qua nhiều thời đại và nhiều quốc gia khác nhau đã tạo thành một dòng chảy lịch sử về Nghĩa Không của Kim Cang Bát Nhã.
Niết-bàn hay Đệ-nhất Nghĩa-không, thì chỉ có một, nhưng Không-nghĩa lại có vô lượng nghĩa. Chân Như chỉ có một, nhưng an trú Chân như, thì lại có vô lượng pháp môn. Trong vô lượng pháp môn ấy, thì pháp môn an trú ở nơi chỗ “vô trú” là sự an trú tối thượng. Vô trú thì làm gì có khứ lai, sinh diệt.
“Vô trú” là tâm không bị kẹt mắc đối với năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới; “Vô trú” là tâm không bị mắc kẹt đối với các vọng tưởng ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả; “Vô trú” là tâm không bị mắc kẹt đối với những ý niệm có không, thường đoạn, lai khứ, đồng nhất và dị biệt; “Vô trú là tâm không bị mắc kẹt vào những ý niệm ngã và vô ngã, pháp và vô pháp, không phải pháp và không phải vô pháp; “Vô trú” là tâm không bị mắc kẹt đối với sinh tử hay niết bàn, phiền não hay bồ đề, chúng sanh hay phật. “Vô trú” là vì tự tánh của tâm và muôn vật xưa nay vốn rỗng lặng thanh tịnh và châu biến cùng trong dòng lịch sử khắp, chẳng hề có khứ lai, sinh diệt, tại Thánh không tăng, tại phàm không giảm.
“Vô trú” là vậy, nên Kim Cang Bát Nhã luôn luôn là dòng chảy “vô trú”. Vô trú thì trong, hữu trú thì đục. Vô trú thì vô cùng, hữu trú thì hữu tận. Vô trú thì tự do, hữu trú thì bị buộc ràng. Tất cả những gì có được trong cuốn sách này đều là vô trú đúng như tự tánh của chính nó mà không phải vô trú của những ý niệm nhị nguyên sắc không, trong đục. Nên, mọi chữ nghĩa, tên gọi trong cuốn sách này đều là mây ngàn gió nội, bóng nguyệt dòng sông, bọt nước đổ dốc, ánh chớp lưng trời hay là tiếng rống của chú trâu đá giữa đêm trường cô tịch. Biết vậy, cơm tự chín và thơm. Không biết vậy, nhọc công nấu hoài mà cơm vẫn sống và khê.
Chùa Phước Duyên - Huế, ngày 20 - 8 - 2016
Tỷ Khưu - Thích Thái Hòa
(PÀSÀDIKA SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
Lúc bấy giờ, Nigantha Nàthaputta vừa mới tạ thế ở Pàvà. Sau khi vị này tạ thế, các vị Nigantha chia ra làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại nhau với binh khí bằng miệng - "Ngươi không biết pháp luật này, ta biết pháp luật này. Sao Ngươi có thể biết pháp luật này? Ngươi theo tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói của ta tương ưng, lời nói Ngươi không tương ưng. Điều đáng nói trước, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau, Ngươi nói trước. Điều Ngươi quan niệm trình bày, đã bị đảo lộn. Quan điểm của Ngươi đã bị thách đố. Ngươi đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa quan điểm của Ngươi! Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ngươi có thể làm được." Hình như các đệ tử của Nigantha Nàthaputta muốn tàn hại lẫn nhau. Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigantha Nàthaputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và phản đối các vị Nigantha, vì pháp luật của họ đã được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh đẳng Giác tuyên thuyết, tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
- Bạch Tôn giả, Nigantha Nàthaputta đã từ trần ở Pàvà sau khi vị này tạ thế, các Nigantha chia ra làm hai phái... Tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Sa di Cunda:
- Này Hiền giả Cunda, đây là vấn đề đáng đưa ra để yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi yết kiến Thế Tôn; sau khi đến xong, chúng ta hãy trình bày vấn đề này để Thế Tôn biết.
- Bạch Tôn giả, vâng!
- Sa di Cunda vâng lời Tôn giả Ananda.
- Bạch Thế Tôn, Sa di Cunda có nói: "Nigantha Nàthaputta đã từ trần ờ Pàvà. Sau khi vị này từ trần, các vị Nigantha chia ra làm hai phái... tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ."
- Này Cunda, như vậy ở đây pháp luật đã được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh đẳng Giác tuyên thuyết.
"Này Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này hay cách hành văn kia, cách nào thích hợp hơn? Giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào thích hợp hơn?" Nếu vị ấy trả lời: "Này Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này thích hợp hơn cách hành văn kia. Giữa những cách hành văn này, nghĩa này thích hợp hơn nghĩa kia", các Ngươi không nên bác bỏ vị ấy, không nên phỉ báng vị ấy. Không bác bỏ, không phỉ báng, các Ngươi phải giải thích cho vị ấy một cách cẩn thận cả nghĩa lẫn hành văn.
Thế nào là bốn? Này Cunda, ở đây có người ngu si, sau khi sát sanh, tự mình sung sướng hoan hỷ, đó là hỷ lạc thứ nhất. Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi lấy của không cho, tự mình sung sướng, hoan hỷ, đó là hỷ lạc thứ hai. Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi nói láo, tự mình sung sướng, hoan hỷ, đó là hỷ lạc thứ ba. Lại nữa này Cunda, ở đây có người say đắm, đam mê sống vây quanh với năm món dục lạc, đó là hỷ lạc thứ tư. Này Cunda, bốn loại hỷ lạc này là thấp kém, hạ liệt, thuộc phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không có lợi ích, không hướng đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Này Cunda, thế nào là những biện luận về tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi, và những biện luận không đáng nói cho các Ngươi? Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau: "Bản ngã và thế giới là thường còn, như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm". Có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
"Bản ngã và thế giới là không thường còn...
"Bản ngã và thế giới là thường còn và không thường còn...
"Bản ngã và thế giới là không thường còn và không không thường còn...
"Bản ngã và thế giới là do mình tự tạo ra...
"Bản ngã và thế giới là do người khác tạo ra...
"Bản ngã và thế giới là do mình tạo ra và do người khác tạo ra...
"Bản ngã và thế giới là không do mình tự tạo ra và cũng không phải không do mình tự tạo ra... "Bản ngã và thế giới là tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra sai lầm.
"Lạc, khổ là thường còn...
"Lạc, khổ là vô thường...
"Lạc, khổ là thường còn và vô thường...
"Lạc, khổ là không thường còn và không vô thường...
"Lạc, khổ là do tự mình tạo ra...
"Lạc, khổ là do người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là do tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm".
"Bản ngã và thế giới là thường còn...
"Bản ngã và thế giới là vô thường...
"Bản ngã và thế giới là thường còn và vô thường...
"Bản ngã và thế giới là không thường còn và không không thường còn...
"Bản ngã và thế giới là do mình tự tạo ra...
"Bản ngã và thế giới là do người khác tạo ra...
"Bản ngã và thế giới là do tự mình tạo ra và do người khác tạo ra..."
"Bản ngã và thế giới là không do tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra.
"Bản ngã và thế giới do tự nhiên sanh, không do mình tự tạo, không do người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là thường còn...
"Lạc, khổ là vô thường...
"Lạc, khổ là thường còn và vô thường...
"Lạc, khổ không thường còn và không vô thường...
"Lạc, khổ là tự mình tạo ra...
"Lạc, khổ là tự người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là tự mình tạo ra và tự người khác tạo ra...
"Lạc, khổ là tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra.
Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm".
Ta đến những vị ấy và nói: Này Hiền giả, có phải Hiền giả nói rằng: "Lạc, khổ là tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra?" Nếu các vị ấy trả lời: "Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm", thì Ta không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Có một số hữu tình có những ý tưởng sai khác. Này Cunda Ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây Ta cao hơn về thượng trí. Này Cunda, những biện luận về các tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ này, biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau: "Bản ngã là có sắc, không bệnh, sau khi chết. Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm".
Lại nữa này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
"Bản ngã là vô sắc...
"Bản ngã là không phải sắc, không phải vô sắc...
"Bản ngã là có tưởng...
"Bản ngã là vô tưởng...
"Bản ngã là không có tưởng, không vô tưởng...
"Bản ngã là đoạn diệt, biến hoại, sau khi chết không có tồn tại, như vậy là đúng sự thật ngoài ra là sai lầm".
"Bản ngã là vô sắc...
"Bản ngã là có sắc và vô sắc...
"Bản ngã là không có sắc và không không có sắc...
"Bản ngã là có tưởng...
"Bản ngã là không tưởng...
"Bản ngã là không có tưởng và không không có tưởng...
"Bản ngã là đoạn diệt, biến hoại, sau khi chết không có tồn tại. Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm".
Ta đến những vị ấy và nói: "Này Hiền giả, có phải Hiền giả nói rằng: "Bản ngã là đoạn diệt biến hoại, sau khi chết không có tồn tại?" Này Cunda nếu những vị ấy nói: "Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm", thì Ta không chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Vì có một số hữu tình có những tư tưởng sai khác. Này Cunda, Ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta chớ đừng nói cao hơn. Như vậy ở đây, Ta cao hơn về thượng trí. Này Cunda, những biện luận về những tà kiến liên hệ đến tương lai, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi. Còn những biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, pháp thoại này thật là thanh tịnh! Bạch Thế Tôn, pháp thoại này thật là tuyệt đối thanh tịnh! Bạch Thế Tôn, pháp thoại này tên là gì?
- Này Upavàna, pháp thoại này là Thanh tịnh (Pàsàdikà), hãy như vậy mà phụng trì.
Thế Tôn thuyết dạy như vậy. Tôn giả Upavàna hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________
>>> 28.Kinh tự hoan hỷ
KIM-CANG BÁT-NHÃ
Giới Thiệu-Dịch-Chú Giải
Thích Thái Hòa
Nhà xuất bản Hồng Đức 2016
Mục Lục
Giới thiệu kinh Kim-cang
Không Lý từ Văn hệ A-hàm đến Bát-nhã
Phát tâm, an trú tâm và hàng phục tâm
Không vướng mắc bởi bất cứ đối tượng nào .
Pháp và phi pháp
Thực tướng là vô tướng
Cách nhìn vạn hữu
Vạn hữu đều là phật pháp
Nhất thừa pháp
Niềm tin và sự chuyển hóa
Niềm tin từ sự lắng nghe
Niềm tin từ sự thuận hành
Không gian của niềm tin
Hiệu năng của niềm tin
Giải thích đề kinh
Ý nghĩa đề kinh theo Phạn ngữ và kinh văn theo thể loại
Ý nghĩa đề kinh Kim-cang Bát-nhã qua Giáo, Lý, Hạnh và Quả Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kim-cang năng đoạn dịch từ Phạn văn
Kinh Kim-cang Bát-nhã Ba-la-mật dịch từ Hán văn
Kinh Kim-cang chú giải
Phạn bản Devanagari
Phạn bản phiên âm La Tinh
Hán bản La-thập dịch
Bản Việt âm
Từ Vựng
Thư Mục Tham Khảo
Tựa
Vô Tự Chân kinh mới đích thực là kinh Kim-cang Bát-nhã. Kinh ấy nếu còn một ý niệm thì không thể bước vào, huống chi là dịch, chú giải, giảng giải, v.v…
Do đó, những gì có được ở trong cuốn kinh Kim-cang Bát-nhã chú giải này, cũng chỉ là những ý niệm mà không phải là chân nghĩa.
Chân nghĩa của Kim-cang Bát-nhã là ly niệm, ly ngôn, lặng lẽ mà soi chiếu, lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt áo ra, nhớp thì tắm, sạch thì thôi, cần ăn thì ăn, cần uống thì uống, thở thì thở bằng mũi, đừng thở bằng mắt, muốn nhìn mây bay thì ngửa mặt lêntrời, muốn thấy nước chảy thì nhìn xuống dòng sông, muốn nghe sóng vỗ thì đi về biển cả, muốn ngắm tuyết rơi thì lên đỉnh núi cao, muốn thấy tâm người thì hãy nhìn những động tác đi đứng nằm ngồi, nói cười, ăn uống của họ, muốn thấy tánh người thì hãy nhìn vào những ứng xử bất ngờ của họ, muốn thấy tâm mình thì hãy nhìn vào những chủng tử đang vận hành ở trong tâm thức, muốn thấy tánh mình thì hãy nhìn xem những phản ứng bất ngờ của mình trước những lời khen chê, nguyền rủa và trước những thuận lợi, khó khăn, muốn nắm bắt hư ảo, thì đầu chui vào ngoại cảnh, muốn khế ngộ chân như thì quay về với giác tánh rỗng lặng của tự tâm, chấm dứt nhân ngã. Vạn hữu xưa nay rõ ràng như vậy, chẳng có gì mà bận bịu, không cần hỏi tại sao? Kim-cang Bát-nhã.
Vì hỏi tại sao lại càng thêm rắc rối, đẩy ta đi vào ý niệm thị phi, phi thị, phi phi, thị phi, thị thị, chính thị, chính phi, rốt cuộc cũng chỉ đều là phi thị cả.
Nên, tưởng và niệm chưa ly, thì ngôn phải xuất. Ngôn xuất từ niệm và tưởng, nên lắm sai lầm.
Vậy, cúi xin các Bậc Thánh Trí Kim-cang mở rộng lòng thương mà chỉ giáo.
Chùa Phước Duyên - Mùa An Cư năm 1990.
Tỷ khưu Thích Thái Hòa
(SAMPASÀDANIYA SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa-môn, một vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.
- Này Sàriputta, lời nói của Ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ, Ngươi thật là rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa-môn, một vị Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ." Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp là như vậy... trí tuệ là như vậy... an trú là như vậy... giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp là như vậy... trí tuệ là như vậy... an trú là như vậy... giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn - giới đức Thế Tôn là như vậy, Pháp là như vậy... an trú là như vậy... giải thoát Thế Tôn là như vậy?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai! Vậy sao, này Sàriputta, lời nói của Ngươi tuyên bố thật là đại ngôn, thật là gan dạ, Ngươi thật đã rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa-môn, vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ."
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi Người, phi nhân hay chư Thiên, mà tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm, tư duy: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ ba.
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiên, cũng không tự tỏ lộ, sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm và tư duy, nhưng khi chứng được tịnh, không tầm, không tứ, có thể biết được tâm mgười khác với tâm của mình: "Tùy ước nguyện hợp ý hành của Tôn giả này, vị này sẽ hướng tâm đến tâm này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác". Như vậy là loại ký tâm thứ tư. Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề ký tâm sai khác.
Bạch Thế Tôn, như vậy là vô thượng về các loại Thần túc thông. Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết, và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề các loại Thần túc thông.
- Này Sàriputta, được hỏi và trả lời như vậy, Ngươi đã nói lên đúng ý với Ta, không có sai lạc, không có hiểu lầm Ta. Ngươi đã trả lời thuận pháp và đúng pháp. Không một đối phương hợp pháp nào có thể tìm ra lý do để chỉ trích, phê bình.
- Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Bạch Thế Tôn, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình chứng được dầu chỉ có một pháp, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
- Hãy ghi nhận, này Udàyi! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Này Udàyi, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình dầu chỉ có một pháp như vậy, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Này Udàyi hãy ghi nhận! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
- Vậy Sàriputta, Ngươi phải luôn luôn thuyết pháp phân biệt này cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, các Nam cư sĩ và các Nữ cư sĩ. Này Sàriputta, nếu có những kẻ ngu nào còn nghi ngờ hay ngần ngại đối với Như Lai, nếu họ được nghe pháp phân biệt này, nghi ngờ hay ngần ngại của họ đối với Như Lai sẽ được trừ diệt.
Như vậy, Tôn giả Sàriputta nói lên lòng hoan hỷ của mình đối với Thế Tôn. Do vậy, danh từ "Sam pasàdaniyam, Tự hoan hỷ" được dùng cho câu trả lời này.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________
>>> 27.Kinh khởi thế nhân bổn
KIM THÁNH THÁN
Trùng tuyên
Kinh Phật hoá Tôn-đà-la-nan-đà nhập đạo
Bản Hán : Kim Thánh Thán [ ? -1661]
Bản Việt : Nhượng Tống [ ? -1948]
Trích từ Mái Tây ( Tây sương ký )
Chú thích : Đặng Hữu Phúc
…Phật nói
Hết thảy chúng sinh
Ở trong bể khổ
Vì nhân nghĩ càn
Gây duyên lăn-lộn …
Duy-Nhiên thế - tôn hỏi :
Thế nào là vì nhân nghĩ càn
Gây duyên lăn-lộn
Phật nói : Được lắm !
Nhà ngươi để ý
Ta giảng cho nghe :
“ Cõi đời vốn là
Một bể không lớn
Thường tự hòa-hợp ,
Không phép gặp mặt ;
Thường tự vắng-lặng ,
Không phép biệt-ly ;
Không có Ta , Nó ,
Không phải không kể…
Nhất-thiết đều-đủ ,
Không thể kể được..
Nhưng mà chúng-sinh ,
Vì cớ vô-minh ,
Chẳng giữ tính mình…
Tự-nhiên nghiệp-chướng ,
Như sức gió thổi
Xin cho nghĩ càn
Chăm-chui tỷ- mỷ .
Bắt đầu từ chỗ
Không ta trong sạch ,
Suy xằng tính bậy ,
Bảo đây là ta !...
Đã có ta rồi ,
Ngoài ra chúng nó
Không phải là ta ,
Tự-nhiên không thể
Không gọi là người .
Vì thế lần-lượt ,
Bao nhiêu những kẻ ,
Không phải là Ta
Mà gọi là Người
Cũng đều suy-tính ,
Và đều tự bảo :
Đây chính là Ta .
Đã đều tự bảo
Đây chính là Ta ,
Thì đối với Ta ,
Tự nhiên chúng nó
Đều cho là Ta
Không phải chúng nó …
Không phải chúng nó ,
Thì tất chúng nó
Không thể không lại
Gọi Ta là người …
Bọn chúng-sinh ấy
Cùng sinh một nước
Hoặc một bộ lạc
Có khi một nhà…
Đối lẫn với nhau
Sinh lòng mến-yêu
Vì cớ mến-yêu
Sinh ra không-biết
Khăng-khít lâu ngày
Gây nên ân-nghĩa
Ân sâu nghĩa nặng
Bày ra lời nói
Hoặc khi tựa vai
Hoặc khi kề đùi
Hoặc khi giắt tay
Hoặc khi ôm-ấp
Nhẹ lời sẽ tiếng
Chỉ bể thề non
Rằng tôi ở đời
Chỉ yêu một người …
Mà một người ấy,
Tức là mình đó !
Tôi thực không yêu
Một người nào khác …
Và lại nói rằng :
Nay tôi với mình
Tức là một người
Không có phân biệt…
Và lại nói rằng :
Mình không phải mình !
Tôi không phải tôi !
Mình mới là tôi !
Tôi mới là mình !
Khi đã nói ra
Những lời như thế
Đôi tình yêu-mến
Như đôi nai khát
Chạy vào đống lửa !
Không thích lời can
Của người ngoài cuộc
Cũng không để cho
Những người ngoài cuộc
Được biết chuyện mình…
Ở ngay trong nhà
Xây một lầu cao…
Sửa sang trang-sức
Cho rất xinh-đẹp
Giữa đặt giường êm
Hai đầu bày gối …
Ống tiêu , ống địch ,
Đàn , sáo , tì-bà ,
Các thứ âm-nhạc
Bày ra không thiếu …
Rồi đó hai người
Ngồi ở trong lầu
Lấy đêm làm ngày
Lấy ngày làm đêm
Nhất-thiết những việc
Người đời thường làm
Thì hai người ấy
Cũng đều làm cả
Rồi đến những chuyện
Người đời chưa làm
Nhưng hai người ấy
Cũng đều làm cả
Bốn mặt lầu ấy
Đều xây tường cao
Thang , bậc dưới lầu
Cất bỏ không để
Không để cho ai
Có thể nom-dòm
Cũng không để ai
Được lên tiếng gọi…
Hạng chúng-sinh ấy
Chìm ở trong bể
Lăn-lộn nghĩ càn…
Vì nhân nghĩ càn
Làm chuyện lăn-lộn…
Vì duyên lăn-lộn
Lại sinh nghĩ càn
Nghĩ càn ! Nghĩ càn !
Lăn-lộn ! Lăn-lộn !
Hạng chúng-sinh ấy
Sa vào trong đó
Kể từ một kiếp ,
Cho đến hai kiếp ,
Ba kiếp , bốn kiếp ,
Rồi hàng nghìn kiếp
Như kẻ say rượu
Mờ-mịt mê-man…
Bệnh ấy ít thuốc
Có chữa sao nổi !... “
Thế-Tôn đương ngồi
Liền đứng ngay dậy
Sụt-sùi khóc mếu
Lại thưa Phật rằng
Lạy đức Đại-từ !
Hạng chúng-sinh ấy
Sao độ được họ ?
Phật dạy : được lắm !
Nhà ngươi để ý
Ta nói cho nghe :
“ Hạng chúng-sinh ấy
Không thể độ thoát !
Dù đức Như-lai
Đại-từ đại-bi ,
Nhiều cách thuyết pháp
Rất là khôn-khéo
Cũng không làm sao ,
Độ thoát được chúng !
Huống chi kém ngài :
Bọn tu-đà-hằng
Bọn tỳ-đà-xá
Bọn tích-chi-phất
Có làm thế nào
Mà độ chúng thoát ? “
Thế-Tôn khi ấy
Lại thưa Phật rằng :
Lạy đức Đại-từ !
Hạng chúng –sinh ấy ,
Như lời Phật dạy ,
Thì không bao giờ
Được độ thoát sao ? “
Phật rằng : “ Được lắm !
Nhà ngươi để ý
Ta nói cho nghe :
Hạng chúng-sinh ấy ,
Độ sao được thoát !
Ví phỏng kiếp trước
Có dày phúc đức
Thì họa may ra ,
Có độ thoát chăng !
Có thể độ được
Nhưng là chúng nó ,
Lại tự độ lấy
Chứ không phải ai
Có thể độ được !
Thế nào lại bảo :
Đáng không độ thoát ,
Bỗng được độ thoát ?
Mà lại là chúng ,
Tự độ lấy thoát ;
Chứ người ở ngoài ,
Không thể độ được ?
Nhà ngươi để ý ,
Ta giảng cho nghe !
Hạng chúng-sinh ấy ,
Đương lúc lăn-lộn ,
Phúc-đức kiếp trước ,
Bỗng-dưng tới nơi …
Thì chúng nó sẽ ,
Cùng nhau ly-biệt …
Hoặc vì việc quan ,
Mà sinh ly-biệt …
Hoặc vì lệnh vua ,
Mà sinh ly-biệt !
Hoặc vì cha mẹ ,
Có việc sai-bảo ,
Mà sinh ly-biệt !
Hoặc vì giặc-giã
Gây chuyện binh-đao ,
Mà sinh ly-biệt !
Hoặc vì kẻ thù ,
Tìm phương hãm-hại ,
Mà sinh ly-biệt !
Hoặc vì kẻ mạnh ,
Ra tay bắt hiếp
Mà sinh ly-biệt !
Hoặc tự chán-ghét ,
Mà sinh ly-biệt
Hoặc nghe gièm-pha ,
Mà sinh ly-biệt ,
Có khi hoặc vì ,
Nghiệp-báo đã hết ,
Kẻ chết , người sống ,
Ly-biệt mãi mãi !
Nhà ngươi để ý :
Ly-biệt là thứ ,
Trí-thức rất hay ,
Cho bọn chúng-sinh ,
Nghĩ càn lăn lộn .
Ấy là thuốc hay ,
Chữa bệnh mê-đắm.
Ấy là dao sắc ,
Cắt giây ái-ân ,
Ấy là đường phẳng ,
Dọn sạch chông-gai .
Ấy là lệnh-xá ,
Tha tội trói-buộc .
Nhà ngươi để ý :
Hết thảy chúng-sinh ,
Rất khổ ly-biệt ,
Rất khó ly-biệt ,
Rất trọng ly-biệt ,
Rất giận ly-biệt ! …
Nhưng vì nhờ sức ,
Phúc-đức kiếp trước
Cho nên tất phải
Có lúc ly-biệt .
Một khi ly-biệt ,
Ly-biệt hết thảy!
Thẩn-thơ ngồi rồi ,
Như mơ chợt tỉnh .
Trong lòng nhẹ-nhõm
Chẳng cũng sướng sao !
Nhà ngươi để ý :
Ví phỏng chúng nó ,
Từ ngày kiếp trước
Không có phúc-đức
Thì đến kiếp này ,
Không ly-biệt nổi
Đã không ly-biệt ,
Tất lăn-lộn mãi
Sinh chán ghét nhau …v.v. “
[ Chú thích: Đặng Hữu Phúc ]
[1] Cõi đời vốn là, Một bể không lớn [=Thế gian hằng như, Như đại không hải ], Thường tự hoà hợp, Không phép gặp mặt, Thường tự vắng lặng, Không phép biệt ly.
[ Thường tự hoà hợp nên không có cái pháp tên là pháp hội hiệp (= phép gặp mặt )—(phép = pháp ) ]
[Thường tự vắng lặng nên không có cái pháp tên là biệt-ly (= phép biệt-ly)]
|| Không biết = vô minh
||. Nghĩ càn = vọng-tưởng = điên-đảo tưởng
|| Lăn-lộn = trao-đảo
|| Nghĩ càn lăn-lộn = trao-đảo vọng-tưởng .
-----------------------------------------------------------------------
[2] Có bốn thứ trầm-luân :
(1) Trầm-luân do dục tham ( desire )
(2) Trầm-luân do dục hữu (existence ; becoming) : mong cầu hiện hữu , mong cầu tái sinh
(3) Trầm-luân do vô-minh ( ignorance) : chấp thủ vào ngã [self grasping ] là gốc rễ của sinh-tử luân chuyển .Gồm chấp thủ vào cá-biệt ngã [self grasping of person] và pháp ngã [ self grasping of phenomena].Vô-minh là biết sai , không phải chỉ có nghĩa là không biết .
(4) Trầm-luân do tà-kiến ( wrong view) : không có chánh tín với lý duyên khởi [= lý duyên sinh, lý nhân duyên=dependent origination; relational origination; dependent arising; interdependent arising, cause and effect]; tin vào Đấng tạo lập hữu ngã thường hằng , bản ngã thường hằng ; hoặc tin vào đoạn diệt [không có nhân quả , không có đời trước đời sau , chết là hết, không có giải thoát ]
-------------------------
[3] Nhân duyên
Chúng-sinh hay sự , vật có ra hình-sắc đều do sự tạo-tác tiếp nối của 12 nhân duyên .
Mười hai tiếp-nối [= links] của một vòng duyên khởi : 1. vô-minh 2. hành 3. thức 4.danh sắc 5. sáu xứ (=lục nhập) 6. xúc 7. thọ 8. ái 9.thủ 10.hữu 11.sinh 12.lão tử .
Trong The Middle Way [2009] Đức Dalai Lama giảng –theo ngài Long Thọ
(1) vô-minh [ ignorance] , (8) ái [craving]và (9) thủ [grasping] là nguồn gốc của khổ đau dưới hình thức những phiền não [afflictions] ;
trong khi đó (2) hành [volition] và (10) hữu [becoming] là nguồn gốc của khổ đau dưới hình thức tác hành tạo nghiệp [ karmic action] .
Bảy còn lại , (3) thức [conciousness] ,(4) danh và sắc[name and form], (5) sáu xứ [sources] , (6) xúc [ contact] , (7) thọ[feeling] ,(11) sinh [ birth] và (12) lão và tử [aging and death] tạo thành chân lý về khổ [ = khổ đế]
-----------------------------
[4] Kinh Trung Bộ nói về lý tính Duyên khởi :
Cái này có, nên cái kia có; Cái này sinh, nên cái kia sinh; Cái này không có, nên cái kia không có; Cái này chấm dứt, nên cái kia chấm dứt .
[ Majjhima Nikaya II,32 : This being, that becomes; from the arising of this, that arises; this not becoming , that does not become; from the ceasing of this, that ceases.]
--------------------------------
[5] Kinh Đại-thừa nói về lý tính duyên sinh : Salistambasutra (Sanskrit)
[Xá-Lê-Sa-Đảm-Ma kinh] =Kinh Duyên-Sinh [=Phật thuyết Đại-thừa Đạo-can kinh ].
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt [Saigon 1957; in lại trong: Chư Kinh Tập Yếu Tập I , Thích-Tâm-Châu , Toronto, Canada, 2004 , gồm 21 bản kinh ngắn]
Đạo-can nghĩa là lúa nếp. Đức Phật nhân trông thấy cánh đồng lúa nếp Ngài nói ra kinh này .
“ …Đại Bồ-tát Di-Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử rằng :
Nay Phật, Pháp Vương , Chánh-Biến-Tri bảo các vị Tỳ-khưu : ‘Nếu ai thấy được Nhân-duyên , tức là người ấy thấy được Pháp ; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật’ , vậy trong này thời cái gì là Nhân-duyên ? Nói là Nhân-duyên, thời : “đây có nên kia có , đây sinh nên kia sinh”.
Như : Vô-minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên cho Danh-sắc, Danh-sắc duyên cho Lục-nhập, Lục-nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thụ, Thụ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu , Hữu duyên cho Sinh, Sinh duyên cho Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh khởi được. Như thế , là chỉ sinh-khởi sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao , thuần-nhất, cùng cực vậy.
Cũng trong này,Vô-minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt nên Danh-sắc diệt, Danh-sắc diệt nên Lục-nhập diệt, Lục-nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thụ diệt, Thụ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt , Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não , cũng diệt được. Như thế là chỉ diệt sự kết-tự những khổ đau lớn-lao, thuần-nhất,cùng cực là được. Đó là Đức Thế-Tôn nói ra pháp Nhân –duyên vậy .
-------------------------------------
[6] Phật nói về lão-bệnh -tử
‘’ Các đệ tử ơi !
Ta thuở bé giàu-sang như thế . Ta sống trong cảnh huy-hoàng như thế .Mà tư-tưởng ta lại nảy ra như thế này :
người thường-tục, ngu-muội, mặc dầu biết phải có lúc già-nua, và không thoát được khỏi năng-lực của sự già-nua, lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán , khi trông thấy một kẻ khác già-nua. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.
Còn ta, ta cũng phải già, không thoát được già. Vậy , đã mà cũng phải già, không thoát được già, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác già hay không ? Không có lẽ ta như thế .
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ tử ơi !
Bao nhiêu những cái vui của tuổi thanh-niên, không lià tuổi thanh niên, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta.
Một người thường-tục, ngu-muội , mặc dầu biết mình phải có lúc chịu bệnh , lại gớm-nhờm, chán ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị bệnh tật giày-vò . Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình .
Còn ta, ta cũng phải có lúc chịu bệnh và không thoát khỏi năng lực của tật-bệnh, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị tật-bệnh giày-vò hay không ? Không có lẽ ta như thế .
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế riêng cho ta, thời, các đệ-tử ơi!
Bao nhiêu những cái vui của sự mạnh-khoẻ , không rời sự mạnh-khoẻ, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .
Một người thường-tục, ngu-muội , mặc dầu biết mình phải có lúc chết và không thoát được năng-lực của sự chết , lại ghét, lại gớm-nhờm, chán-ngán, khi trông thấy một kẻ khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết. Rồi lòng ghét ấy quay trở về mình.
Còn ta, ta cũng phải có lúc chết, không thoát khỏi năng lực của sự chết . Vậy đã mà phải có lúc chết, không thoát được khỏi năng-lực của sự chết, ta có nên ghét, nên gớm, nên chán, khi ta trông thấy một người khác bị làm vật hy-sinh cho sự chết hay không ? Không có lẽ ta như thế .
Rồi trong khi ta ngẫm-nghĩ như thế , thời , các đệ-tử của ta ơi ! bao nhiêu những cái vui của đời sống, không lià đời sống, bao nhiêu những cái vui ấy lại tiêu-tan hết ở nơi ta .”
[ Phan Văn Hùm- Triết học Phật giáo trang 24-- dẫn từ kinh Anguttara nikaya -- dẫn bởi Oldenberg---dịch ra chữ pháp do Foucher ]
-------------------------------------
[7] Phật nói về ba kiến chấp nguy hại
“ Này các Tì kheo, các Bà la môn và ngoại đạo có ba kiến chấp nguy hại như sau :
- Phàm tất cả các cảm giác mà con người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do nghiệp quá khứ [ Túc mạng luận ] .
- Phàm tất cả cảm giác mà con người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do không nhân không duyên [ Ngẫu nhiên luận ]
- Phàm tất cả cảm giác mà con người lĩnh thọ hoặc hạnh phúc hoặc đau khổ, hoặc không hạnh phúc cũng không đau khổ, tất cả đều do đấng tạo hoá [ Thần ý luận ]
Này các Tì kheo , ta nói với chúng như sau : Như vậy thời theo các tôn giả , do “ nghiệp quá khứ “ do “ ngẫu nhiên vô cớ “ và do “đấng tạo hoá “ mà con người trở thành sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi [ nói chia rẽ ] , nói lời phù phiếm; do những nguyên nhân trên mà con người trở thành tham lam, sân hận, si mê và tà kiến .
Này các Tì kheo, với những ai dựa vào “đấng tạo hoá”, dựa vào “ nghiệp quá khứ” dựa vào “ tự nhiên, ngẫu nhiên” cho là lí do chân thật thì nên biết rằng họ là người tà kiến và nguy hại hơn nữa là họ sẽ không có ước muốn, không có tinh thần “đây là việc phải làm, đây là việc không nên làm ..” và họ sẽ sống thất niệm , buông lung tội ác với tâm không hộ trì .
Này các Tì kheo đó là ba chủ trương của ngoại đạo, họ vẫn chấp chặt, bảo thủ quan điểm sai lầm ấy . [ Tăng chi I ]
[8] Nói Duyên khởi nghĩa là nói các pháp [= phenomena; events; process] có hiện hữu hiện hoạt [= actual existence ] nhưng các pháp đều không có tự tính [ empty || empty of what ? || empty of intrinsic existence; empty of inherent existence ] nghĩa là không có hiện hữu tự lập [ existence by their own rights ], không có hiện hữu độc lập [ independent existence ] đối với các pháp khác, nghĩa là lệ thuộc vào nhân duyên và do trùng trùng duyên khởi mà biến hiện .
Không nên xem tính không, tính-không –có-tự-tính này là tự-tính, hoặc một thứ tự-tính .
Nói các pháp đều không, là nói các pháp không có tự tính, các pháp không có tính quyết-định, các pháp là pháp trở thành [=becoming], là pháp biến-dịch [=changing], là đang trên đường trở thành. Nếu các pháp có tự-tính thì sẽ không biến dịch, không trở thành.
Trung luận XXIV.16 : Nếu thấy hữu-tình hiện-hữu có tự-tính, tức là thấy hữu-tình hiện-hữu chẳng do nhân duyên .
|| Tính không là danh-từ giả-định, tên tạm-gọi [=imputational term].
Ngã, cá-biệt ngã [atman ; self] là một thực-thể hoàn toàn hư-cấu [a completely fictious entity]—là cái mà đạo phật luận giải và phủ định .
Người [pudgala ; person] là tên tạm gọi cho tổ hợp của sắc, thọ, tưởng , hành , và thức; Đạo Phật không tranh luận gì về điểm này .
Gốc rễ của luân hồi là do chấp ngã—cá-biệt ngã và pháp ngã .
Nói Duyên khởi tức là phủ-định cá-biệt ngã và pháp ngã , phủ định Đấng tạo lập và Đấng tạo lập hữu ngã thường hằng .
Nói Duyên khởi cũng là nói Tánh Không , cũng là nói Chân Không Diệu Hữu, cũng là nói Trung Đạo , cũng là nói Như Huyễn .
[Dependent Origination = Emptiness (=Openness) = Middle Way = Illusion]
[9] Hữu Vô :
Các biểu ngữ về kiến chấp : có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không ( hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt--being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).
Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.
Trung luận XV.6 :
Nếu người thấy hữu, vô
Thấy tự tính , tha tính
Như thế thì chẳng thấy
Phật pháp chân thật nghĩa .
Trung luận V.6
Nếu không có cái có,
Làm sao có cái không .
Có , không , đã không có,
Ai biết có , biết không .
Trung luận V.7.
Cho nên biết hư không
Phi hữu cũng phi vô
Phi tướng phi sở tướng
Năm giới kia cũng thế
[ năm giới kia= năm đại kia = đất , nước , gió , lửa và thức giới
|| cũng thế = cũng như hư không giới ]
Trung luận V.8.
Kẻ sơ trí thấy pháp
Hoặc hữu hoặc phi hữu
Nên đã không thể thấy
Tĩnh chỉ của kiến chấp
[10] Cái gì thay đổi , cái đó là chiêm bao.Có hai thứ chiêm bao: nhắm mắt chiêm bao và mở mắt chiêm bao. Cái gì không thay đổi , cái đó là chân lý.
Ta đã làm chi đời ta ,
Nhớ ôi ngọc trắng ngày chưa cát lầm
tuy thế : Ta vẫn còn nguyên một hiện tại này
Nghìn sông nghìn nước nghìn trăng hiện
Muôn dặm không mây muôn dặm trời
ta nên
ta về gặp lại tình ta
dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân
ta sống trong căn nhà hữu danh nhưng vẫn ở trong quê hương tịch lặng vô ngôn [Triệu luận - Đại sư Tăng Triệu ], quê hương bản lai diện mục, quê hương bản giác, quê hương tính bản phật phổ hiền.
–[ ta về gặp lại tình ta – dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân--thiền sư Viên-Minh] || ta về gặp lại tình ta =ta về gặp lại tính bản phật phổ hiền ||.
[Phổ Hiền= Samantabhadra =All Good One = All-around Goodness ].
------------------------------------------------
Tam quy theo Truyện Thủy Hử của Thi Nại Am
quy thứ nhất : giữ tính phật
quy thứ hai : theo chánh pháp
quy thứ ba : kính thầy mến bạn
--------------------------------------
Tất cả hãy phát huy
lành thay đức lớn
gốc tuệ sâu dày
sức nguyện trang nghiêm
ngày khác Hội Thượng Linh Sơn
nhìn hoa cùng cười
thiện tai đại đức
tuệ căn thâm hậu
nguyện lực trang nghiêm
dị nhật Linh Sơn Hội Thượng
niêm hoa tương tiếu
---------------------------------------
[11] Thẩn thơ ngồi rồi , Như mơ chợt tỉnh
Bồ-tát Long Thọ --Trung luận . VII.34
[ Nagarjuna and the Philosophyof Openness : Nancey McCagney]
As illusion , as dream , as an imaginary city in the sky ,
So have arising , endurance , and destruction been illustrated.
[ Nagarjuna : Kenneth K. Inada]
It is like an illusion , a dream , or an imaginarycity in the sky .
In such away , ( the concepts of ) origination , duration , and cessation have been described.
---------------------------
[ Thích Tuệ Sỹ ]
Như huyễn tượng , như chiêm bao , như thành phố giữa hư không ,
cũng vậy, những gì xuất hiện , tồn tại , rồi hủy hoại .
|| Trung luận : Thanh Mục (thích ) [Cưu Ma La Thập , Hán dịch -
- Thiện Siêu ,Việt dịch ]
Như huyễn cũng như mộng , như thành Càn-thát-bà ,
nói sinh , trụ , diệt, tướng nó cũng như vậy .
[12] Đức Phật Cồ Đàm thương xót hữu tình nên nói pháp nhân duyên
Trung luận XXVII. 29-30 [ Hai bài tụng cuối]
|| [ Trung luận -- Thiện Siêu dịch ]
(29) Vì tất cả pháp rốt ráo đều không , vậy thời ở chỗ nào , vào lúc nào , và ai khởi lên các kiến chấp cho rằng thế gian là thường , vô thường ,v.v…ấy.
(30) Đấng Đại Thánh Chúa Cồ Đàm , vì thương xót chúng sinh mà nói pháp duyên sinh ấy , để chấm đứt tất cả các thứ kiến chấp. Con nay xin cúi đầu kính lễ Phật .
-----------------------------------
|| [HT Thích Duy Lực dịch ]
(29) Vì nhất thiết pháp không
Những kiến chấp thế gian
Ở nơi nào , lúc nào ,
Ai khởi những kiến chấp
( hữu , vô , thường ,biên,v.v …)
(30) Đức Phật Đại thánh chủ
Thương xót ( chúng sinh ) thuyết pháp này
Đoạn tất cả kiến châp
Nay tôi đảnh lễ Phật
--------------------------------------------
[13] Một khi ly biệt , ly biệt hết thảy
Có kiến chấp về ly-biệt [ tỉ- dụ : người ly-biệt , người bị ly -biệt , sự ly-biệt ]
Một khi ly-biệt [thì hãy ] ly-biệt hết thảy.
Lià kiến chấp về “ly-biệt “ và cũng lià kiến chấp về “ ly-biệt hết thảy “ thì chính là : lià , lià lià [=lià cái lià] , lià lià lià ,lià lià lià lià , …lià hết thảy ; đó là đoạn tất cả kiến chấp .
---------------------------------
[14] Con đường Bồ tát :
Đoạn tất cả kiến chấp , trí chẳng trụ hữu vô , mà khởi tâm đại-bi , ngày nào hư không còn, tôi vẫn còn ở lại , tu lục-độ vạn-hạnh, với gốc tuệ sâu dày , với sức nguyện trang nghiêm ,cùng chung sức an lập , một nhân gian tịnh độ, quả hải của vạn đức , tình và cả vô tình , đều cùng thành phật đạo : bản phật phổ hiền .
--------------------------
[15] Kinh Lăng Già
Xa lià chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu vô
Mà khởi tâm đại bi
-------------------------------------------------------
[16] Bồ tát Long Thọ --Ca Tụng Pháp Giới
[ Tán Pháp Giới Tụng ]
Tôi kính lễ pháp giới
Trú trong mỗi hữu tình
Nhưng họ không nhận biết
Nên nhân duyên ba cõi
[cõi dục , cõi sắc , cõi vô sắc] [Tụng 1]
---------------------------------------------------------
Do tịnh hóa vô-minh
Nguyên-nhân tâm ba cõi [tâm=a-lại-da thức]
Tịnh hóa là niết-bàn
Và hơn nữa : pháp-thân [Tụng 2]
--------------------------------------------------------
‘Vô-thường’, ‘khổ’, ‘không’
Cả ba tịnh hóa tâm
Pháp tốt nhất tịnh tâm
Là pháp vô tự-tính [Tụng 26]
---------------------------------------------------------
Giác chẳng xa , chẳng gần ,
Và chẳng đến , chẳng đi
Trú : hoặc thấy, không thấy ,
Trong mù sương phiền-não [Tụng 49]
---------------------------------------------------------
Thật-chứng trí bát-nhã
Đạt vô-thượng tịch-tĩnh
Thế nên kinh tạng nói:
Trú : tuệ-tri chính mình . [Tụng 50]
[pháp giới = phật tính =…] [ĐHP dịch]
------------------------------------------------------------
Nagarjuna—In Praise of Dharmadhatu
[ Commentary by Karmapa the third ,Translated &Introduced by
Karl Brunnholzl -2007 ]
I bow to you, the dharmadhatu ,
Who resides in every sentient being ,
But if they aren’t aware of you
They circle through this triple being [Stanza 1]
------------------------------------------------------------
Due to just that being purified
What is such circling’s cause ,
This very purity is then nirvana.
Likewise, dharmakaya is just this . [Stanza 2]
--------------------------------------------------------
‘Impermanence’,’suffering’, ‘empty’,
These three, they purify the mind .
The dharma purifying mind the best
Is the lack of any nature . [Stanza 26]
--------------------------------------------------------
Enlightenment is neither far or near ,
And neither does it come nor go.
It’s whether it is seen or not
Right in the midst of afflictions. [Stanza 49]
--------------------------------------------------------
By dwelling in the lamp of prajna ,
It turns into peace supreme.
So the collection of sutras says :
‘By exploring your self, you should rest!’ [Stanza 50]
------------------------------------------------------------------------
[17] Chân không [ =emptiness] , cũng là chân không diệu hữu [= openness] , cũng là tự do tuyệt đối [=absolute freedom] không có tự tính , có thể tạm biểu tượng như hư-không mà nắng không làm cho khô , mưa không làm cho ướt [Bồ tát Long Thọ], nhưng có hiện hữu hiện hoạt [=actual existence ] , và về phương diện hoạt dụng [=activity aspect ] mở ra các biến hiện theo nhân duyên [open to manifestations upon conditions], nghĩa là chân không và tự do tuyệt đối luôn luôn tôn trọng tác dụng của nhân duyên, tương ưng của nhân qủa, nghĩa là không bao giờ xoá bỏ trách nhiệm phổ quát [= trách nhiệm nhân quả | Có trời mà cũng có ta | Trời = Con tạo = Lý nhân duyên ].
Osho cũng giảng : mỗi hữu-tình chỉ là tâm-thức tuyệt-đối [ absolute consciousness] , tự-do tuyệt-đối [absolute freedom ]
[18] Đức Dalai Lama thứ 14, trong “The Middle Way“(2009) có dạy, nếu chỉ thực hành từ bi hỷ xả và mười nghiệp thiện thì vẫn chưa phải là thực hành phật pháp -- thực hành phật pháp là tu tập đi đến giải thoát.
Ngài cũng dạy-- nền tảng cuả lý tính Duyên khởi về phương diện hiển hiện [apparent aspect] giúp hữu-tình tích-tập phúc-đức [ accumulate merit] và nền tảng của lý tính duyên khởi về phương diện trống thông [=empty aspect ] giúp hữu-tình tích-tập trí-tuệ [ accumulate wisdom]
.[trống thông = rỗng thông vô tự tính = thông viên = dung thông = vô ngại = empty = open = free-- thế nên có thể tích-tập trí-tuệ ---ĐHP].
[19] Bồ tát Long Thọ cũng dạy tích-tập phúc và tuệ là tư lương cho con đường giải thoát, và Đức Phật thương xót hữu-tình nên đã giảng nhân duyên và ai thấy nhân duyên là thấy phật , thấy bốn thánh đế, thấy đạo Bồ-đề .
[ Nagarjuna-Verse XXIV,40—translated by K. K. Inada ].
“One who rightly discerns relational origination will, indeed , rightly discern universal suffering , its origination, its extinction, and the way to enlightenment “.
“ Ai quán sâu sắc đúng đắn duyên khởi sẽ , thật sự , quán sâu sắc đúng đắn sự đau khổ phổ quát [=mọi nơi , mọi thời ] , sự sinh khởi của nó, sự hoàn toàn chấm dứt của nó , và con đường đến Bồ-đề . [Bồ-đề=Giác]
[20] Trong-mù-sương-phiền-não
Cõi đời vốn là, một bể không lớn , thế gian hằng như , như đại không hải ,
Giác chẳng gần , chẳng xa, |Và , chẳng đến , chẳng đi, | Trú : được thấy , không thấy , | Trong mù sương phiền-não |.
[21] Không có niết-bàn ngoài nơi có luân-hồi ; không có luân-hồi ngoài nơi có niết-bàn . [Kinh Lăng-già]
[22] Bồ-tát Long-thọ kính lễ Đức Phật giảng pháp nhân duyên—trong mở dầu Trung-luận :
I pay homage to the Fully Awakened One,
the supreme teacher who has taught
the doctrine of relational origination,
the blissful cessation of all phenomenal thought constructions.
( Therein , every event is “marked” by):
non-origination , non-extinction ,
non-destruction , non-permanence,
non-identity , non-differentiation,
non-coming (into being) , non-going (out of being).
[Nagarjuna : Kenneth K. Inada , 1993 ]
-----------------------------------------------
Dedication
I greet the best of teachers , that Awakened One ,
who taught liberation , the quieting of phenomena ,
interdependent origination which is ;
nonceasing and nonarising, nonmomentary and nonpermanent,
nonidentical and nondifferent , noncoming and nongoing .
[Nagarjuna and the Philosophy of Openness: Nancy McCagney, 1997]
--------------------------------------------------------------------------------------
Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi
Nói lên được pháp nhân duyên ấy
Khéo diệt trừ các thứ hý luận
Tôi cúi đầu kính lễ Phật , đã thuyết ,
Nhân duyên cao nhất trong các thuyết .
------------------------------------------------------
Ngài Thanh-Mục viết : Với hai bài kệ tán thán Phật này là đã nói tóm tắt Đệ Nhất nghĩa đế. [ Trung luận- Thanh -Mục thích ; Bản dịch Thiện Siêu
--------------------------------------------------------------------------------------------
Bài tụng tán thán Đức Phật mở đầu bản Trung-luận, có thể tạm dịch [ĐHP] từ hai bản dịch Anh ngữ [dịch từ bản Sanskrit] dẫn trên , như sau :
Tôi kính lễ Đức Phật ,
vị đạo sư tối thượng ,
giảng lý tính duyên khởi ,
tĩnh chỉ của hiện-tượng
và cấu trúc của tưởng ,
chính là sự giải thoát ,
là diệu lạc niết bàn ,
chẳng sinh cũng chẳng diệt ,
chẳng thường cũng chẳng đoạn ,
chẳng một cũng chẳng khác ,
chẳng đến cũng chẳng đi
[ ĐHP dịch ].
-----------------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Đặc San Hiện Thực số 20/2010 năm thứ 6 , trang 89-112.
Quán Âm Buddhist Monastery. Vietnamese Buddhist Magazine.
ISBN 1176-8258 . Published in Sydney, Australia.
(AGGANNA SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe:
- Này bạn Bhàradvàja, Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu. Này bạn Bhàradvàja, chúng ta hãy đến yết kiến Thế Tôn. Rất có thể chúng ta được nghe thời pháp từ Thế Tôn.
- Thưa vâng, Hiền giả!
Bhàradvàja vâng theo lời Vàsettha. Rồi cả Vàsettha và Bhàradvàja cùng đến gần Thế Tôn, khi đến xong đảnh lễ Ngài và đi theo sau lưng Thế Tôn, khi Ngài đang đi qua đi lại.
- Này Vàsettha, Ngươi sanh trưởng là Bà-la-môn và thuộc gia tộc Bà-la-môn, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình từ gia tộc Bà-la-môn. Này Vàsettha, người Bà-la-môn có chỉ trích Ngươi, phỉ báng Ngươi chăng?
- Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn thật có chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.
- Này Vàsettha, các vị Bà-la-môn dùng lời lẽ như thế nào để chỉ trích các Ngươi, phỉ báng các Ngươi, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện?
- Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn đã nói như sau: "Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen. Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên. Các Ngươi đã từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện - giai cấp các Sa-môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân. Làm vậy thật là không tốt, làm vậy thật là không hợp, khi các Ngươi từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện, giai cấp các Sa-môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân". Bạch Thế Tôn, như vậy các vị Bà-la-môn chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.
Này Vàsettha, vua Pasenadi (Ba tư nặc) nước Kosala biết rằng: "Sa-môn Gotama xuất gia từ giòng họ liên hệ Sàkyà tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với vua Pasenadi nước Kosala rất lễ độ phải phép. Cũng vậy vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép, vì vua nghĩ: "Có phải Sa-môn Gotama là thiện sanh? Còn ta không phải thiện sanh; Sa-môn Gotama có hùng lực, ta không có hùng lực; Sa-môn Gotama có dáng mặt đẹp đẽ, còn ta có dáng mặt thô xấu; Sa-môn Gotama là vị có nhiều thế lực, còn ta ít có thế lực?" Vì rằng vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, kính lễ Pháp nên vua tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép. Này Vàsettha, với chứng minh điển hình này, cần hiểu như thế nào Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
- Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
- Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần, cả cho buổi chiều và buổi sáng.
Này Vàsettha, vị này noi theo vị hữu tình kia, đi tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày.
- Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, rồi một hữu tình khác đến vị hữu tình ấy và nói:
- Này Bạn chúng ta hãy đi tìm lúa.
- Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày rồi.
Này Vàsettha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho bốn ngày.
- Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, một vị hữu tình khác lại đến vị hữu tình này và nói:
- Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
- Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả bốn ngày!
Này Vàsettha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho tám ngày.
- Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, những vị hữu tình kia, bắt đầu tích trữ lúa để ăn, và cám bắt đầu bao bọc hột gạo trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa; và các cây lúa bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn; và cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm.
- Này các Bạn, các ác pháp đã hiện ra giữa các loài hữu tình. Chúng ta trước kia do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài. Đối với chúng ta, sau một thời gian khá dài, vị của đất hiện ra. Vị đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu bẻ đất từng cục bằng tay để ăn vị đất. Vì bắt đầu bẻ đất bằng tay từng cục để ăn, nên hào quang biến mất. Vì hào quang biến mất nên mặt trời, mặt trăng hiện ra. Vì mặt trăng, mặt trời hiện ra nên các sao và chùm sao hiện ra. Vì các sao và chùm sao hiện ra, nên đêm, ngày hiện ra. Vì đêm, ngày hiện ra, nên nửa tháng và tháng hiện ra. Vì nửa tháng và tháng hiện ra, nên thời tiết và năm hiện ra. Chúng ta thưởng thức vị đất, lấy vị đất làm chất ăn, lấy vị đất làm món ăn trong một thời gian khá dài. Khi ác bất thiện pháp khởi lên giữa chúng ta, vị đất biến mất. Vì vị đất biến mất, nên nấm đất hiện ra. Nấm đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức nấm đất ấy, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp này khởi lên giữa chúng ta nên nấm đất biến mất. Vì nấm đất biến mất, nên cỏ và cây leo hiện ra. Cỏ và cây leo này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức cỏ và cây leo ấy, lấy cỏ và cây leo làm chất ăn, lấy cỏ và cây leo làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp này xảy ra giữa chúng ta nên cỏ và cây leo biến mất. Vì cỏ và cây leo biến mất, nên lúa mọc tại khoảng trống hiện ra, không có cám, không có vỏ, thuần tịnh, có mùi thơm và hột trơn nhẵn. Chỗ nào vào buổi chiều, chúng ta mang đi để ăn chiều, thời tại chỗ ấy vào buổi sáng lúa lại mọc lớn và chín. Chỗ nào vào buổi sáng, chúng ta mang đi để ăn sáng, thời tại chỗ ấy vào buổi chiều, lúa lại mọc lớn và chín, không có gián đoạn. Chúng ta thưởng thức lúa mọc tại khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên giữa chúng ta, cám bắt đầu bao bọc hột lúa trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa trơn nhẵn; và các cây lúa bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn. Và các cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm. Vậy nay, chúng ta hãy chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
Này Vàsettha, các loại hữu tình ấy phân chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
- Này Ngươi, Ngươi đã làm ác pháp, gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy. Nhà Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
- Thưa Bạn, vâng!
Này Vàsettha, người này vâng theo lời nói của những người ấy. Này Vàsettha, một lần thứ hai... Này Vàsettha một lần thứ ba, người này gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy. Người ta bắt người này và nói:
- Này Ngươi, Ngươi đã làm điều ác, vì Ngươi gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy... Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
Có người đập anh ta bằng tay, có người đập anh ta bằng đá, có người đập anh ta bằng gậy. Này Vàsettha, bắt đầu như vậy, lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt đánh đập xuất hiện.
- Này Tôn giả, ác pháp đã khởi lên giữa các loài hữu tình, trong hình thức lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt xuất hiện. Chúng ta hãy đề cử một người. Người ấy sẽ tức giận khi đáng phải tức giận, khiển trách khi đáng phải khiển trách, hãy tẩn xuất khi đáng phải tẩn xuất. Chúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.
- Xin vâng, các Tôn giả!
Này Vàsettha, vị hữu tình này vâng theo các vị hữu tình kia, tức giận khi đáng tức giận, khiển trách khi đáng khiển trách, tẩn xuất khi đáng tẩn xuất. Và các vị hữu tình kia chia cho vị này một phần lúa.
- Này các Tôn giả, các ác, bất thiện pháp đã hiện ra giữa các loại hữu tình, như lấy của không cho, khiển trách, nói láo, hình phạt, tẩn xuất. Chúng ta hãy loại bỏ các ác, bất thiện pháp.
Các vị ấy loại bỏ các ác, bất thiện pháp, tức là Bràhmanà (Bà-la-môn), và chữ Bràhmanà là danh từ đầu tiên được khởi lên. Những vị này lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu Thiền trong những nhà chòi bằng lá ấy. Đối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiên, buổi chiều lo buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực. Khi họ xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong các khu rừng để tu Thiền. Các người khác thấy vậy, nói như sau:
- Này các Tôn giả, những loài hữu tình này lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu Thiền trong những chòi bằng lá ấy.
Đối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiên, buổi chiều lo ăn buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực. Khi xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong các khu rừng để tu Thiền. Này Vàsettha, họ "Jhàyanti", tu Thiền, tức là họ suy tư Jhàyakà. Jahàyakà là danh từ thứ hai được khởi lên.
"Này các Tôn giả, những loài hữu tình này, không thể tu Thiền trong các chòi bằng lá tại khu rừng, đã đi xuống xung quanh làng, xuống xung quanh thị xã để làm sách. Nay những vị này không tu Thiền.
Này Vàsettha "Na dãn ima Jhàyanti" tức là ajjhàyaka, và ajjàyakà là chữ thứ ba được khởi lên (Các vị lập lại các tập Vedà). Này Vàsettha, thời ấy họ thuộc hạ cấp. Nay họ xem là cao thượng nhất. Như vậy, này Vàsettha là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Bà-la-môn, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của họ là ở giữa những loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác một cách đúng pháp tắc, không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát-đế-lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Này Vàsettha, bài kệ này được Phạm thiên Sanamkumàra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận. Này Vàsettha, Ta cũng nói như sau:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát-đế-lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________
Phẩm XIII:
CÔNG ĐỨC CỦA BỒ-TÁT SƠ PHÁT TÂM
Cũng có 4 môn phân biệt như trên.
I. GIẢI THÍCH ĐỀ TỰA
Bản giác nội huân đại tâm mới khởi, nên nói PHÁT TÂM. Hạnh thành vị lập, gọi là BỒ-TÁT. Công trải qua các kiếp lâu xa, đức nhiều như cát bụi, nên nói CÔNG ĐỨC. Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa, nên nói BỒ-TÁT, là để phân biệt với chung tâm nên nói SƠ PHÁT. Đây nói về công đức mà sơ tâm có được không phải nói về tướng phát tâm, nên lấy đó đặt tên.
II. DỤNG Ý : Có ba.
1. Phẩm Thập trụ và Phạm hạnh trên nói về cái thể của hạnh vị, còn đây hiển thắng đức của nó nên có phẩm này.
2. Phẩm trước, cuối sơ phát tâm liền thành chánh giác, chưa biết tâm này có công đức gì mà lại có thể như thế. Dụng ý của phẩm này là để giải thích nghĩa đó.
3. Hai phẩm trước thì dùng pháp y nơi căn khí mà thuyết, khiến hạnh vị có phần hạn. Đây thì dùng căn khí y nơi pháp mà hiển đức lượng không có giới hạn. Cho nên, hai phẩm trước thông cả hai giáo đồng và biệt, còn phẩm này chỉ nói về biệt giáo là Nhất thừa huyền diệu. Trong phần kệ sau, dùng ngôn từ hoa mỹ tán thán nên có phẩm này.
III. TÔNG THÚ : Nói ‘Sơ phát tâm nhiếp Phổ Hiền đức đầy đủ nhân, quả, phần lượng, pháp giới v.v…’ là tông của phẩm này.
IV. GIẢI THÍCH VĂN KINH : Phẩm này phân làm 4 phần : 1/Thỉnh phần. 2/Thuyết phần. 3/Chứng phần. 4/Tụng phần. Có hai : Trước, là trường hàng, phân ra mà nói. Sau, là dùng kệ tụng tổng nhiếp lại.
TRƯỜNG HÀNG
Phân làm hai : Trước là thế giới này. Sau là kết thông mười phương.
I. TẠI THẾ GIỚI NÀY. Có hai : Trước là chánh thuyết. Sau là chứng thành.
1. Chánh thuyết : Có hai : Trước hỏi, sau trả lời. Trong phần trả lời có ba :
1/ Tổng tán thán thâm pháp khiến sinh sự mong muốn.
2/ Nêu lượng so sánh, hiển sự thù thắng để sinh tịnh tín.
3/ Ngay nơi tướng nói về chỗ thâm sâu khiến sinh sự hiểu biết chân chánh.
1. Trong phần hỏi : Thiên Đế Thích hỏi là vì ở Thiên giới, hiển công đức tự tại. Pháp Tuệ thuyết là vì tuệ tương ưng với pháp mới tận cùng bờ công đức.
2. Trong phần thuyết : Có hai : Trước, tán thán thâm pháp khiến sinh tín tâm. Sau, chánh thuyết khiến sinh sự hiểu biết. Cũng có thể giải thích : Trước, là khởi sự mong muốn. Sau, là truyền trao pháp lý. Trước, là hiển cái thể thậm thâm. Sau, nói về cái dụng quảng đại. Trước, hiển nghĩa rất sâu. Sau, hiển giáo rất rộng.
1. Tán thán thâm pháp : Đoạn “Chỗ này thậm thâm ... khó phân biệt”.
Có 7 nghĩa : Nghĩa đầu là tổng. Sáu nghĩa sau thuộc biệt.
Thậm thâm : Vì 6 biệt nghĩa nói sau.
Khó biết : Tự mình chẳng thể biết.
Khó tin : Người nghe chẳng tin.
Khó hiểu : Tư duy thì chẳng hiểu.
Khó nói : Nói rõ thì chẳng thể nói.
Khó thông : Tu tuệ chẳng thể thông.
Khó phân biệt : Trí báo sinh không thể phân biệt.
Cũng có thể giải thích : Giáo lượng thì khó biết. Nghĩa sâu thì khó tin. Tư duy thì khó hiểu. Ứng với giáo thì khó nói. Muốn chứng thì khó thông. Số tột cùng nên khó phân biệt.
2. Nêu lượng so sánh hiển sự thù thắng : Có 11 đoạn.
ĐOẠN 1 : Lấy việc so lượng lợi vật làm ví dụ.
ĐOẠN 2 : Lấy việc so lượng vượt qua các quốc độ làm ví dụ.
ĐOẠN 3 : Lấy số kiếp thành hoại làm ví dụ.
ĐOẠN 4 : Lấy việc khéo biết dục lạc làm ví dụ.
ĐOẠN 5 : Lấy việc khéo biết các căn làm ví dụ.
ĐOẠN 6 : Lấy việc khéo biết hy vọng làm ví dụ.
ĐOẠN 7 : Lấy việc khéo biết phương tiện làm ví dụ.
ĐOẠN 8 : Lấy việc khéo biết tâm y của người làm ví dụ.
ĐOẠN 9 : Lấy việc khéo biết nghiệp tướng làm ví dụ.
ĐOẠN 10 : Lấy việc khéo biết phiền não làm ví dụ.
ĐOẠN 11 : Lấy công đức cúng Phật làm ví dụ.
Trong luận, nhiếp lại thành sáu : Đoạn 4, 5,6,7, 8 thành một. Đoạn 9 và 10 thành một. Nên chỉ còn sáu.
Giải thích thì có 3 môn : 1/Đối với 6 thứ thậm thâm nói trên. 2/Ứng vào tương tự tâm bồ-đề của Bồ-tát. 3/Ứng vào trị 6 chướng.
ĐOẠN 1 : Lấy lượng so lường lợi vật làm ví dụ.
Có hai : Trước là so để hiển cái hơn. Sau, giải thích vì sao hơn.
1. So để hiển tướng hơn : Có 10 lớp phân làm hai : Đầu là biệt thuyết, sau là thông thuyết. Trong phần biệt thuyết có bốn :
1. Nêu sự rộng lớn : Có 4 thứ rộng lớn :
. Chỗ cúng dường rộng lớn. Đó là a-tăng-kỳ chúng sinh v.v…
. Sự cúng dường rộng lớn. Đó là tất cả vật ưa thích.
. Thời cúng dường rộng lớn. Đó là một kiếp v.v…
. Lợi ích rộng lớn. Đó là khiến tu Ngũ giới v.v…
2/ Hỏi.
3/ Trả lời hiển sự rộng lớn.
4/ Nói việc vượt hơn.
9 đoạn sau cũng có bốn phần như thế. Phần đầu nêu 9 sự của 9 đoạn đó, cũng có đủ cả 4 sự rộng lớn như thế. Chỉ có phần tăng nhiều v.v… là khác.
2. Giải thích hiển tướng hơn : Có hai :
1. Hỏi vặn : Vì sao?. Có hai ý :
. Trước đã nói công đức rất nhiều, sao so với đây lại không đồng, nên giải thích rằng: Vì “Công đức của Bồ tát sơ phát tâm không vì giới hạn …” nên chẳng thể so sánh.
. Bồ-tát sơ phát tâm có thắng đức gì mà vượt hơn các vị trước? Giải thích rằng: “Vì không muốn đoạn Phật chủng v.v… cho nên vượt hơn các vị trước.
2. Giải thích thành : Đoạn “Vì khi Phật mới phát tâm …”. Có hai :
. “Vì khi Phật … ở đời”, là nói không vì các sự có giới hạn mà phát tâm. Hiển 4 việc rộng lớn trước không phải là rộng lớn.
. “Vì muốn Phật chủng … phát tâm bồ-đề”, là nói vì các sự không có giới hạn mà phát tâm. Cho nên, nói công đức phát tâm hơn hẳn các công đức kia.
Phần này có 12 câu :
Muốn Phật chủng không đoạn : Câu này là tổng, là nói địa vị vượt hơn. Vì tâm bồ-đề là Phật chủng Bồ-tát hằng khởi, nên nói không đoạn. Lại, Bồ-tát giáo hóa chúng sinh lập trong chủng Như Lai, chẳng khiến họ giữ tiểu quả, nên cũng nói không đoạn. Chẳng đồng với Ngũ giới nói trên.
11 câu sau là biệt.
Đầy khắp tất cả mười phương giới … là nói tâm vượt hơn. Y theo kệ sau thì nên nói vì muốn “Tâm đại từ đại bi. Đầy khắp mười phương giới”. Lật lại mười a-tăng-kỳ thế giới trước.
Độ thoát tất cả chúng sinh là hạnh vượt hơn. Lật lại cái hạn cuộc trước nên nói tất cả.
Biết tất cả thành hoại của thế giới là biết tướng thành hoại của khí thế giới vượt hơn, cũng là biết xứ giáo hóa, vì biết thành hoại sai biệt. Cũng là biết thành tức là hoại v.v… Đây là Nhất thiết trí của Phật, cho nên ‘rộng lớn’.
Biết sự sinh khởi tịnh nhiễm của chúng sinh … là biết chúng sinh trong khí thế gian ấy, báo loại cấu tịnh đều do nghiệp khác nhau. Đây là Nghiệp lực trí.
Tự tánh thanh tịnh của tất cả thế giới là biết khí thể trước vốn tịnh. Đây là Như lý trí.
Biết phiền não tập khí hư vọng… là biết kiết sử tập khí thô tế của chúng sinh mình giáo hóa. Đây là Lậu tận trí. Nghĩa là, biết các thứ đó là không, cũng là thành chướng[1] v.v…
Biết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia là Sinh tử trí thông, là thiên nhãn lực.
Biết các căn phương tiện … là Căn lực trí.
Biết tâm tâm sở niệm … là Tha tâm trí.
Phân biệt tất cả chúng sinh … là Tam đạt trí, cũng có Túc mạng trí.
Biết cảnh giới bình đẳng … : Cũng là Như lý trí.
Trong 11 câu này, 2 câu đầu là đại bi. 9 câu sau là đại trí. Trong đại trí, trí (5) và trí (11) là Nhất thiết trí ở Phật địa. Các trí còn lại là Nhất thiết chủng trí. Đều không có phần hạn nên nói vượt hơn.
ĐOẠN 2 : Lấy lượng so lường đi qua các quốc độ làm ví dụ.
Có hai : Trước ví dụ về chỗ không bằng được. Sau là giải thích, hiển tướng hơn.
1. Trong phần ví dụ : Đoạn “Có thể đi qua … không thể biết được”. Có 100 lớp. 10 lớp đầu nói riêng. Còn lại thì nói chung chung.
2. Giải thích : Có hai.
1. Hỏi vặn : Vì sao?
2. Giải thích thành : Có hai :
Vì tạng công đức… là nói công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không phải là việc có giới hạn, hiển các thứ trước không bằng thứ sau.
Đều vì tất cả… tam bồ-đề là nói công đức của Bồ-tát không có giới hạn, hiển việc này hơn hẳn việc trước. Trong đó cũng có 12 câu :
2 câu đầu Đều vì tất… vì muốn độ… là bi tâm. Câu đầu là tổng nêu. Câu sau là biệt giải thích. Vì muốn khiến họ đạt được quả nên nói vì.
10 câu sau nói về trí. Vì thành tựu trí tự tại.
Câu đầu là tổng biết. 8 câu kế là biệt hiển. Câu còn lại là kết ý.
Câu đầu là nói về cái biết ‘bình man’ trùm khắp. 8 câu kế là nói về cái biết ‘trùng trùng’ vô ngại tương tức tương nhập. Trong đó gồm có :
. Đại tiểu tương tức.
. Nhiều ít tương tức.
. Rộng hẹp tương tức.
. Một nhiều tương tức.
. Tương nhập.
. Nhiễm tịnh.
. Lưới châu của trời Đế Thích.
. Tương sinh.
8 câu đó có hai nghĩa tương tức tương nhập. Hai nghĩa đó, mỗi nghĩa đều có đồng thể và dị thể. Hai thứ đồng và dị đó lại có hai nghĩa đắc thành tương tức tương nhập.
1/ Ứng vào môn duyên khởi : Cũng có hai nghĩa.
. Ứng vào thể : Có nghĩa không và hữu, nên được tương tức.
. Ứng vào dụng : Có nghĩa hữu lực và vô lực, nên được tương nhập.
Ứng vào môn duyên khởi có nghĩa đãi và không đãi nên có hai môn đồng và dị.
2/ Ứng vào môn chân tánh : Cũng có hai nghĩa.
. Duyên bất hoại nên tương nhập.
. Duyên tương tận nên tương tức.
Đều là nghĩa viên dung vô ngại tự tại.
ĐOẠN 3 : Lấy số kiếp thành hoại làm ví dụ.
Có hai : Trước nêu thí dụ hiển chỗ không thể bằng. Sau, giải thích tướng vượt hơn.
1. Nêu thí dụ hiển chỗ không thể bằng : Có hai. Trước, nêu thí dụ rộng lớn. Sau, đối với đó mà hiển cái vượt hẳn. Trong phần nêu ví dụ rộng lớn, trước nói 10 lớp ở phương đông, ức ức có thể biết. Sau, nói kết thông 9 phương. Mỗi phương dều có 10 lớp.
2. Giải thích tướng vượt hơn : Trước hỏi. Sau giải thích.
Trong phần giải thích có hai :
. Giới hạn không cùng … nên vượt hơn.
. Đều biết rõ… là biết các sự không có giới hạn, nên không thể ví dụ.
Trong đó có 10 câu : Câu đầu là tổng biết. 8 câu kế là biệt biết.
Vì sao phân biệt biết? Vì tương tức tương nhập như thế thì trùng trùng nhiếp nhau, tự tại, vô ngại, như vậy mà biết.
Cũng có thể hiểu : Trước là ‘bình man biến’ mà biết. Sau là ‘trùng trùng tương tức tương nhập tự tại vô ngại’ mà biết, hiển tướng thuần thục.
Trường đoản tương tức : Trường, là đại kiếp. Đoản, là tiểu kiếp. Thế giới Sa-bà thuộc đoản kiếp. Thế giới An lạc thuộc trường kiếp. Tương tức nên vô ngại.
Một kiếp là một nhiều tương tức.
Có Phật không Phật là ứng vào việc Phật có hay không. Như Trang Nghiêm kiếp và Hiền kiếp v.v… là kiếp có Phật. Qua khỏi Tinh Túc kiếp, về sau có sáu vạn hai ngàn kiếp uổng phí không có Phật. Hai loại kiếp này tương tức.
Một Phật kiếp… là ứng vào việc Phật nhiều hay ít. Như trong kiếp Tinh túc có tám vạn Phật xuất hiện, là trong mộtPhật kiếp có vô lượng Phật. Như khi Phật Đại Thông Trí Thắng ra đời, Phạm vương tán thán rằng: ‘Ngàn kiếp … uổng phí không có Phật, nay mới được thấy một Phật Đại Thông …’. Cũng tương tức nên nói vậy.
Dị vô dị, là thuần và tạp vô ngại. Quá khứ và vị lai, gọi là dị . Hiện tại, gọi là vô dị. Quá khứ và vị lai nhập hiện tại. Hiện tại nhập quá khứ và vị lai nên nói vậy.
Tận vô tận là tồn và diệt vô ngại. Như «Trời Người thấy kiếp tận. Đất này thường an ổn ...»
Nhất niệm tức vô lượng kiếp, vì tích niệm thành kiếp, nên kiếp không có thể riêng mà chính là niệm.
Hữu vô tương nhập là dứt niệm qui chân, là kiếp nhập vô kiếp. Y chân khởi vọng là không kiếp nhập kiếp. Trước là từ sự vào lý, sau là từ lý vào sự, nên vô ngại.
Trong phần kết luận, trước là tổng kết sở tri, sau là nói về bản thể nguyện. Cho nên «Công đức của đại Bồ-tát sơ phát tâm giới hạn không cùng …». Tại Phật quả nên không thể nói.
ĐOẠN 4 : Lấy việc khéo biết dục lạc làm ví dụ.
Trong phần hiệu lượng cũng có hai : Trước nêu thí dụ nói chỗ không thể bằng. Sau, hỏi vì sao là để giải thích sự vượt hơn.
1. Nêu thí dụ : Mười phương đều có 10 lớp, gấp nhiều lần lên, có thể tự biết.
2. Giải thích : Đầu tiên là hỏi vặn vì sao để biết lý do thù thắng hơn. Sau, giải thích vì sao thù thắng hơn.
… Giới hạn không cùng, là để biết những thứ trước không bì được.
Đoạn «Vì muuốn biết mọi thứ dục lạc … tam bồ-đề» : Nói ra tướng vượt trội.
Vì muốn biết mọi thứ dục lạc là câu tổng. Dùng trí lực ‘Biết tất cả chúng sinh dục lạc’ của Như Lai biết dục lạc hải của chúng sinh, nên nói mọi thứ dục lạc.
Trong phần biệt hiển có hai : Trước là ứng vào pháp mà biết. Sau, ứng vào người mà biết. Luận gọi cái trước là biết khắp, cái sau là biết vi tế cũng được ; Trước là dị tướng, sau là đồng tướng.
1. Ứng vào pháp : Để biết tướng dị. Có 23 câu.
Muốn biết vô lượng … là ứng với tâm cầu của chúng sinh, là riêng, nên nói vô lượng dục. Đồng một quả, nên nói tức là mộc dục. Tuy đồng một quả nhưng hạnh cầu hằng khác, nên nói không hoại tất cả dục tánh. Lại, vì niệm hy vọng không hai, đồng nhiếp thuộc Dục số trong biệt cảnh, tâm pháp không khác, nên nói tức là một dục, nhưng lạc của chúng thì có sai biệt nên nói không hoại… Đây là ứng vào một tâm chúng sinh, dục lạc trước sau nhiều mối mà tương tức vô ngại.
Dục lạc hải, là vì dục lạc của chúng sinh xôm tụ sâu rộng như biển.
Một dục lạc tức là … , là tâm dục lạc hải của chúng sinh khác loại, duyên khởi vô ngại nên tương tức. Lại, biết tâm thiện ác vô ký của một chúng sinh thì tất cả chúng sinh cũng như vậy, nên nói tức là.
Dục lạc ở quá khứ … là tùy theo mọi thứ dục lạc trong ba đời nơi một chúng sinh mà biết mỗi mỗi chúng sinh thảy đều như thế, nên nói tất cả …
Dục tương tợ … : Dòng loại đồng, gọi là tương tợ. Sở thích khác nên nói không tương tợ.
Tất cả dục tức là một dục : Dục, ứng với Tam thừa phân biệt, nói là tất cả. Đồng qui Nhất thừa, nên nói tức là một. Thật, tức là Nhất thừa, gọi là một dục. Quyền, mở thành Tam thừa, gọi là tất cả dục. Ứng vào duyên khởi vô ngại, chung cả các vị tự tha v.v… có thể tự biết.
Dục lạc mà Như Lai có, là đồng với Phật quả trí, là dục lạc trí lực trong thập lực.
Muốn biết hữu thượng dục … : Cầu Tam thừa v.v… gọi là hữu thượng dục. Cầu Nhất thừa, gọi là vô thượng dục.
Hữu dư dục vô dư dục : Sở cầu nếu là chỗ rốt ráo, gọi là vô dư dục. Ngược với trên gọi là hữu dư dục.
Đẳng dục bất đẳng dục : Cầu lý, gọi là đẳng. Cầu sự, gọi là bất đẳng.
Hữu sở y dục…: Y tựa vào các tâm sở khác, là hữu sở y. Độc khởi dục số, gọi là vô sở y. Lại, y nơi cảnh khởi dục, gọi là hữu sở y. Biết cảnh duy tâm, tâm trí không chỗ y tựa, gọi là vô sở y.
Cộng dục bất cộng dục : Đồng cầu, là cộng. Dị cầu, là bất cộng.
Hữu biên dục … : Dục ở tại nhân vị là hữu biên, đến vị Phật quả là vô biên. Vì hoặc chướng hết.
Thiện dục … : Thuận với lý, là thiện dục. Nghịch với lý, là bất thiện dục.
Thế gian dục … : Theo dòng, gọi là thế. Ngược dòng, gọi là xuất thế.
Cầu Phật trí đức, gọi là đại trí dục.
Cầu Phật đoạn đức, gọi là tịnh dục.
Vượt qua địa vị phàm phu và Tiểu thừa, gọi là thắng dục.
Cầu thành Bồ-tát đăng địa, chứng trí Bát-nhã gọi là vô ngại trí dục.
Luận thì giải thích : Đại trí dục, là ở Chủng tánh vị. Tịnh dục, là ở Kiến vị. Thắng dục, là ở Tu vị. Vô ngại trí, là từ Bát địa trở lên, là Vô công dụng vị.
Vô ngại trí Phật … : Là ở địa vị Phật quả. Đại trí vô ngại viên minh giải thoát.
Nhiễm mà không nhiễm, gọi là thanh tịnh dục. Không nhiễm mà nhiễm, gọi là không thanh tịnh dục. Lại, nếu lìa danh lợi thế gian, gọi là tịnh. Cầu danh lợi thế gian, gọi là bất tịnh.
Cầu nhiều gọi là rộng dục. Ít cầu, gọi là hẹp dục. Lại, đại bi cứu sinh, gọi là rộng. Chuyên cầu tự thoát, gọi là hẹp.
Cầu sâu xa, gọi là tế. Cầu cạn, gọi là thô.
2. Ứng vào người : Để nói về tướng đồng của dục. Nói 10 số nhưng phần liệt kê tên thì chỉ có 8. Đó là giảm số của mười.
Nhân khổ sinh dục : Nhân nơi cái khổ bức bách của sinh tử mà đuổi theo cái lạc niết bàn. Nghĩa là, nhân khổ mà nghĩ đến lạc, như người tù cầu giải thoát.
Phương tiện dục là ở nơi các sự thiện ác, nhân nghe và tư duy mà sinh dục lạc.
Hy vọng dục là có tâm cầu mong đối với các việc vừa ý.
Trước vị dục là được rồi không bỏ.
Tùy nhân sinh dục là dục do chủng nhân đời trước mà sinh, Cũng là từ tư tưởng sinh. Kinh nói: «Dục dục biết gốc ông. Chỉ từ tư tưởng sinh. Ta nay chẳng nghĩ ông. Ông lại chẳng được sinh».
Tùy duyên sinh dục là dục do nương vào cảnh bên ngoài mà sinh. Lại, vì thiện ác mà phát ra sự hóa dẫn chúng sinh, cũng gọi là Tùy duyên sinh dục.
Không pháp chẳng cầu, gọi là tận dục. Cầu niết bàn tận diệt cũng gọi là tận dục.
Rộng cầu các pháp, gọi là nhất thiết dục. Cầu bồ-đề vô biên cũng gọi là nhất thiết dục.
Rõ biết hết lưới dục là phần tổng kết. Lưới dục có ba nghĩa :
1. Nghĩa khó thoát : Như lưới ở thế gian, chim cá vào rồi khó thoát. Do mọi thứ lưới dục mà sinh tử khó thoát. Đây là nói về dục nhiễm ô.
2. Nghĩa sàn lọc : Như lưới lọc ở thế gian. Là khởi dục thanh tịnh sàn lọc các hữu tình giúp họ ra khỏi biển khổ sinh tử. Văn kinh sau nói : «Vua trí tuệ đã nói, dục là gốc các pháp, nên khởi dục thanh tịnh, chí cầu đạo vô thượng». Đây là nói về dục thanh tịnh.
3. Nghĩa ẩn chiếu : Như lưới của trời Đế Thích. Các dục nhiễm và tịnh sai biệt đan nhau vô ngại trùng trùng tương nhập, nên nói lưới. Đây là nói về thể của dục.
ĐOẠN 5 : Lấy việc khéo biết các căn làm ví dụ.
Cũng cần hiển đầy đủ vì đồng loại, nên trong văn lược nói ‘Vì cầu trí lực của mọi thứ căn trong thập lực của Như Lai’.
ĐOẠN 6 : Lấy việc khéo biết hy vọng làm ví dụ.
Phần ‘hy vọng’ này so với ‘dục lạc’ nói trên có gì sai biệt? Nói chung thì không khác nhưng nếu phân biệt thì Dục là y cứ vào lúc đầu, nên nói trước các căn. Hy vọng là y cứ vào lúc sau, nên nói sau các căn.
ĐOẠN 7 : Lấy việc khéo biết phương tiện làm ví dụ.
Phương tiện là, tạo duyên khởi hạnh gọi là phương tiện, là phương tiện phát nghiệp nên không đồng với nghiệp.
ĐOẠN 8 : Lấy việc khéo biết tâm ý của người làm ví dụ.
Biết tâm ý , là vì cầu tha tâm trí của Như Lai. Trước, nói về tâm pháp. Đây nói về tâm thể.
ĐOẠN 9 : Lấy việc khéo biết nghiệp tướng làm ví dụ.
Biết nghiệp, là vì cầu nghiệp trí lực trong thập lực của Như Lai.
Năm đoạn trên đều lược nêu.
ĐOẠN 10 : Lấy việc khéo biết phiền não làm ví dụ.
Có hai : Trước, nêu ví dụ. Sau, hiển thắng tướng.
1. Nêu thí dụ : Nêu ví dụ để thấy không thể bì kịp.
2. Giải thích : Hiển thắng tướng.
Trong phần thắng tướng, trước hỏi vì sao?, sau giải thích.
Trong phần giải thích : Trước, không do phần hạn mà biết nên hiển lỗi này trước. Sau, là trí lực lậu tận không giới hạn nên trước nói không thể bì kịp.
Vì muốn phân biệt … là câu tổng.
Đó là … là biệt hiển. Có 18 câu, lược thành 10 môn phân biệt.
Hai câu phiền não nặng … nhẹ, là ứng vào nhẹ và nặng mà phân biệt. Suất lược[2] tâm khởi, là phiền não nhẹ. Ân hậu[3] tâm khởi, là phiền não nặng. Vi tế khởi dễ dừng, là phiền não nhẹ. Thô trọng khởi khó dứt, là phiền não nặng. Chánh sử là phiền não nặng. Tàn tập là phiền não nhẹ. Bản phiền não là phiền não nặng. Tùy phiền não là phiền não nhẹ. Trong tùy phiền não, tiểu tùy là phiền não nhẹ, thượng và trung là phiền não nặng.
Hai câu Phiền não kiết sử … triền, là ứng vào sử và triền mà phân biệt. Sử là 10 sử, là 5 kiến cùng với tham, sân, si, mạn, nghi. Triền là 10 triền, là vô tàm, vô quí, thùy miên, hối hận, san tham, tật đố, trạo cử, hôn trầm, phẩn và phú. Địa Trì Du-già chỉ nói 8 triền, không có phẩn và phú. Vì sao không có hai thứ đó? Vì có luận sư cho rằng phẩn và phú, tánh nó thuộc sử. Phẩn, thuộc sử sân tánh. Phú, thuộc sử tham tánh, là tham lợi người, che dấu lỗi mình.
Sử và triền làm sao phân biệt? Luận Tạp Tâm nói: «Căn bản gọi là sử. Tân dịch, gọi là triền cấu. Cấp phược, gọi là triền. Khinh phược, gọi là cấu». Trong đó kiết, là 9 kiết, có thể tự biết.
Hai câu Vô lượng phiền não … : Ứng vào nhân quả mà phân biệt. vô lượng phiền não của tất cả chúng sinh, là quả tham sân si mà chúng sinh đã khởi. Mọi thứ giác quán phiền não, là cái nhân phiền não từ các thứ đó phát sinh. Kinh Niết Bàn nói: «Có 8 loại giác quán…», nên nói mọi thứ. 8 thứ đó là[4] :
. Dục giác : Cầu sự vừa ý.
. Sân giác : Niệm muốn sân với người.
. Não giác : Niệm muốn não loạn người.
. Thân lý giác : Nhớ nghĩ thân duyên.
. Quốc độ giác : Nghĩ đến sự an nguy ở đời.
. Bất tử giác : Tích tài lợi dưỡng.
. Tộc tánh giác : Nghĩ đến sự cao thấp của dòng tộc.
. Khinh vũ giác : Vũ, là kiêu mạn, là niệm tự thị lấn người.
Hai câu Vô minh phiền não, ái … : Ứng vào bản và mạt phiền não mà phân biệt, cũng là ứng vào si và ái mà phân biệt. Vô minh là vô minh trụ địa. Y nơi vô minh mà khởi, là chỉ cho hằng sa thượng phiền não. Ái, là ba ái ở cõi Dục, Sắc, Hữu. Hữu ái trụ địa tương ưng đó thì cho ra phiền não của Ái tương ưng,[5] là nhân nơi ái mà sinh ưu v.v…
Bốn câu tham dục bất thiện căn … là ứng vào ba bất thiện căn mà phân biệt. Có thể tự hiểu.
Hai câu Tất cả phiền não … là ứng vào địa và khởi mà phân biệt. Tất cả phiền não, là ngũ trụ khởi. Căn bản phiền não, là ngũ trụ địa.
Hai câu Ngã ngã sở … là ứng vào lợi và độn mà phân biệt. Ngã ngã sở, là lợi. Ngã mạn, là độn.
Tà ức niệm … là ứng vào thứ lớp sinh nhau mà phân biệt. Tà ức niệm hư vọng, là ba thứ đảo tâm, tưởng và kiến. Sinh phiền não, là từ ba thứ đảo mà sinh bốn thứ đảo.
Nhân thân kiến sinh, là ứng vào hai kiến bản và mạt mà phân biệt. Vì 62 kiến đều y nơi thân kiến mà sinh, lấy đó làm gốc.
Hai câu Cái phiền não …, là ứng vào lỗi và hoạn mà phân biệt. Cái, là ngũ cái. Đó là tham, sân, thùy miên, trạo cử và nghi. Che chắn hành nhân chẳng được thiền trí nên gọi là cái (che). Chướng, là hai chướng phiền não và sở tri. Vì sở tri chướng cũng có thể gọi là phiền não nên trong câu kết, do phiền não khó thoát mà gọi chung là lưới hoặc. Do ủy tế mà biết rõ tất cả phiền não, là Nhất thiết chủng trí.[6] Đều muốn đoạn để hết hẳn, là đại từ bi.
ĐOẠN 11 : Lấy công đức cúng Phật làm ví dụ.
Có hai : Trước là nêu ví dụ. Sau hiển sự siêu vượt.
1. Nêu ví dụ : Nêu ví dụ để thấy không thể bì kịp. Có 10 lớp. Lớp đầu là biệt thuyết. Chín lớp sau là tổng thuyết.
Trong lớp đầu có bốn :
Đoạn «Trong khoảng một niệm …” : Nêu sự rộng lớn. Trước nêu phương đông, sau hiển chín phương còn lại.
Trong phương đông có năm :
. Trong một niệm thấy nhiều Phật nhiều chúng sinh.
. Tự mình cúng dường nhiều, trong nhiều thời.
. Khuyên chúng sinh đồng cúng dường với mình.
. Tự mình xây tháp thù thắng cúng dường.
. Khuyên người cũng đồng xây tháp cúng dường.
Đoạn «Ý ông thế nào …», là đối với việc đó mà hỏi rộng lớn chăng?
Đoạn «Đế Thích đáp rằng …», là trả lời việc đó cực rộng lớn.
Đoạn «Pháp Tuệ đáp rằng …» là so sánh để hiển sự thù thắng.
2. Giải thích : Hiển sự siêu vượt. Có hai : Trước hỏi, sau giải thích.
. Ý hỏi rằng : Như ở phương đông, một niệm liền thấy vô biên chư Phật. Dùng niệm lực này trải qua vô lượng kiếp cúng dường để thấy Phật v.v…. rất rộng lớn. Như ở phương đông, chín phương còn lại cũng như vậy, là hiển sự cực rộng lớn. Một người đã vậy, còn khuyên tất cả chúng sinh khác cũng như vậy, huống là gấp bội trước. Đến lớp thứ mười thì phần hạn công đức khó biết. Vì sao ngay cả với phần công đức chẳng thể nói cũng chẳng bằng một so với công đức của sự phát tâm, nên hỏi vì sao?
. Trong phần giải thích, câu «Vì công đức của Bồ-tát đó không vì giới hạn trong việc cúng dường Như Lai … », là nói ‘không bị giới hạn …’ nên công đức phát tâm hơn công đức cúng dường trước. Câu kế «Vì muốn cúng dường ba đời chư Phật ở mười phương… », là nói ‘không có phần hạn’, nên hiển công đức phát tâm lớn hơn công đức cúng dường. Tướng vượt hơn tuy vô lượng, nhưng đại lược có 6 loại.
1. Xứ vượt hơn : Muốn cúng dường hết vô tận thế giới xứ Phật như vô tận pháp giới, hư không v.v… ở mười phương, bao gồm cả xứ Đế võng v.v…, nên không đồng với trước.
2. Thời vượt hơn : Gồm hết chư Phật ba đời, là gồm cả chín đời, mười đời v.v… vô tận trùng trùng thời.
3. Phật vượt hơn : Gồm tất cả cảnh giới Phật của chư Phật, thảy đều cúng dường, nên không chỉ như trước.
4. Cúng dường vượt hơn : Trong tất cả pháp giới thì tự và tha, sắc và tâm, lý và sự, hạnh v.v… đều lấy đó cúng dường, nên không chỉ như trước.
5. Tâm vượt hơn :Với vô tận Phật cảnh, mỗi một chỗ Phật đều dùng vô tận sự cúng dường, đều trải qua vô tận thời cúng dường, tâm vẫn không tận, nên vượt hơn trước.
6. Hạnh vượt hơn : Rõ thấu năng sở, ba việc bình đẳng, viên dung, vô ngại, nên vượt hơn.
Hỏi : Chỉ có thể so sánh chung chung mà nói không bằng thì được, với phần công đức không thể nói há có thể chẳng bằng một sao?
Đáp : Công đức phát tâm đồng với pháp giới, bất khả phân. Dù với phần công đức không thể nói, một phần cũng biến khắp pháp giới. Không hỏi nhiều ít, đều không thể so sánh. Như lúa gạo của thường trụ tăng, một hộc cũng biến khắp mười phương tăng, cho đến một lẻ cũng biến khắp mười phương tăng. Do đó bất khả phân.
3. Ngay nơi tướng nói về chỗ thâm sâu : Đoạn «Phát tâm này rồi …»
Có hai : Trước nêu, sau giải thích.
1. Nêu lên :
Phát tâm này rồi, là nhắc lại tâm được so hơn ở các ví dụ trước, là hiển từ phát tâm.
Biết được vô thượng…, là nói về công đức sâu xa. Trong đó, đầu tiên là nhiếp nhân tận cùng nên nói sâu xa. Kế là đồng với Phật quả nên nói sâu xa, là phát tận cùng tâm bồ-đề hậu tế, là Phật cảnh tối cùng. Đây là nêu cảnh sở tri, là biết công đức và trí tuệ của ba đời chư Phật.
Đại Bồ-tát này đều tin hướng …, là thành tựu thâm hạnh. Tin hướng, là Thập tín. Thọ trì, là Thập trụ. Tu tập, là Thập hạnh và Thập hồi hướng. Đắc chứng, là Sơ địa trở lên. Thân chứng, là mãn Thập địa trở lại. Lại, nội chứng là đắc chứng. Cùng với bên ngoài hiện rõ, nên nói thân chứng. Như trong Tiểu thừa, lấy Diệt tận định làm thân chứng, đây cũng đồng. Trước là hạnh chứng, sau là vị chứng. Trước là trí tương ưng, sau là thân tương ưng. Cũng có thể hiểu đắc chứng là ứng vào nhân tròn, thân chứng là ứng vào quả mãn. Đều đồng với …, là đồng với Phật quả, nên nói sâu xa.
2. Giải thích : Giải thích hai việc đã nêu trên. Có ba : 1/Giải thích nhân đồng. 2/Giải thích quả đồng. 3/ Kết lại phần hạn của nhân.
1.Giải thích nhân đồng : Có hai : Trước hỏi. Sau giải thích.
Hỏi : Hỏi vi sao là vì sao biết sơ phát tâm rồi thì có thể chứng đắc đại phúc trí của ba đời chư Phật?
Giải thích : Có 20 câu. Muốn hiển đồng với âm sở hành lộ của ba đời Phật âm, nên nói đồng. 11 câu đầu là ngoại hóa đức, là bi đức. 9 câu sau là nội tự đức, là Trí đức.
- Trong 11 câu, câu đầu là tổng, 10 câu sau là biệt.
Muốn không đoạn tánh … là giáo hóa chúng sinh khiến phát tâm bồ-đề, tiếp thừa Phật chủng, nên nói không đoạn.
Muốn khiến tâm từ bi đầy khắp, là khởi tâm thương xót chúng sinh.
Muốn độ thoát tất cả chúng sinh, là khởi ý cứu độ.
Muốn biết tất cả thế giới thành bại, là biết trụ xứ của nơi giáo hóa.
Muốn biết cấu tịnh khởi , là biết từng loại riêng của nơi giáo hóa, là biết nghiệp thiện ác khởi quả báo khổ vui, nên nói cấu tịnh khởi. Cũng là Nghiệp trí lực trong Thập lực.
Muốn khiến chúng sinh trong ba cõi được thanh tịnh, là khởi ý quảng đại, cũng là khiến lìa nghiệp chướng.
Muốn biết tâm niệm và tập phiền não, là biết hoặc chướng nặng nhẹ của nơi giáo hóa. Cũng là cầu Lậu tận trí lực. Cũng là khiến đoạn phiền não chướng.
Muốn biết chúng sinh chết đây sinh kia, là biết tướng luân chuyển. Cũng là Thiên nhãn trí lực. Cũng là khiến xả báo chướng.
Muốn biết hết các căn phương tiện, là biết căn thuần thục hay chưa thuần thục, là khởi hạnh sở y, chính là Chư căn trí lực.
Muốn biết hết tâm tâm hạnh …, là biết tâm tạo tu chánh minh khởi hạnh. Cũng là Tha tâm trí lực.
Muốn biết tất cả chúng sinh trong…, là tổng kết sở tri. Cũng là Tam đạt trí lực.
- 9 câu sau là cầu công đức tự lợi của Phật. Câu đầu là tổng. 8 câu sau là biệt.
Một câu đầu muốn biết hết công đức đầy đủ … là câu tổng.
Hai câu kế là nhân quả phân biệt. Muốn biết hết bồ-đề vô thượng là biết quả bồ-đề. Muốn biết hết tịnh pháp đầy đủ là biết nhân bồ-đề, chính là tịnh pháp.
Hai câu kế là lý hạnh phân biệt. Muốn biết hết tướng pháp bình đẳng, là biết lý pháp bình đẳng. Muốn biết hết trí tuệ vô thượng và nhân duyên thanh tịnh…, là biết trí hạnh thanh tịnh.
Bốn câu kế là thể đức phân biệt. Ba câu đầu là Phật đức. Muốn biết hết lực trí tuệ trưởng dưỡng ba đời chư Phật, là Thập lực. Muốn đầy đủ pháp vô úy của ba đời chư Phật, là được cái đức không sợ. Muốn trang nghiêm đầy đủ pháp bất cộng, là được pháp bất cộng. Câu cuối Muốn biết hết pháp giới đẳng đồng…, là Phật thể, là thật trí bình đẳng.
2. Giải thích quả đồng : Trước hỏi, khởi phần giải thích sau. Phần giải thích có ba : Đầu là tổng, hai là biệt, ba là kết.
Chính là Phật, là câu tổng. Có người giải thích ‘là trong nhân nói quả’. Hoặc giải thích ‘kiến giải đồng với Phật cảnh’. Hoặc giải thích ‘Ứng với lý bình đẳng’. Nếu ứng với giáo của Tam thừa thì nói như vậy là được.
Nay, y vào văn kinh trước sau, ứng với giáo của Nhất thừa mà nói, thì thủy và chung tương nhiếp, viên dung, vô ngại. Được thủy tức là chung. Tận chung mới nguyên thủy. Một, là do môn Đà-la-ni duyên khởi tương nhiếp. Hai, là do tâm bồ-đề Phổ Hiền biến khắp sáu vị, ngay nơi nhân là quả. Ba, là do pháp tánh không có thủy chung. Phát tâm nhập thủy chính là nhập chung. Cho nên, văn kinh trước nói: «Khi mới phát tâm, liền thành chánh giác, đầy đủ tuệ thân, không do nơi khác mà ngộ» là đây.
Trong phần biệt, có 15 câu. 5 câu đầu, ứng vào nội đức của Phật sung mãn v.v… 10 câu sau, ứng vào hóa dụng bên ngoài của Phật đầy khắp v.v…
Trong 5 câu, câu đầu Đều bình đẳng với ba đời chư Phật là tổng. 4 câu sau là biệt. Trong phần biệt, hai câu đầu là pháp sở y : Bình đẳng với tam thế Phật cảnh giới, là cảnh chân đế. Bình đẳng với tam thế Phật chánh pháp, là cảnh tục đế. Hai câu sau là đức năng y: Được nhất thân và … trí tuệ …, là được thân và trí của Phật.
10 câu sau là nói về ngoại dụng. Câu đầu là tổng, 9 câu sau là biệt.
Chúng sinh giáo hóa cũng đồng, là câu tổng.
3 câu kế là giáo hóa khiến thoát khổ.
Chấn động tất cả … , là động để sinh tín tâm.
Chiếu khắp tất cả … , là chiếu để sợ mà tỉnh giác.
Ngưng dứt các áo đạo khổ , là chánh để khiến thoát khổ.
5 câu kế là giáo hóa khiến nhập pháp.
Nghiêm tịnh tất cả, là trang nghiêm chỗ giáo hóa.
Đều thị hiện thành Phật, là hiện thành Phật.
Khiến chúng sinh đều được hoan hỉ, là hiện thông để khiến chúng hoan hỉ.
Khiến chúng sinh hiểu sâu pháp giới : Chánh, khiến nhập pháp.
Hộ trì chủng tánh của chư Phật : Nhập pháp rồi, hộ niệm khiến chẳng mất.
Câu cuối được trí tuệ quang minh…, là trí ngoại hóa.
Cũng có thể giải thích :
Trong 15 câu, câu đầu là tổng, 14 câu sau là biệt. Trong phần biệt, Năm câu đầu là Trí chánh giác thế gian tự tại đồng. Trong đó, hai câu đầu là ứng vào pháp đồng : Một là sở duyên và phần hạng đồng. Hai là lý giáo đồng. Ba câu sau là ba nghiệp đồng. Vì nơi giáo hóa, là ứng với ngữ nghiệp mà nói.
Bốn câu tiếp, là nói Khí thế gian tự tại đồng. Trong đó, một là động, hai là chiếu, ba là trừ, bốn là nghiêm.
Năm câu tiếp nữa, là nói Chúng sinh thế gian tự tại đồng. Trong đó, một là hiện thành Phật, hai là khiến hân hoan, ba là trao pháp, bốn là hộ trì, năm là đắc quả. Nếu không hộ trì thì sợ rơi vào Nhị thừa.
3. Kết lại phần hạn của nhân :
Chẳng lìa chư Phật … là nói về các pháp Tam bảo, chúng sinh, nhiễm tịnh v.v…. Đây có hai nghĩa :
. Do Bồ-tát được cái thân thông cả ba đời, nên thường trùm khắp tam tế, không chỗ nào không trụ được.
. Do Bồ-tát được cái thân là pháp giới, dọc thì bao hàm nhiễm tịnh, ngang thì trùm khắp tam tế, nên nói chẳng xa lìa.
Phần còn lại có thể tự hiểu.
2. Chứng thành : Có hai :
1. Hiển cái thật : Đoạn «Lúc ấy, do thần lực của Phật …». Có bốn : Một, là động địa. Hai, là mưa cúng dường. Ba, là chấn âm. Bốn, là phóng quang.
2. Chứng thành : Đoạn «Lúc ấy, qua khỏi thập Phật sát trần …». Có hai : Trước là hiện thân tác chứng. Sau là tác chứng lợi ích.
1. Hiện thân tác chứng : Vì sao Phật tự tác chứng? Vì ngay khi sơ phát tâm, liền nhiếp Phật nhân và Phật quả. Việc này khó tin nên Phật tự tác chứng. Cũng là hiển nhân quả đồng tánh. Cũng là hiển nhân quả nhiếp thành ở vị thắng tiến.
2. Tác chứng lợi ích của việc thuyết pháp : Hiển bày trong tất cả các thế giới, những gì Pháp Tuệ đã nói là có lợi ích. Nói để biết pháp đó quyết định chẳng hư dối. Cũng vì pháp đó khó tin nhận nên có sự tác chứng. Do tạng tâm này nhiếp đức viên tịnh, nên gọi là Tịnh Tâm Như Lai.
Từ trên đến đây, nói trong một thế giới xong.
II. KẾT THÔNG MƯỜI PHƯƠNG : Có hai :
1. Hiển pháp trùm khắp vô tận thế giới : Đoạn «Trên điện Diệu Thắng … có tên là Pháp Tuệ»
2. Giải thích lý do trùm khắp : Vì sao pháp này trùm khắp mười phương, nơi thuyết, người thuyết, pháp được thuyết cùng với sự tác chứng đều đồng? Có 10 câu :
Do thần lực của Phật : Đây là Phật Xá-na cùng với tất cả chư Phật đều lấy lực uy thần hiện tại đồng chung gia trì nên khiến như thế.
Do bản nguyện lực : Được bản nguyện lực của chư Phật nhiếp trì.
Do hiển thị phật pháp : Vì muốn hiển thị pháp sở đắc của Phật, lý số như vậy trùm khắp mười phương.
Do quang minh trí tuệ chiếu khắp : Quang minh Phật trí khiến chiếu khắp.
Do hiểu đệ nhất nghĩa : Muốn khiến hiểu và ngộ chân lý trùm khắp.
Do pháp như vậy : Pháp giới duyên khởi cùng theo pháp nhĩ, nên cần thuyết khắp.
Do các Bồ-tát hoan hỉ : Vì người thích đại pháp mà chỉ dạy pháp xứng tánh quảng đại khiến họ hoan hỉ.
Do tán thán công đức của chư Phật : Phật đức trùm khắp, muốn tán thán đầy đủ.
Do biết chư Phật bình đẳng : Hiển thị tất cả chư Phật ở mười phương đồng pháp sở đắc, vì bình đẳng không có sai biệt.
Do hiểu pháp giới không hai : Vì khiến hiểu biết mười phương pháp giới không có hai vết.
Do 10 nghĩa trên mà nói trùm khắp. Nói 10 nghĩa cũng là phép tắc hiển sự vô tận. Nghĩa kết thông ở các văn trước sau đều theo đó mà hiểu.
Phần trường hàng nói về thế giới này và các thế giới khác, tổng thành tất cả xứ trong vô tận thế giới, tới đây là xong..
TRÙNG TỤNG
Phần đại đoạn kệ tụng tổng nhiếp này có hai : Một, là Tự thuyết ý. Hai, là Chánh trùng hiển.
I. Ý TỰ THUYẾT : Đoạn “Lúc ấy, Bồ-tát Pháp Tuệ quán khắp mười phương…”. Có 10 câu.
. Quán khắp mười phương : Vì vô tận thế giới ở mười phương đồng nói pháp này.
. Quán khắp tất cả đại chúng : Muốn khiến tất cả chúng hải ở mười phương đều đồng nghe.
. Quán hư không giới : Hiển tự tâm như hư không không bị hạn cuộc.
. Quán chúng sinh giới : Quán thành tựu pháp môn của chúng sinh.
. Không trái nghiệp báo, thanh tịnh như hư không giới : Quán xứng pháp tánh như hư không tuy tịnh mà nhân quả không mất.
. Muốn bạt cấu uế cho chúng sinh … : Muốn khiến lìa hoặc.
. Muốn khiến chúng sinh được đại giải thoát : Được giải thoát của Nhất thừa.
. Muốn biết chủng chủng các căn : Muốn liễu đạt căn hải. …
. Quán chánh thú niết bàn ba đời : Hội duyên nhập thật.
. Hiện các công đức thanh tịnh của tự thân : Hiện công đức phát tâm vô tận của mình khiến chúng sinh thấy rồi, liền tu tập.
II. CHÁNH TRÙNG HIỂN : Có 241 ½ bài kệ. Phân làm bốn :
1/ 163 ½ bài kệ đầu tụng lại phân đoạn thứ ba trên : Có 27 đoạn.
Kệ (1) đến (6) : Tụng lại phần văn kinh “Vì muốn tâm từ bi đầy khắp …”.
Kệ (7) đến (13) : Tụng lại các phần kinh muốn biết tất cả thế giới rộng hẹp tương tức tương nhập v.v…, là hiển tác dụng lợi sinh v.v…
Kệ (14) đến (16) : Tụng lại các phần kinh “Muốn không đoạn tánh của …” v.v…
Kệ (17) (18) : Tụng lại phần văn kinh “Đều được trí tuệ quang minh của chư Phật”.
Kệ (19) (20) : Tụng lại các phần kinh đều muốn biết mọi thứ nghiệp, mọi thứ tâm, mọi thứ căn tánh v.v…’.
Kệ (21) đến (26) : Tụng lại các câu kinh “Muốn được pháp giới …’ v.v… và “Bình đẳng với ba đời chư Phật’.
Kệ (27) (28) : Tụng lại phần kinh “Cúng dường tất cả Phật…”.
Kệ (29) đến (36) : Tụng lại phần kinh “Biết hết trí tuệ vô thượng và nhân duyên …”. Vì trí tuệ và nhân duyên là tam muội thậm thâm và cảnh sở sinh của chân như. Trong đó, đều hiển tác dụng của thông tuệ.
Kệ (37) đến (45) : Tụng lại các câu “Độ thoát chúng sinh …” v.v…
Kệ (46) đến (48) : Tụng lại các câu “Biết thế giới thành hoại …” v.v… Vì sự thành hoại này chỉ là Phật trí cảnh. Nay tin Phật vô ngại nên cũng biết rõ.
Kệ (49) đến (53) và ½ : Tụng lại phần “Ngưng dứt các ác đạo khổ …”.
Kệ (54) đến (60) : Tụng lại phần “Đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới…”. Nói luôn cõi được chiếu, trong đó có Phật thuyết pháp.
Kệ (61) đến (64) : Tụng lại các câu “Tam thế Phật chánh pháp …” v.v…
Kệ (65) đến (75) : Tụng lại phần văn kinh “Ở nơi tất cả thế giới đều thị hiện thành Phật…” v.v...
Kệ (76) đến (83) : Tụng lại các câu “Trí tuệ bình đẳng của ba đời chư Phật…” v.v…
Kệ (84) đến (91) : Tụng lại các câu “Được nhất thân và vô lượng thân ...” v.v…
Kệ (92) đến (101) : Cũng tụng lại các câu đồng với cảnh giới của ba đời chư Phật. Đây là phần hạn cảnh giới. Có 10 loại đồng : 1/Lìa nhiễm đồng. 2/Cứu sinh đồng. 3/Trí tuệ đồng. 4/Tướng hảo đồng. 5/Sở tri đồng. 6/Chứng lý đồng. 7/Thâm định đồng. 8/Hạnh kiên đồng. 9/Tâm an đồng. 10/Đầy khắp đồng.
Kệ (102) (103) : Nêu công đức khuyên tu.
Kệ (104) đến (107) : Nêu phần hạn của giáo thuyết.
Hai phần này không tụng lại phần văn kinh đã nói.
Kệ (108) đến (113) : Tụng lại phần văn kinh : Được trí tuệ và quang minh của ba đời chư Phật. Vì soi chiếu tục cảnh mà thường ở tại chân.
Kệ (114) đến (117) : Tụng lại phần văn kinh : Đều hay nghiêm tịnh tất cả thế giới.
Kệ (118) đến (125) : Tụng lại các câu : Chúng sinh được chư Phật giáo hóa thảy đều đồng v.v...
Kệ (126) đến (129) : Tụng lại phần văn kinh : Biết số kiếp ngắn dài tương tức tương nhập.
Kệ (130) đến (141) : Tụng lại phần văn kinh : Bồ-tát sơ phát tâm được trí Thập lực của Phật.
Kệ (142) đến (150) : Tụng lại phần văn kinh : Đều có thể chấn động vô lượng thế giới, là nhập đế võng v.v…
Kệ (151) đến (157) : Tụng lại các phần văn kinh : Đều muốn trưởng dường trí tuệ của chư Phật.
Kệ (158) đến (163) : Tụng lại phần văn kinh : Bồ-tát không lìa Chư Phật, Bồ-tát, Nhị thừa và chúng sinh.
Từ trên đến đây là tụng chung về phân đoạn ba. Ngay nơi tướng mà luận, xong.
2/ 29 bài kế tụng lại phân đoạn hai ứng vào các thí dụ trên : Phân làm sáu.
Kệ (164) đến (169) : Tụng lại ví dụ lợi sinh đệ nhất.
Kệ (170) đến (171) : Tụng lại ví dụ đi qua các quốc độ.
Kệ (172) đến (175) : Tụng lại ví dụ số kiếp.
Kệ (176) đến (181) : Tụng lại 5 ví dụ Dục v.v… Đó là : 1/Dục. 2/Hy vọng. 3/Căn. 4/Phương tiện. 5/Tâm pháp. Hợp lại có thể biết.
Kệ (182) đến (185) : Tụng lại phần ví dụ thứ chín và thứ mười : Biết nghiệp và phiền não.
Kệ (186) đến (192) : Tụng lại thí dụ thứ mười một : Cúng dường chư Phật.
Phần tụng lại các thí dụ xong.
3/ 39 bài kế tụng câu tán thán đầu tiên, hiển sự thậm thâm : Phân làm bảy.
Kệ (193) đến (199) : Tụng lại câu tổng thậm thâm đầu tiên. Vì thâm triệt Phật quả, thâm vượt các cõi, thâm đồng pháp tánh, thâm dụng trùm khắp, thâm trí biết xa, đều như văn kinh đã nói.
Kệ (200) đến (206) : Tụng lại phần thậm thâm khó biết thứ hai. Kệ (200) đến (203) nói về sự sâu rộng khó biết. Kệ (204) và (205) là Phật dùng thâm đức gia trì khó biết. Kệ (206) là câu kết đức khó biết. Vì công đức như hư không, không phải tính đếm mà có thể biết, nên nói khó biết.
Kệ (207) đến (211) : Tụng lại phần thậm thâm khó tin. Vì do Sơ phát tâm liền thành Phật quả, công đức vô biên, là việc khó tin nhận.
Kệ (212) đến (219) : Tụng lại phần thậm thâm khó hiểu. Vì khiến chỗ an lạc mà Nhị thừa tam giới có được vẫn ở tại Bồ-tát sơ phát tâm. Việc này khó hiểu, nên trong văn kinh từ kệ (212) đến (215) nêu hai vị được chỗ an lạc. Mỗi vị hai bài kệ. Kệ (216) đến (219) giải thích lý do hai vị ấy được sự an lạc. Mỗi vị hai bài kệ.
Kệ (220) đến (224) : Tụng lại phần thậm thâm khó nói. Vì trí sâu, đức rộng, nghiệp dụng nhiều, đa ngôn nói khó đến, nên nói xưng tán chẳng thể tận.
Kệ (225) đến (228) : Tụng lại phần thậm thâm khó thông, là tâm trụ bình đẳng vì chúng thuyết pháp. Hai vị tương nghịch khiến cực tương thuận, nên rất khó thông hội.
Kệ (229) đến (231) : Tụng lại phần thậm thâm khó phân biệt. Vì vị sơ tâm đồng với ranh hạn Phật vị, khó phân biệt.
4/ 10 bài cuối tổng kết, tán thán hiển sự thù thắng : Kết, tán thán và khuyên tu.
Kệ (232) (233) : Nêu đức khuyên tu.
Kệ (234) (235) : Tụng lại công đức sâu rộng.
Kệ (236) đến (239) : Tụng lại năng lực thù thắng của đức dụng.
Kệ (240) đến (241) : Khuyên học cứu cánh.
[1] Tính vốn không nhưng nếu đủ duyên để sinh khởi thì thành chướng.
[2] 率略心起
[3] 慇厚心起
[4] Bản Hán không có, thêm vào để hiểu.
[5] (99, 2, 4) 是有愛住地相應是與愛相應之煩惱也
[6]由委細了知一切煩惱是一切種智.
(CAKKAVATTI SÌHANÀDA SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
- Này các Tỷ-kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác!
Này các Tỷ-kheo, thế nào là một Tỷ-kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên tự thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham sân ở đời, trên các cảm thọ... trên các tâm... sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để có thể diệt trừ tham sân ở đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác.
Này các Tỷ-kheo, hãy đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại. Này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại, thì Ma vương sẽ không có cơ hội để xâm nhập, không có cơ hội để nhắm vào đối tượng. Này các Tỷ-kheo, chính nhờ nhiếp trì các thiện pháp làm nhân duyên mà công đức này được tăng thịnh.
- Này khanh, khi nào khanh thấy Thiên luân báu có lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ, thì báo cho Ta biết.
- Tâu Đại vương, xin vâng!
Này các Tỷ-kheo người ấy vâng theo lời dạy vua Dalhanemi.
Này các Tỷ-kheo, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, người ấy thấy Thiên luân báu lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ. Thấy vậy, người ấy liền đến vua Dalhanemi, khi đến xong, liền báo cho vua biết:
- Đại vương có biết chăng, xe báu cõi trời của Ngài đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ?
Này các Tỷ-kheo, vua Dalhanemi liền cho mời Thái tử và nói rằng:
- Này Thái tử thân yêu, xe báu cõi trời của ta đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ. Ta nghe nói như sau: "Nếu xe báu cõi Trời của Chuyển luân Pháp vương lặn xuống và rời khỏi vị trí cũ, thời vua còn sống không bao lâu nữa". Ta đã thọ hưởng dục lạc loài Người một cách đầy đủ. Nay đã đến lúc tìm cầu dục lạc chư Thiên. Này Thái tử thân yêu, hãy trị vì trái đất này cho đến hải biên. Ta sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Tỷ-kheo, vua Dalhanemi sau khi đã khéo đặt Hoàng tử con đầu trên ngôi vương vị, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này các Tỷ-kheo, sau khi vị vua ẩn sĩ xuất gia bảy ngày, xe báu cõi Trời liền biến mất.
- Tâu Đại vương, Ngài đã biết xe báu cõi Trời đã biến mất chưa?
Này các Tỷ-kheo, khi vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nghe tin xe báu cõi Trời đã biến mất, liền không được vui, cảm thấy sầu muộn. Rồi vua ấy đến chỗ vua ẩn sĩ ở, khi đến xong, thưa với vua ẩn sĩ:
- Đại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời đã biến mất!
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, vua ẩn sĩ nói với vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ:
- Này Thái tử thân yêu, chớ có không vui vẻ, chớ có sầu muộn. Này Thái tử thân yêu, xe báu cõi Trời không phải là gia bảo tổ tiên để lại. Này Thái tử thân yêu, hãy hành trì Thánh vương Chánh pháp. Sự tình này sẽ xảy ra, khi con hành trì Thánh vương Chánh pháp vào ngày rằm Bố-tát, con gội đầu trai giới, đi lên lầu cao, thì xe báu cõi Trời sẽ hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận.
- Này Thái tử thân yêu, con y cứ vào Pháp, kính trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, tôn trọng Pháp, tự con trở thành Pháp tràng, Pháp kỳ, xem Pháp là thầy, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, cho quân đội, cho Sát-đế-lỵ, cho quần thần, cho Bà-la-môn, cho Gia chủ, cho thị dân, thôn dân, cho Sa-môn, Bà-la-môn, cho các loài thú và loài chim. Chớ có làm gì phi pháp trong quốc độ của con. Này con thân yêu, nếu trong quốc độ của con, có người không có tiền của, hãy đem tiền của cho người ấy. Này con thân yêu, nếu trong quốc độ của con, có những Sa-môn, Bà-la-môn từ bỏ dục vọng, không phóng dật, thực hành nhẫn nhục từ ái, nhiếp phục tự kỷ, an chỉ tự kỷ, giải thoát tự kỷ, thỉnh thoảng sẽ đến với con và hỏi con: "Này Tôn giả, thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là không có tội, như thế nào nên thực hành, như thế nào không nên thực hành, hành động như thế nào đem lại bất lợi và đau khổ cho tôi lâu ngày, hành động như thế nào đem lại lợi ích và hạnh phúc cho tôi lâu ngày?" Con hãy nghe họ và ngăn chận họ khỏi sự bất thiện và khuyến khích họ làm điều thiện. Này con thân yêu, như vậy là Thánh vương Chánh pháp.
- Thưa vâng, tâu Đại vương!
Này các Tỷ-kheo, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ trả lời vua ẩn sĩ và thực hành Thánh vương Chánh pháp. Khi thực hành Thánh vương Chánh pháp vào ngày rằm Bố-tát, vua gội đầu trai giới, đi lên lầu cao, thì xe báu cõi Trời hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận. Thấy vậy vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nghĩ rằng: "Ta được nghe nói như sau: "Quán đảnh vương Sát-đế-lỵ nào vào ngày rằm Bố-tát gội đầu trai giới, đi lên lầu cao và Thiên bảo luân hiện ra đầy đủ ngàn tăm, vành xe, trục xe và đầy đủ các bộ phận, thì vị vua ấy là Chuyển luân Thánh vương." Như vậy ta là Chuyển luân Thánh vương."
- Hãy đến đây, Đại vương! Thiện lai. Đại vương! Tất cả đều thuộc của Đại vương! Đại vương hãy thuyết giảng!
Chuyển luân Thánh vương bèn nói:
- Chớ có sát sanh! Chớ có lấy của không cho! Chớ có sống tà hạnh trong các dục! Chớ có nói láo! Chớ có uống rượu! Và hãy thọ hưởng theo những gì đã có để thọ hưởng!
Này các Tỷ-kheo, các vị vua thù nghịch ở hướng Đông đều trở thành chư hầu của Chuyển luân Thánh vương.
- Hãy đến đây, Đại vương! Thiện lai, Đại vương! Tất cả đều thuộc của Đại vương! Đại vương hãy thuyết giảng!
Chuyển luân Thánh vương bèn nói:
- Chớ có sát sanh! Chớ có lấy của không cho! Chớ có sống tà hạnh trong các dục! Chớ có nói láo! Chớ có uống rượu! Và hãy thọ hưởng những gì đã có để thọ hưởng!
Này các Tỷ-kheo, các vua thù nghịch ở hướng Bắc đều trở thành chư hầu của Chuyển luân Thánh vương.
Này các Tỷ-kheo, khi xe báu ấy chinh phục quả đất cho đến hải biên, liền trở về kinh đô, và đứng lại như là dính liền trước cửa điện công lý, trong nội cung Chuyển luân Thánh vương và chói sáng nội cung của vua.
- Này Khanh, khi nào Khanh thấy xe báu cõi Trời có lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ, thì báo cho ta biết.
- Tâu Đại vương, xin vâng!
Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng theo lời dạy Chuyển luân Thánh vương.
Này các Tỷ-kheo, sau nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, người ấy thấy xe báu cõi Trời lặn xuống một ít, có rời khỏi vị trí cũ. Thấy vậy, người ấy liền đến Chuyển luân Thánh vương, khi đến xong liền báo cho vua biết:
- Đại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời của Ngài đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ?
Này các Tỷ-kheo, Chuyển luân Thánh vương liền cho mời Thái tử và nói rằng:
- Này Thái tử thân yêu, xe báu cõi Trời của Ta đã lặn xuống một ít, đã rời khỏi vị trí cũ. Ta nghe nói như sau: "Nếu Thiên bảo luân của Chuyển luân Thánh vương có lặn xuống một ít, và rời khỏi vị trí cũ, thì vua còn sống không bao lâu nữa." Ta đã thọ hưởng dục lạc loài Người một cách đầy đủ. Nay đã đến lúc tìm cầu dục lạc chư Thiên. Này Thái tử thân yêu, hãy trị vì trái đất này cho đến hải biên. Ta sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Tỷ-kheo, Chuyển luân Thánh vương sau khi đã khéo đặt Thái tử con đầu trên ngôi vương vị, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Tỷ-kheo, sau khi Chuyển luân Thánh vương xuất gia bảy ngày, xe báu cõi Trời ấy biến mất.
- Đại vương có biết chăng, xe báu cõi Trời đã biến mất?
Này các Tỷ-kheo, khi vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nghe tin xe báu cõi Trời đã biến mất, liền không được vui vẻ và cảm thấy sầu muộn. Vua ấy không đến chỗ vua ẩn sĩ và hỏi về Thánh vương Chánh pháp. Vị ấy tự cai trị quốc gia theo ý của mình. Vì cai trị quốc gia theo ý của mình, nên quốc gia không được hưng thịnh như trong thời xưa, khi các vua chúa cai trị theo Thánh vương Chánh pháp.
Này các Tỷ-kheo, rồi các vị đại thần, cận thần, tài chánh quan, các cận vệ, các thủ môn quan, các vị sống bằng bùa chú tụ họp lại, cùng đến vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ và nói:
- Tâu Đại vương, vì Đại vương cai trị quốc gia theo ý Đại vương, nên quốc gia không được hưng thịnh, như trong thời xưa, các vua chúa cai trị theo Thánh vương Chánh pháp. Nay có các vị đại thần, cận thần, tài chánh quan, các cận vệ, các thủ môn quan, các vị sống bằng bùa chú, chúng tôi và một số các vị khác thọ trì Thánh vương Chánh pháp. Tâu Đại vương, nếu Đại vương hỏi chúng tôi về Thánh vương Chánh pháp, được hỏi, chúng tôi sẽ trả lời cho Đại vương rõ về pháp này.
- Tâu Đại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, hành động này được gọi là ăn trộm.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe vậy vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nói với người ấy:
- Này Ngươi, có phải Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm?
- Tâu Đại vương, sự thật có vậy.
- Sao lại làm vậy?
- Tâu Đại vương, con không có gì sống!
Này các Tỷ-kheo, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ liền cho người ấy tiền của và nói:
- Này Ngươi, với tiền của này Ngươi hãy tự nuôi dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, tiến hành các công việc, thực hiện sự cúng dường với công đức tối thượng cho các vị Sa-môn, mà kết quả là hưởng lạc thọ hiện tại và sanh Thiên giới trong tương lai...
Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng theo lời vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ và tâu:
- Thưa vâng, Đại vương!
- Tâu Đại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe vậy, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nói với người ấy:
- Này Ngươi, có phải Ngươi lấy của không cho của những người khác không, tức là ăn trộm?
- Tâu Đại vương, sự thật có vậy.
- Sao lại làm vậy?
- Tâu Đại vương, con không có gì sống!
Này các Tỷ-kheo, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ liền cho người ấy tiền của và nói:
- Này Ngươi, với tiền của này, Ngươi hãy tự nuôi dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, tiến hành các công việc, thực hiện sự cúng dường với công đức tối thắng cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, mà kết quả là lạc thọ hiện tại và sanh Thiên giới trong tương lai.
Này các Tỷ-kheo, người ấy vâng theo lời vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ và tâu:
- Thưa vâng, Đại vương!
Này các Tỷ-kheo, lại một người khác lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm. Người ta bắt anh ta và dẫn đến trước vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ và tâu vua:
- Tâu Đại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nói với người ấy:
- Này Ngươi, có phải Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm?
- Tâu Đại vương, sự thật có vậy?
- Sao lại làm vậy?
- Tâu Đại vương, con không có gì để sống!
Này các Tỷ-kheo, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ suy nghĩ: "Nếu ai lấy vật không cho của những người khác tức là ăn trộm và ta cho họ tiền của, thì lấy vật không cho như vậy tăng trưởng. Nay ta phải ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu nó!"
Này các Tỷ-kheo, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ ra lệnh cho các người:
- Này các Khanh, hãy lấy dây thật chắc, cột tay ra đàng sau với gút thật chặt, cạo đầu nó, dắt nó đi với tiếng trống khe khắt, từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, dắt nó ra khỏi cửa phía Nam, ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu nó.
- Tâu Đại vương, thưa vâng!
Này các Tỷ-kheo, các người ấy vâng theo lệnh của vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ, lấy dây thật chắc cột tay ra đàng sau với gút thật chặt, cạo đầu anh ta, dắt anh ta đi với tiếng trống khe khắt, từ đường này đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, dắt anh ta ra khỏi cửa phía Nam, ngăn chận triệt để người ấy, hình phạt thích đáng và chặt đầu anh ta.
Nghe vậy, những người ấy nghĩ: "Chúng ta hãy rèn kiếm cho thật bén, với những kiếm bén này, chúng ta sẽ lấy vật không cho của họ tức là ăn trộm, sẽ ngăn chận triệt để chúng, hình phạt thích đáng chúng và chém đầu họ".
Những người ấy rèn kiếm bén, sau khi rèn kiếm bén xong, họ đi cướp làng, họ đi cướp thôn xóm, họ đi cướp thành, họ đi cướp đường, họ lấy vật không cho tức là ăn trộm, họ ngăn chận triệt để những người mà họ ăn trộm, hình phạt thích đáng và chém đầu những người này.
Này các Tỷ-kheo, khi loài Người thọ bốn vạn năm, một người khác lấy vật không cho tức là ăn trộm. Người ta bắt người này lại, dẫn đến trước vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ và thưa:
- Tâu Đại vương, người này lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ nói với người ấy:
- Này Ngươi, có thật Ngươi lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm không?
- Tâu Đại vương, không!
Người ấy cố ý nói không thật.
Này các Tỷ-kheo, khi loài Người tuổi thọ đến hai vạn năm, một người khác lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm. Một người khác báo với vua Quán đảnh Sát-đế-lỵ về người ấy:
- Tâu Đại vương, người này đã lấy vật không cho của những người khác, tức là ăn trộm.
Như vậy người ấy đã bị nói xấu.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người đến một vạn năm, một số chúng sanh có sắc đẹp, một số không có sắc đẹp. Những chúng sanh không có sắc đẹp tham đắm những chúng sanh có sắc đẹp và có tà hạnh với vợ những người khác.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có năm ngàn năm, thì hai pháp hưng thịnh, tức là ác khẩu và nói lời phù phiếm. Khi hai pháp này hưng thịnh, thời tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của chúng giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu nên tuổi thọ loài Người chỉ có năm ngàn năm và con của họ một số người sống hai ngàn năm trăm năm, một số người sống hai ngàn năm.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có hai ngàn năm trăm năm, tham và sân tăng thịnh. Vì tham và sân tăng thịnh nên tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên tuổi thọ loài Người chỉ có hai ngàn năm trăm năm và các người con chỉ có một ngàn năm.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có một ngàn năm thì tà kiến tăng thịnh. Vì tà kiến tăng thịnh, nên tuổi thọ các loài hữu tình giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu. Vì tuổi thọ của họ giảm thiểu và sắc đẹp giảm thiểu, nên tuổi thọ loài Người chỉ có một ngàn năm, và người con chỉ có năm trăm năm.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có năm trăm năm, thì ba pháp tăng thịnh: phi pháp dục, phi lý tham và tà kiến. Khi ba pháp này tăng thịnh, thời tuổi thọ của các loài hữu tình giảm thiểu, sắc đẹp giảm thiểu, tuổi thọ loài Người chỉ có năm trăm năm, còn những người con, một số sống đến hai trăm năm mươi năm, một số sống đến hai trăm năm.
Này các Tỷ-kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có hai trăm năm mươi năm, những pháp sau này tăng thịnh: Thiếu sự hiếu kính đối với cha mẹ, thiếu sự kính lễ đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thiếu sự kính trọng đối với các vị cầm đầu trong gia đình.
Họ hiếu kính mẹ, hiếu kính cha, kính lễ các vị Sa-môn, Bà-la-môn, cung kính các vị cầm đầu ở trong gia đình, họ sẽ thực hành thiện pháp này. Do hành thiện pháp làm nhân, tuổi thọ tăng thịnh, sắc đẹp tăng thịnh. Vì tuổi thọ họ tăng thịnh và sắc đẹp tăng thịnh, tuổi thọ loài Người đến hai mươi tuổi và các người con sẽ lên đến bốn mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến bốn mươi tuổi và các người con sẽ lên đến tám mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến tám mươi tuổi và các người con sẽ lên đến một trăm sáu mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến một trăm sáu mươi tuổi và các người con sẽ lên đến ba trăm hai mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến ba trăm hai mươi tuổi và các người con sẽ lên đến sáu trăm bốn mươi tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến sáu trăm bốn mươi tuổi và các con sẽ lên đến hai ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến hai ngàn tuổi và các người con sẽ lên đến bốn ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến bốn ngàn tuổi và các người con sẽ lên đến tám ngàn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến tám ngàn tuổi và các con sẽ lên đến hai vạn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến hai vạn tuổi các người con sẽ lên đến bốn vạn tuổi. Tuổi thọ loài Người lên đến bốn vạn tuổi và các người con sẽ lên tám vạn tuổi.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào vị Tỷ-kheo tuổi thọ được tăng thịnh? Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, đầy đủ Dục Thiền định tinh cần hành, Tinh tấn Thiền định... Tâm định... tu tập thần túc đầy đủ Tư duy Thiền định tinh cần hành. Vị này tu tập bốn pháp thần túc này một cách tinh cần, nếu muốn sống kéo dài một kiếp hay năm còn lại của một kiếp. Này các Tỷ-kheo, như vậy Ta nói vị Tỷ-kheo tuổi thọ được tăng thịnh.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo sắc đẹp được tăng thịnh? Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo sống giữ giới luật, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp. Này các Tỷ-kheo, như vậy vị Tỷ-kheo sắc đẹp được tăng thịnh.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo an lạc được tăng thịnh? Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm, với tứ; diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ... Thiền thứ ba... chứng và trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo, như vậy vị Tỷ-kheo an lạc được tăng thịnh.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo tài sản được tăng thịnh? Này các Tỷ-kheo, ở đây, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân, với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... Vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Này các Tỷ-kheo, như vậy vị Tỷ-kheo, tài sản được tăng thịnh.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là vị Tỷ-kheo thế lực được tăng thịnh? Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo, với sự diệt tận các lậu hoặc, tự mình biết và chứng, đạt đến an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát không còn các lậu hoặc. Này các Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo thế lực được tăng thịnh.
Này các Tỷ-kheo, ta quán sát và thấy không có một uy lực nào khác khó nhiếp phục hơn uy lực của Ma vương. Này các Tỷ-kheo, chính nhờ chấp nhận và thực hành những thiện pháp ấy mà công đức này được tăng thịnh!
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________
>>> 25.Kinh Ưu đàm bà la sư tử hống
HIỂU LỜI DẠY PHẬT DẠY TRONG KINH
TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHÂN
Nam mô A Di Đà Phật,
Là đệ tử Phật, ngày đêm con vẫn luôn cố gắng tụng niệm thực hành lời dạy của Phật. Mùa Phật đản năm nay ( Phật lịch năm 2560 ), con xin phép được ghi lại những hiểu biết của con khi tụng niệm Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân được quý thầy, quý cư sĩ dịch và giảng giải rất nhiều. Đệ tử Phật, Pháp danh Đồng An với chí nguyện học Phật, nắm rõ kinh tạng, với nguyện cầu cho đạo Phật phổ tế nhất thiết. Bởi theo lời dạy trong Kinh nếu đệ tử Phật tụng thử bát sự, ư niệm niệm trung thì diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ Đề, tốc chứng chánh giác. Chánh giác là đích mà Đệ tử Phật, ai cũng có lòng ham muốn chứng được.
Trong bản khắc gỗ ở điều giác ngộ thứ bảy, đệ tử Đồng An không thấy có chữ “thường” ( 常 ) trong “thường niệm tam y” ( 常 念 三衣) như thường thấy trong các bản Kinh ấn tống, bởi dịch sát theo bản khắc gỗ nên đệ tử Phật không đưa vào. Trong quá trình đọc dịch, riêng từ đoạn phụ lục “ âm thích ”( 音釋 ) đến hết bản khắc gỗ do chữ nhỏ nên đệ tử không thấy để đọc nên không ghi ra lại.
A Di Đà Phật.
Trước hết mời độc giả đọc bản dịch Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân( bản khắc gỗ, bản đánh máy chữ hán và nôm được đính kèm sau tài liệu này).
Bản dịch Việt
Là đệ tử Phật, thường phải hết lòng ngày đêm tụng niệm Bát Đại Nhân Giác.
Giác ngộ thứ nhất, cuộc đời là vô thường, đất nước mong manh. bốn đại là trống rỗng, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể. Tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. quán chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử.
Giác ngộ thứ hai, ham muốn nhiều thì đau khổ, khốn khổ trong cõi sanh tử, đều do tham dục khởi sanh. Người ít ham muốn, không tạo nghiệp, thân tâm an lạc tự tại.
Giác ngộ thứ ba, tâm không biết no đủ, luôn muốn dược nhiều, vì vậy tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ Tát thì không như vậy, họ luôn nghĩ đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.
Giác ngộ thứ tư, lười biếng đưa đến sa đọa. Nên thường tinh tấn tu tập để phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, vượt thoát ngục tù của năm ấm và ba cõi.
Giác ngộ thứ năm, ngu si trong sanh tử. Bồ Tát thường nhớ rằng cần phải học rộng, nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu khả năng biện tài để giáo hóa cho tất cả đều đạt được hạnh phúc.
Điều thứ sáu giác ngộ rằng sự nghèo khổ sinh ra oán hận, tạo thêm duyên nghiệp bất thiện. Vì thế, Bồ tát cần thực hành hạnh bố thí một cách bình đẳng giữa kẻ ghét với người thương. Hãy quên đi những điều xấu ác mà họ đã gây cho mình, không nên ghét bỏ những người ác.
Giác ngộ thứ bảy, năm loại dục là nguyên nhân gây ra tội lỗi và tai họa. Vậy tuy làm người mà sống không đắm nhiễm năm thứ vui phàm tục ấy. Tâm nghĩ đến ba y và bình bát. Tâm nguyện hướng về đời sống xuất gia. Vì vậy, sống thanh tịnh, giữ gìn đạo hạnh, tu tập phạm hạnh thanh cao, thương yêu tất cả muôn loài.
Giác ngộ thứ tám, lửa sanh tử bừng cháy, sanh khổ não vô lượng. phát tâm cứu giúp tất cả. Nguyện thay thế cho chúng sanh chịu các khổ não vô lượng ấy. Làm cho mọi loài chúng sanh đạt được niềm vui tối thượng.
Tám điều như vậy, chư Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân đã giác ngộ, tinh tấn hành đạo từ bi và tu luyện trí tuệ, nương thuyền pháp thân mà lên bờ Niết Bàn, rồi lại trở về cõi sanh tử, giúp chúng sanh được giải thoát, lấy tám điều giác ngộ này mà chỉ dẫn cho hết thảy cho mọi chúng sanh, giác ngộ được nỗi khổ sanh tử mà buông bỏ năm dục lạc hướng tâm về con đường Thánh đạo. Nếu là đệ tử của Phật thì phải đọc tụng tám điều này. Ở trong mỗi ý niệm đều, diệt được vô lượng tội, hướng đến Bồ Đề, mau lên chánh giác. Vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử, thường ở trong sự an lạc.
Hiểu lời dạy Phật dạy trong Kinh
Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Đoạn mở đầu :
為 佛 弟 子常 於 晝 夜。至 心 誦 念。八 大 人 覺。
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, Bát Đại Nhân Giác.
Là đệ tử Phật, thường phải hết lòng ngày đêm, tụng niệm tám điều giác ngộ bởi bậc Đại Nhân.
Trong đoạn này Phật dạy, là đệ tử Phật, phải chí tâm tụng và niệm tám điều mà Bậc Đại Nhân đã giác ngộ.
Đoạn Kinh văn có hai từ mà đệ tử Phật thường gặp là tụng誦 và niệm 念. Chữ tụng thuộc bộ Ngôn, gồm chữ ngôn言 chữ dũng 甬. Chữ ngôn言 nghĩa nói, đọc. Chữ dũng 甬có nghĩa là lối giữa. Tụng 誦phải đọc rõ ràng, không to làm phiền người xung quanh, không nghiêm trang mà cũng phải là quá nhỏ như thầm thì. Chữ niệm 念thuộc bộ tâm 心. Chữ niệm念 gồm chữ kim今 ở trên và chữ tâm心 dưới. Chữ kim今 nghĩa là hiện tại. Chữ tâm 心là nhớ. Hàm ý niệm念 là nhớ, ghi khắc trong tâm giây phút hiện tại. Tâm phải trở về hiện tại, tâm đừng có rong đuổi theo quá khứ và mơ về tương lai.
Khi Tụng niệm Phật tử phải chí tâm至 心, tức là đưa tâm quay trở về với hiện tại để học và hành trì tám điều mà Đại nhân đã giác ngộ.
Giác thuộc bộ Kiến 覺, giác là cái thấy do học, hành trì, tu tập mà nhận biết được. Đại Nhân大 人 chính là các vị Mahasatvas Ma Ha là lớn là đại 大, Sattvas những chúng sinh, là nhân (人 ) như chúng ta. Mahasatvas là chúng sanh sau khi tu tập đã đạt đến bến bờ của giác ngộ.
Điều Giác ngộ thứ nhất
第 一 覺 悟。 世 間 無 常。國 土 危 脆。四 大 苦 空。五 陰 無 我。生 滅 變 異。虛 偽 無 主。心 是 惡 源。形 為 罪 藪。如 是 觀 察。漸 離 生 死。
Đệ nhứt giác ngộ, thế gian vô thường quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát tiệm ly sanh tử.
Giác ngộ thứ nhất, cuộc đời là vô thường, đất nước mong manh. bốn đại là trống rỗng, tập hợp năm uẩn là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể. Tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử.
Đoạn Kinh văn, dạy đệ tử Phật phải giác ngộ ( 覺 悟) được những điều sau :
Vô thường (無 常).
Vô thường là không ổn định là biến đổi. Mọi vật trên thế gian biến đổi trong từng giây từng phút, nên Kinh gọi là thế gian vô thường ( 世 間 無常). Chế độ chính trị cũng vô thường, không có thể chế chính trị nào tồn tại vĩnh viễn, dù nhà cầm quyền muốn chế độ của họ là quang vinh muôn năm và người dân phải xưng tụng người nắm quyền là vạn tuế nhưng thực chất, “ quốc độ là nguy thúy” ( 危 脆) là mỏng manh, dễ sụp đổ, nếu không thuận lòng dân thì “ Nước chở thuyền, nước cũng lật thuyền”.
Phật dạy, vạn vật trên thế gian đều trải qua những giai đoạn sinh, trụ, dị, diệt. Đó là vô thường. Phải quán sát thấy tính cách vô thường của vạn vật mới có thể tránh khỏi cái áo tưởng về sự thường hằng không bị sự vật lôi kéo ràng buộc.
Tứ đại không không ( 四 大 苦 空).
Tứ đại ( 四 大) là đất, nước, lửa, gió, gọi chung là tứ đại. Sự vật do tứ đại kết hợp không phải là những cá thể tồn tại vĩnh cửu, cho nên vạn vật có tính không ( 空 ) và vô ngã ( 無 我). Với những người chưa đạt được đến bậc giác ngộ thì xem vạn vật là thường hằng, bị ràng buộc vào vạn vật. Xe là của ta, nhà cửa, công danh này là của ta, khi cái của ta mất đi thì sinh ra đau khổ. Chỉ khi Phật tử nhận thức được sự có mặt của khổ không trong vạn vật “ tứ đại không không” ( 四 大 苦 空), thì Phật tử mới thấy được ánh sáng của con đường tu hành. Thấy được khổ đau mới có cơ hội tìm ra nguyên nhân của khổ đau để mà đối trị.
Ngũ uẩn vô ngã (五 陰 無 我 ).
Con người do năm yếu tố hợp nên, gọi là ngũ uẩn: tướng ( vật chất), thọ ( cảm giác ), tưởng ( tư tưởng), hành ( hành nghiệp) và nhận thức. Vì tứ đại khổ không, nên con người do ngũ uẩn cũng vô thường. Con người thay đổi từng giây từng phút. Bậc Đại Nhân nhìn sâu vào ngũ uẩn mà thấy được “ngũ uẩn vô ngã, sinh diệt biến đổi” ( 五 陰 無 我。生 滅 變 異,) và đánh tan được ảo giác cho rằng thân này là một bản ngã vĩnh cửu, hư vị vô chủ ( 虛 偽 無 主).
Tâm thị ác nguyên ( 心 是 惡 源), hình vi tội tẩu ( 形 為 罪 藪) .
Khi chưa tu, khi chưa thấy được vạn vật vô thường, khổ không và vô ngã, tâm chứa đầy dục vọng làm cho thân chạy theo cái xấu, tạo ra bao nhiêu lỗi lầm, tâm là nguồn suối phát sinh điều ác ( Tâm thị ác nguyên 心 是 惡 源) và thân là cội nguồn tội lỗi ( hình vi tội tẩu 形 為 罪 藪).
Phật tử khi quan sát được như vậy (như thị quán sát如 是 觀 察), rời được khổ đau của vô thường ( tiệm ly sanh tử 漸 離 生 ), bước qua được bờ bên kia của Giác ngộ.
Giác ngộ thứ hai
第 二 覺 知。多 欲 為 苦。生 死 疲 勞。 從 貪 欲 起。 少 欲 無為。 身 心 自 在。
Đệ nhị giác tri, đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
Giác ngộ thứ hai, ham muốn nhiều thì đau khổ, khốn khổ trong cõi sanh tử, đều do tham dục khởi sanh. Người ít ham muốn, không tạo nghiệp, thân tâm an lạc tự tại.
Ham muốn nhiều thì đau khổ ( đa dục vi khổ多 欲 為 苦). Chữ dục欲 là ham muốn. Chữ dục欲thuộc bộ khiếm欠, gồm chữ chữ cốc谷 và chữ khuyết欠. Chữ cốc谷 nghĩa là cùng đường, chữ khuyết欠nghĩa là thiếu thốn. Khi con người không thể chế ngự được thiếu thốn, thèm khát thì dục vọng 欲tất sẽ khởi.
Người tu không khéo, chưa quán được vô thường của vạn vật, cứ nghĩ rằng càng giàu về vật chất, càng say đắm trong lưới tình thì càng hạnh phúc. Họ cho rằng hạnh phúc là được thỏa mãn những ham muốn. Nhưng ham muốn của con người là vô hạn mà năng lực con người thì hữu hạn, cho nên chẳng bao giờ con người thỏa mãn. Ham muốn làm con người tìm mọi cách đạt được. Khi đạt được trong tay về tiền bạc, tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, thì lúc đó họ lại đau khổ vì đã đánh mất người thân, đánh mất sức khỏe, đánh mất tuổi tác vì mãi mê tìm cách thỏa mãn dục vọng. Chỉ khi xuôi tay, nhắm mắt mới ngộ đắm mình trong vòng sanh tử là khổ ( sanh tử sanh tử bì lao生 死 疲 勞).
Các Thầy thường dạy các đệ tử của mình ngũ dục chính là cái lưới nhốt chúng sinh vào trong bể khổ đau. Tham dục khởi sanh mọi khổ đau ( tùng tham dục khởi從 貪 欲 起). Người nào thoát được lưới ngũ dục thì người đó mới hạnh phúc, thảnh thơi của thân và của tâm sẽ đến với người đó.
Phật dạy, người ít ham muốn ( thiểu dục vô vi, 少 欲 無為), không tạo nghiệp, thì thân tâm an lạc ( thân tâm tự tại. 身 心 自 在 ).
Giác ngộ thứ ba
第 三 覺 知。 心 無 厭 足。 唯 得多 求。增 長 罪 惡。菩 薩 不 爾。常 念 知 足。安 貧 守 道。唯 慧 是 業。
Đệ tam giác tri, tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ Tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Giác ngộ thứ ba, tâm không biết no đủ, luôn muốn dược nhiều, vì vậy tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ Tát thì không như vậy, họ luôn nghĩ đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.
Tâm không biết no đủ (tâm vô yểm túc心 無 厭 足). Túc足là đủ . Vì Tâm không biết no đủ , nên tâm đắm mình trong lưới dục vọng (duy đắc đa cầu唯 得多 求 ), để từ đó, càng tìm kiếm càng gây ra đau khổ cho mình và cho người khác ( tăng trưởng tội ác增 長 罪 惡). Vị Bồ Tát đã đạt được giác ngộ (Bồ Tát bất nhĩ菩 薩 不 爾), thì tri túc. Tri là biết, túc là đầy đủ. Tri túc là bằng lòng với những điều kiện sinh hoạt vật chất tạm đủ để sống mạnh khỏe mà hành đạo. Bồ Tát luôn thường ghi nhớ và biết đủ ( niệm tri túc常 念 知 足), sống an vui thanh đạm để hành đạo ( an bần thủ đạo 安 貧 守 道), lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình ( duy tuệ thị nghiệp唯 慧 是 業).
Tri túc là một phương pháp hữu hiệu nhất để phá lưới tham dục, để đạt được sự thảnh thơi của thân tâm, để có thì giờ giúp đỡ người chung quanh. Tri túc biết chỉ cần vài bộ áo quần để mặc đi làm, để sinh hoạt, tri túc không cần phải ăn thật no, phải ở nhà thật rộng và dùng điện thoại hàng hiệu. Tri túc tránh cho ta tiêu xài quá mức và sự ô nhiễm môi trường sinh hoạt. Tri túc giúp ta biết được, mỗi cái điện thoại cầm tay ta đang dùng, trái đất, sông, biển phải gánh thêm một lượng không nhỏ CO2 khi để chế tác ra điện thoại cầm tay đó.
Giác ngộ thứ tư
第 四 覺 知。懈 怠 墜 落。常 行 精 進。破 煩 惱 惡。摧 伏 四 魔。出 陰 界 獄。
Đệ tứ giác tri, giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Giác ngộ thứ tư, lười biếng đưa đến sa đọa. Nên thường tinh tấn tu tập để phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, vượt thoát ngục tù của năm ấm và ba cõi.
Tu không phải là bi quan, sống phó thác, lười biếng ( giải đãi trụy lạc懈 怠 墜 落) để cho tháng ngày trôi qua một cách uổng phí. Đệ tử Phật phải hành trì ngày đêm ( thường hành tinh tấn 常 行 精 進) . Tinh tấn là sự cần mẫn, cần mẫn dùi mài sự nghiệp trí tuệ ( duy tuệ thị nghiệp唯 慧 是 業) . Phải dùng thì giờ của mình để ngày đêm đọc nhớ ( tụng niệm 誦 念) lời Phật dạy, thiền định về các điều mà bậc đại nhân đã giác ngộ đó là :
- Thế gian vô thường世 間 無 常,
- Tứ đại khổ không四 大 苦 空,
- Ngũ ấm vô ngã五 陰 無 我,
- Tâm thị ác nguyên心 是 惡 源,
- Hình vi tội tẩu形 為 罪 藪。
Khi quán chiếu thấy rõ về vô thường, khổ, không, vô ngã và bất tịnh, ngày đêm hành trì ( thường hành tinh tấn 常 行 精 進), thì thân tâm phá được tham, giận, si mê ( phá phiền não ác破 煩 惱 惡) , hàng phục bốn loài ma ( tồi phục tứ ma, 摧 伏 四 魔), vượt thoát ngục tù của năm uẩn ( 出 陰 界 獄 ).
Giác ngộ thứ năm
第 五 覺 悟。愚 癡 生 死。菩 薩 常 念。 廣 學 多 聞。 增 長 智 慧。 成 就 辯 才。 教 化 一 切。悉 以 大 樂。
Đệ ngũ giác ngộ, ngu si sinh tử, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Giác ngộ thứ năm, ngu si trong sanh tử. Bồ Tát thường nhớ rằng cần phải học rộng, nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu khả năng biện tài để giáo hóa cho tất cả đều đạt được hạnh phúc.
Bởi vì ngu si ( 愚 癡 ) nên không giác ngộ được thế gian vô thường ( 世 間 無 常), tứ đại khổ không ( 四 大 苦 空), ngũ ấm vô ngã ( 五 陰 無 我), tâm thị ác nguyên (心 是 惡 源), hình vi tội tẩu(形 為 罪 藪)
Bậc giác ngộ thì quán chiếu được ngu si là chìm đắm trong vòng sanh tử ( ngu si sinh tử愚 癡 生 死). Bồ Tát biết được vô thường, vô ngã và nhân duyên sinh của vạn hữu nên đã hành trì tụng niệm ( Bồ Tát thường niệm菩 薩 常 念) lấy sự tu học ( quảng học đa văn廣 學 多 聞 ), để trau dồi trí tuệ ( tăng trưởng trí tuệ增 長 智 慧), khi đạt được khả năng thuyết pháp ( thành tựu biện tài成 就 辯 才), người tu không những tự giải phóng được cho bản thân mà còn giáo hóa cho những kẻ khác ( giáo hóa nhất thiết 教 化 一 切) đem chúng sinh ra khỏi sinh tử để có được niềm vui trong cuộc sống ( tất dĩ đại lạc悉 以 大 樂). Giác ngộ này là giác ngộ độ người. Bốn điều giác ngộ đầu là giác ngộ tự độ.
Giác ngộ thứ sáu
第 六 覺 知。 貧 苦 多 怨。 橫 結 惡 緣。 菩 薩 布 施。 等 念 冤 親。 不 念 舊 惡。 不 憎 惡 人。
Đệ lục giác tri, bần khổ đa oán, hoạnh kết ác duyên, Bồ tát bố thí, đẳng niệm oan thân, bất niệm cựu ác, bất tăng ác nhân.
Điều thứ sáu giác ngộ, nghèo khổ sinh ra oán hận, tạo thêm duyên nghiệp bất thiện. Vì thế, Bồ tát cần thực hành hạnh bố thí một cách bình đẳng giữa kẻ ghét với người thương. Hãy quên đi những điều xấu ác mà họ đã gây cho mình, không nên ghét bỏ những người ác.
Nghèo khổ sinh ra oán hận ( bần khổ đa oán,貧 苦 多 怨 ). Chữ oán怨 thuộc bộ tâm心, gồm chữ đãi 夕có nghĩa là xấu ác, chữ tiết 卩là che đậy ở trên và chữ tâm 心ở dưới. Oán là căm thù, là tâm mình muốn trả thù nhưng thù đó có thể còn che đậy trong tâm. Nghèo thường có những hành động bất thiện ( hoạnh kết ác duyên, 橫 結 惡 緣 ). Oán thù và ác nghiệp có thể do sự nghèo khổ mà có, nhưng không phải ai nghèo đói đều có lòng oán hận và tạo những hành động xấu.
Những đại nhân, những vị bồ tát khi thực hành bố thí (Bồ tát bố thí 菩 薩 布 施), thường nhớ phép bố thí bình đẳng (đẳng niệm oan thân等 念 冤 親), không phân biệt người mình thương hoặc người mình ghét. Bậc Bồ Tát vì giác ngộ khổ, không, vô thường khi thực hành phép bố thí, coi kẻ ghét người thương như nhau, bỏ qua những điều ác mà người khác đã làm đối với mình ( bất niệm cựu ác不 念 舊 惡) và không đem tâm ghét bỏ những ai đã làm ác ( bất tăng ác nhân不 憎 惡 人).
Giác ngộ thứ bảy
第 七 覺 悟 。 五 欲 過 患。 雖 為 俗 人。 不 染 世 樂。念 三衣, 瓦 鉢 法 器。 志 願 出 家。守 道 清 白。 梵 行 高 遠。 慈 悲 一 切。
Đệ thất giác ngộ, ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc, niệm tam y, ngõa bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Giác ngộ thứ bảy, năm loại dục là nguyên nhân gây ra tội lỗi và tai họa. Vậy tuy làm người sống ở đời mà không đắm nhiễm năm thứ vui phàm tục ấy. Tâm nghĩ đến ba y và bình bát. Tâm nguyện hướng về đời sống xuất gia. Vì vậy, sống thanh tịnh, giữ gìn đạo hạnh, tu tập phạm hạnh thanh cao, thương yêu tất cả muôn loài.
Năm loại dục là nguyên nhân gây ra tội lỗi và tai họa ( ngũ dục quá hoạn五 欲 過 患) đó là tài, sắc, danh, thực và thùy dục. Người không thấy được vô thường, khổ, không, vô ngã, thường chạy theo tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp và ham muốn thụ hưởng. Chữ欲 là ham muốn, thuộc bộ nhân. Ham muốn là ham muốn của con người, chủ thể. Chữ quá過vượt quá, lỗi lầm. Chữ quá thuộc bộ sước , 辵nghĩa là chạy. Chữ患 thuộc bộ tâm là lo lắng, tai họa. Dục quá hoạn ( 欲 過 患) là chạy theo dục vọng mà gây ra tội lỗi, tai họa.
Kinh dạy, đệ tử Phật dù tại gia hay xuất gia, chúng ta phải có chánh kiến không để dục lạc của cuộc đời làm cho ô nhiễm (bất nhiễm thế lạc不 染 世 樂。). Mặc dù chúng ta ở trong cuộc đời ( tuy vi tục nhân雖 為 俗 人), chúng ta phải thuận theo cuộc đời để cứu độ cho người đời mà không bị nhiễm ( bất nhiễm不 染) bởi ngũ dục. Cũng như hoa sen mọc dưới bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Nhà Phật thường lấy hoa sen làm hình tượng là vậy. Để có thời gian tu tập độ cho mình và cho người khác người tu phải luôn luôn quán niệm sống y áo chỉ ba y là đủ ( niệm tam y, 念 三衣), bình bát ( ngõa bát瓦 鉢) làm phương tiện hành trì đạo pháp ( pháp khí法 器), giữ vững ý nguyện của người xuất gia ( chí nguyện xuất gia, 志 願 出 家 ), sống thanh tịnh, giữ gìn đạo hạnh ( thủ đạo thanh bạch守 道 清 白), tu tập phạm hạnh thanh cao, ( phạm hạnh cao viễn梵 行 高 遠), thương yêu tất cả muôn loài ( từ bi nhất thiết.慈 悲 一 切).
Giác ngộ thứ tám
第 八 覺 知。 生 死 熾 然。 苦 惱 無 量。 發 大 乘 心。 普 濟 一 切。 願 代 眾 生。 受 無 量 苦。令 諸 眾 生。 畢 竟 大 樂。
Đệ bát giác tri, sanh tử xí nhiên, Khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc
Giác ngộ thứ tám, lửa sanh tử bừng cháy, sanh khổ não vô lượng. phát tâm Đại thừa cứu giúp tất cả. Nguyện thay thế cho chúng sanh chịu các khổ não vô lượng ấy. Làm cho mọi loài chúng sanh đạt được niềm vui tối thượng.
Lửa sanh tử bừng cháy ( sanh tử xí nhiên生 死 熾 然), vô lượng phiền não, đau khổ ( khổ não vô lượng 苦 惱 無 量) là những khó khăn và gian khổ đệ tử Phật hàng tại gia, xuất gia đều gặp phải. Người tu phải có hạnh nguyện sâu rộng mới có thể vượt thắng những khó khăn và gian khổ khi thực hành lời dạy của Phật. Đau khổ của cuộc đời là vô lượng ( khổ não vô lượng 苦 惱 無 量) thì chí nguyện hành đạo cũng phải vô lượng. ( phổ tế nhất thiết普 濟 一 切). Bởi chí nguyện hành đạo, Đại nhân thường nguyện thay thế cho chúng sanh chịu các khổ não vô lượng ấy ( nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, 願 代 眾 生。 受 無 量 苦) Làm cho mọi loài chúng sanh đạt được niềm vui tối thượng ( linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc , 令 諸 眾 生, 畢 竟 大 樂).
Thực hành lời Kinh không phải dễ, cho dù Kinh chỉ dạy Phật tử tụng niệm, quán chiếu khổ không, vô thường, bất tịnh, để tự độ cho mình và độ cho người khác. Vì vậy, Phật dạy chúng ta khi hành trì lời Phật dạy phải coi bệnh khổ là thuốc hay, coi hoạn nạn là sự thảnh thơi, coi chướng ngại là giải thoát, coi ma quân là bạn lữ, coi khó khăn là yếu tố thành công, coi người đối đãi tệ lậu với mình là tư lương, coi kẻ chống đối là rừng cây, vườn cảnh, coi sự thi ân là một đôi dép bỏ đi, coi sự từ bỏ lợi lộc là sự giàu sang, coi oan ức là cánh cửa đi vào hành động. Có như vậy thì tâm từ bi mới hiển hiện, đại lạc ( 大 樂) mới có ở thân và tâm.
Phần kết
如 此 八 事。 乃 是 諸 佛 菩 薩 大 人 之 所 覺 悟。 精 進 行 道 慈 悲 修 慧。 乘 法 身 船 至 涅 槃 岸。 復 還 生 死 度 脫 眾 生。 以 前 八 事。 開 導 一 切。 令 諸 眾 生 覺 生 死 苦。 捨 離 五 欲 修 心 聖 道。 若 佛 弟 子。 誦 此 八 事。 於 念 念 中。 滅 無 量 罪。 進 趣 菩 提。 速 登 正 覺。 永 斷 生 死。 常 住 快 樂。
Như thử bát sự, nãi thị chư Phật, Bồ Tát Đại Nhân, chi sở giác ngộ, tinh tấn hành đạo từ bi tu huệ, thừa pháp thân thuyền chí Niết Bàn ngạn, phục hoàn sanh tử, độ thoát chúng sanh, dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, lịnh chư chúng sanh, giác sanh tử khổ, xả ly ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nhược Phật đệ tử, tụng thử bát sự, ư niệm niệm trung, diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ Đề, tốc chứng chánh giác, vĩnh đoạn sanh tử, thường trụ khoái lạc.
Tám điều như vậy, chư Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân đã giác ngộ, tinh tấn hành đạo từ bi và tu luyện trí tuệ, nương thuyền pháp thân mà lên bờ Niết Bàn, rồi lại trở về cõi sanh tử, giúp chúng sanh được giải thoát, lấy tám điều giác ngộ này mà chỉ dẫn cho hết thảy cho mọi chúng sanh, giác ngộ được nỗi khổ sanh tử mà buông bỏ năm dục lạc hướng tâm về con đường Thánh đạo. Nếu là đệ tử của Phật thì phải đọc tụng tám điều này. Ở trong mỗi ý niệm đều, diệt được vô lượng tội, hướng đến Bồ Đề, mau lên chánh giác. Vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử, thường ở trong sự an lạc.
Tám điều như vậy ( như thử bát sự如 此 八 事) được các vị Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân ( chư Phật諸 佛) , ( Bồ Tát菩 薩), ( Đại Nhân,大 人), thấy và hiểu ( giác ngộ覺 悟) và hành trì độ chúng sanh. Trong tám điều giác ngộ các bậc đại nhân thì bốn giác ngộ đầu tiên là giác ngộ để tự độ. Tức là tu để tự mình giải thoát. Bốn giác ngộ sau là độ chúng sinh. Tức là khi độ cho mình các vị Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân, dùng trí tuệ có được bởi giác ngộ mà độ cho người khác. Ý kinh thật là thâm thúy. Mình phải đọc và hành trì bốn giác ngộ đầu tiên, sau đó mình mới tiếp tục học hành trì bốn giác ngộ sau. Tu cho mình trước rồi tu cho chúng sanh sau.
Đệ tử Đồng An mông muội khi đọc đến lời Kinh dạy : các vị Phật, các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân đến bờ Niết Bàn, (thừa pháp thân thuyền chí Niết Bàn ngạn乘 法 身 船 至 涅 槃 岸), nhưng lại quay trở về cõi sanh tử, giúp chúng sanh được giải thoát ( phục hoàn sanh tử, độ thoát chúng sanh 復 還 生 死 度 脫 眾 生), con cảm nhận được Tâm Đại Từ, Đại Bi của Phật, Bồ Tát, Đại nhân với chúng sanh. Chỉ có tâm từ bi mới làm được việc như thế.
Trong đời thường, những người làm được như thế không ít. Sau biến cố năm 1975, cả triệu người Việt, vì cuộc sống khó khăn, vì thể chế chính trị đã không ngại nguy hiểm vượt đại dương tị nạn ở khắp nơi trên thế giới. Cuộc sống dẫu khó khăn về ngôn ngữ, về địa lý nhưng nhiều người phấn đấu để thành công, bởi ở Việt Nam họ vẫn còn cha, còn mẹ, còn anh chị em đang mong đợi ở họ. Chí nguyện của họ là giúp người thân ở Việt Nam. Họ luôn quay về nơi nghèo khó giúp đỡ, đó là những bồ tát trong đời thường. Ngày nay ở Việt Nam chúng ta thường thấy những Phật tử thức khuya, dậy sớm tự mình nấu cháo, tự mình đem đến các bệnh viện để mời các bệnh nhân nghèo. Họ là Bồ Tát đang quay về với những cảnh đời khó khăn để chia sẻ.
Lời Kinh dạy đơn giản, nhưng thật ý nghĩa. Mình phải đi từng bước một. Trước phải đọc hiểu kinh, rồi hành trì thực hành theo lời dạy của Kinh. Tu thì phải hành. Mình phải đem kinh nghiệm sống của mình ra mà đọc kinh. Chính kinh nghiệm sống của mình mới làm cho mình hiểu được kinh. Bởi với mỗi người mỗi nhận thức, mỗi hoàn cảnh, để mà tự đó tự giác ngộ về vô thường, khổ, không, vô ngã.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngày 13– Tân Sửu, Tháng Tư – Quý Tỵ, Năm Bính Thân – 2016.
辛 丑 日, 癸 巳 月, 丙申年
Hoàng Phước Đại – Đồng An.
黃 福 大 -同 安
佛 說 八 大 人 覺 經
為 佛 弟 子常 於 晝 夜。至 心 誦 念。八 大 人 覺。
第 一 覺 悟。 世 間 無 常。國 土 危 脆。四 大 苦 空。五 陰 無 我。生 滅 變 異。虛 偽 無 主。心 是 惡 源。形 為 罪 藪。如 是 觀 察。漸 離 生 死。
第 二 覺 知。多 欲 為 苦。生 死 疲 勞。 從 貪 欲 起。 少 欲 無為。 身 心 自 在。
第 三 覺 知。 心 無 厭 足。 唯 得多 求。增 長 罪 惡。菩 薩 不 爾。常 念 知 足。安 貧 守 道。唯 慧 是 業。
第 四 覺 知。懈 怠 墜 落。常 行 精 進。破 煩 惱 惡。摧 伏 四 魔。出 陰 界 獄。
第 五 覺 悟。愚 癡 生 死。菩 薩 常 念。 廣 學 多 聞。 增 長 智 慧。 成 就 辯 才。 教 化 一 切。悉 以 大 樂。
第 六 覺 知。 貧 苦 多 怨。 橫 結 惡 緣。 菩 薩 布 施。 等 念 冤 親。 不 念 舊 惡。 不 憎 惡 人。
第 七 覺 悟 。 五 欲 過 患。 雖 為 俗 人。 不 染 世 樂。念 三衣, 瓦 鉢 法 器。 志 願 出 家。守 道 清 白。 梵 行 高 遠。 慈 悲 一 切。
第 八 覺 知。 生 死 熾 然。 苦 惱 無 量。 發 大 乘 心。 普 濟 一 切。 願 代 眾 生。 受 無 量 苦。令 諸 眾 生。 畢 竟 大 樂。
如 此 八 事。 乃 是 諸 佛 菩 薩 大 人 之 所 覺 悟。 精 進 行 道 慈 悲 修 慧。 乘 法 身 船 至 涅 槃 岸。 復 還 生 死 度 脫 眾 生。 以 前 八 事。 開 導 一 切。 令 諸 眾 生 覺 生 死 苦。 捨 離 五 欲 修 心 聖 道。 若 佛 弟 子。 誦 此 八 事。 於 念 念 中。 滅 無 量 罪。 進 趣 菩 提。 速 登 正 覺。 永 斷 生 死。 常 住 快 樂。
Phật thuyết Bát đại nhân giác Kinh
佛 說 八 大 人 覺 經
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, Bát Đại Nhân Giác.
Đệ nhứt giác ngộ, thế gian vô thường quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát tiệm ly sanh tử.
Đệ nhị giác tri, đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
Đệ tam giác tri tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ Tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Đệ tứ giác tri, giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Đệ ngũ giác ngộ, ngu si sinh tử, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Đệ lục giác tri, bần khổ đa oán, hoạnh kết ác duyên, Bồ tát bố thí, đẳng niệm oán thân, bất niệm cựu ác, bất tăng ác nhân.
Đệ thất giác ngộ, ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc, niệm tam y, ngõa bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Đệ bát giác tri, sanh tử xí nhiên, Khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc
Như thử bát sự, nãi thị chư Phật, Bồ Tát Đại Nhân, chi sở giác ngộ, tinh tấn hành đạo từ bi tu huệ, thừa pháp thân thuyền chí Niết Bàn ngạn, phục hoàn sanh tử, độ thoát chúng sanh, dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, lịnh chư chúng sanh, giác sanh tử khổ, xả ly ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nhược Phật đệ tử, tụng thử bát sự, ư niệm niệm trung, diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ Đề, tốc chứng chánh giác, vĩnh đoạn sanh tử, thường trụ khoái lạc.
(UDUMBARIKÀ SIHANÀDA SUTTANTA)
Như vầy tôi nghe.
- Các Tôn giả hãy giữ im lặng, các Tôn giả chớ có làm ồn! Đệ tử Sa-môn Gotama, Gia chủ Sandhana đang đi đến. Trong hàng đệ tử Sa-môn Gotama, các hàng cư sĩ, mặc áo trắng, trú tại Vương xá, Gia chủ Sandhana là một vị trong đoàn thể ấy. Các vị này ưa sự an tịnh, các vị này được huấn luyện trong sự an tịnh, các vị này tán thán sự an tịnh. Nếu được biết hội chúng này an tịnh, Sandhana có thể đến đây.
Khi nghe nói vậy, các vị du sĩ đều giữ yên lặng.
- Thật sai khác thay, khi các Tôn giả ngoại đạo, các du sĩ này hội họp lại, quy tụ lại, ồn ào, cao giọng lớn tiếng, họ sống bàn cãi về những phiếm luận vô ích như câu chuyện về vua chúa... câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Thật sai khác thay, Thế Tôn an trú các nhàn tịnh xứ, núi rừng tịch mịch, xa vắng, ít tiếng động, có gió đồng thổi, lánh xa mắt người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu.
- Gia chủ có biết không? Sa-môn Gotama luận đàm với ai? Đối thoại với ai? Với ai đạt được tuệ trí? Trí tuệ của Sa-môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ, Sa-môn Gotama không giỏi điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề ngoại biên. Cũng như con bò một mắt, đi vòng tròn và chỉ đi phía bên ngoài. Cũng vậy, trí tuệ của Sa-môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ. Sa-môn Gotama không giỏi điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến vấn đề ngoại biên. Này Gia chủ, nếu Sa-môn Gotama đến tại hội chúng này, chỉ có một câu hỏi chúng tôi có thể chận đứng ngay; chúng tôi nghĩ, chúng tôi có thể lăn tròn Sa-môn Gotama như lăn tròn một cái bình không.
- Các Tôn giả hãy giữ im lặng; các Tôn giả chớ có làm ồn; Sa-môn Gotama này đang đi lại giữa trời, tại vườn nuôi dưỡng chim không tước trên bờ sông Sumàgadhà. Vị Tôn giả này ưa an tịnh, tán thán sự an tịnh, nếu biết được hội chúng này an tịnh, chúng tôi nghĩ, Sa-môn Gotama có thể đến đây. Nếu Sa-môn Gotama đến tại hội chúng này, chúng ta sẽ hỏi câu hỏi này: "Bạch Thế Tôn, Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào Thế Tôn muốn dạy các đệ tử, với Pháp nào các đệ tử của Thế Tôn được huấn dạy, đạt đến tịnh lạc, và xác nhận là căn bản Phạm hạnh?"
Khi được nói vậy, các vị du sĩ ấy giữ im lặng.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đến đây; xin đón mừng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, đã lâu Thế Tôn mới có dịp đến đây; bạch Thế Tôn, xin mời Thế Tôn ngồi. Đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.
Thế Tồn ngồi xuống chỗ ngồi đã soạn sẵn. Du sĩ Nigrodha lấy một ghế ngồi thấp khác và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với du sĩ Nigrodha đang ngồi xuống một bên:
- Này Nigrodha, Quí vị đang ngồi bàn luận vấn đề gì? Vấn để gì đang nói giữa quí vị thì bị dừng lại?
Khi được nói vậy, du sĩ Nigrodha bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con thấy Thế Tôn đang đi qua lại, tại vườn nuôi dưỡng chim khổng tước, trên bờ sông Sumagadha. Khi thấy vậy, chúng con nói: "Nếu Sa-môn Gotama đến tại hội chúng này, chúng ta sẽ hỏi câu hỏi:" Bạch Thế Tôn, Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào Thế Tôn huấn dạy các đệ tử? Với Pháp nào các đệ tử Thế Tôn được huấn dạy, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản Phạm hạnh?" Bạch Thế Tôn, đó là vấn đề đang được bàn luận giữa chúng con, thì được dừng lại khi Thế Tôn đến.
- Này Nigrodha, thật khó cho Ngươi, khi Ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, theo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác để hiểu được Pháp nào Ta huấn dạy các đệ tử của Ta, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản Phạm hạnh. Này Nigrodha, hãy hỏi về tối thắng khổ hạnh theo truyền thống của Ngươi: "Bạch Thế Tôn, thế nào là sự thành tựu của khổ hạnh, thế nào là sự không thành tựu?"
Khi nghe nói vậy, các Du sĩ ngoại đạo liền lớn tiếng, cao giọng la: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, đại thần lực và đại uy lực của Sa-môn Gotama! Ngài không đề cập đến giáo lý của mình, lại đề nghị thảo luận giáo lý của người khác."
- Bạch Thế Tôn, chúng con sống thuyết giảng về khổ hạnh, xem khổ hạnh là căn bản, chấp trì khổ hạnh. Bạch Thế Tôn, thế nào là sự thành tựu khổ hạnh? Thế nào là sự không thành tựu khổ hạnh?
- Này Nigrodha, ở đây có người tu khổ hạnh, sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận lời mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống nước nấu rượu men. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà hay chỉ nhận ăn một miếng, chỉ nhận ăn tại hai nhà hay chỉ nhận ăn hai miếng, chỉ nhận ăn tại bảy nhà hay chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị này chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột vải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, ăn nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm đã quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vải vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhờ râu tóc, là người sống theo tập tục sống nhờ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không ngồi, là người ngồi chỏ hỏ; sống theo hạnh ngồi chỏ hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời; theo hạnh bạ đâu nằm đầy, sống ăn các uế vật; theo hạnh ăn các uế vật, sống không uống các nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm. Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Như vậy có phải là thành tựu các pháp khổ hạnh hay không thành tựu?
- Bạch Thế Tôn, như vậy là thành tựu các pháp khổ hạnh, không phải không thành tựu.
- Này Nigrodha, sự thành tựu khổ hạnh như vậy, Ta nói rằng sẽ đưa đến nhiều loại cấu uế?
Này Nigrodha, ở đây một vị khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy hoan hỷ tâm tư thỏa mãn. Này Nigrodha, vị khổ hạnh do siêng tu khổ hạnh, phát sanh hoan hỷ, tâm tư thỏa mãn. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh, do khổ hành này, vị này khen mình chê người. Này Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh nào, do khổ hạnh ấy khen mình chê người. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh, do khổ hạnh này trở thành mê say, nhiễm trước, phóng dật. Này Nigrodha, vị tu hành khổ hạnh nào, nhờ khổ hạnh ấy mê say, nhiễm trước, phóng dật. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh. Do khổ hạnh này, được cúng dường, cung kính, danh vọng. Do được cúng dường cung kính, danh vọng, nên khen mình chê người. Này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh nào, do khổ hạnh ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng này, nên khen mình chê người. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh. Do khổ hạnh này, được cúng dường, cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng, trở thành mê say, chấp trước, phóng dật. Này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh nào, do khổ hạnh ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng này, trở thành mê say, chấp trước, phóng dật. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh, phân biệt các thức ăn: "Món này thích hợp với ta, món này không thích hợp với ta." Đối với các thức ăn không thích hợp thì cố ý từ bỏ. Đối với các thức ăn thích hợp thì nắm giữ, tham đắm, chấp trước, không thấy các sự nguy hiểm, không phân biệt chúng là không giải thoát, thọ hưởng chúng... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh, nhân vì mong mỏi được cúng dường cung kính danh vọng, nghĩ rằng: "Các vua chúa sẽ cung kính ta, cũng vậy các vị đại thần, các vị Sát-đế-lỵ, các vị Bà-la-môn, các vị Gia chủ, các vị Giáo chủ các giáo phái". Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa này Nigrodha, vị khổ hạnh thấy một Sa-môn hay Bà-la-môn được các gia đình cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường. Thấy vậy vị ấy nghĩ rằng: "Các gia đình cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường người sống ăn uống đủ mọi thứ. Các gia đình ấy không cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường ta, một người tu khổ hạnh. Do vậy sanh tật đố ganh ghét đối với các gia đình... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh trở thành người ngồi giữa công chúng. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh, khi đi giữa các gia đình (để khất thực) không cho người ta thấy mình: "Như vậy là khổ hạnh của ta, như vậy là khổ hạnh của ta."... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh làm bộ có vẻ bí mật. Khi được hỏi: "Có chấp nhận việc này không?", tuy không chấp nhận nhưng trả lời: "Có chấp nhận"; tuy chấp nhận, nhưng trả lời: "Không chấp nhận." Như vậy, vị này cố tình nói láo... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh hay tức giận và ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, vì người khổ hạnh hay tức giận và ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh thường hay giả dối lừa đảo, tật đố và hà tiện, giảo hoạt và ngụy trá, cứng cỏi và quá mạn, có ác ý và bị ác ý chi phối, có tà kiến và tư tưởng cực đoan, chấp trước kinh nghiệm tự thân, cứng đầu và khó giải thoát. Này Nigrodha, vì một người khổ hạnh chấp trước kinh nghiệm tự thân, cứng đầu và khó giải thoát. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự thật là như vậy thì những khổ hạnh có phải là cấu uế hay không cấu uế?
- Bạch Thế Tôn, những khổ hạnh như vậy thật là cấu uế, không phải không cấu uế. Sự tình này có thể xảy ra, có người khổ hạnh có đầy đủ tất cả sự cấu uế trên, nói gì đến câu có cấu uế này hay cấu uế khác.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy không khen mình chê người... Như vậy vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy không mê say, không nhiễm trước, không phóng dật... Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy không hoan hỷ; tâm tư không thỏa mãn. Này Nigrodha, người khổ hạnh... Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Do khổ hạnh này, vị ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy không khen mình chê người. Này Nigrodha, người khổ hạnh... Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Do khổ hạnh này, vị ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy không mê say, nhiễm trước, phóng dật. Này Nigrodha, người khổ hạnh... Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh, không phân biệt các thức ăn: "Món này thích hợp với ta, món này không hợp với ta." Đối với các thức ăn không thích hợp, vị ấy không cố ý từ bỏ. Đối với các thức ăn thích hợp, vị ấy không nắm giữ, tham đắm, chấp trước, thấy các sự nguy hiểm, phân biệt chúng là không giải thoát, không thọ hưởng chúng. Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ hạnh siêng tu khổ hạnh. Vị ấy không nghĩ rằng: "Vì mong mỏi được cúng dường, cung kính, danh vọng, các vua chúa sẽ cung kính ta; cũng vậy các vị đại thần, các vị Sát-đế-lỵ, các vị Bà-la-môn, các vị Gia chủ, các vị Giáo chủ các giáo phái." Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh thấy một Sa-môn hay Bà-la-môn được các gia đình cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường. Thấy vậy, vị ấy không nghĩ rằng: "Các gia đình cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường người sống ăn uống đủ mọi thứ. Các gia đình ấy không cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường ta, một người tu khổ hạnh." Do vậy vị ấy không sanh tật đố, ganh ghét đối với các gia đình. Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh không trở thành người ngồi giữa công chúng. Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh, khi đi giữa các gia đình (để khất thực, không dấu diếm mà để cho người ta thấy mình: "Như vậy là khổ hạnh của ta, như vậy là khổ hạnh của ta." Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh không làm bộ có vẻ bí mật. Khi được hỏi: "Có chấp nhận điều này không?" Nếu không chấp nhận thì trả lời: "Không chấp nhận."; nếu có chấp nhận thì trả lời: "Có chấp nhận." Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh không tức giận và không ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, vì người khổ hạnh không tức giận và không ôm lòng oán thù, như vậy vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh không giả dối và lừa đảo, không tật đố và hà tiện, không giảo hoạt và ngụy trá, không cứng cỏi và quá mạn, không có ác ý và bị ác ý chi phối, không có tà kiến và tư tưởng cực đoan, không chấp trước kinh nghiệm tự thân, không cứng đầu và khó giải thoát. Vì người khổ hạnh không chấp trước kinh nghiệm tự thân và không cứng đầu khó giải thoát, nên vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thì các khổ hạnh ấy là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thì các khổ hạnh ấy là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh; các khổ hạnh ấy đạt đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, những khổ hạnh như vậy chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chúng chỉ mới đạt đến vỏ bên ngoài mà thôi.
Bạch Thế Tôn, thật tốt đẹp thay, nếu Thế Tôn khiến cho các khổ hạnh của chúng con đạt đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, ở đây, có vị khổ hạnh tu bốn pháp chế ngự. Và này Nigrodha, thế nào là bốn pháp chế ngự? Này Nigrodha, vị khổ hạnh không có tự sát sanh, không có bảo người khác sát sanh, không có tùy hỷ sát sanh; không có lấy của không cho, không có khiến người khác lấy của không cho, không có tùy hỷ lấy của không cho, không có nói láo, không có khiến người khác nói láo, không có tán thán nói láo; không có tham vọng dục tình, không có khiến người khác có tham vọng dục tình, không có tán thán tham vọng dục tình. Như vậy, này Nigrodha người khổ hạnh ấy tu hành bốn pháp chế ngự. Này Nigrodha, do người khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, sự khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, vị ấy tiến lên, chớ không rơi xuống hạ phẩm. Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như ngôi rừng, gốc cây, trên khe núi, trong hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, hay đống rơm. Sau khi ăn xong đi khất thực về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, an trú với tâm thoát ly tham ái, gột sạch tâm hết tham ái từ bỏ sân tâm, an trú với tâm thoát ly sân tâm, khởi lòng thương tưởng mọi loài chúng sanh, gột sạch tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, an trú với tâm thoát ly hôn trầm thụy miên, tưởng niệm đến ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác, gột sạch tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo hối, an trú tâm thoát ly trạo hối, nội tâm an tịnh, gột sạch tâm hết trạo hối. Từ bỏ nghi hoặc, an trú với tâm thoát ly nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm không còn nghi ngờ đối với các thiện pháp.
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chỉ đạt đến ngoài vỏ thôi.
- Này Nigrodha, ở đây một vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Và như thế nào... như vậy, này Nigrodha, vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Này Nigrodha, do vị khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, sự khổ hạnh của vị ấy là như vậy, vị ấy tiến lên chớ không rơi xuống hạ phẩm. Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng... Từ bỏ năm triền cái ấy, với trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm thiểu, vị ấy an trú với tâm câu hữu với từ... quảng đại vô biên, không hận, không sân. Vị ấy dẫn tâm hướng đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh tại chỗ ấy. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ ấy, ta được sanh ra ở đây." Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thì các khổ hạnh là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thì các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, và đạt đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chúng chỉ đạt đến phía gỗ xung quanh lõi mà thôi.
- Này Nigrodha, ở đây vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Và thế nào... Như vậy, này Nigrodha, vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Này Nigrodha, do vị khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, vị ấy tiến lên chứ không rơi xuống hạ phẩm. Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng... Từ bỏ năm triền cái ấy, với trí tuệ làm cho tâm cấu uế giảm thiểu, vị ấy an trú với tâm câu hữu với từ... Vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy dẫn tâm hướng đến Túc mạng minh, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời... Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. "Này các Hiền giả, những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ngữ và ý, phê phán các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi Trời, trên đời này". Như vậy vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Nếu sự kiện là như vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, đạt đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản. Này Nigrodha, như Ngươi hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào, Thế Tôn muốn dạy các đệ tử? Với Pháp nào các đệ tử của Thế Tôn được huấn dạy, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản Phạm hạnh?" Này Nigrodha, Ta nói rằng thật là một vấn đề cao thượng hơn và thuần nhất hơn mà Ta huấn dạy các đệ tử, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản Phạm hạnh.
Khi được nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy lớn tiếng cao giọng ồn ào nói lớn:
- Ở đây, các Tôn sư của chúng ta hoàn toàn bất lực. Chúng ta không biết gì tốt hơn và cao hơn lời dạy của họ.
- Này Tôn giả Nigrodha, Tôn giả nói với tôi như sau: "Gia chủ có biết không? Sa-môn Gotama luận đàm với ai. Đối thoại với ai? Với ai đạt được tuệ trí? Trí tuệ của Sa-môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ, Sa-môn Gotama không giỏi để điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề ngoại biên. Cũng như con bò một mắt, đi vòng tròn và chỉ đi phía bên ngoài. Cũng vậy, trí tuệ của Sa-môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ, Sa-môn Gotama không giỏi để điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề ngoại biên. Này Gia chủ, nếu Sa-môn Gotama đến tại hội chúng này, chỉ có một câu hỏi, chúng tôi có thể chận đứng ngay; chúng tôi nghĩ chúng tôi có thể lăn tròn Sa-môn Gotama như lăn tròn một cái bình không." Này Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác đã đến đây. Hãy nêu rõ Thế Tôn không thể điều khiển hội chúng, hãy chứng tỏ Thế Tôn như con bò một mắt, chỉ biết đi vòng xung quanh, với một câu hỏi, hãy chận đứng Thế Tôn lại, và làm cho Thế Tôn lăn tròn, như Tôn giả nghĩ, như một cái bình không.
Khi nghe nói vậy, du sĩ Nigrodha ngồi im lặng, ủ rũ, vai sụp xuống, gục đầu, ưu tư, câm miệng.
- Này Nigrodha, có phải Ngươi nói như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, thật sự con có nói như vậy, thật là ngu ngốc, si ám và bất thiện.
- Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Ngươi có bao giờ nghe các vị du sĩ niên cao, trưởng thượng, bậc Tổ sư truyền thống nói như sau: "Các vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác trong thời quá khứ, các vị Thế Tôn này khi nào hội họp lại, quy tụ lại, ồn ào, cao giọng, lớn tiếng, chung sống bàn cãi về những phiếm luận vô ích, như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm... câu chuyện về hiện hữu và không hiện hữu, như Ngươi và Sư trưởng của Ngươi hiện nay đang làm? Hay là những bậc Thế Tôn ấy an trú các nhàn tịnh xứ, núi rừng tịch mịch, xa vắng, ít tiếng, ít động, có gió đồng thổi, lánh xa mắt của người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu, như hiện Ta đang sống chăng?
- Bạch Thế Tôn, con được nghe các vị du sĩ niên cao, trưởng thượng, bậc Tổ sư truyền thống nói như sau: "Các vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác, trong quá khứ, các vị Thế Tôn này khi nào hội họp lại, quy tụ lại, thời không ồn ào, cao giọng, lớn tiếng, chung sống bàn cãi về những phiếm luận vô ích, như câu chuyện về vua chúa... câu chuyện về hiện hữu và không hiện hữu", như con và Sư trưởng của con đang làm. Những bậc Thế Tôn ấy an trú các nhàn tịnh xứ, núi rừng tịch mịch, xa vắng, ít tiếng, ít động, có gió đồng thổi, lánh xa mắt của người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu, như hiện nay Thế Tôn đang sống.
- Này Nigrodha, Ngươi là bậc có trí và niên trưởng, có bao giờ Ngươi suy nghĩ như sau: "Đức Phật, bậc Giác Ngộ, thuyết giảng giáo pháp đưa đến giác ngộ; Thế Tôn là vị đã điều phục, thuyết giảng giáo pháp đưa đến sự điều phục; Thế Tôn bậc An Chỉ, thuyết giảng giáo pháp đưa đến An Chỉ; Thế Tôn là bậc đến bờ bên kia, thuyết giảng giáo pháp đưa đến bờ bên kia; Thế Tôn bậc Tịnh Lạc, thuyết giảng giáo pháp đưa đến sự tịnh lạc.
- Bạch Thế Tôn, con đã phạm tội một cách ngu si, mờ ám, bất thiện, khi con nói về Thế Tôn như vậy. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp thuận cho tội ấy là phạm tội, để con ngăn ngừa về sau.
- Này Nigrodha, thật sự Ngươi đã phạm tội một cách ngu si, mờ ám, bất thiện, khi Ngươi nói về Ta như vậy. Này Nigrodha, khi Ngươi đã thấy phạm tội là phạm tội và phát lộ đúng với hành động, Ta chấp nhận tội của Ngươi. Này Nigrodha, như vậy là thông lệ giới luật của bậc Thánh, là ai thấy phạm tội là phạm tội và phát lộ đúng với hành động, thời tương lai sẽ được ngăn ngừa. Này Nigrodha, Ta nói cho Ngươi như sau: "Người có trí hãy đến đây, trung thực, không lừa đảo, chân trực, Ta sẽ huấn dạy, Ta sẽ thuyết pháp". Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại Phạm hạnh và mục tiêu vô thượng, mà vì lý tưởng này các Thiện nam tử, từ bỏ gia đình xuất gia tu đạo. Vị ấy cần có bảy năm. Này Nigrodha, đâu cần phải bảy năm! Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại Phạm hạnh và mục tiêu vô thượng mà vì lý tưởng này các Thiện nam tử từ bỏ gia đình, xuất gia tu đạo, chỉ cần có sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm... chỉ cần bảy tháng, một tháng, nửa tháng. Này Nigrodha, đâu cần có nửa tháng! Người có trí hãy đến đây, trung thực, không lừa đảo, chơn trực, Ta sẽ huấn dạy, Ta sẽ thuyết pháp. Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại, Phạm hạnh và mục tiêu vô thượng, mà vì lý tưởng này các thiện nam tử từ bỏ gia đình, xuất gia tu đạo, vị ấy chỉ cần có bảy ngày.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: "Tất cả kẻ ngu si này bị ác ma xâm nhập, không có một ai có ý nghĩ: "Hãy đến, chúng ta hãy sống đời sống Phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa-môn Gotama". Còn nói gì đến thời gian bảy ngày!"
Rồi Thế Tôn rống tiếng rống con sư tử trong ngôi vườn của nữ hoàng Udumbarikà dành cho hàng du sĩ, bay trên hư không, và hạ xuống núi Kỳ xà quật. Còn Gia chủ Sandhàna trở vào thành Vương xá.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________________
>>> 24.Kinh ba lê
TỰA
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát thuở tu nhơn, pháp tánh sẵn có của hết thảy chúng sanh. Mười phương chư Phật thân chứng được Bát nhã diệu tánh nên gọi là Phật. Tất cả bậc đại sĩ tu hành nơi Bát nhã diệu pháp nên gọi ngài là Bồ tát. Nhưng tất cả chúng sanh mê mờ Bát nhã diệu hạnh vì thế mới gọi chúng sanh mê muội nẻo về.
Tuy nhiên dù chúng sanh mê mờ quên mất Bát nhã diệu hạnh nhưng chơn không pháp tánh thường tồn , nên nói rằng: không giảm; Chư Phật thân chứng Bát nhã diệu tánh rốt ráo vẫn không một vật, nên gọi: không tăng. Không tăng không giảm tức là pháp tánh bình đẳng; pháp tánh bình đẳng chính là Bát nhã diệu hạnh.
Kinh Kim Cang có câu: “ Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia” chính chỉ cho Bát nhã diệu hạnh. Tại sao? Là vì do không an trụ nơi pháp cũng không trụ nơi tướng tức gọi là an trụ Bát nhã ba la mật.
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: An trụ Bát nhã ba la mật như vậy các thiện căn tăng trưởng ra làm sao ? tổn giảm như thế nào ? Văn Thù Sư Lợi thưa rằng: Nếu như đủ năng lực an trụ Bát nhã ba la mật như vậy, ở nơi các thiện căn không tăng không giảm, nơi tất cả pháp cũng không tăng không giảm, ngay tánh tướng Bát nhã ba la mật cũng không tăng không giảm. Bạch Thế Tôn ! tu Bát nhã ba la mật như vậy thì không buông bỏ pháp phàm phu, cũng không ôm giữ pháp thánh hiền. Tại sao ? Là vì Bát nhã diệu hạnh chơn không vô tướng không thấy có pháp nào có thể đáng ôm giữ hay đáng buông bỏ, cũng không thấy sự vui sướng của Niết Bàn hay sự đau khổ của sanh tử. Bát nhã diệu hạnh như ai có khả năng tin chắc không nghi, tu hành chơn thật không hư dối sẽ thừa sức thành tựu quả Phật, còn nói gì là địa vị Bồ tát!
Kế đến kinh “Như lai bất tư nghị cảnh giới” theo lời giải thích của Tổ Thanh Lương nơi phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện thuộc kinh Hoa Nghiêm: Tâm trí khế hợp là nhập, tâm tư không thể suy lường, ngôn thuyết không thể diễn đạt được là bất tư nghị, có tác dụng thoát ly chướng ngại là giải thoát, trí chia chẻ là cảnh. Bất tư nghị cảnh giới tức là sở nhập (đối tượng để thể nhập), khả năng thấu suốt cảnh giới bất tư nghị là năng nhập (chủ thể thể nhập), năng sở đều mất, chỉ tồn tại lại diệu tánh tức chơn như diệu trí gọi đó là Bất tư nghị cảnh giới.
Sau hết, Kinh Đại tập Hiền Hộ (Bát chu tam muội) chỗ trọng yếu nhứt dùng thân miệng ý tu tập ba nghiệp thanh tịnh: Thân nghiệp thanh tịnh tinh tấn hiểu biết giáo lý Phật pháp đại thừa, y theo giới tu hành. Khẩu nghiệp thanh tịnh tuyên dương giáo pháp chư Phật để cho chúng sanh hiểu biết sâu về pháp tánh bình đẳng. Ý nghiệp thanh tịnh tinh chuyên suy gẫm bình đẳng pháp tánh giữa thánh cùng phàm, ngày đêm sáu thời gẫm nghĩ không quên. Tu tập ba nghiệp thanh tịnh Phạm hạnh như vậy được thể nhập Tam muội Nhứt Hạnh, do tam muội Nhứt Hạnh bình đẳng pháp tánh xứng tánh ra công tu tập đó là lục độ vạn hạnh, nhờ nơi lục độ vạn hạnh trang nghiêm cho trí giác vô thượng, gọi đó là Phật. Phật nghĩa là giác ngộ, cũng là diệu trí, tức lý tánh của chơn như, thu gọn lại trọn không một vật, buông phóng ra vạn tượng hiện bày.
Tuần tự thể nhập ba bộ kinh trên, đầu tiên – do Văn Thù Bát Nhã Diệu trí soi sáng lý chơn không vô tướng mà phát khởi diệu hạnh.
Hai—Do Bát Nhã chơn không diệu hạnh thể nhập Bất tư nghị cảnh giới, dù nhập cửa huyền cảnh giới bất tư nghị nhưng không trụ nơi tướng. Ba – Do vô trụ tướng diệu hạnh bát nhã tu tập thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, bậc Hiền ba nghiệp tinh tấn, bậc Hộ (gìn giữ) phạm hạnh thanh tịnh, nên gọi liên hườn thâm nhập cả ba kinh, thành tựu trong chỉ một đời mệnh danh cho đó là đại giáo viên đốn.
Kinh Văn Thù Bát Nhã: Như người học bắn tập lâu chắc giỏi, về sau dù vô tâm nhưng tên bắn ra mũi mũi đều trúng, nếu không do tập lâu thành thói quen lại nói khan là vô tâm không bao giờ có. Do một môn tam muội bao gồm tất cả môn tam muội, lấy một môn tam muội tổng trì các pháp. Các Đại Bồ tát đều nhơn tam muội này chứng Đại Bồ đề.
Pháp Sư Minh Lễ ngụ tại Đại học Vạn Hạnh Thủ đô Saigon nước Việt Nam, người có thỉnh vấn tựa nơi tôi, ý muốn dịch ba bộ kinh Viên Đốn từ Văn Trung Hoa ra Văn Việt để cho tín đồ Phật giáo nơi đất Việt trực nhập được giáo lý đại thừa viên đốn chóng đến
bờ giác vô thượng, nguyện của người sâu rộng như thế kẻ thường thật khó ngang sánh, quả là Tăng già kiệt tác trên Việt sử cận đại, tôi mới có lời rằng: Giáo lý Đại thừa tôi nghiên cứu rất cạn còn nói chi đến đại giáo viên đốn! càng nghĩ kỹ lại càng thêm hổ thẹn,
kính cẩn đọc qua một dạo ba kinh viên đốn, nghĩa kinh sâu xa huyền diệu khó thể suy lường, thật chỉ có Phật cùng Phật mới thấu hiểu cùng tận, Bồ tát đại thừa còn chưa biết suốt đến nguồn, huống hồ gì bạc địa phàm phu!
Nghiên cứu ba bận rồi lại gẫm nghĩ mấy dạo thì cũng có thể hiểu và nói lên sơ sài được đôi ba điều. Bất tư nghị cảnh giới Bát nhã diệu trí kia chờ đợi kẻ trí bậc thánh hiền tách bạch ý nghĩa sâu xa khiến cho người duyệt đọc được nhiều lợi ích đối với chánh pháp .
Xưa Bành Tế Thanh đặc biệt thông suốt pháp môn đại giáo Viên Đốn cho pháp môn Niệm Phật bao gồm hết không thừa pháp nào. Như ai có thể tin chơn thật chắc thật già dặn niệm một câu thánh hiệu “A di đà Phật” dọc ngang siêu xuất đại giáo viên đốn nên cổ đức có nói pháp môn tịnh độ bao gồm tất cả pháp. Cận đại đại sư Ấn Quang có lời dạy : “ pháp pháp đều xuôi về tịnh độ”. Một câu Di Đà bao trùm đại giáo viên đốn không chút thừa sót, xác thật không còn nghi ngờ gì nữa. Do đó càng thêm hăng hái thành khẩn tu trì rồi còn trở lại dạy dỗ kẻ có duyên lành, chắc chắn hiện đời thân tâm thanh tịnh, được ưu tiên vào lãnh vực thánh hiền, đến phút cảm ứng đạo giao liền về Cực Lạc. Các sự lợi ích đó thật khó hình dung hết được, chỉ xin viết ít điều sơ lược để cống hiến cho người đọc vậy .
Việt Nam Hoa Nghiêm giảng tự
Tỳ kheo Trung Hoa Thọ Dã kính đề vào ngày mồng tám tháng tư năm Mậu Thân, Trung hoa Dân Quốc năm thứ 57 (1968 ) .
Người gửi bài: Đặng Hữu Phúc
(PÀTIKA SUTTANTA)
Một thời Thế Tôn ở giữa bộ lạc Mallà (Mạt la), tại Anupiya (A dật di), một thành của bộ lạc Mallà. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y vào buổi sáng, cầm y bát vào thành Anupiya để khất thực. Rồi Thế Tôn tự nghĩ: "Thật là quá sớm để vào thành Anupiya khất thực. Ta hãy đến Tinh xá của du sĩ Bhaggava và thăm vị này." Thế Tôn liền đi đến Tinh xá du sĩ Bhaggava.
- Thế Tôn hãy đến gần! Xin chào đón Thế Tôn. Đã lâu, Thế Tôn mới có dịp đến đây. Mời Thế Tôn ngồi, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn!
Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và du sĩ Bhaggava lấy một ghế ngồi khác thấp hơn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, du sĩ Bhaggava bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ngày xưa và nhiều ngày xưa nữa, Sunakkhatta (Thiện Tịnh) thuộc bộ lạc Licchavi (Ly xa tử) đến con và nói như sau: "Này Bhaggava, nay tôi từ bỏ Thế Tôn! Nay tôi không sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn nữa." Bạch Thế Tôn, sự việc có phải như Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi nói hay không?
- Này Bhaggava, sự việc thật như Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đã nói:
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
"- Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi:
"Này Sunakkhatta, hãy đến đây sống dưới sự chỉ dẫn của Ta" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Hay Ngươi có nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Này Sunakkhatta, Ta không nói: "Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta", và Ngươi cũng không nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn". Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ? Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
"- Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi: "Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta! Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Ngươi có nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn. Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Này Sunakkhatta, Ta không nói với Ngươi: "Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta, Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông; Ngươi cũng không nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, và Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông." Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ. Này Sunakkhatta, nhà Ngươi nghĩ thế nào? Các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
"- Bạch Thế Tôn, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy!
"- Này Sunakkhatta, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau. Này Sunakkhatta! như vậy thời các pháp thượng nhân thần thông là gì mà cần phải thực chứng? Này kẻ ngu kia, hãy thấy lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!
"- Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi: "Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của Thế giới" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Này Sunakkhatta, Ngươi có nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới" chăng?
"- Bạch Thế Tôn, không!
"- Này Sunakkhatta, như vậy Ta không nói với Ngươi: "Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của thế giới." Ngươi cũng không nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới." Này kẻ ngu kia, sự kiện là như vậy, thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ? Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
"- Bạch Thế Tôn, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy.
"- Này Sunakkhatta, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích của Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau. Này Sunakkhatta, như vậy thời giải thích về khởi nguyên thế giới có ích lợi gì cho Ngươi? Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
"Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi nói lời tán thán Pháp tại làng Vajji: "Chánh pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người có trí mới thâm hiểu." Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Chánh pháp tại làng Vajji.
"Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi đã tán thán Tăng tại làng Vajji: "Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về chánh chơn, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh trực, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về khuôn phép, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về chánh hạnh, tức là bốn đôi tám chúng. Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng được kính trọng, đáng được cung kính, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay cúi chào, vì là phước điền tối thượng ở đời". Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Tăng tại làng Vajji.
"Này Sunakkhatta, Ta nói cho Ngươi biết; này Sunakkhatta ta tin cho Ngươi biết; sẽ có lời luận bàn về Ngươi như sau: "Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi không thể sống Phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa-môn Gotama. Vì không kham nổi, nên từ bỏ sự tu học trở về với đời sống thấp kém". Này Sunakkhatta, sẽ có lời luận bàn về Ngươi như vậy.
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ pháp luật này, như người phải rớt vào đọa xứ, địa ngục.
Này Bahaggava, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng ăn đồ cứng hay đồ ăn mềm.
Này Bhaggava, Ta biết được tâm tư của Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi với tâm tư của Ta và Ta nói với ông ta như sau:
"- Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?
"- Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói: "Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi tự nhân Ngươi là Thích tử không"?
"- Này Sunakkhatta, có phải Ngươi, sau khi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm, liền suy nghĩ: "Thật tốt đẹp thay vị A-la-hán Sa-môn đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm"?
"- Bạch Thế Tôn có vậy. Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một vị A-la-hán?
"- Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A-la-hán? Chính Ngươi tự sinh ác tà kiến ấy, hãy bỏ nó đi. Chớ để tự mình lâu ngày bị khổ đau thiệt hại. Này Sunakkhatta, lõa thể Korakkhattiya mà Ngươi nghĩ là tốt đẹp, là vị Sa-môn, sau bảy ngày sẽ bị trúng thực mà chết, sau khi chết sẽ tái sanh thuộc loại Kàlakanjà, một trong loại Asura thấp kém nhất. Sau khi chết, nó sẽ bị quăng trong nghĩa địa đặt trên đống cỏ Bìrana. Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy đến hỏi lõa thể Korakkhattiya như sau: "Này bạn Korakkhattiya, bạn có biết bạn thác sanh cảnh giới nào không?" Này Sunakkhatta, sự kiện này có thể xảy ra, lõa thể Korakkhatta ấy có thể trả lời với Ngươi: "Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi. Tôi sẽ thác sanh thuộc loại Kàlakanjà, một trong loại Asura thấp kém nhất. Sau khi chết, ông ta sẽ bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Birana". Này Bạn Korakkhattiya, vậy Bạn hãy ăn cho có tiết độ, vậy Bạn hãy uống cho có tiết độ, để lời nói của Sa-môn Gotama trở thành nói láo."
Này Bhaggava, vì không tin tưởng Như Lai, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đếm từng ngày một cho đến bảy ngày. Nhưng này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya sau bảy ngày bị trúng thực mà chết. Sau khi chết, bị tái sanh thuộc loại Kàlakanjà, một trong loại Asura thấp kém nhất. Sau khi chết, ông ta bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Birana.
"- Này bạn Korakkhattiya, Bạn có biết cảnh giới thác sanh của Bạn không?"
Này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya lấy tay xoa lưng và ngồi dậy:
"- Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi. Tôi thác sanh thuộc loại Kàlakanjà, một trong loại Asura thấp kém nhất." Sau khi nói xong, ông ta ngã ngửa xuống.
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Điều Ta nói với Ngươi về lõa thể Korakkhattiya, có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
"- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Korakkhattiya như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác!
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện có phải không?
"- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
"- Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con." Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!"
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ pháp luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
"- Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?
"- Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói với con như vậy: "Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?'
"- Này Sunakkhatta, có phải Ngươi đã đi đến lõa thể Kandaramasuka và hỏi câu hỏi? Lõa thể Kandaramasuka khi được Ngươi hỏi như vậy, không theo dõi câu hỏi; vì không theo dõi nên tỏ ra tức tối, giận dữ, phật ý. Rồi tự nghĩ: "Chúng ta có thể trở thành chống đối vị A-la-hán, Sa-môn tốt đẹp này. Hãy giữ đừng có có gì xảy ra khiến chúng có thể bất lợi đau khổ lâu đời!".
"- Bạch Thế Tôn có vậy. Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một vị A-la-hán?
"- Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A-la-hán! Chính Ngươi tự sanh ác tà kiến ấy, hãy từ bỏ nó đi. Chớ để mình lâu ngày bị thiệt hại đau khổ! Này Sunakkhatta, lõa thể Kandaramasuka mà Ngươi nghĩ là vị A-la-hán, là vị Sa-môn tốt đẹp, không bao lâu sẽ sống mặc áo và lập gia đình, sẽ ăn cơm cháo, sẽ đi vượt quá các tháp ở Vesàli và sẽ chết mất hết cả danh xưng".
Này Bhaggava, lõa thể Kandaramasuka, không bao lâu sống mặc áo và lập gia đình, ăn dùng cơm cháo, đi vượt quá các tháp ở Vesàli và bị chết mất hết cả danh xưng.
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Điều Ta nói với Ngươi về lõa thể Kandaramasuka có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
"- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Kandaramasuka như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác.
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời có phải là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, có phải không?
"- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
"- Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con." Này kẻ ngu kia, hãy thấy rõ sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào"!
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ pháp luật này, như người phải rơi vào đọa xứ địa ngục.
"Sa-môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí. Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông của mình, nhờ trí lực của mình. Nếu Sa-môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường. Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây. Nếu Sa-môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp. Nếu Sa-môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp. Như vậy Sa-môn Gotama thực hiện bao nhiều pháp thần thông thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần."
"- Bạch Thế Tôn, lõa thể Patikaputta (Ba kê tử) sống ở Vesàli, được cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng ở làng Vajji. Trong buổi họp ở Vesàli, thường tuyên bố như sau: "Sa-môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí. Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình. Nếu Sa-môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường. Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thần thông ở tại đây. Nếu Sa-môn Gotama có thể thực hiện một pháp thượng nhân thần thông... thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần."
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
"- Này Sunakkhatta, lõa thể Patikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
"- Này Sunakkhatta, tại sao Ngươi lại nói với Ta: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thận trọng lời nói."?
"- Bạch Thế Tôn, lời nói này đã được Thế Tôn tuyên bố một cách cực đoan: "Lõa thể Patikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan"! Bạch Thế Tôn, lõa thể Patikaputta có thể đến gặp mặt Thế Tôn với một hóa thân khác, và như vậy Thế Tôn trở thành nói không thật!
"- Bạch Thế Tôn, có phải do tự tâm phán xét mà Thế Tôn đã được biết về Patikaputta: "Lõa thể Patikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan". Hay là có vị Thiên thần nào đã báo tin cho Như Lai biết: "Bạch Thế Tôn, lõa thể Patikaputta không có thể... đầu của ông ấy sẽ bị bể tan!"
"- Này Sunakkhatta, chính tự tâm phán xét mà ta đã biết về lõa thể Patikaputta: "Lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Ta... đầu của ông ấy sẽ bị bể tan." Và cũng có vị Thiên thần đã báo tin cho Ta biết: "Lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn... đầu ông ấy sẽ bị bể tan". Vị Tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita, khi mệnh chung vào ngày kia đã được sanh vào Tam thập tam thiên. Rồi vị ấy đến bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không có tàm quý! Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không nói sự thật! Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta đã nói về con, ở giữa làng Vajji như sau: "Tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita sẽ thác sanh vào Đại địa ngục." Bạch Thế Tôn, con không thác sanh vào Đại địa ngục, Bạch Thế Tôn, con được sanh vào cõi Tam thập tam thiên! Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không có tàm quý. Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không nói sự thật! Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Sa-môn Gotama... đầu của ông ấy sẽ bị bể tan." Này Sunakkhatta, như vậy chính tự tâm phán xét mà Ta biết về lõa thể Pàtikaputta. Lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan. Và một vị Thiên Thần đã báo tin cho ta biết: "Bạch Thế Tôn, lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan."
"Này Sunakkhatta, sau khi Ta đi khất thực ở Vesàli, ăn xong và khất thực trở về, Ta sẽ đến tại vườn Pàtikaputta để nghỉ trưa. Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy tin cho ông ấy biết."
"- Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pàtikaputta để nghỉ trưa! Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa-môn thiện xảo."
Này Bhaggava, các Licchavi có danh tiếng suy nghĩ như sau: "Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa-môn thiện xảo. Vậy chúng ta hãy đi đến đó."
Và chỗ nào có những Bà-la-môn có địa vị, những Gia chủ giàu sang, các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo có danh tiếng, ông ta đi đến các vị này và báo tin cho biết:
"- Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi đi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pàtikaputta để nghỉ trưa. Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa-môn thiện xảo."
Này Bhaggava, các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo có danh tiếng suy nghĩ: "Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa-môn thiện xảo. Vậy chúng ta hãy đi đến đó."
Này Bhaggava, rồi các Licchavi có danh tiếng, các Bà-la-môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo có danh tiếng cùng đi đến vườn của Pàtikaputta. Này Bhaggava, như vậy Hội chúng này lên đến hàng trăm hàng ngàn người.
Này Bhaggava, Hội chúng ấy được nghe: "Lõa thể Pàtikaputta hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược đã đi đến vườn các du sĩ Tindukkhànu." Này Bhaggava, Hội chúng liền cho gọi một người và bảo:
"- Này bạn hãy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhànu, gặp lõa thể Pàtikaputta và nói như sau: "Này bạn Pàtikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà-la-môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến. Sa-môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, lời nói sau đây được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesàli: "Sa-môn là người có trí, ta cũng là người có trí. Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình. Nếu Sa-môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường. Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây. Nếu Sa-môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp. Nếu Sa-môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp. Nếu Sa-môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp. Như vậy Sa-môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần. "Này Hiền giả Pàtikaputta, hãy chịu đi nửa đường. Sa-môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!".
"- Này bạn Pàtikaputta, hãy đi đến. Các Licchavi danh tiếng... Sa-môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, lời nói sau được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesàli: "Sa-môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí... ta sẽ thực hiện gấp hai lần". Này Hiền giả Pàtikaputta, hãy chịu đi nửa đường, Sa-môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường và ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả."
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, lõa thể Pàtikaputta trả lời:
"- Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến".
Nhưng ông ấy như trườn bò qua lại tại chỗ, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Này Bhaggava, người ấy nói với lõa thể Pàtikaputta:
"- Này Hiền giả Pàtikaputta sao lại như vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả?
"- Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến."
Tuy nói vậy nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pàtikaputta tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến"; nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
"- Lõa thể Pàtikaputta đã thảm bại, tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", lại trườn bò qua lại, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi."
Này Bhaggava, khi nghe vậy Ta nói với Hội chúng:
"- Này các Hiền giả, lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy. Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan."
II
"- Các Hiền giả hãy chờ một lát, để tôi đi, xem có thể đưa lõa thể Pàtikaputta đến Hội chúng này không?"
Này Bhaggava, rồi vị đại thần Licchavi ấy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhànu, gặp mặt lõa thể Pàtikaputta và nói với ông ấy:
"- Này bạn Pàtikaputta hãy đến! Các Licchavi danh tiếng đã đến, và các Bà-la-môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa-môn, Ba la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến; còn Sa-môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesàli: "Sa-môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí... thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần". Này Hiền giả Pàtikaputta, hãy chịu đi nửa đường. Sa-môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, Sa-môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau: "Lõa thể Pàtikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy... ông ấy có thể đến gặp mặt Thế Tôn thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan". Này Hiền giả Pàtikaputta hãy đến! Nếu Hiền gỉa đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng và làm cho Sa-môn Gotama thất bại."
"- Này Hiền giả Pàtikaputta, sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả. Tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy."
Này Bhaggava, khi được nói vậy, lõa thể Pàtikaputta tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
"- Lõa thể Pàtikaputta đã thảm bại, tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy."
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Hội chúng ấy:
"- Này các Hiền giả, lõa thể Pàtikaputta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy... thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan. Nếu quí vị Licchavi nghĩ rằng: "Chúng ta hãy cột lõa thể Pàtikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây, Pàtikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy. Lõa thể Pàtikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy..." Nếu ông ấy nghĩ rằng: "Ta không từ bỏ lời nói ấy...", thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan."
"- Các Hiền giả hãy chờ một lát, để tôi đi xem có thể đưa lõa thể Pàtikaputta đến Hội chúng này hay không?"
Này Bhaggava, rồi Jàliya, đệ tử của Dàrupatti đi đến vườn các du sĩ Tindukkhànu, gặp mặt lõa thể Pàtikaputta và nói với ông ấy:
"- Này bạn Pàtikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến... Sa-môn Gotama nay đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesàli như sau: "Sa-môn Gotama là người có trí... thời ta sẽ thực pháp gấp hai lần." Này Hiền giả Pàtikaputta, hãy chịu đi nửa đường. Sa-môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả. Này Hiền giả Pàtikaputta, Sa-môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau: "Lõa thể Pàtikaputta nếu không từ bỏ lời nói ấy... Nếu ông ấy nghĩ rằng: "Ta không bỏ lời nói ấy... có thể đến gặp mặt Sa-môn Gotama...", thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan". Nếu quý vị Licchavi nghĩ rằng: "Chúng ta hãy cột lõa thể Pàtikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây", Pàtikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy. Lõa thể Pàtikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy... đầu của ông ấy sẽ bị bể tan". Này Hiền giả Pàtikaputta hãy đến. Nếu Hiền giả đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng, và làm cho Sa-môn Gotama thất bại."
"- Này Hiền giả Pàtikaputta sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính vào mông của Hiền giả. Tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy."
Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pàtikaputta, tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", lại trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy."
"- Này Hiền giả Pàtikaputta, thuở xưa con sư tử vua các loài thú suy nghĩ: "Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt. Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại, tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại".
"Này Hiền giả, con sư tử ấy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, nó đi đến chỗ các thú qua lại, tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại.
"Này Hiền giả, con chó rừng kia ý cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và định ba lần rống tiếng rống con sư tử. Nhưng nó chỉ kêu lên tiếng loại chó rừng, tiếng sủa loại chó rừng. Ai có thể so sánh tiếng sủa con chó rừng đê tiện với tiếng rống con sư tử?
"Cũng vậy, này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Bọn Pàtikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác?"
Chó rừng nhìn tự thân,
Tự nghĩ là sư tử.
Nó sủa tiếng chó rừng,
Loại chó rừng đê tiện.
Chó rừng sủa là ai?
Ai rống tiếng sư tử?
"Cũng vậy, này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Bọn Pàtikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh đẳng Giác?"
Lang thang trong rừng mát,
Tự sống đồ tàn thực,
Đến nỗi không thấy mình,
Tự nghĩ mình là cọp,
Rồi sủa tiếng chó rừng,
Loại chó rừng đê tiện.
"Cũng vậy, này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Bọn Pàtikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác?"
Ăn cóc, chuột kho thóc,
Ăn xác quăng nghĩa địa,
Sống Đại lâm, Không lâm,
Tự nghĩ là vua thú.
Nó sủa tiếng chó rừng,
Loại chó rừng đê tiện.
Chó rừng sủa là ai?
Ai rống tiếng sư tử?
"Cũng vậy này Hiền giả Pàtikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Bọn Pàtikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Giác?"
"- Lõa thể Pàtikaputta đã thảm bại, tuy nói: "Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến", nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy."
"- Này các Hiền giả, lõa thể Pàtikaputta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thì không có thể đến gặp mặt Ta được. Nếu ông ấy nghĩ rằng: "Ta tuy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, có thể đến gặp mặt Sa-môn Gotama được", thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan. Nếu quý vị Licchavi nghĩ rằng: "Chúng ta hãy cột lõa thể Pàtikaputta với dây thừng và dùng bò kéo ông ấy lại đây". Pàtikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy. Lõa thể Pàtikaputta không có thể không từ bỏ lời nói ấy... có thể đến gặp mặt Ta được. Nếu ông ấy nghĩ rằng: "Ta có thể không từ bỏ lời nói ấy... có thể đến gặp mặt Sa-môn Gotama được", thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan."
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Có phải điều Ta nói cho Ngươi về lõa thể Pàtikaputta, đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác?
"- Bạch Thế Tôn, điều Thế Tôn nói cho con về lõa thể Pàtikaputta đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác.
"- Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thì có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện hay không được thực hiện?
"- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thì pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, không phải không thực hiện.
- "Này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi lại nói: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông." Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!"
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ pháp luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
"- Có phải chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự tại Thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời:
"- Vâng!"
Ta nói với quý vị ấy:
"- Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo thuyền thống là do Tự tại Thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra"?
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta, và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Các vị ấy nói như sau:
"- Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama nói: "Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới... mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi."
"- Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời:
"- Vâng."
Ta nói với quý vị ấy:
"- Sao chư Hiền giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới truyền thống, là do nhiễm hoặc bởi dục lạc?"
Được Ta hỏi như vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta, và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
"- Này các Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Khiddàpadosikà (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên bị thất niệm. Do thất niệm, chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể của họ. Sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến chỗ này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy chớ không nhớ xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói: "Những vị Thiên không bị nhiễm hoặc vì dục lạc, họ sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc, nên không bị thất niệm. Nhờ không thất niệm, nên Chư Thiên ấy không thác sanh, không từ bỏ thân thể của họ, sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi. Còn chúng ta đã bị nhiễm hoặc bởi dục lạc, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì chúng ta sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc nên bị thất niệm. Do thất niệm, chúng ta từ bỏ thân thể này, sống vô thường, không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến chỗ này". Này các Tôn giả, như vậy quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc có phải không?"
Các vị ấy nói như sau:
"- Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói: "Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới,... mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi".
"- Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời:
- "Vâng".
Ta nói với quý vị ấy:
"- Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta, và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
"- Chư Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Manopadosikà (nhiễm hoặc bởi tâm trí.) Họ sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí oán ghét lẫn nhau, nên thân họ mệt mỏi, tâm họ mệt mỏi. Các hạng chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân này của họ. Các Hiền giả, sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia, khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến cõi này. Khi sanh đến cõi này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống ấy. Vị ấy nói rằng: "Chư Thiên không bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, họ sống lâu ngày không bị nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ không oán ghét nhau. Vì tâm trí họ không oán ghét nhau, nên thân họ không mệt mỏi, tâm họ không mệt mỏi. Hạng chư Thiên ấy không thác sanh từ bỏ thân thể của họ, sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi. Còn chúng ta bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, nên tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau, nên thân mệt mỏi và tâm mệt mỏi. Chúng thác sanh, từ bỏ thân này, sống vô thường không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến tại chỗ này". Như vậy, này các Hiền giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên của thế giới theo truyền thống là do bị nhiễm hoặc bởi tâm trí."
Họ trả lời như sau:
"- Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói: "Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên của thế giới... mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi."
"- Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời:
"- Vâng".
Ta nói với quý vị ấy:
"- Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh?"
Được Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta, và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
"- Chư Hiền giả, có những chư Thiên gọi là Vô tưởng hữu tình. Khi một tưởng niệm khởi lên, thời chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên của mình. Chư Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra. Một trong loài hữu tình ấy, khi thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên ấy của mình, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhiệt tâm... nên tâm nhập định. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ xa hơn nữa. Vị ấy nói: "Bản ngã về thế giới do vô nhân sanh. Tại sao vậy? Vì rằng: Tôi trước kia không có, nay có. Từ nơi trạng thái không có, tôi trở thành loại hữu tình". Như vậy, này các Tôn giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh có phải như vậy không?"
Họ trả lời:
"- Này Hiền giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói: "Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới, Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy. Chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi".
- Bạch Thế Tôn, chính họ là điên đảo khi họ chỉ trích Thế Tôn và các Tỷ-kheo là điên đảo. Con tin tưởng hoan hỷ đối với Thế Tôn khiến con tin rằng Thế Tôn có thể dạy cho con đến thanh tịnh giải thoát.
- Này Bhaggava, thật khó cho Ngươi khi Ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác để có thể đạt được thanh tịnh, giải thoát. Này Bhaggava, hãy đặt nặng lòng tin ở nơi Ta, hãy khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.
- Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con, khi con theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác, để có thể đạt được thanh tịnh giải thoát, thời Bạch Thế Tôn, ít nhất con cũng đặt nặng lòng tin vào Thế Tôn, và con sẽ khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, du sĩ Bhaggava hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________________
>>> 23.Kinh Tệ túc
Trích từ sao lục của SENG YU Bản dịch Hán văn: Vô danh
Đại Chánh Tạng Quyển 13 Hịệt 1118 Số 396 Niết Bàn Bộ
Bản dịch Anh ngữ: Tỷ-khưu THÍCH HẰNG THẬT Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ
Bản dịch Việt ngữ: THÍCH NHUẬN CHÂU (Tịnh thất Từ Nghiêm, Đại Tòng Lâm)
Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành đối chiếu Hán văn và hiệu đính
Kệ khai kinh
Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn tĩnh lặng , ngài không nói một lời và hào quang không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi:
“Bạch Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”
Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:
“Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.
“Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi., họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình , thường nhẫn nhục nhân hòa.
“Nếu có những người như vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng, xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.
“Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ . Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng , ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.
Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành.
“Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp . Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một hoặc hai người.
“Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc . Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi.
«Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn .
«Lúc đó các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự trong chúng hội . Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm, kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng.
«Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra.
«Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, n ăm thứ cốc loại tươi tốt , cây cối sum suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được.»
Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật :
«Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?»
Đức Phật bảo :
«Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được.»
Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
HẾT
(PÀYÀSI SUTTANTA)
Một thời Tôn giả Kimàra Kassapa (Cưu ma la Ca-diếp) đang du hành trong nước Kosala (Câu tát la) cùng với Đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đi đến một đô thị của Kosala tên là Setavyà (Tư-ba-ê). Rồi Tôn giả Kumàra Kassapa trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapà (Thi xá bà). Lúc bấy giờ, vua Pàyàsi (Kệ Túc) cư trú tại Setavyà, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi (Ba tư nặc) nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
- Này Khanh, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Setavyà đi ra khỏi thành Setavyà, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapà như vậy?
- Có Sa-môn Kumàra Kassapa, đệ tử Sa-môn Gotama đang du hành trong nước Kosala cùng với Đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyà, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapà. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về Tôn giả Kumàra Kassapa được khởi lên: "Tôn giả là bậc học rộng, tài cao, diệu trí, đa văn, lời nói thấu tâm, thiện xảo, biện tài" và các vị ấy đi đến yết kiến Tôn giả Kumàra Kassapa.
- Này Khanh, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ấy và nói với họ như sau: "Vua Pàyàsi nói các Hiền giả hãy đợi. Vua Pàyàsi cũng sẽ đến yết kiến Sa-môn Kumàra Kassapa". Sa-môn Kumàra Kassapa có thể cảm hóa các Bà-la-môn và Gia chủ ở Setavyà ngu muội và kém khả năng theo quan điểm: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo". Này Khanh, sự thật không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.
- Xin vâng, thưa Tôn chủ!
Vị quan hộ thành vâng lời vua Pàyàsi, đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Setavyà và nói:
- Chư Hiền giả hãy chờ đợi, vua Pàyàsi sẽ đến yết kiến Sa-môn Kumàra Kassapa.
- Tôn giả Kassapa, tôi có chủ thuyết và tri kiến như sau: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
- Này Tôn chủ, tôi không thấy, không nghe quan điểm như vậy, tri kiến như vậy. Sao Tôn chủ lại nói: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo"? Thưa Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Tôn chủ một vài câu hỏi. Tôn chủ hãy tùy theo đó mà trả lời. Tôn chủ nghĩ thế nào? Mặt trời và mặt trăng này, chúng thuộc thế giới này hay thế giới khác? Chúng thuộc chư Thiên hay loài Người?
- Tôn giả Kassapa, mặt trời và mặt trăng thuộc thế giới khác, không phải thế giới này, chúng thuộc chư Thiên, không thuộc loài Người.
- Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, cần phải chấp nhận rằng: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo".
- Này Tôn chủ, sự kiện gì để chứng minh rằng: "Không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo"?.
- Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, tôi có những người bạn tri kỷ, thân tộc cùng một huyết thống. Những người này sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến. Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chướng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau: "Những ai sát sanh, lấy của không cho, tà dâm nói láo, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Nay các Hiền giả sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến. Nếu lời nói những vị Sa-môn Bà-la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Nếu các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo". Các Hiền giả là các Thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy, thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy." Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay!" Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi sứ giả đến. Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi có tri kiến: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo".
- Tôn giả Kassapa, người ăn trộm ấy không được những người đem chém mình cho phép: "Thưa quý vị, quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này." Những người ấy chặt ngay đầu người ăn trộm cầu xin như vậy.
- Này Tôn giả, người ăn trộm thuộc loài Người, không được phép người xử trảm mình cũng là loài Người: "Thưa quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở làng này, hay ở xã này", thời làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, đã sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục lại được những người coi giữ địa ngục cho phép: "Thưa quý vị coi giữ địa ngục, quý vị hãy cho phép tôi về tâu với vua Pàyàsi: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo."
- Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo"?
- Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
- Này Tôn chủ, như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, tôi có những thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm, những tri kiến như sau: "Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, những người ấy khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới". Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới. Nếu các Hiền giả, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo". Các Hiền giả là Thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy". Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến. Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo".
- Thưa không, Tôn giả Kassapa!
- Vì sao không?
- Tôn giả Kassapa, hầm phân là bất tịnh và được xem là bất tịnh, xú uế và được xem là xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố. Này Tôn chủ, mùi hôi của loài Người khiến chư Thiên ghê tởm xa đến một trăm do tuần. Làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, những người ấy có thể về tin lại cho Tôn chủ: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo". Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo".
- Tôn chủ có sự kiện nào...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện nào...
- Tôn chủ, như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, tôi có những người thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người này sau một thời gian bị trọng bệnh, bị đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: "Một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau: "Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người ấy khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới". Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và tà kiến. Nếu lời nói của những vị Sa-môn, Bà-la-môn này chính xác thời các Hiền giả, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo". Các Hiền giả là Thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy sẽ là như vậy, như chính ta được thấy." Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: "Lành thay!" Nhưng không ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến. Này Tôn giả Kassapa sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
- Thưa không, Tôn giả Kassapa! Tôn giả Kassapa, vì chúng tôi sẽ chết đã lâu rồi. Nhưng ai cho Tôn giả Kassapa biết: "Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy". Chúng tôi không tin người ấy, khi người ấy nói: "Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên! Hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên, tuổi thọ là như vậy!"
- Này Tôn chủ, như có người sanh ra đã mù, không thấy được các sắc đen hay trắng, không thấy được các sắc xanh, hay các sắc vàng, các sắc đỏ, hay các sắc nâu, không thấy được các sắc tế nhị hay thô cứng, không thấy được các sao hay mặt trăng. Người ấy nói: "Không có các sắc đen hay trắng, không có người thấy các sắc đen hay trắng; không có sắc xanh, không có người thấy các sắc xanh; không có sắc vàng, không có người thấy các sắc vàng; không có sắc đỏ, không có người thấy các sắc đỏ; không có sắc nâu, không có người thấy các sắc nâu, không sắc tế nhị, thô cứng, không có người thấy các sắc tế nhị, thô cứng; không có các sao, không có người thấy các sao; không có mặt trăng, mặt trời, không có người thấy mặt trăng mặt trời. Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, nên vật này không có. Này Tôn chủ, nói như vậy có phải nói một cách hợp lý không?
- Thưa không, Tôn giả Kassapa. Có các sắc đen, trắng, có người thấy các sắc đen trắng; có sắc xanh, có người thấy các sắc xanh; có sắc vàng, có người thấy các sắc vàng; có sắc đỏ, có người thấy các sắc đỏ; có sắc nâu, có người thấy các sắc nâu; có các vật tế nhị thô cứng, có người thấy các vật tế nhị, thô cứng; có các vì sao, có người thấy các vì sao; có mặt trăng, mặt trời, có người thấy mặt trăng mặt trời. "Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, do vậy vật này không có." Tôn giả Kassapa, ai nói như vậy là nói không hợp lý!
- Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói cũng giống người sinh ra đã mù khi Ngài nói với tôi: "Ai bảo Tôn giả Kassapa biết rằng: "Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên," hay "Chư Thiên ở Tam thập Tam thiên tuổi thọ là như vậy!" Chúng tôi không tin Tôn giả Kassapa, khi Tôn giả nói: "Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên," hay "Chư Thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy".
Này Tôn chủ, đời sau không như Ngài nghĩ có thể thấy bằng con mắt thịt. Này Tôn chủ, có những Sa-môn, Bà-la-môn, sống những chỗ hẻo lánh trong rừng, ít có tiếng ồn, ít có tiếng động. Tại những chỗ ấy, các vị này sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, làm cho Thiên nhãn trong sạch. Rồi với Thiên nhãn thanh tịnh thắng xa loài Người, các vị này thấy đời này, đời sau, và thấy các loại hóa sanh. Này Tôn chủ, đời sau phải được thấy như vậy. Không phải như Ngài nghĩ với con mắt thịt. Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo."
- Tôn chủ có sự kiện nào khác...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện...
- Tôn chủ, như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, ở đây tôi thấy có những Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới, thiện tánh, ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ. Tôn giả Kassapa, rồi tôi nghĩ: "Nếu những Sa-môn, Bà-la-môn này giữ giới, có thiện tánh, được biết: "Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn." Rồi những Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy, hoặc uống thuốc độc, hoặc lấy kiếm đâm, hoặc tự giết mình bằng cách treo cổ, hay tự lao mình xuống hố sâu. Vì những Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh ấy không được biết: "Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn." Do vậy các Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ. Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
Lần thứ hai, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia: "Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi. Tiểu mẫu nay không có gì hết. Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi." Lần thứ hai, Bà-la-môn nữ kia nói với đứa trai ấy: "Tiểu tử hãy chờ ta sanh con. Nếu ta sanh con trai thì một phần gia tài thuộc về nó. Nếu ta sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con."
Lần thứ ba, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia: "Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi. Tiểu mẫu không có gì hết. Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi". Rồi người Ba la môn nữ ấy lấy một con dao, vào trong nội phòng và rạch bụng ra. "Ta muốn biết đó là con trai hay con gái." Như vậy người đàn bà ấy hại đời sống của mình, hại luôn cái thai và hại luôn tài sản của mình vì đã đi tìm của thừa tự một cách ngu xuẩn và si mê, nên gặp phải nguy hiểm và tai nạn. Cũng vậy, vì ngu xuẩn và si mê, Ngài gặp phải nguy hiểm và tai nạn khi Ngài đi tìm đời sau một cách vô trí, cũng giống Bà-la-môn nữ kia, vì ngu xuẩn và si mê, đã đi tìm thừa tự một cách vô trí. Này Tôn chủ, các vị Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh không bắt buộc cái gì chưa chín phải chín. Vì có trí, các vị ấy chờ chín muồi đến. Này Tôn chủ, các vị Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh cần thiết đến mạng sống. Này Tôn chủ, nếu các Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh sống lâu ở trên đời này bao nhiêu, các vị ấy làm được nhiều công đức bấy nhiêu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên: "Có đời sau, có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo."
- Tôn chủ có sự kiện nào khác...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện...
- Này Tôn chủ như thế nào?
- Này Tôn giả Kassapa, ở đây có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi và nói: "Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn. "Tôi nói với họ: "Các Hiền giả, hãy bỏ sống người này trong một cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt. Các người ấy đáp: "Xin vâng!", rồi họ bỏ sống người ấy trong cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum lại, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt. Khi chúng tôi biết người ấy đã chết, liền nhắc chum ấy xuống, cởi các dây buộc, mở miệng chum ra vội vàng nhìn kỹ: "Chúng ta mong được thấy linh hồn (người chết) đi ra". Nhưng chúng tôi không thấy linh hồn người chết đi ra. Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi tin rằng. "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo".
- Tôn giả Kassapa, tôi xác nhận khi đi nghỉ trưa, tôi có thấy những cảnh mộng hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ.
- Trong khi ấy, có phải Ngài được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái?
- Vâng, Tôn giả Kassapa, trong khi ấy, tôi được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái.
- Và họ thấy linh hồn của Ngài đi ra hay đi vào không?
- Tôn giả Kassapa, thưa không.
- Này Tôn chủ, họ không thấy linh hồn của Tôn chủ đi ra hay đi vào, thời làm sao Ngài có thể thấy linh hồn một người chết đi vào hay đi ra được? Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo."
- Tôn chủ có sự kiện nào...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện...
- Tôn chủ như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, ở đời, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ: "Các khanh hãy đem cân sống anh ta đi, rồi lấy cung thắt cổ cho anh ta chết, xong đem cân lại." Những người này vâng lời tôi và đáp: "Xin vâng!", rồi họ đem cân sống người ăn trộm ấy, lấy dây cung thắt cổ anh ta cho đến chết xong cân lại. Khi anh ta sống thì anh ta nhẹ, mềm mại, nhu nhuyến. Khi anh ta chết, thì anh ta nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến. Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
- Tôn giả Kassapa, khi hòn sắt ấy cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, khi ấy hòn sắt nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn. Khi hòn sắt ấy không cháy đỏ, không hừng lửa, nguội lạnh rồi, khi đó hòn sắt nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
- Này Tôn chủ, khi thân này có tuổi thọ, có sức nặng, có thức thì nó nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn. Khi các thân này không có tuổi thọ, không có sức nóng và không có thức thời nó nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến. Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhập: "Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo."
- Này Tôn chủ, có sự kiện nào...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện...
- Tôn chủ như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ như sau: "Các khanh, hãy giết người này bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy của anh ta". Những người này vâng lời tôi và đáp: "Xin vâng, Tôn chủ!" rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy. Khi người ấy chết một phần nửa, tôi bảo họ: "Hãy lật ngược người này nằm ngửa, và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?" Họ lật ngược người này nằm ngửa, và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra. Tôi lại bảo họ: "Hãy lật người này nằm cong lại... nằm phía một bên... nằm phía bên kia... đặt người đó đứng thẳng... đặt người ấy đứng lộn đầu xuống... đánh người ấy với tay... đánh người ấy với cục đất... đánh người ấy với gậy... đánh người ấy với gươm... đánh anh ta phía bên này... đánh anh ta phía bên kia... đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem linh hồn của anh ta có đi ra không? "Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra. Anh ta có mắt và sắc pháp các mặt, nhưng căn không cảm thọ được. Anh ta có tai và các tiếng có mặt, nhưng căn không cảm thọ được. Anh ta có mũi và các hương có mặt, nhưng căn không cảm thọ được. Anh ta có lưỡi và các vị có mặt, nhưng căn không cảm thọ được. Anh ta có thân và các xúc có mặt, nhưng căn không cảm thọ được. Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo".
- Tôn chủ có sự kiện nào...
- Tôn giả Kassapa, có sự kiện...
- Tôn chủ như thế nào?
- Tôn giả Kassapa, nay có những người bắt được một tên ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: "Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn." Tôi nói với họ như sau: "Các khanh hãy lột da anh ta, để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta." Chúng lột da của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta. Rồi tôi bảo họ: "Các khanh hãy lột da trong của người ấy... cắt thịt... cắt gân... cắt xương... đẻo cho đến xương tủy để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta." Họ đẻo cho đến xương tủy của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta. Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo."
Rồi hai vị lãnh đạo ấy chia đoàn lữ hành thành hai, một đoàn có năm trăm cỗ xe, một đoàn có năm trăm cỗ xe. Rồi một vị lãnh đạo thâu lượm rất nhiều cỏ, củi, nước và cho đoàn lữ hành chuyển bánh. Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy, người lãnh đạo hỏi:
"- Bạn từ phương nào đến?
"- Từ nơi quốc độ kia đến.
"- Bạn sẽ đi đâu?
"- Sẽ đi đến địa phương tên này.
"- Bạn có thấy, trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
"- Thưa bạn, trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc."
Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
"- Này các Bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc." Vậy các bạn hãy quăng cỏ, củi và nước cũ đi, để đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
"- Thưa Bạn, vâng!"
Những người đánh xe vâng theo lời vị lãnh đạo đoàn lữ hành, quăng cỏ, củi và nước cũ đi và dẫn đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn. Nhưng khi đi đến trạm nghỉ thứ nhất, họ không thấy cỏ, củi hay nước, trạm thứ hai cũng vậy... trạm thứ ba cũng vậy... trạm thứ tư cũng vậy... trạm thứ năm cũng vậy... trạm thứ sáu cũng vậy... trạm thứ bảy cũng vậy, họ không thấy cỏ, củi hay nước. Tất cả đều gặp sự bất hạnh và tai nạn. Tất cả người và vật trong lữ đoàn ấy, đều bị con Dạ xoa, phi nhân ăn thịt, chỉ còn xương để lại.
Khi người lãnh đạo đoàn thứ hai được biết: "Nay đoàn kia đi đã khá xa", bèn cho thâu lượm nhiều cỏ, củi và nước và cho đoàn khởi hành. Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy người lãnh đạo hỏi:
"- Bạn từ phương nào đến?
"- Từ nơi quốc độ kia đến.
"- Bạn sẽ đi đâu?
"- Sẽ đi đến địa phương tên này.
"- Bạn có thấy trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
"- Thưa Bạn, trong khu rừng trước mặt, có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.
Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
"- Này các Bạn, người này nói như sau: Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước. Hãy bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ làm cho đoàn xe mệt nhọc." Nhưng này các Bạn, người ấy không phải là bạn của chúng ta, cũng không phải là bà con ruột thịt, làm sao chúng ta có thể tin người ấy được? Chớ quăng bỏ các thứ cỏ, củi và nước đã dự trữ từ trước. Hãy cho đoàn lữ hành tiến tới với các hàng hóa đã được mang theo, chúng ta không quăng bỏ đi các vật đang dự trữ từ trước.
"- Thưa Bạn, vâng."
Những người đánh xe ấy, vâng theo lời người lãnh đạo, cho đoàn lữ hành tiến tới với những hàng hóa đã mang theo. Đến trạm nghĩ thứ nhất những người này không thấy cỏ, củi hay nước, đến trạm thứ hai cũng vậy... trạm thứ ba cũng vậy... trạm thứ tư cũng vậy... trạm thứ năm cũng vậy... trạm thứ sáu cũng vậy... trạm thứ bảy cũng vậy... chúng không thấy cỏ, củi hay nước, nhưng chúng thấy đoàn lữ hành trước bị lâm vào tai nạn. Những người và thú vật trong đoàn lữ hành kia, chúng thấy các bộ xương do con Dạ xoa phi nhân ấy ăn thịt.
Rồi người lãnh đạo nói với các người đánh xe:
"- Này các Bạn, đoàn lữ hành ấy bị lâm nạn vì bị người lãnh đạo ngu si như vậy hướng dẫn. Vậy này các bạn, hãy bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành này, hãy đem theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia!
"- Thưa Bạn, vâng!"
Những người đánh xe ấy vâng theo người lãnh đạo quăng bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành của mình, đem đi theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia và đi qua bãi sa mạc ấy một cách an toàn, vì được hướng dẫn bởi một vị lãnh đạo sáng suốt. Cũng vậy này Tôn chủ, người ngu si không có trí sẽ gặp nạn vì đã đi tìm kiếm đời sau một cách thiếu suy tư, giống như người lãnh đạo đoàn lữ hành kia. Những ai tự nghĩ có thể tin bất cứ điều gì được nghe sẽ gặp hoạn nạn như những người đánh xe kia. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến này. Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ bất hạnh lâu dài!"
Con người không được biết.
Con xúc xắc được ngậm,
Đã được bôi thoa nhiều,
Với thuốc độc đốt cháy.
Hãy ngậm đi, ngậm đi,
Con bạc ác độc kia!
Ngậm xong nhà Ngươi phải
Đau đớn vô cùng tận.
Cũng vậy này Tôn chủ. Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người đánh bạc. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Họ mang hai bó gai, và đi đến một làng khác. Họ thấy một đống dây gai quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người kia: "Đống dây gai quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với bó dây gai ấy. Vậy bạn hãy nhóm lại thành một bó dây gai. Tôi cũng nhóm lại thành một bó dây gai. Chúng ta hãy đem hai bó dây gai ấy đi." - "Này Bạn, tôi đem đống gai này từ xa lại, và đống gai được bó buộc kỹ lưỡng. Đối với tôi, như vậy là vừa đủ, bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước quăng bó cây gai và lấy đống dây gai.
Rồi họ đến một con đường khác. Ở đấy họ thấy nhiều vải gai được quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với người kia: "Nhiều vải gai được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hoặc với dây gai. Vậy Bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao dây gai. Hai chúng ta sẽ mang bao vải gai này mà đi." - "Này Bạn, tôi đem đóng dây gai này từ xa lại và đống gai được buộc bó kỹ lưỡng. Đối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước quăng bỏ dây gai và lấy bó vải gai.
Rồi họ đến một con đường khác. Ở đây họ thấy nhiều sồ ma được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều dây sồ ma được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vải sồ ma được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều cây bông được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vải bông được quăng bỏ... Sau khi thấy... nhiều sắt được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều đồng được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều thiếc được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều chì được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều bạc được quăng bỏ. Sau khi thấy... nhiều vàng được quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người bạn kia: "Nhiều vàng được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hay với dây gai, hay với vải sồ ma, hay với cây bông, hay với giây bông, hay với vải bông, hay với sắt, hay với đồng, hay với thiết, hay với chì, hay với bạc. Vậy bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao bạc. Hai chúng ta sẽ mang bao vàng mà đi." - "Này ban, tôi đem bao cây gai này từ xa lại, và đống gai được bó buộc kỹ lưỡng. Đối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm)." Và người bạn trước quăng bao bạc và lấy bao vàng.
Cả hai về đến làng của mình. Người bạn đem bao cây gai về, cha mẹ người ấy không được vui vẻ, vợ con người ấy không được vui vẻ, bạn bè người ấy không được vui vẻ, và do vậy anh ta không được hạnh phúc, hoan hỷ. Còn người bạn đem bao vàng về, cha mẹ người ấy được vui vẻ, vợ con người ấy được vui vẻ, bạn bè người ấy được vui vẻ và do vậy người ấy được hạnh phúc hoan hỷ.
Cũng vậy Tôn chủ, Ngài nói không khác gì ví dụ người mang bao cây gai. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
- Tôn giả Kassapa, không thể được.
- Cũng vậy, này Tôn giả, tại tế đàn nào có trâu bò bị giết hay các loại dê bị giết, hay gà và heo bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Này Tôn chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn. Này Tôn chủ, tại tế đàn nào không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn. Này Tôn chủ, cũng như một người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng phá hại, thuận mùa, có điều kiện thuận lợi và thần mưa cho mưa đúng thời. Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên, sum suê hoa lá, hoặc làm ruộng gặt hái được nhiều kết quả hơn?
- Tôn giả Kassapa, thật được như vậy.
- Cũng vậy, này Tôn chủ, tại tế đàn nào mà không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.
- Này Thân hữu Uttàra, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo: "Với cuộc bố thí này, ta gặp được Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau"?
- Thật có vậy, này Tôn chủ!
- Này Thân hữu Uttàra, tại sao, sau cuộc bố thí Ngươi lại nói ngạo như vậy: "Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pàyàsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau?" Này Thân hữu Uttàra, có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?
- Này Tôn chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho, như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn: vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc. Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi. Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?
- Vậy này Thân hữu Uttàra, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn, hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc.
- Xin vâng, Tôn chủ!
Thanh niên Uttàra vâng theo lời Tôn chủ Pàyàsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pàyàsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pàyàsi mặc.
Tôn chủ Pàyàsi vì đã bố thí không được cho hoàn vị, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
- Bạch Tôn giả, con là tôn chủ Pàyàsi.
- Này Hiền giả, có phải Ngươi có tà kiến như sau: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo"?
- Bạch Tôn giả, con có tà kiến như vậy: "Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo", nhưng nhờ Tôn giả Kumàra Kassapa, con tự thoát ly ra khỏi ác tà kiến ấy.
- Này Hiền giả, còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, được thác sanh ở đâu?
Thích Minh Châu
________________________________________________________________
>>> 22.Kinh đại niệm xứ
LTS. – Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Phật ở trong Ca-lan-đà Trúc viên, thành Vương-xá. Bấy giờ có Phạm chí Sanh Văn[2] đi đến chỗ Phật, cùng Phật thăm hỏi an ủy xong, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
«Thưa Cù-đàm! Con có người thân tộc rất thương mến, bỗng nhiên qua đời. Con vì người ấy nên bố thí với tín tâm. Thế nào, bạch Thế tôn, người ấy có nhận được không?»
Phật bảo Bà-la-môn:
«Không phải nhất định phải được.[3] Nếu người thân tộc của ông sinh vào trong địa ngục, nó sẽ ăn thức ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sinh mạng của nó, chứ không nhận được đồ ăn thức uống mà ông bố thí với tín tâm. Nếu nó sinh vào súc sanh, ngạ quỷ, hoặc loài người, họ sẽ được đồ ăn thức uống của loài người, không nhận được đồ bố thí của ông.
«Này Bà-la-môn! Trong đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ ngạ quỷ.[4] Nếu người thân tộc của ông sinh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn của ông.»
Bà-la-môn bạch Phật:
«Nếu người thân tộc của con không sinh vào trong đường Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do tín tâm của con bố thí ai sẽ hưởng được?»
Phật bảo Bà-la-môn:
«Nếu ông với tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì có những thân tộc quen biết khác đã sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ đó sẽ được hưởng.»
Bà-la-môn bạch Phật:
«Thưa Cù-đàm! Nếu con vì tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ, và cũng không có các thân tộc quen biết khác sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do lòng tin bố thí đó ai sẽ hưởng?»
Phật bảo Bà-la-môn:
«Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ, và lại cũng không có những người quen biết khác sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước.[5] Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất đạt-sấn[6].»
Bà-la-môn bạch Phật:
«Thế nào là thí chủ hành thí, để người bố thí được đạt-sấn kia ?»
Phật bảo Bà-la-môn:
«Có người sát sanh, làm những việc ác, tay thường tanh máu,[7] tâm thường suy nghĩ đến đánh đập, sát hại, không hổ, không thẹn, tham lam, keo kiệt. Đó là nghiệp ác sát sinh.
«Có người lấy của không được cho; đối với tài vật, làng xóm, đất trống của người, cũng không xa lìa trộm cắp.
«Có người tà dâm; đối với những người được bảo hộ bởi cha mẹ, anh em, chị em, phu chủ, thân tộc cho đến người trao vòng hoa, mà dùng sức cưỡng bức, làm mọi việc tà dâm, không lìa bỏ tà dâm.
“Có người nói dối không chân thật: Hoặc ở chốn vua quan, các nhà nói chơn thật, nơi có nhiều người tụ tập cần lời nói thích đáng, nhưng lại nói lời không thật; không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe; biết nói không biết, không biết nói biết. Vì chính mình, vì người khác, hoặc vì tài lợi, biết mà nói dối không chịu lìa bỏ nói dối.
«Có người hoặc nói hai lưỡi, gây chia lìa; đem chuyện chỗ này đến nói chỗ kia, đem chuyện chỗ kia đến nói chỗ này, phá hoại lẫn nhau, làm cho tan rã sự hòa hợp, khiến kẻ ly gián vui mừng.
«Có người nói lời thô ác, mắng nhiết. Có những lời nói dịu dàng, êm tai, làm vui lòng, rõ ràng dễ hiểu, lời nói được ưa nghe, được nhiều người yêu mến, hợp ý, tùy thuận tam-muội. Xả bỏ những lời như vậy mà nói lời gắt gao, cộc cằn, bị nhiều người ghét, không ưa, không hợp ý, không thuận tam-muội. Nói những lời như vậy, không lìa bỏ lời nói thô. Đó gọi là ác khẩu. «Có người nói lời thêu dệt bại hoại, nói không đúng lúc, nói không thực tế, lời nói vô nghĩa, lời nói phi pháp, lời nói thiếu suy nghĩ. Nói những lời hư hỏng như vậy.
«Có người không lìa bỏ tham lam; đối với tài vật người khác khởi tham dục, nói rằng ‹Nếu ta có vật này thì rất tốt.›
«Có người không xả bỏ sân nhuế tệ ác; trong tâm suy nghĩ, ‹chúng sanh kia đáng bị trói, đáng bị roi vọt, gậy gộc, đáng giết, muốn cho nó khó sống.›
«Có người không bỏ tà kiến; có quan điểm điên đảo như vầy: ‹Không có bố thí, không có quả báo, không có phước, không có điều thiện điều ác, không có nghiệp thiện ác và quả báo, không có đời này, đời khác, không có cha mẹ, không có chúng sanh hoá sanh; thế gian không có A-la-hán, không có các vị chánh hành, chánh hướng[8] mà trong đời này hay đới khác, tự biết, tự mình chứng nghiệm rằng, ‹Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.›
«Đó gọi mười nghiệp bất thiện.
«Sau lại bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, ... cho đến những kẻ ăn xin bần cùng, đều bố thí tiền tài, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, những vật dụng trang nghiêm.
«Này Bà-la-môn! Thí chủ kia nếu lại phạm giới, sinh trong loài voi; nhưng vì người ấy đã từng bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn tiền của, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm, nên tuy ở trong loài voi, cũng nhận được phước báo nhờ đã bố thí, từ quần áo, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm.
«Nếu lại sinh vào các loài súc sanh như trâu, ngựa, lừa, la v.v... nhưng cũng nhờ vào công đức thí ân trước, nên sẽ nhận được phước báo kia tùy theo chỗ sinh tương ứng mà được thọ dụng.
«Này Bà-la-môn! Nếu thí chủ kia lại trì giới, không sát sinh, trộm cướp, ... cho đến chánh kiến, và bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn, ... cho đến những kẻ ăn xin nào là tiền của, áo quần, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, thì nhờ công đức này mà sinh trong loài người, ngồi hưởng thụ phước báo này, từ áo quần, đồ ăn thức uống ... cho đến những vật dụng như đèn đuốc.
«Lại nữa, này Bà-la-môn! Nếu người ấy lại trì giới, thì sẽ được sinh lên cõi trời, vì nhờ vào những thí ân nên được hưởng những thứ phước báo về tài bảo, áo quần, đồ ăn thức uống, ... cho đến những vật dụng trang nghiêm cõi trời.
«Này Bà-la-môn! Đó gọi là người bố thí hành thí; khi người bố thí thọ nhận đạt-sấn, quả báo không mất.»
Sau khi Bà-la-môn Sanh Văn nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
T02n0099_p0272b08║(一○四一)如是我聞。一時。佛住王舍城迦蘭陀
T02n0099_p0272b09║竹園。時。有生聞梵志來詣佛所。與世尊
T02n0099_p0272b10║面相問訊慰勞已。退坐一面。白佛言。瞿曇。
T02n0099_p0272b11║我有親族。極所愛念。忽然命終。我為彼故。信
T02n0099_p0272b12║心布施。云何。世尊。彼得受不。佛告婆羅門。
T02n0099_p0272b13║非一向得。若汝親族生地獄中者。得彼地
T02n0099_p0272b14║獄眾生食。以活其命。不得汝所信施飲食。
T02n0099_p0272b15║若生畜生.餓鬼.人中者。得彼人中飲食。不
T02n0099_p0272b16║得汝所施者。婆羅門。餓鬼趣中有一處。名
T02n0099_p0272b17║為入處餓鬼。若汝親族生彼入處餓鬼中者。
T02n0099_p0272b18║得汝施食。婆羅門白佛。若我親族不生入
T02n0099_p0272b19║處餓鬼趣中者。我信施。誰應食之。佛告婆
T02n0099_p0272b20║羅門。若汝所可為信施親族不生入處
T02n0099_p0272b21║餓鬼趣者。要有餘親族知識生入處餓鬼趣
T02n0099_p0272b22║中者。得食之。婆羅門白佛。瞿曇。若我所
T02n0099_p0272b23║為信施親族不生入處餓鬼趣中。亦無更
T02n0099_p0272b24║餘親族知識生入處餓鬼趣者。此信施食。誰
T02n0099_p0272b25║當食之。佛告婆羅門。設使所為施親族知
T02n0099_p0272b26║識不生入處餓鬼趣中。復無諸餘知識生
T02n0099_p0272b27║餓鬼者。且信施而自得其福。彼施者所作
T02n0099_p0272b28║信施。而彼施者不失達嚫。婆羅門白佛。
T02n0099_p0272b29║云何施者行施。施者得彼達嚫。佛告婆羅
T02n0099_p0272c01║門。有人殺生行惡。手常血腥。乃至十不善業
T02n0099_p0272c02║跡。如淳陀修多羅廣說。而復施諸沙門.婆
T02n0099_p0272c03║羅門。乃至貧窮.乞士。悉施錢財.衣被.飲食.燈
T02n0099_p0272c04║明.諸莊嚴具。婆羅門。彼惠施主若復犯戒。
T02n0099_p0272c05║生象中者。以彼曾施沙門.婆羅門錢財.衣
T02n0099_p0272c06║被.飲食。乃至莊嚴眾具故。雖在象中。亦得
T02n0099_p0272c07║受彼施報。衣服.飲食。乃至種種莊嚴眾具。若
T02n0099_p0272c08║復生牛.馬.驢.騾等種種畜生趣中。以本施惠
T02n0099_p0272c09║功德。悉受其報。隨彼生處所應受用。皆悉
T02n0099_p0272c10║得之。婆羅門。若復施主持戒。不殺.不盜。乃
T02n0099_p0272c11║至正見。布施諸沙門.婆羅門乃至乞士錢財.
T02n0099_p0272c12║衣服.飲食。乃至燈明。緣斯功德。生人道中。
T02n0099_p0272c13║坐受其報。衣被.飲食。乃至燈明眾具。復次。婆
T02n0099_p0272c14║羅門。若復持戒生天上者。彼諸惠施天上受
T02n0099_p0272c15║報。財寶.衣服.飲食。乃至莊嚴眾具。婆羅門。是
T02n0099_p0272c16║名施者行施。施者受達嚫。果報不失。時。生
T02n0099_p0272c17║聞婆羅門聞佛所說。歡喜隨喜。從坐起去.
KINH TẠP A-HÀM
Hán dịch: Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Đà-La
Việt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ
Nhà xuât bản Phương Đông
QUYỂN 37
KINH 1041. SANH VĂN
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-12146_5-50_6-4_17-208_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
XEM THÊM KINH VĂN PALI:
BBT.
[1] Trích dịch, Tạp A-hàm, quyển 37, kinh số 1041, Kinh Sanh Văn (T02n99, tr. 272b8). Tương đương Pali, Aṅguttara-nikāya, x, 177. Jāṇusoṇi-suttaṃ (S. v. p. 269ff).
[2] Phạm chí Sanh Văn 生聞梵志. Pali: Jāṇussoṇi brāhmaṇo.
[3] Pali: ṭhāne kho, brāmahṇa, upakappati, no aṭṭhāne’ ti, «trường hợp thích đáng thì hữu ích; trường hợp không thích đáng thì không.»
[4] Nhập xứ ngạ quỷ 入處餓鬼. Pali: pettivisaya, cảnh giới ngạ quỷ.
[5] Bản Pali: “Không có trường hợp trong một thời gian dài như vậy mà không có thân thích huyết thống nào sinh vào Nhập xứ ngạ quỷ. Nhưng, người bố thí không phải không có kết quả.“
[6] Đạt-sấn 達嚫. Từ phiên âm; Pali: dakkhiṇā, cũng dịch là cúng vật, thí vật. Phẩm vật cúng dường hay bố thí được cúng cho Tăng sau khi đã thọ trai. Đây chỉ sự thuyết pháp, chú nguyện hay hồi hướng của Tăng đối với vật được cúng dường.
[7] Nguyên bản Hán: „Nói chi tiết như trong kinh Thuần-đà (kinh số 1039).“ Ở đây chép lại đoạn liên hệ từ kinh đó cho đủ nghĩa; với một vài chi tiết thay đổi thích hợp.
[8] Nguyên Hán: đẳng thú đẳng hướng 等趣等向. Pali: sammaggatā sammāpaṭipannā.
(MAHÀ SATIPATHÀNA SUTTANTA)
- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri; "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay tuệ tri thiện xảo, khi quay dài, tuệ tri rằng: "Tôi quay dài"; hay khi quay ngắn, tuệ tri rằng: "Tôi quay ngắn." Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn"; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Như vậy, vị ấy sống, quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quan sát: "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi." Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu."
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại."
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm, và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, ở nơi đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất." Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất." Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".
Như vậy vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các thọ; hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.
Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo:
"Với tâm có tham, biết rằng tâm có tham"; hay "Với tâm không tham, biết rằng tâm không tham"; hay "Với tâm có sân, biết rằng tâm có sân"; hay "Với tâm không sân, biết rằng tâm không sân"; hay "Với tâm có si, biết rằng tâm có si"; hay "Với tâm không si, biết rằng tâm không si"; hay "Với tâm thâu nhiếp, biết rằng tâm được thâu nhiếp"; hay "Với tâm tán loạn, biết rằng tâm bị tán loạn"; hay "Với tâm quảng đại, biết rằng tâm được quảng đại"; hay "Với tâm không quảng đại, biết rằng tâm không được quảng đại"; hay "Với tâm hữu hạn, biết rằng tâm hữu hạn"; hay "Với tâm vô thượng, biết rằng tâm vô thượng"; hay "Với tâm có định, biết rằng tâm có định"; hay "Với tâm không định, biết rằng tâm không định"; hay "Với tâm giải thoát, biết rằng tâm có giải thoát"; hay "Với tâm không giải thoát, biết rằng tâm không giải thoát".
Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy vị Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo, nội tâm có tham dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có tham dục"; hay nội tâm không có tham dục, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có tham dục". Và với tham dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có sân hận." Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có nghi." Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với nghi đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy, và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, đối với năm triền cái.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: "Đây là sắc, đây là sắc sanh, đây là sắc diệt. Đây là thọ, đây là thọ sanh, đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng sanh, đây là tưởng diệt. Đây là hành, đây là hành sanh, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức sanh, đây là thức diệt". Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp; hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm Thủ uẩn.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu Nội Ngoại xứ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy... và tuệ tri tai, và tuệ tri các tiếng... và tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... và tuệ tri lưỡi, và tuệ tri các vị... và tuệ tri thân và tuệ tri các xúc... và tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp; hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, đối với Sáu Nội Ngoại xứ.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo, nội tâm có Niệm Giác chi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có Niệm Giác chi", hay nội tâm không có Niệm Giác chi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có Niệm Giác chi"; và với Niệm Giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với Niệm Giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
... Hay nội tâm có Trạch pháp Giác chi..
... hay nội tâm có Tinh tấn Giác chi...
... hay nội tâm có Hỷ Giác chi...
... hay nội tâm có Khinh an Giác chi...
... hay nội tâm có Định Giác chi...
... hay nội tâm có Xả Giác chi; tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có Xả Giác chi"; hay nội tâm không có Xả Giác chi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có Xả Giác chi." Và với Xả Giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với Xả Giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây"; vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Sự thật?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Đây là khổ"; như thật tuệ tri: "Đây là khổ tập"; như thật tuệ tri: "Đây là khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt".
Này các Tỷ-kheo thế nào là sanh?
Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh của họ, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là sanh.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là già? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới hạn, sự niên lão, sự hủy hoại, trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy hoại. Này các Tỷ-kheo, như vậy là già.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chết.
Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sầu? Này các Tỷ-kheo, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu, sự sầu lo, sự sầu muộn, nội sầu, mọi khổ sầu của người ấy. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là sầu.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là bi? Này các Tỷ-kheo, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là bi.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ? Này các Tỷ-kheo, sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là khổ.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là ưu? Này các Tỷ-kheo, sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là ưu.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là não? Này các Tỷ-kheo, với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là não.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này các Tỷ-kheo, chúng sanh bị sanh chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối, mong rằng ta khỏi phải đi thác sanh". Lời cầu mong ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ! Này các Tỷ-kheo, chúng sanh bị già chi phối... chúng sanh bị bệnh chi phối... chúng sanh bị chết chi phối... chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối! Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu, não". Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy là cầu bất đắc khổ.
Này các Tỷ-kheo, như thế nào là tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ? Như Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, như vậy tóm lại Năm Thủ uẩn là khổ.
Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
Này các Tỷ-kheo, sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đâu, khi an trú thì an trú ở đâu? Ở đời, các sắc gì thân ái, các sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy. Ở đời cái tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các hương... ở đời các vị... ở đời các cảm xúc... ở đời các pháp là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời nhãn thức... ở đời nhĩ thức... ở đời tỷ thức... ở đời thiệt thức... ở đời thân thức... ở đời ý thức là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời nhãn xúc sở sanh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sanh thọ... ở đời tỷ xúc sở sanh thọ... ở đời thiệt xúc sở sanh thọ... ở đời thân xúc sở sanh thọ... ở đời ý xúc sở sanh thọ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời pháp ái là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời sắc tầm... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tầm là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy.
Ở đời sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời pháp tứ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi sanh khởi thì sanh khởi ở đấy, khi an trú thì an trú ở đấy. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế.
Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy).
Này các Tỷ-kheo, sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đâu, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đâu? Ở đời các sắc gì thân ái, các sắc gì khả ái, sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc gì thân ái, sắc gì khả ái? Ở đời con mắt là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy. Ở đời lỗ tai... ở đời mũi... ở đời lưỡi... ở đời thân... ở đời ý là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời các sắc... ở đời các tiếng... ở đời các mùi hương... ở đời các vị... ở đời các xúc... ở đời các pháp là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời nhãn thức... ở đời nhĩ thức... ở đời tỷ thức... ở đời thiệt thức... ở đời ý thức là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời nhãn xúc... ở đời nhĩ xúc... ở đời tỷ xúc... ở đời thiệt xúc... ở đời thân xúc... ở đời ý xúc là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời nhãn xúc sở sanh thọ... ở đời nhĩ xúc sở sanh thọ... ở đời tỷ xúc sở sanh thọ... ở đời thiệt xúc sở sanh thọ... ở đời thân xúc sở sanh thọ.. ở đời ý xúc sở sanh thọ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tưởng... ở đời thanh tưởng... ở đời hương tưởng... ở đời vị tưởng... ở đời xúc tưởng... ở đời pháp tưởng là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tư... ở đời thanh tư... ở đời hương tư... ở đời vị tư... ở đời xúc tư... ở đời pháp tư là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc ái... ở đời thanh ái... ở đời hương ái... ở đời vị ái... ở đời xúc ái... ở đời pháp ái là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tầm... ở đời thanh tầm... ở đời hương tầm... ở đời vị tầm... ở đời xúc tầm... ở đời pháp tầm là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Ở đời sắc tứ... ở đời thanh tứ... ở đời hương tứ... ở đời vị tứ... ở đời xúc tứ... ở đời pháp tứ là sắc thân ái, là sắc khả ái. Sự tham ái này khi xả ly thì xả ly ở đấy, khi diệt trừ thì diệt trừ ở đấy.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế.
Đó là bát chi Thánh đạo, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh tri kiến?
Này các Tỷ-kheo, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh tri kiến.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh tư duy?
Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh tư duy.
Này các Tỷ-kheo thế nào là Chánh ngữ?
Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không nói ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh ngữ.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh nghiệp?
Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm cướp, tự chế không tà dâm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh nghiệp.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh mạng?
Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh mạng.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là Chánh tinh tấn?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối cới các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt, vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Đối với các thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn. Vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh tinh tấn.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh niệm?
Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; trên các cảm thọ... trên các tâm... quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh niệm.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Chánh định?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Chánh định.
Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Khổ diệt đạo thánh đế.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.
_______________________________________________________________________________
>>> 21.Kinh Đế thích sở vấn
ĐỨC PHẬT DẠY ĐỆ TỬ XUẤT GIA
TRONG KINH "LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT"
(Thích Nhật Từ dịch Việt ngữ)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc Thầy tối thượng. Dẫu có sống thêm ở đời bao nhiêu năm nữa, Như Lai cũng không ngoài mục đích răn dạy các vị về giới luật ấy thôi.
Người giữ giới thì không được kinh doanh, thương mại, xây dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông nghiệp, thuê người giúp việc, theo kiểu thế tục.
Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng suy, hay coi lịch đoán số.
Các vị nên sống tiết chế thân mạng, ăn uống điều độ, duy trì nếp sống thanh cao, giải thoát.
Không tham dự chính trị, lãnh sứ mạng liên lạc, thông tin.
Không được luyện bùa chú, chế linh dược, giao hảo người quyền quý, kết thân kẻ ngạo mạn.
Cần phải giữ tâm chân thật, sống chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây, mong cầu đạo quả giải thoát.
Không được che dấu lỗi lầm, bày điều mê hoặc để thu hút quần chúng. Phải sống ít muốn, biết đủ đối với bốn phẩm vật cúng dường. Sống vừa đủ để hành đạo, không cất chứa tài sản và tiền bạc.
Như Lai vừa nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới luật đó là căn bản, là gốc rễ của đạo giải thoát. Nhờ giữ giới trang nghiêm, thiền định và trí tuệ phát sanh, có thể tiêu diệt tất cả đau khổ. Thế nên các vị hãy giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn. Người giữ giới thanh tịnh sẽ nuôi lớn pháp lành. Người thiếu mất giới thì không thể phát sinh công đức.
Xem thêm các bản dịch:
(SAKKA-PANHA-SUTTANTA)
I
Một thời, Thế Tôn trú tại Magadha (Ma-kiệt-đa) phía Đông thành Vương xá, tại làng Bà-la-môn tên Ambasanda (Am Bà La), trên ngọn núi Vediya (Tỳ Đà Sơn) phía Bắc ngôi làng, trong hang Indasàla (Nhơn Đà Sa La). Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka (Đế Thích) náo nức muốn chiêm ngưỡng Thế Tôn.
Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ: "Nay Thế Tôn ở tại chỗ nào, vị A-la-hán, Chánh đẳng Giác?" Thiên chủ Sakka thấy Thế Tôn trú tại Magadha, phía Đông thành Vương xá tại làng Bà-la-môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng trong hang Indasala. Thấy vậy, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
- Này Quý vị, Thế Tôn trú ngụ tại Magadha, phía Đông thành Vương xá, tại làng Bà-la-môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasala. Này quí vị, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. - Chư Thiên ở Tam thập tam thiên trả lời Thiên chủ Sakka.
- Này Khanh Pancasikha, Thế Tôn nay trú tại Magadha, phía Đông thành Vương xá, tại làng Bà-la-môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasàla. Này Khanh Pancasikha, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.
Pancasikha, con của Càn-thát-bà, vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đi theo Thiên chủ Sakka.
Rồi Thiên chủ Sakka, với chư Thiên ở Tam thập tam thiên tháp tùng xung quanh, với Pancasikha, con của Càn-thát-bà đi trước, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất ở cõi Tam thập tam thiên, hiện ra ở Magadha, phía Đông thành Vương xá, tại làng Bà-la-môn Ambasandà và đứng trên núi Vediya, phía Bắc ngôi làng.
- Núi Vediya hôm nay thật sự bị cháy, núi Vediya hôm nay thật sự có lửa đỏ rực, núi Vediya lại chói hào quang rực rỡ, làng Bà-la-môn Ambasandà cũng vậy.
Và dân chúng lo âu, lông tóc dựng ngược.
- Này Khanh Pancasikha, chư Như Lai thật khó lại gần đối với người như ta. Các Ngài nhập Thiền, hoan hỷ trong Thiền, và với mục đích ấy, an lặng tịnh cư. Vậy Khanh Pancasikha trước tiên làm cho Thế Tôn hoan hỷ, sau sự hoan hỷ do Khanh tác động, chúng ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến với Ngài.
Pancasikha, con của Càn-thát-bà vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi Indasala. Khi đến xong, Pancasikha đứng lại một bên và suy nghĩ: "Ta đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ được Ngài nghe".
Đứng một bên, Pancasikha, con của Càn-thát-bà gảy cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A-la-hán và đến ái dục:
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Đã sanh nàng Thiên nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mát.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La-hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La-hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Đã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử Thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Đề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Được nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như Tà-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ Ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn.
- Này Pancasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa điệu với huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, do vậy huyền âm của Ngươi không thêm màu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, Ngươi học tại chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A-la-hán, đến ái dục như vậy?
- Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn an trú ở Uruvelà, bên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thiền), dưới gốc cây Ajapàla - nigrodha, khi mới thành Chánh đẳng Giác. Lúc bấy giờ, con yêu con gái của Timbaru, vua Càn-thát-bà, tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya Vaccasà. Nhưng bạch Thế Tôn, thiếu nữ lại yêu một người khác, tên là Sikhaddhi, con của Màtali người đánh xe. Bạch Thế Tôn, con không có phương tiện nào khác để chiếm được thiếu nữ. Con cầm đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva, đến tại trú xá của Timbaru, vua Càn-thát-bà. Khi đến xong, con gảy đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ này, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A-la-hán và đến ái dục:
Ta đảnh lễ Timbaru
Bậc phụ thân của nàng
Đã sanh nàng Thiên nữ
Nguồn hạnh phúc của ta.
...
Như Tà-la sanh quả,
Tuệ nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ Ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn.
Bạch Thế Tôn, sau khi nghe nói vậy, Bhaddà Suriya Vaccasà nói với con như sau:
"Này Hiền giả, tôi chưa được thấy Thế Tôn tận mặt. Nhưng tôi có nghe đến Thế Tôn, khi tôi đến múa tại Thiện Pháp đường của chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Vì Hiền giả đã tán dương Thế Tôn như vậy, vậy hôm nay chúng ta sẽ gặp nhau".
Bạch Thế Tôn, rồi con được gặp nàng, không phải hôm ấy, nhưng về sau.
"Pancasikha, con của Càn-thát-bà hoan hỷ đàm luận với Thế Tôn. Và Thế Tôn đối với Pancasikha cũng vậy".
Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn-thát-bà:
- Này Khanh Pancasikha, hãy thay mặt ta, đảnh lễ Thế Tôn và nói: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp túc đảnh lễ Thế Tôn".
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.
Pancasikha, con của Càn-thát-bà vâng theo lời dặn của Thiên chủ Sakka, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ, đầu diện tiếp túc đảnh lễ Thế Tôn.
- Này Pancasikha, mong hạnh phúc đến với Thiên chủ Sakka, với các đình thần và các thuộc hạ! Chư Thiên, loài Người, Asurà, Nàgà, Gandhabba, đều ao ước hạnh phúc. Các loại chúng sanh khác cũng vậy.
Như vậy, các Như Lai chào đón thượng chúng. Được chào đón như vậy, Thiên chủ Sakka bước vào hang Indasàla của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên cũng bước vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Pancasikha, con của Càn-thát-bà cũng bước vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Lúc bấy giờ, trong hang Indasàla, những con đường gồ ghề được làm bằng phẳng, những khoảng chật hẹp được làm cho rộng rãi, trong hang tối tăm có hào quang chiếu sáng, đó là nhờ thần lực của chư Thiên. Rồi Thế Tôn nói với Thiên chủ Sakka:
- Thật là hy hữu, Đại đức Kosiya! Thật là kỳ diệu, Đại đức Kosiya, tuy có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, có nhiều công tác phải làm, mà vẫn đến đây được!
- Bạch Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến để yết kiến Thế Tôn, nhưng bị ngăn trở bởi các công việc này, công việc khác phải làm cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên, và do vậy không thể đến yết kiến Thế Tôn được. Bạch Thế Tôn, một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại cốc Salala. Bạch Thế Tôn, rồi con đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.
"- Này Hiền tỷ, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp túc đảnh lễ Thế Tôn".
Được nghe nói vậy, Bhunjàti nói với con:
"- Thiện hữu, nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang an lặng tịnh cư.
"- Này Hiền tỷ, khi nào xuất định, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn, không hiểu Bhunjàti có thay mặt con đảnh lễ Thế Tôn không? Thế Tôn có nhớ lời bà ấy nói không?
- Này Thiên chủ, bà ấy có đảnh lễ Ta. Ta có nhớ lời bà ấy nói. Chính tiếng bánh xe của Ngài đã khiến Ta xuất định.
Tên gọi Gopakà,
Ta tin Phật, Pháp, Tăng.
Tâm niệm rất hoan hỷ.
Nhờ Thiện pháp chư Phật,
Sanh con Thần Sakka,
Hào quang, sanh Thiên giới,
Được tên Gopakà.
Ta thấy vốn Tỷ-kheo,
Hạ sanh Càn-thát-bà!
Đệ tử Gotama,
Trước sanh làm con Người,
Ta cúng dường ẩm thực,
Hầu hạ trú xứ ta.
Mắt Hiền giả ở đâu?
Không nắm giữ Pháp, Phật,
Chánh pháp tự giác hiểu,
Bậc Pháp nhãn khéo giảng.
Ta chỉ hầu Quý vị,
Được nghe Pháp bậc Thánh.
Ta là con Sakka,
Có thần lực hào quang,
Được sanh lên Thiên giới.
Các người hầu Thế Tôn,
Sống Phạm hạnh tối thượng,
Nay phải sanh hạ thân,
Mất thượng sanh hạ phẩm.
Ta nhìn thật khó chịu,
Thấy đồng môn hạ sanh
Với thân Càn-thát-bà,
Phải hầu hạ chư Thiên.
Từ địa vị cư sĩ,
Ta thấy rõ khác biệt.
Trước bà, nay đàn ông.
Ta sanh Thiên, hưởng dục.
Bị Gopakà trách mắng,
Ưu phiền đồng phát nguyện,
Phải thăng tiến nỗ lực,
Không nô lệ cho ai!
Hai trong ba vị này,
Bắt đầu hành tinh tấn,
Nhờ Gotama dạy,
Chúng tẩy sạch tâm uế,
Thấy nguy hiểm dục vọng.
Như voi bỏ dây cương,
Các vị vượt Tam thiên,
Vứt bỏ dục kiết sử,
Quỷ triền phược khó vượt,
Cùng Sakka, Pajàpati.
Hội chúng Thiện Pháp đường
Vượt quá vị đang ngồi,
Anh hùng ly dục cấu.
Thấy chúng khỏi lo ngại,
Vasava giữa Thiên chúng,
Xem chúng sinh hạ phẩm,
Nay vượt qua Tam thiên.
Suy tư lời ưu phiền,
Gopaka với Vàsava:
Đế Thích ở nhân giới,
Đức Phật gọi Thích-ca
Đã chinh phục dục vọng.
Chúng là con của Ngài,
Thất niệm khi mệnh chung,
Nhờ Ta lấy chánh niệm.
Một trong ba vị ấy,
Mang thân Càn-thát-bà.
Hai vị hướng Chánh giác,
Bỏ Thiên giới, nhập Thiền.
Đừng đệ tử nào nghi,
Vị ở đây chứng pháp.
Chúng ta đảnh lễ Phật.
Vị vượt khỏi bộc lưu,
Đã diệt trừ nghi ngờ,
Bậc chiến thắng muôn loài.
Chính ở đây, chứng pháp,
Tấn bước đạt thù thắng,
Hai vị đạt thắng vị,
Hơn phụ tá Phạm thiên,
Ôi Thiện hữu chúng tôi.
Đến đây để chứng pháp.
Nếu Thế Tôn cho phép,
Chúng con hỏi Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ sau đây với Thiên chủ Sakka:
Vàsava hãy hỏi Ta,
Những gì tâm Ngươi muốn!
Mỗi câu hỏi của Ngươi,
Ta làm Ngươi thỏa mãn.
II
- Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn-thát-bà, và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?
Đó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn. Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
- Do tật đố và xan tham, các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn-thát-bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.
Đó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con diệt tận, do dự con tiêu tan.
- Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt? Cái gì không có mặt, thì tật đố, xan tham không có mặt?
- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt? Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?
- Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu. Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến dục sanh khởi, cái gì khiến dục hiện hữu? Cái gì có mặt thì dục có mặt? Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?
- Này Thiên chủ, dục do tầm làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu. Tầm có mặt thì dục có mặt; tầm không có mặt thì dục không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, tầm lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện hữu? Cái gì có mặt thì tầm có mặt? Cái gì không có mặt thì tầm không có mặt?
- Này Thiên chủ, tầm lấy các loại vọng tưởng làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm không có mặt".
- Này Thiên chủ, Ta nói hý luận có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại hỷ nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời hỷ ấy cần phải tránh xa. Ở đây loại hỷ nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời hỷ ấy nên thân cận. Ở đây, có hỷ câu hữu với tầm, câu hữu với tứ; có hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại ưu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời ưu ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại ưu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời ưu ấy nên thân cận. Ở đây, có ưu câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại xả nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời xả ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại xả nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời xả ấy nên thân cận. Ở đây, có xả câu hữu với tầm, câu hữu với tứ. Có xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng xả có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, vị Tỷ-kheo phải chứng đạt như vậy, phải thành tựu con đường như vậy, mới thích hợp và hướng dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hý luận.
Đó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con được diệt tận, do dự của con được tiêu tan.
- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như thế nào?
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng tướng, thiện pháp suy giảm", thì thân hành ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thì thân hành ấy cần phải thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại cần thân cận, một loại cần tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với khâu hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy vong", thì khẩu hành ấy phải tránh xa. Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy vong, thiện pháp tăng trưởng", thì khẩu hành ấy cần phải thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây loại tầm cầu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với tầm cầu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy vong", thì loại tầm cầu ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại tầm cầu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận loại tầm cầu này, bất thiện pháp suy vong, thiện pháp tăng trưởng", thì loại tầm cầu ấy nên thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, vị Tỷ-kheo phải thành tựu như vậy, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như vậy!
Đó là hình thức Thế Tôn trả lời câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu hộ trì các căn như thế nào?
- Này Thiên chủ, sắc do mắt phân biệt. Ta nói rằng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, tiếng do tai phân biệt... hương do mũi phân biệt... vị do lưỡi phân biệt... xúc do thân phân biệt... Này Thiên chủ, pháp do ý phân biệt, Ta nói rằng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Được nghe như vậy, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt được con hiểu một cách rộng rãi. Bạch Thế Tôn, loại sắc do mắt phân biệt, khi con thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên tránh xa. Bạch Thế Tôn, loại sắc nào do mắt phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên thân cận. Bạch Thế Tôn, loại tiếng nào do tai phân biệt... loại hương nào do mũi phân biệt... loại vị nào do lưỡi phân biệt... loại xúc nào do thân phân biệt... loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại pháp ấy nên tránh xa. Bạch Thế Tôn, loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại pháp ấy nên thân cận. Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt, được con hiểu một cách rộng rãi. Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con tiêu tan, do dự con diệt tận.
- Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn đều đồng một tư tưởng, đồng một giới hạnh, đồng một mong cầu, đồng một chí hướng?
- Này Thiên chủ, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng!
- Bạch Thế Tôn, vì sao cả Sa-môn, Bà-la-môn không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng?
- Này Thiên chủ, thế giới này gồm có nhiều loại giới, nhiều giới sai biệt. Trong thế giới gồm có nhiều loại giới và nhiều giới sai biệt này, các loại hữu tình tự nhiên thiên chấp một loại giới nào, và khi đã thiên chấp, trở thành kiên trì, cố thủ, với định kiến: "Đây là sự thật, ngoài ra toàn là si mê". Do vậy, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một cứu cánh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng.
- Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn đều đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một Phạm hạnh, đồng một mục đích?
- Này Thiên chủ, tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một Phạm hạnh, không đồng một mục đích.
Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một Phạm hạnh, không đồng một mục đích?
- Này Thiên chủ, chỉ những vị Sa-môn Bà-la-môn nào đã giải thoát tham ái, những vị ấy mới đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một Phạm hạnh, đồng một mục đích. Do vậy, tất cả vị Sa-môn, Bà-la-môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một Phạm hạnh, không đồng một mục đích.
Đó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
- Bạch Thế Tôn, tham ái là bệnh tật, tham ái là mụt nhọt, tham ái là mũi tên, tham ái dắt dẫn con người tái sanh đời này, đời khác, khiến con người khi cao, khi thấp. Bạch Thế Tôn, trong khi các Sa-môn, Bà-la-môn khác ngoài giáo phái của Ngài không cho con dịp để hỏi những câu hỏi, thời Thế Tôn lại trả lời những câu hỏi ấy cho con, giảng giải rất lâu cho con, khiến mũi tên nghi ngờ, do dự của con được Thế Tôn rút nhổ đi.
- Này Thiên chủ, Ngươi có biết những câu hỏi ấy cũng được Ngươi hỏi các vị Sa-môn, Bà-la-môn khác không?
- Bạch Thế Tôn, con được biết những câu hỏi ấy cũng được con hỏi các vị Sa-môn, Bà-la-môn khác.
- Này Thiên chủ, những vị ấy trả lời với Ngươi như thế nào, nếu không gì trở ngại hãy nói cho biết.
- Bạch Thế Tôn, không gì trở ngại cho con, khi Thế Tôn ngồi nghe hay những vị như Thế Tôn.
- Này Thiên chủ, vậy Ngươi hãy nói đi.
- Bạch Thế Tôn, những vị Sa-môn, Bà-la-môn mà con nghĩ là những vị sống trong rừng an tịnh, xa vắng, con đi đến những vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị này không trả lời cho con, không trả lời lại hỏi ngược con: "Tôn giả tên gì?" Được hỏi vậy con trả lời: "Chư Hiền giả, tên là Thiên chủ Sakka." Rồi những vị ấy lại hỏi thêm con câu nữa: "Do công việc gì Tôn giả Thiên chủ lại đến chỗ này?" Con liền giảng cho những vị ấy Chánh pháp như con đã được nghe và đã được học. Chỉ được từng ấy, các vị hoan hỷ và nói: "Chúng tôi đã được thấy Thiên chủ Sakka. Những điều gì chúng tôi hỏi, vị ấy đều trả lời cho chúng tôi." Không những vậy, các vị này trở thành đệ tử của con, chớ không phải con là đệ tử của các vị ấy. Bạch Thế Tôn, nhưng con là đệ tử của Thế Tôn, đã chứng Dự lưu, không còn bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
- Này Thiên chủ, Ngươi có biết trước kia Ngươi không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
- Bạch Thế Tôn, trước kia con không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được hỷ lạc như vậy.
- Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
- Bạch Thế Tôn, thuở xưa, một trận chiến tranh xảy ra giữa chư Thiên và các vị Asurà. Bạch Thế Tôn, trong trận chiến tranh này, chư Thiên thắng trận, các loài Asurà bại trận. Bạch Thế Tôn sau khi thắng trận, con là người thắng trận, con suy nghĩ: "Nay cam lồ của chư Thiên và cam lồ của Asurà, cả hai loại cam lồ, chư Thiên sẽ được nếm." Bạch Thế Tôn, thoải mái ấy, hỷ lạc ấy do gậy trượng đem lại, do đao kiếm đem lại, không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, thoải mái này, hỷ lạc này nhờ nghe Chánh pháp Thế Tôn đem lại, không do gậy trượng, không do đao kiếm, sẽ đưa đến hoàn toàn yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
- Bạch Thế Tôn, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy, con cảm thấy có sáu lợi ích như sau:
Nay con đứng tại đây,
Với thân một vị Thiên.
Con thấy được tái sanh,
Bạch Ngài, hãy biết vậy.
Bạch Thế Tôn đó là điều lợi thứ nhất con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái hỷ lạc như vậy.
Sau khi chết con bỏ,
Thân chư Thiên, phi nhân,
Không muội lược, con đi,
Đến bào thai con thích.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ hai, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Câu hỏi được đáp rõ,
Hoan hỷ trong Chánh giáo.
Con sống với Chánh trí,
Giác tỉnh và Chánh niệm.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi thứ ba, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Con sống với Chánh trí,
Sẽ được quả Bồ đề,
Sống làm vị Chánh giác,
Đời này đời cuối cùng.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ tư, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Chết từ thân con Người,
Con từ bỏ thân Người,
Con sẽ thành chư Thiên,
Trong Thiên giới vô thượng.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ năm, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái, và hỷ lạc như vậy.
Thù thắng hơn chư Thiên,
Akanittha danh xưng,
Sống đời sống cuối cùng,
Như vậy nơi an trú.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ sáu, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Nghi ngờ và do dự,
Con sống cầu Như Lai,
Thời gian khá lâu dài!
Con nghĩ các Sa-môn,
Sống một mình cô độc,
Là bậc Chánh đẳng Giác,
Nghĩ vậy con tìm gặp.
Làm thế nào thành công?
Làm thế nào thất bại?
Được hỏi câu hỏi vậy?
Không thể chỉ đường hướng.
Biết con là Sakka,
Bậc Thiên chủ, đã đến!
Họ liền gạn hỏi con,
Đến đây có việc gì?
Con liền giảng Chánh pháp,
Con được nghe cho họ.
Hoan hỷ, họ bèn nói:
"Vàsava làm họ thấy!"
Khi con được thấy Phật,
Nghi ngờ đều tiêu tan.
Nay con sống vô úy,
Hầu hạ bậc Chánh giác.
Mũi tên độc tham ái,
Đấng Chánh giác nhổ lên,
Con đảnh lễ Đại Hùng,
Bậc thân tộc mặt trời.
Tôn giả như Phạm thiên,
Nay con đảnh lễ Ngài,
Nay con kính lễ Ngài!
Ngài là bậc Chánh giác,
Bậc Đạo sư vô thượng,
Trong đời kể chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài!
- Này Khanh Pancasikha, Ngươi đã giúp ta nhiều việc. Trước nhờ Ngươi làm Thế Tôn bằng lòng, sau khi Ngươi làm cho bằng lòng, ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác. Ta sẽ đóng vai trò thân phụ cho Ngươi, Ngươi sẽ là Vua loài Càn-thát-bà. Ta sẽ cho Ngươi Bhaddà Suriya Vaccasà, người mà ngươi ao ước.
Rồi Thiên chủ Sakka, lấy tay sờ đất, đọc lên ba lần bài kệ cảm hứng như sau:
Đảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La-hán, Chánh giác!
Đảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La-hán, Chánh giác!
Đảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La-hán, Chánh giác!
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________
>>> 20.Kinh đại hội
ĐỐI CHIẾU HAI BẢN KINH A DI ĐÀ
[Xem file PDF có màu sắc rõ nét]
佛說阿彌陀經 Phật Thuyết A Di Đà Kinh Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 |
稱讚淨土佛攝受經 Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367 |
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯 Diêu Tần Tam tạng pháp sư Cưu ma la thập dịch Đời Diêu Tần, Tam tạng pháp sư Cưu ma la thập dịch |
唐三藏法師玄奘奉詔譯 Đường Tam tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch Đời Đường, Tam tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch |
Việt dịch: H.T Thích Trí Tịnh |
Việt dịch: Quảng Minh |
如是我聞。 Như thị ngã văn Ta nghe như vầy |
如是我聞。 Như thị ngã văn Tôi nghe như vầy: |
一時。 nhất thời Một thuở nọ |
一時。 nhất thời Một thời |
佛在舍衛國。 Phật tại Xá Vệ quốc Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, |
薄伽梵在室羅筏。 Bạc dà phạm tại thất la phiệt, đức Bạc già phạm ở thành Thất La Phiệt, |
祇樹給孤獨園。 Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên Cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, |
住誓多林給孤獨園。 trụ Thệ đa lâm Cấp cô độc viên, rừng Thệ Đa, trong vườn Cấp cô độc, |
與大比丘僧。 dữ đại Tỳ Kheo tăng cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị |
與大苾芻眾。 dữ đại bí sô chúng cùng chúng đại bí sô |
千二百五十人俱。 thiên nhị bá ngũ thập nhân câu đại Tỳ kheo câu hội |
千二百五十人俱。 thiên nhị bách ngũ thập nhân câu, một ngàn hai trăm năm mươi vị tụ hội, |
皆是大阿羅漢。 giai thị đại A La Hán đều là bậc A La Hán |
一切皆是尊宿聲聞。 nhất thiết giai thị tôn túc thanh văn, toàn là bậc tôn túc thanh văn, |
眾所知識。 chúng sở tri thức mọi người đều quen biết, |
眾望所識大阿羅漢。 chúng vọng sở thức đại A la hán bậc đại A la hán mà mọi người đều biết: |
長老舍利弗。摩訶目犍連。摩訶迦葉。 Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, như là: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, 摩訶迦旃延。摩訶俱絺羅。離婆多。周利槃陀伽。難陀。阿難陀。羅候羅。橋梵波提。賓頭廬頗羅墮。迦留陀夷。摩訶劫賓那。薄拘羅。 Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Dà, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, Ma-Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, |
其名曰尊者舍利子。摩訶目犍連。摩訶迦葉。 Kỳ danh viết tôn giả Xá lợi tử, Ma ha Mục kiền liên, Ma ha Ca diếp, tôn giả Xá lợi tử, Ma ha Mục kiền liên, Ma ha Ca diếp, |
阿菟樓馱。 A Nậu Lầu Đà, A Nậu Lầu Đà, |
阿泥律陀。 A nê luật đà A nê luật đà, |
如是等諸大弟子。 như thị đẳng chư đại đệ tử. những vị đại đệ tử như thế. |
如是等諸大聲聞而為上首。 Như thị đẳng chư đại thanh văn nhi vi thượng thủ. các vị đại thanh văn đại loại như vậy làm thượng thủ. |
并諸菩薩摩訶薩。 Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát: Và hàng Đại Bồ Tát, |
復與無量菩薩摩訶薩俱。 Phục dữ vô lượng Bồ tát Ma ha tát câu, Lại cùng với vô số vị bồ tát ma ha tát tụ hội, 一切皆住不退轉位。無量功德眾所莊嚴。 nhất thiết giai trụ bất thối chuyển vị, vô lượng công đức chúng sở trang nghiêm, tất cả đều trú địa vị Không còn thoái chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, |
文殊師利法王子。 Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Văn-Thù Sư Lợi: Pháp Vương Tử, |
其名曰。 Kỳ danh viết: danh hiệu của chư vị là: 妙吉祥菩薩。 Diệu Cát Tường bồ tát, bồ tát Diệu Cát Tường, |
阿逸多菩薩。 A Dật Đa Bồ Tát, A-Dật-Đa Bồ Tát, |
無能勝菩薩。 Vô Năng Thắng bồ tát, bồ tát Vô Năng Thắng, |
乾陀訶提菩薩。 Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, 常精進菩薩。 Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát, |
常精進菩薩。 Thường Tinh Tiến bồ tát, bồ tát Thường Tinh Tiến, 不休息菩薩。 Bất Hưu Tức bồ tát, bồ tát Bất Hưu Tức, |
與如是等諸大菩薩。 dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát, cùng với các vị Đại Bồ tát như thế |
如是等諸大菩薩而為上首。 Như thị đẳng chư đại bồ tát nhi vi thượng thủ. các vị đại bồ tát đại loại như vậy làm thượng thủ. |
及釋提桓因等。 cập Thích Đề Hoàn Nhân và với vô lượng chư Thiên |
復有帝釋。 Phục hữu Đế thích Lại có Đế thích, 大梵天王。堪忍界主。護世四王。如是上首。百千俱胝那庾多數。諸天子眾。 Đại Phạm thiên vương, Kham nhẫn giới chủ, Hộ thế tứ vương, như thị thượng thủ. Bách thiên câu chi na dữu đa số chư Thiên tử chúng Đại phạn thiên vương - chủ của thế giới Kham nhẫn, bốn vị thiên vương hộ thế, các vị như vậy làm thượng thủ. Có số trăm ngàn câu chi na dữu đa các vị thiên tử, |
無量諸天大眾 vô lượng chư Thiên đại chúng như ông Thích Đề Hoàn Nhơn v.v… đại chúng |
及餘世間無量天人阿素洛等。 cập dư thế gian vô lượng thiên nhân, a tố lạc đẳng. vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc và các hạng thế gian khác, |
俱。 câu. cùng đến dự hội. |
為聞法故。 vị văn Pháp cố, vì muốn nghe pháp 俱來會坐。 câu lai hội tọa. nên cùng đến ngồi trong pháp hội. |
爾時佛告長老舍利弗。 Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá Lợi Phất: Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: |
爾時世尊告舍利子。 Nhĩ thời Thế tôn cáo Xá lợi tử Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi tử: |
汝今知不。 Nhữ kim tri bất Tôn giả có biết không, |
|
從是西方。 Tùng thị Tây phương, Từ đây qua phương Tây 過十萬億佛土。 quá thập vạn ức Phật độ, quá mười muôn ức cõi Phật, |
於是西方。 Ư thị Tây phương, từ thế giới này, 去此世界。 khứ thử thế giới。 hướng về phương Tây, 過百千俱胝那庾多佛土。 quá bách thiên câu chi na dữu đa Phật độ, qua trăm ngàn câu chi na dữu đa cõi Phật, |
有世界名曰極樂。 hữu thế giới danh viết Cực Lạc, có thế giới tên là Cực Lạc, |
有佛世界名曰極樂。 hữu Phật thế giới danh viết Cực lạc có một thế giới Phật tên là Cực lạc. |
其土有佛。 kỳ độ hữu Phật trong thế giới đó có đức Phật 號阿彌陀。 hiệu A Di Đà, hiệu là A Di Đà |
其中世尊。 Kỳ trung Thế tôn Cõi Phật ấy có đức Thế tôn 名無量壽。及無量光。如來應正等覺。十號圓滿。 danh Vô Lượng Thọ cập Vô Lượng Quang Như lai, Ứng chánh đẳng giác, thập hiệu viên mãn, danh hiệu là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, mười hiệu viên mãn, |
今現在說法。 kim hiện tại thuyết pháp. hiện nay đương nói pháp. |
今現在彼。安隱住持。 Kim hiện tại bỉ an ổn trú trì, hiện nay vẫn còn trú trì yên ổn nơi cõi ấy, 為諸有情。宣說甚深微妙之法。令得殊勝利益安樂。 vị chư hữu tình, tuyên thuyết thậm thâm vi diệu chi pháp, lịnh đắc thù thắng lợi ích an lạc. tuyên thuyết cho người ở đó về pháp thậm thâm vi diệu, làm cho họ được lợi ích yên vui thù thắng. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 彼土何故名為極樂。 Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 何因何緣彼佛世界名為極樂。 hà nhân hà duyên, bỉ Phật thế giới danh vi Cực lạc vì lý do gì thế giới Phật ấy tên là Cực lạc? |
其國眾生。 Kỳ quốc chúng sanh, Vì chúng sanh trong cõi đó 無有眾苦。 vô hữu chúng khổ, không có bị những sự khổ, |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 由彼界中諸有情類。 do bỉ giới trung chư hữu tình loại, vì người sống trong thế giới ấy 無有一切身心憂苦。 vô hữu nhất thiết thân tâm ưu khổ không có tất cả sự lo nơi tâm và sự khổ nơi thân, |
但受諸樂。 đản thọ chư lạc, chỉ hưởng những điều vui, |
唯有無量清淨喜樂。 duy hữu vô lượng thanh tịnh thiện lạc mà chỉ có vô lượng sự hỷ lạc và thanh tịnh, |
故名極樂。 cố danh Cực Lạc. nên nước đó tên là Cực Lạc. |
是故名為極樂世界。 thị cố danh vi Cực lạc thế giới. nên gọi là thế giới Cực lạc. |
又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 極樂國土。 Cực Lạc quốc độ, Lại trong cõi Cực Lạc |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, |
七重欄楯。 thất trùng lan thuẫn, có bảy từng bao lơn, 七重羅網。 thất trùng la võng, bảy từng mành lưới, 七重行樹。 thất trùng hàng thọ, bảy từng hàng cây, |
處處皆有七重行列妙寶欄楯。 xứ xứ giai hữu thất trùng hàng liệt diệu bảo lan thuẫn, chỗ nào cũng có bảy lớp lan can báu, 七重行列寶多羅樹。 thất trùng hàng liệt bảo đa la thọ bảy lớp hàng cây Đa la báu, 及有七重妙寶羅網。 cập hữu thất trùng diệu bảo la võng, bảy lớp lưới giăng báu, |
皆是四寶周匝圍繞。 giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, |
周匝圍繞。四寶莊嚴。 châu táp vi nhiễu, tứ bảo trang nghiêm bao quanh khắp cả, trang nghiêm bằng bốn chất liệu quí báu: 金寶銀寶。吠琉璃寶。頗胝迦寶。妙飾間綺。 kim bảo, ngân bảo, phệ lưu ly bảo, pha chi ca bảo, diệu sức gian khỉ. vàng, bạc, lưu ly và pha lê, được trang sức tinh tế, xen kẽ. |
故彼國名為極樂。 thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc. vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. |
舍利子。 Xá lợi tử Này Xá lợi tử, 彼佛土中。有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴。甚可愛樂 bỉ Phật độ trung hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức công đức trang nghiêm, thậm khả ái lạc, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, 是故名為極樂世界。 thị cố danh vi Cực lạc thế giới nên gọi là thế giới Cực lạc. |
又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 極樂國土。 Cực Lạc quốc độ, Lại trong cõi Cực Lạc 有七寶池。 hữu thất bảo trì, có ao bằng bảy chất báu, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 處處皆有七妙寶池。 xứ xứ giai hữu thất diệu bảo trì, chỗ nào cũng có cái hồ bằng bảy chất liệu quí báu, |
八功德水。 bát công đức thủy, trong ao đầy dẫy 充滿其中。 sung mãn kỳ trung, nước đủ tám công đức, |
八功德水。 bát công đức thủy, trong đó đầy ắp 彌滿其中。 di mãn kỳ trung. nước tám công đức. 何等名為八功德水。一者澄淨。二者清冷。三者甘美。四者輕軟。五者潤澤。六者安和。七者。飲時。除飢渴等無量過患。八者。飲已。定能長養諸根四大。增益種種殊勝善根。多福眾生。常樂受用。 Hà đẳng danh vi bát công đức thủy:Nhất giả trừng tịnh, nhị giả thanh lãnh, tam giả cam mỹ, tứ giả khinh nhuyễn, ngũ giả nhuận trạch, lục giả an hòa, thất giả ẩm thời trừ cơ khát đẳng vô lượng quá hoạn, bát giả ẩm dĩ định năng trường dưỡng chư căn tứ đại, tăng ích chủng chủng thù thắng thiện căn. Đa phước chúng sanh thường lạc thọ dụng. Vì sao gọi là nước tám công đức? Một là lóng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm nhẹ, năm là tươi nhuận, sáu là an hòa, bảy là uống vào trừ được đói, khát, nhẫn đến vô số tội lỗi, tám là uống vào chắc chắn trưởng dưỡng căn thân tứ đại và tăng ích các thứ thiện căn thù thắng. Chúng sanh nhiều phước đức thường thích thọ dụng nước ấy. |
池底。 trì để đáy ao 純以金沙布地。 thuần dĩ kim sa bố địa. thuần dùng cát vàng trải làm đất. |
是諸寶池。 Thị chư bảo trì, Đáy các hồ báu 底布金沙。 để bố kim sa, rải toàn cát bằng vàng. |
四邊階道。金。銀。琉璃。玻璃。合成。 Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Vàng, bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; |
四面周匝。有四階道。 Tứ diện châu táp hữu tứ giai đạo Bốn phía bao quanh hồ đều có thềm cấp và lối đi, 四寶莊嚴。 Tứ bảo trang nghiêm trang sức bằng bốn chất liệu quí báu, 甚可愛樂。 thậm khả ái lạc thật đáng ưa thích. 諸池周匝。有妙寶樹。間飾行列。香氣芬馥。七寶莊嚴。甚可愛樂。言七寶者。一金。二銀。三吠琉璃。四頗胝迦。五赤真珠。六阿濕摩揭拉婆寶。七牟娑落揭拉婆寶。 Chư trì châu táp hữu diệu bảo thọ, gian sức hàng liệt hương khí phân phức, thất bảo trang nghiêm thậm khả ái lạc. Ngôn thất bảo giả: nhất kim, nhị ngân, tam phệ lưu ly, tứ pha chi ca, ngũ xích chân châu, lục a thấp ma yết lạp bà bảo, thất mâu sa lạc yết lạp bà bảo. Bao quanh các hồ có cây quí báu, xếp theo hàng lối, tỏa hương ngào ngạt, trang sức bằng bảy chất liệu quí báu, thật đáng ưa thích. Bảy chất liệu quí báu: một là vàng, hai là bạc, ba là lưu ly, bốn là pha lê, năm là xích chân châu, sáu là mã não, bảy là xa cừ. |
上有樓閣亦以金。銀。琉璃。玻璃。硨磲。赤珠。瑪瑙。而嚴飾之。 Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi. trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. |
|
池中蓮華。 Trì trung liên hoa, Trong ao có hoa sen 大如車輪。 đại như xa luân: lớn như bánh xe: |
是諸池中。常有種種雜色蓮華。 Thị chư trì trung, thường hữu chủng chủng táp sắc liên hoa, Trong các hồ đó thường có các hoa sen đủ màu sắc, 量如車輪。 lượng như xa luân: lớn như bánh xe: |
青色。青光。 thanh sắc thanh quang, hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, 黃色。黃光。 huỳnh sắc huỳnh quang, sắc vàng thời ánh sáng vàng, 赤色。赤光。 xích sắc xích quang, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, 白色。白光。 bạch sắc bạch quang, sắc trắng thời ánh sánh trắng, |
青形青顯青光青影。 Thanh hình thanh hiển thanh quang thanh ảnh, hoa sen xanh, hiển thị màu xanh, ánh ra sáng xanh, ảnh tượng xanh; 黃形黃顯黃光黃影。 hoàng hình hoàng hiển hoàng quang hoàng ảnh, hoa sen vàng, hiển thị màu vàng, ánh ra sáng vàng, ảnh tượng vàng; 赤形赤顯赤光赤影。 xích hình xích hiển xích quang xích ảnh, hoa sen đỏ, hiển thị màu đỏ, ánh ra sáng đỏ, ảnh tượng đỏ; 白形白顯白光白影。 bạch hình bạch hiển bạch quang bạch ảnh. hoa sen trắng, hiển thị màu trắng, ánh ra sáng trắng, ảnh tượng trắng. 四形四顯四光四影。 Tứ hình tứ hiển tứ quang tứ ảnh. Bốn loại hoa sen, hiển thị bốn màu, ánh ra bốn ánh sáng, có bốn ảnh tượng nơi tâm. |
微妙香潔。 vi diệu hương khiết. mầu nhiệm thơm tho trong sạch. |
|
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 極樂國土。 Cực Lạc quốc độ Cõi nước Cực Lạc 成就如是功德莊嚴。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm. thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛國土。 Bỉ Phật quốc độ, Lại trong cõi nước của đức Phật đó, 常作天樂。 thường tác thiên nhạc, thường trổi nhạc trời, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung, trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 自然常有無量無邊眾妙伎樂。 tự nhiên thường hữu vô lượng vô biên chúng diệu kĩ nhạc, tự nhiên thường có vô lượng vô biên kỹ nhạc tuyệt diệu, 音曲和雅甚可愛樂。諸有情類聞斯妙音。諸惡煩惱悉皆消滅。無量善法漸次增長。速證無上正等菩提。 âm khúc hòa nhã thậm khả ái lạc. Chư hữu tình loại văn tư diệu Âm, chư ác phiền não tất giai tiêu diệt, vô lượng thiện pháp tiệm thứ tăng trường, tốc chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề. âm khúc hòa nhã, thật đáng ưa thích. Các loài hữu tình nghe được âm thanh tuyệt diệu ấy thì tất cả ác phiền não đều tiêu diệt, vô lượng thiện pháp lần lượt tăng trưởng, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề. 舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
黃金為地。 huỳnh kim vi địa, đất bằng vàng ròng, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung, trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 周遍大地真金合成。其觸柔軟香潔光明。無量無邊妙寶間飾。 châu biến đại địa chân kim hợp thành, kỳ xúc nhu nhuyễn hương khiết quang minh, vô lượng vô biên diệu bảo gian sức. khắp cả mặt đất cấu thành bằng vàng ròng, chạm vào thì mềm mại, thơm dịu, sáng chói, và trang sức xen kẽ bằng vô lượng vô biên chất liệu quí báu. 舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
晝夜六時。 trú dạ lục thời, ngày đêm sáu thời 雨天曼陀羅華。 vũ thiên Mạn Đà La hoa. rưới hoa trời mạn đà la. |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 晝夜六時。 trú dạ lục thời, ngày đêm sáu buổi 常雨種種上妙天華。 thường vũ chủng chủng thượng diệu thiên hoa, thường mưa xuống nhiều loại hoa trời thượng diệu. 光澤香潔細軟雜色。雖令見者身心適悅。而不貪著。增長有情無量無數不可思議殊勝功德。彼有情類晝夜六時。常持供養無量壽佛。 Quang trạch hương khiết tế nhuyễn táp sắc, tuy lịnh kiến giả thân tâm thích duyệt, nhi bất tham trước, tăng trường hữu tình vô lượng vô số bất khả tư nghị thù thắng công đức. Bỉ hữu tình loại trú dạ lục thời thường trì cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Hoa trời tươi sáng, thơm dịu, mềm mại và màu sắc xen nhau. Người nhìn thấy hoa ấy có sự dễ chịu nơi thân và sự vui thích nơi tâm, nhưng không tham đắm. Hoa trời làm cho người thế giới Cực lạc tăng trưởng vô lượng vô số công đức thù thắng, không thể nghĩ bàn. Người thế giới Cực lạc, ngày đêm sáu buổi, thường đem hoa trời hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ. |
其土眾生。 Kỳ độ chúng sanh, Chúng sanh trong cõi đó 常以清旦。 thường dĩ thanh đán, thường vào lúc sáng sớm, 各以衣械。 các dĩ y kích, đều lấy đãy hoa 盛眾妙華。 thạnh chúng diệu hoa, đựng những hoa tốt 供養他方十萬億佛。 cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, 即以食時。還到本國。飯食經行。 tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. |
每晨朝時 Mỗi thần triêu thời, Vào mỗi sáng sớm, 持此天華。 trì thử thiên hoa, người thế giới ấy mang hoa trời, 於一食頃。 Ư nhất thực khoảnh, trong khoảng bữa ăn, 飛至他方無量世界。供養百千俱胝諸佛。於諸佛所。各以百千俱胝樹花。持散供養。 phi chí tha phương vô lượng thế giới, cúng dường bách thiên câu chi, ư chư Phật sở, các dĩ bách thiên câu chi thọ hoa, trì tán cúng dường. bay đến vô lượng thế giới ở phương khác, hiến cúng trăm ngàn câu chi chư Phật. Nơi chỗ chư Phật, dùng trăm ngàn câu chi hoa trời mà tung rải trên mỗi đức Phật để hiến cúng, 還至本處。遊天住等。 hoàn chí bổn xử, du thiên trú đẳng. rồi trở về thế giới của mình, nghỉ trưa. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 極樂國土。 Cực Lạc quốc độ Cõi nước Cực Lạc 成就如是功德莊嚴。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm. thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
復次舍利弗。 Phục thứ Xá Lợi Phất, Lại nữa, Xá Lợi Phất! 彼國 Bỉ quốc Cõi đó 常有種種奇妙雜色之鳥。 thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu: thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 常有種種奇妙可愛雜色眾鳥。 thường hữu chủng chủng kì diệu khả ái táp sắc chúng điểu. thường có các loại chim đẹp lạ, đáng yêu, màu sắc xen nhau, |
白鶴。 Bạch Hạc, nào chim Bạch hạc, 孔雀。 Khổng Tước, Khổng Tước, 鸚鵡。 Anh Vũ, Anh Vũ, 舍利。 Xá Lợi, Xá Lợi, 迦陵頻伽。 Ca Lăng Tần Già, Ca Lăng Tần Già, 共命之鳥。 Cộng Mạng chi điểu. Cọng Mạng; |
所謂鵝。鴈。鶖鷺。鴻。鶴。 Sở vị nga, nhạn, thu lộ, hồng hạc, như là: ngỗng, nhạn, thu lộ, hồng hạc, 孔雀。 khổng tước khổng tước, 鸚鵡。 anh vũ anh vũ, 羯羅頻迦。 yết la tần ca yết la tần ca 命命鳥等。 mạng mạng điểu đẳng. mạng mạng |
是諸眾鳥。 thị chư chúng điểu, những giống chim đó 晝夜六時。 trú dạ lục thời, ngày đêm sáu thời 出和雅音。 xuất hòa nhã âm, kêu tiếng hòa nhã. |
如是眾鳥。 Như thị chúng điểu Những loại chim như vậy, 晝夜六時恒共集會。 trú dạ lục thời hằng cộng tập hội ngày đêm sáu buổi, thường tụ tập lại, 出和雅聲。 xuất hòa nhã thanh hót ra âm thanh giao hòa và tuyệt nhã. |
其音演暢 kỳ âm diễn xướng: Tiếng chim đó diễn nói những pháp như: |
隨其類音。宣揚妙法。 Tùy kỳ loại âm, tuyên dương diệu pháp, Âm thanh của mỗi loại chim đều diễn đạt những giáo pháp tuyệt diệu, |
五根。五力。 Ngũ Căn, Ngũ Lực, ngũ căn, ngũ lực, 七菩提分。 Thất Bồ Đề Phần, thất bồ đề phần, 八聖道分。 Bát Thánh Đạo Phần, bát thánh đạo phần 如是等法。 như thị đẳng pháp. v.v… |
所謂甚深念住正斷。 Sở vị thậm thâm niệm trụ chánh đoạn như là: bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, 神足根力。 thần túc căn lực bốn thần túc, năm căn, năm lực, 覺 giác bảy giác chi, 道支等。 đạo chi đẳng tám chánh đạo, 無量妙法。 vô lượng diệu pháp. vô số giáo pháp tuyệt diệu sâu xa như vậy. |
其土眾生。 Kỳ độ chúng sanh, Chúng sanh trong cõi đó 聞是音已。 văn thị âm dĩ, nghe tiếng chim xong 皆悉念佛。念法。念僧。 giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. |
彼土眾生 Bỉ độ chúng sanh Người thế giới Cực lạc 聞是聲已。 văn thị thanh dĩ nghe âm thanh ấy, 各得念佛念法念僧。 các đắc niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, ai cũng nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, 無量功德熏修其身。 vô lượng công đức huân tu kỳ thân. có được vô lượng công đức huân tu thân mình. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 汝勿謂此鳥。 Nhữ vật vị thử điểu, Ông chớ cho rằng những giống chim đó 實是罪報所生。 thật thị tội báo sở sanh. thiệt là do tội báo sanh ra. |
汝舍利子。 Nhữ Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 於意云何。 Ư ý vân hà, ông nghĩ thế nào, 彼土眾鳥。豈是傍生惡趣攝耶。勿作是見。 bỉ độ chúng điểu, khởi thị bàng sanh ác thú nhiếp da? Vật tác thị kiến. các loại chim ở thế giới Cực lạc có phải là bàng sanh thuộc nẻo dữ không? Ông đừng nghĩ như thế. |
所以者何。 Sở dĩ giả hà? Vì sao? 彼佛國土。 Bỉ Phật quốc độ, Vì cõi của đức Phật đó 無三惡道。 vô tam ác đạo. không có ba đường dữ. |
所以者何。 Sở dĩ giả hà? Vì sao? 彼佛淨土 Bỉ Phật tịnh độ Vì tịnh độ của Phật 無三惡道。 vô tam ác đạo thì không có ba nẻo đường dữ, |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 其佛國土。 Kỳ Phật quốc độ, Cõi của đức Phật đó 尚無惡道之名。 thường vô ác đạo chi danh, tên đường dữ còn không có 何況有實。 hà huống hữu thật, huống gì lại có sự thật. |
尚不聞有三惡趣名。 Thượng bất văn hữu tam ác thú danh, cũng không nghe cái tên ba nẻo đường dữ, 何況有實罪業所招傍生眾鳥。 hà huống hữu thật tội nghiệp sở chiêu bàng sanh chúng điểu. làm sao có thật các loại chim do tội nghiệp chiêu cảm vào bàng sanh. |
是諸眾鳥。 thị chư chúng điểu, Những giống chim đó 皆是阿彌陀佛。 giai thị A Di Đà Phật, là do đức Phật A Di Đà 欲令法音宣流。變化所作。 dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hoá sở tác. muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. |
當知 Đương tri Nên biết, 皆是無量壽佛 giai thị Vô Lượng Thọ Phật các loại chim này toàn do đức Phật Vô Lượng Thọ 變化所作。令其宣暢無量法音。作諸有情利益安樂。 biến hoá sở tác, lịnh kỳ tuyên xướng vô lượng pháp âm, tác chư hữu tình lợi ích an lạc. biến hiện ra để diễn đạt vô số âm thanh diệu pháp, làm cho người thế giới Cực lạc được lợi ích yên vui. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛國土。 Bỉ Phật quốc độ, Trong cõi nước của đức Phật đó, 微風吹動。 vi phong xuy động, gió nhẹ thổi động 諸寶行樹。及寶羅網。 chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, các hàng cây báu và động mành lưới báu, 出微妙音。 xuất vi diệu âm, làm vang ra tiếng vi diệu, |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 Bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. 又舍利子。 Hựu Xá lợi tử Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 常有妙風。 thường hữu diệu phong thường có gió nhẹ 吹諸寶樹及寶羅網。 xuy chư bảo thọ cập bảo la võng, thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, 出微妙音。 xuất vi diệu âm phát ra âm thanh tuyệt diệu, |
譬如百千種樂。 thí như bá thiên chủng nhạc, thí như trăm nghìn thứ nhạc 同時俱作。 đồng thời câu tác. đồng một lúc hòa chung. |
譬如百千俱胝天樂 thí như bách thiên câu chi thiên nhạc tựa như trăm ngàn câu chi thiên nhạc 同時俱作。 đồng thời câu tác đồng thời hòa tấu, 出微妙聲。甚可愛玩。 xuất vi diệu thanh thậm khả ái ngoạn vang ra âm thanh tuyệt diệu, thật đáng ưa thích thưởng thức. 如是彼土。常有妙風吹眾寶樹。及寶羅網。擊出種種微妙音聲。說種種法。 Như thị bỉ độ thường hữu diệu phong, xuy chúng bảo thọ cập bảo la võng, kích xuất chủng chủng vi diệu âm thanh, thuyết chủng chủng pháp. Cõi Phật ấy như vậy, thường có gió nhẹ thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, nói các giáo pháp. |
聞是音者。 Văn thị âm giả, Người nào nghe tiếng đó 自然皆生念佛。念法。念僧之心。 tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. |
彼土眾生聞是聲已。 Bỉ độ chúng sanh văn thị thanh dĩ, Người thế giới Cực lạc nghe âm thanh ấy 起佛法僧念 khởi Phật Pháp Tăng niệm, thì sanh khởi nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, 作意等無量功德。 tác ý đẳng vô lượng công đức. là những tác ý có được vô lượng công đức. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 其佛國土成就如是功德莊嚴。 Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中有如是等眾妙綺飾。功德莊嚴甚可愛樂。是故名為極樂世界。 Bỉ Phật độ trung hữu như thị đẳng chúng diệu khỉ sức, công đức trang nghiêm thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. 又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung, trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 有如是等無量無邊不可思議甚希有事。假使經於百千俱胝那庾多劫。以其無量百千俱胝那庾多舌。 Hữu như thị đẳng vô lượng vô biên bất khả tư nghị thậm hi hữu sự, giả sử kinh ư bách thiên câu chi na dữu đa kiếp, dĩ kỳ vô lượng bách thiên câu chi na dữu đa thiệt, có vô lượng vô biên sự không thể nghĩ bàn, sự rất hiếm có, đại loại như thế. Giả sử trải qua thời gian trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, dùng vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa cái lưỡi, 一一舌上出無量聲。讚其功德。亦不能盡。是故名為極樂世界。 Nhất nhất thiệt thượng xuất vô lượng thanh, tán kỳ công đức diệc bất năng tận, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. và mỗi cái lưỡi thốt ra vô lượng âm thanh, tán dương công đức của cõi Phật ấy, cũng không thể tán dương hết được, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 於汝意云何。 Ư nhữ ý vân hà? Nơi ý ông nghĩ sao? 彼佛何故號阿彌陀 。 Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà? |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 佛有何緣名無量壽。 Phật hữu hà duyên danh Vô Lượng Thọ? do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệu là Vô Lượng Thọ? |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛 Bỉ Phật Đức Phật đó, 光明無量。照十方國。無所障礙。 quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại 是故號為阿彌陀。 thị cố hiệu vi A Di Đà. vì thế nên hiệu là A Di Đà. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 由彼如來。及諸有情。 Do bỉ Như Lai cập chư hữu tình do đức Như lai ấy và người ở tịnh độ của ngài 壽命無量無數大劫。 thọ mạng vô lượng vô sổ đại kiếp có thọ mạng đến vô lượng vô số đại kiếp. 由是緣故。 Do thị duyên cố, Do duyên này, 彼土如來名無量壽。 bỉ độ Như Lai danh Vô Lượng Thọ. đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệu là Vô Lượng Thọ. |
又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛壽命。及其人民。無量無邊阿僧祇劫。 Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, 故名阿彌陀。 cố danh A Di Đà. nên hiệu là A Di Đà. |
舍利子。無量壽佛證得阿耨多羅三藐三菩提已來。經十大劫。 Xá lợi tử, Vô Lượng Thọ Phật chứng đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề dĩ lai, kinh thập đại kiếp. Này Xá lợi tử, đức Phật Vô Lượng Thọ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác đến nay đã mười đại kiếp. 舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 何緣彼佛名無量光。 Hà duyên bỉ Phật danh Vô Lượng Quang do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệu là Vô Lượng Quang? 舍利子。由彼如來恒放無量無邊妙光。遍照一切十方佛土。施作佛事無有障礙。 Xá lợi tử, do bỉ Như Lai hằng phóng vô lượng vô biên diệu quang, biến chiếu nhất thiết thập phương Phật độ, thí tác Phật sự vô hữu chướng ngại. Này Xá lợi tử, do đức Như lai ấy thường phóng vô lượng vô biên ánh sáng kỳ diệu, chiếu soi khắp cả cõi Phật mười phương, thực hiện Phật sự không có chướng ngại. 由是緣故。 Do thị duyên cố, Do duyên này, 彼土如來名無量光。 bỉ độ Như Lai danh Vô Lượng Quang. đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệu là Vô Lượng Quang. |
舍利弗。阿彌陀佛。成佛已來。於今十劫。 Xá Lợi Phất, A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp. |
|
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛淨土。 Bỉ Phật tịnh độ cõi Phật ấy 成就如是功德莊嚴。甚可愛樂。是故名為極樂世界。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm, thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
|
又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛有無量無邊聲聞弟子。 Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử 皆阿羅漢。 giai A La Hán, đều là bực A La Hán, 非是算數之所能知。 phi thị toán số, chi sở năng tri, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 無量壽佛常有無量聲聞弟子。 Vô Lượng Thọ Phật thường hữu vô lượng thanh văn đệ tử, đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử thanh văn, 一切皆是大阿羅漢。 Nhất thiết giai thị đại A la hán, tất cả đều là bậc đại A la hán, 具足種種微妙功德。 Cụ túc chủng chủng vi diệu công đức, đầy đủ các thứ công đức vi diệu, 其量無邊不可稱數。 kỳ lượng vô biên bất khả xưng sổ số ấy vô biên không thể tính kể. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛淨土。 Bỉ Phật tịnh độ cõi Phật ấy 成就如是功德莊嚴。甚可愛樂。是故名為極樂世界。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm, thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
|
諸菩薩眾。 chư Bồ Tát chúng hàng Bồ tát chúng 亦復如是。 diệc phục như thị. cũng đông như thế. |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử Này nữa Xá lợi tử, 極樂世界淨佛土中。 Cực lạc thế giới tịnh Phật độ trung trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc 無量壽佛常有無量菩薩弟子。 Vô Lượng Thọ Phật thường hữu vô lượng bồ tát đệ tử đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử bồ tát, 一切皆是一生所繫。 nhất thiết giai thị nhất sanh sở hệ, tất cả đều là những bậc Nhất sanh sở hệ, 具足種種微妙功德。 cụ túc chủng chủng vi diệu công đức, đầy đủ các thứ công đức vi diệu, 其量無邊不可稱數。假使經於無數量劫。讚其功德終不能盡。 Kỳ lượng vô biên bất khả xưng sổ. Giả sử kinh ư vô số lượng kiếp, tán kỳ công đức chung bất năng tận. số ấy vô biên không thể tính kể. Giả sử trải qua thời gian vô số lượng kiếp, tán dương công đức của chư vị, cũng không thể tán dương hết được. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 彼佛國土。 Cực Lạc quốc độ Cõi nước của đức Phật đó 成就如是功德莊嚴。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm. thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. 又舍利弗。 Hựu Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 極樂國土。眾生生者。 Cực Lạc quốc độ chúng sanh sanh giả, Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó 皆是阿鞞跋致。 giai thị a bệ bạt trí. đều là bực bất thối chuyển. 其中多有一生補處。 Kỳ trung đa hữu, nhất sanh bổ xứ, Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, 其數甚多。非是算數所能知之。但可以無量無邊阿僧祇說。 kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết. số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi! |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 Bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 成就如是功德莊嚴。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm, có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, 甚可愛樂。是故名為極樂世界。 thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. 又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 若諸有情生彼土者。 nhược chư hữu tình sanh bỉ độ giả các hữu tình sanh về cõi ấy 皆不退轉。 giai bất thối chuyển, thì đều ở địa vị Không còn thối chuyển: 必不復墮諸險惡趣。邊地下賤。蔑戾車中。常遊諸佛清淨國土。殊勝行願。念念增進。 tất bất phục đọa chư hiểm ác thú biên địa hạ tiện miệt lệ xa trung, thường du thanh tịnh quốc thổ, thù thắng hạnh nguyện, niệm niệm tăng tiến, chắc chắn không còn sa vào các nẻo đường dữ, các xứ biên địa man dã; thường du hành qua các quốc độ thanh tịnh của chư Phật; hạnh nguyện thù thắng tăng tiến trong từng ý nghĩ; 決定當證阿耨多羅三藐三菩提。 quyết định đương chứng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. quyết định sẽ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 彼佛土中。 bỉ Phật độ trung cõi Phật ấy 成就如是功德莊嚴。甚可愛樂。是故名為極樂世界。 thành tựu như thị công đức trang nghiêm, thậm khả ái lạc, thị cố danh vi Cực lạc thế giới. có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc. |
|
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 眾生聞者。 chúng sanh văn giả, Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, 應當發願。 ưng đương phát nguyện, nên phải phát nguyện 願生彼國。 nguyện sanh bỉ quốc. cầu sanh về nước đó. |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 若諸有情。聞彼西方無量壽佛清淨佛土。 Nhược chư hữu tình văn bỉ Tây phương Vô Lượng Thọ Phật thanh tịnh Phật độ, các hữu tình nghe cõi Phật thanh tịnh của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, 無量功德眾所莊嚴。 vô lượng công đức chúng sở trang nghiêm。 trang nghiêm bằng vô lượng công đức, 皆應發願 giai ưng phát nguyện hãy nên phát nguyện 生彼佛土。 sanh bỉ Phật độ sanh về cõi Phật ấy. |
所以者何。 Sở dĩ giả hà? Vì sao? 得與如是諸上善人俱會一處。 Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ. Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ. |
所以者何。 Sở dĩ giả hà Vì sao? 若生彼土。 nhược sanh bỉ độ, Vì ai sanh cõi ấy 得與如是無量功德眾所莊嚴諸大士等同一集會。 đắc dữ như thị vô lượng công đức chúng sở trang nghiêm, chư đại sĩ đẳng đồng nhất tập hội. sẽ được cùng chung sống một chỗ với các bậc đại sĩ, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy; 受用如是無量功德眾所莊嚴清淨佛土大乘法樂。 thọ dụng như thị vô lượng công đức, chúng sở trang nghiêm thanh tịnh Phật độ, đại thừa pháp lạc, thọ dụng cõi Phật thanh tịnh và pháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy, 常無退轉。 thường vô thối chuyển vĩnh viễn không thoái chuyển, 無量行願念念增進。 vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tiến, vô lượng hạnh nguyện tăng tiến trong từng ý nghĩ, 速證無上正等菩提故。 tốc chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề cố. mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 不可以少善根福德因緣。 Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên 得生彼國。 đắc sanh bỉ quốc. mà được sanh về cõi đó. |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 生彼佛土諸有情類。成就無量無邊功德。 sanh bỉ Phật độ chư hữu tình loại, thành tựu vô lượng vô biên công đức, các hữu tình sanh cõi Phật ấy đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. 非少善根諸有情類。 Phi thiểu thiện căn chư hữu tình loại Chẳng phải các hữu tình có chút thiện căn 當得往生無量壽佛極樂世界清淨佛土。 đương đắc vãng sanh Vô lượng thọ Phật Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ. sẽ được sanh cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 若有善男子。善女人。 Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 若有淨信諸善男子或善女人。 Nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có đức tin thanh tịnh, |
聞說阿彌陀佛。 văn thuyết A Di Đà Phật, nghe nói về đức Phật A Di Đà, |
得聞如是無量壽佛無量無邊不可思議功德名號。 đắc văn như thị Vô Lượng Thọ Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghị công đức danh hiệu, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ 極樂世界功德莊嚴。 Cực lạc thế giới công đức trang nghiêm. và thế giới Cực lạc công đức trang nghiêm như vậy, |
執持名號。 chấp trì danh hiệu: rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, |
聞已思惟。 Văn dĩ tư duy nghe rồi tư duy: |
若一日。 nhược nhất nhật, hoặc trong một ngày, 若二日。 nhược nhị nhật, hoặc hai ngày, 若三日。 nhược tam nhật, hoặc ba ngày, 若四日。 nhược tứ nhật, hoặc bốn ngày, 若五日。 nhược ngũ nhật, hoặc năm ngày, 若六日。 nhược lục nhật, hoặc sáu ngày, 若七日。 nhược thất nhật, hoặc bẩy ngày, 一心不亂。 nhất tâm bất loạn. một lòng không tạp loạn. |
若一日夜。 Nhược nhất nhật dạ, hoặc một ngày đêm, 或二 hoặc nhị hoặc hai, 或三。 hoặc tam hoặc ba, 或四 hoặc tứ hoặc bốn, 或五。 hoặc ngũ hoặc năm, 或六 hoặc lục hoặc sáu, 或七。 hoặc thất hoặc bảy ngày đêm, 繫念不亂。 hệ niệm bất loạn buộc sự nhớ nghĩ không cho tán loạn, |
其人 Kỳ nhân Thời người đó 臨命終時。 lâm mạng chung thời, đến lúc lâm chung |
是善男子或善女人。 thị thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân thì thiện nam tử hay thiện nữ nhân đó 臨命終時。 lâm mạng chung thời lúc sắp chết, |
阿彌陀佛。 A Di Đà Phật đức Phật A Di Đà 與諸聖眾。 dữ chư Thánh chúng, cùng hàng Thánh Chúng 現在其前。 hiện tại kỳ tiền. hiện thân ở trước người đó. |
無量壽佛 Vô Lượng Thọ Phật đức Phật Vô Lượng Thọ 與其無量聲聞弟子菩薩眾俱。 dữ kỳ vô lượng thanh văn đệ tử bồ tát chúng câu, cùng vô lượng thánh chúng đệ tử thanh văn, bồ tát của Ngài, 前後圍繞來住其前。 tiền hậu vi nhiễu lai trụ kỳ tiền, bao quanh trước sau, đứng trước người ấy, |
是人終時。心不顛到。 Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, |
慈悲加祐令心不亂。 từ bi gia hữu lệnh tâm bất loạn từ bi gia hộ, làm cho người ấy tâm không thác loạn, |
即得往生阿彌陀佛極樂佛土。 tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ. liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. |
既捨命已隨佛眾會。 ký xả mạng dĩ tùy Phật chúng hội và chết rồi thì theo Ngài và thánh chúng 生無量壽極樂世界清淨佛土。 sanh Vô Lượng Thọ Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ. mà sanh cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất Xá Lợi Phất! 我見是利。 Ngã kiến thị lợi, Ta thấy có sự lợi ích ấy 故說此言。 cố thuyết thử ngôn. nên nói những lời như thế. 若有眾生。 Nhược hữu chúng sanh, Nếu có chúng sinh nào, 聞是說者。 văn thị thuyết giả, nghe những lời trên đó, 應當發願。 ưng đương phát nguyện, nên phải phát nguyện 生彼國土。 sanh bỉ quốc độ. sanh về cõi nước Cực Lạc. |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 我觀如是利益安樂大事因緣。 ngã quán như thị lợi ích an lạc đại sự nhân duyên, Như lai thấy lý do trọng đại, lợi ích yên vui như vậy, 說誠諦語。 thuyết thành đế ngữ, nên nói lời thành thật rằng: 若有淨信諸善男子或善女人。 nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, “Các thiện nam tử hay thiện nữ nhân có đức tin thanh tịnh, 得聞如是無量壽佛不可思議功德名號。極樂世界淨佛土者。 đắc văn như thị Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức danh hiệu, Cực lạc thế giới, tịnh Phật độ giả, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ và cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc, 一切皆應信受發願。 nhất thiết giai ứng tín thọ phát nguyện, thì hết thảy nên tin tưởng, tiếp nhận, phát nguyện, 如說修行 như thuyết tu hành tu hành đúng như kinh này dạy, 生彼佛土。 sanh bỉ Phật độ. nguyện sanh cõi Phật ấy.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 如我今者。 Như ngã kim giả, Như Ta hôm nay 讚歎阿彌陀佛。 tán thán A Di Đà Phật ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn 不可思議功德之利。 bất khả tư nghì công đức chi lợi. của đức Phật A Di Đà, |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如我今者 Như ngã kim giả như hiện thời Như lai 稱揚讚歎無量壽佛 xưng dương tán thán Vô Lượng Thọ Phật xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, 無量無邊不可思議佛土功德。 vô lượng vô biên bất khả tư nghị Phật độ công đức. không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ; |
東方 Đông phương phương Đông 亦有阿閦鞞佛。 diệc hữu A Súc Bệ Phật, cũng có đức A Súc Bệ Phật, 須彌相佛。 Tu Di Tướng Phật, Tu Di Tướng Phật, 大須彌佛。 Đại Tu Di Phật, Đại Tu Di Phật, 須彌光佛。 Tu Di Quang Phật, Tu Di Quang Phật, 妙音佛。 Diệu Âm Phật, Diệu Âm Phật; 如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, hằng hà sa số những đức Phật như thế 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều ở tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: 汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này". |
如是東方。 Như thị Đông phương, như vậy ở phương Đông, 亦有現在不動如來。 diệc hữu hiện tại Bất Động Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Bất Động, 山幢如來。 Sơn Tràng Như Lai, đức Như lai Sơn Tràng, 大山如來。 Đại Sơn Như Lai, đức Như lai Đại Sơn, 山光如來。 Sơn Quang Như Lai, đức Như lai Sơn Quang, 妙幢如來。 Diệu Tràng Như Lai, đức Như lai Diệu Tràng, 如是等佛。如殑伽沙。 Như thị đẳng Phật, như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在東方自佛淨土。 trụ tại Đông phương tự Phật tịnh độ trú ở phương Đông, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 南方世界。 Nam phương thế giới Thế giới phương Nam 有日月燈佛。 hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, có đức Nhật Nguyệt Đăng Phật, 名聞光佛。 Danh Văn Quang Phật, Danh Văn Quang Phật, 大燄肩佛。 Đại Diệm Kiên Phật, Đại Diệm Kiên Phật, 須彌燈佛。 Tu Di Đăng Phật, Tu Di Đăng Phật, 無量精進佛。 Vô Lượng Tinh Tấn Phật Vô Lượng Tinh Tấn Phật; |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是南方 Như thị Nam phương như vậy ở phương Nam, 亦有現在日月光如來。 diệc hữu hiện tại Nhật Nguyệt Quang Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Nhật Nguyệt Quang, 名稱光如來。 Danh Xưng Quang Như Lai, đức Như lai Danh Xưng Quang, 大光蘊如來。 Đại Quang Uẩn Như Lai, đức Như lai Đại Quang Uẩn, 迷盧光如來。 Mê Lô Quang Như Lai, đức Như lai Mê Lô Quang, 無邊精進如來。 Vô Biên Tinh Tiến Như Lai, đức Như lai Vô Biên Tinh Tiến, |
如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: |
如是等佛。如殑伽沙。 Như thị đẳng Phật, như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在南方自佛淨土。 trụ tại Nam phương tự Phật tịnh độ trú ở phương Nam, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: |
汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh . Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này". |
汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 西方世界。 Tây phương thế giới Thế giới phương Tây, 有無量壽佛。 hữu Vô Lượng Thọ Phật, có đức Vô Lượng Thọ Phật, 無量相佛。 Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tướng Phật, 無量幢佛。 Vô Lượng Tràng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, 大光佛。 Đại Quang Phật, Đại Quang Phật, 大明佛。 Đại Minh Phật, Đại Minh Phật, 寶相佛。 Bảo Tướng Phật, Bảo Tướng Phật, 淨光佛。 Tịnh Quang Phật, Tịnh Quang Phật 如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: 汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是西方 Như thị Tây phương như vậy ở phương Tây, 亦有現在無量壽如來。 diệc hữu hiện tại Vô Lượng Thọ Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Thọ, 無量蘊如來。 Vô Lượng Uẩn Như Lai, đức Như lai Vô Lượng Uẩn, 無量光如來。 Vô Lượng Quang Như Lai, đức Như lai Vô Lượng Quang, 無量幢如來。 Vô Lượng Tràng Như Lai, đức Như lai Vô Lượng Tràng, 大自在如來。 Đại Tự Tại Như Lai, đức Như lai Đại Tự Tại, 大光如來。 Đại Quang Như Lai, đức Như lai Đại Quang, 光焰如來。 Quang Diệm Như Lai, đức Như lai Quang Diệm, 大寶幢如來。 Đại Bảo Tràng Như Lai, đức Như lai Đại Bảo Tràng, 放光如來。 Phóng Quang Như Lai, đức Như lai Phóng Quang, 如是等佛。如殑伽沙。 như thị đẳng Phật như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在西方。自佛淨土各各 trụ tại Tây phương, tự Phật tịnh độ các các trú ở phương Tây, nơi tịnh độ của mình, 示現廣長舌相。 thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 北方世界。 Bắc phương thế giới Thế giới phương Bắc, 有燄肩佛。 hữu Diệm Kiên Phật, có đức Diệm Kiên Phật, 最勝音佛。 Tối Thắng Âm Phật, Tối Thắng Âm Phật, 難沮佛。 Nan Trở Phật, Nan Trở Phật, 日生佛。 Nhựt Sanh Phật, Nhựt Sanh Phật, 網明佛。 Võng Minh Phật, Võng Minh Phật 如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: 汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này". |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是北方 như thị Bắc phương như vậy ở phương Bắc, 亦有現在無量光嚴通達覺慧如來。 diệc hữu hiện tại Vô Lượng Quang Nghiêm Thông Đạt Giác Tuệ Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Nghiêm Thông Đạt Giác Tuệ, 無量天鼓震大妙音如來。 Vô lượng Thiên Cổ Chấn Đại Diệu Âm Như Lai, đức Như lai Vô Lượng Thiên Cổ Chấn Đại Diệu Âm, 大蘊如來。 Đại Uẩn Như Lai, đức Như lai Đại Uẩn, 光網如來。 Quang Võng Như Lai, đức Như lai Quang Võng, 娑羅帝王如來。 Sa La Đế Vương Như Lai, đức Như lai Sa La Đế Vương, 如是等佛。如殑伽沙。 Như thị đẳng Phật như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在北方自佛淨土。 trú tại Bắc phương tự Phật tịnh độ trú ở phương Bắc, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 下方世界。 Hạ phương thế giới Thế giới phương dưới, 有師子佛。 hữu Sư Tử Phật, có đức Sư Tử Phật, 名聞佛。 Danh Văn Phật, Danh Văn Phật, 名光佛。 Danh Quang Phật, Danh Quang Phật, 達摩佛。 Đạt Ma Phật, Đạt Mạ Phật, 法幢佛。 Pháp Tràng Phật, Pháp Tràng Phật, 持法佛。 Trì Pháp Phật, Trì Pháp Phật, 如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: 汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是下方 như thị hạ phương như vậy ở phương dưới, 亦有現在示現一切妙法正理常放火王勝德光明如來。 diệc hữu hiện tại Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Đức Quang Minh Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Đức Quang Minh, 師子如來。 Sư Tử Như Lai, đức Như lai Sư Tử, 名稱如來。 Danh Xưng Như Lai, đức Như lai Danh Xưng, 譽光如來。 Dự Quang Như Lai, đức Như lai Dự Quang, 正法如來。 Chánh Pháp Như Lai, đức Như lai Chánh Pháp, 妙法如來。 Diệu Pháp Như Lai, đức Như lai Diệu Pháp, 法幢如來。 Pháp Tràng Như Lai, đức Như lai Pháp Tràng, 功德友如來。 Công Đức Hữu Như Lai, đức Như lai Công Đức Hữu, 功德號如來。 Công Đức Hiệu Như Lai, đức Như lai Công Đức Hiệu, 如是等佛。如殑伽沙。 Như thị đẳng Phật, như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在下方自佛淨土。 trú tại hạ phương tự Phật tịnh độ trú ở phương dưới, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 上方世界。 Thượng phương thế giới Thế giới phương trên, 有梵音佛。 hữu Phạm Âm Phật, có đức Phạm Âm Phật, 宿王佛。 Tú Vương Phật, Tú Vương Phật, 香上佛。 Hương Thượng Phật, Hương Thượng Phật, 香光佛。 Hương Quang Phật, Hương Quang Phật, 大燄肩佛。 Đại Diệm Kiên Phật, Đại Diệm Kiên Phật, 雜色寶華嚴身佛。 Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, 娑羅樹王佛。 Ta La Thọ Vương Phật, Ta La Thọ Vương Phật, 寶華德佛。 Bảo Hoa Đức Phật, Bảo Hoa Đức Phật, 見一切義佛。 Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, 如須彌山佛。 Như Tu Di Sơn Phật, Như Tu Di Sơn Phật 如是等恒河沙數諸佛。 như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, Hằng hà sa số những đức Phật như thế, 各於其國。 các ư kỳ quốc, đều tại nước mình, 出廣長舌相。 xuất quảng trường thiệt tướng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài 遍覆三千大千世界。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, trùm khắp cõi tam thiên đại thiên 說誠實言。 thuyết thành thật ngôn: mà nói lời thành thật rằng: 汝等眾生。 Nhữ đẳng chúng sanh "Chúng sanh các ngươi 當信是稱讚不可思議功德 đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức 一切諸佛所護念經。 Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是上方。 như thị thượng phương như vậy ở phương trên, 亦有現在梵音如來。 diệc hữu hiện tại Phạm Âm Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Phạm Âm, 宿王如來。 Tú Vương Như Lai, đức Như lai Tú Vương, 香光如來。 Hương Quang Như Lai, đức Như lai Hương Quang, 如紅蓮華勝德如來。 Như Hồng Liên Hoa Thắng Đức Như Lai, đức Như lai Như Hồng Liên Hoa Thắng Đức, 示現一切義利如來。 Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi Như Lai đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi, 如是等佛。如殑伽沙。 Như thị đẳng Phật, như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住在上方自佛淨土。 trú tại thượng phương tự Phật tịnh độ trú ở phương trên, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是東南方。 như thị Đông Nam phương như vậy ở phương Đông Nam, 亦有現在最上廣大雲雷音王如來。 diệc hữu hiện tại Tối Thượng Quảng Đại Vân Lôi Âm Vương Như Lai hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Quảng Đại Vân Lôi Âm Vương, 如是等佛。如殑伽沙。 như thị đẳng Phật, như căng dà sa, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住東南方自佛淨土。 trú Đông Nam phương tự Phật tịnh độ, trú ở phương Đông Nam, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
|
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是西南方。 như thị Tây Nam phương, như vậy ở phương Tây Nam, 亦有現在最上日光名稱功德如來。 diệc hữu hiện tại Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Đức Như Lai, hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Đức, 如是等佛。如殑伽沙。 như thị đẳng Phật, như căng dà sa, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住西南方自佛淨土。 trú Tây Nam phương tự Phật tịnh độ, trú ở phương Tây Nam, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
|
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是西北方。 như thị Tây Bắc phương như vậy ở phương Tây Bắc, 亦有現在無量功德火王光明如來。 diệc hữu hiện tại Vô Lượng Công Đức Hỏa Vương Quang Minh Như Lai hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Công Đức Hỏa Vương Quang Minh, 如是等佛。如殑伽沙。 như thị đẳng Phật như căng dà sa căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住西北方自佛淨土。 trú Tây Bắc phương tự Phật tịnh độ, trú ở phương Tây Bắc, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
|
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如是東北方。 như thị Đông Bắc phương như vậy ở phương Đông Bắc, 亦有現在無數百千俱胝廣慧如來。 diệc hữu hiện tại vô sổ bách thiên câu chi Quảng Tuệ Như Lai, hiện tại cũng có vô số trăm ngàn câu chi đức Như lai Quảng Tuệ 如是等佛。如殑伽沙。 như thị đẳng Phật như căng dà sa, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, 住東北方自佛淨土。 trú Đông Bắc phương tự Phật tịnh độ, trú ở phương Đông Bắc, nơi tịnh độ của mình, 各各示現廣長舌相。 các các thị hiện quảng trường thiệt tướng mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, 遍覆三千大千世界。周匝圍繞。 biến phú tam thiên đại thiên thế giới, châu táp vi nhiễu, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, 說誠諦言。 thuyết thành đế ngôn: nói lời thành thật như vầy: 汝等有情。 Nhữ đẳng hữu tình “Hữu tình các người 皆應信受如是稱讚不可思議佛土功德。 giai ưng tín thọ như thị Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, 一切諸佛攝受法門。 nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” |
|
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 於汝意云何。 Ư nhữ ý vân hà, Nơi ý của ông nghĩ thế nào, 何故名為一切諸佛所護念經。 hà cố danh vi: Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm? |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 何緣此經。 Hà duyên thử kinh vì lý do gì kinh này 名為稱讚不可思議佛土功德。一切諸佛攝受法門。 Danh vi Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn. tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho”? |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 若有善男子。善女人。 Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào 聞是經受持者。 văn thị kinh thọ trì giả, nghe kinh này mà thọ trì đó, 及聞諸佛名者。 cập văn chư Phật danh giả, và nghe danh hiệu của đức Phật, |
舍利子。 Xá lợi tử, Này Xá lợi tử, 由此經中。 do thử kinh trung, vì trong kinh này 稱揚讚歎無量壽佛極樂世界不可思議佛土功德。及十方面諸佛世尊。為欲方便利益安樂諸有情故。各住本土。現大神變。說誠諦言。勸諸有情信受此法。是故此經。名為稱讚不可思議佛土功德。一切諸佛攝受法門。 xưng dương tán thán Vô Lượng Thọ Phật Cực lạc thế giới bất khả tư nghị Phật độ công đức cập thập phương diện chư Phật Thế tôn, vị dục phương tiện lợi ích an lạc chư hữu tình cố, các trụ bổn độ,hiện đại thần biến, thuyết thành đế ngôn, khuyến chư hữu tình tín thọ thử pháp, thị cố thử kinh, danh vi Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức nhất thiết nhiếp thọ pháp môn. xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, và lại được mười phương chư Phật Thế tôn vì nuốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên mỗi vị đều ở nơi quốc độ của mình, thị hiện đại thần biến, nói lời thành thật, khuyên các hữu tình tin nhận pháp môn này, vì vậy mà kinh này tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.” 又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 若善男子或善女人。 nhược thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào 或已得聞。或當得聞。或今得聞。聞是經已深生信解。生信解已。 hoặc dĩ đắc văn, hoặc đương đắc văn, hoặc kim đắc văn, văn thị kinh dĩ thâm sanh tín giải, sanh tín giải dĩ hoặc đã nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc đang nghe, nghe kinh này rồi tin hiểu sâu xa, tin hiểu rồi thì |
是諸善男子。善女人。 thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy 皆為一切諸佛之所護念。 giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, 皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。 giai đắc bất thối chuyển, ư a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề. đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. |
必為如是住十方面。十殑伽沙諸佛世尊之所攝受。 tất vi như thị trú thập phương diện thập căng dà sa Thế tôn chi sở nhiếp thọ, chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế Tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, 如說行者。 như thuyết hành giả, tu hành đúng như kinh này dạy, 一切定於阿耨多羅三藐三菩提。得不退轉。 nhất thiết định ư a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc bất thối chuyển nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, 一切定生無量壽佛極樂世界清淨佛土。 nhất thiết định sanh Vô Lượng Thọ Phật Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ. ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. |
是故舍利弗。 Thị cố, Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! Cho nên 汝等 Nhữ đẳng các ông 皆當信受我語。及諸佛所說。 giai đương, tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết. đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói. |
是故舍利子。 Thị cố Xá lợi tử, Thế nên, này Xá lợi tử, 汝等有情。 nhữ đẳng hữu tình, hết thảy hữu tình các người 一切皆應信受領解。我及十方佛世尊語。 nhất thiết giai ứng tín thọ lĩnh giải ngã cập thập phương Phật Thế Tôn ngữ, đều nên tin tưởng, tiếp nhận và lý giải lời nói của Như lai và của mười phương chư Phật Thế tôn, 當勤精進如說修行。勿生疑慮。 đương cần tinh tiến như thuyết tu hành, vật sanh nghi lự. phải nỗ lực tinh tiến mà tu hành đúng như kinh này dạy, chớ sanh hoài nghi, lo ngại. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 若有人 Nhược hữu nhân, Nếu có người 已發願。 dĩ phát nguyện, đã phát nguyện, 今發願。 kim phát nguyện, hiện nay phát nguyện, 當發願。 đương phát nguyện, sẽ phát nguyện 欲生阿彌陀佛國者。 dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, 是諸人等。 thị chư nhân đẳng, thời những người ấy 皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。 giai đắc bất thối chuyển ư a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề, đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 若善男子或善女人。 nhược thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào 於無量壽極樂世界清淨佛土功德莊嚴。若已發願。 ư Vô Lượng Thọ Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ, công đức trang nghiêm, nhược dĩ phát nguyện, đối với công đức trang nghiêm của cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc đã phát nguyện, 若當發願。 nhược đương phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, 若今發願。 nhược kim phát nguyện, hoặc đang phát nguyện (nguyện sanh cõi Phật ấy), 必為如是住十方面十殑伽沙諸佛世尊之所攝受。如說行者。 tất vi như thị trú thập phương diện thập căng dà sa Thế tôn chi sở nhiếp thọ, như thuyết hành giả, thì chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, tu hành đúng như kinh này dạy, 一切定於阿耨多羅三藐三菩提。得不退轉。 nhất thiết định ư a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc bất thối chuyển nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, |
於彼國土。若已生。若今生。若當生。 ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về. 是故舍利弗。 Thị cố Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! Cho nên 諸善男子。善女人。 Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, các thiện nam tử thiện nữ nhân 若有信者。 nhược hữu tín giả, nếu người nào có lòng tin 應當發願。生彼國土。 ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia. |
一切定生無量壽佛極樂世界清淨佛土。 nhất thiết định sanh Vô Lượng Thọ Phật Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ. ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. 是故舍利子。 Thị cố Xá lợi tử Thế nên, này Xá lợi tử, 若有淨信諸善男子或善女人。 nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, 一切皆應於無量壽極樂世界清淨佛土。 Nhất thiết giai ưng ư Vô Lượng Thọ Cực lạc thế giới thanh tịnh Phật độ, hết thảy đều nên đối với cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, 深心信解。 thâm tâm tín giải, có sự tin hiểu sâu xa, 發願往生。 phát nguyện vãng sanh, thì hãy phát nguyện vãng sanh, 勿行放逸。 vật hành phóng dật. đừng sống phóng dật. |
舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 如我今者。 Như ngã kim giả, Như Ta hôm nay 稱讚諸佛不可思議功德。 xưng tán chư Phật bất khả tư nghì công đức, ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, 彼諸佛等。 bỉ chư Phật đẳng, các đức Phật đó 亦讚諸我不可思議功德。 diệc xưng tán ngã bất khả tư nghì công đức cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta |
又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 如我今者。 như ngã kim giả như nay đây Như lai 稱揚讚歎無量壽佛極樂世界不可思議佛土功德。 xưng dương tán thán Vô Lượng Thọ Phật Cực lạc thế giới bất khả tư nghị Phật độ công đức, tán dương công đức không thể nghĩ bàn của cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, 彼十方面諸佛世尊。 bỉ thập phương diện Thế tôn, chư Phật Thế Tôn ở mười phương 亦稱讚我不可思議無邊功德。 diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị vô biên công đức, cũng tán dương công đức vô biên, không thể nghĩ bàn của Như lai, |
而作是言。 nhi tác thị ngôn: mà nói lời nầy: 釋迦牟尼佛。 Thích Ca Mâu Ni Phật "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật 能為甚難希有之事。 năng vi thậm nan, hy hữu chi sự, hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, |
皆作是言。 giai tác thị ngôn đều nói như vầy: 甚奇希有。 thậm kì hi hữu “Rất kỳ lạ hiếm có, 釋迦寂靜。釋迦法王。如來。應正等覺。明行圓滿。善逝。世間解。無上丈夫。調御士。天人師。佛。世尊。 Thích Ca Tịch Tĩnh, Thích Ca Pháp Vương, Như Lai, Ứng chánh đẳng giác, Minh hành viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn. đức Thích Ca Tịch Tĩnh, Thích Ca Pháp Vương, Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhân sư, Phật: Thế Tôn, |
能於娑婆國土。 năng ư Ta Bà quốc độ, có thể ở trong cõi Ta Bà 五濁惡世。 ngũ trược ác thế: đời ác năm món trược: 劫濁。 kiếp trược, kiếp trược, 見濁。 kiến trược, kiến trược, 煩惱濁。 phiền não trược, phiền não trược, 眾生濁。 chúng sanh trược, chúng sanh trược, 命濁中。 mạng trược trung, mạng trược, 得阿耨多羅三藐三菩提。 đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, 為諸眾生。 vị chư chúng sanh Ngài vì các chúng sanh 說是一切世間難信之法。 thuyết thị nhất thiết thế giới nan tín chi pháp nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". 舍利弗。 Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất! 當知我於五濁惡世。 Đương tri ngã, ư ngũ trược ác thế, Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược 行此難事。 hành thử nan sự, thật hành việc khó này: 得阿耨多羅三藐三菩提。 đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác 為一切 vị nhất thiết và vì tất cả 世間說此難信之法。 thế giới thuyết thử, nan tín chi pháp, thế gian nói kinh pháp khó tin này, 是為甚難。 thị vi thậm nan. đó là rất khó! 佛說此經已。 Phật thuyết thử kinh dĩ, Đức Phật nói kinh này rồi, 舍利弗。 Xá Lợi Phất ngài Xá-Lợi-Phất 及諸比丘。 cập chư Tỳ Kheo, cùng các vị Tỳ kheo, 一切世間天人阿修羅等。 nhất thiết thế gian: Thiên, Nhân, A Tu La đẳng, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v.v… 聞佛所說。 văn Phật sở thuyết, nghe lời của đức Phật dạy, 歡喜信受。 hoan hỷ tín thọ, đều vui mừng tin nhận 作禮而去。 tác lễ nhi khứ. đảnh lễ mà lui ra. |
乃能於是堪忍世界。 nãi năng ư thị Kham nhẫn thế giới, có thể ở trong thế giới Kham nhẫn này, 五濁惡時。 ngũ trược ác thời, vào thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục, 所謂劫濁。 sở vị kiếp trược, đó là: kiếp trược, 諸有情濁。 chư hữu tình trược, hữu tình trược, 諸煩惱濁。 chư phiền não trược, phiền não trược, 見濁。 kiến trược, kiến trược 命濁。 mạng trược, và mạng trược, 於中證得阿耨多羅三藐三菩提。 ư trung chứng đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, 為欲方便利益安樂諸有情故。 vị dục phương tiện lợi ích an lạc chư hữu tình cố và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, 說是世間極難信法。 thuyết thị thế gian cực nan tín pháp. nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin.” 是故舍利子。 Thị cố Xá lợi tử, Thế nên, này Xá lợi tử, 當知我今於此雜染堪忍世界五濁惡時。 đương tri ngã kim ư thử táp nhiễm Kham nhẫn thế giới ngũ trược ác thời các người nên biết Như lai ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, 證得阿耨多羅三藐三菩提。 chứng đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, 為欲方便利益安樂諸有情故。 vị dục phương tiện lợi ích an lạc chư hữu tình cố, và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, 說是世間極難信法。 thuyết thị thế gian cực nan tín pháp, nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin này, 甚為希有不可思議。 thậm vi hi hữu bất khả tư nghị. thì đó là việc rất hiếm có, không thể nghĩ bàn. 又舍利子。 Hựu Xá lợi tử, Này nữa Xá lợi tử, 於此雜染堪忍世界五濁惡時。 ư thử táp nhiễm Kham nhẫn thế giới ngũ trược ác thời, trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, 若有淨信諸善男子或善女人。 nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, 聞說如是一切世間極難信法。 văn thuyết như thị nhất thiết thế gian cực nan tín pháp, nghe nói về pháp môn tất cả thế gian rất khó tin này, 能生信解。 năng sanh tín giải, mà có sự tin hiểu, 受持演說。 thọ trì diễn thuyết, thọ trì, diễn giảng, 如教修行。 như giáo tu hành. tu hành đúng như kinh này dạy, 當知是人。 Đương tri thị nhân, phải biết người ấy 甚為希有。 thậm vi hi hữu thật là hiếm có, 無量佛所曾種善根。 vô lượng Phật sở tằng chủng thiện căn. đã từng trồng căn lành với vô lượng đức Phật. 是人命終。 Thị nhân mạng chung, Người ấy mạng chung 定生西方極樂世界。 định sanh Tây phương Cực lạc thế giới, thì quyết định sanh thế giới Cực lạc ở phương Tây, 受用種種功德莊嚴清淨佛土大乘法樂。 thọ dụng chủng chủng công đức trang nghiêm thanh tịnh Phật độ đại thừa pháp lạc, thọ dụng cõi Phật thanh tịnh và pháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức; 日夜六時。 nhật dạ lục thời ngày đêm sáu buổi, 親近供養無量壽佛。 thân cận cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, thân cận, hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ; 遊歷十方供養諸佛。 du lịch thập phương cúng dường chư Phật, du hành khắp mười phương để hiến cúng chư Phật, 於諸佛所聞法受記。 ư sở văn pháp thọ ký từ nơi chư Phật được nghe pháp, được thọ ký; 福慧資糧疾得圓滿。 phước tuệ tư lương tật đắc viên mãn, tư lương phước tuệ chóng đạt đến viên mãn, 速證無上正等菩提。 tốc chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề. mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề. 時薄伽梵說是經已。 Thời Bạc già phạm thuyết thị kinh dĩ, Khi đức Bạc già phạm nói kinh này xong, 尊者舍利子。 tôn giả Xá lợi tử đẳng, tôn giả Xá lợi tử, 諸大聲聞。及諸菩薩摩訶薩眾。 chư đại thanh văn cập chư bồ tát ma ha tát chúng, các vị đại thanh văn, cùng chúng bồ tát ma ha tát, 無量天人阿素洛等。一切大眾。 vô lượng thiên nhân a tố lạc đẳng, nhất thiết đại chúng, vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc, hết thảy đại chúng 聞佛所說。 văn Phật sở thuyết, nghe đức Bạc già phạm dạy, 皆大歡喜信受奉行。 giai đại hoan hỷ tín thọ phụng hành. ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành. |
佛說阿彌陀經 Phật Thuyết A Di Đà Kinh Kinh Phật Thuyết A Di Đà |
稱讚淨土佛攝受經 Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh Kinh Xưng Tán Tịnh Độ, Phật Nhiếp Thọ |
Quảng Minh biên soạn
18.04.2013 (09.03.Quý Tỵ)
(MAHA-SAMMAYA-SUTTANTA)
I
Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Đại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
Đại hội tại Đại Lâm
Chư Thiên đồng tụ tập.
Chúng con đến Pháp hội
Đảnh lễ chúng Bất Thắng.
Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Tại đây chúng Tỷ-kheo
Thiền định, tâm chánh trực.
Như chủ xe nắm cương,
Bậc trí hộ các căn.
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Như khóa gãy, chốt tháo,
Cửa trụ bị đào lên.
Sống thanh tịnh, có mắt
Như voi khéo điều phục.
Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Những ai quy y Phật,
Sẽ không đọa ác thú,
Sau khi bỏ thân người,
Sẽ sanh làm chư Thiên.
- Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn! - Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn.
Thế Tôn giảng như sau:
Chư Thiên trú Thiên giới,
Những vị trú hang núi,
Tâm tịnh, an Thiền định.
Như sư tử, tuy nằm
Làm hoảng sợ quần sanh,
Tâm tư thuần tịnh bạch,
Trong sáng, không cấu uế.
Biết hơn năm trăm vị,
Họp tại Ca-tỳ-la
Bậc Đạo sư thuyết giảng
Chúng đệ tử thích nghe:
"Các Tỷ-kheo, hãy xem
Chư Thiên chúng đến gần".
Nghe lời dạy đức Phật
Đại chúng nhiệt tình xem.
Thấy rõ hàng phi nhân
Kẻ thấy trăm Thiên thần,
Ngàn thần, và hơn nữa.
Kẻ thấy bảy mươi ngàn
Toàn các bậc phi nhân.
Kẻ thấy vô lượng vị,
Cùng khắp mọi phương hướng.
Với pháp nhãn thấy rõ
Và phân biệt tất cả
Bậc Đạo sư thuyết giảng,
Chúng đệ tử thích nghe:
"Các Tỷ-kheo hãy xem,
Chư Thiên chúng đến gần".
Ta sẽ theo thứ lớp
Thuyết kệ cho người nghe.
Trú tại Ca-tỳ-la,
Có thần lực hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Sáu ngàn từ Tuyết Sơn
Dạ-xoa đủ sắc mặt
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo
Ba ngàn từ Sàtà,
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Như vậy mười sáu ngàn
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Dạ-xoa đủ sắc mặt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Kumbhira, Vương xá,
Trú tại Vepulla,
Hơn trăm ngàn Dạ-xoa,
Hầu hạ vây xung quanh.
Kumbhira, Vương xá
Cũng đến họp rừng này.
Trị vì tại phương Đông,
Chúa tể Càn-thát-bà
Bậc đại vương danh tiếng.
Vị này có nhiều con,
Đại lực, tên Inda
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Quốc vương Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương).
Trị vì tại phương Nam,
Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)
Bậc đại vương danh tiếng,
Vị này có nhiều con,
Đại lực, tên Inda
Có thần lực, hào quang.
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Vua Virùpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)
Trị vì tại phương Tây,
Chúa tể loài Nàgà
Bậc đại vương danh tiếng.
Vị này có nhiều con
Đại lực, tên Inda,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Quốc vương Kuvera, (Đa Văn Thiên vương)
Trị vì tại phương Bắc,
Chúa tể, loài Dạ-xoa,
Bậc đại vương, danh tiếng.
Vị này có nhiều con,
Đại lực, tên Inda,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Trì Quốc vương, phương Đông
Tăng Trưởng vương, phương Nam
Quảng Mục vương, phương Tây,
Đa Văn vương, phương Bắc,
Bốn bậc đại vương này,
Khắp cả bốn phương trời,
Cùng đứng, chói hào quang,
Khắp rừng Ca-tỳ-la.
Giả dối và xảo quyệt,
Màyà, Kutendu, Vetandu, Vitu,
Vituca, Candana, Kàmasettha,
Kinnughandu,
Nighandu chín vị đến.
Panàda, Opamanna, Màtdi,
(người đánh xe chư Thiên).
Càn-thát-bà Cittasena;
Vua Nala, Janesabha
Pancasikha, Timbarù,
Suriyavaccasà cũng đến.
Như vậy cả vua chúa,
Cùng với Càn-thát-bà,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!
Các Nàgà cũng đến.
Kambala, Assatara, Pàyàgà,
Cũng đến với quyến thuộc.
Các Nàgà có danh tiếng,
Dhatarattha và Yàmunà cũng đến.
Eravana, Long vương,
Cũng đến tại ngôi rừng.
Những Thiên điểu nhị sanh,
Với cặp mắt thanh tịnh,
Mãnh liệt chống Long vương,
Nay bay đến ngôi rừng.
Tên chúng là Citrà,
Và tên Supannà.
Long vương không sợ hãi,
Nhờ ơn Phật an toàn
Với những lời nhẹ nhàng,
Chúng tự khuyên bảo nhau,
Nàgà, Supannà (Kim Sí điểu)
Đều đến quy y Phật.
Bị sét Kim Cang thủ,
Anh của Vàsava,
Có thần lực danh xưng.
Kàlakanjà, dị hình, (Tu-la)
Dànaveghasà, Vepacitti
Cùng với Sucitti,
Với Pahàràda, ác quỷ Namucì.
Cùng con của Bali,
Đặt tên Veroca.
Huy động toàn quân lực,
Dâng cho vị thủ lãnh.
Ràhu nói: "Mong thay
Pháp hội được an toàn.
Phó hội chúng Tỷ-kheo
Đều đến tại rừng này".
Cũng đến Varunà,
Với thủy tộc, Soma,
Cả Yasa cũng đến.
Chư Thiên Từ Bi sanh
Có danh xưng cũng đến
Mười vị Thiên tộc này
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Asamà, Yamà,
Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,
Vị thủ lãnh cũng đến.
Chư Thiên thuộc Nhật tộc
Vân thần tên Manda,
Quần tinh vị thủ lãnh
Vàsava, Vasù
Thần Sakka cũng đến.
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng.
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Với đầu lửa đỏ rực,
Aritthakà, Rojà,
Như bông hoa Ummà
Varunà, Sahadhammà,
Accutà, Anejakà
Sùleyya-rucirà,
Vàsavanesi cũng đến.
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Mànusà, Mànusuttamà,
Khiddà-padùsikà, Mano-padùsikà
Harayo, Lohita-vàsino,
Pàragà, Mahà-Pàragà
Có danh xưng cũng đến.
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng,
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Arunà, Veghanasà
Odàta-gayhà,
Vicakkhanà cũng đến,
Sadàmattà, Hàragaja,
Missakà có danh xưng cũng đến.
Pajjunna thần sét,
Làm mưa khắp mọi phương.
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Danh xưng Katthakà, Lambitakà,
Thủ lãnh các Làmà,
Joti-nàmà, Àsava,
Tha hóa tự tại thiên,
Hóa lạc thiên cũng đến.
Mười vị Thiên tộc này,
Dung mạo thật dị biệt,
Có thần lực, hào quang,
Có sắc tướng, danh xưng
Hoan hỷ đến rừng này,
Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
Với diện mạo dị biệt,
Theo danh tộc chúng đến,
Cùng nhiều vị khác nữa.
Nói rằng: "Sanh đã tận,
Then cài không còn nữa.
Bộc lưu đã vượt qua,
Đã thành bậc Vô Lậu.
Chúng con thấy vị ấy,
Như voi vượt bộc lưu,
Như trăng thoát mây tối".
Con các vị thần lực,
Sanamkumàra Tissa,
Đến hội tại ngôi rừng.
Đại Phạm thiên, chúa tể,
Ngự trị ngàn Phạm giới,
Thác sanh có hào quang,
Dị hình có danh xưng,
Mười đấng Tự Tại đến,
Ngự trị mỗi mỗi cõi,
Giữa vị này Hàrita,
Cũng đến với đồ chúng.
Với Inda, Phạm thiên,
Ma quân cũng tiến đến,
Xem Hắc quỷ ngu si.
"Hãy đến và bắt trói,
Những ai bị tham triền,
Hãy bao vây bốn phía,
Chớ để ai thoát ly!"
Như vậy Đại Tướng quân,
Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,
Với bàn tay vỗ đất,
Tiếng dội vang khiếp đảm.
Như trong cơn giông tố,
Sấm chớp và mưa rào,
Nó liền thối quân lui,
Phẫn nộ nhưng bất lực.
Và phân biệt tất cả,
Bậc Đạo sư thuyết giảng,
Chúng đệ tử thích nghe:
"Ma quân đã tiến đến;
Tỷ-kheo hãy biết chúng".
Nghe lời dạy đức Phật,
Đại chúng tâm nhiệt tình.
Kẻ thù đã bỏ đi,
Xa vô tham, vô úy.
Tất cả đều chiến thắng,
Vô úy và vô xưng!
Đệ tử những vị này,
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________________
>>> 19.Kinh đại điển tôn
HÌNH: VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Thành kính đảnh lễ tất cả Chư Phật và Bồ Tát khắp mười phương cùng tận không gian.
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bạc Già Phạm ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc cùng với các Đại Tỳ Kheo Tăng 1250 người với các Đại Bồ Tát đều ngồi trong Hội.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi Đồng Tử rằng: ” Này Mạn Thù Tất Lợi ! Có Thế Giới ở phương trên tên là Vô Lượng Công Đức Tụ, có Đức Phật hiệu là Vô Lượng Trí Quyết Định Vương Như Lai A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (còn được gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai) đang vì chúng sanh mà nói Pháp.
Mạn Thù ! Ông hãy lắng nghe ! Người trong cõi Nam Diêm Phù Đề thọ mạng một trăm năm, nhưng trong đó phần nhiều bị hoạnh tử, sống không đủ số tuổi.
Này Mạn Thù ! Công Đức Danh Hiệu và Pháp Yếu của Vô Lượng Thọ Như Lai, nếu có chúng sanh được nghe Danh Hiệu này, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì đọc tụng Kinh Quyển. Tùy nơi nhà cửa chỗ ở, dùng các thứ Tràng Hoa, Anh Lạc, hương hoa, hương bột cúng dường tức được sống lâu trăm tuổi.
Này Mạn Thù ! Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu. Nếu có chúng sanh, sắp hết mạng sống, nhớ niệm Danh Hiệu của Như Lai tức được sống thêm. Nếu có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân muốn cầu sống lâu. Nếu nghe được 108 Danh Hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì đọc tụng tức được các quả báo đầy đủ phước đức. Chân Ngôn là :
“ Nam mô bạt già bột đế, a bà lợi mật đa, a du khất đố na, tu tỳ nễ tất thi ra tả gia, đát tha yết tha gia. Đát điệt tha: Án, tát bà tang tất ca ra, bà lợi du để gia ca na sa ha mỗ trì ca để, tát bà tỳ du đế, ma ha na gia, bà lợi bà lê, sa ha “
(PHẠN CHÚ: NAMO RATNA TRAYAYA / OM NAMO BHAGAVATE / APARIMITA AYUR JNANA / SUPINISH CHITATAYE / JORAJAYA / TATHAGATAYA / ARHATE SAMYAK SAM BUDDHAYA / TADYATHA / OM PUNYE PUNYE / MAHA PUNYE / APARIMITA PUNYE / APARIMITA PUNYA / JNANA SAMBA RO PA TSITE / OM SARVA SAMSKARA / PARI SHUDDHA DHARMATE / GAGANA SAMUDGATE / SVABHAVA VISHUDDHE / MAHA NAYA PARI VARA YE / SVAHA.)
(PHIÊN ÂM VIỆT: NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA.)
Đức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: ”như vậy 108 Danh Hiệu của Như Lai, nếu tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì đọc tụng, dầu mạng sống sắp hết cũng được sống thêm đủ một trăm năm. Sau khi mệnh chung được sanh về Tịnh Độ Vô Lượng Phước Trí Thế Giới của Phật Vô Lượng Thọ. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Bấy giờ có 990 triệu đức Phật đồng lời nói Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 840 triệu đức Phật, một lúc đồng lời nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 770 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 650 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 550 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 450 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 360 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có 250 triệu đức Phật đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Lại có hằng hà sa Phật Hội đồng lời, nói Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Thiện Nam Tử ! Nếu có người tự chép hoặc bảo người chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, dầu cho sắp chết cũng lại sống đủ trăm năm. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người viết chép hoặc bảo người viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng rành rẽ thì người đó không đọa Địa Ngục, sanh chỗ nào cũng được Túc Mệnh Trí. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người viết chép hoặc bảo người viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng thì công đức bằng viết chép tám vạn bốn ngàn tất cả Kinh Điển. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người viết chép hoặc bảo người viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, tức bằng viết chép tám vạn bốn ngàn Bộ tạo lập Tháp Miếu. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh thì hay trừ diệt 5 tội Vô Gián cùng các tội nặng khác. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng. Giả sử phạm tội như núi Tu Di cũng đều diệt hết. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người viết chép hoặc bảo người khác viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng sẽ không bị các Ma và các quyến thuộc, Dạ Xoa, La Sát làm hại. Không bị chết vì điên cuồng. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng thì lúc sắp mệnh chung có 99 Phật Hội hiện ra trước mắt, được ngàn Phật thọ ký, hay đi đến mười phương các Cõi Phật, không nên đối với Kinh này sanh lòng nghi. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng thì thường được 4 vị Đại Thiên Vương luôn theo hộ vệ. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác biên chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh, tức được vãng sanh nơi cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A Di Đà. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác viết chép Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh thì nơi đó tức là Tháp Phật, cần nên cung kính đảnh lễ. Nếu có các loại súc sanh, cầm thú … nghe được Kinh này thì không lâu sẽ được Nhất Thiết Chủng Trí. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người đối với Kinh Vô Lượng Thọ này hoặc tự viết chép hoặc bảo người viết chép sẽ không còn thọ thân Nữ nữa. Chân Ngôn là :
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người đem bố thí Kinh này thì bằng bố thí 7 báu đầy cả 3000 Đại Thiên Thế Giới. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người hay cúng dường Kinh Điển này tức như cúng dường tất cả Kinh Điển vậy. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người dùng 7 Báu cúng dường 7 Đức Phật: Tỳ Bà Thi, Thi Khí, Tỳ Xá Phù, Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp, Thích Ca Mâu Ni Phật thì phước đức này còn có hạn lượng. Còn viết chép thọ trì đọc tụng Kinh Điển Vô Lượng Thọ này ắt công đức không thể biết được. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu đem 7 Báu nhiều như núi Tu Di, làm bố thí thì công đức này còn có thể biết hạn lượng. Còn viết chép, đọc tụng, cúng dường, bố thí Kinh Điển này ắt phước đức không thể đếm được. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Như nước bốn biển còn có thể biết được số lượng là bao nhiêu. Còn quả báo viết chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, bố thí Kinh Điển này ắt không thể tính đếm được số lượng. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác viết chép Kinh Điển Vô Lượng Thọ này. Lại hay thọ trì, đọc tụng, cúng dường tức bằng cung kính cúng dường mười phương các cõi nước của chư Phật không khác. Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của lòng nhân ái,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về lòng nhân ái,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về lòng nhân ái vang lên khắp địa cầu.
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của giới hạnh,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về giới hạnh,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về giới hạnh vang lên khắp địa cầu.
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của sự kham nhẫn,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về sự kham nhẫn,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về sự kham nhẫn vang lên khắp địa cầu.
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của tinh tấn,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về tinh tấn,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về tinh tấn vang lên khắp địa cầu.
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của hành thiền,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về hành thiền,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về hành thiền vang lên khắp địa cầu.
Đức Phật cao quý hoàn hảo về sức mạnh của trí tuệ,
Đức Phật trở thành Nhân sư tử hoàn thiện về trí tuệ,
Thông qua lòng từ bi vĩ đại của mình, Đức Phật đã đến thế giới này,
và giáo lý của Ngài về trí tuệ vang lên khắp địa cầu.
Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu Chân Ngôn là:
“NAM-MÔ RÁT-NA TRA-DA-DA / ÔM NAM-MÔ BA-GA-VA-TÊ / A-BA-RI-MI-TA A-DU CHA-NA / SU-BI-NÍT CHI-TA-TA-DÊ / CHÔ-RA-CHA-DA / TA-THA-GA-TA-YA / A-HA-TÊ SAM-GIẮT SAM BÚT-ĐA-DA / TÁT-DA-THA / ÔM BU-NA-DÊ BU-NA-DÊ / MA-HA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DÊ / A-BA-RI-MI-TA BU-NA-DA / CHA-NA / SAM-BA RÔ BA CHI-TÊ / ÔM SẠT-VA SAM-SỜ-KA-RA / BA-RI SÚT-ĐA ĐẠT-MA-TÊ / GA-GA-NA SA-MÚT-GA-TÊ / XOA-BA-VA VI-SÚT-ĐÊ / MA-HA NA-DA BA-RI VA-RA DÊ / XOA-HA. “
Bấy giờ, Đức Như Lai nói Kinh này xong thì tất cả Thế Gian: Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà… nghe Phật nói đều rất vui mừng, tin nhận vâng làm.
(Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh kết thúc ở đây)
Hạ tải bản Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ bằng các thứ tiếng tại địa chỉ sau:
(MAHÀ-GOVINDA-SUTTANTA)
I
Một thời Thế Tôn ở tại Vương xá, núi Linh thứu. Khi đêm đã gần mãn, Pancasikha (Ngũ Kế), thuộc giòng họ Càn-thát-bà (Gandhabba), với dung mạo đoan chánh, chói sáng toàn vùng núi Linh thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Pancasikha, thuộc giòng họ Càn-thát-bà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những điều con đã tự thân nghe và chấp nhận trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bạch Thế Tôn con muốn bạch lại Thế Tôn.
- Này Pancasikha, hãy nói cho ta nghe! - Thế Tôn nói như vậy.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống Phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này.
Họ thắng về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng.
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng đẹp lòng thoải mái hoan hỷ hơn nữa và nói:
"- Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt".
"- Các vị có muốn nghe tám pháp như thật của Thế Tôn không?
"- Chúng tôi muốn nghe tám pháp Như thật của Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Đế-thích ở Tam thập tam thiên giải thích về tám pháp Như thật của Thế Tôn như sau:
"- Chư Thiện hữu, nếu có được bốn vị Chánh đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời".
"Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư Thiện hữu, cần gì có bốn vị Chánh đẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được ba vị Chánh đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
"Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư Thiện hữu, cần gì có ba vị Chánh đẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được hai vị Chánh đẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
"- Chư Thiện hữu, không một chỗ nào, không một thời gian nào cùng chung một thế giới mà có hai vị Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác đồng thời ra đời, không ra trước, không ra sau, không bao giờ sự kiện như vậy có thể xảy ra. Chư Thiện hữu, một bậc Thế Tôn như vậy, không có tật bệnh, không có đau khổ, sống như vậy trong khoảng thời gian rất dài. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
"Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này suy tư, thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy, bốn vị đại vương được thuyết giảng: Theo mục đích ấy, bốn vị đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình.
Các đại vương chấp nhận,
Lời giảng dạy khuyến giáo,
Thanh thoát và an tịnh,
Đứng bên chỗ mình ngồi.
"- Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra. Như vậy là báo hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra.
Theo hiện tượng được thấy,
Phạm thiên sẽ xuất hiện,
Hiện tượng bậc Phạm thiên,
Là hào quang vi diệu.
"Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói rằng:
"- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
Cũng vậy bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế của mình và nói rằng:
"- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
"Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý: "Chúng ta sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi đã được biết, chúng ta sẽ gặp vị ấy".
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống Phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này,
Thắng xa về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng,
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế Thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
"- Này Phạm thiên, chúng tôi thật sự hoan hỷ với những điều chúng tôi đã được chú ý. Hơn nữa Thiên chủ Sakka đã nói đến tám pháp như thật của Thế Tôn; và chúng tôi hoan hỷ với tám pháp này.
"Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanamkumàra nói với Thiên chủ Đế-thích:
"- Thật lành thay, Thiên chủ, nếu chúng tôi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.
"- Vâng, Đại Phạm thiên.
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Đế-thích, giải thích tám pháp như thật của Thế Tôn cho Phạm thiên Sanamkumàra:
"Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka giải thích tám pháp như thật của Thế Tôn cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, lại càng thích thú, hỷ duyệt sung mãn khi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.
"Chư Thiện hữu, thuở xưa có vị vua tên là Disampati (Thành Chủ). Vua Disampati có vị quốc sư tên Govinda (Điển Tôn), và có vị Hoàng tử tên là Renu (Lê-nô). Bà-la-môn Govinda có người con trai tên là Jotipàla (Hộ Minh đồng tử). Hoàng tử Renu, đồng tử Jotipàla cùng sáu người Sát-đế-lỵ nữa, tám người này là thân hữu. Sau một thời gian, Bà-la-môn Govinda mệnh chung. Khi nghe Bà-la-môn Govinda mệnh chung, vua Disampati than khóc như sau:
"- Tiếc thay, khi chúng ta giao mọi công việc cho Bà-la-môn Govinda để chúng ta có thể được đầy đủ và thọ hưởng năm món dục tăng thịnh chính khi ấy Bà-la-môn lại mệnh chung.
"Nghe nói vậy, Hoàng tử Renu tâu với vua Disampati:
"- Tâu Đại vương, chớ có quá sầu khổ than khóc vì Bà-la-môn Govinda từ trần. Tâu Đại vương, con của Bà-la-môn Govinda, thanh niên Jotipàla còn sáng suốt hơn phụ thân, còn biết kế hoạch sinh lợi hơn phụ thân. Những trách nhiệm gì Đại vương giao cho phụ thân, nay hãy giao cho thanh niên Jotipàla.
"- Như vậy là phải, Hoàng tử.
"- Xin vâng, tâu Đại vương.
"- Khanh hãy đi đến thanh niên Jotipàla, và nói như sau: "Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh niên Jotipàla!".
"- Tâu Đại vương, xin vâng!
"Người ấy vâng lệnh vua Disampati, đến chỗ thanh niên Jotipàta ở, khi đến xong liền nói với thanh niên Jotipàla:
"- Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh nhiên Jotipàla!
"- Xin vâng, này Thiện hữu!
"Thanh nhiên Jotipàla vâng theo lời người ấy, đi đến chỗ vua Disampati ở, khi đến xong liền nói lên những lời viếng thăm, và những lời khen tặng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Vua Disampati nói với thanh niên Jotipàla đang ngồi bên như sau:
"- Này thanh niên Jotipàla! Nay ta muốn khanh chấp chánh! Thanh niên Jotipàla, chớ có từ chối chấp chánh! Ta sẽ đặt Khanh trong địa vị của phụ thân. Ta sẽ phong cho Khanh chức chưởng của Govinda!
"- Tâu Đại vương, xin vâng!
"Thanh niên Jotipàla vâng theo lời dạy của vua Disampati.
"- Vị Bà-la-môn thật sự là Govinda! Vị Bà-la-môn thật sự là Mahà Govinda! Do điềm này, thanh niên Jotipàla được gọi là Mahà Govinda và được danh tiếng là Mahà Govinda!
"- Vua Disampati nay đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua? Sự việc này có thể xảy ra, nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong Hoàng tử Renu lên vương vị. Chư Thiện hữu, quí vị hãy đến chỗ Hoàng tử Renu an trú, khi đến xong hãy thưa với Hoàng tử Renu:
"- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với Thiện hữu Renu! Chúng tôi sung sướng khi Thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi Thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong Hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia sẻ vương vị với chúng tôi!
"Sáu vị Sát-đế-lỵ này, vâng theo lời của Bà-la-môn Mahà Govinda, đến tại chỗ của Hoàng tử Renu, khi đến xong liền thưa với Hoàng tử Renu:
- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hợp với Thiện hữu Renu, chúng tôi sung sướng khi Thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi Thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong Hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia sẻ vương vị với chúng tôi!
- Chư Thiện hữu, có ai khác có quyền hưởng an lạc trong quốc độ của tôi, ngoài Quý vị? Nếu tôi được lên vương vị, tôi sẽ chia sẻ vương vị cho Quý vị.
"- Chư Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị lại sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Chư Thiện hữu, ai có thể biết được? Dục vọng khiến con người si loạn. Chư Thiện hữu, hãy đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, hãy nói với vua Renu như sau: "- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?"
"- Xin vâng, này Thiện hữu.
"Sáu vị Sát-đế-lỵ này vâng theo lời của Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, liền tâu vua Renu như sau:
"- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung, Thiện hữu Renu đã được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?
"- Chư Thiện hữu, tôi có nhớ lời hứa của tôi. Chư Thiện hữu, ai có thể khéo phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều. Đại địa này, phía Bắc thì rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe?
"- Này Thiện hữu, ai có thể làm được, ngoại trừ Bà-la-môn Mahà Govinda?
"- Này Khanh, Khanh hãy đi đến chỗ Bà-la-môn Mahà Govinda, khi đến xong hãy nói với Bà-la-môn Govinda: "Này Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu."
"- Xin vâng, tâu đại vương!
" Người ấy vâng theo lời của vua Renu, đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn Mahà Govinda: "- Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu.
"- Xin vâng, Thiện hữu!
"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của người ấy, đến tại chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền nói lên những lời thăm viếng và những lời khen tặng xã giao với vua Renu rồi ngồi xuống một bên. Và vua Renu nói với Bà-la-môn Govinda đang ngồi xuống một bên như sau:
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy đến và phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc thời rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.
"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của vua Renu phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe, tất cả phần như hình phần trước của cỗ xe.
"Dantapura (Nại-đa-bố-la) cho dân Kàlingà (Ca-lăng-giới) và Potana (Bao-tĩnh-noa) cho dân Assaka (Ma-thấp-na-ka).
"Mahissati (ma-hê-sa-ma) cho dân Avanti (Ương-đế-na) và Roruka (Lao-lỗ-ca) cho dân Sovira (Tô-vĩ-la).
"Mithilà (Di-thế-la) cho dân Videhà (Vi-đề-hê) và Campà (Thiềm-ba) được tạo ra cho dân Anga (Ương-già),
"Bàrànasì (Ba-la-nại) cho dân Kàsi (Ca-thi).
"Tất cả đều do Govinda tạo lập.
"Và sáu vị Sát-đế-lỵ này đều hoan hỷ về khu phần của mình được và sự thành tựu của điều mong ước:
"- Những điều gì chúng tôi muốn, những điều gì chúng tôi ao ước, những điều gì chúng tôi nhắm đến, những điều gì chúng tôi hy vọng, chúng tôi đều được hết.
"Sattabhù (Phá Oan vương) và Brahmadatta (Phạm Thọ vương), Vessabhũ (Thắng Tôn vương) và Bharata (Minh Ái vương), Renu (Lê-nô vương) và hai Dhataratthà (Trì Quốc vương). Tất cả là bảy vị Bharata (Bà-la-đa vương).
"- Như Thiện hữu Govinda là bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với vua Renu, cũng vậy Thiện hữu Mahà Govinda và bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với chúng tôi. Thiện hữu Govinda hãy giáo hóa chúng tôi, Thiện hữu Govinda chớ có từ chối giáo hóa.
"- Xin vâng, chư Thiện hữu.
"Thiện hữu Mahà Govinda trả lời cho sáu vị Sát-đế-lỵ này. Rồi Thiện hữu Mahà Govinda giáo hóa về vương chánh cho bảy vị Sát-đế-lỵ đã được phong vua, và Mahà Govinda dạy các chú thuật cho bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh.
"- Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện thảo luận, luận nghị với Phạm thiên.
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về ta: Bà-la-môn Maha Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Nhưng ta không thấy Phạm thiên, ta không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên. Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ, và đệ tử nói rằng: Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm, người ấy sẽ thấy Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên. Vậy ta hãy sống tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu tập Thiền định về bi tâm".
"Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Thần: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nhưng Thần không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện được với Phạm thiên, không thảo luận được với Phạm thiên, không luận nghị được với Phạm thiên. Thần có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ, và đệ tử nói rằng: những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nay Thần muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, và tu tập Thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp thần, trừ chỉ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Khanh nghĩ là hợp thời.
"- Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Tôi không được thấy Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên. Nhưng tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
"- Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên". Nhưng tôi không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
"- Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên". Nhưng tôi không được thấy Phạm thiên, tôi không nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập Thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
Ôi đoan tướng quang vinh,
Thiện hữu thật là ai?
Không biết nên hỏi Ngài.
Để chúng tôi biết Ngài!
Phạm thiên giới biết ta,
Là Đồng tử thường hằng!
Ta là bậc Thiên vương,
Hãy biết ta là vậy,
Hãy đem đến sàng tọa,
Nước rửa chân, thục mật.
Hiền giả muốn nhận gì,
Hãy cho chúng tôi biết!
Ta chấp nhận cúng vật,
Mà Ngươi vừa đề cập.
Vì hạnh phúc hiện tại,
Vì an lạc tương lai,
Dịp may nay đã đến,
Hãy hỏi điều Ngươi muốn.
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Ta rất giỏi về những lợi ích hiện tại. Chính người khác cũng hỏi ta về những lợi ích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi Phạm thiên Sanamkumàra lợi ích tương lai".
"Rồi Ba-la-môn Mahà Govinda nói bài kệ sau đây với Phạm thiên Samamkumàra:
Nay ta hỏi Phạm thiên,
Sanamkumàra!
Ta hỏi điều nghi ngờ,
Người khác đều muốn biết!
An trú tại chỗ nào,
Tu tập tại chỗ nào,
Để chứng quả bất tử?
Chính tại Phạm thiên giới:
Này Ngươi Bà-la-môn.
Ai bỏ ngã, ngã sở,
Tâm chuyên chú nhứt cảnh,
Tu tập đại bi tâm,
Thoát ly mọi xú uế,
Lánh xa mọi tà dục,
An trú ở nơi đây!
Để chứng quả bất tử,
Chính tại Phạm thiên giới.
"Tâm chuyên nhất cảnh, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người lựa một chỗ an trú thanh vắng, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha ma, một sơn lâm, giữa trời không, một đống rơm. Thưa, Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tâm chuyên nhất cảnh.
"Tu tập bi tâm, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thư tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với bi quảng đại vô biên, không hận, không sân. Thưa Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tu tập bi tâm.
"Thưa Tôn giả, riêng câu nói về xú uế tôi không được hiểu.
"Này Phạm thiên, trong loài Người cái gì là xú uế?
"Đó là điều ở nơi đây tôi không hiểu. Tôn giả hãy nói đi!
- Loài Người bị gì che,
Bị trói buộc cái gì?
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên.
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Gian manh và lừa đảo,
Hà tiện và quá mạn,
Tật đố và dục cầu,
Nghi ngờ và hại người,
Tham, sân, si kiêu mạn.
Những tánh này trói buộc,
Khiến con người xú uế,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên.
"- Như tôi hiểu lời Tôn giả giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Hiền giả Govinda, hãy làm gì Hiền giả xem là hợp thời.
"- Này Tôn giả, hãy tìm một phụ tá khác, vị này sẽ điều khiển quốc sự cho Tôn giả. Tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích các xú uế, chúng tôi dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Vua Renu quốc chủ,
Thần xin tâu Ngài rõ.
Hãy biết quốc độ Ngài,
Thần không thiết chức vụ.
- Nếu Khanh thiếu dục lạc,
Ta cho Khanh đầy đủ!
Nếu có ai hại Khanh,
Quốc chủ, ta ngăn chận.
Khanh là cha, ta con,
Khanh chớ bỏ rơi ta.
- Thần không thiếu dục lạc
Không có ai hại thần.
Vì nghe bậc phi nhân,
Thần không thiết gia đình.
- Phi nhân ấy là ai,
Vị ấy đã nói gì,
Khanh nghe, bỏ gia đình,
Bỏ ta, bỏ tất cả?
- Trước kia ở nơi đây,
Lòng thần chỉ nguyện cầu
Lo đốt nén lửa Thiêng,
Và rải cỏ cát tường.
Nay Phạm thiên hiện ra,
Hiện từ Phạm thiên giới,
Trả lời câu hỏi thần,
Nghe xong thần bỏ nhà.
- Này Khanh Govinda,
Ta tin lời Khanh nói!
Được nghe bậc phi nhân,
Làm sao làm khác được?
Ta sẽ theo gương Khanh,
Bậc thầy của chúng ta.
Như hòn ngọc lưu ly,
Không tỳ vết, cấu uế,
Thật trong sạch như vậy,
Ta theo giáo lý Người!
"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời tôi cũng xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Chư Hiền giả, hãy tìm một vị phụ tá khác. Vị này sẽ điều khiển quốc sự cho quý vị Hiền giả. Tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ đi qua một bên và thảo luận như sau:
"- Những người Bà-la-môn này rất tham tài sản. Chúng ta hãy lấy tài sản để dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói:
"- Thiện hữu, tài sản trong bảy quốc độ này rất là phong phú, Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
"- Thôi thôi, chư Thiện hữu! Tài sản của tôi rất là phong phú, nhờ sự giúp đỡ của quý vị. Nay tôi đã bỏ mọi danh lợi ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"Những người Bà-la-môn này rất tham đàn bà. Chúng ta hãy lấy đàn bà để dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói:
"- Thiện hữu, đàn bà trong bảy quốc độ này rất nhiều. Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
"- Thôi thôi, chư Thiện hữu, tôi có đến bốn mươi vị phu nhân, thảy đều đồng đẳng. Tôi nay muốn từ bỏ tất cả các vị ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Nếu từ bỏ dục vọng,
Mà kẻ phàm say đắm.
Tinh cần và cương quyết,
Vững chắc trong nhẫn lực,
Đó là con đường chánh,
Con đường hướng vô thượng,
Được Thiện nhân hộ trì,
Sanh lên cõi Phạm thiên.
"- Chư Thiện hữu, bảy năm quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy năm. Ai có thể biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong bảy tháng nữa. Sau bảy tháng chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ sáu tháng nữa... hãy chờ năm tháng nữa... hãy chờ bốn tháng nữa... hãy chờ ba tháng nữa... hãy chờ hai tháng nữa... hãy chờ một tháng nữa... hãy chờ nửa tháng nữa. Sau nửa tháng, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ cho bảy ngày cho đến khi chúng tôi giao quốc độ cho các người con và người anh của chúng tôi. Sau bảy ngày, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Chư Thiện hữu, bảy ngày không lâu gì. Tôi sẽ chờ chư Thiện hữu cho đến bảy ngày.
"- Này các Thiện hữu, hãy tìm một vị giáo thọ khác, vị ấy sẽ dạy các thần chú cho chư Thiện hữu, nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Thiện hữu Bà-la-môn Govinda, chớ có xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này Thiện hữu, xuất gia ít có quyền thế, và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng.
"- Chư Thiện hữu chớ có nói như vậy: "Xuất gia ít có quyền thế và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng". Chư Thiện hữu, có ai nhiều quyền thế và nhiều lợi dưỡng hơn tôi. Tôi nay là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các vị Bà-la-môn, và là vị Trời cho các Gia chủ, và tất cả điều này, tôi muốn vất bỏ, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Các phu nhân, nếu muốn hãy trở về gia đình của mình hay gia đình quyến thuộc và tìm một người chồng khác. Tôi nay muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Ngài là người quyến thuộc của chúng tôi, người quyến thuộc mà chúng tôi ao ước. Ngài là chồng của chúng tôi, người chồng mà chúng tôi ao ước. Nếu Tôn giả Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Tôn giả đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
Như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có tiến bộ.
- Này Pancasikha, Ta có nhớ. Ta thuở ấy là Mahà Govinda. Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm thiên quốc. Nhưng này Pancasikha, con đường Phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi Phạm thiên. Này Pancasikha, con đường Phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Đó là con đường Thánh đạo tám ngành tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Này Pancasikha, con đường Phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________
>>> 18.Kinh xà-ni-sa
ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN
Thích Viên Giác dịch
Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California 1996
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp. Khi bấy giờ, có vô số các vị mới phát tâm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều nghĩ tưởng như vầy: Đức Phật nói pháp đại thừa, ý chúng ta không hiểu được, phải chi đức Phật phương tiện chỉ dạy những chỗ cạn thấp dễ dàng, chúng ta nhờ đó được tỏ ngộ tri kiến của Phật và chứng đạo quả. Ý muốn thưa hỏi mà chẳng dám lại gần. Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi biết những tâm niệm của bốn chúng, nên phương tiện từ chỗ ngồi đứng dậy; đến trước đức Phật mà bạch rằng: Xin đức Thế Tôn mở lòng đại từ, lập những pháp phương tiện chỉ dạy cho những chúng sanh sơ cơ thấy tánh thành Phật, lại vì đời sau những chúng sanh mới bước vào nhà Phật, tìm học mối đạo đặng chánh tri kiến, không bị tà giáo phỉnh hoặc, không dụng công nhiều mà đặng thành đạo quả. Đức Phật nói: Hay lắm! Hay lắm! Nầy Văn Thù Sư Lợi, ông có phương tiện lớn lao, thỉnh hỏi Như Lai chỉ dạy ba căn và con đường tu hành ngay thẳng cho chúng sanh đời sau mới vào cửa đạo, theo lời ông hỏi ta sẽ nói rõ. Trong đại chúng đều lặng yên để nghe Phật nói pháp.
Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào gọi là Kim Cang tâm? Tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao? Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.
Phật nói: Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có người người rõ được tâm, thấy được tánh, y theo Phật dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công đức tụng ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp.
Tại sao? Hết thảy các Đức Phật và các pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của chư Phật đều tự nơi tâm mình phát sinh ra, vô cùng vô tận, không hư không lộn, nên gọi là ngộ Phật tâm. Cho nên Phật cùng chúng sanh tâm tánh như nhau, tại người tu và không tu, tin cùng chẳng tin, nên có người làm Phật có người làm chúng sanh.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Sao gọi là Kinh Kim Cang?
Đức Thế Tôn nói: Kim Cang là thí dụ tánh của mình, còn Kinh thì thí dụ tâm của mình. Nếu người rõ tâm mình, thấy tánh mình, người này tự trong thân có Kinh, trên sáu căn thường hiện ra hào quang sáng suốt, chói lòa trời đất, đầy đủ công đức như số cát sông Hằng, sanh ra tứ quảtứ tướng, thập thánh tam hiền nhẩn đến ba mươi hai tướng của đức Như lai và tám mươi việc tốt. Hết thảy công đức đều từ nơi mình, do tâm địa mà ra chứ không phải tìm nơi ngoài mà được.
Tại sao? Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe tâm Phật của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ trì Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v... giảng nói cho người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như số cát sông Hằng mà bố thí. Chẳng biết thế nào là bốn câu kệ?
Phật nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.
Tại sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành Phật đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật, công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.
Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưngười trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh.
Tại sao? Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn; ngộ đặng ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Nhứt lai Tư đà hàm; ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm; ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Vô sanh A la hán.
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đăïng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoăïc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đăïng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Thế nào là tứ sanh. Tạo những nghiệp chi mà bẩm thọ thân mạng mỗi loại không giống nhau?
Thế Tôn nói: Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay gây tạo nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành, vùi lấp chơn tánh, tham luyến trần duyên mãi mãi. Bởi tham, sân, si tạo các tội lỗi không lường không ngằn như là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v... đến khi luân hồi bẩm thụ thân mình đều khác.
Nay nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:
1.- Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay ssắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh như các loài chim cá v.v... Người tham kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2.- Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).
3.- Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo, nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v...
4.- Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v.v...
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, con người là quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ trong loài người mà tu hành, nghiệp cũng do người tạo ra, như người tu phước thì được về cõi Trời, người làm ác thì đọa vào địa ngục, người có đức thời làm Thần, người có đạo thì làm Thánh. Phước và tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường, đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi lại được.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn?
Thế Tôn nói: Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại. Huệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót.
Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là thanh tịnh pháp thân?
Thế Tôn nói: Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ mà không cầu thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành phạt, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người muôn kiếp khó khục hồi được.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao gọi là vô trí Niết bàn?
Thế Tôn nói: Cái tâm mình lặng yên không lay động, các đức Phật trong ba đời đều đi theo con đường này đến chỗ tâm bất động, nên được thọ hưởng chỗ không vui mà vui, lại không có cái vui nào hơn cái vui này, nên gọi là vô trí Niết bàn.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Lấy chỗ công phu tu chứng nào mà đặng vượt ra ngoài phàm phu vào quả thánh đạo?
Phật nói: Nếu người trai lành gái tín theo đạo Phật thì phải bỏ những việc ái ân, dứt đoạn tình duyên, giữ gìn trai giới, chuyên làm mười việc lành, ba nghiệp trong sạch, xa lìa lục trần. Lập chí tìm thầy học hỏi chỗ chánh pháp, y theo thầy dạy, đừng đi theo lòng phàm dẫn dắt sai quấy, y theo Phật tu hành, nếu có công phu như vậy thì đặng chứng Tu đà hoàn. Có người lành tập theo uy nghi của Phật, giới luật trong sạch, một lòng ngồi tịnh, tâm không tán loạn. Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều nhiếp phục cái tâm đối với đời, động ít tịnh nhiều, có công phu như vậy thì đặng chứng quả Tư đà hàm. Lại có chúng sanh trong ba nghiệp chẳng móng, sáu trần chẳng sanh, tịnh lâu công dày, tâm tánh thường hiệp nhất, tâm đối với đời lặng yên chẳng động, tâm đặng thông thả, bằng có cái công như vậy thì đặng chứng quả A na hàm. Có chúng sanh lấy chỗ cái tâm thong thả đó tập thành năng lực thiền định, tánh định hiện ra trước, biết rõ chân tánh của mình xưa nay vắng lặng, tâm cảnh đều không, lòng tâm lặng yên không lay động, có công như thế đặng chứng quả A la hán.
Người nào tu đặng công phu của bốn quả này, vượt ra khỏi cõi người, cõi trời lục dục vào chỗ đạo tràng vắng lặng của các bậc thánh hiền, đồng Phật xuất thế, giúp Phật độ khắp nơi, làm cho quốc độ Phật trở thành thanh tịnh. Độ mình độ người đặng trả ơn đức Phật, thẳng đến Bồ đề đạo tràng, lòng không điên đảo, nên tên là tứ quả đặng đạo của bậc thánh nhân.
Phật nói cùng Văn Thù Sư Lợi: Như người nào đặng bốn quả có lòng tin thiệt, y theo lời dạy bảo của thầy, chẳng có hai lòng, giới đức tinh nghiêm, oai nghi đầy đủ, việc đời tài sắc, ái ân, danh lợi phải đoạn bỏ cho dứt, phải tuyệt cho hết từ trước đến sau, giữ đạo một lòng tuy chưa đăïng thông và hiểu nhiều, mà tâm tánh bền chặt trong sạch giải thoát cũng như Phật không khác, nên cái quả vị siêu phàm nhập thánh.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Những người thế nào gọi là có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng?
Thế Tôn nói: Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho là ta, tham sống sợ chết gọi là ngã tướng; lòng còn thương ghét, ý chẳng bình đẳng gọi là có nhân tướng; niệm tưởng theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải thoát là có chúng sanh tướng; tâm thức chưa diệt trừ, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp vô sanh chân không thật tánh, thường theo tâm cảnh ý thức dẫn dắt, gọi là có thọ giả tướng.
Còn vị Bồ tát biết cái thân phàm là giả, tỉnh ngộ cuộc đời không chắc, thân mình còn không tiếc huống chi là gia tài? Chỉ tiếc việc Phật, dạy pháp đại thừa là vô ngã tướng. Xem hết thảy chúng sanh bình đẳng như con đẻ, không lựa chọn kẻ sơ người thân, đều bình đẳng tế độ, gọi là không nhân tướng. Người tâm đối với đời một phen dứt rồi là dứt luôn, không nối lại nữa, gọi là không chúng sanh tướng. Người tỏ biết chỗ vô sanh Phật tánh, chẳng theo phàm tình ý thức dẫn dắt, nương theo phương tiện nguyện lực hành trì là không có thọ giả tướng. Nếu còn bốn tướng gọi là phàm phu, bốn tướng hết rồi gọi là Bồ tát.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao gọi là ngũ căn, ngũ Phật đồng gieo trồng căn lành?
Thế Tôn nói: Nếu người đặng trai giới trong sạch, minh tâm kiến tánh, tìm thầy học các lý mầu chân chánh, đặng nghe thấy chân chánh, thời con mắt như Phật thấy, lỗ tai như Phật nghe, lỗ mũi như Phật thở, miệng như Phật nói, tâm như Phật biết, ngũ căn thường hiện ngũ Phật thần thông, trồng giống căn lành thành một giống trí của Phật. Như có người giữ đặng chắc chắn, làm chủ đặng tâm của mình y theo Phật tu hành, Phật nói người này chắc chắn thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu làm sao đặng chứng sáu pháp Ba la mật?
Thế Tôn nói: Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng ăn, bỏ tài lợi chẳng tham, bỏ đặng ái ân chẳng mến, bỏ đặng việc ác chẳng làm, bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh, thì đặng thứ nhất Bố thí Ba la mật. Có chúng sanh giữ đặng giới Phật, tập đặng uy nghi Phật, hàng lục tặc, dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì giới Ba la mật. Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp, hay nhịn đặng người mắng chửi, người nói lời chẳng phải lấy lời khuyên giải, việc nghịch đem đến lòng thuận chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát, thì đặng thứ ba Nhẫn nhục Ba la mật. Có những chúng sanh nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc tụng, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh tấn Ba la mật. Có chúng sanh nào đoạn được trần duyên, dứt đặng vọng niệm, trừ đặng mê muội tán loạn, tập đặng thiền định, sức định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn, thì đặng thứ năm Thiền định Ba la mật. Có chúng sanh phá được vô minh không còn các tướng, lýsự đều không, thị phi dẹp hết, lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì đặng thứ sáu Trí huệ Ba la mật. Nếu người nào đặng sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi sanh tử, đặng đến bỉ ngạn, đặng siêu tam giới, đặng lên thập địa và đặng thành Phật.
Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện trí thức.
Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu phước nghiệp chi đặng sanh Thiên đường?
Đức Phật nói: Nếu có chúng sanh tin theo luật nhân quả, thọ tam quy trì ngũ giới, tu mười việc lành, hiếu dưỡng cha mẹ, dứt đoạn tà dâm. Thường giữ đạo chánh, trai tăng cúng dường, tạo tháp lập am, đọc tụng kinh đại thừa, sơn thếp hình tượng Phật rực rỡ. Ủng hộ người lành, ngăn ngừa các việc ác, gieo trồng ruộng phước đến chừng mạng chung đặng sanh về ba mươi ba cõi trời, thọ hưởng phúc trời năm dục vui đẹp, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, đều là tự nhiên hóa ra chẳng dụng sức người tạo tác. Trên trời một ngày, nhân gian trăm năm, đầy đủ năm pháp thần thông, đặng khoái lạc tiêu diêu thong thả.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Trong thế gian có người tà sư ngoại đạo, chẳng biết việc lành việc dữ nhân quả ra sao, chẳng hiểu được việc ứng hiện của luân hồi quả báo, tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến tôn thờ thần quỷ, làm theo phép tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao nhiêu thân mạng sanh linh heo, dê, trâu, ngựa v.v... tham ăn rượu thịt, bày đặt gọi rằng cúng tế trời đất quỷ thần, đặng cầu phước cầu thọ, trấn giữ nhà cửa thân mạng, lấy cớ dâng cúng quỷ thần, lường ăn của người. Lại thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng: bùa chú này có công lực độ người sanh về cõi trời. Bởi ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân sống đều do tà kiến sanh ra.
Như giết mạng mà cứu đặng mạng, thời bậc vương hầu thường sống đời đời không chết. Như vẽ bùa niệm chú mà cứu độ đặng người thành đạo, thời thầy tà đặng lên trời. Có lẽ đâu đặng vậy! Trong đời người mê tính những tà mị, đồng nhau dẫn vào địa ngục, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Cớ sao vậy? Như cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; cầu thọ chẳng qua giới sát phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học rộng nghe nhiều; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn những việc phải quấy. Cho nên muốn cầu đạo chánh thì đừng tin thầy tà, muốn ra khỏi luân hồi thời đừng có phạm luật nhân quả.
Bởi sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà với chánh khác nhau, khổ vui cách biệt.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là lục sư ngoại đạo?
Thế Tôn nói: Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen vào trong pháp ta. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất. Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật, cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, là ngoại đạo thứ hai. Lại có những người trên thời không có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo thứ ba. Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu vi, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư. Có người y theo việc tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo thứ năm. Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa có chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền, chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo. Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám, dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.
Sáu hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen vào giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.
Nên Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa phải đem nguyện lực, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh pháp, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật dạy đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận theo tà là đồng với ma Ba tuần ngoại đạo, hủy báng pháp đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Hết thảy tội nghiệp, nghiệp nào lớn hơn hết?
Thế Tôn nói: Hết thảy trong các tội, sát sanh, ăn thịt tội nghiệp rất nặng. Cớ sao vậy? Như cắt một dao trả lại một dao, giết một mạng phải thường lại một mạng, trăm ngàn muôn đời ăn thịt lẫn nhau không dứt. Cho nên người tu muốn khỏi luân hồi trả quả thời trước hết phải học từ bi, chẳng ăn thịt chẳng sát sanh.
Thứ hai, phạm tội trộm cắp lấy của người, hoặc vốn ít lời nhiều, trong ngàn muôn đời phải trả nợ. Cớ sao vậy? Như vật của người chẳng cho mà mình lấy ngang, một đồng tiền, một bụm gạo, kiếp sau đều phải trả nợ. Cho nên người tu muốn cầu giàu sang, của tiền như ý mình thì trước phải bố thí mới đặng, hà huống trộm cắp của người.
Thứ ba, phạm tội tà dâm, cái ân ái buộc ràng trong ngàn muôn đời chẳng đặng giải thoát. Cớ sao vậy? Sự dâm dục là hột giống cội gốc đường sanh tử. Cho nên người tu muốn ra khỏi sanh tử, trước phải đoạn trừ ái dục.
Thứ tư, phạm tội vọng ngữ, cái khẩu nghiệp nói dối trong ngàn muôn đời, cái phải cái không gạt nhau, việc không nói có, việc có nói không. Do cớ sao? Oan oan tương báo, đời đời đền trả. Cho nên người tu muốn cầu vào đạo, trước phải học thành thật, trừ bỏ việc dối trá.
Thứ năm, phạm tội uống rượu, hôn mê chân tánh, trong ngàn muôn đời tâm trí tối tăm. Cớ sao vậy? Vì tửu lực làm cho người mê muội ngu si, thân thể nhơ nhớp, say sưa nghiêng ngả. Cho nên người tu muốn cầu cho tâm tánh yên tịnh, trí huệ thông minh thì phải dứt trừ cái nghiệp uống rượu.
Năm thứ nghiệp đó rất lớn, rất nặng, như người giữ trọn đặng thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì nhiều kiếp trầm luân đọa lạc, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm ngạ quỷ?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng.Có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chửi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trên đường ngạ quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoảng như gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi sắt nóng, đói cho đến đổi trong miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen, đền tội đủ rồi mới hết nghiệp khổ.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng, nên trả quả làm súc sanh đền thường mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật trả cái nợ cho người, trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là nhất thế Tam Bảo?
Đức Phật nói: Cái tánh là Phật bảo, thường thường chẳng động; cái tâm là Pháp bảo, tỏ sáng công chánh; cái thân là Tăng bảo, trai giới trong sạch.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là tam tịnh giới?
Phật nói: thứ nhất phải trừ hết tâm ác; thứ hai phải đầy đủ tâm lành; thứ ba phải độ hết chúng sanh. Đây tên là ba pháp tịnh giới của vị Bồ tát.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tu những phước nghiệp gì được làm người đàn ông?
Thế Tôn nói: Người biết cung kính Tam bảo, thảo nuôi cha mẹ, thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở công chánh, quí mến người hiền lương, tu những căn lành như vậy thời đặng làm người đàn ông. Nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà. Trong năm trăm năm làm thân đàn ông một lần, hoặc khi chuyển đổi thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo việc chẳng lành, nên mất thân đàn ông muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi! Thân đàn ông có đầy đủ bảy báu; thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu?
- Một là có cái báu chí khí, đi dạo chơi chỗ nào cũng không lo sợ.
- Hai là có cái báu làm chủ , làm việc gì cũng được nắm giữ quyền hành.
- Ba là có cái báu tạo thành, tự mình sanh tài lập nghiệp.
- Bốn là có cái báu an thân, giúp việc vua quan, hiếu dưỡng mẹ cha.
- Năm là có cái báu thánh tri, hay quyết đoán sự phải quấy.
- Sáu là có cái báu an bang khắp cả, sự lý dung hòa.
- Bảy là có cái báu định tánh, được gần gũi người hiền, tôn thờ vị thánh.
Cho nên gọi là người đàn ông trong mình có bảy báu.
Còn sao gọi là năm thứ lậu?
1.- Chẳng đặng làm chủ cái thân.
2.- Chẳng đặng làm chủ trong nhà.
3.- Chẳng đặng làm chủ người khác.
4.- Chẳng đặng làm chủ các súc vật.
5.- Chẳng đặng làm vị Thánh.
Đây gọi là năm thứ lậu của người đàn bà.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có người tuổi còn nhỏ tạo nhiều nghiệp dữ, đến khi già tu hành, đăïng thành Phật không?
Đức Phật nói: Bể khổ không ngằn mé, nếu quày đầu thì thấy bờ bến ở mé sau lưng, nếu có người hồi tâm phát nguyện tu hành, bỏ việc quấy theo việc phải, cải dữ theo lành, trường trai ngăn cấm rượu thịt, học hỏi chánh pháp, bất kỳ già trẻ đồng thành Phật đạo.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có người trai lành gái tín một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa ngã bỏ ăn chay phạm giới cấm, sau bị quả báo chi?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không có nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa thầy bạn, quên hết các công lao khi trước tu hành, trở lại bị lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh điên đão không thành Phật đạo. Trong đó hoặc có người phạm về việc ăn thịt thời phải đọa lạc về thần đạo, như bực trên thì làm quỷ vương, bực giữa thì làm dọa xa, bực dưới thì làm la sát, chịu hưởng của người cúng tế. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm dâm dục thời làm ma đạo, bực trên thời làm ma vương, bực giữa thời làm ma dân, bực dưới thời làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Trong đó hoặc có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc về quỷ đạo, bực trên làm hữu tài quỷ, bực giữa thời làm phong nguyệt quỷ, bực dưới thời làm tiêu tán quỷ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội trộm cắp, phải đọa lạc tà đạo, bực trên thời làm tinh linh, bực giữa thời làm yêu quái, bực dưới thì làm người ta. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Hoặc phạm tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, cái lòng tự cao nên phải đọa làm loài yêu, bực trên thời làm ly mị, bực giữa thời làm vọng lượng, bực dưới thời dựa gá cỏ cây. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa Tu la ác đạo, bực trên là A tu la vương, bực giữa là A tu la chúng, bực dưới là A tu la nữ, thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Nếu tu hành còn uống rượu mà muốn thành đạo, thì cũng như người uống thuốc độc mà muốn được an vui, không có thể được. Cớ sao vậy?
Nếu tu hành mà còn ăn thịt, muốn được thành đạo, cũng như nhận kẻ oán thù cho là con mình, muốn được thân yêu không có thể được.
Nếu tu hành phạm tội trộm cắp, muốn đặng thành đạo, cũng như lấy cái lu thủng đựng nước, muốn nước đầy mãi không có thể được.
Nếu tu hành còn phạm dâm dục, muốn cầu thành đạo thì như nấu cát đá muốn cho thành cơm, không có thể được.
Nếu tu hành chẳng dứt bỏ nói dối, lấy cái dối làm thiệt, muốn cho thành đạo cũng như người thường dân xưng là vị quốc vương, muốn cầu giàu sang không có thể được.
Nếu tu hành mà tâm thường hay giận hờn, tánh thường hay tranh hơn thua, thiếu lòng từ bi bình đẳng mà muốn thành đạo, cũng như mình đi chiếc ghe lủng, muốn qua biển lớn thì phải bị chìm, tại nơi người muốn nên phải bị đọa, chẳng phải đức Phật chẳng cứu.
Nếu như muốn đoạt kết quả tốt đẹp của đạo Bồ đề thì phải giữ gìn trai giới của đức Như lai cho được thanh tịnh, thà là bỏ thân mạng, nhứt định không hủy phamï; đức Phật nhìn nhận người này chắc được thành Phật.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Ta cũng từ chỗ phát tâm trai giới trong sạch mà đặng, ta cũng từ chỗ chân thật mãi mãi không lui sụt mà đặng. Ta cũng từ chỗ lập nguyện rộng lớn, nguyện ra khỏi thế gian mà đặng, ta cũng từ chỗ lập chí bình đẳng chẳng luận bà con hay là người dưng mà đặng. Ta cũng từ chỗ hạ tâm thấp hèn cầu thầy học hỏi mà đặng, ta cũng từ chỗ từ bi nhẫn nhục mà đặng, ta cũng từ chỗ tinh tấn giải thoát mà đặng. Ta cũng từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học cho đến ta cũng từ chỗ học hết thảy các giống trí huệ mà đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Như người ở trên đời không có trai giới mà hay làm phước huệ cho đời. Sau khi chết rồi có con hiếu thuận hoặc trai hay gái thỉnh thầy tụng kinh đại thừa, làm thủy lục hoặc trai đàn lớn cầu siêu độ vong linh, không biết vong linh có thể siêu độ không?
Đức Phật nói: Nếu như người khi sanh tiền không có công lành, chết rồi có con cháu làm công đức cầu siêu, bố thí bạc tiền thì mười phần công đức chỉ đặng ba phần.
Cớ sao vậy? Vì lập công làm phước không chi qua tiền bạc của mình ra làm chay bố thí, trong chúng đồng phần người sống được phước hơn người vong.
Còn như thỉnh thầy uống rượu ăn thịt chẳng đặng trong sạch, tụng kinh lấy bạc tiền. Thiên thần chẳng giáng lâm, Phật thánh không đến trợ, lại vong linh ấy càng thêm tội lỗi.
Bằng như có con hiếu thuận chân chánh, cha mẹ chết rồi, trong mỗi tuần bảy ngày làm chay bảy thất, hoặc trong ba năm cả nhà ăn chay giữ giới, xuất tiền của trong sạch, cầu thỉnh thầy tu hành đức hạnh, trai giới tinh nghiêm, tụng kinh đại thừa, hoặc làm chay thủy lục thiết lập nghiêm trang, thắp hương rãi hoa y theo pháp cúng dường, có lòng thành kính thay thế cho vong hồn khỏi tội đặng phước. Nếu cầu siêu bố thí bạc tiền như vậy, vong linh mới đặng sanh lên cõi trời, người sống cũng đặng phước, kẻ còn người mất đều an vui, người vui mừng thần thánh cũng vui mừng, như vậy mới thật là con cháu hiếu thuận.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là minh sư khẩu khuyết?
Đức Phật nói: Khi Như Lai diệt độ rồi, có dạy các vị Bồ tát truyền Phật tâm ấn, tiếp nối huệ mạng của Phật đều giáo hóa mỗi phương, dẫn dắt những người chưa ngộ. Nếu chúng sanh nào có nhân duyên đặng nhân quả chân chánh, chánh kiến, chánh tu hàng phục tà ma ngoại đạo, phá trừ tà kiến, tu công hạnh chánh trước sau trong sạch, biết người chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng truyền. Nếu có trai lành gái tín chơn chất, trí huệ sáng suốt hết lòng tầm cầu học đạo, thường thường thân cận cúng dường lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy với trò được biết với nhau rồi, chừng đó mới lạy tâm ấn tâm, lấy đạo truyền đạo, như các vị Tổ trước sau tiếp nối lưu truyền chẳng dứt, đây tên là Thiên cơ khẩu khuyết. Nếu người có duyên gặp đặng, không luận căn lớn hay nhỏ cũng thành Phật đạo.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Hoặc có người trai hay gái, gần thầy nghe pháp thường thường mà nữa tin nữa không, dường như quy y mà chẳng y theo, thân tuy lạy Phật mà lòng nghi hoặc đã nhiều, tâm mình chẳng ngộ trở lại trách thầy không chịu chỉ dạy, những người như vậy làm thế nào hóa độ?
Đức Thế Tôn nói: Đây là những người ít phước, trí huệ cũng không, nên không biết pháp vô vi, chấp trước hình tướng, tà kiến kiêu mạn che lấp chơn tâm, chẳng đặng chánh kiến.
Cớ sao vậy? Nếu người tu hành biết trọng thầy thời mới trọng pháp, còn như tu hành khinh dể thầy thì trong lòng cũng khinh dể pháp. Hễ trọng thầy trọng pháp thời học mới đặng, còn khinh thầy thời pháp không học, nếu khinh thầy chê pháp là người tăng thượng mạn. Tuy đồng đi với thầy mà lòng xa cách như ngàn muôn dặm, đến chừng mạng chung vào địa ngục A Tỳ, ngàn muôn Phật ra đời cứu độ chẳng đặng, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là một thânmà có bảy báu bố thí?
Đức Phật nói: Nếu chẳng tham là bố thí, như con mắt chẳng tham sắc tốt và các vật đẹp là sắc bửu bố thí. Lỗ tai chẳng nghe tiếng vui đờn ca xướng hát là thinh bửu bố thí. Lỗ mũi chẳng tham ngửi hơi thơm tho vật lạ là hương bửu bố thí. Cái lưỡi chẳng tham vị béo ngọt ngon là vị bửu bố thí. Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt đẹp là xúc bửu bố thí. Ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình là pháp bửu bố thí. Tánh chẳng tham những sự dục lạc trong thế gian là Phật bửu bố thí. Nếu có người biết đặng trong thân mình có bảy báu bố thí thì được phước đức hơn là đem bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách, trăm ngàn muôn phần bố thí cũng chẳng bằng một phần, nhẩn đến không thể đem thí dụ gì mà so sánh được.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là Vương xá thành?
Đức Thế Tôn nói: Tâm thí dụ là "Xá". Tánh thí dụ là "Vương". Trai giới trong sạch thí dụ "Thành tường". Sáu căn thí dụ sáu bộ quan lại, sáu trần thí dụ sáu mối giặc mạnh, sáu thức thí dụ sáu cái cửa ra vào. Năm dục thí dụ năm con đường hang hố. Kiến văn tri giác thí dụ trong nước có bốn tướng đồng phò tá Tánh vương. Giống như việc nhà việc nước, khi Tánh vương ra ngồi chỗ "Tâm xá" thường cùng sáu thần, bốn tướng đồng nghị sự lý thưởng phạt trong nước. Nếu Tánh vương có đạo chẳng vị tình riêng, có công thời thưởng, có tội thời trừng, lấy chánh lý hành đạo; như vậy người chết cũng không oán hận, hình chánh như thế thì thành vách trai giới ở bên ngoài được bền chắc, sáu cửa đóng kín sáu giặc chẳng xâm phạm. Ở bên trong thời được sáu thần chân chánh, bốn tướng công bình, chẳng dám làm điều hư tệ; bên trong bên ngoài như vậy thời Tánh vương đặng thái bình. Nếu Tánh vương không có đạo, nghe lời sàm tấu, thâu dụng nịnh thần, bỏ việc công theo việc tư, thưởng phạt chẳng công bình, trên dưới nghịch lẫn nhau. Bên trong sáu thần chống báng nhau, bốn tướng hư tệ; ở bên ngoài sáu cửa chẳng đóng, sáu giặc nổi loạn, công phá vách thành trai giới vào trong nước cướp đoạt công đức của Tánh vương. Cái phước hết, cái pháp không còn, thân tâm phải sa ngã chìm đắm mãi mãi. Cho nên muốn trị thân thời phải có pháp luật, muốn trị tâm thời phải có đạo lý, nếu không công bình thời không làm, không chân chánh thời không dùng. Phải được trong ngoài như nhau, trên quan dưới dân không lỗi, chúa tôi phải đạo, tâm tánh sáng suốt, thể dụng điều hòa thì tánh vương, quan dân đều được thái bình vui vẽ, nên tên là Vương Xá Thành.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao gọi là Phật pháp của mình?
Thế Tôn nói: Nếu hiểu rõ chân tánh của mình xưa nay là Phật; trong tâm có Phật, còn pháp trong thế gian và xuất thế gian đều thông biết chẳng lầm, là pháp của mình. Nên cái tâm cần phải có đạo lý nuôi dưỡng, Phật phải nhờ có giáo pháp phò trì, cho nên của vật để nuôi thân mạng, đạo lý để nuôi huệ mạng, đạo gồm thông tất cả nên được thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Bồ tát Quán Thế Âm sao lại có đến một ngàn con mắt, một ngàn cánh tay?
Thế Tôn nói:Con mắt là biểu hiệu kiến tánh, cánh tay là biểu hiệu diệu dụng. Nếu người hiểu được rốt ráo, minh tâm kiến tánh thì kiến tánh này cũng đồng như một ngàn vị Phật kiến tánh không khác, nên tên là Thiên nhãn đều phóng ra hào quang sáng chói. Tự tánh của mình phát sanh diệu dụng cũng đồng diệu dụng như ngàn vị Phật chẳng khác, nên tên là Thiên thủ tác dụng đồng vậy. Thể và dụng hai pháp đều biểu lộ ra như vị Viên Thông Quán Thế Âm Bồ tát.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là ba độc?
Đức Thế Tôn nói: Ngu si tà kiến là một độc, tham lam chẳng đủ là hai độc, sân nộ tật đố là ba độc. Ba độc này còn hoài thì người ấy phải đọa trong tam đồ, một khi mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là tứ đại?
Thế Tôn nói: Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Trong thân người cũng có tứ đại hòa hiệp mới thành một thể, nên da thịt gân cốt hiệp thành cái thân tên là địa đại. Nước miếng, nước tiểu và máu tươi nhuận cái thân tên là thủy đại. Trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân tên là hỏa đại. Tay chân co duổi đi đứng tới lui, chuyển động cái thân tên là phong đại. Hễ tứ đại điều hòa thì thân an lạc; tứ đại chẳng hòa ắt sanh bệnh khổ. Nên địa, thủy, hỏa, phong kêu là tứ đại.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Làm sao kêu là hiếu thuận?
Thế Tôn nói: Hiếu là lòng từ, thuận là chẳng nghịch chánh lý; người có hiếu từ chẳng ngại sanh linh, để cho mình được sống chẳng giữ lấy việc tư làm trái sự công bình; tôn trọng ngôi Tam bảo, kính trọng cha mẹ, chẳng sai chẳng dối, không thương không ghét. Khuyên bảo trong nhà đồng tu phước huệ, ở trong thời thuận hòa, ở ngoài thời trên cung dưới kính, cha mẹ còn hiện tiền an vui tâm thể, cha mẹ mãn số đặng lìa tội khổ. đặng sanh cung trời mới thiệt là thế gian nam nữ hiếu thuận. Còn như mỗi ngày sát hại sanh vật cúng dưng cha mẹ ông bà, làm thêm tội nghiệp cho tổ tông, thiệt là người đại bất hiếu, lúc sống đồng tạo nghiệp, sau chết đồng đọa với cha mẹ, oan trái dẫn dắt với nhau chung vào một chỗ đồng đi luân hồi, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu rằng phương tiện?
Thế Tôn nói: Hai chữ phương tiện có nhiều nghĩa, nay ta lược nói có đến mười lăm nghĩa:
- Phương tiện thứ nhấtchẳng nuôi chẳng giết.
- Phương tiện thứ hai chẳng ăn thịt uống rượu.
- Phương tiện thứ ba không nấu rượu.
- Phương tiện thứ tư không giết hại nhau.
- Phương tiện thứ năm đừng chỉ sai đường cho người.
- Phương tiện thứ sáu chẳng nên đốt rừng.
- Phương tiện thứ bảy đừng oán trời trách đất.
- Phương tiện thứ tám đừng khinh khi thần thánh.
- Phương tiện thứ chín đừng nói những lời thô tục.
- Phương tiện thứ mườichứa nhân bố đức.
- Phương tiện thứ mười một cần kiệm biết đủ đừng tham.
- Phương tiện thứ mười hai kính người già cả thương kẻ nghèo đói.
- Phương tiện thứ mười ba phải cứu giúp nhau khi hoạn nạn.
- Phương tiện thứ mười bốntu nhơn chứng quả.
- Phương tiện thứ mười lăm không oán thù kẻ bà con thân cận, cũng đều bình đẳng tế độ giúp nhau.
Nếu người làm đặng mười lăm phương tiện này thì được mười lăm phước báo thanh tịnh. Thường sanh làm người hoặc được về cõi trời, thọ hưởng những điều khoái lạc tiêu diêu.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu rằng hảo tâm?
Thế Tôn nói:Hai chữ hảo tâm ít người làm được, nếu có lòng hảo tâm, làm việc lợi ích cho người chẳng cần trả ơn, làm việc giúp người chẳng cần quả báo, cúng dường cho người chẳng cần phước báo, làm lợi ích cho người chẳng cần ân báo những đến hạ tâm mình xuống, làm cho lòng muốn của người được đầy đủ. Khó bỏ xả mà bỏ xả đặng, khó nhịn mà nhịn đặng, khó làm mà làm đặng, khó cứu mà cứu đặng, chẳng luận bà con hay người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng sự thật. Chẳng phải miệng nói mà lòng không làm, con người cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện; người hiền tâm thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe khang. Ý nghĩ giúp ích cho người mà thôi, chẳng cầu danh vọng cho mình như vậy mới thật là hảo tâm. Không phải như những người bỏ ra có một tấc mà muốn lấy vô được một thước, gieo giống ít mà muốn đặng trái nhiều, như vậy đâu phải là người hảo tâm.
Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Sao kêu là người trí, sao kêu là người ngu, sao kêu là người mê, sao kêu là người ngộ. Xin đức Phật từ bi giảng dạy cho tôi được biết?
Đức Phật nói: Chữ trí là biết, người trí biết có đạo Phật cần phải tu, biết có thánh giáo cần phải học, biết có minh sư cần phải cầu. Biết có phước cần phải làm, biết có tội cần phải sám hối, cho đến biết rõ pháp thế gian, pháp xuất thế gian và sự luân hồi quả báo như trên trời có mặt nhật, như đêm tối có đèn. Được hiểu biết, được nghe thấy sự báo ứng của việc lành việc dữ, hễ hiểu biết nghe thấy rồi liền bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh. Việc phi lý không bao giờ nói, ngoài phận sự không bao giờ làm, không phải đạo chơn chánh không theo, không phải vật của mình không lấy. Tư tưởng trung chánh mỗi mỗi chơn thật, tích đức nêu danh lưu truyền đời sau, như vậy gọi là người trí thức.
Ngu là tối, người ngu cái lòng tối tăm, chẳng biết cao thấp lớn nhỏ, chẳng biết thiên đàng địa ngục, chẳng tin có tội phước luân hồi. Một bề tham luyến tửu sắc, sát sanh hại mạng để cung cấp cho cái miệng hay bao tử. Trong một đời sát sanh trăm ngàn súc vật, gây cái nợ oan trái trăm ngàn muôn ức tánh mạng, luân hồi gặp gở ăn nuốt lẫn nhau, không biết bao giờ thôi dứt. Hết thảy các loại trâu, dê, heo, ngựa đều là đòi trước hoặc kẻ thân nhân, hoặc người thù oán, sau khi luân hồi thay hình đổi dạng làm thân súc sanh. Người si mê không biết giết hại mà ăn, cũng như giết cha mẹ của mình, hay ăn thịt bà con dòng họ của mình. Cha bị con giết, con bị cháu giết, trên đường luân hồi cha con chẳng biết nhau, giết nhau ăn nhau không bao giờ dứt, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Người mê muội tham mến tửu sắc, muốn được khoái lạc, buông lung sáu căn tham mến sáu trần, làm nhiều cách điên đảo đủ điều, chỉ nhớ sự thọ dụng hiện tiền, không ngó lại thân sau chịu khổ, mê muội chơn linh đuổi theo huyễn vọng, bỏ xa tánh giác phối hợp trần duyên. Ví dù gặp bậc thánh hiền cũng không cứu độ được, chìm sâu biển khổ mất hẳn tánh linh, một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.
Chử ngộ là giác, người ngộ rồi tự hiểu biết tâm mình là Phật, mộ đạo tu hành, ba nghiệp không còn, sáu căn thanh tịnh. Phương tiện đủ cách, không có ngã nhơn, độ mình độ người đều thành Phật đạo. Tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm thế gian, ở trong trần lao mà vẫn chuyển pháp luân, giáo hóa Ta bà đổi thành Cực lạc, biến địa ngục làm thiên đường. Chỉ dẫn những người mê đặng thấy Phật tánh, làm các việc Phật pháp, độ thoát chúng hữu tình, chẳng bỏ lòng từ bi, thệ nguyện cứu độ. Nếu chúng sanh nào biết cúng dường người này thì đặng phước đức như cúng dường các Phật ba đời công đức như nhau không khác. Cớ sao vậy? Nghĩa là mình giác tỉnh rồi, độ người cùng giác tỉnh gọi là chánh giác, thuyết pháp lợi sanh, diệu dụng thần thông cùng Phật không khác. Hay mở bày chỉ rõ cho chúng sanh ngộ tri kiến Phật, hay dẫn dắt chochúng sanh nhập tri kiến Phật, hay tìm xét cho chúng sanh tánh tri kiến Phật.
Tại sao? Nếu có người biết tỉnh ngộ thì đặng danh hiệu Bồ tát, đặng thông các pháp bí mật của Phật, chơn chánh truyền thọ cho người. Nếu có người trai lành gái tín đặng thầy nghe pháp, tin theo giáo pháp của người này chỉ dạy, đều là chánh nhơn, đều đặng chánh quả. Cho nên người còn nhỏ tu hành đặng chánh pháp, liền thành Phật đạo;hai mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; ba mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; bốn mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; năm mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; sáu mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; bảy mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; tám mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo. Kẻ trai lành tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; người gái tín tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo. Người giàu sang tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; người nghèo khổ tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo. Đế vương tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; Tể quan tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo; cho đến loài người và không phải loài người tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo.
Nên Đức Thế Tôn nói bài kệ như vầy:
Bằng có nam hay nữ
Đặng gặp chơn minh sư
Tu hành đặng chánh pháp
Tất cả đều thành Phật.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, vì sao không tu thì chẳng thành Phật?
Thế Tôn nói: Không phải là không thành Phật, chỉ vì nghiệp chướng rất nhiều. Tại sao? Hết thảy chúng sanh mê muội điên đảo từ đời vô thỉ đến nay, chẳng trồng căn lành chỉ tạo ác nghiệp, oan oan buộc nhau, nghiệp nghiệp kéo nhau, bên này chẳng chịu buông bên kia, bên kia chẳng chịu tha bên này, kết thành cái lưới nghiệp dẫy đầy trong thế gian, cho nên thường vào ra ba đường lại sáu nẻo, gặp gở nhau ăn nuốt lẫn nhau, báo ứng xoay vần không bao giờ dứt. Vả như oan trái trả đủ được sanh trong loài người lại không có căn lành, không gặp chánh pháp, ví dù có gặp chăng nữa, các căn mờ tối, ma chướng chập chồng, đường đạo khó phát triển nên chẳng đặng thành chánh quả.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi: Nếu người không giữ giới sát sanh ăn thịt thì đoạn dứt hột giống từ bi; người không giữ giới trộm cắp, của người không cho mà mình lấy là đoạn tuyệt hột giống giàu sang; người không giữ giới tà mị dâm dục là đoạn tuyệt hột giống thanh tịnh; người không giữ giới nói dối, nói thêu dệt là đoạn tuyệt hột giống thành thật; người không giữ giới say rượu mê man là đoạn tuyệt hột giống thông minh trí huệ. Cho nên không giữ năm giới là tuyệt đường nhơn thiên, còn năm giới mà giữ được thời đoạn tuyệt ba đường dữ; lành dữ tại mình tạo ra mình chịu lấy.
Tại làm sao? Bởi ông tu ông đặng, bà tu bà đặng, tu nhiều đặng nhiều, tu ít đặng ít, đồng tu đồng đặng, chẳng tu chẳng đặng, ai tu đặng công nấy, người khác chia chẳng đặng. Nếu người gây tạo tội ác thì người chịu lấy, người khác chịu thế chẳng đặng; cho nên muốn tránh khỏi địa ngục, trước phải trừ cái lòng dữ; muốn tránh khỏi ngạ quỷ, trước phải đoạn dứt lòng khắc bạc tham lam; muốn tránhkhỏi súc sanh thì đừng ăn thịt súc vật; muốn đặng làm người phải học các hạnh hiếu thuận từ bi; muốn sanh cõi trời phải giữ năm giới; muốn thành Phật đạo phải minh tâm. Hễ đặng minh tâm thì nhân quả chẳng mờ tối, nhân quả chẳng mờ tối thì tự nhiên kiến tánh thành Phật, không còn nghi ngời gì nữa.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi than rằng: Lành thay! Thân người khó đặng, trung độ khó sanh, chánh pháp khó gặp, trí thức khó gần. Thân người khó đặng, nay đã đặng; trung độ khó sanh, nay đã sanh; chánh pháp khó gặp, nay đã gặp; trí thức khó gần, nay đã gần. Việc việc đầy đủ, mỗi mỗi sẵn sàng, nếu chẳng phát tâm tu hành, Phật cũng khó cứu đặng.
Bây giờ trong pháp hội các vị Tỳ kheo mới phát tâm và chúng Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, vô lượng Thiên long Bát bộ đều ngộ bổn lai Phật tánh của mình. Hết thảy công đức do nơi tâm mình mà sanh, huệ thân viên mãn cũng do nơi tâm mình mà có.
Sau khi tứ chúngnghe đức Phật nói kinh Đại Thừa Kim cang Kinh Luận này rồi, đều vui mừng hớn hở tin chịu vâng làm.
(JANAVASABHA - SUTTANTA)
I
Một thời Thế Tôn ở Nàdika (bộ lạc Na-đề-ca) tại Ginjakàvasatha (nhà làm bằng gạch). Lúc bấy giờ, Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã sống, đã từ trần và đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh như bộ lạc Kàsi (Ca-thi), Kosala (Câu-tát-la), Vajjì (Bạt-kỳ), Mallà (Mạt-la), Ceti (Chi-đề), Vansa (Bạt-sa), Kuru (Câu-lâu), Pancàla (Ban-giá-la), Maccha (Bà-sá-la) Sùrasena (Mậu-ba-Tây-na):
- Vị này sanh ra tại chỗ này! Vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdika đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh (Thiên giới) từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà, đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ tận diệt khổ đau. Hơn năm trăm vị Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được diệt trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh giác.
- Bạch Thế Tôn con có nghe: Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần, đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, Mallà, Ceti, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena: "Vị này sanh ra tại chỗ này, vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nadikà đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh giác". Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc.
Tôn giả Ananda, vì các tín đồ ở Magadha, sau khi đã trình lên trước Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ ra đi.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngó thật là an tịnh; diện sắc của Thế Tôn như là sáng chói nhờ các căn thật sự thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hôm nay an trú có được hoan hỷ không?
- Bạch Thế Tôn, còn từ trước chưa từng được nghe ai tên Janavasabha. Bạch Thế Tôn, khi con nghe tên Janavasabha, con có cảm giác râu tóc bị dựng ngược. Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ: "Vị Dạ-xoa này không phải là hạng tầm thường, vì đã mang tên Janavasabha".
“ - Bạch Thế Tôn, con là Bimbisàra! Bạch Thiện Thệ, con là Bimbisàra! Bạch Thế Tôn, nay là lần thứ bảy con được sanh vào dòng họ vua Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương). Con chết đi trong địa vị làm vua ở nhơn gian, nay được sanh trên Thiên giới, làm bậc phi nhân.
Từ đây đến bảy lần,
Từ kia đến bảy lần,
Mười bốn lần tái sanh.
Như vậy con biết được
Đời quá khứ của con.
Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú, vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai.
“- Thật hy hữu thay, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha đã nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú, vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai.” Do nguyên nhân gì Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha tự biết mình đã được địa vị cao thượng, thù thắng như vậy?”
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống Phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này.
Họ thắng về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng,
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
"Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, tín thọ, hỷ lạc sanh hơn nữa và nói: "Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt".
Các đại vương chấp nhận
Lời giảng dạy khuyến giáo.
Thanh thoát và an tịnh,
Đứng bên chỗ mình ngồi.
Theo hiện tượng được thấy,
Phạm thiên sẽ xuất hiện.
Hiện tượng đấng Phạm thiên,
Là hào quang vi diệu.
"Cũng vậy, bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói: "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy". Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý: "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng ta sẽ đi gặp vị ấy".
Chư Tam thập tam thiên
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống Phạm hạnh
Hay sanh tại cõi này.
Chúng thắng về quang sắc
Thọ mạng và danh xưng,
Đệ tử bậc Đại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên
Cùng Đế-thích hoan hỷ,
Đảnh lễ bậc Như Lai
Cùng Chánh pháp vi diệu.
"- Này Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Thế Tôn phục vụ cho hạnh phúc chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chư Thiện hữu, những ai quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và giữ trọn giới luật, những vị này khi thân hoại mệnh chung, một số được sanh lên Thiên chúng Parinimitta - Vasavati (Tha hóa tự tại thiên), một số được sanh lên Thiên chúng Nimmànaratì (Hóa lạc thiên); một số được sanh lên Thiên chúng Tusità (Đâu-suất thiên), một số được sanh lên Thiên chúng Yàmà (Dạ-ma thiên), một số được sanh lên Thiên chúng Tàvatimsà (Tam thập tam thiên), một số được sanh lên Thiên chúng Catumàràjikà (Tứ Thiên vương Thiên), những ai phải điền vào cho đủ số hạ phẩm nhất được sanh vào chúng Gandhabba (Càn-thát-bà).
Chỉ một Phạm thiên nói,
Mọi hóa thân đều nói,
Chỉ một vị im lặng,
Tất cả đều im lặng.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Đế-thích nghĩ rằng:
Chỉ vị ngồi chỗ ta,
Chỉ vị ấy riêng nói.
"- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Bốn pháp thần túc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Cháng Đẳng Giác, khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Thế nào là bốn? Ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu dục, Thiền định tinh cần hành... tinh tấn Thiền định... tâm Thiền định... tu tập thần túc, câu hữu với tư duy Thiền định, tinh cần hành. Bốn pháp thần túc này đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ đã thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và pháp triển thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai sẽ thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều sẽ tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị có thấy ở nơi tôi thần lực như vậy không?
"- Có như vậy, Phạm thiên!
"- Chư Thiện hữu, tôi nhờ tu tập và phát triển bốn thần túc này mà nay thành tựu đại thần lực như vậy, đại uy đức như vậy.
"- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là ba?
"Chư Thiện hữu, ở đây có người thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp. Sau một thời gian, vị nào được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Và khi nghe được Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp vị này sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp. Nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, như từ thoải mái, hỷ duyệt sanh, cũng vậy, chư Thiện hữu nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ nhất hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ.
"Chư Thiện hữu, đó là ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ.
"- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Bốn Niệm xứ hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là bốn? Chư Thiện hữu, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán thân trên nội thân vị này được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi đối với các thân khác ngoài tự thân. Vị Tỷ-kheo sống quán các cảm thọ từ nội thân... quán tâm... quán pháp đối với các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán pháp đối với các pháp, tâm được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi, đối với các pháp khác.
"Chư Thiện hữu, bốn Niệm xứ này hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ".
"- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào về bảy pháp Định tư lương (Sa-màdhi-parikkhàrà) để tu hành chánh định, để kiện toàn Thiền định, đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh đẳng Giác chứng ngộ? Thế nào là bảy? Như chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Chư Thiện hữu, nhứt cảnh tánh của tâm do bảy chi này sửa soạn, được gọi là thánh chánh định cùng với các y chỉ và cùng với các tư lương. Chư Thiện hữu, chánh tư duy vừa đủ để chánh tri kiến sanh khởi, chánh ngữ vừa đủ để chánh tư duy sanh khởi, chánh nghiệp vừa đủ để chánh ngữ sanh khởi, chánh mạng vừa đủ để chánh nghiệp sanh khởi, chánh tinh tấn vừa đủ để chánh mạng sanh khởi, chánh niệm vừa đủ để chánh tinh tấn sanh khởi, chánh định vừa đủ để chánh niệm sanh khởi, chánh trí vừa đủ để chánh định sanh khởi, chánh giải thoát vừa đủ để chánh trí sanh khởi.
"Chư Thiện hữu, nếu có người nói lời chánh ngữ sau đây: "Chánh pháp đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở". Nói như vậy là chánh ngữ. Chư Thiện hữu, vì Chánh pháp thật sự đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở.
"Chư Thiện hữu, những ai tin tưởng Phật không có thối chuyển, tin tưởng Pháp không có thối chuyển, tin tưởng Tăng không có thối chuyển, đầy đủ giới hạnh khiến bậc Thánh hoan hỷ, tất cả những vị được hóa sanh được Chánh pháp hướng dẫn, hơn hai trăm bốn mươi vạn vị cư sĩ ở Magadha đã từ trần mệnh chung, những vị này đều diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn đọa vào ác thú, chắc chắn đạt đến chánh giáo. Lại có những vị Nhất lai:
Với hạng chúng sanh này
Ước lường phần công đức.
Không thể ước lượng được
Sợ phạm tội vọng ngữ.
"Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra tự tâm mình biết được tâm trí của đại vương Vessavana như vậy, liền thưa với đại vương:
"- Đại vương Vessavana nghĩ như thế nào? Trong thời quá khứ đã có một Đại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, đã được trình bày một con đường đặc biệt như vậy... Trong thời tương lai, sẽ có một Đại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, sẽ được trình bày một con đường đặc biệt như vậy".
Thích Minh Châu
________________________________________________
>>> 17. Kinh đại thiện kiến vương
Đại Tạng Kinh Nhập Môn là một tặng phẩm vô giá cho những ai muốn tìm hiểu một cách tổng quát về Tam Tạng Kinh Điển của Phật Giáo. Dĩ nhiên, đây chưa phải là tác phẩm trình bày đầy đủ về Đại Tạng, nhưng như bản hoài của Hiệp Hội Truyền Giáo, chắc chắn trong một tương lai không xa, những tác phẩm tương tự sẽ tiếp tục xuất bản để đáp ứng thỏa đáng những khát vọng tu học chân chính của mọi Phật tử.
Gần đây, có một số tôn đức đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Hy vọng trong một tương lai gần, những giấc mơ chánh đáng sẽ biến thành hiện thực.
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka).
Mục lục
Đôi Lời Của Dịch Giả
Lời Nói Đầu
Phụ Lục: Nguồn Gốc Đại Tạng Kinh
1/ Thành Lập Tam Tạng và Sự Phân Rẽ Giáo Đoàn Phật Giáo
2/ Kinh Điển Pa-Li Ngữ
3/ Kinh Điển Phật Giáo Đại Thừa
4/ Phật Giáo Trung Hoa
5/ Phật Giáo Nhật Bổn
6/ Xuất Bản Đại Tạng Kinh Hán Dịch
7/ Dịch Đại Tạng Kinh Sang Anh Ngữ
Phần I: Kinh Điển Ấn Độ
1/ Trường A Hàm Kinh D́ghàgama
2/ Trung A Hàm Kinh Madhyamàgama
3/ Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh
4/ Phật Sở Hành Tán Buddhacarita
5/ Tạp Bảo Tạng Kinh
6. Pháp Cú Ví Dụ Kinh
7/ Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh Astạsàhasrikà-Prajnăpàramità-sùtra
8/ Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Vajracchedikà - prajnăpàramità-sùtra
9/ Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Ma Dà Kinh Adhyardhásatikà – prajnăpàramita – sùtra
10/ Nhơn Vương Bát Nhã Ba Ma Mật Kinh Kàrunịkàràjà – prajnăpàramità – sùtra
11/ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Prajnăpàramitatàhrdaya – sùtra
12/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Saddharmapundạrika – sutra
13/ Vô Lượng Nghĩa Kinh
14/ Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Pháp Kinh
15/ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Avatạmasaka – sùtra
16/ Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh Sŕmàlàdev́sịmhanàda – sùtra
17/ Vô Lượng Thọ Kinh Sukhàvatìvyùha
18/ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Amitàyurdhyàna-sùtra
19/ A Di Đà Kinh Sukhàvatìvyùha
20/ Đại Bát Niết Bàn Kinh Mahàparinirvànạ – sùtra
21/ Phật Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh
22/ Đại Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Ksịtigarbhapranịdhàna – sùtra
23/ Bát Châu Tam Muội Kinh Pratyutpannabuddhasammukhà – vasthitasamàdhi – sùtra
24/ Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức Kinh Bhaisạyaguruvaidùyaprabhàsap Ùrvapranidhànavisésạvistara
25/ Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh Maitreyavyàkarana
26/ Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh Mãnjusrìpariprcchà
27/ Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Vimalaḱrtinirdésa-sùtra
28/ Nguyệt Thượng Nữ Kinh Candrottaràdàrikàpariprcchà
29/ Tọa Thiền Tam Muội Kinh
30/ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh Yogàcàrabhùmi – sùtra
31/ Nguyệt Đãng Tam Muội Kinh Samàdhiràjacandraprad́pa-sùtra
32/ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh Sùrangamasamàdhi-sùtra
33/ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Suvarnạprabhàsa-sùtra
34/ Nhập Lăng Ǵa Kinh Lankàvatàra-sùtra
35/ Giải Thân Mật Kinh Sạmdhinirmaocana-sùtra
36/ Vu Lan Bồn Kinh Ullambana-sùtra
37/ Tứ Thập Nhị Chương Kinh
38/ Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh
39/ Đại TÌ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Mahàvairocanàbhisambodhivikur Vitàdhisthànavaipulyasùtrendra Ràja-nàma-dharmaparyàya
40/ Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương KinhSarvatathàgatatattvasamgrahama Hàyànàbhisamayamahàkalparàya
41/ Tô Tất Địa Yế La Kinh Susiddhikaramahàtantrasàdhano pàyika-patạla
42/ Ma Đãng Già Kinh Màtangì-sutrà?
43/ Ma Ha Tăng Chỉ Luật Mahàsàmghika-vinaya?
44/ Tứ Phần Luật Dharmaguptaka-vinaya?
45/ Thiện Kiến Luật TÌ Bà Sa Samantapàsàdikà (Pàli)
46/ Phạm Vơng Kinh Brahmajàla-sùtra?
47/ Ưu Bà Tắc Giới Kinh Upàsakásila-sùtra?
48/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Bà Đề Xá Saddharmapundaŕkopadésa
49/ Thập Trụ TÌ Bà Sa Luận Dásabhùmika-vibhàsa
50/ Phật Địa Kinh Luận Buddhabhùmisùtra-sàstra?
51/ A Tỡ Đạt ma Câu Xá Luận Abhidharmakósa-bhàsya
52/ Trung Luận Madhyamaka-sàstrra
53/ Du Già Sư Địa Luận Yogàcàrabhùmi
54/ Thành Duy Thức Luận Vijnăptimàtratàsddhi-sàstra?
55/ Duy Thức Tam Thập Luận Tụng Trimsíkà
56/ Duy Thức Nhị Thập Luận Vimsátikà
57/ Nhiếp Đại Thừa Luận Mahayànasamgraha
58/ Biện Trung Biện Luận Madhyàntavibhàga
59/ Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Mahàyànasùtralamkàra
60/ Đại Thừa Thành Nghiệp Luận Karmasiddhiprakarana
61/ Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận Ratnagotravibhàgamahayànottaratantra-sàstra
62/ Nhơn Minh Nhập Chánh Lý Luận Nyàyapravésa
63/ Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận Síksàsamuccaya
64/ Kim Cang Châm Luận Vajrasùcì
65/ Chương Sở Tri Luận
66/ Bồ Đề Hành Kinh Boddhicaryàvatàra
67/ Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát a Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận
68/ Đại Thừa Khởi Tín Luận Mahàyànásraddhotpàda-sàstra?
69/ Thích Ma Ha Diễn Luận
70/ Na Tiên Tỳ Kheo Kinh Milindapănhà
Phần II: Kinh Điển Trung Hoa
71/ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Táng
72/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa
73/ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ
74/ Tam Luận Huyền Nghĩa
75/ Đại Thừa Huyền Luận
76/ Triệu Luận
77/ Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương
78/ Nguyên Nhơn Luận
79/ Ma Ha Chỉ Quán
80/ Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu
81/ Thiên Thai Tứ Giáo Nghi
82/ Quốc Thanh Bách Lục
83/ Trấn Châu Lâm Tế Huệ Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục
84/ Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục
85/ Vô Môn Quan
86. Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh
87/ Tín Tâm Minh
88/ Hoàng Bá Sơn Đoạn Tế Thiền Sư Truyền Tâm Pháp Yếu
89/ Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca
90/ Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
91/ Di Bộ Tông Luân Luận Samayabhedo
92/ A Dục Vương Kinh Asokaràja-sùtra
93/ Mã Minh Bồ Tát Truyện
94/ Long Thọ Bồ Tát Truyện
95/ Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện
96/ Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện
97/ Cao Tăng Truyện
98/ Tỳ Kheo Ni Truyện
99/ Cao Tăng Pháp Hiển Truyện
100/ Đại Đường Tây Vực Ký
101/ Đường Đại Ḥa Thượng Đông Chinh Truyện
102/ Hoằng Minh Tập
103/ Pháp Uyển Châu Lâm
104/ Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện
105/ Phạn Ngữ Tạp Danh
Phần III: Kinh Điển Nhật Bổn
106/ Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ
107/ Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ
108/ Pháp Hoa Nghĩa Sớ
109/ Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện
110/ Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thần Chương
111/ Quán Tâm Giác Mộng Sao
112/ Luật Tông Cương Yếu
113/ Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập
114/ Hiển Giới Luận
115/ Sơn Gia Học Sinh Thức
116/ Bí Tàng Bảo Thược
117/ Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận
118/ Tức Thân Thành Phật Nghĩa
119/ Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa
120/ Nghĩa Chữ “Hùm”
121/ Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích
122/ Mật Nghiêm Viện Phát Lộ Sám Hối Văn
123/ Hưng Thiền Hộ Quốc Luận
124/ Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi
125/ Chánh Pháp Nhăn Tàng
126/ Tọa Thiền Dụng Tâm Ký
127/ Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập
128/ Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại
129/ Thán Dị Sao
130/ Liên Như Thượng Nhơn Ngự Văn
131/ Vãng Sanh Yếu Tập
132/ Lập Chánh An Quốc Luận
133/ Khai Mục Sao
134/ Quán Tâm Bổn Tôn Sao
135/ Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh
136/ Bát Tông CươngYếu
137/ Tam Giáo Chỉ Qui
138/ Mạt Pháp Đãng Minh Ký
139/ Thập Thất Điều Hiến Pháp
Đôi Lời Của Dịch Giả
Đại Tạng Kinh hiện là một kho tàng pháp bảo vô giá của Phật giáo. Lẽ ra, với một kho tàng pháp bảo vô giá như thế, Đại Tạng Kinh này cần và đã phải được dịch sang Việt ngữ từ lâu, nhưng rất tiếc, vì hoàn cảnh chiến tranh, lệ thuộc, áp bức, v.v... mà mãi đến nay Đại Tạng Kinh ấy vẫn chưa được chuyển dịch trọn vẹn sang Việt ngữ; trong khi đó, một số các quốc gia khác như Đại Hàn, Nhật Bổn, Trung Hoa, v.v... đều đã có từ lâu một bộ Đại Tạng được phiên dịch sang tiếng mẹ đẻ của họ, chẳng những thế, họ còn bỏ công nghiên cứu và tóm lược nội dung của toàn bộ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng nhằm giới thiệu đến mọi tầng lớp Phật tử như tác phẩm giá trị này chẳng hạn.
Sự vắng bóng của một bộ Đại Tạng bằng tiếng mẹ đẻ là một thiếu sót lớn đối với Phật Giáo Việt Nam và không những thế, còn là một thiệt tḥi không kém cho những ai muốn nghiên tầm toàn bộ tư tưởng Phật giáo nhưng không đủ khả năng ngoại ngữ.
Như nêu trên, Đại Tạng Kinh Nhập Môn là một tặng phẩm vô giá cho những ai muốn tìm hiểu một cách tổng quát về Tam Tạng Kinh Điển của Phật Giáo. Dĩ nhiên, đây chưa phải là tác phẩm trình bày đầy đủ về Đại Tạng, nhưng, như bản hoài của Hiệp Hội Truyền Giáo, chắc chắn trong một tương lai không xa, những tác phẩm tương tự sẽ tiếp tục xuất bản để đáp ứng thỏa đáng những khát vọng tu học chân chính của mọi Phật tử.
Gần đây, có một số tôn đức đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Hy vọng trong một tương lai gần, những giấc mơ chánh đáng sẽ biến thành hiện thực.
Trong khi chờ đợi một Đại Tạng bằng Việt ngữ xuất hiện, chung ḥa với niềm thao thức của mọi người, chúng tôi cố gắng chuyển dịch quyển Đại Tạng Kinh Nhập Môn giá trị này như là một đóng góp nhỏ trong việc truy cứu cần thiết cho những ai đã, đang, và sẽ khát cầu giáo pháp như thật của đức Phật. Dù tự biết khả năng hữu hạn, thời lượng eo hẹp, dịch giả vẫn cố gắng phiên dịch trong tinh thần thượng cầu hạ hóa. Rất mong các bậc cao minh bi mẫn bổ chính.
Tất cả công đức nếu có trong phần dịch thuật, xin hồi hướng lên mười phương Chư Phật để cầu nguyện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sớm được phục hoạt nhằm tiếp tục sứ mệnh thiêng liêng cao cả của mình đối với dân tộc và nhân sinh.
Cầu nguyện mọi loài có được đời sống an lành trong ánh hào quang nhiệm mầu của chánh pháp.
Cẩn bút,
Thích Viên Lư
Tu viện Bảo Pháp
Mùa Báo Hiếu PL 2543 – 1999
Lời Nói Đầu
Hiệp Hội Truyền Đạo Phật Giáo là một tổ chức không phân biệt tông phái chuyên chú vào việc hoằng dương Phật Pháp trên khắp thế giới, và, với mục đích này Hiệp Hội đã thi hành những hoạt động truyền đạo, bao gồm cả việc soạn thảo và lưu hành giáo lý của Đức Phật.
Trong số những hoạt động này, Hiệp Hội đã quyết định thực thi mọi công trình mới: phiên dịch sang Anh ngữ toàn bộ Hán dịch của Đại Tạng Kinh. VÌ vậy, một Ủy Ban Chuẩn Bị đã được thành lập vào tháng Tư năm 1982 để hoạch định những phối trí sơ khởi. Năm 1983, một Ủy Ban Biên soạn cũng theo đó thành lập, và từ đó công trình đã được tiến hành một cách nhiệt thành.
Việc dịch sang Anh ngữ và ấn loát Đại Tạng Kinh, mà muốn hoàn thành chỉ trong một thời gian ngắn thì quả thật là một việc khó khăn. Vì vậy, Hiệp Hội đã quyết định tuyển chọn 139 kinh điển Phật giáo đã được soạn ở Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản để lập thành Bộ Thứ Nhứt gồm 100 tập, để phiên dịch và sẽ xuất bản vào cuối năm 2000.
Mục đích của cuốn sách này là cung cấp những bài giới thiệu ngắn gọn về nội dung của 139 kinh điển đã được chuyển chọn, với hy vọng giúp độc giả hiểu tại sao những kinh điển đó đã được tuyển chọn cho Bộ Thứ Nhứt.
Chúng tôi thành tâm cầu mong rằng công trình lớn lao này sẽ không chấm dứt ở Bộ Thứ Nhứt, mà sẽ tiếp tục tới cùng và sẽ hoàn thành vào thời gian sớm nhất.
Sau cùng, tôi xin bày tỏ sự tri ân đối với Tiên Sinh S. R. Giebel vì đã phụ trách việc dịch cuốn sách này sang Anh ngữ.
Hoa Sơn Thắng Hữu
(Chủ Tịch Ủy Ban phiên dịch Đại Tạng
Kinh sang Anh ngữ Tháng 8 năm 1984)
Phụ Lục: Nguồn Gốc Đại Tạng Kinh
Thành Lập Đại Tạng Kinh Ngôn của Đức Phật Thích Ca.
Trong suốt thời gian 45 năm, từ lúc giác ngộ năm 35 tuổi cho tới khi nhập diệt năm 80 tuổi, Đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng giáo lý của ngài một cách liên tục. Lời giảng của ngài được ứng dụng tùy theo khả năng lănh hội và hoàn cảnh của người nghe, giống như phương thuốc được ứng dụng thích hợp với nhu cầu của bệnh nhân. Kết quả là những kinh điển ghi chép lại ngôn giáo của ngài đã đạt tới số lượng rất lớn.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển. Họ đã bàn luận suốt mấy tháng để bảo đảm không có những sai lầm khi nhớ lại những lời giảng mà các vị thánh tăng đã được nghe từ Đức Phật. Kết quả của công việc đó là toàn bộ giáo lý được chính thức kết tập, làm căn bản cho những kinh điển được viết ra sau này.
1/ Thành Lập Tam Tạng và Sự Phân Rẽ Giáo Đoàn Phật Giáo
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
2/ Kinh Điển Pa-Li Ngữ
Về sau, đạo Phật của phái Thượng Tọa Bộ bảo thủ được truyền bá sang Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và những xứ khác trong vùng Đông Nam Á. Bộ kinh này được gọi là “Pa-li Văn Đại Tạng Kinh” (vì viết bằng tiếng Pa-li) gồm ba phần kinh, luật và luận. Tạng kinh tiếng Pa-li này đã được các học giả Tây phương chú ý tới, khi họ bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo, và đã có nhiều sách bình luận và sách dịch kinh điển Phật giáo sang Anh ngữ đã được xuất bản ở Anh Quốc. Bản dịch Đại Tạng Pa-li sang Nhật ngữ, nhan đề là “Nam Truyền Đại Tạng Kinh” (Nanden-daizokyo) đã dùng bản Anh dịch này để tham khảo và đã được xuất bản ở đầu Thời Đại Chiêu Ḥa, năm 1930.
3/ Kinh Điển Phật Giáo Đại Thừa
Phái Đại Chúng Bộ có tinh thần cấp tiến đã tự xưng là “Mahayana” (“Đại Thừa,” “Cỗ Xe Lớn”) và phát triển bộ giáo lý của họ. Phái này bác bỏ những hình thức Phật giáo khác và gọi phái kia là “Hinayana” (“Tiểu Thừa,” “Cỗ Xe Nhỏ”), và thật ra nó giống như một phong trào quần chúng có mục đích thu hút quảng đại quần chúng ngả theo giáo lý của họ. Trong số kinh điển của phái Đại Thừa có những kinh sách thuộc Đại Tạng Pa-li ngữ, nhưng những sách nói về chủ trương thì phản ảnh sự phát triển và hệ thống hóa những lý thuyết của các tông phái Trung Quán (Madhyamika), Duy Thức (Yogacara) và Như Lai Tạng (Tathagatagarbha). Sau này xuất hiện tông phái Mật Giáo, và dần dần Phật Giáo đã biến khỏi mảnh đất Ấn Độ.
4/ Phật Giáo Trung Hoa
Phật giáo đã du nhập vào Trung Hoa qua ngă Trung Á, và tới thế kỷ thứ nh́ sau Tây lịch kinh điển Phật giáo đã được dịch sang Hán văn. Đặc điểm của Phật giáo Trung Hoa là vai trò quan trọng của việc phiên dịch kinh sách; nhiều vị tăng sĩ nổi tiếng kiêm dịch giả, như Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Chân Đế (Paramartha), Bất Không (Amoghavajra), Huyền Trang, v.v..., đã xuất hiện. VÌ quư ngài tinh thông tất cả ba ngành kinh, luật và luận của Đại Tạng Kinh nên được tôn xưng là “Tam Tạng Pháp Sư.”
Việc phiên dịch cần phải qua sự lý giải, cho nên, trong bản Hán dịch có những phần dẫn giải mà người ta không thấy trong Phật giáo Ấn Độ. Trong Đại Tạng Kinh bằng Hán văn, có những trường hợp có vài bản dịch của các dịch giả khác nhau, và ngày càng có nhiều tác phẩm viết bằng Hán văn. Để tránh trùng nhau, các triều đình Trung Hoa đã vài lần ban sắc lệnh biên soạn Đại Tạng Kinh. Vào những thời kỳ sơ khai, kinh điển được sao chép bằng tay, nhưng tới thời nhà Tống thì được in bằng cách khắc chữ vào gỗ.
5/ Phật Giáo Nhật Bổn
Phật giáo được truyền vào Nhật Bổn qua ngă Trung Hoa và Cao Ly, do đó việc nghiên cứu những kinh điển chính gốc chỉ bắt đầu từ Thời Đại Minh Trị. Trước thời kỳ này, người Nhật đã dùng kinh điển Hán dịch làm cơ sở, điều đó khiến cho Phật giáo Nhật Bổn có những khác biệt đáng kể đối với Phật giáo Ấn Độ. Họ chủ yếu dùng Đại Tạng Kinh nhập cảng từ Trung Hoa, nhưng tới đầu Thời Đại Giang Hộ (Edo) có một tăng sĩ tên là Thiết Nhãn (Tetsugen) đã dùng những bản Hán dịch làm hướng dẫn để xuất bản Đại Tạng Kinh bằng Nhật văn theo lối chữ “Huỳnh Bá” (Obaku).
Kể từ Thời Đại Minh Trị, Nhật Bổn chịu nhiều ảnh hưởng của các học giả Tây phương, đồng thời họ cũng gia công nghiên cứu những kinh điển chính gốc. Những kinh sách nguyên bản bằng tiếng Pa-li văn và Phạn văn đã được dịch sang Nhật văn và phổ biến trong quảng đại quần chúng, và người Nhật đã dịch Đại Tạng Kinh Pa-li văn (Nam Truyền Đại Tạng Kinh) như đã nói ở phần trên. Trong thời gian gần đây người Nhật cũng chú ý nhiều tới Phật giáo Tây Tạng.
Phật giáo Tây Tạng – được truyền vào từ Ấn Độ ở thế kỷ thứ 7 – có màu sắc Mật Tông rất sâu đậm, và có khi được gọi là Lạt-Ma giáo. Một số lớn kinh điển Phật giáo Ấn Độ đã được dịch sang tiếng Tây Tạng, về sau trở thành “Đại Tạng Kinh Tạng Văn.” Cho tới nay người ta chưa tìm thấy ở Ấn Độ một bộ kinh điển Phật giáo nào đã được hệ thống hóa, cho nên Đại Tạng Kinh Tạng Văn – được dịch một cách trung thực từ bản gốc – là nguồn tư liệu rất quan trọng. Từ Thời Đại Minh Trị, thậm chí một số học giả Phật tử Nhật Bổn, như Hà Khẩu Huệ Hải (Kawaguchi Ekai), đã đến tận Tây Tạng để tầm cầu những kinh điển chính gốc.
6/ Xuất Bản Đại Tạng Kinh Hán Dịch
Do ảnh hưởng những cuộc nghiên cứu kinh điển gốc, vài ấn bản mới của Đại Tạng Kinh Hán dịch đã được xuất bản ở Nhật Bổn vào cuối thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20. Sau đó tới việc xuất bản “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh” (Taisho shinshu daizokyo) vào thời kỳ từ năm 1924 tới năm 1934. Đây là tạng kinh được tham khảo và so sánh kỹ lưỡng với tạng kinh Cao Ly và những kinh sách xuất bản trước đó, để mong đạt tới một tạng kinh chính xác và đáng tin cậy nhất. Chính tạng kinh này ngày nay được Phật giáo thế giới sử dụng nhiều nhất.
7/ Dịch Đại Tạng Kinh Sang Anh Ngữ
Dùng Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh nói trên làm bản gốc, nay Hiệp Hội Truyền Đạo Phật Giáo quyết định dịch Đại Tạng Kinh Hán Văn sang Anh văn. Việc lý giải là phần không thể thiếu của công trình dịch thuật, và việc thực hiện một bản dịch hết sức trung thực với nguyên bản là công việc có nhiều khó khăn. Nhưng bổn phận của Phật tử là cần phải cung cấp cho mọi người khắp nơi trên thế giới những kinh sách Phật giáo dễ đọc. Trong dự án hiện thời, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh những phán đoán do ảnh hưởng giáo phái và những thiên kiến khác, và, chúng tôi vững tin rằng bản dịch sang Anh văn, mà ngày nay vẫn còn nhiều phần chưa được khai phá, với mục ̣đích hoằng dương Phật pháp khắp thế giới, là một công trình lớn lao và đầy ý nghĩa.
Ư nguyện của chúng tôi là tiếp tục những nổ lực của mình để cống hiến cho thế nhân một bản Đại Tạng Kinh Phật Giáo – từng có một lịch sử dài như đã nói sơ lược trên đây – ở hình thức dễ hiểu.
Phần I Kinh Điển Ấn Độ
1/ Trường A Hàm Kinh D́ghàgama
22 quyển Do Phật Đà Da Xá (Buddhayásas) và Trúc Phật Niệm (Chu pho-nien) cùng dịch Đại Chánh Tạng Kinh Số 1.
Đây là một trong những kinh điển Phật giáo xưa nhất, và bao gồm một số lớn những giáo lý được coi là do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Vì nó chứa đựng những kinh điển tương đối dài hơn cho nên được gọi là “Trường A Hàm Kinh.”
Trong Hán dịch còn có Trung A Hàm Kinh (tham chiếu số 2), Tăng Nhứt A Hàm Kinh, Tạp A Hàm Kinh 3 loại, toàn bộ gọi là “Tứ A Hàm.” Ngoài ra, trong kinh điển tiếng Pa-li do các nước ở phương Nam thuộc hệ phái Nguyên Thủy lưu truyền, được chia thành 5 bộ: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ, và Tiểu Bộ.
Hai mươi hai quyển của Trường A Hàm Kinh bao gồm 30 kinh (sutra), và căn cứ vào nội dung thì chúng có thể được chia thành 4 phần.
- Phần thứ nhứt gồm 4 kinh (từ quyển 1 tới quyển 5), nói về những công đức của Phật, bắt đầu từ sự tích của 7 vị Phật trong quá khứ.
- Phần thứ nh́ gồm 15 bài kinh (từ quyển 6 tới quyển 12), nói về sự tu hành của Phật giáo và những vấn đề giáo lư.
- Phần thứ ba gồm 10 bài kinh (từ quyển 13 tới quyển 17), đề ra và phê phán nhiều giáo lý khác nhau trong các phái triết học và tôn giáo thịnh hành đương thời không thuộc Phật giáo, và được gọi chung là “62 Kiến.”
- Phần thứ tư và cuối cùng khác biệt hoàn toàn với ba phần trên và chỉ bao gồm một bài kinh duy nhất (từ quyển 18 tới quyển 22), được gọi là “Thế Kỷ Kinh”, mô tả chi tiết về những khởi nguyên và tình trạng của những thế giới khác nhau, trong đó có thế giới loài người mà nhân loại du nhập trong chu kỳ luân hồi sanh tử.
2/ Trung A Hàm Kinh Madhyamàgama
60 quyển Do Cồ Đàm Tăng Già Đề Bà (Gautama Sanghadeva) dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 26.
Đây là một trong những kinh điển Phật giáo xưa nhất, tương đương với Trung Bộ Thánh Điển viết bằng Pa-li ngữ của Phật giáo Nam tông, trong bản Hán dịch bao gồm 222 bài kinh. VÌ những bài kinh này có chiều dài trung bình , cho nên toàn bộ được gọi là “Trung A Hàm Kinh.”
Tuy rằng hầu hết 152 kinh trong thánh điển Pa-li ngữ có chiều dài trung bình , nhưng những kinh trong bản Hán dịch có chiều dài khác nhau, từ những kinh rất ngắn cho tới những kinh khá dài.
Nội dung trong các kinh rất khác nhau, chẳng hạn như nói về những lời và hành vi của Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của ngài, về các giáo nghĩa căn bản của Phật giáo nguyên thủy như Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, v.v…, và nhiều ngụ ngôn khác nhau. Toàn bộ được phân chia thành 18 kinh, được gọi là “thập bát chương.”
Trong Hán dịch, ngoài Trung A Hàm còn có Trường A Hàm (số 1), Tăng Nhứt A Hàm (Đại Chánh Tạng Kinh số 125), Tạp A Hàm (Đại Chánh Tạng Kinh số 99), được gọi chung là “Tứ A Hàm.”
Nội dung của bản Hán dịch Tứ A Hàm và 5 bộ Pa-li ngữ đã không có sự đồng nhất mà giữa hai bản lại có nhiều sai biệt đáng kể.
3/ Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh
8 quyển. Do Bát Nhã (Prajna) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 159.
Kinh này cũng được gọi vắn tắt là “Tâm Địa Quán Kinh”, chủ yếu bàn về cách tu trì Phật Pháp để đạt tới giác ngộ. VÌ mục tiêu này, cần phải xuất thế, trở thành tu sĩ và tìm nơi thanh tịnh, và trọng yếu nhất là dập tắt những ngọn lửa của tất cả dục vọng trong tâm, cái tâm này chính là nguồn gốc tối hậu của vạn sự vạn vật. Chữ “tâm địa” là một từ ngữ ẩn dụ ví trái tim con người – nguồn gốc của tất cả những trạng thái thanh khiết hoặc nhơ bẩn – giống như mặt đất có thể sinh sản mọi thứ sinh vật.
Kinh này bao gồm 13 chương, chủ yếu mô tả cách tu tập và giới luật của tăng sĩ. Tuy nhiên, Chương 2, gọi là “Báo Ân Phẩm,” nói về những bổn phận đối với cha mẹ, chúng sanh, quốc vương, tam bảo (Phật, Pháp, Tăng); vì thế, ở Nhật Bổn bộ kinh này thường được đại chúng đọc tụng.
4/ Phật Sở Hành Tán Buddhacarita
5 quyển Do Đàm Vô Sám (T’an-wu-ch’an) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 192.
Kinh sách này là tiểu sử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni do Mã minh (Asvaghosa) – một thi sĩ Phật giáo vĩ đại của thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch – soạn thảo.
Nguyên bản Phạn văn bắt đầu từ lúc Đức Phật đản sanh, và mô tả thời niên thiếu và những ưu tư tinh thần của ngài, và chấm dứt với sự tích ngài gián phục ác ma (mara); nhưng, trong bản Hán dịch có nói cả đến quảng đời sau đó của ngài, do đó, bản này là tiểu sử đầy đủ của Đức Phật. Tuy nhiên, phần bổ túc đó không phải là do các nhà soạn kinh sách ở Trung Hoa thêm vào mà chỉ là phần đã bị thất lạc từ bản Phạn văn nguyên thủy.
Bản tiểu sử này là một tác phẩm tiêu biểu của văn chương Phật giáo, nhưng nếu dùng nhăn quan văn đơn thuần mà nói thì bản Hán dịch – tuy được viết theo thể thơ – vẫn có sự thiếu sót.
5/ Tạp Bảo Tạng Kinh
10 quyển. Do Cát Ca Dạ (Kimkarya) và Đàm Dướt (T’an-yao) cùng dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 203.
Kinh này là một tuyển tập gồm 121 mẩu chuyện nói về thời kỳ bắt đầu từ thời của Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của ngài, và chấm dứt với vương triều của Vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska).
Trong số các mẩu chuyện, trong quyển số 9 có kể chuyện Tỳ Kheo Na Ca Na (Nagasena) giáo hóa và đã khiến cho Vua (Milanda) qui y đạo Phật như thế nào. Nổi tiếng nhất là quyển số 7, trong đó kể lại tình thân hữu giữa Vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska) và Mã Minh Bồ Tát (Asvaghosa).
Ngoài những chuyện đó còn có một số lớn những mẫu chuyện khác căn cứ vào những sự kiện lịch sử, nhưng xét theo nội dung – chẳng hạn như sự xuất hiện của Ca Nị Sắc Ca Vương (Kanniska) thì rõ ràng là bản kinh này được biên soạn sau thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch.
6/ Pháp Cú Ví Dụ Kinh
4 quyển. Do Pháp Cự (Fa-chu) và Pháp Lập (Fa-li) cùng dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 211.
Kinh này căn cứ vào bản Hán dịch của Kinh Pháp Cú (Dhammapada), từ đó khoảng hai phần ba những pháp kệ đã được tuyển chọn để chú giải. Trên đầu mỗi chương có trích dẫn một số câu kệ, theo sau là những câu chuyện kể lại những sự việc liên quan tới căn nguyên của mỗi câu kệ.
Bản tiếng Pa-li của Pháp Cú Kinh bao gồm tất cả 423 câu kệ, và, ngoài ra còn có một số lời chú giải nói về những câu chuyện và ngụ ngôn liên quan tới mỗi câu kệ. Trong bản Hán dịch, 250 câu kệ đã được thêm vào 500 câu có sẵn, như vậy tổng cộng là 750 câu, trong số đó hai phần ba được nói tới trong bản “Pháp Cú Ví Dụ Kinh” này.
7/ Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh Astạsàhasrikà-Prajnăpàramità-sùtra
10 quyển. Do Cưu Ma La Thập dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 227.
Kinh này thuộc một nhóm tên là “Bát Nhã Ba La Mật Kinh” (Prajnaparamita-sutra), vì chỉ có 10 quyển nên được gọi là “Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh”, còn 27 quyển khác cũng do ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Bát Nhã Ba La Mật Kinh được gọi là “Đại Phẩm Bát Nhã Kinh.”
Ở Nhật Bổn, vì chịu ảnh hưởng 600 quyển “Đại Bát Nhã Kinh” do Huyền Trang dịch và bộ “Đại Phẩm Bát Nhã Kinh” nói trên do Cưu Ma La Thập dịch, cho nên công việc nghiên cứu bản “Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh” này đã bị thờ ơ.
Trên đại thể, bản kinh này chú trọng vào ý niệm “không” (sunyata), chủ đề chính của Bát Nhã Ba La Mật.
Nội dung của nó trùng hợp với một phần của Đại Bát Nhã Kinh, và thật sự là đã có một số những bản Hán dịch khác, như “Đạo Hạnh Bát Nhã Kinh,” “Đại Minh Độ Kinh,” “Ma Ha Bát Nhã Sao Kinh,” “Phật Mẫu Xuất Sanh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh,” v.v...
8/ Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Vajracchedikà - prajnăpàramità-sùtra
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Tạng Kinh số 235. Ngoại trừ “Bát Nhã Tâm Kinh” (số 11) trong “Bát Nhã Kinh Điển”, đây là bản kinh được đại chúng đọc tụng nhiều nhất, đặc biệt là Thiền Tông đã đánh giá bản kinh này rất cao.
Kinh này được gọi vắn tắt là “Kim Cang Kinh”, nói chi tiết về khái niệm rằng tất cả hiện tượng và sự vật nào tồn hữu trong thế gian này cũng đều không có thực thể, do đó chúng không hề có cái “ngă.”
Chữ “kim cang” trong nhan đề chẳng phải là dùng để chỉ kim cương hột xoàn hoặc loại vũ khí “kim cang trủy” mà là một ẩn dụ dùng để nói về thứ ǵ kiên cố, bền lâu, do đó, nó có nghĩa là “tối thượng” hoặc “tối thắng.” Cũng nên nói thêm rằng “Bát Nhă” là chữ dùng để nói về trí huệ viên mãn của Phật Đà.
9/ Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Ma Dà Kinh Adhyardhásatikà – prajnăpàramita – sùtra
1 quyển. Do Bất Không (Amoghavajra) dịch. Đại Chánh Tạng Kinh số 243.
Nhan đề kinh này thường được gọi tắt là “Lý Thú Kinh” hoặc “Bát Nhã Lý Thú Kinh”, và ở Nhật Bổn nó được phái Chân Ngôn (Shingon) rất coi trọng, và được đại chúng tụng đọc, vì nó nói về những giáo lý uyên thâm nhất của Mật Giáo.
Toàn thể bộ kinh được chia thành 17 chương, trong đó Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana) – pháp thân của Mật Giáo – thuyết giảng về cách thực hiện tinh túy Mật Giáo trong sinh hoạt hàng ngày, và cứu cánh tối hậu là đạt tới quả vị Phật trong cơi đời này.
10/ Nhơn Vương Bát Nhã Ba Ma Mật Kinh Kàrunịkàràjà – prajnăpàramità – sùtra
2 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kamarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 245.
Bản kinh này mô tả Đức Phật đã dạy cho các vị vua của 16 nước rằng yếu tố quan trọng nhất để duy trì an ninh và phúc lợi của một nước là thực hành Bát Nhã Ba La Mật, tức trí huệ của Phật.
Do nội dung của nó, kinh này được đặc biệt coi trọng ở Nhật Bổn như là “Kinh Điển Bảo Vệ Đất Nước.” Từ năm 600 sau Tây lịch cho tới nay ở Nhật Bổn đã tổ chức những buổi lễ đặc biệt gọi là “Nhân Vương Hội” để đọc tụng kinh này. Nó cùng với “Pháp Hoa Kinh” (số 12) và “Kim Quang Minh Kinh” (số 33) hợp lại thành một nhóm gọi là “Hộ Quốc Tam Bộ Kinh.”
Trong kinh dạy rằng: Đương lúc quốc gia hỗn loạn, khi xảy ra thiên tai, khi bị giặc ngoại xâm, nếu có thể đọc tụng bản kinh thì có thể tiêu trừ những tai họa, thu hoạch được nhiều ngũ cốc và nhân dân an lạc thịnh vượng. Vì nó nói về những vấn đề rất thực dụng, cho nên bản kinh thường được Hoàng Gia và các sứ Quân Nhật Bổn đem ra thực hành.
11/ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Prajnăpàramitatàhrdaya – sùtra
1 quyển. Do Huyền Trang (Hsuan-tsang) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 251.
Kinh này được gọi vắn tắt là “Bát Nhã Tâm Kinh,” là kinh điển rất phổ biến, kinh văn chỉ gồm có 262 chữ Hán, rất là đơn giản ngắn gọn; nhưng nội dung lại là rút gọn những cái to lớn và tinh túy của “Bát Nhã Kinh” và đề cập khái niệm về “không tánh” một cách đơn giản. Chữ “tâm” ở đây có nghĩa là “phần trọng yếu nhất” và nói về cái tinh túy của tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Nhờ giá trị cao cả của bản dịch của ngài Huyền Trang cho nên từ xưa tới nay kinh điển này đã được người Nhật Bổn tụng đọc, và nó được đa số các trường phái Phật giáo Nhật Bổn coi là bản dịch chính thức, cho nên thường được tụng niệm trong những khóa lễ hỗn hợp.
Tuy rằng nội dung thâm sâu, nhưng nó bao gồm phần lớn văn tự và từ ngữ căn bản của giáo nghĩa Phật giáo, cho nên kinh điển này thích hợp dùng làm một bài học nhập môn cho Phật giáo.
12/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Saddharmapundạrika – sùtra
8 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch.Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 262.
Tại Tây phương kinh điển này thường được gọi là “Liên Hoa Kinh” (Lotus Sutra), là một trong những bộ kinh trọng yếu nhất trong các kinh điển của Phật giáo Đại Thừa. Tại Nhật Bổn nó rất được coi trọng từ khi Thái tử Thánh Đức (Shotoku) viết phần chú giải gọi là “Pháp Hoa Nghĩa Sớ” (số 108), thuộc bộ “Tam Kinh Nghĩa Sớ” của ông.
Trong kinh này ghi chép rất nhiều thi kệ, các chuyện ngụ ngôn, và được coi là một tác phẩm văn học rất có giá trị, đồng thời nó đã giành được một địa vị bất hủ trong lịch sử Phật giáo do nội dung bao hàm triết lý cao siêu. Đặc biệt là ý niệm “Nhất Thừa” bàng bạc trong kinh này đã tạo ảnh hưởng lớn lao trong nền Phật giáo Nhật Bổn.
Toàn kinh chia thành 28 chương, trong số đó trọng yếu nhất là chương thứ 16 tên là “Thọ Mạng Của Như Lai” (Như Lai Thọ Lượng Phẩm) tán dương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni như là hiện thân của đời sống vĩnh hằng và đã đạt tới đại ngộ trong quá khứ cực kỳ xa xưa. Trong số những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng nhất là các chuyện “tam xa hỏa trạch” (ba cỗ xe và ngôi nhà cháy), “trưởng giả cùng tử” (trưởng giả và người con trai), “tam thảo nhị mộc” (ba loại dược thảo và hai loại cây), v.v...
Ngoài ra, chương 25 của kinh này, tên là “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm,” mô tả công đức của Quán Thế Âm Bồ Tát, phần này về sau trở thành một bộ kinh độc lập – gọi là “Quan Âm Kinh” – ở Trung Hoa và Nhật Bổn vẫn còn được đọc tụng cho tới ngày nay.
Trường phái Nichiren của Nhật Bổn và các hệ phái đã thêm hai chữ “Nam Mô” vào nhan đề kinh này và trở thành “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”
13/ Vô Lượng Nghĩa Kinh
1 quyển. Do Đàm Ma Già Gia Xá (Dharmagatayasas) dịch. Đại Chánh Đại Taṇg Kinh số 276.
Vô Lượng Nghĩa Kinh là một trong ba cuốn “Pháp Hoa Tam Bộ Kinh” và được soạn như là phần dẫn nhập vào “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12), và, nội dung của nó căn cứ vào tinh túy của kinh này.
Chữ “vô lượng nghĩa” trong nhan đề rút từ ý niệm rằng những phiền năo của con người là vô lượng, cho nên những giáo lý để truyền thụ cũng phải là vô lượng, do đó những ý nghĩa của giáo lý cũng trở thành vô lượng.
14/ Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Pháp Kinh
1 quyển. Do Đàm Vô Mật Đa (Dharmamitra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 277.
Kinh này cũng là cuốn thứ ba và cuối cùng của “Pháp Hoa Tam Bộ Kinh” và nối tiếp vào chương sau cùng của “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12).
Nội dung mô tả ba tháng trước khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt ngài đã triệu tập môn đồ tại Đại Lâm Tịnh Xá gần TÌ Xá Li (Vaisali) để thuyết giảng về phương pháp tu hành của Phổ Hiền Bồ Tát và để sám hối những tội lỗi do lục căn gây ra.
15/ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Avatạmasaka – sùtra
60 quyển. Do Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 278.
Kinh này ghi lại bài thuyết đầu tiên của Đức Thích Ca Mâu Ni sau khi ngài chứng ngộ dưới cây bồ đề.
Trình bày rằng toàn thể vũ trụ bắt nguồn từ cảm lực của Phật TÌ Lô Giá Na (Vairocana), kinh này khai triển thuyết duyên khởi. Trong kinh dạy rằng tất cả mọi vật có thể bao hàm trong một vật duy nhất, nó dẫn tới một thế giới quan đặt căn bản trên ý niệm về sự tương quan tương hợp của tất cả mọi sự vật.
Ngoài 60 quyển này còn có 80 quyển mới dịch, và một bản Hán dịch gồm 40 quyển trong đó chỉ chứa đựng một chương tên là “Nhập Pháp Giới Phẩm.”
Ở Nhật Bổn kinh này được phái Hoa Nghiêm Tông – Đông Đại Tự (Todai-gi) là ngôi chùa chính yếu của phái này – coi là kinh điển căn bản của họ. Có một điều đáng ghi nhận là câu chuyện của Thiện Tài Đồng Tử (Sddhana) thăm viếng và phỏng vấn 53 vị thiện trí thức – được kể trong việc thiết lập 53 đoạn đường dọc theo xa lộ Đông Hải từ Đông Kinh (Tokyo) tới Kinh Đô (Kyoto) ở Nhật Bổn.
16/ Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh Sŕmàlàdev́sịmhanàda – sùtra
1 quyển. Do Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 353.
Kinh này thường được gọi tắt là “Thắng Man Kinh,” (Sŕmàlà-Sùtra) và như nhan đề cho thấy, nó được thuyết giảng bởi Thắng Man Phu Nhân, con gái của Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) nước Xá Vệ (Sràvastì) ở Ấn Độ, do sự gợi ý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Những chủ đề quan trọng nhất trong kinh này nói về thuyết “Nhất Thừa” và pháp thân (dharmakaya) của Phật. Sự kiện vai chánh là một phụ nữ khiến cho kinh này khác hẳn với những kinh điển khác. Trong kinh này, Đức Phật Thích Ca bảo đảm rằng phái nữ có thể thành Phật, vì vậy nó đã được dùng để hổ trợ quan điểm cho rằng phụ nữ cũng có thể trở thành Phật.
Ở Nhật Bổn kinh này được coi là quan trọng từ khi Thái Tử Thánh Đức thuyết giảng cho Nữ Hoàng Thôi Cổ (Suiko), vị nữ Thiên Hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bổn, và sau đó ông đã viết phần chú giải với nhan đề “Thắng Man Nghĩa Sớ,” điều này cho thấy tính cách trọng yếu của nó tại Nhật Bổn.
17/ Vô Lượng Thọ Kinh Sukhàvatìvyùha
2 quyển. Do Khương Tăng Khải (Samghavarman) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 360.
Đây là một trong ba kinh điển căn bản của phái Tịnh Độ Tông, còn có tên là “Đại Vô Lượng Thọ Kinh,” “Đại Kinh” hoặc “Song Quyển Kinh.”
Kinh này thuật chuyện một vị tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmakara), khi tu hành dưới sự hướng dẫn của đức Phật Thế Tự Tại Vương (Tathagata Lokesvararaja), đã khởi phát 48 điều thệ nguyện để cứu vớt tất cả chúng sanh đau khổ; để đạt tới những điều nguyện này ngài đã tạo lập một vùng “tịnh thổ cực lạc Tây phương” và ngài đã trở thành Phật A Di Đà (Amitàyus). Trong kinh dạy rằng nếu bất cứ ai tin vào 48 điều nguyện này và trì niệm tên của đức Phật A Di Đà thì người ấy sẽ được vãng sanh nơi thế giới cực lạc và từ nơi đó sẽ có thể thành Phật.
Kinh này là bản dài nhất trong số ba kinh điển của phái Tịnh Độ và thường được phái này trích ra để đọc tụng. Trong đó có bài “Tán Phật Kệ,” một bài thơ mà Tỳ Kheo Pháp Tạng tán dương vị thầy của mình là Thế Tự Tại Vương Phật, và bài “Trọng Thệ Kệ” gồm những thi cú tóm tắt “48 điều nguyện” để tập trung thành 3 điều nguyện.
18/ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Amitàyurdhyàna-sùtra
1 quyển. Do Cương Lương Dà Xá dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 365.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh thường được gọi vắn tắt là “Quán Kinh,” là một trong ba bộ kinh căn bản của phái Tịnh Độ Tông, trong đó thuật lại một trong những mẫu chuyện nổi tiếng nhất của Phật giáo, nói về Vua A Xà Thế (Ajatrasatru) và thân mẫu ông là Hoàng Hậu Vi Đề Hi (Vaidehi).
Một ngày kia bà Vi Đề Hi – người thường bị dày ṿ đau khổ vì những hành vi độc ác của con bà – phát nguyện cầu cứu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Phật đã đến để giúp cho bà nh́n thấy mười phương vô số cảnh giới tịnh độ lạc. Bà đã chọn Tây Phương Cực Lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà, nhưng cần tu “Thập Lục Quán” do đó kinh này nói về 16 phương pháp quan sát quán tưởng.
Tên kinh “Vô Lượng Thọ Phật” là do dịch nghĩa từ chữ Hán A Di Đà Phật và cũng còn được dịch là “Vô Lượng Quang Phật” (Amitàbha), vị Phật của hào quang vô lượng.
19/ A Di Đà Kinh Sukhàvatìvyùha
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 366.
Kinh này là bản ngắn nhất trong số ba bộ kinh căn bản của phái Tịnh Độ Tông, vì vậy còn được gọi là “Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh”; cho tới ngày nay nó vẫn thường được tụng đọc trong các buổi lễ.
Kinh này bắt đầu bằng sự mô tả những cảnh huy hoàng của thế giới cực lạc Tây phương của đức Phật A Di Đà, và kế đó giải thích người ta cần phải tu trì như thế nào để có thể vãng sanh nơi Tây phương tịnh độ. Chư Phật từ sáu phương (đông, tây, nam, bắc, thượng, hạ) tán dương công đức của Phật A Di Đà. Ở phần kết luận, kinh này khuyên người ta hăy nên phát nguyện ước mong được vãng sanh nơi cảnh giới cực lạc tịnh độ và hăy thọ trì danh hiệu của đức Phật A Di Đà.
20/ Đại Bát Niết Bàn Kinh Mahàparinirvànạ – sùtra
40 quyển. Do Đàm Vô Sám (Dharmaksema) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 374.
Kinh này được đặt tên là “Đại Bát Niết Bàn Kinh” vì ghi lại những lời thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một thời gian ngắn khi ngài nhập Niết Bàn.
Nguyên nghĩa chữ “Niết Bàn” là “tiêu diệt ngọn lửa dục vọng và đạt tới trạng thái giác ngộ.” Nếu xét theo nghĩa này thì khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đạt tới giác ngộ ở tuổi 35 thì lúc đó ngài đã nhập Niết Bàn. Nhưng vì không thể hoàn toàn diệt trừ những phiền năo, dục vọng trong khi nhục thân vẫn còn tồn tại, cho nên sự nhập diệt của Đức Phật Thích Ca được gọi là Đại Bát Niết Bàn – mahaparinirvana – có nghĩa là “trạng thái đại an tịnh trong đó các ngọn lửa của dục vọng, phiền năo đã hoàn toàn dập tắt” và về sau này nhóm chữ “nhập Niết Bàn” được người ta dùng như là “chết đi.”
Kinh điển này quan trọng là vì cả hai nguyên do: nó ghi lại những lời thuyết giảng của Đức Phật Thích Ca ở thời gian ngay trước khi ngài nhập diệt, và cũng vì nó bao gồm những sự tích liên quan tới những chuyện xảy ra trước và sau khi ngài nhập diệt, cho nên nó chứa đựng những tư liệu quan trọng về phương diện lịch sử.
21/ Phật Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 389.
Kinh này thường được gọi là “Di Giáo Kinh,” vì nó chứa đựng những lời thuyết giảng cuối cùng của Đức Phật Thích Ca cho các môn đồ đệ tử quy tụ xung quanh tử sàng của ngài giữa hai cây đại thụ (Tala Song thọ), trước khi ngài nhập diệt. Trong bài thuyết giảng cuối cùng này Đức Phật khuyên các đệ tử hăy cố gắng đạt tới giác ngộ bằng cách thực hành “tam học,” tức là giới luật, thiền định và trí huệ, và sau khi đã thuyết giảng thêm những khái niệm căn bản khác của Phật giáo ngài chấm dứt với lời dạy rằng đó là di giáo sau cùng, dặn ḍ tối hậu của ngài.
Tại Nhật Bổn kinh này rất phổ cập vì các Phật tử thấy rằng nó ghi lại những lời thuyết giảng cuối cùng của Đức Phật, và nó đặt biệt được các phái Thiền tông coi trọng.
22/ Đại Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Ksịtigarbhapranịdhàna – sutra
2 quyển. Do Thật Xoa Nan Đà (Siksananda) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 412.
Thời kỳ sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt được gọi là “thời đại Vô Phật” trong đó không có vị Phật nào hiện hữu trước khi có sự xuất hiện của đức Di Lặc Bồ Tát – vị Phật kế tiếp sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhưng, trong “thời đại Vô Phật” có ngài Địa Tạng Bồ Tát xuất hiện để cứu độ chúng sanh và kinh điển này mô tả lời thệ nguyện mà trong tiền kiếp vị Bồ Tát này đã tâm nguyện sẽ trở lại trần thế để cứu độ chúng sanh. Đồng thời bản kinh cũng nhấn mạnh về những công đức, những năng lực kỳ diệu không thể nghĩ bàn của nó, nói rằng khi đọc tụng hoặc nghe một câu hay một kệ của kinh này thì có thể tiêu trừ được bất cứ tội lỗi nào.
23/ Bát Châu Tam Muội Kinh Pratyutpannabuddhasammukhà – vasthitasamàdhi – sùtra
3 quyển. Do Chi Lô Ca Sám (lokaksema) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 418.
Bát Châu Tam Muội là trạng thái tâm linh mà con người có thể dùng quán tưởng để nh́n thấy các vị Phật ngay trước mắt, (chư Phật hiện tiền tam muội) hoặc “Phật lập tam muội” và kinh này mô tả những phương pháp thiền quán để đạt tới khả năng này. Đức Phật A Di Đà ở Tây phương cực lạc là một thí dụ về một vị Phật có thể hiện ra trước mắt người ta theo cách này.
Kinh này là một trong những kinh điển cổ xưa nhất của phái Đại Thừa, và là kinh điển đầu tiên có phần đề cập tới Đức Phật A Di Đà. VÌ vậy, có thể coi nó là kinh điển tiền phong của các kinh điển thuộc Tịnh Độ Tông. Ở Nhật Bổn phương pháp thiền mô tả trong kinh này đã trở thành căn bản của một phương pháp thiền quán vừa đi vừa tham thiền gọi là “thường tam muội.”
24/ Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai Bản Nguyện Công Đức Kinh Bhaisạyaguruvaidùyaprabhàsap Ùrvapranidhànavisésạvistara
1 quyển. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 450.
Kinh này nhấn mạnh về những côngt đức của đức Dược Sư Như Lai (Bhaisajya-guru), chủ yếu là khuyên chúng sanh hăy tin tưởng vị Phật này và tín ngưỡng đó sẽ giúp họ vãng sanh nơi Đông Phương Lưư Li Thế Giới; nhưng đồng thời nó cũng không từ chối cho họ được vãng sanh nơi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà và những cảnh giới khác. VÌ vậy, có thể nói rằng kinh điển này kết hợp những ý tưởng về đời sống trần thế và sự tái sanh trong các Thiền cảnh.
Trước khi ngài thành đạo, đức Dược sư Như Lai đã phát thệ 12 nguyện rằng ngài sẽ tiêu trừ cho chúng sanh tất cả thứ bệnh hoạn và tật nguyền, rồi hướng dẫn họ đi tới giác ngộ. VÌ vậy ở Nhật Bổn đức Dược sư Như Lai được nhiều người sùng bái từ khi Phật giáo du nhập vào Nhật, và họ lấy kinh điển này làm căn bản.
25/ Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh Maitreyavyàkarana
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 454.
Kinh này ghi rằng sau khi đức Phật Thích Ca nhập diệt thì thế giới bước vào một thời kỳ mạt pháp hay “Thời Đại Vô Phật,” sau đó Phật Di Lặc sẽ xuất hiện trên thế giới này để trở thành vị Phật kế tiếp; hiện thời Phật Di Lặc đang thuyết pháp trên cơi Trời Đâu Suất.
Nội dung mô tả chi tiết Phật Di Lặc sẽ xuất hiện trên thế giới này như thế nào và sẽ trở thành một vị Phật dưới cây “Long Hoa.” Đây là một trong nhóm kinh điển gồm 6 cuốn gọi là “Di Lặc Lục Bộ Kinh.”
26/ Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh Mãnjusŕpariprcchà
2 quyển. Do Tăng Già Bà La (Sanghabhara) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 468.
Kinh này được gọi là “Văn Thù Vấn Kinh,” chủ yếu ghi lại những giới luật mà một vị bồ tát cần phải thực hành, và dùng hình thức vấn đáp gồm những câu trả lời của Đức Phật Thích Ca cho những câu hỏi của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Phần lớn nội dung của kinh dạy những giới luật mà một vị Bồ Tát cần phải tuân thủ, giữ ǵn, bắt đầu là thập giới. Phần còn lại giải thích ý nghĩa hiể̀u theo Phật giáo của 50 chữ cái của Phạn văn, và mô tả Phật giáo Tiểu Thừa (H́nayàna) đã phân chia thành 20 bộ phái như thế nào.
Căn cứ vào nội dung để suy đoán thì kinh điển này được viết sau các kinh điển khác như “Lăng Già Kinh” (Lankàvatàrasutra) (số 34), “Niết Bàn Kinh” (Mahàparinoirvànạ-sutra) (số 20) và “Trung Luận” (Madhyamaka-kàrikà) (số 52).
27/ Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Vimalaḱrtinirdésa-sùtra
3 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 475.
Như nhan đề cho thấy, nhân vật chính của kinh này là ngài Duy Ma Cật (Vilamakirti), một cư sĩ tại gia tinh thông về những ý nghĩa sâu xa của Phật giáo Đại Thừa.
Trong kinh chép rằng một hôm Đức Phật được tin cư sĩ Duy Ma Cật lâm bịnh, ngài liền phái đệ tử đến an ủi và hỏi thăm bịnh tình. Nhưng mỗi đệ tử trong quá khứ đã bị cư sĩ này lấn lướt trong những cuộc luận đàm, cho nên họ đều từ chối tới viếng thăm ông; sau cùng chỉ có Văn Thù Bồ Tát bằng ḷng đi. Nhờ nhân duyên này, hai ngài Duy Ma Cật và Văn Thù có dịp dùng phương pháp vấn đáp để thảo luận và triển khai những ý nghĩa thâm sâu của Phật giáo Đại Thừa.
Ở Nhật Bổn kinh này được coi là một trong những kinh điển trọng yếu, lý do chính là vì nó từng được Thái Tử Thánh Đức viết lời chú giải (số 107) trong “Tam Kinh Nghĩa Sớ.” Ngoài ra, nó hấp dẫn cũng vì nội dung giầu tính cách hí kịch, và là một ch́a khóa quan trọng để hiểu những tư tưởng thâm sâu của Phật giáo Đại Thừa.
28/ Nguyệt Thượng Nữ Kinh Candrottaràdàrikàpariprcchà
2 quyển. Do Xà Na Quật Đa (Jnanaguptaa) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 480.
Nguyệt Thượng (Candrottara) là con gái của một người trưởng giả tên là Duy Ma Cật (Vilamakirti), nàng được Đức Phật quả quyết rằng trong một kiếp tương lai sẽ trở thành một vị Phật.
Sau khi Nguyệt Thượng tu trì, thực hành và hoàn thành một số pháp mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, đã biến thành nam giới và phát nguyện trở thành một tỳ kheo khất thực và là một môn đồ của Đức Phật Thích Ca.
Nhân vật Duy Ma Cật nói trong kinh này chỉ là một trưởng giả tầm thường, khác với vị trưởng giả cùng tên Duy Ma Cật đại biểu cho tư tưởng Đại Thừa, trong “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh” (số 27), vì vậy có thể suy luận rằng “Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh” (Vamalakirtinirdésa-sùtra) đã được viết sau khi rút tỉa từ Nguyệt Thượng Nữ Kinh.
Ở Nhật Bổn kinh này đã cung cấp tình tiết cho chuyện thần thoại nổi tiếng tên là “Trúc Thủ Vật Ngữ” (Truyện Người Đốn Tre).
29/ Tọa Thiền Tam Muội Kinh
2 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 614.
Kinh này được gọi tắt là “Thiền Kinh”, tóm lược những phương pháp tu trì của một số thiền giả Ấn Độ.
Trước khi kinh này được truyền vào Trung Quốc thì ở đó đã có người thực hành Thiền, nhưng căn cứ vào những phương pháp của phái Tiểu Thừa (Hinayàna). Kinh này mô tả cả những phương pháp của Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, và do đó vạch rõ sự liên hệ giữa hai phái. Nó cũng đã dẫn đến việc khai triển một môn thiền gọi là “chỉ quán” của phái Thiên Thai Tông và khai sinh ra các trường phái Thiền ở Trung Quốc. VÌ vậy người ta có thể nói rằng kinh điển này đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với Thiền Tông về sau.
30/ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh Yogàcàrabhùmi – sùtra
2 quyển. Do Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 618.
Đây là kinh điển do Đạt Ma Đa La (Dharmatrata) và Phật Đại Tiên (Buddhasena) viết, và nhan đề đã lấy từ tên của người thứ nhất; họ là hai vị cao tăng đã phổ biến phương pháp Thiền định ở Trung Á vào đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Nhưng thật ra nội dung của kinh này tập trung vào những lời thuyết giảng của Phật Đại Tiên về những phương pháp Thiền của phái Tiểu Thừa, và các nhà nghiên cứu cho rằng phần thuyết giảng của Đạt Ma Đa La căn cứ vào phái Đại Thừa đã bị thất lạc không thấy nói trong kinh này.
Tuy nhiên, những hướng dẫn dành cho người tu tập được mô tả một cách rất cụ thể, cho nên kinh điển này là một cuốn sách chỉ dẫn phổ thông và thực tiễn. Ngoài ra, cũng vì có người nhầm lẫn giữa tên tác giả Đạt Ma Đa La ở nhan đề sách với Bồ Đề Đạt Ma (Bohhidharma), người sáng lập môn phái Thiền ở Trung Quốc, cho nên kinh này đã được các tông phái Thiền coi trọng.
31/ Nguyệt Đãng Tam Muội Kinh Samàdhiràjacandraprad́pa-sùtra
10 quyển. Do Na Liên Đề Da Xá (Narendrayasas) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 639.
Kinh này là lời đối thoại giữa một người trẻ tuổi tên là Nguyệt Quang (Candragupta) và Đức Phật Thích Ca, trong đó Đức Phật mô tả một phương pháp tu hành bằng cách quán chiếu tất cả mọi vật đều bình đẳng. Chủ đề chính trong kinh nói rằng bằng cách quán sát để thấy rõ mọi vật tồn hữu đều vô thực thể – tương tự như giấc chiêm bao hoặc như ảo tưởng – thì người ta có thể đạt tới cảnh giới giác ngộ, tức là công đức tối thượng. Trong kinh này mô tả tỉ mỉ những phương pháp tu tập để người ta có thể đạt tới trạng này.
32/ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh Sùrangamasamàdhi-sùtra
2 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạnh Kinh số 642.
Kinh này gọi tắt là “Thủ Lăng Nghiêm Kinh,” (Sùrangama-sùtra) giảng giải những điều cốt yếu của thiền pháp.
Để trả lời câu hỏi của Bồ Tát Kiên ý (Drdhamati) hỏi về tam muội (samdhi) thượng đẳng siêu việt để đạt tới giác ngộ của những phương pháp tu tập khác nhau, Đức Phật trả lời rằng “thủ lăng nghiêm tam muội” (surangama-samdhi) là phương pháp tiến bộ nhất trong số tất cả những phương pháp tu tập, nó gồm thâu tất cả những phương pháp tu tập khác, kế đó ngài mô tả chi tiết về phương pháp đó và làm thế nào để tu trì loại tam muội này.
Xét về phương diện lịch sử, tư tưởng trình bày trong kinh này mở đường cho những kinh điển khác như “Hoa Nghiêm Kinh” (Avatạmsaka-sùtra) (số 15) “Duy Ma Kinh” (Vimalaḱrtinirdésa-sùtra) (số 27) và “Pháp Hoa Kinh” (Suddharmapụndạŕka-sùtra) (số 12), và được xem là được biên soạn vào khoảng những năm đầu Tây lịch.
33/ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Suvarnạprabhàsa-sùtra
10 quyển. Do Nghĩa Tịnh (I-ching) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 665.
Kim Quang Minh Kinh còn được gọi là “Tối Thắng Vương Kinh,” chủ yếu nói rằng việc đọc tụng kinh này sẽ giúp cho một nước được phù trợ bởi các thần linh như các vị Tứ Thiên Vương. Do đó kinh này thời trước ở Nhật Bổn rất được coi trọng, và là một trong “Hộ Quốc Tam Bộ Kinh” (Ba Bộ Kinh Bảo Vệ Đất Nước), cùng với hai bộ khác là Pháp Hoa Kinh (số 12) và Nhơn Vương Kinh (số 10).
Ở Nhật Bổn việc thiết lập ngôi chùa Tứ Thiên Vương Tự (Shitenno-ji) và các ngôi chùa địa phương trên khắp nước gọi là “quốc phân tự,” và việc cử hành các lễ hội gọi là “tối thắng hội,” đều bắt nguồn từ kinh này. Do đó, có thể nói rằng kinh điển này đã tạo ảnh hưởng rất đáng kể đối với Phật giáo Nhật Bổn ở thời kỳ sơ khai.
34/ Nhập Lăng Ǵa Kinh Lankàvatàra-sùtra
10 quyển. Do Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 671.
Đây là một kinh điển tiêu biểu cho Phật giáo Đại Thừa Ấn Độ ở thời kỳ về sau này, bao gồm tư tưởng triết học chú trọng vào “Như Lai Tạng” (tatagatha-garbha), xác định rằng ngay cả tâm trí của một người phàm phu thấp hèn nhất cũng chứa đựng hạt giống của giác ngộ, với lý thuyết “bát chủng thức” (8 thứ tâm thức) đã phân chia các chức năng của trí tuệ thành 8 phương diện và với “a lại da thức” (alaya-vijnana) là tâm thức thứ 8 và căn bản. VÌ vậy giáo nghĩa của nó có tầm quan trọng đáng kể.
Tuy nhiên, vì nó giống như một tuyển tập gồm một số những tư tưởng khác nhau của các trường phái Phật giáo thời đó cho nên giáo nghĩa của nó có vẻ có tính cách tổng hợp. Nhưng, người ta có thể nhận ra một gịng tư tưởng nhấn mạnh vào ý nghĩa của chữ “vô phân biệt.” Kinh này cũng quan trọng ở điểm nó mở đường cho tư tưởng được trình bày trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận” (số 68), và nó cũng đã tạo ảnh hưởng rất lớn đối với tư tưởng của các phái Thiền.
35/ Giải Thân Mật Kinh Sạmdhinirmaocana-sùtra
5 quyển. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 676.
Đây là kinh điển căn bản của Pháp Tướng Tông, nội dung nói về tư tưởng của trường phái Duy Thức (Yogacara hay Vijnanavada), cho rằng tất cả mọi biểu hiện của tâm thức nhân loại. Kinh này thuộc vào thời kỳ giữa của Phật Giáo Đại Thừa Ấn Độ và được soạn thảo vào đầu thế kỷ thứ tư sau Tây lịch. Nó chia thành 8 chương, và nói chi tiết về tư tưởng của Duy Thức Học.
Nếu xét sự kiện phần lớn của kinh này đã được trích dẫn trong “Du Già Sư Địa Luận” (Yogacarabhumi) (số 53), và nhiều câu của nó đã được trích dẫn trong các kinh điển khác như “Nhiếp Đại Thừa Luận” (số 57) và “Thành Duy Thức Luận,” kinh này đã tạo ảnh hưởng đáng kể đối với Phật giáo ở những đời sau.
36/ Vu Lan Bồn Kinh Ullambana-sùtra
1 quyển. Do Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 685.
Pháp hội “Vu Lan Bồn” được cử hành ở Nhật Bổn, để tưởng niệm tiền nhân đã chết, là căn cứ vào nội dung của kinh này. Nó kể về tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgal-yayana), một trong các môn đồ của Đức Phật Thích Ca, đã hỏi đức thế tôn làm cách nào để cứu độ thân mẫu ngài, một người đã gây ra nhiều nghiệp chướng và đã rơi vào cơi ngạ quỷ (preta). Đức Phật bảo Tôn giả Mục Liên hăy cúng dường thức ăn thức uống vào ngày rằm tháng 7 (tức là ngày cuối cùng của thời kỳ tu tập ba tháng trong mùa mưa), nhờ làm như vậy thân mẫu ngài đã được cứu độ.
Chữ “Vu Lan Bồn” trong nhan đề của kinh này là từ chữ Phạn “ullambana” có nghĩa là “treo ngược đầu xuống đất” ngụ ý về sự đau khổ phải trải qua trong cơi của ngạ quỉ.
Khi xét rằng pháp hội Vu Lan Bồn ngày nay vẫn còn được cử hành ở Nhật Bổn, người ta thấy kinh điển này đã tạo ảnh hưởng đáng kể như thế nào.
37/ Tứ Thập Nhị Chương Kinh
1 quyển. Do Ca Diếp Ma Đằng (Kasyapamatanga) và Trúc Pháp Lan (Chu-fa-lan) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 784.
Tứ Thập Nhị Chương Kinh được coi là kinh điển truyền vào Trung Quốc sớm nhất, nhưng một số học giả cho rằng nó là một tác phẩm đã được soạn ra ở Trung Quốc.
Như nhan đề cho thấy, kinh này gồm 42 chương giải thích những giáo nghĩa trọng yếu của Phật giáo, vì vậy được dùng như kinh điển nhập môn của Phật giáo, nói về những ý niệm căn bản như khổ đau, vô thường, vô ngă, và những đề mục liên quan tới việc thực hành Phật giáo, như từ bi, bố thí, v.v...
VÌ kinh này được viết bằng ngôn ngữ rất đơn giản cho nên nó rất phổ biến ở Trung Quốc, và có tới 10 phiên bản khác nhau.
38/ Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh
1 quyển. Do Phật Đà Đa La (Buddhatrata) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 842.
Kinh này được gọi tắt là “Viên Giác Kinh” (Kinh Giác Ngộ Hoàn Toàn), viết theo hình thức đối thoại giữa Đức Phật và 12 vị Bồ Tát, mỗi vị đặt ra một câu hỏi, khởi đầu với Văn Thù Bồ Tát. Chủ đề chính là ý niệm về “viên đốn” (giác ngộ tức thì ) trong Phật Giáo Đại Thừa Trung Quốc.
Mặc dù có người coi nó là một tác phẩm ngụy tạo, soạn ra ở Trung Quốc, nhưng kinh này vẫn được các tông phái Thiền coi trọng. Tuy nhiên, Đạo Nguyên (Dogen), người sáng lập phái Tào Động (Soto) ở Nhật Bổn, đã bác bỏ kinh này vì lý do rằng nó khác với nội dung của các kinh điển Đại Thừa khác.
39/ Đại TÌ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Mahàvairocanàbhisambodhivikur Vitàdhisthànavaipulyasùtrendra Ràja- àma-dharmaparyàya
7 quyển. Do Thiện Vô Úy (Subhakarasimha) và Nhứt Hạnh (I-hsing) cùng dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 848.
Kinh này là một trong những kinh điển căn bản của Mật giáo, thường được gọi là “Đại Nhựt Kinh” (Mahavairocana-sutra) và được coi là soạn ở miền tây Ấn Độ khoảng giữa thế kỷ thứ 7 sau Tây lịch.
Toàn kinh chia làm 36 chương, nội dung bao gồm các giáo lý Mật giáo và cách thực hành, mô tả những nghi thức cụ thể.
Trong kinh có vẽ đồ án gọi là “Thai Tạng Giới Mạn Đồ La” – được gọi tên như vậy vì hình vẽ là tượng trưng cho tinh thần đại từ bi của Phật Đà, giống như tình thương bao bọc một thai nhi trong bụng người mẹ.
40/ Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương KinhSarvatathàgatatattvasamgrahama Hàyànàbhisamayamahàkalparàya
3 quyển. Do Bất Không (Amoghavajra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 865.
Ở Trung Quốc và Nhật Bổn kinh này và “Đại Nhật Kinh” (số 39) được coi là kinh điển căn bản của Mật giáo và thường được gọi tắt là “Kim Cang Đảnh Kinh.”
Chữ “kim cang đảnh” được dùng với ngụ ý đề cao, như thể nó là tột đỉnh trong số các kinh điển, giống như kim cương trong số các loại đá quí. Những nghi thức đặc thù của Mật giáo cần thực hành để đạt tới giác ngộ được mô tả chi tiết, và hình vẽ “Kim Cang Giới Mạn Đồ La” được căn cứ vào kinh này.
41/ Tô Tất Địa Yế La Kinh Susiddhikaramahàtantrasàdhano pàyika-patạla
3 quyển. Do Thâu Ba Ca La (Subhakarasimha) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 893.
Kinh này được gọi tắt là “Tô Địa Kinh” (Susiddhikara-sùtra), mô tả các nghi thức khác nhau trong Mật giáo. Ở Nhật Bổn nó được bao gồm trong các nhóm kinh điển gọi là “Tam Bộ Bí Kinh” và “Ngũ Bộ Bí Kinh,” và được coi là một trong những kinh điển trọng yếu nhất của Mật giáo.
Chữ Phạn “susiddhikara” trong nhan đề – được phiên âm sang chữ Hán là “Tô Tất Địa Yết La” – có nghĩa là “sự hoàn thành viên mãn của tất cả công đức” được dịch nghĩa sang chữ Hán là “Diệu Thành Tự Tác Nghiệp,” nói về sự công hiệu của những nghi thức mô tả trong kinh này.
42/ Ma Đãng Già Kinh Màtanǵ-sutrà?
2 quyển. Do Trúc Luật Viêm (Chu-lu-yen) và Chi Khiêm (Chih-ch’ien) dịch. Đại Chánh Đại Taṇg Kinh số 1300.
Kinh này đặt trọng tâm vào câu chuyện về một phụ nữ tên là Ma Đãng Già (Matangi) thuộc giai cấp thấp nhất trong xă hội Ấn Độ và đã được Đức Phật Thích Ca thu nhận để quy y theo Phật. Trong kinh, Đức Phật giảng giải từng chi tiết rằng 4 giai cấp trong xă hội đều bình đẳng.
Khi xét rằng hệ thống phân chia giai cấp đã tồn tại trong suốt lịch sử của Ấn Độ, người ta thấy kinh điển này có ý nghĩa rất đáng kể – với sự xác định rằng tất cả các giai cấp đều bình đẳng đối với Phật giáo.
43/ Ma Ha Tăng Chỉ Luật Mahàsàmghika-vinaya?
40 quyển. Do Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) và Pháp Hiển (Fa-hsien) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1425.
Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, cộng đồng Phật giáo đã phân chia thành hai tông phái, vì có sự bất đồng về cách giải thích các nội dung của giới luật. Phái bảo thủ trong cuộc phân hóa này được gọi là Thượng Tọa Bộ (Theravada) và phái cấp tiến được gọi là Đại Chúng Bộ (Mahasam-ghika).
Tên thứ nh́ trên đây đã được dùng trong nhan đề Phạn văn của kinh điển này và đã được phiên âm sang Hán văn. Nhan đề của kinh này cũng thường được gọi tắt là “Tăng Chi Luật,” nó bao gồm những giới luật tu hành đã được lưu truyền trong phái Đại Chúng Bộ nói trên, và mô tả chi tiết những giới luật của các vị tỳ kheo và tỳ kheo ni.
44/ Tứ Phần Luật Dharmaguptaka-vinaya?
60 quyển. Do Phật Da Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm (Chu-fo-nien) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1428.
Trong việc thực hành Phật giáo có bộ giới luật để tuân thủ những qui luật trong đời sống hằng ngày, được gọi theo chữ Hán là “Tứ Phần Luật” (chữ Phạn là Vinaya), nội dung được chia thành bốn phần; giới luật thánh điển này rất phổ biến ở Trung Quốc.
Tuy rằng con số giới luật có khác nhau giữa mỗi bộ kinh, “Tứ Phần Luật” này bao gồm 250 giới luật dành cho các tỳ kheo và 348 giới luật dành cho các tỳ kheo ni. Ở Nhật Bổn trước khi có những “Giới Luật Đại Thừa” do Tối Đằng (Saico) chủ xướng và trở thành phổ biến, các giới luật này đã được hai chúng tỳ kheo và tỳ kheo ni tuân phụng.
45/ Thiện Kiến Luật TÌ Bà Sa Samantapàsàdikà (Pàli)
18 quyển. Do Tăng Già Bạt Đà La (Samghabhadra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1462.
Kinh điển này được gọi tắt là “Thiện Kiến Luật” hay “Thiện Kiến Luận,” gồm những lời chú giải của Phật Âm Luận Sư (Buddhaghosa) về những giới luật của các tăng sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ (Theravada).
VÌ vậy, kinh này chủ yếu nói về các giới luật tu hành dành cho tỳ kheo và tỳ kheo ni thuộc phái Thượng Tọa Bộ, nhưng trong phần mở đầu có nói về ba Hội Đồng Tăng Lữ đầu tiên đã ghi chép các bộ kinh điển Phật giáo, và nói về việc truyền bá Phật giáo ở Tích Lan do Ma Sai Đà (Mahinda) con Vua A Dục (Asoka) thực hiện.
46/ Phạm Vơng Kinh Brahmajàla-sùtra?
2 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1484.
Phạm Vơng Kinh nói về những giới luật dành cho các vị Bồ Tát trong phái Đại Thừa, và Tối Đằng (Saicho) đã dùng làm nền tảng cho phái Thiên Thai (Tendai) ở Nhật Bổn. Về sau, giới luật của tăng sĩ Nhật Bổn chỉ gồm 10 giới luật trọng yếu và 48 giới luật thứ yếu; kinh này đã tạo ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Nhật Bổn.
Điểm đáng nói của các “giới luật Đại Thừa” mô tả trong kinh này, và được coi là “Phạm Vơng Giới,” là không có sự phân biệt giữa Phật tử tại gia và các tỳ kheo, luật này dạy rằng tất cả các môn đồ Phật giáo đều cần phải tuân hành những giới luật giống nhau.
Ở Trung Quốc và Nhật Bổn, kinh này được coi trọng như là kinh điển hàng đầu, đặt ra những giới luật cho Phật giáo Đại Thừa.
47/ Ưu Bà Tắc Giới Kinh Upàsakásila-sùtra?
7 quyển. Do Đàm Vô Sám (T’an-wu-ch’an) dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1488.
Kinh này gồm những điều dạy cho một Phật tử tại gia tên là “Thiện Sanh” (Sujata) trưởng giả, nói về giới luật nên ǵn giữ đối với cư sĩ tại gia – chữ “Ưu Bà Tắc” là phiên âm từ chữ “upasaka” trong tiếng Phạn có nghĩa là “người hành đạo tại gia thuộc phái nam” và nó còn được gọi là “Thiện Sanh Kinh” (Sujuta-sutra) do tên của nhân vật chính được đề cập trong kinh này.
Những giới luật ghi trong kinh được gọi là “Đại Thừa Giới” hoặc “Bồ Tát Giới” và do đó nó rất được coi trọng ở Trung Quốc, là nơi mà tư tưởng Phật giáo Đại Thừa rất thịnh hành.
Kinh này được coi như là phần mở rộng thêm và mô phỏng theo những nguyên tắc Đại Thừa được ghi trong Trường A Hàm Kinh (số 1) và Trung A Hàm Kinh (số 2). VÌ nó chứa đựng những lời trích dẫn từ các kinh điển Đại Thừa khác nhau, cho nên nó cũng là một nguồn tài liệu giá trị để truy cứu lịch sử về sự phát triển của các kinh điển Phật giáo.
48/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Bà Đề Xá Saddharmapundaŕkopadésa
2 quyển. Do Bà Số Bàn Đậu (Vasubandhu) soạn thảo. Do Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruchi) và Đàm Lâm (T’an-lin) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1519.
Chữ “ưu bà đề xá” là phiên âm từ chữ Phạn “upadesa,” có nghĩa là “chú giải,” vì vậy kinh này là chú giải về Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Tuy nhiên, bản Liên Hoa Kinh mà nó căn cứ vào đó để chú giải khác với bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (số 12) do Cưu Ma La Thập dịch sang Hán văn, và nó rất giống với bản tiếng Nepal của Liên Hoa Kinh. Kinh này cũng là cuốn thứ ba và cuối cùng của “Pháp Hoa Tam Bộ Kinh” và nối tiếp vào chương sau cùng của “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12).
49/ Thập Trụ TÌ Bà Sa Luận Dásabhùmika-vibhàsa
17 quyển. Do Long Thọ (Nagarjuna) viết. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1521.
Đây là sách chú giải gồm 35 chương bàn về Thập Địa Phẩm (Dasabhumika), tức là chương quan trọng nhất của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (số 15), tuy rằng nó chỉ giảng giải về hai giai đoạn đầu tiên trong việc tu hành quả vị bồ tát. Nó không chú giải đầy đủ về 10 giai đoạn tu hành, nhưng Chương 9 – nhan đề là “Dị Hành” (dễ thực hành) – đã tạo ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của phái Tịnh Độ Tông.
Cần lưu ý rằng Cưu Ma La Thập đã dịch chữ Phạn “bhumi” (giai đoạn) sang chữ Hán là “trụ” (thân trụ), nhưng chữ này cũng giống như chữ “địa” cho nên có người gọi kinh này là “Thập Địa.” Còn chữ “TÌ Bà Sa” là phiên âm chữ Phạn “vibhasa,” có nghĩa là “bình luận” hoặc “chú giải.”
50/ Phật Địa Kinh Luận Buddhabhùmisùtra-sàstra?
7 quyển. Do Thân Quang Đẳng (Bandhuprabha) viết. Do Huyền Trang dịch. Giai đoạn trước khi thành Phật được gọi là Bồ Tát. Và địa vị Bồ Tát lại còn được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, giai đoạn thứ 10 và cuối cùng được gọi là “Phật địa” (buddhabhumi). Phật Địa Luận Kinh (Buddhabhumisutra-sutra) tức là sách chú giải về Phật Địa Kinh (Buddhabhumi-sutra).
Nội dung của kinh này mô tả chi tiết về những phương diện khác nhau của “giai đoạn thành Phật” (Phật địa). Để chú giải, nội dung của Phật Địa Kinh đã được chia thành ba phần, đây là một hình thức phân chia đã được dùng làm mẫu mực cho nhiều cuốn sách bình luận về những kinh điển khác.
51/ A Tỡ Đạt ma Câu Xá Luận Abhidharmakósa-bhàsya
30 quyển. Do Thế Thân (Vasubandhu) viết. Do Huyền Trang dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1558.
Luận này thường được gọi tắt là “Câu Xá Luận,” là bản tóm lược cương yếu của A TÌ Đạt Ma Tỳ Bà Sa Luận, có thể nói đó là bộ Luận giải thích đầy đủ nhất về Phật giáo Tiểu Thừa (Hinayana), và cung cấp nền tảng giáo lý cho phái Câu Xá Tông, một trong 6 tông phái Phật giáo được truyền vào Nhật Bổn trong thời đại Nại Lương (Nara) ở Nhật, và nó cũng được dùng làm sách giáo lý cơ bản của tông phái Pháp Tướng (Hosso).
Nội dung của nó dùng để phê phán những giáo lý của tông phái “Nhất Thiết Hữu Bộ” (Sarvastivadin) của Phật giáo Tiểu Thừa, nhưng vì tóm lược một cách đầy đủ về những giáo lý đó, cho nên được coi như cuốn sách hướng dẫn về tông phái Hữu Bộ.
Tại Nhật Bổn kinh này là kinh điển căn bản để hiểu biết về những giáo nghĩa của Pháp Tướng Tông, cho nên nó đã trở thành đối tượng để nghiên cứu trong nhiều thế kỷ.
52/ Trung Luận Madhyamaka-sàstrra
4 quyển. Do Long Thọ viết. Do Cưu Ma La Thập dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1564.
Bộ Luận này bao gồm 445 thi kệ do Bồ Tát Long Thọ sáng tác để giải thích “Trung Đạo,” tức là lập trường căn bản của trường phái Trung Quán (Madhyamika) của Phật giáo Đại Thừa Ấn Độ, và nó cũng bao gồm cả phần chú giải của Thanh Mục (Pingala).
Ở Nhật Bổn bộ luận này được dùng làm thánh điển căn bản của Tam Luận Tông (Sanron), một trong 6 trường phái Phật giáo du nhập vào Nhật Bổn trong thời đại Nại Lương (Nara).
Lời chú giải của Thanh Mục chỉ là một trong nhiều sách chú giải về những kệ tụng của Long Thọ, nhưng, chính những câu kệ đó tự nó rất quan trọng, vì chúng đã cung cấp nền tảng về lý thuyết cho Phật giáo Đại Thừa và đã tạo ảnh hưởng lớn lao đối với sự phát triển của tư tưởng Đại Thừa.
53/ Du Già Sư Địa Luận Yogàcàrabhùmi
100 quyển. Do Di Lặc (Maitraya) thuyết giảng. Do Huyền Trang dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1579.
Đây là luận điển căn bản của phái Du Già (Yogacara) còn được gọi là phái Duy Thức (Vijnanavada), một trong hai chi nhánh chính yếu của Phật giáo Đại Thừa Ấn Độ – chi nhánh kia là phái Trung Quán.
Ngoài sự mô tả A Lại Da Thức (alaya-vijnana), nó cũng nói chi tiết về những giáo lý khác nhau của Phật giáo, cho nên Luận này là một thánh điển trọng yếu không thể bỏ qua trong việc nghiên cứu cả hai phái Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Bản dịch nói rằng kinh này do Di Lặc thuyết giảng và do Vô Trước (Asanga) ghi chép, nhưng, theo truyền thuyết Phật giáo Tây Tạng thì Vô Trước mới chính là tác giả.
54/ Thành Duy Thức Luận Vijnăptimàtratàsddhi-sàstra?
10 quyển. Do Hộ Pháp Đẳng (Dharmapala) viết. Do Huyền Trang dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1585.
Đây là sách chú giải về cuốn “Duy Thức Tam Thập Tụng” (Trimsika) (số 55) của Thế Thân (Vasubandhu) căn cứ vào những lời chú giải của 10 vị học giả Ấn Độ, tuy rằng nó được soạn thảo từ quan điểm của Hộ Pháp Đẳng và chỉ nói sơ qua về quan điểm của 9 lời bình luận khác. Nội dung trình bày sự giảng giải về tông phái Du Già (Yogacara) hay Duy Thức (Vijnanavada), chủ trương rằng có một ý thức căn bản gọi là “A Lại Da Thức” (alaya-vijnana). Sự tồn tại của tất cả nhân loại đều lấy A Lại Da Thức làm căn bản, trong đó tất cả những hành động trong quá khứ đều được tàng trữ. Và những hành động trong quá khứ đó tái hiện trong những hành động của hiện tại và tương lai, vì vậy tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là những biểu hiện của tâm thức.
Luận này không những là thánh điển căn bản của tông phái Pháp tướng ở Trung Quốc và Nhật Bổn mà còn là bộ luận trọng yếu mà những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo cần phải nghiên cứu.
55/ Duy Thức Tam Thập Luận Tụng Trimsíkà
1 quyển. Do Thế Thân (Vasubandhu) viết. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1586.
Nhan đề “Duy Thức Tam Thập Luận Tụng” (Ba Mươi Câu Kệ Về Giáo Lý Duy Thức) là do Luận này gồm có 30 thi kệ, và được coi là thánh điểm căn bản của tông phái Pháp Tướng ở Trung Quốc và Nhật Bổn. [Ngoài ra còn có tên gọi khác: “Tam Thập Duy Thức,” “Tam Thập Luận” và “Duy Thức Tam Thập Tụng”].
Bộ Luận cũng là chủ trương căn bản của giáo lý Duy Thức, trong đó nói rằng tất cả mọi hiện tượng đều là những biểu hiện của tâm thức. Được coi là bộ luận cuối cùng của Thế Thân, và cuốn “Thành Duy Thức Luận” (Vijnaptimatratasiddhi-sutra) (số 54) là sách chú giải căn cứ vào cuốn này.
56/ Duy Thức Nhị Thập Luận Vimsátikà
1 quyển. Do Thế Thân viết. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1590.
Nhan đề “Duy Thức Nhị Thập Luận” (Hai Mươi Câu Kệ Bàn Luận Về Giáo Lý Duy Thức) là do kinh này gồm có 20 câu kệ, mỗi câu được viết lời chú giải thích về giáo lý Duy thức mà còn đưa ra lời phê phán về những tư tưởng không thuộc Phật giáo và về giáo nghĩa của phái Tiểu Thừa nh́n từ quan điểm của giáo lý Duy Thức, cho rằng tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là những biểu hiện của tâm thức (a lại da thức) con người.
Luận điểm này thường được trích dẫn trong “Thành Duy Thức Luận” (Vijnaptimatratasddhi-sutra) (số 54) như là một luận điển trọng yếu.
57/ Nhiếp Đại Thừa Luận Mahayànasamgraha
3 quyển. Do Vô Trước (Asanga) viết. Do Chân Đế (Paramartha) dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1593.
Bộ luận này có tên là “Nhiếp Đại Thừa” là vì muốn hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo thành một cuốn tổng luận từ quan điểm của phái Duy Thức. Những điều cốt yếu của Phật giáo Đại Thừa được sắp đặt và phân loại theo 10 tiểu đề, dưới mỗi tiểu đề là một chương luận thuyết.
Đây là Luận điển căn bản của tông phái Nhiếp Luận (She-lun) ở Trung Quốc. Và nhan đề của nó cũng được gọi tắt là Nhiếp Luận.
58/ Biện Trung Biện Luận Madhyàntavibhàga
3 quyển. Do Thế Thân (Vasubandhu) viết. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1600.
Đây là sách chú giải về tác phẩm “Biện Trung Biên Luận Tụng” của Di Lặc (Maitreya). Bản dịch của Chân Đế (Paramartha) được gọi là “Trung Biên Phân Biệt Luận.”
Luận này hệ thống hóa giáo lý của phái Du Già, tức là phái Duy thức, từ quan điểm của “Trung” (tức Trung Đạo), là lập trường căn bản của Phật giáo Đại Thừa. Còn chữ “Biên” dùng để chỉ những tư tưởng mâu thuẫn hoặc những quan niệm cực đoan, mà muốn xa ĺa chúng thì phải dùng tới “Trung,” và đó là lập trường căn bản của Luận điển này.
59/ Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Mahàyànasùtralamkàra
13 quyển. Do Vô Trước (Asanga) viết. Do Ba la Pha Mật Đa La (Prabhakaramitra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1604.
Luận này bao gồm những câu kệ của Di Lặc (Maitreya) và những lời chú giải của Vô Trước. Nội dung trình bày những giáo nghĩa Đại Thừa vừa là giáo lý thượng đẳng vừa là thích hợp nhất để cứu độ chúng sanh. Trên quan điểm đó, luận này mô tả chi tiết về những đường lối tu hành của các vị Bồ Tát.
Bản dịch Hán văn nói rằng kinh này do Vô Trước viết, nhưng sự thật có thể những lời chú giải do những câu kệ của Di Lặc là do Thế Thân (Vasubandhu) viết căn cứ vào những lời giảng bằng miệng của Vô Trước – là anh của Thế Thân.
60/ Đại Thừa Thành Nghiệp Luận Karmasiddhiprakarana
1 quyển. Do Thế Thân viết. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1609.
Luận này muốn chứng minh rằng tất cả những hành vi của nhân loại – thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp – đều là những biểu hiện của “tâm thức tàng trữ” (tạng thức) tức A Lại Da Thức (alaya-vijnana) mà phê phán những quan niệm về sự chiêu cảm của “nghiệp” (karma) của phái Tiểu Thừa (Hinayàna). VÌ vậy có thể nói rằng luận này có ý định dùng quan niệm A Lại Da Thức – tâm thức căn bản của ý thức nhân loại – để hệ thống hóa những lý thuyết khác nhau về nghiệp và về ý thức.
61/ Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận Ratnagotravibhàgamahayànottaratantra-sàstra
4 quyển. Do Nặc Na Ma Đề (Ratnamati) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1611.
Là tác phẩm tiêu biểu của phái Như Lai Tạng (Tathagatagarbha) thuộc Phật giáo Đại Thừa, Luận này đưa ra sự giải thích có hệ thống về ý niệm cho rằng tiềm năng trở thành Phật tiềm tàng ngay cả trong những con người tầm thường trong xă hội. Nội dung bao gồm nhiều câu trích dẫn từ những kinh điển khác bàn về ý niệm này, và, do đó nó là một ch́a khóa quan trọng để hiểu về những giai đoạn sơ khởi của sự phát triển của thuyết Như Lai Tạng.
Luận điển này không nói tên tác giả, nhưng theo truyền thuyết ở Trung Quốc thì do Kiên Huệ (Saramti) viết, nhưng theo Phật giáo Tây Tạng thì Di Lặc (Maitreya) là tác giả và do Vô Trước (Asanga) viết lời chú giải.
62/ Nhơn Minh Nhập Chánh Lý Luận Nyàyapravésa
1 quyển. Do Thương Kiết La Chủ (Sankarasvamin) viết. Do Huyền Trang dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1630.
Nhơn Minh là dịch từ chữ Phạn “Nyana” có nghĩa là “luận lư” và nhan đề Luận này là “dẫn nhập vào luận lý học,” là sự giới thiệu đơn giản và ngắn gọn về những lý thuyết của Trần Na (Dignaga), người sáng lập tông phái Phật giáo “Tân Nhơn Minh”, do đệ tử của Trần Na là Thương Kiết La Chủ viết.
Trong khi tác phẩm của chính Trần Na là “Nhơn Minh Chánh Lý Môn Luận” (Nyayamukha) (ngưỡng cửa của luận lư) là một luận điển rất khó hiểu, cuốn sách này của Thương Kiết La Chủ được viết bằng ngôn ngữ giản dị, vì vậy bộ luận này thường được các học giả Trung Quốc và Nhật Bổn tham khảo để nghiên cứu.
63/ Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận Síksàsamuccaya
25 quyển. Do Pháp Xứng (Dharmakirti) soạn. Do Pháp Hộ (Dharmapala) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1636.
Đây là bộ Luận tập đại thành những giáo lý để tu tập hạnh Bồ Tát, tức là người thực hành Phật giáo Đại Thừa. Nội dung bao gồm ba phần – những câu kệ tụng, những trích dẫn từ các kinh điển khác, và, những lời chú giải đơn giản của tác giả – và là một nguồn tư liệu quí giá đối với những ai muốn tìm hiểu về giáo chính thống Ấn Độ ở vào thời hậu kỳ.
Bản Hán dịch nói rằng Pháp Xứng (Dharmaḱrti) là tác giả, nhưng theo bản chữ Phạn thì Luận này do Tịch Thiên (Sàntideva) biên soạn.
64/ Kim Cang Châm Luận Vajrasùć
1 quyển. Do Pháp Xứng (Dharmakirti) viết. Do Pháp Thiên (Dharmadeva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1642.
Nhan đề Luận có nghĩa là “cây kim bằng kim cương,” nội dung phê phán nghiêm khắc về thẩm quyền của kinh điển Vệ Đà và địa vị tối thượng của Đấng Phạm Thiên (Brahman) trong Bà La Môn giáo, tôn giáo truyền thống của Ấn Độ, xét từ quan điểm Phật giáo, Kinh này cũng bác bỏ hệ thống phân chia giai cấp của Bà La Môn giáo, nêu ra những giai cấp đều bình đẳng, và đả kích bất cứ điều ǵ dung dưỡng một hệ thống như vậy.
Bản Hán dịch nói rằng tác giả là Pháp Xứng, nhưng trong bản gốc Phạn văn nói rằng kinh này do Mã Minh (Asvaghosa) viết.
65/ Chương Sở Tri Luận
2 quyển. Do Phát Hợp Tư Ba (hPhags-pa) viết. Do Sa La Ba (Sha-lo-pa) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1645.
Luận này do Phát Hợp Tư Ba (hPhags-pa), người Tây Tạng, viết vào triều đại nhà Nguyên, dành cho vị thái tử đương thời, như là một cuốn sách cương yếu tổng quan về tư tưởng Phật giáo, và đề cập những vấn đề như nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo.
Xét tổng quát, giáo lý trong kinh này căn cứ vào “Câu Xá Luận” (Abbidharmakosabhasya) (số 51), nhưng cũng có những tư tưởng đặc thù của riêng nó.
Nhan đề “Chương Sở Tri Luận” có nghĩa là “luận về chuyện làm sáng tỏ những ǵ được biết,” ý nói rằng tất cả những giáo lý cần biết đều được làm sáng tỏ trong nội dung sách này.
66/ Bồ Đề Hành Kinh Boddhicaryàvatàra
4 quyển. Do Long Thọ (Nagarjuna) viết. Do Thiên Tức Tai (Devasanti) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1662.
Nhan đề kinh có thể dịch nghĩa là “đi vào con đường giác ngộ,” gồm 8 chương viết bằng hình thức thi kệ và mô tả những phương pháp tu hành để đạt tới giác ngộ, tức là mục đích tối hậu của Phật giáo, và những công đức gặt hái được nhờ thực hành những giáo lý này.
Đặc biệt trong chương thứ nhất nhấn mạnh sự quan trọng của việc phát “bồ đề tâm” (boddhicitta), tức là quyết tâm cố gắng đạt tới giác ngộ.
Bản Hán dịch nói rằng kinh này do Long Thọ viết, nhưng cả hai bản Phạn ngữ lẫn bản Tây Tạng ngữ đều nói rằng tác giả là Tịch Thiên (Santideva); và ngay cả trong bản Hán dịch người ta thấy những nhóm chữ như “Thánh Long Thọ Bồ Tát.” VÌ vậy các học giả xét rằng khó có chuyện tác giả lại tự xưng mình là “Thánh,” do đó họ tin rằng Tịch Thiên mới thật sự là tác giả kinh này.
67/ Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát a Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận
1 quyển. Do Bất Không (Amoghavajra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1665.
Tại Nhật Bổn, phái Chơn Ngôn (Shingon), một tông phái Mật giáo, coi kinh này là trọng yếu mà mọi tín đồ của họ cần phải đọc, và nó thường được gọi vắn tắt là “Bồ Đề Tâm Luận” hoặc “Phát Bồ Đề Tâm Luận.”
Nội dung bàn về “phát khởi ý tưởng giác ngộ,” nghĩa là tập trung tâm trí và phát nguyện rằng sẽ phải đạt tới giác ngộ, và “đạt tới Phật tánh trong nhục thân này,” nghĩa là đạt tới giác ngộ trong thể xác này (tức thân thành Phật), và, nó cũng bàn luận về những khác biệt giữa Hiển giáo và Mật giáo.
Luận này được gán cho Long Thọ là tác giả, nhưng nhiều học giả từ trước tới nay thường nghi ngờ về điều đó.
68/ Đại Thừa Khởi Tín Luận Mahàyànásraddhotpàda-sàstra?
1 quyển. Do Mã Minh (Asvaghosa) viết. Do Chân Đế (Paramartha) dịch Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1666.
Nhan đề có nghĩa là “luận về sự phát khởi niềm tin vào Đại Thừa,” nội dung tóm lược cả phương diện lý thuyết lẫn phương diện thực hành của những tư tưởng trọng yếu trong Phật giáo Đại Thừa, vì vậy từ trước tới nay nó được phổ biến rộng răi trong đại chúng như là kinh điển nhập môn của Phật giáo Đại Thừa. Luận này không dài, nhưng nó rất quan trọng trong lịch sử ở Trung Hoa và Nhật Bổn đối với các tông phái khác nhau, như các phái Hoa Nghiêm, Thiờn Thai, Tịnh Độ, Chơn Ngôn.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều nghi vấn liên quan tới tác giả và xuất xứ; cho tới nay người ta không biết nó được soạn ở Ấn Độ hay ở Trung Hoa, và không rõ tác giả Mã Minh sống trước hay sau Long Thọ.
69/ Thích Ma Ha Diễn Luận
10 quyển. Do Long Thọ (Nàgàrjuna) viết. Do Phạt Đề Ma Đa (Vrddhimata) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1668.
Chữ “Ma Ha Diễn” trong nhan đề là do phiên âm từ chữ Phạn “Mahayana,” vì vậy nhan đề có nghĩa là “Chú Thích Về Đại Thừa Khởi Tín Luận” (và “Đại Thừa Khởi Tín Luận” là sách số 68 trên đây).
Giống như cuốn “Đại Thừa Khởi Tín Luận,” cuốn này cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau liên quan tới tác giả và xuất xứ, nhưng thường được cho là soạn thảo vào thế kỷ thứ 6 hay thứ 7 ở Trung Hoa hoặc ở Đại Hàn.
VÌ nó được Không Hải (Kuhai), người sáng lập phái Chơn Ngôn (Shingon) ở Nhật Bổn, nh́n nhận là tác phẩm đích thực của Long Thọ cho nên Luận này đã được phái Chơn Ngôn coi là Luận điển quan trọng để nghiên cứu.
70/ Na Tiên Tỳ Kheo Kinh Milindapănhà
2 quyển. Không biết tên dịch giả. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1670.
Tuy bản Hán dịch gọi là “kinh” nhưng sách này không phải là ghi chép lại những lời thuyết giảng của chính Đức Phật Thích Ca, mà là chuyện thuật lại một cuộc đối thoại về tư tưởng Phật giáo giữa Vua Di Lan Đà (Milinda), vị vua của Hy Lạp cai trị vùng tây bắc Ấn Độ ở hậu bán thế kỷ thứ hai trước Tây lịch, và một vị tỳ kheo Ấn Độ tên là Na Tiên (Nagasena). Kinh này kết thúc với chuyện Vua Di Lan Đà qui y phật pháp, và đây là một nguồn tư liệu rất quư giá trong việc nghiên cứu những khác biệt giữa các tư tưởng đông phương và tây phương.
Trong kinh điển tiếng Pa-li kinh này không được liệt vào Tam Tạng Kinh, nhưng về phương diện văn học Phật giáo nội dung của nó có một giá trị rất quan trọng. Tuy nhiên, bản Hán dịch hơi khác biệt về nội dung đối với bản Pa-li ngữ, và bút pháp dịch thuật cũng không được lưu thoát.
Phần II: Kinh Điển Trung Hoa
71/ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Táng
2 quyển. Do Khuy Cơ (K’uei-chi) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1710.
Bát Nhã Ba La Mật Đa U Táng là sách chú giải đầu tiên bằng Hán văn về “Bát Nhã Tâm Kinh” (số 11) do Huyền Trang dịch, và nhan đề sách này cũng được gọi tắt là “Tâm Kinh U Táng.”
Nội dung của sách này chú giải từng mỗi chữ trong “Bát Nhã Tâm Kinh” căn cứ vào những giáo nghĩa của tông phái Pháp Tướng, đồng thời cũng thêm vào những giáo nghĩa của tông phái Tam Luận.
72/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa
20 quyển. Do Trí Khải (Chih-i) thuyết giảng. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1716.
Nhan đề sách này có nghĩa là “ư nghĩa thâm sâu mầu nhiệm của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,’ và cùng với hai cuốn “Ma Ha Chỉ Quán” (số 79) và “Pháp Hoa Văn Cú” (Đại Chánh Đại Tạng số 1718) nó là một trong “Tam Đại Bộ” của tông phái Thiên Thai, và thường được gọi là “Pháp Hoa Huyền Nghĩa.”
Sách này giải nghĩa tường tận về 5 chữ Hán nhan đề của “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12), đồng thời giảng giải chi tiết về những giáo nghĩa của phái Thiên Thai – những giáo nghĩa đó đã dùng tư tưởng Pháp Hoa làm cơ sở. VÌ vậy sách này là Luận điểm trọng yếu không thể thiếu trong thời kỳ thành lập của phái Thiên Thai ở Trung Quốc và thật sự nó đã được dùng làm cái sườn để xây dựng tư tưởng của phái này.
Nó là bộ sách ghi lại những lời thuyết giảng của Trí Khải do môn đồ của ngài là Quán Đỉnh (Kuan-ting) ghi chép, và, không chỉ kiến giải trên lý thuyết mà còn căn cứ vào kinh nghiệm thực chứng tôn giáo của chính Trí Khải đại sư.
73/ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ
4 quyển. Do Thiện Đạo (Shan-tao) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1753.
Đây là sách chú giải về “Quán Vô Lượng Thọ Kinh” (số 18), và thường được gọi tắt là “Quán Kinh Sớ,” nhưng ở Nhật Bổn thường được gọi là “Tứ Thiếp Sớ,” vì nội dung được chia làm 4 phần.
Sách này là cốt lơi của tư tưởng Tịnh Độ tông của Thiện Đạo, và nó đã tạo ảnh hưởng rất lớn đối với Tịnh Độ tông ở Nhật Bổn. Pháp Nhiên (Ḥnen), vị tổ sư của phái Tịnh Độ Nhật Bổn, nhờ được biết kinh sớ này qua “Vãng Sanh Yếu Tập” (số 131) của Nguyên Tín (Genshin) nên đã từ bỏ tất cả pháp môn đã tu hành trước kia để tu pháp môn Tịnh Độ. Kể từ đó bản kinh sớ này đã được coi là vô cùng quan trọng đối với phái Tịnh Độ ở Nhật Bổn.
74/ Tam Luận Huyền Nghĩa
1 quyển. Do Cát Tạng (Chi-t’sang) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1852.
Nhan đề “Tam Luận Huyền Nghĩa” có nghĩa là “ư nghĩa sâu xa vi diệu của Tam Luận,” sách này do Đại Sư Gia Tường Cát Tạng trước tác, ngài là người đã đặt nền móng lý thuyết cho tông phái Tam Luận Tôn, và, đây là luận thuyết căn bản của phái đó, và đã được dùng làm quyển sách nhập môn cho tư tưởng Trung Quán Phật giáo.
“Tam Luận” là ba bài luận thuyết nói về “Trung Luận” (Madhyamaka-sastra) (số 52), “Bách Luận” (Sata-sastra) ̣(Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1509) và “Thập Nhị Môn Luận” (Dvadasamukha-sastra) (dc số 1568); và trong sách này Cát Tạng giải thích tại sao ba bài luận thuyết đó, cùng với “Đại Trí Độ Luận” (Mahaprajnaparamita-sastra) (Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1509), đã được phái Luận Tôn coi trọng như vậy; kế đó ngài giải thích thêm về những đặc tính của mỗi kinh luận đó cũng như những tương quan lẫn nhau của chúng.
Sự thật là phái Tam Luận của Nhật Bổn đã coi trọng cuốn “Tam Luận Huyền Nghĩa” này hơn cả chính “Tam Luận” (ba cuốn luận thuyết nói trên).
75/ Đại Thừa Huyền Luận
5 quyển. Do Cát Tạng (Chi-tsang) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1853.
Đây là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Đại Sư Gia Tường Cát Tạng – người đã nâng cao giáo lý của phái Tam Luận lên tột đỉnh. “Đại Thừa Huyền Luận” – có nghĩa là “luận về ý nghĩa thâm sâu của Đại Thừa” – cố gắng hệ thống hóa những giáo lý từ lập trường triết học Trung Quán mà phái Tam Luận chủ trương.
Trong sách này Cát Tạng bàn luận về những gịng tư tưởng chính tìm thấy trong những kinh điển Đại Thừa được nghiên cứu ở Trung Hoa vào thời của ngài, và nêu ra những tương phản trong nội dung của chúng khi so sánh với những giáo lý của phái Tam Luận. VÌ vậy, cùng với cuốn “Tam Luận Huyền Nghĩa” (số 74), “Đại Thừa Huyền Luận” được coi là một trong những thánh điển quan trọng nhất của phái Tam Luận.
76/ Triệu Luận
1 quyển. Do Tăng Triệu (Sheng-chao) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1858.
Nhan đề có nghĩa là “Luận văn của Tăng Triệu,” bao gồm bốn bài bình luận của Tăng Triệu – một đệ tử của Cưu Ma La Thập - cùng với một bài viết ngắn thêm vào đó để tóm lược những quan điểm căn bản của tác giả về Phật giáo. Cuốn sách này đã tạo ảnh hưởng đáng kể đối với Phật giáo Trung Hoa sau này, và cùng với cuốn “Chú Duy Ma Cật Kinh” (Chú Giải Kinh Duy Ma Cật) (Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1775) cũng do ngài viết, đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Tăng Triệu.
Điểm đặt biệt của sách này là dùng lối tư duy và lý giải đặc thù của Trung Hoa về Phật giáo. Một điều đáng kể nữa là những phương diện trọng yếu của giáo lý Phật giáo đã được lý giải qua sự viện dẫn triết học truyền thống Trung Quốc. VÌ vậy, đay là một tác phẩm rất quan trọng đối với quá trình phát triển của Phật giáo ở Trung Hoa.
77/ Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương
1 quyển. Do Đàm Vô Mật Đa (Dharmamitra) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 277.
Sách này thường được gọi tắt là “Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương” (Luận Về Năm Giáo Lư) hoặc “Ngũ Giáo Chương,” nó vừa là một khái luận về Phật giáo nh́n từ lập trường của tông phái Hoa Nghiêm, nhưng đồng thời có thể coi như là kinh điển nhập môn của phái Hoa Nghiờm.
Trong sách này Pháp Tạng phân chia Phật giáo thành “Ngũ giáo,” và coi Kinh Hoa Nghiêm (số 15) là kinh điển tối thượng, nhưng đồng thời tác giả không quên rằng Phật giáo là một tổng thể gồm nhiều bộ phận, vì vậy ngài đã trình bày một hệ thống bao quát về những giáo nghĩa của tông giáo này.
78/ Nguyên Nhơn Luận
1 quyển. Do Tôn Mật (Tsung-mi) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1886.
Bộ Luận này còn được gọi là “Hoa Nghiêm Nguyên Nhơn Luận,” trong đó Tôn Mật – người đề xướng hợp nhất hai tông phái Thiền và Hoa Nghiêm – bàn luận về vấn đề “căn nguyên của sự tồn hữu của nhân loại.”
Tác giả mở đầu bằng sự phê phán về Khổng Giáo và Lăo Giáo, đồng thời từ chối phái Tiểu Thừa và loại Đại Thừa “tạm thời,” sau đó ngài giảng về loại Đại Thừa đích thực, và kết luận rằng tất cả mọi lập trường và tư tưởng mà ngài đã phê phán thật ra là những thành tố giúp đưa tới sự biểu hiện căn nguyên đích thực của sự tồn hữu của nhân loại. Có thể nói rằng trong tác phẩm này Tôn Mật đã nổ lực gồm thâu tất cả các giáo lý vào trong một toàn thể thống nhất.
79/ Ma Ha Chỉ Quán
20 quyển. Do Trí Khải (Chih-i) thuyết giảng. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1911.
Là một trong “Tam Đại Bộ” (số 72) của phái Thiên Thai, tác phẩm này là một tuyển tập gồm những bài thuyết giảng của Trí Khải, người sáng lập phái Thiên Thai ở Trung Hoa, do đệ tử của ngài là Quán Đỉnh ghi chép lại, và còn được gọi là “Thiên Thai Ma Ha Chỉ Quán” hoặc giản dị là “Chỉ Quán.”
Sách này là kinh điển cơ bản về những phương pháp thực hành của phái Thiên Thai, và mô tả những phương pháp tu trì để quan sát bản chất của trí tuệ. Nó được chia thành 10 chương, nhưng từ chương thứ 8 đến chương thứ 10 đã bị thất truyền. Tuy nhiên, nó là một tác phẩm đã tạo ảnh hưởng đáng kể đối với sự phát triển sau này của Phật giáo ở Trung Hoa và Nhật Bổn.
VÌ nó căn cứ vào những kinh nghiệm tôn giáo và sự tu trì của Trí Khải, cho nên tác phẩm này được đánh giá rất cao, và, chính nhờ cuốn sách này mà Trí Khải đã được coi là vị tổ sư vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa.
80/ Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu
1 quyển. Do Trí Khải (Chih-i) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1915.
Sách này còn được gọi là “Đồng Mông Chỉ Quán” hoặc “Tiểu Chỉ Quán,” nội dung trình bày những yếu nghĩa căn bản của phương pháp tọa thiền thuộc phái Thiên Thai, dành cho những người mới bắt đầu học thiền.
Sách này do Đại Sư Trí Khải, người sáng lập phái Thiên Thai ở Trung Hoa, soạn ra để cho người anh ngài là Trần Giảm (Ch’en-chen) học thiền; vì vậy, đây là cuốn sách chỉ dẫn rất đơn giản về phương pháp thực hành môn tọa thiền mà tất cả các tăng sĩ mới gia nhập phái Thiên Thai Nhật Bổn phải đọc.
81/ Thiờn Thai Tứ Giáo Nghi
1 quyển. Do Đế Quán (Cheg-gwan) ghi chép. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1931.
Sách này còn được gọi tắt là “Tứ Giáo Nghi” (Khái Lược Về Bốn Giáo Lư) hoặc “Đế Quán Lục” (Đế Quán Ghi Chép), nội dung trình bày đại cương về những giáo lý của phái Thiên Thai, cùng với một khái lược về những phương pháp tọa thiền dùng trong tông phái này. VÌ vậy, có thể coi như đây là sách nhập môn về giáo nghĩa của phái Thiên Thai, đồng thời cũng là sách nhập môn về Phật giáo nói chung.
Đế Quán đã tới Trung Hoa từ Hàn Quốc, và sách này được tìm thấy sau khi ngài đã qua đời.
82/ Quốc Thanh Bách Lục
4 quyển. Do Quán Đỉnh (Kuan-ting) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1934.
Sau khi Đại Sư Trí Khải của phái Thiên Thai viên tịch, một đệ tử của ngài là Quán Đỉnh đã thu thập 104 tài liệu và những văn kiện khác liên quan tới ngài. Chữ “Quốc Thanh” trong nhan đề là tên của Quốc Thanh Tự, ngôi chùa chính yếu phái Thiên Thanh ở Trung Hoa, và chữ “Bách Lục” là dùng con số chẵn 100 để chỉ 104 tài liệu trong sách này.
Nội dung của sách cung cấp những tài liệu căn bản để nghiên cứu về tiểu sử của đại sư Trí Khải, có cả những chiếu chỉ của hoàng đế Trung Hoa, những thư từ gửi cho đại sư Trí Khải, và những văn tự khắc vào bia, v.v... Do đó, đây là nguồn tài liệu phong phú để cung cấp những sử liệu đương thời, và chứa đựng những dữ kiện quan trọng liên quan tới thời kỳ sơ khai trong lịch sử của phái Thiên Thai ở Trung Hoa.
83/ Trấn Châu Lâm Tế Huệ Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục
1 quyển. Do Huệ Nhiên (Hui-jan) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 1985.
Sách này thường được gọi là “Lâm Tế Lục,” ghi chép những lời thuyết giảng của Lâm Tế Nghĩa Huyền, vị tổ sư của phái Lâm Tế thuộc Thiền tông, và do một đệ tử của ngài là Huệ Nhiên thu thập thành sách. Phái Lâm Tế coi đây là kinh sách quan trọng nhất ghi chép lại những lời giảng của một vị tổ sư Thiền tông.
Chữ “Trấn Châu” trong nhan đề là tên của một huyện ở Trung Hoa, và “Lâm Tế” là địa danh nơi cư trú của Tổ Sư Lâm Tế ở Trấn Châu. Chữ “Huệ Chiếu Thiền Sư” là danh hiệu mà vị hoàng đế đời Đường sắc phong cho ngài sau khi Lâm Tế đã viên tịch.
84/ Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục
10 quyển. Do Trùng Hiển (Ch’ung-hsien) thu thập và Khắc Cầu (K’o-ch’in) bình luận. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2003.
Sách này còn được gọi là “Bích Nham Lục” hoặc “Bích Nham Tập” (chữ “bích nham” có nghĩa là “vách đá màu xanh”), bao gồm 100 công án do Trùng Hiển lựa ra từ 1700 công án của sách “Truyền Đãng Lục” (chữ “truyền đãng” là “truyền cây đèn”) (Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2076). Trùng Hiển đã thêm vào những câu thi kệ cho mỗi công án; và sau này những lời bình luận của Khắc Cầu được ghi thêm vào sách.
Phái Lâm Tế coi sách này hết sức quan trọng và dùng làm kinh điển chỉ nam để truyền giảng về cách thực hành tham thiền.
Cũng nên nói thêm rằng chữ “công án” dùng để chỉ những ghi chép về ngôn ngữ và hành động của các thiền giả kiệt xuất, có thể giúp cho những người mới học thiền dùng làm đề tài trầm tư.
85/ Vô Môn Quan
1 quyển. Do Tông Chiếu (Tsung-chao) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2005.
Nhan đề có nghĩa là “quan ải không có cổng.” Sách này bao gồm 48 công án do Thiền Sư Vô Môn Huệ Khai đời nhà Tống tuyển chọn và thêm vào mỗi công án một câu kệ tụng và lời bình luận. Sách này được phái Thiền Tông coi trọng nhất từ trước tới nay.
Khi so sánh với các sách công án khác thì cuốn này có số lượng ít hơn; vì ngắn gọn và là một cuốn sách thuộc loại nhập môn cho nên nó đã được phái Thiền tông đem ra thực hành nhiều hơn sách khác.
Chữ “Vô Môn” trong nhan đề có ý nói rằng tuy không có cổng để đi qua khi nhập vào cảnh giới khai ngộ, nhưng có một cái cổng vô hình gọi là “Vô Môn.”
86/ Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh
1 quyển. Do Tông Bảo (Tsung-pao) thu thập; Do Pháp Hải (Fa-hai) ghi chép. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2008.
Sách này còn có vài tên gọi vắn tắt: “Lục Tổ Đàn Kinh,” “Đàn Kinh,” hoặc “Pháp Bảo Đàn Kinh,” gồm những lời thuyết giảng của Huệ Năng, vị tổ sư thứ sáu của phái Thiền tông ở Trung Hoa, do đệ tử của Huệ Năng là Pháp Hải ghi chép.
Trong sách có ghi lại tuyên ngôn của phái Thiền Nam tông tuyên bố độc lập với phái Thiền Bắc tông, và bàn về những vấn đề như “đốn ngộ” (giác ngộ tức thời) và sự biểu hiện bên ngoài của bản tánh, gọi là “kiến tánh.”
87/ Tín Tâm Minh
1 quyển. Do Tăng Sán (Seng-ts’an) viết. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2010.
Sách này do Tăng Sán, vị tổ sư thứ ba của Thiền Tông Trung Hoa biên soạn, nói về trạng thái tối cao của Thiền. Đây là một tác phẩm ngắn, chỉ gồm có 146 ḍng, mỗi ḍng là một thi kệ 4 chữ (tứ ngôn nhất cú), tổng cộng là 584 chữ Hán. Nội dung nói rằng chân lý tối thượng của Thiền cũng giống như an trụ trong trạng thái bình đẳng và tự do tuyệt đối, không vướng mắc vào những thứ như: khác biệt và mâu thuẫn, đúng và sai, còn và mất.
Những câu thi kệ này từ xưa tới nay được rất nhiều thiền tăng học thuộc ḷng và tụng niệm; và nhờ sự phát triển của Thiền tông trong hàng chục thế kỷ qua, chúng đã ăn sâu và bắt rễ vào đời sống của các Thiền viện.
88/ Hoàng Bá Sơn Đoạn Tế Thiền Sư Truyền Tâm Pháp Yếu
1 quyển. Do Bùi Hưu (Fei-hsiu) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2012-A.
Sách này ghi lại những lời giảng của Hoàng Bá Hi Vận (Huang-po Hsi-yun), vị khai tổ của chi phái Hoàng Bá thuộc Thiền tông ở Trung Hoa, và do một đệ tử tại gia của ngài là Bùi Hưu biên chép. Tác phẩm này thường được gọi tên vắn tắt là “Truyền Tâm Pháp Yếu,” nội dung nói rất giản lược về bản chất của Thiền.
Hi Vận là thầy của Lâm Tế Nghĩa Huyền, vị khai tổ của phái Lâm Tế, cho nên cuốn sách ghi lại những lời thuyết giảng của ngài thường được nghiên cứu ở Trung Hoa và Nhật Bổn như là những giáo lý tạo nền tảng cho phái Lâm Tế của Thiền tông.
Chữ “Hoàng Bá Sơn” trong nhan đề là tên của Núi Hoàng Bá, nơi cư trú của Hi Vận, và chữ “Đoạn Tế” là danh hiệu Thiền sư của ngài.
89/ Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca
1 quyển. Do Huyền Giác (Hsuan-chio) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2014.
Tác phẩm này viết bằng thể thơ, kể chuyện rằng dưới sự hướng dẫn của Lục Tổ Huệ Năng, bỗng nhiên trong một đêm mà đệ tử của ngài là Vĩnh Gia Huyền Giác đã khai ngộ được chân lư. Tuy chỉ gồm 247 thi cú với tổng cộng 814 chữ Hán, sách này diễn tả một cách tuyệt đẹp về tinh túy của Thiền; xưa nay nó đã được các thiền tăng tụng đọc, và đặc biệt được phái Tào Động rất coi trọng.
Nhan đề sách này thường được gọi tắt là “Chứng Đạo Ca.”
90/ Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
8 quyển. Do Đức Huy (Te-hui) bổ khuyết. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2025.
Sách này căn cứ vào những qui tắc và giới luật dành cho các tự viện Thiền tông, do Bách Trượng Hoài Hải soạn ra. Tuy nhiên, đến đời nhà Tống thì bản gốc của cuốn giới luật này, được gọi là “Cổ Thanh Quy,” đã bị thất truyền; vì vậy, đến đời nhà Nguyên, do sắc lệnh của hoàng đế, Đông Dương Đức Huy đã sưu tầm và bổ khuyết, kết quả đưa tới cuốn sách này.
Nội dung chứa đựng tất cả những qui tắc và giới luật dành cho các tự viện Thiền tông để tuân theo. Một thí dụ về sự “Trung Hoa hoá” Phật giáo là những hoạt động thân thể gọi là “đức mục,” khi các thiền tăng phải làm việc lao động hàng ngày, và được coi như là một trong những yếu tố căn bản để thực hành Thiền.
Sách này cũng đã tạo ảnh hưởng quan trọng ở Trung Hoa khi Lăo Giáo cũng đặt ra những quy luật tương tự.
91/ Di Bộ Tông Luân Luận Samayabhedo
1 quyển. Do Thế Hữu (Vasumitra) soạn. Do Huyền Trang (Hsuan-tsang) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2031.
Sách này thuật lại thời kỳ “Phân Rẽ Căn Bản” của Phật giáo thành hai phái Thượng Tọa Bộ (Therevada) và Đại Chúng Bộ, xảy ra hơn 100 năm sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt; và sau đó phái Thượng Tọa Bộ lại còn phân chia thành 20 bộ phái khác nhau. Sách này được viết từ lập trường của những người thuộc phái “Nhất Thiết Hữu Bộ” (Sarvastivadin), nhưng nó cũng mô tả chi tiết về những đặc tính giáo lý của các tông phái khác.
VÌ vậy sách này không những rất cần thiết để nghiên cứu về lịch sử của sự phân rẽ tông phái trong Phật giáo mà còn là một nguồn tài liệu vô giá để giải thích về những giáo lý của các bộ phái ngoài phái Nhất Thiết Hữu Bộ – khi người ta thấy rằng đa số những kinh điển còn tồn tại tới nay đều thuộc phái này.
92/ A Dục Vương Kinh Asokaràja-sùtra
10 quyển. Do Tăng Già Bà La (Sanghabhara). Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2043.
Đây là tiểu sử của Vua A Dục (Asoka), vị vua thứ ba của triều đại Ma La Ni Da (Mauryan), xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) miền trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch. Sách kể chuyện Vua A Dục là người đầu tiên đã thống nhất nước Ấn Độ, và sau khi quy y Phật giáo ông đã phái các sứ giả đi khắp nơi trong nước để truyền bá đạo Phật.
Còn có một bản tiểu sử bằng chữ Hán tương tự như cuốn này, nhan đề là “A Dục Vương Truyện” (Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2042). VÌ nội dung hai cuốn gần giống nhau, cho nên người ta tin rằng chúng đã được dịch ra từ cùng một nguyên bản.
93/ Mã Minh Bồ Tát Truyện
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2046.
Đây là cuốn tiểu sử của Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosa) (sinh vào cuối thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch). Còn có nhiều sách khác nói về cuộc đời ngài Mã Minh, nhưng chúng không nhất trí về nội dung, về các thời điểm niên lịch và về các địa danh. Trong cuốn sách này cũng có nhiều nghi vấn, nhưng dù sao nó vẫn là một bản tiểu sử rất có quan trọng về vị Bồ Tát “học giả thi sĩ” Mã Minh.
94/ Long Thọ Bồ Tát Truyện
1 quyển. Do Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2047.
Long Thọ Bồ Tát Truyện là cuốn tiểu sử của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna) – ngài sống trong khoảng thời gian từ 150 tới 250 sau Tây lịch – một người được tất cả các tông phái Phật giáo Nhật Bổn sùng bái.
Theo các học giả, cuốn tiểu sử này chỉ là một văn bản được viết lại từ một đoạn nói về Long Thọ trong cuốn “Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện” (Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2058), một cuốn sách gồm tiểu sử của 28 vị cao tăng đã có công truyền bá Phật giáo sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt.
Nhưng, nếu xét sự kiện rằng sách này là do Cưu Ma La Thập dịch sang Hán văn thì có thể nguyên bản là một cuốn sách riêng biệt.
95/ Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện
1 quyển. Do Chân Đế (Paramartha) dịch. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2049.
Bà Tẩu Bàn Đậu là phiên âm sang chữ Hán từ chữ Phạn của Vasubandhu, tên này trước đây được dịch sang chữ Hán là “Thiên Thân,” nhưng về sau này được dịch là “Thế Thân” và chữ này được dùng cho tới nay. Thế Thân là một học giả tăng sĩ được coi là xây dựng nền móng cho phái Du Già (Yogacara) của Phật giáo Đại Thừa. Ngài đã từng được nói tới trong nhiều cuốn sách, nhưng đây là cuốn tiểu sử riêng biệt duy nhất viết về ngài, và nó đã được gọi bằng vài tên khác nhau: “Thế Thân Truyện,” “Thiên Thân Truyện,” và “Bà Tẩu Bàn Đậu Truyện.”
96/ Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện
10 quyển. Do Huệ Lập (Hui-li) soạn và do Nhan Tôn (Yen-ts’ang) bổ khuyết. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2053.
Sách này cũng được gọi vắn tắt là “Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện,” là tiểu sử của ngài Huyền Trang (Hsuan-tsang), tác giả của “Đại Đường Tây Vực Ký” (số 100). Sách này bắt đầu với sự chào đời của pháp sư Huyền Trang, rồi mô tả cuộc hành trình của ngài kéo dài hơn 10 năm đi từ Trung Hoa sang Ấn Độ để suy tìm thành quả của ngài sau khi trở về Trung Hoa. VÌ vậy, đây là một bản tường thuật tiểu sử đầy đủ.
Trong khi cuốn “Đại Đường Tây Vực Ký” được viết căn cứ vào những quan sát tận mắt, chẳng hạn như những đặc điểm về địa lý trên đường đi, v.v... cuốn “Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện” này tập trung vào những chuyện trọng yếu trong cuộc hành trình.
Cũng nên nói thêm rằng bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký” được viết vào đời nhà Minh là mô phỏng theo cuốn sách này.
Chữ “Hoàng Bá Sơn” trong nhan đề là tên của Núi Hoàng Bá, nơi cư trú của Hi Vận, và chữ “Đoạn Tế” là danh hiệu Thiền sư của ngài.
97/ Cao Tăng Truyện
14 quyển. Do Huệ Giao (Hui-chio) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2059.
Cuốn “Cao Tăng Truyện” còn có tên là “Lương Cao Tăng Truyện,” ghi chép tiểu sử của một số vị cao tăng Trung Hoa nổi danh sống trong một thời kỳ 453 năm, từ năm 67 sau Tây lịch – là thời điểm được coi như Phật giáo bắt đầu du nhập vào Trung Hoa – tới năm 519. Sách này bao gồm tiểu sử đầy đủ của 257 cao tăng, cùng với tiểu sử tóm tắt của 243 cao tăng khác.
Thông thường, những sách tiểu sử nói về các cao tăng đều được gọi là “Cao Tăng Truyện,” và đây là cuốn sách xưa nhất thuộc loại này. Sách này được chia thành 16 phần, tuỳ theo những thành tích của các vị cao tăng được kể tiểu sử ở đây.
98/ Tỳ Kheo Ni Truyện
4 quyển. Do Bảo Xướng (pao-ch’ang) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2063.
Sách “Tỳ Kheo Ni Truyện” gồm tiểu sử của 65 vị ni sư người Trung Hoa, sống trong thời gian khoảng 160 năm, từ đời Đông Tấn tới đời nhà Lương. Bài tựa của cuốn sách này nói rằng thời trước người ta gặp nhiều vị ni sư đạo hạnh, nhưng tới đời nhà Lương, khi cuốn sách này được soạn, thì người thấy rất ít ni sư tu trì theo những giới luật tu viện. VÌ vậy soạn giả sách này thu thập những tài liệu và những lời kể lại của các bậc trưởng thượng để viết thành sách, để cung cấp những tấm gương cho các tỳ kheo ni đời sau noi theo.
99/ Cao Tăng Pháp Hiển Truyện
1 quyển. Do Pháp Hiển (Pha-hsien) ghi chép. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2085.
Cuốn “Cao Tăng Pháp Hiển Truyện” là tiểu sử của Pháp Hiển do chính ngài ghi chép lại những cuộc du hành ở Ấn Độ, còn được gọi tên là “Phật Quốc Ký” và “Lịch Du Thiên Trúc Ký Truyện” (Ký Sự về Những Cuộc Du Hành ở Ấn Độ).
Pháp Hiển bắt đầu du hành vào năm 399 sau Tây lịch để đi tìm Đạo Pháp. Ngài đi qua Trung Á (người Trung Hoa gọi là “Tây Vực”) và tới Tây Bắc Ấn Độ, từ đó ngài tới vùng Trung Ấn, thăm viếng các chùa chiền trên lộ trình. Rồi ngài đi hành hương tới nhiều nơi mang những dấu tích của Đức Phật Thích Ca, đồng thời học những kinh sách và quy luật của các tu viện Phật giáo, và sao chép nhiều kinh sách. Từ Ấn Độ ngài vượt biển sang Tích Lan, rồi trở về Trung Hoa bằng đường biển, về tới Trung Hoa vào năm 412. Cuốn sách này thuật lại những chuyện tai nghe mắt thấy và những kinh nghiệm trải qua trong cuộc hành trình.
Đây là nguồn tư liệu quư báu về Phật giáo và văn hóa Phật giáo Ấn Độ và vùng Trung Á vào đầu thế kỷ thứ 5, và là bản ký sự lâu đời nhất của một vị cao tăng Phật giáo viết về những cuộc du hành của ngài ở Ấn Độ.
100/ Đại Đường Tây Vực Ký
12 quyển. Do Huyền Trang ghi lại và do Biện Cơ (Pien-chi) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2087.
Tác phẩm này thường được gọi là “Tây Vực Ký,” thuật lại những cuộc hành trình của Huyền Trang ở Trung Á và Ấn Độ từ năm 627, khi ngài khởi hành từ Trung Hoa, cho tới khi ngài trở về vào năm 645. Sách này đệ tử của Huyền Trang là Biện Cư viết lại, căn cứ vào những lời ghi chép trong những cuộc hành trình của ngài. Nội dung nói về những vấn đề như tình trạng Phật giáo đương thời, và về địa dư, phong tục, công nghiệp và chính trị của 110 quốc gia mà Huyền Trang đã đi qua và 28 quốc gia mà ngài đã được nghe người khác thuật lại.
VÌ vậy, đây là một tài liệu lịch sử quư giá, ghi rõ những khoảng cách, phương hướng và ngôn ngữ địa phương. Sách này có thể dùng làm tài liệu về khảo cổ và về những cuộc hành trình thời xưa.
101/ Đường Đại Ḥa Thượng Đông Chinh Truyện
1 quyển. Do Nguyên Khai (Yaun-k’ai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2089.
Nhan đề sách có nghĩa là “Truyện Về Chuyến Đi Miền Đông của Vị Đại Ḥa Thượng Đời Đường,” ḥa thượng này là Giám Chân (Chien-Chen) Ḥa Thượng, vị cao tăng Trung Hoa đời nhà Đường đã có công truyền bá toàn bộ giới luật của tự viện Phật giáo vào Nhật Bổn ở thời đại Nại Lương (Nara). Sách này chia làm ba phần. Phần thứ nhất gồm thời kỳ từ lúc Giám Chân bắt đầu tiếp xúc với Phật giáo cho tới khi ngài gặp gỡ hai tăng sĩ Nhật Bổn tới Trung Hoa du học. Phần thứ nh́ thuật lại về 6 lần ngài cố gắng vượt biển sang Nhật Bổn. Và phần thứ ba tóm lược về những chuyện sau khi ngài tới Nhật cho tới khi ngài viên tịch.
Quan trọng nhất là phần thứ nh́, mô tả chi tiết về những gian nan mà Giám Chân và phái đoàn của ngài đã phải trải qua trước khi có thể đặt chân lên Nhật Bổn. Toàn thể tác phẩm là một sử liệu quan trọng nói rõ về một giai đoạn truyền bá Phật giáo sang Nhật Bổn.
102/ Hoằng Minh Tập
1 quyển. Do Tăng Hựu (Seng-huu) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2102.
Chữ “Hoằng Minh” trong nhan đề là tóm tắt những chữ “hoằng đạo minh giáo” (có nghĩa là “truyền bá đạo và làm sáng tỏ giáo lư”). Sách này do Tăng Hựu đời nhà Lương soạn, là một tuyển tập gồm những nhà luận thuyết về Phật giáo mà ngài cho rằng hữu ích và được viết trong thời kỳ 500 năm trước. Mười một quyển đầu – bao gồm những câu trả lời của các Phật tử đối với những lời phê phán của Nho giáo và Lăo giáo, minh xác về những tương đồng và dị biệt giữa những giáo lý của Phật giáo, Nho giáo và Lăo giáo; trong khi ba quyển cuối cùng gồm những bài luận thuyết bàn trực tiếp về giáo lý Phật giáo.
Toàn bộ sách này được viết bằng thể văn dễ hiểu đối với một độc giả trung bình ; do đó nó là một nguồn tư liậu trọng yếu về tình hình của Phật giáo đương thời.
103/ Pháp Uyển Châu Lõm
100 quyển. Do Đạo Thế (Tao-shih) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2122.
Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì đây là một bộ tự điển bách khoa về Phật giáo. Nội dung bao gồm từng tiết mục giải thích về giáo lư, những thuật ngữ và những khái niệm của Phật giáo; đồng thời cũng bao gồm nhiều trích dẫn từ những kinh điển. Trong số những trích dẫn đó có nhiều đoạn mà nguyên bản ngày nay đã bị thất lạc, vì vậy đây là một nguồn tài liệu quí giá. Ngoài ra, những trích dẫn đó được phân loại tùy theo nội dung của chúng; do đó rất tiện để tham khảo, cho nên sách này từ trước đến nay đã được nhiều học giả dùng tới.
Toàn bộ được phân chia thành 100 quyển và nội dung lại được phân loại thành 668 tiểu mục.
104/ Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện
4 quyển. Do Nghĩa Tịnh (I-ching) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2125.
Nhan đề chính thức của sách này là “Đại Đường Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện” – có nghĩa là nói về những thực hành Phật giáo trong vùng Nam Hải (ngày nay là quần đảo Nam Dương và Mã Lai) vào thời Đại Đường – thường được gọi tắt là “Nam Hải Ký Qui Truyện.”
Nghĩa Tịnh xuất phát từ Trung Quốc năm 671 để tới Ấn Độ và vùng Đông Nam Á, và sách này ghi chép tỉ mỉ mhững quan sát của ngài về những giới luật và sinh hoạt trong các ngôi chùa mà ngài đã tới viếng. Sau khi viết tại chỗ, ngài sai người đem tài liệu về Trung Quốc để giúp cho các tăng sĩ Trung Hoa biết rõ về những giới luật nghiêm khắc của các tăng sĩ ở Ấn Độ và các nước láng giềng, để có thể phản tỉnh về những giới luật tu hành của chính họ.
VÌ vậy, đây là một nguồn tư liệu quí giá về cách tổ chức của Phật giáo trong các nước đó và những giới luật tu hành đương thời.
105/ Phạn Ngữ Tạp Danh
1 quyển. Do lễ Ngôn (Li-yen) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2135.
Sách này thu thập những chữ Phạn và có thể coi như là một cuốn tự điển Phạn-Hán, bao gồm 1,205 chữ Hán thường dùng hàng ngày và những chữ Phạn tương đương với chúng. Những chữ ghi trong sách này được sắp xếp tùy theo ý nghĩa, do đó đây là một sách tham khảo rất tiện dụng đối với những người bắt đầu học chữ Phạn. Những chữ Phạn dùng để phiên dịch từ chữ Hán lại được chỉ dẫn bằng cả chữ Hán và mẫu tự chữ Phạn; vì vậy đây là một tài liệu quan trọng để đánh giá tiêu chuẩn của việc nghiên cứu chữ Phạn ở Trung Hoa vào thời đó.
Phần III: Kinh Điển Nhật Bổn
106/ Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ
1 quyển. Do Thái tử Thánh Đức (Shokotu) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2185.
Đây là sách chú giải về cuốn “Thắng Man Kinh” (Srimala-sutra) (số 16), và cuốn được coi là tác phẩm sớm nhất trong số ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn.
Cuốn biên niên sử “Nhật Bổn Thư Ký” nói rằng Thái Tử Thánh Đức đã thuyết giảng về Thắng Man Kinh cho Nữ Thiên Hoàng Thôi Cổ (Suiko) nghe. Người ta cho rằng Thái Tử Thánh Đức đã chọn cuốn kinh này là vì nhân vật chính trong Thắng Man Kinh là một phụ nữ – tức là bà Thắng Man (Srimala) – trong khi bà Thôi Cổ là vị thiên hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bổn. Về sau, những lời thuyết giảng của Thái Tử Thánh Đức được thu thập lại thành cuốn sách này.
Dù sao chăng nữa, đây là tác phẩm đầu tiên do một người Nhật viết.
107/ Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ
5 quyển. Do Thái Tử Thánh Đức soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2186.
Đây là sách chú giải về cuốn “Duy Ma Kinh” (Vimalakirtirdesa-sutra) (số 27), và là một trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn. Người ta cho rằng một trong những lý do quan trọng để chú giải là vì nhân vật chính Duy Ma (Vilamakirti) không phải là một tỳ kheo xuất gia là một bồ tát tại gia, tương tự như trường hợp của chính Thái Tử.
Trước đây có những nghi vấn về chuyện có phải sách này thực sự do Thái Tử Thánh Đức soạn hay không. Tuy nhiên, ngày nay cũng không có chứng cớ xác thực nào cho thấy sách này do ai khác viết ra chứ không phải do tác giả của hai cuốn khác trong “Tam Kinh Nghĩa Sớ” viết. VÌ vậy, điều hợp lý nhất là có thể tin rằng Thái tử Thánh Đức là tác giả cả ba cuốn đó.
108/ Pháp Hoa Nghĩa Sớ
4 quyển. Do Thái Tử Thánh Đức soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2187.
Đây là sách chú giải về “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12), và là một trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn. Tuy tác giả có tham khảo những lời chú giải Hán văn về Pháp Hoa Kinh, nhưng trong sách này rõ ràng là có những ý kiến riêng của chính ông. VÌ vậy có thể coi rằng đây là cuốn sách giải thích về tư tưởng Phật giáo đầu tiên do một người Nhật viết.
Đặc biệt là sự đánh giá của tác giả đối với nội dung của Pháp Hoa Kinh như là “Nhất Đại Thừa” đã tạo ảnh hưởng sâu rộng đối với Phật giáo Nhật Bổn sau này. Thật sự trong lịch sử Phật giáo Nhật Bổn, Pháp Hoa Kinh đã được coi là một trong những kinh điển quan trọng nhất.
109/ Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện
1 quyển. Do Không Hải (Kukai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2203-A.
Ngày nay cuốn “Bát Nhã Tâm Kinh” (gọi tắt là “Tâm Kinh”) vẫn còn được nhiều tông phái Phật giáo Nhật Bổn sử dụng, và trong những thế kỷ qua nó đã được nhiều người viết chú giải. Nhưng đặc điểm của cuốn này – nhan đề có nghĩa là “bí kíp khai mở Bát Nhã Tâm Kinh” – được viết từ lập trường của phái Chân Ngôn (Shingon) của Phật Giáo, và nó xác định rằng Tâm Kinh đích thực là một kinh điển Mật giáo.
Đầu tiên, Không Hải bàn về đại ư, nhan đề và những bản dịch khác nhau của cuốn kinh này từ lập trường của Mật giáo, kế đó ngài phân chia nó thành 5 phần và giải thích về mỗi phần. Theo như lời ghi chú ở cuối sách thì cuốn sách chú giải này được viết do lệnh của thiên hoàng đương thời khi nước Nhật đang bị bệnh dịch hoành hành.
110/ Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thõ̀n Chương
5 quyển. Do Hộ Mạng (Gomyo) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2309.
Năm 830, Thiên Hoàng Thuần Ḥa (Junna) ra lệnh cho mỗi tông phái Phật giáo đệ trình cho ông một bản luận thuyết trình bày sơ lược về những điều cốt yếu trong giáo lý của họ. Sáu tác phẩm trình lên cho vị thiên hoàng được gọi chung là “Thiên Trường Lục Bổn Tông Thơ,” và đây là một trong những cuốn sách đó, do tông phái Pháp Tướng trình bày.
Tác giả Hộ Mạng là học giả Phật giáo nổi tiếng nhất vào đầu Thời Đại Bình An (Heian) ở Nhật và ông viết rất nhiều sách, nhưng tác phẩm còn sót lại của ông chỉ còn cuốn này. Tác phẩm này quan trọng không những vì nó là một trong “Lục Bổn Tông Thơ” mà còn vì giá trị của nó để dùng làm tài liệu nghiên cứu về tư tưởng của phái Duy Thức Nhật Bổn.
111/ Quán Tâm Giác Mộng Sao
3 quyển. Do Lương Biến (Ryohen) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2312.
Chữ “Quán Tâm” (quan sát cái tâm) trong nhan đề muốn nói rằng không có hiện tượng ngoại tại nào tồn hữu một cách độc lập đối với tâm trí con người, và “Giác Mộng” (thức dậy từ giấc mộng) ngụ ý dùng trí tuệ quán sát để tỉnh dậy từ giấc mộng của sự tồn hữu mê muội để giác ngộ chân lư.
Nói cách khác, sách này trình bày một sự dung ḥa giữa tư tưởng của phái Duy Thức với Phật giáo Đại Thừa, từ lập trường của phái Duy Thức, được viết ra để đối kháng với trường phái “Tân Phật Giáo” trong thời đại Liêm Thương (Kamakura) ở Nhật Bổn. VÌ vậy sách này có thể được coi như một kinh điển nhập môn về tư tưởng của phái Duy Thức.
Tác giả Lương Biến là người thông đạt tư tưởng của các phái Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông và Tịnh Độ Tông, cho nên những lý luận trong sách này đôi khi có vể thiếu chính thống đối với phái Duy Thức.
112/ Luật Tông Cương Yếu
2 quyển. Do Ngưng Nhiên (Gyomen) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2348.
Tác giả sách này còn có một cuốn khác nhan đề là “Bát Tông Cương Yếu” (số 136), trong đó nói đại cương về 6 tông phái Phật giáo Nhật Bổn trong thời đại Nại Lương (Nara) và 2 tông phái trong thời đại Bình An (Heina). Trong khi cuốn “Luật Tông Cương Yếu” này chỉ bàn về phái Luật Tông (Risshu), và nói chi tiết về những giáo lý và lịch sử của phái này.
Tác giả thuyết minh về địa vị của giới luật trong việc tu hành Phật giáo, và dùng những từ ngữ cụ thể và lập trường của một người tu hành để bàn về nhiều hình thức giới luật, từ những giới luật của phái Nguyên Thủy cho tới phái Đại Thừa, và nói về sự lưu truyền của từng điều khoản trong bộ giới luật về tu hành, từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa rồi truyền tới Nhật Bổn, đồng thời nói về những thay đổi từ xưa cho tới thời của tác giả.
113/ Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập
1 quyển. Do Nghĩa Chân (Gishin) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2366.
Vào đầu Thời Đại Bình An (khoảng năm 830), Thiên Hoàng Thuần Ḥa (Junna) ban sắc lệnh cho mỗi tông phái Phật giáo đệ trình cho ông một cuốn luận thuyết nói đại cương về những giáo lý chính yếu của họ. Những sách đó đã được gọi chung là “Lục Bổn Tông Thơ,” và cuốn “Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập” này nằm trong số đó. Tác phẩm này – thường được gọi tắt là “Thiên Thai Tông Nghĩa Tập” – nói sơ lược về những giáo nghĩa của tông phái Thiên Thai.
Nội dung sách này giải thích ngắn gọn và rõ ràng về đa số những giáo nghĩa chính yếu của phái Thiên Thai, vì vậy nó rất tiện để độc giả làm quen với những giáo nghĩa của phái này.
114/ Hiển Giới Luận
3 quyển. Do Tối Trừng (Saicho) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2376.
Tác giả Tối Trừng cực lực chống đối giới luật tu hành của phái Tiểu Thừa (Hinayàna) và ông chủ trương rằng nên theo giới luật của phái Đại Thừa (Mahàyanà). Để hỗ trợ những ý kiến của mình, ông đã trình lên triều đình Nhật cuốn sách “Sơn Gia Học Sinh Thức” (số 115), gồm ba phần, và nói về những qui luật của giới tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai. Nhưng vì bị 6 tông phái Phật giáo thời Nại Lương chống đối mạnh mẽ, cho nên Tối Trừng không nhận được sự ủng hộ của triều đình đối với những pháp qui đó, vì thế ông đã viết cuốn sách này để phản công lại những lý luận của các tông phái thời Nại Lương chống đối bốn điều khoản trong phần thứ ba của cuốn “Sơn Gia Học Sinh Thức.”
115/ Sơn Gia Học Sinh Thức
1 quyển. Do Tối Trừng (Saicho) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2377.
Sách này bao gồm những qui tắc do Tối Trừng, người sáng lập tông phái Thiên Thai ở Nhật Bổn, đặt ra cho các tăng-học-sinh trẻ tuổi tu tập trong các tự viện của phái này tuân thủ.
Đoạn thứ nhứt gồm 6 đề mục và liệt kê những qui luật dành cho hai tăng-học mà triều đình mỗi năm tiến cử họ đi học với phái Thiên Thai. Đoạn thứ nh́ gồm 8 đề mục, trong đó giải thích rõ chi tiết về những qui luật này; và đoạn thứ ba gồm 4 đề mục, bàn về những giới luật của Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tất cả ba nhóm qui luật nói trên được gọi chung là “Sơn Gia Học Sinh Thức” (có nghĩa là “những qui luật dành cho các học sinh tại trường trên núi”)
Vào thời của Tối Trừng, các tăng sĩ cần phải qui theo những giới luật của Tiển Thừa thì mới được triều đình chính thức nh́n nhận là tăng sĩ. Tối Trừng phản đối điều này, và ông đề xướng hăy thay thế bằng những giới luật Đại Thừa căn cứ vào “Phạm Vơng Kinh” (số 46).
Sách này ghi lại ba thỉnh nguyện thư mà Tối Trừng đệ trình lên triều đình để xin chấp thuận những giới luật Đại Thừa.
116/ Bí Tàng Bảo Thược
3 quyển. Do Không Hải (Kukai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2426.
Vào đầu thời đại Bình An (khoảng năm 830) Thiên Hoàng Thuần Ḥa ra lệnh cho đại biểu của mỗi tông phái Phật giáo hăy dâng lên cho ông một bản luận thuyết trong đó tóm lược những giáo nghĩa của tông phái họ. Trong số 6 bản luận thuyết trình lên thiên hoàng có “Thập Trụ Tâm Luận” (Luận Về 10 Cấp Bậc Của Tâm) (thập trú tâm giáo án) (Đại Chánh Đại Tạng số 2425) do Không Hải viết, phái Chân Ngôn (Shingon). Tuy nhiên, bộ sách này quá đồ sộ so với những bản luận thuyết của các tông phái khác dâng lên thiên hoàng, vì vậy Không Hải được yêu cầu hăy trình lên một bản luận thuyết giản lược hơn. Kết quả đưa tới tác phẩm “Bí Tàng Bảo Thược” này (nhan đề có nghĩa là “ch́a khóa quí báu mở vào kho tàng bí mật”).
Phương pháp của Không Hải để làm sáng tỏ lập trường của phái Chân Ngôn là thiết lập một hệ thống phê bình gồm “10 cấp bậc của tâm,” (thập trú tâm giáo phán) không những bàn về những tông phái Phật giáo khác nhau mà còn bàn cả tới những tôn giáo khác ở Ấn Độ và Trung Hoa; và tác giả xếp hạng phái Chân Ngôn ở cấp bậc cao nhất trong tất cả các tông phái.
117/ Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận
2 quyển. Do Không Hải soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2427.
Nhan đề có nghĩa là “luận về những khác biệt giữa hai giáo lý hiển giáo và mật giáo (của đạo Phật)” và thường được gọi tắt là “Nhị Giáo Luận.” Như nhan đề đã ngụ ư, nội dung là sự so sánh những khác biệt về phẩm chất giữa hai phái “Hiển Giáo” và “Mật Giáo.” Không Hải kết luận rằng giáo nghĩa của Mật Giáo cao siêu hơn.
Những điểm bàn luận trong sách này là: Các vị Phật đã biểu hiện hai loại giáo nghĩa nội dung của các giáo nghĩa, thời gian cần thiết để thành Phật, và những lợi ích từ hai giáo lý khác nhau. Qua những lời trích dẫn từ nhiều kinh điển. Không Hải chứng minh rằng Mật Giáo siêu việt hơn Hiển Giáo trong tất cả những điểm nờu trờn.
118/ Tức Thân Thành Phật Nghĩa
1 quyển. Do Không Hải soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2428.
Trước thời của Không Hải, Phật giáo Nhật Bổn cho rằng người ta có thể trở thành Phật sau khi đã trải qua một thời gian rất dài, với nhiều kiếp luân hồi sinh tử; người Nhật gọi điều đó là “tam kiếp thành Phật” (ba kiếp thành Phật). Nhưng trong sách này Không Hải nêu ra ý kiến rằng người ta có thể trở thành Phật ngay trong nhục thân này, nghĩa là “tức thân thành Phật.” Vì vậy, tác phẩm của ông minh xác lập trường của phái Chân Ngôn chủ trương rằng việc tu hành có thể dẫn tới “tức thân thành Phật.”
Khi xét tới sự kiện cuốn luận thuyết “Tức Thân Thành Phật Nghĩa” của Không Hải đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với Phật giáo Nhật Bổn về sau này, người ta có thể nói rằng nó là một tác phẩm hết sức trọng yếu về mặt triết lư.
119/ Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa
1 quyển. Do Không Hải (Kukai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2429.
Trong giáo lý của phái Chân Ngôn có thuyết cho rằng những hành vi của thân thể, của ngôn ngữ, và của ý thức nhân loại, trên bản chất thì tương ứng với những hành vi của một vị Phật. Do đó ba loại hành vi này được gọi là “thân mật,” “khẩu mật,” “ý mật,” và chúng được gọi chung là “tam mật.” Cuốn “Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa” (Ý Nghĩa của Âm Thanh, Chữ và Thực Thể) này nói về “bí mật của ngôn ngữ.”
Trích dẫn từ cuốn “Đại Nhựt Kinh” (mahavairocana-sutra) (số 39), Không Hải nói rằng “thanh” và “từ” trong thực chất là những biểu hiện của đức tánh Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana), và Đại Nhựt Như Lai chính là hiện thân của chân lư; vì vậy những ngôn (hay “chú ngữ” - mantras) thực sự là những biểu hiện của chân lư. Sự thật là danh hiệu của phái Chân Ngôn (Shingon) rút ra từ quan điểm cho rằng từ ngữ chính là chân lư.
120/ Nghĩa Chữ “Hùm”
1 quyển. Do Không Hải (Kukai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2430.
Chữ “ ” là phiên âm theo Hán tự của chữ “Hum” trong Phạn ngữ, đây là chữ cuối cùng trong các chữ của Phạn ngữ, trái ngược với chữ “a” là chữ cái đầu tiên.
Cuốn này nhan đề là “Nghĩa Chữ ‘Hum’,” bàn về những ý nghĩa phiến diện và ý nghĩa thâm sâu của chữ đó, và sách này được coi là kinh điển mà tín đồ của phái Chân Ngôn cần phải đọc.
Những ý nghĩa phiến diện của chữ “hùm” được bàn từ lập trường của Hiển Giáo, trong khi ý nghĩa thâm sâu của chữ này được bàn từ quan điểm của Mật Giáo.
121/ Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích
1 quyển. Do Giác Hoàn (Kukuhan) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2514.
Vào cuối Thời Đại Bình An (Heian), là thời của tác giả sách “Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích” (nghĩa là “cách giải thích bí mật về năm bánh xe và chú ngữ chín chữ”), ở Nhật Bổn ngày càng nhiều người tin thuyết vãng sanh vào cơi Tây phương cực lạc. Trong sách này tác giả dùng lập trường của Mật Giáo để nói rằng Đại Nhựt Như Lai (Mahavaicorana) và Phật A Di Đà thật sự chỉ là một, rằng Mật Nghiêm Tịnh Độ (Ghanavyuha) của Đại Nhựt Như Lai và Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà cũng cùng là một nơi, và rằng được tái sanh ở Tây phương cực lạc cũng giống như đạt tới Phật vị.
Chữ “Ngũ Luân” trong nhan đề là nói về năm nguyên tố của tất cả những hiện tượng nơi trần thế, gồm “thổ, thủy, hỏa, phong, và không” (đất, nước, lửa, gió và không khí); và chữ “Cửu Tự” là chú ngữ (mantra) của Phật A Di Đà, là chữ Phạn gồm 9 vần. Tác giả muốn nói rằng, vì ngũ luân và chính chữ này là giống hệt nhau, cho nên Đại Nhựt Như Lai và Phật A Di Đà cũng hoàn toàn giống nhau.
Sách này được coi là trọng yếu vì nó trình bày quan điểm của Mật Giáo đối với Phật A Di Đà và cảnh giới Tây phương cực lạc.
122/ Mật Nghiêm Viện Phát Lộ Sám Hối Văn
1 quyển. Do Giác Hoàn (Kakuhan) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2537.
Giác Hoàn, tác giả sách này và là người sáng lập chi nhánh “Tân Nghĩa” của phái Chân Ngôn, đã từ quan năm 41 tuổi, tự giam mình trong một gian pḥng tại Chùa Mật Nghiêm để im lặng tham thiền suốt 1,500 ngày. Sách này được viết trong thời kỳ đó bằng thể thơ, gồm 44 câu thất ngôn.
Có thể nói rằng hành vi này là để bày tỏ sự “sám hối tuyệt đối,” trong đó tác giả sám hối về ác nghiệp không những của chính mình mà cả tới những ác nghiệp của người khác. Giác Hoàn buồn ḷng về những hành vi thiếu đạo đức của các tăng sĩ đương thời, cho nên có lẽ ông muốn hành trình như vậy để cảnh tỉnh những người trong giới Phật giáo.
Cho tới ngày nay các tăng sĩ thuộc những giáo phái bắt nguồn từ phái Tân Nghĩa vẫn tụng đọc kinh sách này ít nhất một lần mỗi ngày.
123/ Hưng Thiền Hộ Quốc Luận
3 quyển. Do Vinh Tây (Eisai) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2543.
Nhan đề có nghĩa là “luận về truyền bá Thiền để bảo vệ quốc gia,” nội dung chủ trương rằng sự nh́n nhận Thiền như là một tông phái Phật giáo độc lập là điều cần thiết đối với cả Phật giáo lẫn sự thịnh vượng của quốc gia. Tác giả Vinh Tây đã đem giáo lý của phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền vào Nhật Bổn, vì vậy ngài bị phái Thiên Thai và các phái Phật giáo truyền thống khác của Nhật cực lực công kích. Để trả lời họ, ngài viết tác phẩm này, nhấn mạnh rằng việc truyền bá Thiền chính là để giúp bảo vệ nước Nhật.
Toàn bộ tác phẩm gồm 10 chương, và tác giả trích dẫn những kinh điển Phật giáo để hỗ trợ cho tất cả những luận cứ của ngài. Một bản tiểu sử đơn giản về Vinh Tây do một người khuyết danh viết đã được thêm vào phần tựa của sách này.
124/ Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi
1 quyển. Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2580.
Nhan đề có nghĩa là “khuyến khích mọi người tọa thiền,” do Đạo Nguyên, vị khai tổ của phái Tào Động (Soto) ở Nhật Bổn, viết vào năm 1227 ngay sau khi ngài trở về Nhật từ Trung Hoa. Nội dung nói rõ về ý nghĩa đích thực của tọa thiền và nhấn mạnh sự quan trọng của việc thực hành môn này.
Đạo Nguyên coi rằng tọa thiền không phải là một phương tiện để khai ngộ kiến tánh mà chính là bao gồm tất cả sự thực hành Phật giáo, và ngài chủ trương rằng việc thực hành tọa thiền tương đương vói chính trạng thái của một vị Phật. Sách này được viết để phổ biến những ý kiến của tác giả về tọa thiền thuần túy, và nó đã trở thành nền móng để thành lập phái Tào Động.
Đây là một tác phẩm ngắn, chỉ gồm có 786 chữ; tuy nhiên, nội dung của nó không phải là dễ lý giải.
125/ Chánh Pháp Nhăn Tàng
95 quyển. Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2582.
Nhan đề có nghĩa là “con mắt và kho tàng của đạo pháp chân chánh,” là kiệt tác văn chương của Đạo Nguyên, vị khai tổ phái Tào Động của Thiền Tông, và được viết bằng ngôn ngữ Nhật Bổn (thay vì bằng Hán văn cổ điển), nội dung nói về những giáo nghĩa của phái này. Đạo Nguyên đã chủ ý viết một bộ sách gồm 100 quyển, nhưng sau, khi chỉ viết được 95 quyển thì ngài lâm bệnh và viên tịch.
Để làm sáng tỏ lập trường của mình, Đạo Nguyên đã bàn luận tỉ mỉ về những khác biệt giữa những quan điểm của ngài với những quan điểm của các tông phái Phật giáo khác; vì vậy người ta có thể hiểu rõ những tư tưởng của ngài qua tác phẩm này.
Nhan đề “Chánh Pháp Nhăn Tạng” là ý nói những giáo lý chân chánh của Đức Phật Thích Ca trong đời ngài. Trong bộ sách, tất cả những khía cạnh của giáo lý Phật giáo, của các kinh điển, lối sống và tu trì, được trình bày từ lập trường của tác giả.
Bộ sách này được đánh giá rất cao, và được coi là tác phẩm triết học xuất sắc nhất của Nhật Bổn.
126/ Tọa Thiền Dụng Tâm Ký
1 quyển. Do Dinh Sơn Chiêu Cẩn (Keizan Jokin) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2586.
Nhan đề có nghĩa là “ghi chép những vấn đề cần thận trọng khi tọa thiền,” do Dinh Sơn Chiêu Cẩn thuộc phái Tào Động Nhật Bổn soạn – tác giả được vinh danh là “Thái Tổ” của phái này và cũng là người thành lập ngôi chủa Tổng Trì Tự. Nội dung bàn luận về mục đích và ý nghĩa của tọa thiền, và là một Luận điển không thể thiếu đối với tăng sĩ của phái Tào Động.
Sách này nói về những vấn đề hết sức thực tiễn như: sự quan trọng, cần phải ăn uống điều độ để giữ ǵn sức khỏe, và cấm mặc y phục quá sang trọng hoặc nhơ bẩn, không nên đam mê những trò chơi như ca vũ nhạc. Ngoài ra, nội dung nói thêm rằng sự tọa thiền thực hành trong phái Tào Động không phải chỉ nằm trong ba điều “giới, định, huệ” mà thật ra còn bao gồm hết thảy ba điều đó.
127/ Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập
1 quyển. Do Nguyên Không (Genku) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2608.
Sách này thường được gọi tắt là “Tuyển Trạch Tập,” là tác phẩm chính yếu của Nguyên Không, vị khai tổ của tông phái Tịnh Độ Nhật Bổn, vì vậy được coi là kinh điển căn bản của phái này.
Sách chia thành 16 chương; nó căn cứ vào những trích dẫn từ ba kinh điển căn bản của phái Tịnh Độ (số 17, 18, 19), và “Quán Kinh Sớ” (số 73) của Thiện Đạo, và nhiều kinh sách liên hệ khác, để thuyết minh rằng hành động niệm Phật sẽ dẫn tới sự tái sanh vào cơi Tịnh Độ.
VÌ sách này có những lời phê bình những tông phái Phật giáo truyền thống của Nhật Bổn thành lập vào các thời đại Nại Lương và Bình An, và trình bày lập trường cương yếu của phái Tịnh Độ, cho nên nó bị các tông phái truyền thống đó công kích kịch liệt; và nhiều sách phản bác quan điểm của Nguyên Không đã xuất hiện từ khi ông còn tại thế.
128/ Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại
6 quyển. Do Thân Loan (Shinran) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2646.
Sách này thường được gọt tắt là “Giáo Hành Tín Chứng” (nghĩa là “nói về ngộ”), là tác phẩm chủ yếu của Thân Loan, và cũng là kinh điển căn bản của chi phái Chân Tông thuộc Tịnh Độ Tông.
Đặc điểm của tác phẩm này là chứa đựng nhiều trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo để làm sáng tỏ những giáo lý của Chân Tông; đồng thời tác giả cố gắng tránh đưa thêm vào đó những ý kiến riêng của mình. Vì vậy, có thể nói rằng trong sách này Thân Loan nỗ lực hệ thống hóa tư tưởng của ngài bằng cách trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo thời trước.
Điều đáng nói là những câu kệ tụng “Chánh Tín Niệm Phật Kệ” được Liên Như (Rennyo), vị tổ đời thứ tám của phái Chân Tông, tuyển chọn để cho các tín đồ của phái này tụng đọc hằng ngày (cho tới ngày nay vẫn tiếp tục), là rút tra từ đoạn kết luận của chương nói về “Hành” trong sách này.
129/ Thán Dị Sao
1 quyển. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2661.
Sau khi Thân Loan, vị khai tổ phái Tịnh Độ, viên tịch, các đệ tử của ngài có những ý kiến khác nhau về cách giải thích khái niệm chữ “tín” trong giáo lý phái Chân Tông. VÌ vậy có người soạn ra sách này – để chỉ trích những xung khắc đó và cũng để giải quyết những ghi vấn của các đệ tử phái Chân Tông bằng cách ghi lại những lời dạy của Thân Loan lúc sanh tiền và làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của “tha lực bản nguyện.”
Sách này được chia thành 18 chương, 10 chương đầu ghi chép những lời dạy của Thân Loan mà tác giả đã được nghe trực tiếp. Tám chương còn lại bàn luận và phê phán những ý kiến trái ngược.
Đây có thể là tác phẩm Phật giáo nổi tiếng nhất của Nhật Bổn và đã được dịch ra nhiều ngoại ngữ; tuy nhiên, mãi cho tới thời đại Minh Trị (Meiji) thì sác này mới được nhiều người trong dân gian biết tới.
Có những thuyết khác nhau về chuyện ai là tác giả; nhưng ngày nay phần đông tin rằng do Duy Đan (Yuien) soạn ra.
130/ Liên Như Thượng Nhơn Ngự Văn
5 quyển. Do Đan Như Quang Dung (Ennyo Koyu) thu thập. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2668.
Nhan đề có nghĩa là “văn thư của ngài Liên Như” và cũng được gọi tắt là “Ngự Văn Chương” hoặc “Ngự Văn,’’ là một tuyển tập gồm những thư từ của Liên Như (Rennyo), vị tổ thứ tám của chi phái Chân Tông thuộc Tịnh Độ Tông, gửi cho các tín đồ để bàn về những giáo lý của Chân Tông, và gồm có 80 bức thư, chia thành 5 quyển.
Người ta vẫn chưa biết chắc là ai là người thu thập những bức thư này, nhưng nhiều người tin rằng vị tổ thứ chín là Thực Như (Jitsunyo) đã sai con trai ông là Đan Như (Ennyo) góp lại thành sách.
Nội dung sách này thuộc loại dễ hiểu, và ngày nay vẫn còn được tất cả các chi phái của Chân Tông dùng để tụng đọc và làm đề tài để thuyết giảng giáo lư. VÌ vậy, nhiều đoạn văn trong sách đã trở thành quen thuộc đối với độc giả Nhật Bổn hiện đại.
131/ Vãng Sanh Yếu Tập
3 quyển. Do Nguyên Tín (Genshin) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2682.
Đây là một tuyển tập gồm những đoạn văn quan trọng lựa từ nhiều kinh điển Phật giáo liên quan tới những ǵ nói về vãng sanh nơi Tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà, do Nguyên Tín (Genshin), một vị tăng sĩ trụ trì tại chùa Huệ Tâm, Viện Eshin-in ở núi Hiei (Huê Sơn) thu thập.
Sách này được coi là nguồn tư liệu của tư tưởng Phật giáo bàn về cảnh giới cực lạc và địa ngục, và đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với hậu thế, chẳng những trong giới tín đồ Phật giáo và giới nghiên cứu triết học mà còn cả trong những địa hạt văn chương và nghệ thuật.
Một điều nữa cần nên ghi nhận là tư tưởng về “niệm Phật” (nenbutsu) đề ra trong sách này đã dẫn tới sự thành lập nhiều chi phái khác nhau của Tịnh Độ như là những tông phái độc lập. VÌ vậy, nó được coi là giữ địa vị quan trọng nhất trong số những kinh điển cơ bản của Tịnh Độ Tông.
132/ Lập Chánh An Quốc Luận
1 quyển. Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2688.
Nhan đề có nghĩa là “luận về chính sách tạo bình an cho quốc gia,” là tác phẩm tiêu biểu của Nhựt Liên, vị khai tổ của tông phái Nhựt Liên, và cũng là một bản luận thuyết viết cho một vị Sứ Quân Nhật Bổn đương thời.
Nhựt Liên mở đầu sách với lời bàn luận về nguyên nhân gây ra những thiên tai và nhân họa khiến cho xă hội rối loạn, rồi ngài xác quyết rằng những tai họa đó sẽ biến mất và quốc gia sẽ thái bình nếu toàn quốc tin tưởng vào Kinh Pháp Hoa (số 12).
Nhựt Liên cảm thấy sự nguy hiểm và tin rằng những tai ách xảy ra là vì trong nước thiếu những đạo pháp chân chánh, và sợ rằng nước Nhật sẽ có thể bị ngoại quốc xâm lăng rồi cuối cùng bị hủy hoại. Ngài mạnh mẽ chỉ trích phái Tịnh Độ Tông, và đưa ra những lời trích dẫn từ nhiều kinh điển để hỗ trợ cho quan điểm của mình. VÌ hậu quả của sách này Nhựt Liên đã bị lưu đầy ra đảo Y Đậu (Izu).
133/ Khai Mục Sao
2 quyển. Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2689.
Nhựt Liên viết ra cuốn sách này – một trong những tác phẩm tiêu biểu của ngài – do sự thúc đẩy của những kinh nghiệm đau ḷng mà ngài đã trải qua trong thời gia bị lưu đầy trên các đảo Y Đậu (Izu) và Tả Độ (Sado). Nội dung đưa ra sự tái thẩm định của tác giả đối với Kinh Pháp Hoa (số 12).
Chữ “Khai Mục” trong nhan đề nghĩa là “mở mắt,” ngụ ý rằng mục đích của sách này là để dẫn dắt những người còn ở trình độ thấp về phát triển tinh thần có thể hiểu được tinh túy của Kinh Pháp Hoa cao siêu.
VÌ sách được viết bằng Nhật văn thay vì bằng Hán văn, cho nên người ta tin rằng Nhựt Liên viết tác phẩm này với chủ ý cho các đệ tử tại gia của ngài đọc.
134/ Quán Tâm Bổn Tôn Sao
1 quyển. Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2692.
Sách này được coi là kinh điển quan trọng nhất của phái Nhựt Liên Tông. Trong sách Nhựt Liên giảng giải phương pháp và giáo nghĩa về “quán tâm bổn tôn,” nghĩa là tụng đọc “đề mục” (daimoku) khi đối diện với đối tượng thờ phụng.
Nhựt Liên tin rằng chân lý căn bản trong vũ trụ, thể hiện trong tâm, bao gồm trong “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12) và năm chữ Hán này hàm chứa mọi điều. VÌ vậy trong sách ngài xác quyết rằng bằng cách tụng đọc “đề mục” – đọc câu “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” – người ta có thể ḥa nhập vào thế giới của Phật trong khi vẫn giữ sắc thân (xác phàm).
135/ Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh
1 quyển. Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2587.
Nhan đề có nghĩa là “kinh nói về công ơn thâm trọng của cha mẹ,” nội dung mô tả tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái sâu xa như thế nào, rồi tác giả nói rằng để đền ơn cha mẹ người ta cử hành lễ Vu Lan, tụng đọc và sao chép “Vu Lan Bồn Kinh” (số 36).
Xét từ hình thức khác thường và nội dung của nó, kinh này thường được coi xuất xứ từ Trung Hoa, và có thể là do bắt nguồn từ ảnh hưởng của Khổng giáo đối với Phật giáo. Dù sao, tác phẩm này rất phổ biến, thường được trích dẫn trong những tác phẩm văn chương, và nhiều người đã viết những bản bình luận về nó.
136/ Bát Tông CươngYếu
2 quyển. Do Ngưng Nhiên (Gyonen) soạn.
Nhan đề có nghĩa là “những điều cốt yếu của tám tông phái,” nội dung nói giản lược về lịch sử và giáo lý của tám tông phái Phật giáo chính yếu ở Nhật Bổn vào thời của tác giả, đó là 6 tông phái du nhập vào Nhật Bổn ở Thời Đại Nại Lương và 2 tông phái do Tối Đằng (Saicho) và Không Hải (Kukai) đưa vào Nhật Bổn trong Thời Đại Bình An. VÌ vậy có thể nói rằng tác phẩm này là sách nhập môn đưa vào Phật giáo Nhật Bổn.
Quyển thượng gồm một bài mở đầu và những phần nói về phái Câu Xá tông (Kusha), Thành Thật tông (Jojitsu), và Luật tông. Quyển hạ nói về các phái Pháp Tướng tông (Hosso), Tam Luận tông (Sanron), Thiên Thai tông (Tendai), Hoa Nghiêm tông (Kegon) và Chân Ngôn tông (Shingon), kế tiếp là những lời bình luận đơn giản về hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông.
137/ Tam Giáo Chỉ Qui
3 quyển. Do Không Hải (Kubai) soạn Tạng Ngoại.
Sách này của Không Hải (Kukai), vị khai tổ của phái Chân Ngôn (Shingon), có thể được coi như tuyên ngôn của tác giả về chí hướng xuất gia đi tu, và cũng là tác phẩm đầu tiên của ngài. Nhan đề có nghĩa là “chỉ về những mục tiêu của ba giáo lư.”
Bản sơ thảo của sách lúc đầu đặt tên là “Lung Cổ Chỉ Qui” (“chỉ về mục tiêu cho người điếc và mù”), bắt đầu viết khi tác giả 18 tuổi, và tới khi 24 tuổi ngài hoàn thành bản đã sửa chữa này.
“Tam Giáo” là ba tôn giáo Nho giáo, Lăo giáo và Phật giáo. Trong sách này Không Hải bàn luận và so sánh những ưu và khuyết điểm của chúng, và xác quyết rằng việc trở thành một tăng sĩ Phật giáo mới đích thực là biểu hiện lòng hiếu thảo – ngài muốn biện hộ cho hành động đi tu của mình đối với lời chỉ trích của những người trong gia đ́nh.
138/ Mạt Pháp Đãng Minh Ký
1 quyển. Tạng Ngoại.
Nhan đề có nghĩa là “luận về ngọn đèn ở thời mạt pháp.” Thời trước có những người cho rằng sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, việc tu trì những giáo lý chân chính của ngài sẽ dần dần bị sao lăng, trải qua ba thời kỳ suy thoái từ “chánh pháp” tới “tượng pháp” và “mạt pháp”. Trong sách này biện luận rằng vì những ngày mạt pháp đã gần kề, đừng nên loại bỏ những tăng sĩ nào không tu trì đầy đủ những giới luật của tự viện. Sách này chỉ trích chủ trương của những tông phái Phật giáo bắt nguồn từ thời đại Nại Lương cho rằng cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những giáo qui của Tiểu Thừa đối với những người xuất gia tu hành.
Những ý kiến trong sách nhận được sự hoan nghênh từ những tông phái mới của thời đại Liêm Thương (Kamakura) sau này, và nhiều nhà lãnh đạo tông giáo của thời đại đó đã trích dẫn tác phẩm này trong các sách của họ để biện minh cho tình trạng tu hành của tăng sĩ vào thời mạt pháp. VÌ vậy có thể có đây là tác phẩm đã tạo ảnh hưởng quan trọng cho thái độ đối với giới luật tu hành của Phật giáo Nhật Bổn về sau này.
139/ Thập Thất Điều Hiến Pháp
Do Thái Tử Thánh Đức (Shotoku) soạn. Tạng Ngoại.
Nhan đề của sách “Thập Thất Điều Hiến Pháp” (mười bảy điều khoản hiến pháp) được ghi trong “Nhật Bổn Thư Kỷ” là “Hiến Pháp Thập Thất Điều.” Đây là cuốn sách luật xưa cũ nhất của Nhật Bổn.
Như nhan đề cho thấy, sách này bao gồm 17 điều khoản, nhưng không giống các sách về luật pháp và hiến pháp ngày nay, thật ra nó gồm những điều khuyên răn về chính trị và đạo đức dành cho các quan lại và những người cầm đầu các gia tộc nhiều quyền thế đương thời. Nội dung nhấn mạnh vào những vấn đề như tôn kính uy quyền của thiên hoàng, và sự cai trị công minh; nhưng toàn bộ tác phẩm bao hàm tinh thần Phật giáo, và cũng có những đoạn nói tới đạo đức của Nho giáo.
Những câu như “Dĩ ḥa vi quí” và “Tôn kính Tam Bảo” trong điều khoản thứ nhất và thứ nh́ đã trở thành nổi tiếng; trong khi câu “Sự quyết định về những vấn đề trọng đại không thể cho một cá nhân đơn độc quyết đoán,” trong điều khoản 17 và cuối cùng, có thể coi như đi tiên phong đối với tư tưởng dân chủ ngày nay.
(MAHÀ SUDASSANA SUTTANTA)
Một thời, Thế Tôn trú ngụ tại Upavattana (Hồ bạt đan) ở Kusinàrà (Câu thi la) trong rừng Sà la của giòng họ Mallà, giữa hai cây Sàla song thọ, khi Ngài sắp nhập Niết-bàn.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang vu này, tại đô thị phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm bà), Ràjagahà (Vương xá) Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa kỳ), Kosambi (Kiều thưởng di), Bàrànasi (Ba la nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy. Tại những chỗ ấy có đại chúng Sát-đế-lỵ, có đại chúng Bà-la-môn, có đại chúng Gia chủ tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng dường thân Xá-lợi Như Lai.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến, vào ngày Bố-tát trăng rằm sau khi tắm rửa, lên cao điện để trai giới, thời Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe, trục xe, đủ mọi bộ phận. Thấy vậy, vua Đại Thiện Kiến suy nghĩ: "Ta nghe như vầy: Khi một vị vua Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh vào ngày Bố-tát trăng rằm, sau khi tắm rửa, lên cao điện trai giới, nếu có Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với vành xe và trục xe, đầy đủ mọi bộ phận, thời vị vua ấy là Chuyển Luân vương. Như vậy ta có thể là Chuyển Luân vương".
Vua Đại Thiện Kiến nói rằng: "Không được sát sanh. Không được lấy của không cho. Không được tà dâm. Không được nói láo. Không được uống rượu. Hãy ăn uống cho thích nghi".
Này Ananda, tất cả địch vương ở phương Đông đều trở thành chư hầu vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, các địch vương ở phương Bắc đến yết kiến vua Đại Thiện Kiến và nói: "Hãy đến đây, Đại vương! Hoan nghênh đón mừng Đại vương! Tâu Đại vương tất cả thuộc của Ngài. Đại vương hãy giáo huấn cho chúng tôi!".
Này Ananda, tất cả địch vương ở phương Bắc đều trở thành chư hầu của vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, xe báu ấy sau khi chinh phục trái đất cho đến hải biên, liền trở về kinh đô Kusàvati, và đứng trước pháp đình, trên cửa nội cung như một trang bảo cho nội cung của vua Đại Thiện Kiến".
Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện xe báu của vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, thuở xưa vua Đại Thiện Kiến muốn thử Gia chủ báu này, liền cỡi thuyền, chèo ra giữa sông Hằng và bảo Gia chủ báu:
- Này Gia chủ, ta cần vàng.
- Tâu Đại vương, Đại vương hãy cho chèo thuyền gần bờ nào cũng được.
- Này Gia chủ, Ta cần vàng ngay tại đây.
Này Ananda, khi ấy Gia chủ báu thọc hai tay xuống nước nhắc lên một ghè đầy cả vàng ròng rồi tâu với vua Đại Thiện Kiến:
- Tâu Đại vương, như vậy đã đủ chưa. Tâu Đại vương, làm như vậy đã được chưa?
Vua Đại Thiện Kiến trả lời:
- Này Gia chủ, như vậy là đủ. Này Gia chủ, làm như vậy là được rồi. Này Gia chủ, cúng dường như vậy là được rồi.
Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện Gia chủ báu của vua Đại Thiện Kiến.
Vị này đến tâu vua Đại Thiện Kiến:
- Tâu Đại vương, Đại vương chớ có âu lo, Thần sẽ cố vấn Đại vương.
Này Ananda, như vậy là sự xuất hiện Tướng quân báu của vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến có đầy đủ bảy báu như vậy.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến cho xây các hồ sen giữa các hàng cây Tà-la, cứ cách khoảng một trăm cung tầm. Này Ananda, những hồ sen ấy được lát bằng bốn loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Này Ananda, trong bốn loại hồ sen ấy có bốn loại tầm cấp, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly. Này Ananda, những hồ sen ấy được hai hàng lan can bao bọc. Một hàng bằng vàng, một hàng bằng bạc. Hàng lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Hàng lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trên bờ những hồ sen này, ta sẽ cho đặt những người hầu tắm cho những người qua kẻ lại". Và này Ananda, vua Đại Thiện Kiến cho đặt những người hầu tắm trên bờ những hồ sen này để tắm cho những người qua kẻ lại.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến lại suy nghĩ: "Trên bờ những hồ sen này, ta sẽ cho đặt những vật bố thí, đồ ăn cho những ai đói, đồ uống cho những ai khát, áo quần cho những ai cần áo quần, xe cộ cho những ai cần xe, đồ nằm cho những ai cần nằm, đàn bà cho những ai cần đàn bà, bạc cho những ai cần bạc và vàng cho những ai cần vàng". Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến, trên bờ những hồ sen ấy, cho đặt những vật bố thí, đồ ăn cho những ai đói, đồ uống cho những ai khát, áo quần cho những ai cần áo quần, xe cộ cho những ai cần xe cộ, đồ nằm cho những ai cần nằm, đàn bà cho những ai cần đàn bà, bạc cho những ai cần bạc, và vàng cho những ai cần vàng.
- Tâu Đại vương, chúng tôi có đem nhiều tiền của này để Đại vương dùng. Mong đại vương hãy thâu nhận lấy.
- Này các Khanh, ta có đầy đủ nhiều tiền bạc do đánh thuế đúng pháp đem lại. Hãy giữ tiền bạc của Khanh lại, và đem theo nhiều nữa cho các Khanh!
Các vị này khi bị vua từ chối, liền đứng qua một bên và suy nghĩ: "Nếu nay chúng ta đem tiền của này về nhà chúng ta thời thật không phải. Chúng ta hãy xây dựng nhà cửa cho vua Đại Thiện Kiến".
Các vị ấy liền đến vua Đại Thiện Kiến và tâu:
- Đại vương, chúng tôi định xây dựng nhà cửa cho Đại vương.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến im lặng nhận lời.
- Này Vissakamma, hãy đến đây và xây dựng một lâu đài cho vua Đại Thiện Kiến, đặt tên là Dhamma (Pháp).
- Xin vâng, Tôn giả.
Này Ananda, Thiên tử Vissakamma vâng lời Thiên chủ Sakka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co, hay co lại cánh tay duổi ra, Thiên tử Vissakamma biến mất từ chư Thiên ở Tavatimsa và hiện ra trước mặt vua Đại Thiện Kiến. Rồi này Ananda, Thiên tử Vissakamma tâu với vua Đại Thiện Kiến:
- Đại vương, tôi sẽ xây dựng một lâu đài tên là Dhamma cho Đại vương!
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến im lặng nhận lời. Và này Ananda, Thiên tử Vissakamma xây dựng lâu đài tên là Dhamma cho vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, nền nhà của lâu đài Dhamma cao cho đến ba thân người và làm bằng ba loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.
Này Ananda, lâu đài Dhamma có đến tám vạn bốn ngàn cột trụ bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.
Này Ananda, lâu đài Dhamma có hai mươi bốn tầm cấp bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly.
Này Ananda, lâu đài Dhamma có tám vạn bốn ngàn phòng ốc bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Trong phòng ốc bằng vàng có chỗ nằm bằng bạc được trải ra. Trong phòng ốc bằng bạc, có chỗ nằm bằng vàng được trải ra. Trong phòng ốc bằng lưu ly có chỗ nằm bằng ngà được trải ra. Trong phòng ốc bằng thủy tinh, có chỗ nằm bằng san hô được trải ra. Tại cửa phòng ốc bằng vàng, có dựng lên một cây Tà-la bằng bạc, với thân cây bằng bạc, với lá và trái cây bằng vàng. Tại cửa phòng ốc bằng bạc, có dựng lên một cây Tà-la bằng vàng, với thân cây bằng vàng, với lá và trái bằng bạc. Tại cửa phòng ốc bằng lưu ly, có dựng lên một cây Tà-la bằng thủy tinh, với thân cây bằng thủy tinh, với lá và trái cây bằng lưu ly. Tại cửa phòng ốc bằng thủy tinh, có dựng lên một cây Tà-la bằng lưu ly, với thân cây bằng lưu ly, với lá và trái cây bằng thủy tinh.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến trước cửa phòng lầu Đại Trang Nghiêm, cho dựng lên một rừng cây Tà-la toàn bằng vàng và tại đây, vua ngồi an tọa ban ngày.
Và này Ananda, vua Đại Thiện Kiến cho xây một hồ sen tên là Dhamma trước mặt lâu đài Dhamma.
Này Ananda, hồ sen Dhamma, về hướng Đông và hướng Tây bề dài đến một do tuần, và về hướng Bắc và hướng Nam bề rộng đến nửa do tuần.
Này Ananda, hồ sen Dhamma có bốn loại gạch, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh.
Này Ananda, hồ sen Dhamma có hai mươi bốn tầm cấp bằng bốn loại, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng. Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy tinh. Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu ly!
Này Ananda, hồ sen Dhamma có hai loại lan can bao bọc, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc. Lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc. Lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
II
Này Ananda, rồi vua Đại Thiện Kiến suy nghĩ: "Quả này là do ba loại nghiệp, báo này là do ba loại nghiệp mà hiện tại ta có thần lực như vậy. Đó là Bố thí, Tự điều, Tự chế".
Hãy dừng lại, tư tưởng dục vọng!
Hãy dừng lại, tư tưởng sân hận!
Hãy dừng lại, tư tưởng não hại!
Đến đây thôi, tư tưởng dục vọng!
Đến đây thôi, tư tưởng sân hận!
Đến đây thôi, tư tưởng não hại!
Tám vạn bốn ngàn lâu đài, và lâu đài Dhamma là đệ nhất. Tám vạn bốn ngàn cao đường, và cao đường Đại Trang Nghiêm là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn sàng tọa, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thú trắng của con sơn dương được che bởi những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ.
Tám vạn bốn ngàn con voi, với những trang sức bằng vàng, được che chở bằng lưới vàng, và tượng vương Uposatha (Bồ-tác-đà) là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn con ngựa, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới vàng, và mã vương Valàhaka (Vân Mã vương) là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn cỗ xe, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, bằng vải vàng, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta (Nhạc thanh xa hay Chiến thắng kỳ) là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn châu ngọc và bảo châu là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn phụ nữ và Hoàng hậu Subhaddà (Thiện Hiền phi) là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn Gia chủ và Gia chủ báu là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn người giòng Sát-đế-lỵ và Tướng quân báu là đệ nhất.
Tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đây (Dukùla), với sừng đầu nhọn bịt đồng.
Tám vạn bốn ngàn vải Koti (Cu-chi) với sắc chất tinh diệu, như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung.
Tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa (Thàlipàka), buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm.
Này Ananda, rồi vua Đại Thiện Kiến bảo Tướng quân báu:
- Này Hiền giả, nay tám vạn bốn ngàn con voi này, sáng chiều đến phục vụ ta. Nay hãy để cho chúng đến, cứ cách một trăm năm, mỗi lần cho bốn vạn hai ngàn con đến.
- Tâu Đại vương, vâng!
Này Ananda, vị Tướng quân báu vâng lời vua Đại Thiện Kiến. Này Ananda, từ đó về sau, cứ mỗi một trăm năm, bốn vạn hai ngàn con voi lần lượt đến với vua Đại Thiện Kiến.
Này Ananda, rồi Hoàng hậu Subhaddà nói với các cung nữ:
- Các Ngươi hãy gội đầu, mặc áo vàng. Cách đây đã lâu, chúng ta được thấy vua Đại Thiện Kiến. Vậy nay chúng ta sẽ đi yết kiến vua Đại Thiện Kiến.
- Tâu Hoàng hậu, vâng!
- Này Ananda, các cung nữ vâng lời Hoàng hậu Subhaddà (Thiện Hiền phi), gội đầu, mặc áo vàng và đi đến Hoàng hậu Subhaddà.
Này Ananda, rồi Hoàng hậu Subhaddà cho gọi Tướng quân báu:
- Này Khanh, hãy cho sắp đặt bốn loại binh chủng. Cách đây đã lâu chúng ta được thấy vua Đại Thiện Kiến. Vậy nay chúng ta sẽ đi yết kiến vua Đại Thiện Kiến.
- Tâu Hoàng hậu, vâng!
Này Ananda, Tướng quân báu vâng lời Hoàng hậu Subhaddà, cho sắp đặt bốn loại binh chủng và tâu Hoàng hậu:
- Tâu Hoàng hậu, bốn loại binh chủng đã sắp đặt xong. Hãy làm gì Hoàng hậu nghĩ là phải thời.
Này Ananda, vua Đại Thiện Kiến suy nghĩ: "Nay tiếng gì ồn ào như vậy, như cả một quần chúng đông đảo?" Vua bèn bước ra khỏi cao đường Đại Trang Nghiêm và thấy Hoàng hậu Subhaddà đang đứng dựa vào cửa. Thấy vậy, vua liền nói với Hoàng hậu Subhaddà:
- Hoàng hậu hãy đứng ở đây, chớ có vào!
- Ngươi hãy nhắc giường bằng vàng ra khỏi cao đường Đại Trang Nghiêm và đặt trong khu rừng cây sàla bằng vàng.
- Tâu Đại vương, vâng!
Này Ananda, người ấy vâng lời dạy của vua Đại Thiện Kiến, nhắc sàng tọa bằng vàng ra khỏi cao đường Đại Trang Nghiêm và đặt trong khu rừng cây sàla bằng vàng.
Này Ananda, rồi vua Đại Thiện Kiến nằm xuống, trong dáng điệu con sư tử, về phía bên hữu, một chân đặt dài trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác.
Rồi Hoàng hậu tâu với vua Đại Thiện Kiến:
- Tâu Đại vương, tám ván bốn ngàn kinh thành này với kinh thành Kusàvati là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Đại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và tượng vương Uposatha là đệ nhất, những con voi này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và mã vương Valàhaka là đệ nhất, những con ngựa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, bằng vải vàng với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn phụ nữ này và phụ nữ báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với họ. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn Gia chủ này và Gia chủ báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với họ. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn người giòng họ Sát-đế-lỵ này và Tướng quân báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với họ. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đây, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy khởi tâm ái dục đối với chúng. Đại vương hãy ái luyến đời sống!
- Đã từ lâu Hoàng hậu nói với ta với những lời dễ chịu, hòa ái và dịu dàng. Thế mà nay, trong lần cuối cùng này, Hoàng hậu lại nói với ta bằng những lời không dễ chịu, không hòa ái, không dịu dàng!
- Tâu Đại vương, thiếp phải đối với Đại vương như thế nào?
- Này Hoàng hậu, Hoàng hậu phải nói với ta như thế này:
"Tất cả mọi sự vật khả ái, khả lạc đều thay đổi, không có thực thể, chịu sự biến hóa. Đại vương chớ có mệnh chung với tâm quyến luyến của chúng. Đau khổ thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến. Đáng trách thay, sự mệnh chung còn ái luyến.
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn kinh thành này với kinh thành Kusàvati là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Đại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che chở bởi những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ tâm ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và tượng vương Uposatha là đệ nhất, những con voi này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này với những trang sức bằng vàng, được che chở với lưới bằng vàng và mã vương Valàhaka là đệ nhất, những con ngựa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những đồ trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn phụ nữ này và phụ nữ báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn gia chủ này và gia chủ báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn người thuộc giòng họ Sát-đế-lỵ này và Tướng quân báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đây, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
- Tâu Đại vương, tất cả mọi sự vật khả ái, khả lạc đều thay đổi, không có thực thể, thực sự biến hóa. Đại vương chớ có mệnh chung với tâm quyến luyến chúng. Đau khổ thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến! Đáng trách thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn kinh thành này với kinh thành Kusàvati là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
“Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn lâu đài này với lâu đài Dhamma là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cao đường này với cao đường Đại Trang Nghiêm là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn sàng tọa này, bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và tượng vương Uposatha là đệ nhất. Những con voi này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn con ngựa này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và mã vương Valàhaka là đệ nhất. Những con ngựa này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy tử bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những đồ trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn phụ nữ này và phụ nữ báu là đệ nhất đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn Gia chủ này và Gia chủ báu là đệ nhất đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với họ. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
"Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn người giòng họ Sát-đế-lỵ này với Tướng quân báu là đệ nhất, đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đây, với sừng đầu nhọn bịt đồng này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu, như vải gai, vải bông, vải lụa, vải nhung này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tâu Đại vương, tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Đại vương. Đại vương hãy từ bỏ lòng ái dục đối với chúng. Đại vương chớ có ái luyến đời sống!
Tám vạn bốn ngàn kinh thành với kinh thành Kusàvati là đệ nhất ấy thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn lâu đài với lâu đài Dhamma là đệ nhất ấy thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn cao đường với cao đường Đại Trang Nghiêm là đệ nhất ấy thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn sàng tọa ấy bằng vàng, bằng bạc, bằng ngà, bằng gỗ kiên cố, được trải với những tấm nệm lông dài, với vải có thêu bông hoa, và với những tấm da thù thắng của con sơn dương, được che chở với những tán che cao và hai đầu có gối màu đỏ, những sàng tọa ấy đều thuộc của ta.
Tám vạn bốn ngàn con voi này, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và tượng vương Uposatha là đệ nhất. Những con voi ấy đều thuộc của ta.
Tám vạn bốn ngàn con ngựa với những trang sức bằng vàng, cờ vàng được che chở với lưới bằng vàng và mã vương Valahaka là đệ nhất. Những con ngựa này đều thuộc của ta.
Tám vạn bốn ngàn cỗ xe này, với những tấm thảm bằng da sư tử, bằng da cọp, bằng da báo, với những trang sức bằng vàng, cờ vàng, được che chở với lưới bằng vàng, và cỗ xe tên Vejayanta là đệ nhất. Những cỗ xe này đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn châu ngọc này với bảo châu là đệ nhất đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn phụ nữ này với phụ nữ báu là đệ nhất đều thuộc của ta.
Tám vạn bốn ngàn Gia chủ này với Gia chủ báu là đệ nhất đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn người giòng họ Sát-đế-lỵ này với Tướng quân báu là đệ nhất đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn nhũ ngưu với trang sức bằng vải cây đây, với sừng đầu nhọn bịt đồng đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn vải Koti với sắc chất tinh diệu như vải gai, vải bông, vải lụa và vải nhung này đều thuộc của Ta.
Tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa, và buổi sáng buổi chiều có cúng dường cơm này đều thuộc của Ta.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn lâu đài ấy, chỉ có một lâu đài mà Ta ở thời ấy, đó là lâu đài Dhamma.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn cao đường ấy, chỉ có một cao đường mà Ta ở thời ấy, đó là cao đường Đại Trang Nghiêm.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn sàng tọa ấy, chỉ có một sàng tọa mà Ta dùng thời ấy, đó là sàng tọa bằng vàng, hay bằng bạc, hay bằng ngà, hay bằng gỗ kiên cố.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn con voi ấy, chỉ có một con voi mà Ta cỡi thời ấy, đó là tượng vương Uposatha.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn con ngựa ấy, chỉ có một con ngựa mà Ta cỡi thời ấy, đó là con mã vương Valàhaka.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn cỗ xe ấy, chỉ có một cỗ xe mà Ta cỡi thời ấy, đó là cỗ xe Vejayanta.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn phụ nữ ấy, chỉ có một phụ nữ hầu hạ Ta thời ấy, đó là phụ nữ của giòng Sát-đế-lỵ hay giòng Velàmikàni.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn loại vải Koti ấy, chỉ có một loại vải sắc chất tế nhị mà Ta mặc thời ấy, đó là vải gai, vải bông, vải lụa hay vải nhung.
Này Ananda, trong tám vạn bốn ngàn loại cháo sữa ấy, chỉ có một loại cháo sữa mà Ta dùng thời ấy, đó là cơm và đồ ăn.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi thuyết xong, Thiện Thệ, bậc Đạo sư nói lại bài kệ như sau:
Tất cả pháp hữu vi,
Thật sự là vô thường,
Khởi lên rồi diệt mất,
Thường tánh là như vậy.
Chúng được sanh khởi lên,
Rồi chúng lại hoại diệt.
Hạnh phúc thay khi chúng
Được tịnh chỉ an lạc.
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________________
>>> 16.Kinh đại bát niết-bàn
Phẩm “Công Đức của Bồ-tát sơ phát tâm” này được trích từ Kinh Hoa Nghiêm bộ 60 quyển, còn phần giảng giải thì được trích từ quyển Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký của ngài Hiền Thủ.
Trong quá trình dịch thuật từ Hán sang Việt, chúng tôi rất cố gắng để bản dịch được tương đối nhất, nhưng nhất định không tránh được thiếu sót. Những câu dịch nào, bản thân chúng tôi thấy nghi ngại trong quá trình dịch thuật cũng như chưa hiểu được ý nghĩa của nó, chúng tôi đều có ghi chú văn Hán của bản gốc, hy vọng ai có nhân duyên đọc qua, góp được ý nào cho thì xin giúp giùm. Địa chỉ email : This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. (Dạ phải có chữ vn thì chúng tôi mới nhận được thư)
Xin chân thành cám ơn rất nhiều. Chân Hiền Tâm
Lúc đó, Thiên Đế Thích bạch với Bồ-tát Pháp Tuệ rằng: “Thưa Phật tử! Bồ-tát sơ phát tâm phải thành tựu bao nhiêu công đức tạng?”.
Pháp Tuệ đáp rằng: “Thưa Phật tử! Chỗ này thậm thâm, khó biết, khó tin, khó hiểu, khó nói, khó thông, khó phân biệt. Tuy nhiên tôi sẽ nương vào thần lực của Phật diễn nói đầy đủ. Thưa Phật tử! Giả như có người cúng dường tất cả vật dụng ưa thích cho chúng sinh trong a-tăng-kỳ thế giới ở phương đông đến một kiếp. Sau đó, dạy họ tịnh tu Ngũ giới. Với phương tây, phương bắc, phương nam, phương trên, phương dưới và bốn phương góc cũng đều như thế. Thưa Phật tử ! Ý Phật tử thế nào? Công đức người kia có nhiều chăng?”
Đế Thích đáp: “Thưa Phật tử! Trừ chư Như Lai, còn lại tất cả đều không thể lường được công đức của người ấy”.
Bồ-tát Pháp Tuệ nói với Đế Thích rằng: “Thưa Phật tử! Công đức tạng của Bồ-tát sơ phát tâm, trăm phần công đức của người kia chẳng bằng một. Ngàn phần, trăm ngàn phần, ức phần, trăm ức phần, ngàn ức phần, trăm ngàn ức phần, trăm na-do-tha phần, ngàn na-do-tha phần, trăm ngàn na-do-tha phần, ức na-do-tha phần, trăm ức na-do-tha phần, ngàn ức na-do-tha phần, trăm ngàn ức na-do-tha phần cho đến phần công đức không thể tính, không thể thí dụ, không thể nói của người đó cũng chẳng bằng một.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy : Giả như có người cúng dường tất cả vật dụng ưa thích cho chúng sinh trong mười a-tăng-kỳ thế giới ở mười phương đến trăm kiếp. Sau đó, dạy họ tịnh tu Thập thiện. Dạy tu Thập thiện rồi, lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến ngàn kiếp. Sau đó dạy họ tịnh tu Tứ thiền. Dạy Tứ thiền rồi, lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến trăm ngàn kiếp. Sau đó dạy họ hành Tứ vô lượng tâm. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến ức kiếp. Sau đó dạy họ hành Tứ vô sắc định. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến trăm ngàn kiếp. Sau đó dạy khiến họ được quả Tu-đà-hoàn. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến ngàn ức kiếp. Sau đó dạy khiến họ được quả Tư-đà-hàm. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến trăm ngàn ức kiếp. Sau đó dạy khiến họ được quả A-na-hàm. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến ức na-do-tha kiếp. Sau đó dạy khiến họ được quả A-la-hán. Lại cúng dường tất cả vật dụng ưa thích đến ngàn ức na-do-tha kiếp. Sau đó dạy họ thành hết Duyên giác. Thưa Phật tử! Ý Phật tử thế nào? Công đức của người đó có nhiều chăng?”
Đế Thích đáp rằng: “Thưa Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ trừ chư Phật, còn lại tất cả đều không thể biết”.
Pháp Tuệ nói: “Thưa Phật tử! Tạng công đức của Bồ tát sơ phát tâm, trăm phần, ngàn phần, cho đến phần công đức không thể tính, không thể thí dụ, không thể nói của người đó cũng chẳng bằng một. Vì sao? Thưa Phật tử! Vì thời sơ phát tâm của chư Phật, không vì cúng dường tất cả vật dụng ưa thích cho chúng sinh trong mười a-tăng-kỳ thế giới thuộc mười phương, trong trăm kiếp cho đến ngàn ức na-do-tha kiếp mà xuất hiện ở đời ; Cũng không vì dạy chúng sinh tịnh tu Ngũ giới, Thập thiện, Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ vô sắc định, quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, đạo Bích-chi-phật mà xuất hiện ở đời. Thưa Phật tử! Vì muốn Phật chủng không đoạn nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn đầy khắp tất cả mười phương giới nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết tất cả thành hoại của thế giới nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết sự sinh khởi tịnh nhiễm của chúng sinh trong tất cả thế giới nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết tự tánh thanh tịnh của tất cả thế giới nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết phiền não tập khí hư vọng của tất cả quần sinh nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết tâm tâm sở niệm của tất cả chúng sinh nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn phân biệt hết tất cả chúng sinh trong ba đời nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết cảnh giới bình đẳng của tất cả chư Phật nên phát tâm bồ-đề”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy : Giả như có người, trong khoảng một niệm, có thể qua khỏi vô lượng thế giới ở phương đông. Người ấy dùng thần lực tự tại đó, từ phương đông này đi hết vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, vẫn không đến được biên tế của thế giới. Lại, thần lực tự tại của người thứ hai, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người trước vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp các thế giới người kia đã đi. Người thứ hai này, từ phương đông đi hết vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp vẫn không đến được biên tế của thế giới. Lại, thần lực của người thứ ba, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ hai vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ hai đã đi. Lại, thần lực của người thứ tư, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ ba vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ ba đã đi. Lại, thần lực của người thứ năm, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ tư vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ tư đã đi. Lại, thần lực của người thứ sáu, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ năm vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ năm đã đi. Lại, thần lực của người thứ bảy, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ sáu vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ sáu đã đi. Lại, thần lực của người thứ tám, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ bảy vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ bảy đã đi. Lại, thần lực của người thứ chín, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ tám vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ tám đã đi. Lại, thần lực của người thứ mười, trong khoảng một niệm, có thể đi hơn người thứ chín vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp thế giới người thứ chín đã đi. Người thứ mười đó, dùng thần lực tự tại tối thắng này, từ phương đông đi hết vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, vẫn chẳng đến được biên tế của thế giới. Mười phương thế giới cũng lại như thế. Cứ lần lượt vậy cho đến người thứ một trăm. Người ấy cũng dùng thần lực tự tại tối thắng, trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đến khắp mười phương, còn có thể liễu tri được biên tế của thế giới, nhưng với tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm thì không thể biết. Vì sao? Vì tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không vì giới hạn trong thế giới chúng sinh này mà phát tâm bồ-đề. Đều vì tất cả thế giới chúng sinh ở mươi phương, vì muốn độ tất cả chúng sinh, vì muốn phân biệt biết tất cả thế giới mà phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết thế giới vi tế tức là đại thế giới, biết đại thế giới tức là thế giới vi tế, biết ít thế giới tức là nhiều thế giới, biết nhiều thế giới tức là ít thế giới, biết thế giới rộng tức là thế giới hẹp, biết thế giới hẹp tức là thế giới rộng, biết một thế giới tức là vô lượng vô biên thế giới, biết vô lượng vô biên thế giới tức là một thế giới, biết vô lượng vô biên thế giới nhập một thế giới, biết một thế giới nhập vô lượng vô biên thế giới, biết uế thế giới tức là tịnh thế giới, biết tịnh thế giới tức là uế thế giới, ở trong một lỗ lông đều phân biệt biết tất cả thế giới, ở trong tất cả thế giới đều phân biệt biết tánh một lỗ lông, biết tất cả thế giới xuất sinh tất cả thế giới, biết tất cả thế giới giống như hư không, vì muốn trong một niệm biết hết tất cả thế giới đều không sót mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người đối với vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới ở phương đông, trong khoảng một niệm, đều phân biệt biết số thành bại. Người này phương tiện tinh cần, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, muốn tính biết hết số thế giới thành bại ở phương đông, vẫn không thể biết. Lại, người thứ hai, đối với số thế giới thành bại trong vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp của người thứ nhất, trong khoảng một niệm đã có thể biết rõ. Người này phương tiện tinh cần, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, vẫn chưa biết hết số thế giới thành bại ở phương đông. Cứ như thế lần lượt cho đến người thứ mười. Người thứ mười đó, đối với số thế giới thành bại trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp của người thứ chín, trong khoảng một niệm, đã có thể biết rõ. Người này phương tiện tinh cần, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, vẫn chưa thể biết hết số thế giới thành bại ở phương đông, cho đến mười phương cũng lại như thế. Song số thành bại của vô lượng vô biên thế giới ở mười phương còn có thể biết, tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, không thể biết được. Vì sao? Vì công đức của đại Bồ-tát sơ phát tâm không vì giới hạn trong việc muốn biết kiếp số thành bại của thế giới này mà phát tâm bồ-đề. Đại Bồ-tát vì muốn biết hết kiếp số thành bại của tất cả thế giới nên phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết trường kiếp tức là đoản kiếp, đoản kiếp tức là trường kiếp ; Biết một kiếp tức là bất khả số a-tăng-kì kiếp, bất khả số a-tăng-kì kiếp tức là một kiếp ; Biết tất cả kiếp có Phật, biết tất cả kiếp không Phật ; Biết trong một Phật kiếp có vô lượng Phật, biết trong vô lượng Phật kiếp có một Phật ; Biết trong dị kiếp có vô dị kiếp, biết trong vô dị kiếp có dị kiếp ; Biết hữu tận kiếp là vô tận kiếp, biết vô tận kiếp là hữu tận kiếp ; Biết vô lượng kiếp tức là nhất niệm, biết nhất niệm tức là vô lượng kiếp ; Biết tất cả kiếp nhập vào không kiếp, biết không kiếp nhập vào tất cả kiếp ; Vì muốn biết hết biên tế của quá khứ, vị lai cùng với kiếp số thành bại của tất cả thế giới trong hiện tại, nên phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Đây gọi là sơ đại thệ nguyện trang nghiêm của Bồ-tát. Đó là trí tuệ chiếu minh đều biết tất cả kiếp”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy : Giả như có người, trong khoảng một niệm, đều biết mọi thứ dục lạc của chúng sinh trong vô lượng vô số a-tăng-kì thế giới. Người này phương tiện tinh cần niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, chẳng thể biết hết mọi thứ dục lạc của chúng sinh trong các thế giới ở phương đông. Như vậy lần lượt cho đến người thứ mười. Người thứ mười này, đối với phương tiện tinh cần biết mọi thứ dục lạc của chúng sinh trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp của người thứ chín, trong khoảng một niệm, thảy đều biết rõ. Người thứ mười đó, phương tiện tinh cần như thế, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, vẫn chẳng thể biết hết mọi thứ dục lạc của chúng sinh trong tất cả thế giới ở phương đông. Cho đến mười phương cũng lại như vậy. Đối với mọi thứ dục lạc của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới ở mười phương còn có thể biết hết, nhưng tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không thể biết được. Vì sao? Thưa Phật tử! Vì công đức của đại Bồ-tát sơ phát tâm không vì giới hạn trong việc muốn biết mọi thứ dục lạc trong thế giới chúng sinh này mà phát tâm bồ-đề. Vì muốn biết hết mọi thứ dục lạc trong tất cả thế giới chúng sinh ở mười phương mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vì muốn biết vô lượng mọi thứ dục lạc tức là một dục lạc mà cũng không hoại tất cả dục tánh ; Muốn biết hết tất cả dục lạc hải của chúng sinh ; Muốn biết dục lạc của một chúng sinh tức là dục lạc của tất cả chúng sinh ; Muốn biết hết mọi thứ dục lạc ở quá khứ, hiện tại và vị lai của tất cả chúng sinh ; Muốn biết hết dục tương tợ và dục không tương tợ ; Muốn biết tất cả dục tức là một dục, một dục tức là tất cả dục ; Muốn được đầy đủ lực của mọi dục lạc mà Như Lai có ; Muốn biết hữu thượng dục, vô thượng dục ; Hữu dư dục, vô dư dục ; Đẳng dục, bất đẳng dục ; Hữu sở y dục, vô sở y dục ; Cộng dục, bất cộng dục ; Hữu biên dục, vô biên dục ; Thiện dục, bất thiện dục ; Thế gian dục, xuất thế gian dục ; Đại trí dục ; Tịnh dục ; Thắng dục ; Vô ngại trí dục ; Vô ngại trí Phật giải thoát dục ; Thanh tịnh dục, không thanh tịnh dục ; Dục rộng, dục hẹp ; Tế dục, thô dục mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vì muốn biết hết tất cả chúng sinh mỗi một chúng sinh có 10 loại dục là : Nhân khổ sinh dục, phương tiện dục, hy vọng dục, trước vị dục, tùy nhân sinh dục, tùy duyên sinh dục, tận dục, nhất thiết dục. Đại bồ-tát sơ phát tâm vì muốn phân biệt rõ biết hết lưới dục này, nên phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề”.
“Thưa Phật tử ! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết mọi thứ căn dục của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới, rồi dùng phương tiện trí tuệ tinh cần đó, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, chẳng thể biết hết mọi thứ căn của chúng sinh trong tất cả thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến … đều biết tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh đều có 10 loại căn”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết mọi thứ hy vọng của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến … đều biết tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh đều có 10 loại hy vọng”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết mọi thứ phương tiện của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới. Nói rộng cho đến … đều biết tất cả chúng sinh. Mỗi chúng sinh đều có 10 loại phương tiện”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết niệm niệm tâm ý của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới. Nói rộng cho đến … đều biết tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh đều có 10 loại tâm”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết mọi thứ nghiệp của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới. Nói rộng cho đến … đều biết tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh đều có 10 loại nghiệp”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy: Giả như có người, trong khoảng một niệm đều biết mọi thứ phiền não của chúng sinh trong vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới ở phương đông. Người này tinh cần phương tiện, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp còn chẳng thể biết mọi thứ phiền não của tất cả chúng sinh ở phương đông. Lần lượt như vậy cho đến người thứ mười. Người thứ mười này, đối với chỗ biết của người thứ chín về mọi thứ phiền não của chúng sinh trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, trong khoảng một niệm đều phân biệt biết. Người này tinh cần phương tiện, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, còn chẳng thể biết hết mọi thứ phiền não của tất cả chúng sinh, cho đến mười phương cũng lại như thế. Mọi thứ phiền não của tất cả chúng sinh thuộc thế giới của ông còn có thể biết được, tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không thể biết được. Vì sao? Thưa Phật tử! Vì công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không vì giới hạn trong việc muốn biết mọi thứ phiền não của chúng sinh trong thế giới này mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vì muốn phân biệt biết hết mọi thứ phiền não của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ-đề. Đó là muốn biết phiền não nhẹ, phiền não nặng, phiền não kiết sử, phiền não triền, vô lượng phiền não của tất cả chúng sinh, mọi thứ giác quán phiền não của tất cả chúng sinh, y nơi vô minh phiền não, ái tương ưng phiền não, tham dục bất thiện căn phiền não, sân nhuế bất thiện căn phiền não, ngu si bất thiện căn phiền não, đẳng phần phiền não, tất cả phiền não, căn bản phiền não, ngã ngã sở phiền não, ngã mạn phiền não, tà ức niệm hư vọng sinh phiền não, nhân thân kiến sinh sáu mươi hai kiến v.v… các phiền não, cái phiền não, chướng ngại phiền não. Vì muốn biết rõ lưới hoặc phiền não của tất cả chúng sinh, đầy đủ đại từ bi và đại Nhất thiết chủng trí nên phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề”.
“Thưa Phật tử! Lại có thí dụ như vầy : Giả như có người, trong khoảng một niệm đều thấy chư Phật hiện tại cùng với tất cả chúng sinh của họ trong vô lượng vô biên thế giới ở phương đông. Người này đều có thể cung kính, lễ bái, tôn trọng, tán thán, nhất tâm quán sát vô lượng thượng vị của mọi thứ cúng dường, hào cỗ, thức ăn, thức uống, hương hoa, anh lạc, tơ lụa, cờ lọng, cung điện thượng diệu nghiêm sức bằng màn, trướng, lưới báu và tòa sư tử được nghiêm sức bằng các thứ báu. Người này tinh cần phương tiện, niệm niệm thứ lớp dùng các vật cúng dường vi diệu như thế cúng dường chư Phật trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp, cũng lại khuyên dạy các chúng sinh của họ dùng các vật cúng dường vi diệu như thế cúng dường chư Phật trong vô lượng vô số a-tăng-kì kiếp. Các Như Lai đó nhập niết bàn rồi, lại cũng vì tất cả chư Như Lai đó mà dùng vô lượng thứ báu xây tháp cúng dường. Tháp đó cao rộng mỗi mỗi đầy khắp vô lượng vô biên thế giới. Lại lấy các báu thượng diệu mà trang nghiêm nó. Trong mỗi một tháp có vô lượng vô số hình tượng Như Lai. Các hình tượng đó, quang minh chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới của chư Phật. Cũng lại khuyên tất cả chúng sinh của họ, vì chư Như Lai mà xây các tháp báu nghiêm hảo như trên. Mười phương thế giới cũng lại như thế. Thưa Phật tử! Ý ông thế nào? Công đức của người đó có nhiều chăng?”
Đế Thích đáp rằng : “Công đức của người đó chỉ có Phật mới biết, còn lại đều không thể biết”.
Pháp Tuệ đáp rằng : “Thưa Phật tử! Tạng công đức của Đại Bồ-tát sơ phát tâm, trăm phần, ngàn phần cho đến phần công đức không thể tính, không thể thí dụ, không thể nói của người đó chẳng bằng một”.
“Thưa Phật tử! Giả như có người, đối với người thứ nhất và phương tiện khuyên chúng sinh tinh cần của người ấy, niệm niệm thứ lớp trong vô lượng vô số a tăng kì kiếp, công đức được tạo ra từ việc cúng dường vật dụng trong khoảng một niệm đều có thể nói. Người này tinh cần phương tiện như thế, niệm niệm thứ lớp, trong vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp, công đức cúng dường nói rộng như trên, lần lượt như thế cho đến người thứ mười, nói rộng cũng như trên, thì tạng công đức của Đại Bồ-tát sơ phát tâm, trăm phần, ngàn phần, cho đến phần công đức không thể tính, không thể thí dụ, không thể nói của người đó cũng chẳng bằng một. Vì sao? Thưa Phật tử! Vì công đức của Bồ-tát đó không vì giới hạn trong việc cúng dường Như Lai đó mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vì muốn cúng dường ba đời chư Phật ở mười phương thế giới như pháp giới, hư không giới v.v… mà phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề”.
“Phát tâm này rồi, biết được Vô chướng ngại trí của chư Phật hết thời quá khứ, tin được công đức của chư Phật hết thời vị lai, biết được trí tuệ mà tất cả chư Phật đã nói hết thời hiện tại. Tất cả công đức của ba đời chư Phật đó, Đại Bồ-tát này đều tin hướng, thọ trì, tu tập, đắc chứng, thân chứng, đều đồng với tất cả công đức của chư Phật. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát sơ phát tâm muốn không đoạn tánh của tất cả chư Phật nên phát tâm bồ-đề, vì muốn khiến tâm từ bi đầy khắp tất cả thế giới chúng sinh đều không sót, vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, vì muốn biết tất cả thế giới thành bại, vì muốn biết cấu tịnh khởi của chúng sinh trong tất cả thế giới, vì muốn khiến chúng sinh trong ba cõi đều được thanh tịnh, vì muốn biết tâm niệm và tập phiền não của tất cả chúng sinh, vì muốn biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia, vì muốn biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh, vì muốn biết hết tâm tâm hạnh của tất cả chúng sinh, vì muốn biết tất cả chúng sinh trong ba đời ; Vì muốn biết hết công đức đầy đủ của ba đời chư Phật, vì muốn biết hết bồ-đề vô thượng của chư Phật, vì muốn biết hết tịnh pháp đầy đủ của ba đời chư Phật, vì muốn biết hết tướng pháp bình đẳng của ba đời chư Phật, vì muốn biết hết trí tuệ vô thượng và nhân duyên thanh tịnh của ba đời chư Phật, vì muốn biết hết lực trí tuệ trưởng dưỡng ba đời chư Phật, vì muốn đầy đủ pháp vô úy của ba đời chư Phật, vì muốn trang nghiêm đầy đủ pháp bất cộng, vì muốn được hết pháp giới đẳng đồng vô lượng vô biên trí tuệ bình đẳng của ba đời chư Phật nên phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát sơ phát tâm chính là Phật,[1] đều bình đẳng với tam thế Phật, cũng bình đẳng với tam thế Phật cảnh giới, đều bình đẳng với tam thế Phật chánh pháp, được nhất thân và vô lượng thân Như Lai cùng với trí tuệ bình đẳng của ba đời chư Phật. Chúng sinh giáo hóa cũng đồng. Đều có thể chấn động tất cả thế giới, đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới, đều có thể ngưng dứt các ác đạo khổ của tất cả thế giới, đều có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới, ở nơi tất cả thế giới đều thị hiện thành Phật, đều khiến tất cả chúng sinh đều được hoan hỉ, đều khiến tất cả chúng sinh hiểu sâu pháp giới, đều có thể hộ trì chủng tánh của chư Phật, đều được trí tuệ quang minh của chư Phật. Đại Bồ-tát sơ phát tâm này thường chẳêng xa lìa chư Phật, chư Phật pháp, tất cả Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, pháp mà họ đã hành, pháp thế gian, xuất thế gian, chúng sinh, pháp chúng sinh, chuyên cầu trí tuệ bồ-đề vô ngại.
Lúc ấy, do thần lực của Phật, do nói về lực tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, mười phương đều có vạn Phật sát trần số sáu loại chấn động, mưa các thiên hoa, thiên hương, thiên mạt hương, thiên kế, thiên bảo, thiên vật dụng trang nghiêm, tự nhiên diễn xuất lạc thanh vi diệu, âm sư tử cũng rống động, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương.
Lúc ấy, qua khỏi thập Phật sát trần số thế giới ở mười phương có vạn Phật sát trần số chư Phật đều tên là Pháp Tuệ, thảy đều hiện thân chỉ Bồ-tát Pháp Tuệ mà nói rằng: “Lành thay! Lành thay! Phật tử khéo thuyết tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm. Chúng ta, vạn Phật sát trần số Như Lai cũng đều diễn thuyết tạng công đức của Bồ-tát phát tâm. Tất cả chư Phật ở mười phương thế giới cũng lại như thế. Này Bồ-tát Pháp Tuệ! Khi thuyết tạng công đức của Bồ-tát phát tâm này thì vạn Phật thế giới trần số chúng sinh đều được tạng công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam bồ-đề. Chúng ta nay đều thọ ký cho họ, trong đời vị lai, đều ở mười phương đồng thời thành Phật, đồng có hiệu Tịnh Tâm Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Chúng ta đều sẽ hộ trì pháp này, đều vì các Bồ-tát vị lai. Như vậy, trong thế giới Sa-bà, Tứ thiên hạ, Diêm-phù-đề, dưới cây bồ-đề, trên điện Diệu Thắng ở đỉnh núi Tu-di đều diễn bày pháp này giáo hóa chúng sinh. Trong ngàn ức na-do-tha, không thể lường, không thể tính, không thể suy nghĩ, không có bờ mé, không thể nói các thế giới như pháp giới, hư không giới v.v… ở mười phương thế giới cũng thuyết pháp này giáo hóa chúng sinh. Người thuyết pháp đó đều có tên là Pháp Tuệ. Vì do thần lực của Phật, do bản nguyện lực của Phật, do hiển thị Phật pháp, do quang minh trí tuệ chiếu khắp, do hiểu đệ nhất nghĩa, do pháp như vậy, do các Bồ-tát hoan hỉ, do tán thán công đức của chư Phật, do đều biết chư Phật bình đẳng, do hiểu pháp giới không hai.
Lúc ấy Bồ-tát Pháp Tuệ quán khắp mười phương, quán khắp tất cả đại chúng, quán hư không giới, quán thành tựu chúng sinh giới, không trái nghiệp báo thanh tịnh như hư không giới, muốn bạt cấu uế cho chúng sinh ở ba cõi, muốn khiến chúng sinh được đại giải thoát, muốn biết chủng chủng các căn v.v… , quán chánh thú niết bàn ba đời, cho đến hiện các công đức thanh tịnh thậm thâm của tự thân, nương uy thần lực của Phật mà nói kệ rằng :
Tâm đại từ đại bi
Đầy khắp mười phương giới
Phân biệt các Phật sát
Phật pháp và tam thế (1)
Muốn đủ Phật công đức
Bồ-tát pháp tạng hải
Nhiêu ích các chúng sinh
Sơ phát bồ đề tâm (2)
Muốn đều phân biệt biết
Hư không cùng pháp giới
Tất cả loại quần sinh
Chư Phật và Phật pháp (3)
Muốn được tất cả Phật
Các đạo chí xứ lực
Thành tựu bất thối chuyển
Nhiêu ích các quần sinh (4)
Trong tất cả chúng sinh
Thường khởi đại từ bi
Viễn ly niệm sân nhuế
Tu tập tâm nhiêu ích (5)
Từ quang chiếu mười phương
Vì chúng làm qui y
Chư Phật đều hộ niệm
Công đức khó nghĩ bàn (6)
Muốn đều phân biệt biết
Tất cả chư Phật sát
Diệu pháp thân Như Lai
Thậm thâm khó nghĩ bàn (7)
Vô lượng công đức tạng
Trí tuệ rất sâu rộng
Nhân là Sơ phát tâm
Chuyên cầu bồ-đề Phật (8)
Muốn đều phân biệt biết
Tất cả loài chúng sinh
Trong mười phương thế giới
Trí tuệ không chướng ngại (9)
Thô tế các thế giới
Hoặc rộng hẹp vô lượng
Trong tất cả biết một
Trong một biết tất cả (10)
Bồ-tát nơi hạnh ấy
Tinh cần chẳng phóng dật
Khổ vui không chán chấp
Vì muốn độ chúng sinh (11)
Tất cả Phật hiện tiền
Thích quán không chán đủ
Đều nhập pháp thậm thâm
Vô lượng công đức hải (12)
Quần sinh ở năm đường
Thương họ như con một
Khiến trừ các cấu uế
Đầy đủ pháp thanh tịnh (13)
Muốn khiến các Phật chủng
Rốt ráo chẳng đoạn tuyệt
Hàng phục tất cả ma
Tìm diệt không bỏ sót (14)
Bình đẳng quán Như Lai
Các pháp tướng ba đời
Pháp vi diệu thậm thâm
Thường tu không phóng dật (15)
Bồ-tát thường ưa quán
Tất cả cảnh giới Phật
Cho nên chư Như Lai
Cam lồ tuệ rưới đỉnh (16)
Tín tâm chẳng thể hoại
Kiên cố như kim cang
Ở chỗ chư Như Lai
Biết ân mà báo ân (17)
Cảnh giới mà tối thắng
Vô lượng trí tuệ quang
Tự ngộ chẳng do ai
Bồ-tát sơ phát tâm (18)
Đều hay phân biệt biết
Dục chúng sinh năm đường
Mọi thứ các nghiệp báo
Tất cả tâm sở hành (19)
Biết các căn lợi độn
Vô lượng vô số tánh
Tất cả thắng cảnh giới
Bồ-tát sơ phát tâm (20)
Tâm bồ-đề vô lượng
Pháp giới thanh tịnh đồng
Không trước không sở y
Không nhiễm, như hư không (21)
Thành tựu Phật trí tuệ
Tâm ấy không chướng ngại
Biết chắc bờ chân thật
Tịch diệt lìa hư vọng (22)
Liễu đạt tâm chúng sinh
Mà không chúng sinh tưởng
Phương tiện phân biệt pháp
Rốt ráo đến bờ kia (23)
Vô lượng vô số kiếp
Đều hay phân biệt biết
Đi đến các cõi Phật
Hiểu rõ pháp thậm thâm (24)
Nếu hay phân biệt biết
Vô lượng các Phật pháp
Pháp giới tạng thanh tịnh
Biết chắc không nghi hoặc (25)
Hiểu sâu chúng sinh căn
Rốt ráo đến bờ kia
Bình đẳng thấy các pháp
Thì cùng Như Lai đồng (26)
Vô lượng tâm thanh tịnh
Thường ở trước chư Phật
Cung kính mà tôn trọng
Cúng dường Nhân sư tử (27)
Thân cận tất cả Phật
Ưa thấy không chán đủ
Thì chư Như Lai đó
Hộ niệm Bồ-tát này (28)
Với các pháp thâm diệu
Phân biệt không chướng ngại
Không trước không sở y
Tâm tịnh như hư không (29)
Người biết Nhân sư tử
Trí tuệ hải sâu rộng
Tịch nhiên vào chánh thọ
Ba đời thấy không ngại (30)
Kiên cố không trở ngại
Tất cả không thể hoại
Chuyên tâm đạo vô thượng
Chưa từng có đoạn tuyệt (31)
Lìa ám hướng minh chánh
Chí học các thiện pháp
Thường thích quán tịch diệt
Đầy đủ tánh chân thật (32)
Đường ngôn ngữ tịch mặc
Bình đẳng thấy không khác
Với pháp chẳng phân biệt
Đó là từ ‘như’ sinh (33)
Đều hay phân biệt biết
Cảnh chư Phật sâu xa
Tịch nhiên nhập chánh thọ
Tam đạt không chướng ngại (34)
Trong mười phương thế giới
Tất cả các cõi Phật
Lực Bồ-tát tự tại
Nhất niệm đều chu khắp (35)
Vô lượng không thể đếm
Phương tiện đều đầy đủ
Đi khắp mười phương giới
Đó gọi chân phật tử (36)
Đầy đủ tâm đại bi
Thanh lương trừ khát ái
Đại từ niệm tất cả
Vô ngại như hư không (37)
Với các loài chúng sinh
Không sinh tưởng chúng sinh
Đều đã lìa hư vọng
Thanh tịnh dạo mười phương (38)
Với các quần sinh ấy
Thường thí, dùng vô úy
Như hạnh chân thật ấy
Đó là đồng Như Lai (39)
Thường thuyết pháp thậm thâm
Thanh tịnh không chấp trước
Cho nên mười phương Phật
Tất cả đều hộ niệm (40)
Thời quá khứ vị lai
Vô lượng vô số kiếp
Thứ lớp đều nhớ nghĩ
Đầy đủ phân biệt biết (41)
Bồ-tát nơi hiện tại
Tất cả mười phương giới
Đều có thể đầy khắp
Tế độ các mầm sinh (42)
Thâm trí chánh quán xét
Hiểu rõ không chướng ngại
Đều biết nhân duyên hợp
Mài diệt không kiên cố (43)
Tất cả loài chúng sinh
Các cõi, kẻ nghi nan
Bồ-tát đều trừ diệt
An trụ trong pháp tánh (44)
Lực vô úy Bồ-tát
Hàng phục tất cả ma
Đều hay vì chúng sinh
Diệt trừ ngu si ám (45)
Thế giới nếu thành bại
Thảy đều phân biệt biết
Nếu hay như vậy quán
Phật cảnh không nghi hoặc (46)
Quán xét pháp ba đời
Lưới nghi hẳn đã trừ
Tất cả chỗ Như Lai
Tịnh tín chẳng thể hoại (47)
Tín lực trụ an ổn
Trí tuệ lực thành tựu
Vì trí tuệ thanh tịnh
Quyết định hiểu chân thật (48)
Tận đến mé vị lai
Vì nhiêu ích chúng sinh
Muốn khiến tất cả chúng
Rốt ráo được giải thoát (49)
Trong sinh tử vô hạn
Tinh cần chẳng chán mệt
Nơi tất cả địa ngục
Thọ khổ vì chúng sinh (50)
Công đức trí tuệ tạng
Đầy đủ đều thành tựu
Đều hay khéo phân biệt
Tất cả chúng sinh căn (51)
Lại hay phân biệt biết
Chúng sinh mọi thứ nghiệp
Tùy nghiệp ấy đối trị
Bồ-tát vì họ thuyết (52)
Dùng tâm đại từ bi
Tùy thuận hạnh thế gian
Đối với tất cả pháp
Thấu đạt không, vô ngã (53)
Trong mỗi thứ âm thanh
Diễn thuyết vô lượng giáo (53.5)
Bồ-tát phóng đại quang
Các thứ sắc vi diệu
Chiếu khắp mười phương giới
Trừ diệt tất cả ám (54)
Mỗi một đầu quang minh
Tòa bảo hoa thanh tịnh
Bồ-tát đều ở trên
Vì chúng diễn thuyết pháp (55)
Ở trong một lỗ lông
Đều thấy mười phương cõi
Cõi ấy diệu trang nghiêm
Chư Phật Bồ-tát hội (56)
Hết thảy chỗ Như Lai
Vô lượng chúng vây quanh
Trí tuệ diệu thanh tịnh
Hiểu rõ tâm chúng sinh (57)
Trong mười phương thế giới
Vô lượng các Phật độ
Bồ-tát, lực thần thông
Nhất niệm đều đến khắp (58)
Cung kính cúng dường Phật
Vì nhiêu ích chúng sinh
Nơi tất cả đạo sư
Hỏi rõ nghĩa thậm thâm (59)
Đều nơi các Thế Tôn
Trước khởi tưởng từ phụ
Vì nhiêu ích chúng sinh
Phân biệt hạnh Bồ-tát (60)
Lợi trí tuệ minh tịnh
Liễu đạt thâm pháp tạng
Xuất sinh vô lượng trí
Phật pháp không chướng ngại (63)
Vô lượng vô số kiếp
Phân biệt nói pháp giới
Kiếp số được rốt ráo
Pháp giới vô cùng tận (62)
Bình đẳng quán các pháp
Tâm người ấy không nhiễm
Không chán sinh tử khổ
Trí tuệ không chướng ngại (63)
Chủng tánh Phật vô thượng
Vương gia tam thế pháp
Tất cả pháp Như Lai
Bồ tát do đây sinh (64)
Diệu pháp thân thanh tịnh
Ứng hiện mọi thứ hình
Giống như đại huyễn sư
Sở thích thảy đều thấy (65)
Hoặc ở làm chúng sinh
Hạnh Bồ-tát rốt ráo
Hoặc lại hiện sơ sinh
Hạnh xuất gia học đạo (66)
Hoặc ở dưới thọ vương
Tự nhiên thành chánh giác
Hoặc ở làm chúng sinh
Thị hiện nhập niết bàn (67)
Hiện trụ thậm thâm diệu
Vô lượng pháp tự tại
Thanh văn Bích Chi Phật
Tất cả không thể lường (68)
Thân khẩu ý Bồ-tát
Tịch diệt không sinh tướng
Ứng khắp tất cả thế
Phương tiện thảy đều hiện (69)
Chân Phật tử như thế
Cảnh giới rất thậm thâm
Chúng sinh nếu nghĩ bàn
Mệ loạn tâm phát cuồng (70)
Tất cả đều đầy đủ
An trụ trí vô ngại
Hiện khắp các Như Lai
Vô lượng lực tự tại (71)
Tạng công đức Bồ-tát
Thế gian không gì bằng
Hà huống Tối thắng tôn
Vô lượng khó nghĩ bàn (72)
Bồ-tát tuy chưa được
Đầy đủ tất cả trí
Vô lượng các pháp môn
Rốt ráo đến bờ kia (73)
Tất cả pháp thắng diệu
Thảy đều đã đầy đủ
Một lòng cầu Bồ đề
Đạo Nhất thừa rốt ráo (74)
Đối với các quần sinh
Khéo biết thời phi thời
Vì muốn lợi ích họ
Thị hiện đại thần lực (75)
Một thân đều đầy khắp
Tất cả các cõi Phật
Diễn xuất tịnh quang minh
Sáng chói không gì bằng (76)
Chiếu khắp mười phương giới
Trừ diệt tất cả tối
Giáng khắp mưa diệu pháp
Như hải đại Long vương (77)
Quán sát tất cả pháp
Hư vọng giống như huyễn
Vì phiền não nghiệp lực
Sinh tử thường luân chuyển (78)
Dùng tâm đại từ bi
Che khắp các quần sinh
Diệu phương tiện thanh tịnh
Độ thoát vô lượng chúng (79)
Lực công đức Bồ-tát
Cùng với các Như Lai
Vô lượng trí tuệ hải
Thanh tịnh như hư không (80)
Vô lượng vô số kiếp
Tu đủ hạnh Bồ-tát
Tinh tấn cần phương tiện
Muốn độ tất cả chúng (81)
Chúng sinh, các thứ hạnh
Đều hay phân biệt biết
Khiến tu tinh tấn nghiệp
Chí cầu đạo vô thượng (82)
Bồ-tát ma-ha-tát
Hành các diệu pháp này
Quyết định không thối chuyển
Nhất thiết trí quán chắc (83)
Tất cả các thế giới
Vô lượng khó nghĩ bàn
Bồ-tát ở nơi đó
Nhất niệm đều bao quát (84)
Lìa xa tưởng hư vọng
Tâm ấy như hư không
Pháp thân thanh tịnh, một
Ứng khắp tất cả thế (85)
Trạm nhiên thường bất động
Mười phương thảy đều hiện
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng thủ các pháp tướng (86)
Liễu đạt tất cả pháp
Tâm ấy không chỗ nhiễm
Tế độ tất cả chúng
Mà không người giải thoát (87)
Tất cả quần sinh loại
Mọi thứ các hy vọng
Pháp thiện ác vô ký
Tịch diệt như hư không (88)
Tùy thuận cả mọi loài
Các thứ tướng dục lạc
Vô lượng lực tự tại
Thảy đều ứng hóa đó (89)
Giống như công huyễn sư
Hay hiện các thứ thân
Lực Bồ-tát tự tại
Đầy khắp mười phương giới (90)
Tịnh pháp thân Bồ-tát
Vô lượng đồng hư không
Tùy dục lạc của chúng
Tất cả thảy đều hiện (91)
Tâm ấy không chỗ nhiễm
Chân thật không hư vọng
Pháp thanh tịnh phiền não
Thảy đều vô sở hữu (92)
Giải thoát, không giải thoát
Tâm ấy không chỗ nhiễm
Thí khắp chúng sinh khổ
Lạc vô thượng niết bàn (93)
Đều ở các thế gian
Trí tuệ không sợ hãi
Đầy đủ các tướng hảo
Đạo vô thượng rốt ráo (94)
Nhất niệm đều phân biệt
Tất cả các pháp tướng
Đời khứ, lai, hiện tại
Tìm cầu vô sở hữu (95)
Bồ-tát quán tiền tế
Liễu đạt đời quá khứ
Phân biệt tướng hậu tế
Cứu cánh cũng như vậy (96)
Tất cả Phật thế giới
Phân biệt đều biết hết
Trừ diệt các phiền não
Đầy đủ các công đức (97)
Thường thích quán tịch tĩnh
Rốt ráo hướng niết bàn
Thích vô tránh tam muội
Tâm ấy không y tựa (98)
Bồ-tát đồng chân tế
Tất cả không gì bằng
Hạnh kiên cố rốt ráo
Quyết định không thối chuyển (99)
Kia tu các thắng hạnh
Tịch diệt không y tựa
Tâm ấy thường an trụ
Bất động như Di Lặc (100)
Hạnh Bồ-tát tịnh diệu
Đầy khắp các pháp giới
Chư Phật và Bồ-tát
Thảy đều phân biệt biết (101)
Muốn cầu tuệ Đạo sư
Đạo rốt ráo tối thắng
Nhất thiết trí thậm thâm
Vua giải thoát vô tận (102)
Dũng mãnh cần tinh tấn
Chóng phát tâm bồ-đề
Muốn cầu lạc tối thắng
Cần chóng đoạn các lậu (103)
Bồ tát ma-ha-tát
Tâm sơ phát thanh tịnh
Tạng công đức tâm ấy
Nói mãi không thể tận (104)
Vì nhiêu ích chúng sinh
Tán thán hạnh Như lai
Nhất tâm khéo lắng nghe
Đạo sở hành tối thắng (105)
Vô lượng các Phật độ
Đều tán làm vi trần
Nhất trần và nhất độ
Thảy đều phân biệt biết (106)
Trong các quốc độ này
Tất cả các Như Lai
Nói tạng đức Sơ phát
Còn chẳng thể cùng tận (107)
Khéo phân biệt chúng sinh
Mà không tưởng chúng sinh
Khéo hiểu tất cả ngữ
Mà không tưởng ngôn ngữ (108)
Trí vô ngại thậm thâm
Phân biệt các thế giới
Khéo hiểu kiếp thành bại
Mà không tưởng thành bại (109)
Tâm thanh tịnh quảng đại
Giống như tánh hư không
Hiểu rõ tam thế pháp
Tất cả các thế gian (110)
Trừ diệt các phiền não
Hết hẳn chẳng còn dư
Quán vô ngại tịch diệt
Đó là chánh pháp Phật (111)
Trong mười phương thế giới
Tất cả chỗ Như Lai
Nhất niệm thảy đến khắp
Tâm ấy không chỗ nhiễm (112)
Khéo hiểu pháp vô sinh
Như như chân thật tế
Tất cả các thứ tướng
Thảy đều không chân thật (113)
Vô lượng không thể tính
Tất cả các Như Lai
Cùng quyến thuộc thanh tịnh
Đều đến lễ cúng dường (114)
Thường thích hỏi Như Lai
Pháp vi diệu thậm thâm
Tất cả các Bồ-tát
Thệ nguyện hạnh thanh tịnh (115)
Trong mười phương thế giới
Tất cả các Đạo sư
Nhất niệm đều thấy gặp
Mà tâm không y tựa (116)
Trong tất cả ba cõi
Diệu công đức tối thắng
Lấy hạnh thanh tịnh này
Trang nghiêm các Phật độ (117)
Tuệ nhãn không chướng ngại
Khéo hiểu tất cả sinh
Phân biệt vô sở hữu
Xa lìa không nhiễm trước (118)
Khéo hiểu căn chúng sinh
Phiền não và tập khí
Các thứ dục chúng sinh
Liễu đạt không nghĩ bàn (119)
Bồ-tát ma-ha-tát
Trước, biết tâm chúng sinh
Tùy chỗ ứng độ đó
Vì người trí thuyết pháp (120)
Khéo biết thời phi thời
Hạnh chúng sinh tịnh uế
Dần khiến kia thanh tịnh
Rốt ráo được giải thoát (121)
Vô lượng na-do-tha
Các tam muội thậm thâm
Bồ tát lực tự tại
Nhất niệm đều nhập vào (122)
Tam muội khởi trụ tướng
Đều khéo phân biệt biết
Vô lượng các cảnh giới
Khéo hiểu duyên trụ khởi (123)
Các trí tuệ như thế
Thảy đều đã đầy đủ
Không lâu, được bồ-đề
Tất cả không chướng ngại (124)
Thường vì lợi chúng sinh
Chánh hướng trí tuệ quang
Bồ-tát cho chúng sinh
Pháp trượng phu vô thượng (125)
Đều hay khéo phân biệt
Tất cả kiếp ngắn dài
Ngày đêm và năm tháng
Cũng là khéo quán sát (126)
Chánh niệm không phóng dật
Khéo hiểu các thế gian
Phân biệt các cõi Phật
Chân thật không sai biệt (127)
Hay khéo phân biệt biết
Tất cả các thế giới
Quốc độ mười phương đó
Không có tưởng phân biệt (128)
Như vậy chánh quán sát
Mười phương các thế giới
Tất cả nước thanh tịnh
Mà tâm không chấp trước (129)
Thành tựu lực trí tuệ
Đồng với các Như Lai
Lực thị xứ phi xứ
Phân biệt biết chúng sinh (130)
Đều biết loài chúng sinh
Các nghiệp báo thiện ác
Đời quá khứ vị lai
Thông rõ không chướng ngại (131)
Tất cả các thế giới
Mọi thứ tánh chúng sinh
Ở trong ba cõi đó
Đều hay phân biệt biết (132)
Tất cả loài quần sinh
Các căn thượng trung hạ
Bồ-tát ma-ha-tát
Đều hay phân biệt biết (133)
Tất cả loài chúng sinh
Dục lạc thượng trung hạ
Thanh tịnh chẳng thanh tịnh
Đều hay phân biệt biết (134)
Phân biệt biết chúng sinh
Tất cả đến đạo xứ
Lìa hẳn duyên tương tục
Rốt ráo lìa ba cõi (135)
Tất cả các tam muội
Chánh thọ thiền giải thoát
Cấu uế thanh tịnh khởi
Đều hay phân biệt biết (136)
Thứ lớp biết túc mạng
Tùy chỗ thọ khổ lạc
Người phân biệt như thế
Đó là lực Như Lai (137)
Tất cả thiện bất thiện
Chúng sinh nghiệp phiền não
Phân biệt năm đường sinh
Rốt ráo được niết bàn (138)
Các lậu nếu chưa hết
Hướng vào các đường sinh
Phiền não tập đã diệt
Đạo rốt ráo vô thượng (139)
Phương tiện độ chúng sinh
Diệt cấu đủ đạo tịnh
Người trí hay phân biệt
Là kẻ mạnh loài người (140)
Đầy đủ mười thứ lực
Tuệ quang trừ các tối
An trụ lực tối thắng
Nghi hoặc rốt ráo diệt (141)
Trong tất cả lỗ lông
Vô lượng các Phật độ
Bố-tát ma-ha-tát
Tất cả thảy đều thấy (142)
Uế trọc hay thanh tịnh
Các thứ diệu trang nghiêm
Tùy theo hạnh nghiệp đó
Thảy đều phân biệt biết (143)
Trong tất cả vi trần
Tất cả các Phật độ
Chư Phật và Bồ-tát
Phật tử thảy đều thấy (144)
Các cõi không tích tụ
Chẳng loạn chẳng bức ép
Tất cả nhập một cõi
Mà cũng không chỗ nhập (145)
Mười phương các quốc độ
Hư không và pháp giới …
Ở trong một lỗ lông
Phân biệt biết đầy đủ (146)
Thấy khắp mười phương giới
Tất cả các tối thắng
Vi diệu tịnh trang nghiêm
Tất cả các Phật độ (147)
Tất cả các Như Lai
Và quốc độ nghiêm tịnh
Ở trong một lỗ lông
Người trí thảy đều thấy (148)
Tướng tam thế sai biệt
Tất cả các pháp giới
Thời tiết năm tương tục
Phân biệt được giải thoát (149)
Chân Phật tử như thế
Đầy đủ không sợ hãi
Là kẻ mạnh trong người
Người trí tuệ minh đạt (150)
Pháp môn sâu như thế
Người trí đều phân biệt
Kia ở chỗ Như Lai
Cung kính vui vô lượng (151)
Vô lượng vô số kiếp
Trưởng dưỡng công đức tạng
Cúng dường tất cả Phật
Để độ thoát chúng sinh (152)
Vô lượng lực tự tại
Mọi thứ hay thị hiện
Cảnh giới trí tuệ đó
Đồng với chư Như Lai (153)
Chỗ vô lượng chư Phật
Chỗ học đều thành tựu
Tịch tịnh thâm pháp tạng
Đều thích không chán đủ (154)
Tất cả chỗ Đạo sư
Tâm cung kính tôn trọng
Kia tu Bồ-tát hạnh
Thường uống pháp cam lộ (155)
Đều hay khéo phân biệt
Trưởng dưỡng pháp trí tuệ
Bồ-đề biện vô ngại
Các tam muội thậm thâm (156)
Tín tâm không thể động
Giống như núi Tu-di
Trưởng dưỡng các chúng sinh
Tất cả tạng công đức (157)
Bồ-tát ma-ha-tát
Đại từ bi vô lượng
Đều niệm tất cả chúng
Tâm ấy không chấp trước (158)
Nhất thiết chủng trí lạc
Huệ thí các chúng sinh
Đều muốn cầu thế gian
Xa lìa phiền não cấu (159)
Bồ-tát ma-ha-tát
Tâm đại bi vô lượng
Phật và chúng sinh mình
Bình đẳng quán không khác (160)
Thích quán tướng tịch diệt
Các pháp như hư không
Người trí quán như thế
Tất cả tánh chân thật (161)
Bồ-tát sơ phát tâm
Tạng công đức thậm thâm
Vô lượng vô số kiếp
Thuyết nó không thể tận (162)
Xuất sinh các Như Lai
Duyên giác nhàn tĩnh lạc
Chúng Thanh văn tự tại
Và tất cả hiền thánh (163)
Trong mười phương thế giới
Vô biên các Phật độ
Loài chúng sinh đã có
Cúng dường vô lượng kiếp (164)
Cũng dạy tu Ngũ giới
Thập thiện và Tứ thiền
Tứ đẳng vô sắc định
Tịch diệt các giải thoát (165)
Cũng trong vô lượng kiếp
Cúng thí đồ ưa thích
Lại cũng dạy chuyển thắng
Lậu tận thành La-hán (166)
Các công đức như vậy
Vẫn còn xưng lường được
Tạng công đức phát tâm
Không ví dụ nói được (167)
Cũng dạy vô lượng chúng
Đều thành Bích Chi Phật
Tam-ma-đề tịch tĩnh
Các công đức thậm thâm (168)
Công đức tụ người ấy
So tạng Sơ phát tâm
Trăm phần chẳng bằng một
Cho đến không thể nói (169)
Vô lượng không giới hạn
Vi trần đồng Phật độ
Giả như người thần lực
Nhất niệm đều hay qua (170)
Lực thần túc như thế
Đi trong vô lượng kiếp
Cõi đó còn thể tính
Tạng phát tâm khó biết (171)
Kiếp khứ lai hiện tại
Vô lượng không giới hạn
Các kiếp nhiều như thế
Còn có thể tính biết (172)
Bồ-tát sơ phát tâm
Vô lượng tạng công đức
Giống như hư không giới
Phần hạn không thể biết (173)
Đời khứ, lai, hiện tại
Tất cả các kiếp số
Bồ-tát trong nhất niệm
Thảy đều phân biệt biết (174)
Bồ-tát phát tâm báu
Muốn thông khứ, lai, hiện
Nhất niệm đều biết rõ
Vì lợi ích chúng sinh (175)
Trong mười phương thế giới
Vô lượng cõi chúng sinh
Dục hy vọng đã có
Nhất niệm thảy đều biết (176)
Biết các căn phương tiện
Niệm niệm tâm sở hành
Hư không còn thể lường
Tâm bồ-đề khó biết (177)
Sở dĩ không thể lường
Vì đại bi vô lượng
Thí khắp tất cả lạc
Đầy khắp mười phương giới (178)
Muốn khiến đều được Phật
Pháp tạng giải thoát lạc
Tạng tâm báu sơ phát
Lực công đức vô lượng (179)
Dục hy vọng của chúng
Phương tiện tưởng nguyện cầu
Tùy các thứ căn đó
Chỗ hành thân, khẩu, ý (180)
Có thể trong nhất niệm
Người đó đều giác biết
Muốn được tất cả trí
Phát tâm nguyện bồ-đề (181)
Tất cả loài chúng sinh
Vô lượng nghiệp phiền não
Do các kết nghiệp đó
Lần lượt nhận các cõi (182)
Báo kết nghiệp như vậy
Còn biết được biên tế
Tạng công đức phát tâm
Không thể nghĩ bàn được (183)
Sở dĩ chẳng thể nghĩ
Vì phát nguyện vô thượng
Cúng dường tất cả Phật
Lìa hẳn các phiền não (184)
Trừ luôn nghiệp phiền não
Của mọi loài quần sinh
Tế bạt tam thế khổ
Tâm đại bi rốt ráo (185)
Mười phương các thế giới
Vô lượng vô số Phật
Nhất niệm đều cúng dường
Lấy đó khuyên chúng sinh (186)
Xông ướp hương thắng diệu
Tràng báu các cờ lọng
Thiên y trân diệu cỗ
Nước cam lộ thượng vị (187)
Tùy thời các cung quán
Giường nằm đồ trang nghiêm
Đất kinh hành thanh tịnh
An thân tâm thuận đạo (188)
Các chúng cúng đồ dùng
Vô lượng báu trang nghiêm
Ma-ni phát sáng chói
Đều là nhân khoái lạc (189)
Cúng dường Phật như thế
Lấy đó khuyên chúng sinh
Kiếp số khó nghĩ bàn
Thường hành cúng dường này (190)
Các công đức như thế
Còn nói rốt ráo được
Tạng công đức phát tâm
Không thể làm ví dụ (191)
Tất cả các thí dụ
Như trước phân biệt rộng
Muốn so tâm sơ phát
Vô lượng chẳng bằng một (192)
Tôn trong tam thế nhân
Tất cả công đức nghiệp
Quả bồ-đề vô thượng
Đều do Sơ phát tâm (193)
Trong vô số ức kiếp
Tu hành đạo vô thượng
Vô số không có lượng
Vượt qua tất cả lượng (194)
Nhất thiết trí rốt ráo
Lực đó không thể lường
Đến bờ bồ-đề kia
Siêu độ quần sinh thú (195)
Tâm Bồ-tát sơ phát
Rộng lớn như hư không
Xuất sinh các công đức
Tướng đó đồng pháp giới (196)
Đẳng quán các pháp tánh
Như thật không dị tướng
Lìa hẳn tất cả cõi
Tánh đồng kẻ kiên cố (197)
Chân pháp tánh thậm thâm
Diệu trí tùy thuận nhập
Vô biên các Phật độ
Nhất niệm đều trùm khắp (198)
Trí của Nhất thiết trí
Quán sát đều trùm khắp
Vô lượng cảnh giới Phật
Thông đạt không chướng ngại (199)
Thường tu diệu công đức
Tất cả không gì bằng
Giới vi diệu đầy đủ
Thanh tịnh không tì uế (200)
Nội ngoại tất cả thí
Bình tâm thí tất cả
Tất cả thời thường thí
Tinh cần không thối chuyển (201)
Chuyên niệm tu chánh thọ
Các thiền công đức tạng
Thường tập trí vi diệu
Sâu rộng không bờ đáy (202)
Nơi đất tối thắng này
Thành tựu chân phật tử
Lập được trí như thật
Hạnh thậm thâm bình đẳng (203)
Đời hiện tai, khứ, lai
Tất cả các Như Lai
Dùng uy thần hộ niệm
Tâm bồ-đề sơ phát (204)
Các tam muội thậm thâm
Vô lượng đà-la-ni
Lực tự tại chư Phật
Trang nghiêm Sơ phát tâm (205)
Tất cả các thế gian
Không thể nào đo lường
Vô lượng không giới hạn
Giống như hư không giới (206)
Tâm bồ-đề sơ phát
Vô lượng không giới hạn
Sư tử trong loài người
Đều do Sơ phát tâm (207)
Mười lực của Như Lai
Tứ biện vô sở úy
Vô lượng các công đức
Đều do Sơ phát tâm (208)
Tất cả các Đạo sư
Thập bát bất cộng pháp
Các tuệ thù thắng đó
Đều do Sơ phát tâm (209)
Diệu sắc thân chư Phật
Mọi thứ tướng trang nghiêm
Rốt ráo lìa hư vọng
Chân pháp thân thanh tịnh (210)
Chỗ Trời Người nên cúng
Trí vô ngại thậm thâm
Các công đức như thế
Đều do Sơ phát tâm (211)
Tất cả Bích Chi Phật
Vô lượng chúng Thanh văn
Các chư hiền thánh đó
Đều do Sơ phát tâm (212)
Tứ thiền Định vô sắc
Các tam muội thậm thâm
Vô lượng lạc như thế
Đều do Sơ phát âm (213)
Khứ, lai, hiện tại đây
Trời người ở mười phương
Trong tất cả thế giới
Lần lượt nhận sinh lạc (214)
Phương tiện cần tinh tấn
Các căn đều điều phục
Vô lượng lạc như thế
Đều do Sơ phát âm (215)
Vì sao lại như thế?
Vì Bồ-tát ma-ha
Nhân nơi Sơ phát tâm
Đủ sáu ba-la-mật (216)
Dạy các loài quần sinh
Bỏ tà vào chánh đạo
Có thể khiến tam giới
Nhận được mọi thứ lạc (217)
Trí Bồ-tát thâm diệu
Thông đạt không chướng ngại
Khai đạo các chúng sinh
Tịnh tu nghiệp thù thắng (218)
Diệt trừ các phiền não
Tất cả hạnh bất thiện
Tu tập đạo niết bàn
Độ thoát tất cả chúng (219)
Vô lượng trí tuệ sáng
Như ánh mặt trời trong
Đầy đủ hạnh thanh bạch
Thí như trăng tròn đầy (220)
Vô biên tạng công đức
Giống như mười phương hải
Vô cấu không chỗ nhiễm
Thanh tịnh như hư không (221)
Bồ-tát sơ phát tâm
Xưng tán không thể hết
Đều khiến các chúng sinh
Nhận đủ tất cả lạc (222)
Vô lượng vô số kiếp
Rộng tu các đại nguyện
Thường tập nghiệp công đức
Để điều phục chúng sinh (223)
Vô lượng không có số
Tịnh nguyện khó nghĩ bàn
Thảy đều đầy đủ khắp
Khiến chúng được thanh tịnh (224)
Phổ quán tất cả pháp
Đều không, vô tướng nguyện
Do lực hoằng thệ nguyện
Tâm tịnh không sợ hãi (225)
Biết tánh pháp chân thật
Thanh tịnh như hư không
Định loạn đều bình đẳng
Tịch diệt vô sở hữu (226)
Các diệu pháp thậm thâm
Vô lượng khó nghĩ bàn
Thường vì đại chúng thuyết
Tâm ấy không nhiễm trước (227)
Trong mười phương thế giới
Tất cả các Như Lai
Chư Phật thường tán thán
Bồ-tát sơ phát tâm (228)
Vô lượng diệu công đức
Trang nghiêm Sơ phát tâm
Đến bờ thanh tịnh đó
Tánh đồng các Như Lai (229)
Tất cả loài chúng sinh
Vô lượng vô số kiếp
Xưng tán Sơ phát tâm
Công đức không thể tận (230)
Tạng công đức chư Phật
Bồ-tát do đây sinh
Ở trong cả ba cõi
Tối thắng không thể bì (231)
Muốn được đèn trí tuệ
Tịnh sáng của chư Phật
Cần lập hoằng thệ nguyện
Chóng phát tâm bồ-đề (232)
Trong tất cả công đức
Tâm bồ-đề là nhất
Đắc được trí vô ngại
Từ Phật pháp hóa sinh (233)
Tất cả tâm chúng sinh
Thảy đều phân biệt biết
Mọi quốc độ vi trần
Còn có thể tính số (234)
Mười phương hư không giới
Một lông còn thể tính
Bồ-tát sơ phát tâm
Rốt ráo không thể lường (235)
Nhân tâm sơ bồ-đề
Xuất sinh tam thế Phật
Mọi thứ lạc diệu thượng
Của tất cả chúng sinh (236)
Công đức mà Phật tán
Nhân đây đều đầy đủ
Ở trong cảnh giới Phật
Tâm đó không nghi hoặc (237)
Nếu hay chóng lìa hẳn
Tất cả các nghi hoặc
Có thể diệt vô lượng
Chướng ngại của chúng sinh (238)
Nhân tâm sơ bồ-đề
Nghiêm tịnh các Phật quốc
Đều khiến tất cả chúng
Đầy đủ trí vi diệu (239)
Muốn thấy mười phương cõi
Tất cả tam thế Phật
Lại muốn được vô lượng
Tạng công đức thậm thâm (240)
Nếu muốn diệt vô lượng
Sinh tử khổ chúng sinh
Cần lập kiên thệ nguyện
Chóng phát tâm bồ-đề (241)
[1] Bản hán 80 quyển dịch là : “Bồ-tát sơ phát tâm sẽ thành Phật”. Đây là tùy vào cái nhìn thuộc Tam thừa hay Nhất thừa của chư vị mà bản dịch thấy như khác, nhưng thực là không khác.
Xem phần giảng giải (được trích từ quyển Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký của ngài Hiền Thủ).
HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ Quyển 5 Phẩm XIII: CÔNG ĐỨC CỦA BỒ-TÁT SƠ PHÁT TÂM
(MÀHÀPARINÌBBÀNASUTTA)
I
- Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế Tôn, và nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an. Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú". Và khanh bạch tiếp: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục dân Vajjì, vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong". Thế Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết. Các bậc Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng.
- Đại vương, xin vâng!
- Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục dân xứ Vajjì. Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajjì, ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì, ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vọng".
- Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không?
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thời xưa không?
- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở xưa.
- Này Ananda khi nào dân Vajjì, không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở xưa thời, này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình.
- Này Ananda, khi nào Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc không?
- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Này Bà-la-môn, một thời Ta sống ở Vesàli tại tự miếu Sàrandada, Ta dạy cho dân Vajjì bảy pháp bất thối này. Này Bà-la-môn, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào dân Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời Bà-la-môn, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, nếu dân Vajjì chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vajjì nhất định được cường thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vajjì ở chiến trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Tôn giả Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.
- Này Bà-la-môn, Người hãy làm những gì Người nghĩ là hợp thời.
Bà-la-môn Vassakara, vị đại thần nước Magadha hoan hỷ, tán thán lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
- Này Ananda, hãy đi và tập họp tại giảng đường tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Ràjagaha (Vương xá).
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng theo lời dạy Thế Tôn, đi tập họp tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Vương xá rồi đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, đứng một bên và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Tăng đã tụ họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến giảng đường, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy trả lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với những học giới được ban hành, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỷ-kheo Thượng tọa những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha của chúng Tăng, bậc Thầy của chúng Tăng và nghe theo lời dạy của những vị này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo thích sống những chỗ nhàn tịnh, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tự thân an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, được sống an lạc, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm thế sự, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê phiếm luận, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích ngủ nghỉ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bạn bè ác dục vọng, không thân tín ác dục vọng, không cọng hành với ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không dừng ở nửa chừng, giữa sự đạt đáo những quả vị thấp kém và những quả vị thù thắng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo có tín tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều, có tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Chư Tỷ-kheo đáp ứng. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Xin vâng bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập vô thường tưởng, tu tập vô ngã tưởng, tu tập bất tịnh tưởng, tu tập nguy hiểm tưởng, tu tập xả ly tưởng, tu tập vô tham tưởng, tu tập diệt tưởng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các, Tỷ-kheo khi nào các vị Tỷ-kheo đối với các vị đồng tu Phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người, gìn giữ thân nghiệp từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo đối với các vị đồng tu Phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người, gìn giữ khẩu nghiệp từ hòa, gìn giữ ý nghiệp từ hòa tại chỗ đông người và vắng người, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo phân phối không thiên vị, chung thọ hưởng với các bạn giới đức đồng tu, mọi lợi dưỡng chơn chánh, hợp pháp, cho đến những vật thọ lãnh trong bát khất thực, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người, và vắng người, trong sự thọ trì những giới luật, đúng với Sa-môn hạnh, những giới luật không bị gẫy vụn, không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, không bị uế trược, những giới luật đưa đến giải thoát, được người có trí tán thán, không bị ô nhiễm bởi mục đích sai lạc, những giới luật hướng đến định tâm, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người và vắng người, trong sự thọ trì những tri kiến đúng với Sa-môn hạnh, những Thánh tri kiến đưa đến giải thoát, hướng đến sự diệt tận khổ đau cho những ai thực hành theo, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy sáu pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Ambalatthikà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Ambalatthikà.
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Nalandà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Nalandà. Tại đây, Thế Tôn ở Pavarikambavana (Ba Ba Lợi Âm Bà Lâm).
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác.
- Này Sàriputta, lời nói của Ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống con sư tử: "Con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác". Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất cả những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, Ngươi đã biết tâm những Vị này nói với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở quá khứ có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất cả những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở tương lai, Ngươi đã biết tâm những vị này với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở tương lai có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi biết Ta là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở hiện tại, Ngươi đã biết tâm Ta với tâm của Ngươi.”Thế Tôn có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, như vậy Ngươi không có tha tâm thông đối với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, tương lai và hiện tại. Như vậy, này Sàriputta, vì sao Ngươi lại thốt ra những lời đại ngôn, lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống con sư tử: "Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác"?
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pàtaligàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàtaligàma.
- Bạch Thế Tôn, tất cả nhà nghỉ mát đã được rãi cát, các chỗ ngồi đã được sắp đặt, ghè nước đã đặt sẵn, dầu đèn đã được chuẩn bị. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là phải thời.
- Này các Gia chủ, có năm sự nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sẽ bị tiêu hao tiền của rất nhiều vì sống phóng dật. Đó là điều nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật bị tiếng dữ đồn xa. Đó là điều nguy hiểm thứ hai cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật khi vào hội chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần sợ hãi, bối rối. Đó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sẽ chết với tâm hồn rối loạn. Đó là điều nguy hiểm thứ tư cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Này các Gia chủ, đó là năm điều nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Ở đây, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì sống không phóng dật. Đó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Đó là sự lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn. Đó là sự lợi ích thứ tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới. Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
- Này các Gia chủ, đêm đã quá khuya, nay các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các người cư sĩ của Pàtaligàma vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài từ tạ ra về. Thế Tôn, sau khi các cư sĩ ở Pàtaligàma đi không bao lâu, liền trở vào phòng riêng.
- Này Ananda, ai đang xây dựng thành trì ở Pàtaligàma?
- Sunidha và Vassakara, bạch Thế Tôn, hai vị đại thần xứ Magadha, đang xây dựng thành trì ở Pàtaligàma để ngăn chận dân Vajjì.
Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến trú sở của hai vị đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara, sau khi đi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi hai vị thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara tự tay mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là thượng thủ, các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Sau khi Thế Tôn dùng cơm xong và cất tay khỏi bình bát, Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha liền lấy chiếc ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
Tại chỗ nào người sáng suốt lấy làm chỗ trú xứ.
Hãy nuôi dưỡng người giữ giới và người Phạm hạnh.
Và san sẻ công đức với Chư Thiên trú tại chỗ ấy.
Được tôn kính, chúng sẽ tôn kính lại.
Được trọng vọng, chúng sẽ trọng vọng lại.
Chúng sẽ mến thương người ấy như người mẹ thương mến con. Và những ai được thiên thần thân mến luôn luôn được thấy may mắn.
Sau khi Thế Tôn tán thán Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha với bài kệ này, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và ra về.
- "Hôm nay Sa-môn Gotama đi ra cửa nào cửa ấy sẽ được đặt tên là Gotama; Sa-môn Gotama lội qua sông từ bến nào, bến ấy sẽ được đặt tên là Gotama. Và cửa Sa-môn Gotama đi ra được đặt tên là cửa Gotama".
"Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sũng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột bè.
Những người ấy thật là những vị trí tuệ được giải thoát."
II
- "Xin vâng, bạch Thế Tôn". Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Kotigàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Kotigàma.
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Bốn Thánh đế ấy là gì? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Tập Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Diệt Thánh đế... Khổ Diệt Đạo Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo khi Khổ Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ Tập Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu,… khi Khổ Diệt Đạo Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ, sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay không còn hậu hữu nữa.
- Chính vì không thấy như thật Bốn Thánh đế nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự thực này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa.
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Nàdika.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Nàdika, tại ngôi nhà gạch (Ginjakàvasatha).
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Salada mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Tỷ-kheo ni Nandà mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Sujàta mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kakudha mệnh chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kàlinga..., Bạch Thế Tôn, cư sĩ Nikata..., Bạch Thế Tôn, cư sĩ Katissabha..., Bạch Thế Tôn, cư sĩ Tuttha..., Bạch Thế Tôn, cư sĩ Santuttha..., Bạch Thế Tôn cư sĩ Bhadda..., Bạch Thế Tôn, cư sĩ Subhadda đã mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào?
Này Ananda, chính Pháp Kính này mà Thánh đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt chánh giác".
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ... Tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Vesàli.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Vasali. Ở đây, Thế Tôn trú tại vườn Ambapàli.
- Này các Tỷ-kheo, các Ngươi phải sống an trú chánh niệm, tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo an trú chánh niệm? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời, đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.
Dâm nữ Ambapàli sau khi được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Dâm nữ Ambapàli được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên phải hướng về đức Phật và từ biệt.
- Này Ambapàli, tại sao nàng lại đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe, gọng xe chạm với gọng xe?
- Này quý Công tử của tôi, tôi vừa mới mời Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo ngày mai đến dùng cơm.
- Này Ambapàli, hãy nhường cho chúng ta bữa cơm ấy đổi lấy một trăm ngàn.
- Dầu quý Công tử có cho tôi cả thành Vesàli cùng với các đất phụ thuộc, tôi cũng không nhường bữa cơm quan trọng này.
Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói:
- Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên. Và các vị Licchavi này cùng đi đến vườn Ambapàli.
Các vị Licchavi sau khi được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ liền bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
- Này các Licchavi, ngày mai Ta đã nhận lời mời dùng cơm của dâm nữ Ambapàli rồi.
Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói: "Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên...”
Rồi những vị Licchavi này, hoan hỷ tán thán lời dạy Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về đức Phật và từ biệt.
Khi Thế Tôn dùng xong, tay đã rời bát, dâm nữ Ambapàli lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, dâm nữ Ambapàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, con xin cúng dường ngôi vườn này cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ".
Thế Tôn nhận lãnh khu vườn. Thế Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, rồi đứng dậy ra về.
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến làng Baluvà. Và Thế Tôn trú tại làng này.
- Này các Tỷ Kheo hãy an cư trong mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quen thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ an cư ở đây, tại làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những Tỷ Kheo này vâng đáp Thế Tôn và tìm chỗ an cư mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quyến thuộc và thân tín. Còn Thế Tôn an cư tại làng Baluvà.
- Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn khỏe mạnh. Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn kham nhẫn, bạch Thế Tôn, thấy Thế Tôn bệnh hoạn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ mịt không thấy rõ phương hướng, dầu cho, bạch Thế Tôn, con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu Ngài chưa có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.
Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.
Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.
III
- Này Ananda, hãy lấy tọa cụ. Ta muốn đi đến điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sàttambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay điện thờ Càpàla.
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sattambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay điện thờ Capala!" Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời nếu người ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Nhưng Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Vì tâm của Tôn giả bị Ác ma ám ảnh.
- Này Ananda hãy đi và làm những gì Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Thế Tôn và đi ra.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật... khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, đầy đủ Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, và có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì, Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy chưa thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người". Bạch Thế Tôn, nay Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Mạng sống có hạn hay vô hạn,
Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài.
Nội tâm chuyên nhất trú thiền định.
Như tháo áo giáp đang mang mặc.
Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu! Đại địa chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy?
Tự mình có sắc, thấy các sắc; đó là sự giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; đó là sự giải thoát thứ hai.
Quán tưởng (sắc là) tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy; đó là sự giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy tư "hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ; đó là sự giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Không vô biên xứ, với suy tư "thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư "không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là sự giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đó là sự giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng; đó là sự giải thoát thứ tám.
Này Ananda, như vậy là tám giải thoát.
- "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của ta chưa thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta không diệt độ khi nào Phạm hạnh mà Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người.
"Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hành phục một cách khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta...; khi nào những nữ cư sĩ của Ta...; khi nào Phạm hạnh Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người". Bạch Thế Tôn, nay Phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
"Này Ác ma, hãy an tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ".
Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa).
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người.
- Thôi đi, này Ananda, đừng có thỉnh cầu Như Lai nữa. Này Ananda, nay thỉnh cầu Như Lai không còn kịp thời.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
- Này Ananda, Ngươi có tin sự giác ngộ Thế Tôn không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin!
- Vậy, này Ananda, sao Ngươi lại làm phiền Như Lai đến ba lần.
- Này Ananda, Ngươi có tin tưởng không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin tưởng!
- Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi, đã không nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
Tại đấy, này Ananda, Ta cũng nói. “Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời nếu người ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Như Lai: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho lời Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
Này Ananda, chúng ta hãy đi đến giảng đường Kùtagàra tại rừng Đại Lâm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
- Này Ananda, hãy đi mời tất cả Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli tụ họp tại giảng đường này.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, đi mời tất cả vị Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli tụ họp tại giảng đường, rồi đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo đã tụ họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
- Này các Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các Ngươi, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ-kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để Phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
- Này các Tỷ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các Ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ.
Đó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt các Ngươi, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong pháp và luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
IV
- Này Ananda, lần này là lần cuối cùng, Như Lai nhìn Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Bhandagàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhandagàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Bhandagàma.
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Định mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Định được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt, những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa.
Giới, Định, Tuệ và Giải thoát vô thượng
Gotama danh xưng đã chứng ngộ.
Đấng Giác Ngộ giảng pháp chúng Tỷ-kheo.
Đạo sư diệt khổ, pháp nhãn, tịnh lạc.
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Hatthigama... Ambagama... Jambugama..., hãy đi đến Bhoganagama.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhoganagama.
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bốn Đại giáo pháp, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn giảng như sau:
Này các Tỷ-kheo, bốn đại giáo pháp này, các Ngươi hãy thọ trì.
- Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
- Này Ananda, chúng ta sẽ đi đến Pàvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Và Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàvà, tại vườn xoài của Cunda, một người thợ sắt.
- Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và loại mềm.
- Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại. Ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng theo Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên, gần như chết đến nơi.
Sau khi dùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc Đạo sư.
Điều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến thành Kusinàra".
- Này Ananda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn và xếp tư áo Sanghàti lại.
- Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
- Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Lần thứ hai Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
- Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục, khi Tôn giả Ananda đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng, không vẩn đục.
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu. Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin thỉnh Thiện Thệ dùng nước!
Và Thế Tôn uống nước.
Pukkusa, dòng họ Mallà thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Pukkusa, dòng họ Mallà, bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một vị xuất gia!
Bạch Thế Tôn, người ấy liền tự nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm tĩnh của vị xuất gia. Trong khi giác tỉnh, còn thức nhưng không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng". Sau khi tỏ sự thâm tín đối với Ngài Alàra Kàlàma, vị ấy từ biệt.
32: - "Này Hiền giả, vì sao có số đông người tụ họp như vậy?" - Bạch Thế Tôn vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc ấy Ngài ở tại chỗ nào?" - "Này Hiền giả, lúc ấy Ta ở tại đây". “Bạch Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không thấy gì". - "Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không nghe tiếng gì?" - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ, phải không?" - "Này Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang tỉnh thức phải không?" - "Này Hiền giả, phải". - "Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh thức, nhưng trong khi trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy, cũng không nghe gì". - Này Hiền giả, phải như vậy".
- Bạch Thế Tôn, sự tin tưởng của con đối với Ngài Alàra, Kàlàma, nay con đem rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà đem dâng một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc ấy cho Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc. Mong Thế Tôn vì thương xót con mà thâu nhận cho.
- Này Pukkusa, hãy đắp cho Ta một áo và đắp cho Ananda một áo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Pukkusa, dòng họ Mallà vâng lời Thế Tôn, đắp một áo cho Ngài và đắp một áo cho Tôn giả Ananda.
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, sự thanh tịnh và sáng chói màu da của Như Lai! Bạch Thế Tôn, khi con đặt trên thân Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc vàng chói và sẵn sàng để mặc này, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi.
- Thật vậy, này Ananda. Này Ananda, có hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói. Thế nào là hai? Này Ananda, trong đêm Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Giác và trong đêm Như Lai sắp diệt độ, nhập Niết-bàn giới, không còn dư y sanh tử nữa. Này Ananda, đó là hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn:
Cặp áo kim sắc này.
Pukkusa mang đến.
Đắp áo kim sắc này,
Da Đạo sư sáng chói.
- Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghàti làm bốn cho Ta. Này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Đại đức Cundaka vâng lời Thế Tôn và xếp áo Sanghàti làm bốn.
Con sông Kakutthà.
Con sông chảy trong sáng.
Mát lạnh và thanh tịnh.
Vị Đạo sư mỏi mệt
Đi dần xuống mé sông.
Như Lai đấng Vô Thượng
Ngự trị ở trên đời
Tắm xong, uống nước xong,
Lội qua bên kia sông.
Bậc Đạo sư đi trước,
Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
Vừa đi vừa diễn giảng.
Chánh pháp thật vi diệu.
Rồi bậc Đại Sĩ đến,
Tại khu vực rừng xoài.
Cho gọi vị Tỷ-kheo,
Tên họ Cundaka:
"Hãy gấp tư áo lại,
Trải áo cho ta nằm.
Nghe dạy, Cundaka
Lập tức vâng lời dạy,
Gấp tư và trải áo,
Một cách thật mau lẹ.
Bậc Đạo sư nằm xuống
Thân mình thật mệt mỏi.
Tại đây Cundaka,
Ngồi ngay phía trước mặt.
- Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ sắt Cunda hối hận: "Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi, thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ngươi cúng dường, và nhập diệt". Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của thợ sắt Cunda: "Này Hiền giả, thật là công đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt. Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn: "Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ; nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng cõi trời, nhờ hành động này, Đại đức Cunda sẽ được hưởng uy quyền".
Này Ananda, cần phải làm cho thợ sắt Cunda tiêu tan hối hận.
Công đức người bố thí,
Luôn luôn được tăng trưởng,
Trừ được tâm hận thù.
Không chất chứa, chế ngự,
Kẻ chí thiện từ bỏ.
Mọi ác hạnh bất thiện,
Diệt trừ tham, sân, si.
Tâm giải thoát thanh tịnh.
V
- Này Ananda, chúng ta hãy đi qua bờ bên kia sông Hirannavati, đến ở Kusinàrà - Upavatama - rừng Sàlà của dòng họ Màllà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ; này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh.
- Này Ananda, các cây sàlà song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai.
Nhưng, này Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda, hãy thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp và hành trì đúng Chánh pháp. Này Ananda, các Người phải học tập như vậy.
Tôn giả Ananda, liền tự suy nghĩ: "Đại đức Upavàna này là thị giả sống gần và hầu cận Thế Tôn đã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại quở trách Đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt Ta". Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách Đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt ta"?
- Đại đức Upavàna này là thị giả, sống gần và hầu cận Thế Tôn đã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại quở trách Đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt Ta." Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách Đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt Ta"?
- Này Ananda, rất đông các vị Thiên thần ở mười phương thế giới tụ hội để chiêm ngưỡng Như Lai. Này Ananda, cho đến mười hai do tuần xung quanh Kusinàrà, Upavattana, rừng Sàlà thuộc dòng họ Mallà, không có một chỗ nào, nhỏ cho đến đầu một sợi tóc có thể chích được mà không đầy những Thiên thần có uy lực tụ họp. Này Ananda, các vị Thiên Thần đang than phiền: "Chúng ta từ rất xa đến chiêm ngưỡng Như Lai. Thật rất là hy hữu, các Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, và tối hôm nay, trong canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt. Và nay Tỷ-kheo có oai lực này lại đứng ngang trước Thế Tôn, khiến chúng ta không thể chiêm ngưỡng Như Lai trong giờ phút cuối cùng". Này Ananda, các chư Thiên than phiền như vậy.
- Này Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than, với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Này Ananda, có hạng Thiên thần ở trên đất với tâm tư thế tục những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại:
"Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Có chư Thiên đã diệt trừ ái dục, những vị này bình thản, tỉnh giác chịu đựng, với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao sự kiện có thể khác được?"
"Đây là chỗ Như Lai đản sanh". Này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
Này Ananda, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam, cư si nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Đây là chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là chỗ Như Lai diệt độ, Nhập Vô dư y Niết-bàn".
Này Ananda, và những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.
- Này Ananda, chớ có thấy chúng.
- Bạch Thế Tôn, nếu phải thấy chúng, thời phải như thế nào?
- Này Ananda, chớ có nói chuyện với chúng.
- Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với chúng, thời phải như thế nào?
- Này Ananda, phải an trú chánh niệm.
- Này Ananda, các Ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân Xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các Người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ, những học giả Bà-la-môn, những học giả Gia chủ thâm tín Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân Xá-lợi của Như Lai.
- Này Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh Vương như thế nào, hãy xử sự thân Xá-lợi Như Lai như vậy.
- Bạch Thế Tôn, người ta xử sự thân chuyển luân Thánh vương như thế nào?
- Này Ananda, thân của Chuyển luân Thánh vương được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại được vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn vải gai bệnh, lại vấn thêm với vải mới, và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân được đặt vào trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên, thân của vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa này và tại ngã tư đường, tháp của vị Chuyển luân Thánh vương được xây dựng lên. Này Ananda, đó là pháp táng thân vị Chuyển luân Thánh vương.
Này Ananda, pháp táng thân vị Chuyển luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp, hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
Này Ananda, vì lý do gì, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ sanh lên thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, bậc Độc Giác Phật xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp của Thế Tôn Độc Giác Phật". Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, bậc Độc Giác Phật xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp đệ tử Thanh Văn của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, Chuyển luân Thánh vương xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp của vị Pháp vương trị vì đúng pháp." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Chuyển luân Thánh vương xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, đó là bốn hạng người xứng đáng xây tháp.
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ananda ở tại đâu?
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda đi vào trong Tinh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: "Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Đạo sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương tưởng ta nữa!"
Thế Tôn liền nói với một Tỷ-kheo:
- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, nói với Ananda: "Này Hiền giả Ananda, bậc Đạo sư gọi Hiền giả."
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Vị Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đi đến chỗ Tôn giả Ananda, sau khi đến, liền nói với Tôn giả: "Này Hiền giả Ananda, bậc Đạo sư cho gọi Hiền giả." - "Thưa vâng, Hiền giả." Tôn giả Ananda vâng lời vị Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
- Thôi vừa rồi, Ananda, chớ có buồn rầu, chớ có khóc than. Này Ananda, Ta đã tuyên bố trước với Ngươi rằng mọi vật ái luyến, tốt đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này Ananda làm sao được có sự kiện này: "Các pháp sanh, trú, hữu vi, biến hoại đừng có bị tiêu diệt?" Không thể có sự kiện như vậy được. Này Ananda, đã lâu ngày, Ngươi đối với Như Lai, với thân nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với khẩu nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với ý nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng. Này Ananda, Người là người tác thành công đức. Hãy cố gắng tinh tấn lên, Người sẽ chứng bậc Vô lậu, không bao lâu đâu.
- Này các Tỷ-kheo, những vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, những bậc Thế Tôn này đều có những thị giả tối thắng như Ananda của Ta. Này Tỷ-kheo, những vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thời vị lai, những bậc Thế Tôn này cũng sẽ có những vị thị giả tối thắng như Ananda của Ta vậy.
Này các Tỷ-kheo, Ananda là người có trí và hiểu rõ: "Nay đúng thời để các Tỷ-kheo yết kiến Thế Tôn, nay đúng thời để các Tỷ-kheo ni, nay đúng thời để các nam cư sĩ, nay đúng thời để các nữ cư sĩ, nay đúng thời để các vua chúa, để các đại thần, để các ngoại đạo sư, để các đệ tử các ngoại đạo sư yết kiến Thế Tôn!"
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng Tỷ-kheo đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu Ananda làm thinh thời, này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo ni..., chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ, vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp và nếu Ananda làm thinh thời này các Tỷ-kheo, chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, vị Chuyển luân Thánh vương có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu.
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng Sát-đế-lỵ... chúng Bà-la-môn... chúng Gia chủ... chúng Sa-môn đến yết kiến vị Chuyển luân Thánh vương, chúng sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến vị Chuyển luân Thánh vương và nếu vị Chuyển luân Thánh vương nói chuyện, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài nói chuyện, và nếu vị Chuyển luân Thánh vương làm thinh thời chúng Sa-môn ấy sẽ thất vọng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu. Nếu có chúng Tỷ-kheo... chúng Tỷ-kheo ni... chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến Ananda. Và nếu Ananda thuyết pháp chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu Ananda làm thinh, thời này các Tỷ-kheo chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu như vậy.
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang vu này, tại đô thị phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm-bà), Ràjagaha (Vương xá), Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa-kỳ), Kosambi (Kiều-thưởng-di), Bàrànasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại chỗ ấy. Tại chỗ ấy, có đại chúng Sát-đế-lỵ, có đại chúng Bà-la-môn, có đại chúng Gia chủ rất tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng dường thân Xá-lợi Như Lai.
- Này Ananda, chớ có nói như vậy, này Ananda, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô thị này hoang vu, đô thị này phụ thuộc.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, dân chúng sung mãn, thực phẩm phong phú. Này Ananda, cũng như kinh đô Alakamanda của chư thiên rất phồn thịnh, phú cường dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực phẩm phong phú, cũng vậy này Ananda, kinh đô Kusàvatì này cũng rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, nhân chúng sung mãn.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này, ngày đêm vang dậy chín loại tiếng, tức là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng tỳ bà, tiếng hát, tiếng xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là lời kêu gọi: "Hãy uống đi, hãy ăn đi".
- Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, đắp y, đem theo y bát và cùng một vị khác làm bạn đồng hành đi vào Kusinàrà.
- Này Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối cùng Như Lai sẽ diệt độ. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
Và dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não, đi đến Upavattana, khu rừng Sàlà của dòng họ Mallà và đến chỗ Tôn giả Ananda.
- Bạch Thế Tôn, gia tộc Mallà này với vợ con, đồ chúng, bạn bè đến cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và Tôn giả Ananda, theo phương tiện này trong canh một, khiến dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế Tôn.
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda suy nghĩ: "Ta nghe các du sĩ ngoại đạo niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp và giải được nghi vấn cho ta".
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Lần thứ hai, du sĩ ngoại đạo Subhadda... Lần thứ ba, du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với Tôn giả Ananda:
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Gotama.
Lần thứ ba, Tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
- Thôi Ananda, chớ có ngăn trở Subhadda, Ananda, hãy để cho Subhadda được phép yết kiến Như Lai. Những gì Subhadda hỏi Ta là hỏi để hiểu biết chớ không phải để phiền nhiễu Ta. Và những gì ta trả lời các câu hỏi, Subhadda sẽ hiểu ý nghĩa một cách mau lẹ.
Tôn giả Ananda liền nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Này Hiền giả Subhadda, hãy vào. Thế Tôn đã cho phép Hiền giả.
- Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các Ngài Pàrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesakambalì, Pakadha Kaccàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàthaputta, tất cả những vị này có phải là giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ?
- Thôi Subhadda, hãy để vấn đề này yên một bên: "Tất cả những vị này có phải là đã giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ". Này Subhadda, Ta sẽ thuyết pháp cho Ngươi. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Du sĩ ngoại đạo Subhadda vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Này Subhadda, năm hai mươi chín,
Ta xuất gia hướng tìm chân thiện đạo.
Trải năm mươi năm với thêm một năm
Từ khi xuất gia, này Subhadda,
Ta là du sĩ tu Trí, tu Đức.
Ngoài lãnh vực này, không có Sa-môn (đệ nhứt) cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng không có Sa-môn đệ tam, cũng không có Sa-môn đệ tứ. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh, thì đời này không vắng những vị A-la-hán.
- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được xuất gia với Thế Tôn. Con xin thọ đại giới.
- Này Subhadda, ai trước kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia muốn thọ đại giới trong Pháp, Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
Và Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananada, hãy xuất gia cho Subhadda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
- Thật là lợi ích, thưa Tôn giả Ananda, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả Ananda, được thọ lễ quán đảnh làm đệ tử trước mặt bậc Đạo sư!
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia được thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao lâu, Đại đức Subhadda ở một mình, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự giác chứng và an trú. Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.
Và Đại đức Subhadda trở thành một A-la-hán nữa.
Đại đức là vị đệ tử cuối cùng được Thế Tôn thế độ.
VI
- Này Ananda, nếu trong các Ngươi có người nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo sư (giáo chủ)". Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo sư của các Ngươi.
- Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm Đàn?
- Này Ananda, Tỷ-kheo Channa muốn nói gì thì nói. Chúng Tỷ-kheo sẽ không nói, sẽ không giảng dạy, sẽ không giáo giới Tỷ-kheo Channa.
- Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời này các Tỷ-kheo các Người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: "Bậc Đạo sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt hỏi Thế Tôn".
Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy im lặng. Một lần thứ hai, Thế Tôn... Một lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo có nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời này các Tỷ-kheo, các Ngừơi hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: "Bậc Đạo sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt hỏi Thế Tôn".
Lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có vị nào vì lòng kính trọng bậc Đạo sư mà không hỏi, thời này các Tỷ-kheo, giữa bạn đồng tu, hãy hỏi nhau.
Khi được nói vậy, những vị Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.
- Này Ananda, Ngươi có tín nhiệm nên nói vậy. Nhưng ở đây, này Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp. Này Ananda, trong năm trăm Tỷ-kheo này, Tỷ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác.
- Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các Ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Đó là lời cuối cùng Như Lai.
Khi ấy Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Anuruddha:
- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt độ.
- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi Thế Tôn diệt độ, Phạm thiên Sahampati, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Chúng sanh ở trên đời,
Từ bỏ thân ngũ uẩn
Bậc Đạo sư cũng vậy,
Đấng Tuyệt luân trên đời.
Bậc Đại hùng Giác ngộ
Như Lai đã diệt độ.
Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Các hành là vô thường,
Có sanh phải có diệt
Đã sanh, chúng phải diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.
Khi Thế Tôn diệt độ, Tôn giả Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Không phải thở ra vào
Chính tâm trú chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ
Chính tâm tịnh bất động
Nhẫn chịu mọi cảm thọ
Như đèn sáng bị tắt
Tâm giải thoát hoàn toàn.
Khi Thế Tôn diệt độ, Tôn giả Ananda, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Thật kinh khủng bàng hoàng,
Thật râu tóc dựng ngược,
Khi Bậc Toàn thiện năng,
Bậc Giác ngộ nhập diệt.
Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy: "Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy". Này các Hiền giả, chính chư Thiên đang trách đó.
- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả đang nghĩ đến hạng chư Thiên nào?
- Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên đất với tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những chư Thiên diệt trừ ái dục, những vị này chánh niệm tỉnh giác, chịu đựng với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao có thể khác được?"
- Hiền giả Ananda, hãy vào thành Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi nghĩ phải làm".
- Tôn giả, xin vâng!
Tôn giả Ananda vâng lời Tôn giả Anuruddha, buổi sáng đắp y, đem theo y bát cùng một thị giả, vào thành Kusinàrà.
Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì một vài công vụ. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền nói với dân Mallà ở Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi nghĩ phải làm".
Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe Tôn giả Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ não, kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệp quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Rồi dân Kusinàrà đem theo hương, tràng hoa, tất cả nhạc khí và năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sàlà của dòng họ Mallà, đến tại chỗ thân Xá-lợi của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân Xá-lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala.
Rồi dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: "Hôm nay, nếu thiêu thân Xá-lợi Thế Tôn thời quá sớm. Ngày mai, chúng ta sẽ làm lễ thiêu thân Xá-lợi của Thế Tôn". Rồi dân Mallà ở Kusinàrà, cả ngày thứ hai, tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân Xá-lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala, ngày thứ ba cũng như vậy, ngày thứ tư cũng như vậy, ngày thứ năm cũng như vậy, ngày thứ sáu cũng như vậy.
Lúc bấy giờ tám vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý định khiêng nổi thân Xá-lợi Như Lai nhưng khiêng không nổi được. Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch Tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì tám vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý định khiêng nổi thân Xá-lợi Như Lai, nhưng không khiêng nổi được?
- Này Vàsetthà, vì ý định của các Ngươi khác, ý định của chư Thiên khác.
- Này các Vàsetthà, ý định của các Ngươi như sau:
"Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân Xá-lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương. Nay chúng ta hãy chở thân Xá-lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy".
Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau: "Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân Xá-lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương của Chư thiên nay chúng ta hãy khiêng thân Xá-lợi Thế Tôn về hướng Bắc phía Bắc của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc, hãy khiêng qua Trung tâm của thành, rồi hướng về phía Đông, khiêng đến phía Đông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, hãy khiêng đến phía Đông của thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và chúng ta sẽ thiêu thân Thế Tôn tại chỗ ấy".
- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên thế nào, ý định của chúng con cũng vậy.
- Bạch Tôn giả Ananda, chúng con nay phải xử sự như thế nào đối với thân Xá-lợi Như Lai?
- Này các Vàsetthà, xử sự thân Chuyển luân Thánh vương như thế nào, hãy xử sự thân Xá-lợi Như Lai như vậy.
- Bạch Tôn giả Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh vương phải như thế nào?
- Này các Vàsetthà, thân Chuyển luân Thánh vương được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới, lại được vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân được đặt trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên, thân vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa này, và tại ngã tư đường, tháp vị Chuyển luân Thánh vương này được xây dựng lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng thân của vị Chuyển luân Thánh vương.
Này các Vàsetthà, pháp táng thân của vị Chuyển luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân của Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem đến tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
- Hãy đem lại tất cả vải gai bện của Mallà.
Rồi những người Mallà ở Kusinàrà vấn tròn thân Thế Tôn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi đặt thân Như Lai vào trong một hòm dầu bằng sắt, đậy hòm sắt này vào một hòm sắt khác, dựng lên một giàn hỏa gồm mọi loại hương và đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa.
Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại đạo lấy một hoa Mandàrava ở Kusinàrà và đang đi trên một con đường đến Pàvà.
Tôn giả Mahà Kassapa thấy tà mạng ngoại đạo đi từ đàng xa đến. Thấy vậy, Tôn giả liền hỏi tà mạng ngoại đạo ấy:
- Này Hiền giả, Hiền giả có biết bậc Đạo sư chúng tôi không?
- Này Hiền giả, tôi có biết. Sa-môn Gotama đã diệt độ cách hôm nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được hoa Mandàrava này.
Lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị này an trú chánh niệm, tỉnh giác nhẫn nại suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Chúng ta đã được thoát khỏi hoàn toàn vị Đại Sa-môn ấy, chúng ta đã bị phiền nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này không hợp với các Ngươi. Làm như thế này hợp với các Ngươi". Nay những gì chúng ta muốn, chúng ta làm, những gì chúng ta không muốn, chúng ta không làm.
Tôn giả Mahà Kassapa mới nói với các vị Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải bị sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy: Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy.
Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch Tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì, bốn vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn, nhưng châm lửa không cháy?
- Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên khác.
- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên như thế nào?
- Này các vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà Kassapa nay đang đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ được đốt cháy khi Tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn".
- Bạch Tôn giả, ý định chư Thiên như thế nào, hãy làm y như vậy.
Năm trăm vị Tỷ-kheo ấy choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu qua phía tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần và cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và khi Tôn giả Mahà Kassapa và năm trăm vị Tỷ-kheo đảnh lễ xong, thời giàn hỏa Thế Tôn tự bắt lửa cháy.
Như sanh tô hay dầu bị cháy, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có than, cũng vậy khi thân Thế Tôn cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa khớp xương, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương Xá-lợi còn lại. Và năm trăm tầng lớp vải gai bện, cả hai lớp trong nhất và lớp ngoài nhất đều bị cháy thiêu.
Khi thân Thế Tôn bị thiêu cháy xong, một dòng nước từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và một dòng nước từ kho nước (hay từ cây sàlà) phun lên tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và các người Mallà ở Kusinàrà dùng nước với mọi loại hương tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn.
Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà đặt Xá-lợi Thế Tôn trong giảng đường, dùng cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường với các điệu múa, hát, nhạc, vòng hoa, hương.
Những người Licchavì ở Vesàli nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được phần Xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với Xá-lợi Thế Tôn".
Các người Sakyà ở Kapilavatthu nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần Xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ với Xá-lợi Thế Tôn".
Những người Buli ở Allakappa nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần Xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với Xá-lợi Thế Tôn".
Những người Koli ở Rãmagãma nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần Xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với Xá-lợi Thế Tôn."
Bà-la-môn Vethadìpaka nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, tôi là người Bà-la-môn. Tôi cũng xứng đáng được một phần Xá-lợi Thế Tôn. Tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với Xá-lợi Thế Tôn".
Các người Mallà ở Pàvà nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gửi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần Xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với Xá-lợi Thế Tôn".
- Thế Tôn đã diệt độ tại làng vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ không cho phần Xá-lợi nào của Thế Tôn.
Khi nghe vậy. Bà-la-môn Dona nói với đại chúng:
Tôn giả, hãy nghe lời tôi nói!
Phật dạy chúng ta phải kham nhẫn.
Thật không tốt nếu có tranh giành.
Khi chia Xá-lợi bậc Thượng nhân.
Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
Hoan hỷ chia Xá-lợi tám phần.
Chúng ta hãy dựng tháp mọi phương,
Đại chúng mười phương tin Pháp nhãn...
- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hãy phân chia Xá-lợi ra tám phần đồng đều.
- Xin vâng, các Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng lời hội chúng ấy, phân chia Xá-lợi Thế Tôn thành tám phần đồng đều rồi thưa hội chúng:
- Các Tôn giả, hãy cho tôi cái bình dùng để đông chia Xá-lợi này. Tôi sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ cho cái bình.
Và hội chúng ấy tặng Bà-la-môn Dona cái bình.
- "Nay không còn phần Xá-lợi Thế Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đã được phân chia, hãy lấy tro còn lại". Rồi các vị này lấy than tro còn lại.
Những người Licchavi ở Vesàli cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Sakya ở Kapilavatthu cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Buli ở Allakappa cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Koli ở Ràmagama cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Vethadìpaka cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Vethadìpa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Mallà ở Pàvà cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Pàvà và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Màllà ở Kusinàrà cũng xây dựng tháp trên Xá-lợi Thế Tôn tại Kusinàrà và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Dona cũng xây dựng tháp trên bình (dùng để đong chia Xá-lợi) và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Moriyà ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp trên những than tro và tổ chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp Xá-lợi, tháp thứ chín trên bình (dùng để đong chia Xá-lợi) và tháp thứ mười trên tro (Xá-lợi).
Đó là truyền thống thời xưa như vậy.
Xá-lợi phân tám phần.
Bảy phần được cúng dường.
Tại Jambudìpa.
Một phần Long vương cúng.
Tại Ràmagàma.
Một răng Phật được cúng,
Tại cõi Tam Thiên giới,
Một tại Gandhàra,
Một tại Kalinga.
Một răng, vua Long vương.
Tự mình riêng cúng dường.
Quả đất được chói sáng,
Với hào quang Xá-lợi,
Với lễ vật cúng dường.
Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
Như vậy được cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường.
Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
Bởi bậc Tối thượng nhơn.
Các người hãy chắp tay,
Cung kính lễ cúng dường.
Khó thay sự chiêm ngưỡng.
Tôn nhan bậc Như Lai.
Trải nhiều nhiều trăm kiếp,
May lắm được một lần.
HẾT TẬP I
MỤC LỤC KINH TRƯỜNG BỘ TẬP I
HẾT TẬP I KINH TRƯỜNG BỘ
GHI CHÚ: Trong Mục lục tập I ghi 15 Kinh, đúng ra là 16 kinh nhưng Kinh Jàliya, số 7 phần lớn giống Kinh Mahàli nên dịch giả không dịch. Do đó, số thự tự Kinh của tập I từ số 7 đến số 15 tương đương với số 8 đến số 16 của Pàli Tạng.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________
>>> 15. Kinh đại duyên
(Kukkuravatikasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya. Rồi Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó. Sau khi ngồi một bên, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
– Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?
– Này Punna, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: “Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”. Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông. Ở đây, này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: “Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay Phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác”, thời này Punna, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Punna, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
Khi được nói vậy, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, khóc than chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò:
– Này Punna, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của ông và đã nói: “Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”.
– Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con chó này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò này, đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này, trong một thời gian dài, vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?
– Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Punna Koliyaputta này đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài, vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?
– Này Seniya, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: “Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”. Tuy vậy ta sẽ trả lời cho Ông. Ở đây, này Seniya, người nào hạnh trì hạnh con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con bò một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh thân hữu cũng với các loài bò. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: “Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay Phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này hay chư Thiên khác”, thời này Seniya, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Seniya, nếu hạnh con bò được thành tựu, thời được sanh trong loài bò, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.
Khi được nói vậy, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt. Rồi Thế Tôn nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:
– Này Seniya, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: “Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”.
– Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con. Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài. Bạch Thế Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn: Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó có thể bỏ hạnh con chó này.
– Này Punna, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói:
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Punna Koliyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này Punna có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này Punna, có nghiệp đen (đưa đến) quả báo đen, này Punna, có nghiệp trắng (đưa đến) quả báo trắng, này Punna, có nghiệp đen trắng (đưa đến) quả báo đen trắng, này Punna, có nghiệp không đen trắng (đưa đến) quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. Và này Punna, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục. Như vậy, này Punna, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình, và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình. Do vậy, này Punna, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”. Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen. Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng (đưa đến) quả báo trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không không có tổn hại, làm khẩu hành không không có tổn hại, làm ý hành không không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không không có tổn hại, khẩu hành không không có tổn hại, ý hành không không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không không có tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới không không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên). Như vậy này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”. Như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng. Và này Punna, thế nào là nghiệp trắng đen đưa đến quả báo trắng đen? Ở đây, này Punna, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại. Sau khi làm các có tổn hại không tổn hại, thân hành có tổn hại không tổn hại, khẩu hành có tổn hại không tổn hại, ý hành có tổn hại không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại không tổn hại. Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại không tổn hại. Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại không tổn hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ. Như vậy, này Punna là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh, chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình; và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy. Do vậy, này Punna, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”. Như vậy này Punna, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Và này Punna, thế nào là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Punna, chỗ nào có ý chí như vậy, này Punna, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp. Này Punna, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.
Khi được nói vậy, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại... (như trên)... mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng.
Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Thế Tôn quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.
– Này Seniya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy ở đây là tánh con người sai biệt nhau.
– Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, để thành vị Tỷ-kheo, thời con sẽ sinh sống biệt trú bốn năm. Sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu chư Tỷ-kheo đồng ý, mong chư Tỷ-kheo hãy xuất gia cho con, thọ đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.
Và lõa Thể Seniya, hành trì hạnh con chó được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Seniya sống một mình an tịnh, không phóng dật nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”. Và Tôn giả Seniya trở thành một vị A-la-hán nữa.
KINH HẠNH CON CHÓ, THỨ NĂM MƯƠI BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________
>>> 56. Kinh Ưu Ba Ly
(MAHÀNIDÀNASUTTA)
- Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, giáo pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy, và giáo pháp này đối với con hết sức minh bạch rõ ràng.
- Này Ananda, chớ có nói vậy! Này Ananda chớ có nói vậy! Này Ananda, giáo pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy. Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Sanh có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Sanh do duyên gì?" Hãy đáp: "Sanh do duyên hữu".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Hữu có có duyên nào không? Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Hữu do duyên gì?" Hãy đáp: "Hữu do duyên thủ".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: “Thủ có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Thủ do duyên gì?" Hãy đáp: "Thủ do duyên ái".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Ái có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Ái do duyên gì?" Hãy đáp: "Ái do duyên thọ".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Thọ có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Thọ do duyên gì?" Hãy đáp: "Thọ do duyên xúc".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Xúc có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Xúc do duyên gì?" Hãy đáp: "Xúc do duyên danh sắc".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Danh sắc có duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Danh sắc do duyên gì? Hãy đáp: "Danh sắc do duyên thức".
Này Ananda, nếu có ai hỏi: "Thức có do duyên nào không?" Hãy đáp: "Có". Nếu có hỏi: "Thức do duyên gì?" Hãy đáp: "Thức do duyên danh sắc".
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của lão tử, tức là sanh.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của sanh, tức là hữu.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của hữu, tức là thủ.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của thủ, tức là ái.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của ái, tức là thọ.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của một số ác, bất thiện pháp như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ, tức là thủ hộ.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của thủ hộ, tức là hà tiện.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của hà tiện, tức là chấp thủ.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của chấp thủ, tức là đam mê.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của đam trước, tức là tham dục.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của tham dục tức là quyết định.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của quyết định, tức là lợi.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của lợi, tức là tầm cầu.
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của tầm cầu, tức là ái.
Này Ananda, như vậy hai phương diện (của ái) tuy hai nhưng hòa hợp thành một, nhờ thọ (làm duyên sanh).
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của thọ, tức là xúc.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy nhờ đó mà sắc thân được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có, thời hữu đối xúc trong danh thân có thể hiện hữu được không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, những hình, những sắc, những tướng, những mạo nhờ đó mà danh thân và sắc thân được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có, thời danh mục xúc hay hữu đối xúc có thể hiện hữu được không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, những hình, những sắc, những tướng, những mạo nhờ đó mà danh sắc được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có thì xúc có thể hiện hữu được không?
- Bạch Thế Tôn, không!
Do vậy, này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của xúc, tức là danh sắc.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, nếu thức đi vào trong bụng bà mẹ rồi bị tiêu diệt, thời danh sắc có thể hình thành trạng thái này, trạng thái khác không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, nếu thức bị đoạn trừ trong đứa con nít, hoặc là đồng nam hay đồng nữ, thời danh sắc có thể lớn lên, trưởng thành và thành mãn được không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Do vậy, này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của danh sắc, tức là thức.
- Bạch Thế Tôn, không!
- Do vậy, này Ananda, như vậy là nhơn, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhơn duyên của thức, tức là danh sắc.
- Này Ananda, trong giới hạn con người được sanh, con người được già, con người được chết, con người được diệt, hay con người được tái sanh, trong giới hạn ấy là danh mục đạo, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ đạo, trong giới hạn ấy là thi thiết đạo, trong giới hạn ấy là tuệ giới, trong giới hạn ấy là lưu chuyển luân hồi hiện hữu trạng thái này trạng thái khác nghĩa là danh sắc và thức.
Này Ananda, có người tuyên bố ngã có sắc và vô lượng, người này tuyên bố hoặc ngã có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã có sắc và vô lượng trong tương lai. Hoặc như thế này: "Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy". Này Ananda, sự việc là như vậy thời lời tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.
Này Ananda, có người tuyên bố ngã không có sắc và có hạn lượng, người này tuyên bố hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong hiện tại hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong tương lai... hoặc ngã không có sắc và vô lượng trong tương lai. Hoặc như thế này: "Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy". Này Ananda, sự việc là như vậy thời lời tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi. Này Ananda, như vậy, là có bấy nhiêu lời tuyên bố về ngã.
Này Ananda, có người không tuyên bố ngã có sắc và vô lượng, người này không tuyên bố hoặc ngã có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã có sắc và vô lượng trong tương lai. Hoặc không như thế này: “Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy". Này Ananda, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.
Này Ananda, có người không tuyên bố ngã không có sắc và có hạn lượng, người này tuyên bố, hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong hiện tại, hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong tương lai. Hoặc không như thế này: "Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy". Này Ananda, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã không có sắc và có hạn lượng như vậy là quá đủ rồi.
Này Ananda, có người không tuyên bố ngã không có sắc và vô lượng, người này không tuyên bố ngã không có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã không có sắc và vô lượng trong tương lai. Hoặc không như thế này: "Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy". Này Ananda, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.
Này Ananda, như vậy là có bấy nhiêu lời không tuyên bố về ngã.
Này Ananda, khi cảm giác một lạc thọ, chúng ta không cảm giác một khổ thọ, không cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, khi ấy chỉ cảm giác một lạc thọ thôi. Này Ananda, khi cảm giác một khổ thọ, chúng ta không cảm giác một lạc thọ, không cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, khi ấy chỉ cảm giác một khổ thọ thôi. Này Ananda, khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, chúng ta không cảm giác một lạc thọ, không cảm giác một khổ thọ, khi ấy chỉ cảm giác một bất khổ bất lạc thọ thôi.
Vậy những ai nói rằng: "Ngã của tôi là thọ", người ấy sẽ xem ngã của mình như một cái gì trong hiện tại, cái gì ấy là vô thường, lạc khổ xen lẫn, là pháp sanh diệt. Do vậy, này Ananda, không thể chấp nhận quan niệm "Ngã của tôi là thọ".
- Bạch Thế Tôn, không!
- Do vậy, này Ananda, không thể chấp nhận quan niệm "Ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không có cảm thọ".
- Bạch Thế Tôn, không!
- Do vậy, này Ananda, không thể chấp nhận quan niệm "Ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không phải không có cảm thọ; ngã của tôi có cảm thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ".
Này Ananda, với vị Tỷ-kheo có tâm giải thoát như vậy, nếu có ai nói vị Tỷ-kheo ấy có tà kiến như sau: "Như Lai có tồn tại sau khi chết" thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Hoặc có tà kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại và không không có tồn tại sau khi chết", thời thật hoàn toàn phi lý. Tại sao vậy? Này Ananda, ví dầu có bao nhiêu danh mục, bao nhiêu danh mục đạo, dầu có bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu ngôn ngữ đạo, dầu có bao nhiêu thi thiết, bao nhiêu thi thiết đạo, dầu có bao nhiêu trí tuệ, bao nhiêu trí tuệ giới, dầu có bao nhiêu luân chuyển, bao nhiêu vận hành, với thắng trí hiểu biết tất cả, vị Tỷ-kheo được giải thoát. Với vị Tỷ-kheo thắng trí giải thoát như vậy mà nói rằng vị Tỷ-kheo ấy không biết, không thấy, thời thật là một sự phi lý.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân dị loại nhưng tưởng nhất loại, như các vị Phạm Chúng thiên được sanh vào cõi ấy, nhờ sơ Thiền. Đó là trú xứ thứ hai của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân nhất loại nhưng tưởng dị loại, như các vị Quang Âm thiên (Abhassarà). Đó là trú xứ thứ ba của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, thân nhất loại và tưởng cũng nhất loại, như các vị Biến Tịnh thiên (Subhakinna). Đó là trú xứ thứ tư của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, vượt ra khỏi tất cả sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi dị loại tưởng, chỉ có tưởng "Hư không là vô biên", được sanh vào cõi Hư không vô biên xứ. Đó là trú xứ thứ năm của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình hoàn toàn vượt ra khỏi Không vô biên xứ, chỉ có tưởng "Thức là vô biên", được sanh vào cõi Thức vô biên xứ. Đó là trú xứ thứ sáu của thức.
Này Ananda, có những loại hữu tình, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng "Vô sở hữu", được sanh vào cõi Vô sở hữu xứ. Đó là trú xứ thứ bảy của thức.
Hai xứ là Vô tưởng hữu tình xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- Bạch Thế Tôn, không!
... (như trước)...
- Này Ananda, trong thức trú xứ thứ bảy, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng "Vô sở hữu", được sanh vào cõi Vô sở hữu xứ. Này Ananda nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, với Vô tưởng hữu tình xứ này, này Ananda, nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, với Phi tưởng phi phi tưởng xứ này, này Ananda nếu có ai hiểu được trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích trú xứ này không?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Ananda, bởi bảy thức trú xứ và hai xứ này, nếu có vị Tỷ-kheo đã như chơn hiểu được tập khởi, đoạn trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm, xuất ly của chúng, nhờ không còn chấp thủ, vị này được giải thoát. Này Ananda, vị Tỷ-kheo như vậy được gọi là Tuệ giải thoát.
Tự mình có sắc, thấy các sắc pháp. Đó là giải thoát thứ nhất.
Không biết tự mình có sắc, thấy các sắc ngoài tự thân. Đó là giải thoát thứ hai.
Tâm mạnh hướng đến thanh tịnh. Đó là giải thoát thứ ba.
Hoàn toàn vượt khỏi mọi sắc tưởng, đoạn diệt mọi hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi tưởng dị biệt, với tư tưởng: "Hư không là vô biên", chứng và an trú Hư không vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ tư.
Hoàn toàn vượt khỏi Hư không vô biên xứ, với tư tưởng: "Thức là vô biên", chứng và an trú Thức vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ năm.
Hoàn toàn vượt khỏi Thức vô biên xứ, với tư tưởng: "Vô sở hữu" chứng và an trú Vô sở hữu xứ. Đó là giải thoát thứ sáu.
Hoàn toàn vượt khỏi Vô sở hữu xứ, chứng và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng định. Đó là giải thoát thứ tám. Này Ananda, như vậy là tám giải thoát.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________
>>> 14.Kinh đại bổn
(Upalisuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Nalanda, trong rừng Pavarikamba. Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta trú tại Nalanda cùng với đại chúng Nigantha (Ly Hệ Phái). Rồi Nigantha Dighatapassi (Trường Khổ Hạnh Giả), sau khi đi khất thực ở Nalanda, ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến rừng Pavarikamba, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm Thế Tôn. Sau khi nói lên những lời hỏi thăm thân hữu, vị này đứng một bên. Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang đứng một bên:
– Này Tapassi, có những ghế ngồi. Nếu ông muốn, hãy ngồi xuống.
Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi lấy một ghế thấp, rồi ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang ngồi một bên:
– Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?
– Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta không có thông lệ chủ trương nghiệp, nghiệp. Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta có thông lệ chủ trương phạt, phạt.
– Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?
– Này Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt, ý phạt.
– Này Tapassi, nhưng có phải thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác?
– Hiền giả Gotama, thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.
Này Tapassi, ba loại phạt này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương loại phạt nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, thân phạt chăng, khẩu phạt chăng, ý phạt chăng?
– Hiền giả Gotama, ba loại phạt này được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương thân phạt là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.
– Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.
– Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.
– Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?
– Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.
Như vậy Thế Tôn trong cuộc đàm thoại này đã làm Nigantha Dighatapassi xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình).
Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Thế Tôn:
– Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?
– Này Tapassi, Như Lai không có thông lệ chủ trương phạt, phạt. Này Tapassi, Như Lai có thông lệ chủ trương nghiệp, nghiệp.
– Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?
– Này Tapassi, Ta chủ trương ba loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, nhưng có phải thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác?
– Này Tapassi, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác.
– Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Hiền giả chủ trương loại nghiệp nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân nghiệp chăng, khẩu nghiệp chăng, ý nghiệp chăng?
– Này Tapassi, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệp, thân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
– Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?
– Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.
Như vậy Nigantha Dighatapassi trong cuộc đàm thoại này, sau khi đã làm Thế Tôn xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình), liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ Nigantha Nataputta.
Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta đang ngồi với một đại chúng Gia chủ rất đông, do Upali (Ưu-ba-ly) người thuộc làng Balaka cầm đầu. Nigantha Nataputta thấy Nigantha Dighatapassi từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Nigantha Dighatapassi:
– Này Tapassi, Ông từ đâu đi đến, trong ban ngày (nóng bức) như thế này?
– Thưa Tôn giả, con từ Sa-môn Gotama đi đến đây.
– Này Tapassi, Ông có đàm luận gì với Sa-môn Gotama không?
– Thưa Tôn giả, con cùng với Sa-môn Gotama có cuộc đàm thoại.
– Này Tapassi, cuộc đàm thoại của ông với Sa-môn Gotama như thế nào?
Rồi Nigantha Dighatapassi kể lại cho Nigantha Nataputta nghe một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Sa-môn Gotama. Được nghe vậy, Nigantha Nataputta nói với Dighatapassi:
– Tốt lành thay, tốt lành thay, Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Nigantha Dighatapassi trả lời, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.
Khi được nói vậy, Gia chủ Upali thưa với Nigantha Nataputta:
– Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Nếu Sa-môn Gotama làm con xác nhận như đã làm Tôn giả Tapassi xác nhận thời cũng như một người lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy con sẽ dùng lời nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy, con dùng lời nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một lực sĩ nghiện rượu sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, con nghĩ, con sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này.
– Này Gia chủ, hãy đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Vì rằng, này Gia chủ, chỉ có ta hay Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama; có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba... Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này; chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi và Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama!
– Thưa vâng, Tôn giả.
Gia chủ Upali vâng đáp Nigantha Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân hữu hướng về Nigantha Nataputta, và đi đến rừng xoài Pavarika, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Gia chủ Upali bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, không biết Nigantha Dighatapassi có đến tại đây không?
– Này gia chủ, Nigantha Dighatapassi có đến tại đây.
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi không?
– Này Gia chủ, Ta có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi.
– Bạch Thế Tôn, cuộc đàm thoại của Thế Tôn với Nigantha Dighatapassi như thế nào?
Rồi Thế Tôn kể lại cho Gia chủ Upali một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Nigantha Dighatapassi. Khi nghe nói vậy, Gia chủ Upali bạch Thế Tôn:
– Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Thế Tôn đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được, vì thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.
– Này Gia chủ, nếu Ông có thể đàm luận y cứ trên sự thật, thời ở đây, có thể có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.
– Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha, bệnh hoạn, đau khổ, bạo bệnh, từ chối nước lạnh, chỉ uống nước nóng. Người này, vì không được nước lạnh nên mệnh chung. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy tái sanh chỗ nào?
– Bạch Thế Tôn, có hàng chư Thiên được gọi là Manosatta (Ý Trước thiên). Ở đấy người ấy tái sanh. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì người ấy chấp trước ý nên mệnh chung.
– Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ kỹ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta”.
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được; ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha được phòng hộ với sự phòng hộ của bốn loại chế giới, hoàn toàn tự chế ngự đối với nước, hoàn toàn chú tâm (vào sự chế ngự) đối với nước, hoàn toàn loại trừ đối với nước, hoàn toàn thấm nhuần (với sự chế ngự) đối với nước. Vị này khi đi qua, khi đi lại, đã giết hại rất nhiều sinh vật nhỏ bé. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy thọ quả báo nào?
– Bạch Thế Tôn, vì không cố ý, nên Nigantha Nataputta xem không phải là một đại tội.
– Này Gia chủ, nếu người ấy có cố ý thời như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, là một đại tội.
– Này Gia chủ, ý thức (ấy), Nigantha Nataputta xem thuộc về loại gì?
– Bạch Thế Tôn thuộc về ý phạt.
– Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp với lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận, y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta”.
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật.
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người đi đến, với thanh kiếm đưa cao, người này nói: “Trong một sát na, trong một giây phút, ta sẽ làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt”. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt không?
– Bạch Thế Tôn, cho đến mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người cũng không có thể, trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt, huống nữa là chỉ một người nhỏ bé sao có thể sáng chói (làm thành) được?
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến, có thần thông lực, có tâm tự tại. Vị này nói như sau: “Ta sẽ làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận”. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận không?
– Bạch Thế Tôn, cho đến mười Nalanda, hai mươi, ba mươi Nalanda, bốn mươi Nalanda, năm mươi Nalanda, vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy có thần thông lực, có tâm tự tại có thể làm cho các Nalanda ấy trở thành tro tàn với một tâm sân hận, huống nữa là một Nalanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành tro tàn được)?
– Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta”.
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.
– Này Gia chủ. Ông nghĩ thế nào? Ông có nghe các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng như trước?
– Bạch Thế Tôn con có nghe: Các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng (như trước).
– Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có thể Ông được nghe vì sao các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở thành rừng như trước?
– Bạch Thế Tôn, con có nghe, các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở lại thành rừng (như trước) vì tâm sân hận các vị ẩn sĩ.
– Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta”.
– Bạch Thế Tôn, với ví dụ đầu tiên, con đã hoan hỷ, con đã thỏa mãn. Những gì con muốn nghe các vấn đáp sai biệt của Thế Tôn, nên con mới nghĩ đóng vai trò đối lập với Thế Tôn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vị diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện, trình bày, giải thích. Vậy nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
– Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.
– Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông”. Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: “Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử chúng tôi”. Nhưng Thế Tôn lại nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông”. Bạch Thế Tôn, lần thứ hai, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
– Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với Ông!
– Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với các Ông”. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Sa-môn Gotama đã nói: “Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được phước lớn. Chỉ bố thí cho những đệ tử của Ta mới có phước lớn, bố thí cho những đệ tử những người khác không có phước lớn”. Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp cho Gia chủ Upali, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô các dục lạc, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết Gia chủ Upali tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên với Gia chủ Upali: “Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt”. Rồi Gia chủ Upali, thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp bậc Đạo sư. Gia chủ Upali bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.
– Này Gia chủ, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Gia chủ Upali hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi đi về trú xá của mình, sau khi đến bèn nói với người giữ cửa như sau:
– Từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu có vị Nigantha nào đến, Ông hãy nói vị ấy như sau: “Tôn giả hãy đứng lại, chớ bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Và có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.”
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upali.
Nigantha Dighatapassi nghe như sau: “Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama”. Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến liền nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, tôi có nghe Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Và có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, tôi có nghe Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali.
– Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi và tìm biết Gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.
– Này Tapassi, hãy đi và tìm biết Gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.
Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến trú xá của Gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Dighatapassi ở đường xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Dighatapassi:
– Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.
– Này Hiền giả, ta không cần đồ ăn.
Nói xong, Nigantha Dighatapassi đi trở lui, đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến, liền thưa với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, sự thật là Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo”. Thưa Tôn giả, nay Gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali.
Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, sự thật là Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được yên lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo. Thưa Tôn giả, nay Gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn”.
– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upali. Này Tapassi, ta sẽ đi và tìm biết Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử Sa-môn Gotama hay không.
Rồi Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đi đến trú xá của Gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả cần các món ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.
– Này người giữ cửa, hãy đi đến Gia chủ Upali, sau khi đến, hãy thưa với Gia chủ như sau: “Thưa Tôn giả, Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả”.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp Nigantha Nataputta, đi đến Gia chủ Upali, sau khi đến liền thưa với Gia chủ Upali:
– Thưa Tôn giả, có Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả.
– Này Người giữ cửa, hãy vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upali, sau khi cho vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa, đi đến Gia chủ Upali, sau khi đến, liền nói với Gia chủ Upali:
– Thưa Tôn giả, các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa đã được sửa soạn. Tôn giả hãy làm những gì Tôn giả nghĩ là phải thời.
Rồi Gia chủ Upali đi đến căn phòng chính giữa có cửa, sau khi đến tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, sau khi ngồi trên chỗ ấy, liền bảo người gác cửa:
– Này Người giữ cửa, hãy đi đến Nigantha Nataputta: “Thưa Tôn giả, Gia chủ Upali có nói: “Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào”.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upali, đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến, liền nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, Gia chủ Upali có nói: “Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào”.
Rồi Nigantha Nataputta với đại chúng Nigantha đi đến căn phòng ở giữa, có cửa.
Gia chủ Upali lúc trước mỗi khi thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, sau khi thấy liền đi ra nghinh tiếp vào tại chỗ nào có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, liền lấy thượng y lau chỗ ngồi ấy, giữ lấy và mời Nigantha Nataputta ngồi trên chỗ ngồi ấy. Nhưng tại chỗ có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, Gia chủ Upali lại ngồi trên chỗ ngồi ấy và nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, có những chỗ ngồi. Nếu muốn, Tôn giả hãy ngồi.
Khi nghe nói vậy, Nigantha Nataputta nói với Gia chủ Upali:
– Này Gia chủ, Ông thật là điên cuồng. Này Gia chủ, Ông thật là ngu si. Ông nói: “Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama”. Sau khi đi, Ông đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị. Này Gia chủ, ví như người đi với hai cao hoàn, đi về với cao hoàn bị thiến. Này Gia chủ, như người đi với hai con mắt, đi về với hai con mắt bị khoét. Cũng vậy, này Gia chủ, Ông nói: “Thưa Tôn giả, con sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama, sau khi đi đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị”. Này Gia chủ, Ông đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.
– Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết thống của tôi. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Sát-đế-lỵ được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc hạnh phúc lâu dài cho tất cả các vị Sát-đế-lỵ. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Bà-la-môn... (như trên)... nếu tất cả các người Vessa (Phệ-xá)... Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Sudda (Thủ-đà) được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, và hạnh phúc lâu dài cho tất cả các người Sudda. Thưa Tôn giả, nếu thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người được huyễn thuật này lôi cuốn, thời như vậy là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người. Thưa Tôn giả, tôi sẽ nói cho Tôn giả ví dụ này. Ở đây, những người có trí nhờ ví dụ sẽ biết rõ ý nghĩa của lời nói.
Thưa Tôn giả, thuở xưa có người Bà-la-môn đã về già tuổi đã lớn, bậc trưởng lão, có người vợ còn trẻ, trong tuổi thanh xuân, (người vợ này) đang mang thai, sắp đến kỳ sinh nở. Thưa Tôn giả, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một Khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, người Bà-la-môn nói với cô vợ trẻ: “Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình”. Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người Bà-la-môn ấy nói với cô vợ trẻ: “Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình”. Thưa Tôn giả, lần thứ ba, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình nên đi chợ mua một con khỉ đực, đem về và nói với cô vợ trẻ: “Này mình, đây là con khỉ con đực, tôi mua ở chợ và mang về, hãy để nó cùng chơi với con của mình”. Thưa Tôn giả, khi nghe nói vậy cô vợ trẻ ấy nói với người Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn hãy đi, đem con khỉ con đực này đến Rattapani con người thợ nhuộm, sau khi đến hãy nói với Rattapani con người thợ nhuộm: “Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm với màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh và cả hai phía được làm thành mềm dịu.” Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình đem con khỉ con đực này đi đến Rattapani con người thợ nhuộm, khi đến xong liền nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: “Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ nhuộm nói với người Bà-la-môn kia: “Này Tôn giả, con khỉ con đực này có thể nhuộm được, nhưng không có thể đập được, ủi được, không có thể làm thành mềm dịu”. Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của những Nigantha ngu si, lý thuyết này có thể ăn nhuộm đối với những người ngu si, chớ không ăn nhuộm đối với người có trí. Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy, sau một thời gian, lấy một cặp áo mới, đi đến chỗ Rattapani, con người thợ nhuộm, sau khi đến, nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: “Này Rattapani, tôi muốn nhuộm cặp áo mới này với màu nhuộm màu vàng, được đập và ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ nhuộm nói với người Bà-la-môn ấy: “Thưa Tôn giả, cặp áo mới này của Tôn giả có thể nhuộm được, có thể đập và ủi xung quanh và có thể làm thành mềm dịu”. Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, có thể ăn nhuộm đối với người có trí, không phải đối với người ngu si, có thể đập được, ủi được, và có thể khiến trở thành mềm dịu”.
– Này Gia chủ, quần chúng này gồm cả các vua chưa được biết như sau: “Gia chủ Upali là đệ tử của Nigantha Nataputta”. Này Gia chủ, nay chúng tôi xem Gia chủ là đệ tử của ai?
Được nói vậy, Gia chủ Upali từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và nói với Nigantha Nataputta:
– Thưa Tôn giả, hãy nghe, tôi là đệ tử của ai:
Bậc Trí sáng suốt,
Đoạn trừ si ám.
Phá tan hoang vu,
Chiến thắng địch quân.
Đau khổ đoạn diệt,
Tâm an bình tĩnh.
Giới đức trưởng thành,
Tuệ đức viên minh.
Phiền não nội tịnh,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn.
Do dự đoạn trừ,
Biết vừa, biết đủ,
Thế lợi tuyệt không,
Tâm tư hoan hỷ,
Làm Sa-môn hạnh,
Sanh ở nhân gian,
Thân này sau cùng,
Làm người nhân thế.
Bậc Thánh cao nhất,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn.
Không tâm do dự,
Khéo hành thiện xảo.
Bậc trì giới luật,
Điều ngự tối thượng.
Là Vô Thượng Sĩ,
Sáng chói hào quang,
Nghi hoặc đoạn trừ,
Soi sáng mọi nơi.
Kiêu mạn đoạn tận,
Vô nhân anh hùng.
Tôi thật chính là
Đệ tử Thế Tôn.
Ngài bậc Ngưu Vương,
Tâm tư vô lượng,
Thâm sâu khôn lường
Bậc thánh Mâu ni,
Tác thành an ổn,
Bậc có Trí tuệ,
An trú Pháp vị,
Tự phòng hộ thân,
Vượt qua tham ái,
Bậc Giải Thoát Trí.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn.
Ngài bậc Long Vương,
Sống xa thế tục.
Kiết sử đoạn trừ,
Siêu đẳng giải thoát.
Biện tài từ tốn,
Trong sạch thanh tịnh,
Cờ xí triệt hạ,
Tham ái đoạn trừ,
Điều ngự nhiếp phục,
Hý luận diệt tận.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn,
Đệ thất tiên nhân.
Không tin lời đồn.
Ba minh thành tựu,
Đạt quả Phạm thiên.
Tắm sạch thân tâm,
Văn cú thông đạt.
Khinh an yên ổn,
Thánh trí chứng đắc.
Công phá thành trì,
Thiên chủ Đế thích.
Tôi chính thật là,
Đệ tử Thế Tôn.
Ngài bậc Thánh Giả,
Tự tu tự tập.
Chứng điều phải chứng,
Thuyết giảng hiện tại,
Chánh niệm tỉnh giác,
Thiền quán tinh tế
Không thiên tà dục,
Không nuôi tâm hận.
Giao động không còn,
Thân tâm tự tại.
Tôi chính thật là
Đệ tử Thế Tôn.
Sống theo chánh đạo,
Trầm tư Thiền tưởng,
Nội tâm không nhiễm,
Thanh tịnh trong sạch,
Không trước không chấp,
Không nguyện không cầu,
Độc cư độc tọa,
Chứng tối thượng vị,
Đã vượt qua dòng,
Giúp người vượt qua.
Tôi thật chính là
Đệ tử Thế Tôn,
Bậc chứng tịch tịnh,
Trí tuệ vô biên,
Trí tuệ quảng đại,
Tham ái đoạn tận.
Ngài là Như Lai,
Ngài là Thiện Thệ,
Không người sánh bằng,
Không ai đồng đẳng,
Giàu đức tự tin,
Viên mãn thành tựu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn
Tham ái đoạn tận,
Giác ngộ chánh giác,
Khói mù tiêu tan,
Ô uế trừ sạch
Xứng đáng cúng dường,
Dạ xoa thanh tịnh.
Vô thượng Thánh nhân,
Không thể cân lường
Đại nhân Đại giác
Đạt đến danh xưng.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn.
– Này Gia chủ, Ông chất chứa những ưu điểm này về Sa-môn Gotama từ bao giờ?
– Thưa Tôn giả, ví như một đống hoa, có nhiều loại khác nhau; người làm vòng hoa thiện xảo hay người đệ tử làm vòng hoa có thể kết thành một vòng hoa có những loại hoa sai biệt. Cũng vậy, thưa Tôn giả, Thế Tôn có nhiều đức tánh, có hàng trăm đức tánh. Thưa Tôn giả, và ai lại không tán thán những bậc đáng tán thán!
Vì Nigantha Nataputta không thể nghe lời tán thán Thế Tôn, nên ngay tại chỗ ấy đã thổ ra huyết nóng.
KINH ƯU BA LY, THỨ NĂM MƯƠI SÁU HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________-
>>> 55.Kinh Yivaka
(MAHÃPADÃNASUTTA)
I
- Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì, các người đang ngồi bàn? Câu chuyện gì đã bị gián đoạn giữa các người?
Khi được nói vậy, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp tại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại về tiền thân được khởi lên: "Đây là tiền thân, đây là tiền thân". Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang được bàn đến giữa chúng con thời Thế Tôn đến.
- Bạch Thế Tôn, thật là đúng thời; bạch Thiện Thệ, thật là đúng thời để Thế Tôn giảng pháp thoại thuộc về tiền thân. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, các người hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Dạ vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo này đáp lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội sáu vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội bốn vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konãgamana, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội ba vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konãgamana, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội hai vạn Tỷ-kheo.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc A-la-hán.
Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Aruna (Minh Tướng); mẫu hậu tên là Pabhãvatĩ (Quang Huy); kinh thành của vua Aruna tên là Pabhãvatĩ.
Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Suppatĩta (Thiện Đăng), mẫu hậu tên là Yasavati (Xứng Giới); Kinh thành của vua Suppatita tên là Anopama (Vô Dụ).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tên là Aggidatta (Tự Đắc); mẫu thân Bà-la-môn tên là Visãkhã (Thiện Chi). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Khema (An Hòa); kinh thành vua Khema tên là Khemavatĩ (An Hòa).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Konãgamana, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Yannadatta (Đạt Đức) mẫu thân Bà-la-môn tên là Uttarã (Thiện Thắng); Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, vua trị vì tên là Sobha (Thanh Tịnh); kinh thành của vua Sobha tên là Sobhavatĩ (Thanh Tịnh).
Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Brahmadatta (Phạm Thi) mẫu thân Bà-la-môn tên là Dhanavatĩ (Tài Chủ). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Kikĩ (Hấp Tỳ); kinh thành vua Kikĩ là Baranasĩ (Ba-la-nại).
Này các Tỷ-kheo, nay phụ vương của Ta tên là Suddhodana (Tịnh Phạn); mẫu hậu của Ta tên là Mãyã (Ma-da); kinh thành tên là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Giảng xong Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào Tinh xá.
- Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các Hiền giả, thật kỳ diệu thay, đại thần lực, đại oai lực của Như Lai! Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy? Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết-bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?"
Như vậy là cuộc đàm thoại đang khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy.
- Này các Tỷ-kheo, nay các Ngươi ngồi luận bàn vấn đề gì? Đề tài gì đã được luận bàn giữa các Ngươi?
Khi được hỏi vậy, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu, cuộc đàm thoại sau đây đã khởi lên giữa chúng con: "Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các Hiền giả thật kỳ diệu thay đại thần lực, đại oai lực của Như Lai! Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy?" Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết-bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?"
Bạch Thế Tôn, như vậy là vấn đề bàn luận giữa chúng con, khi Thế Tôn đến.
Này các Tỷ-kheo, vậy hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn giảng như sau:
Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, bốn vị Thiên tử đứng canh gác bốn phương trời và nói: "Không cho một ai, người hay không phải loài người, được hãm hại vị Bồ-tát. Pháp nhĩ là như vậy".
Này các Tỷ-kheo, ví như viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt, khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Rồi một sợi dây được xâu qua viên ngọc ấy, dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt. Nếu có người có mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình, người ấy sẽ thấy rõ ràng: "Đây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Đây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lạt". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay. Pháp nhĩ là như vậy.
Này các Tỷ-kheo, như viên ngọc ma-ni bảo châu đặt trên một tấm vải Ba-la-nại. Hòn ngọc không làm nhiễm ô tấm vải Ba-la-nại, tấm vải Ba-la-nại cũng không làm nhiễm ô hòn ngọc. Vì sao vậy? Vì cả hai đều thanh tịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch. Pháp nhĩ là như vậy.
"Đại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Đại nhân.
"Đại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Đại nhân.
"Đại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài... (như trước)
"Đại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân dài...
"Đại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm mại...
"Đại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da lưới...
"Đại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con sò...
"Đại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê rừng...
"Đại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
"Đại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm tàng...
"Đại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng, màu sắc như vàng...
"Đại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt khiến bụi không thể bám dính vào...
"Đại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
"Đại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
"Đại vương, Hoàng tử này có thân hình cao thẳng...
"Đại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn đầy...
"Đại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như con sư tử...
"Đại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết giữa hai vai...
"Đại vương, Hoàng tử này có thân thể cân đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
"Đại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông tròn...
"Đại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức sắc bén...
"Đại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư tử…
"Đại vương, Hoàng tử này có bốn mươi răng...
"Đại vương, Hoàng tử này có răng đều đặn...
"Đại vương, Hoàng tử này có răng không khuyết hở...
"Đại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ) trơn láng...
"Đại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng dài...
"Đại vương, Hoàng tử này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
"Đại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh đậm...
"Đại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò cái...
"Đại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ.
"Đại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Đại nhân...
Này các Tỷ-kheo, Vua Bandhumà ra lệnh cúng dường các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm thỏa mãn mọi sự đòi hỏi ước muốn.
II
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời Hoàng tử, cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: “Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy!"
Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho Hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để Hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để Hoàng tử Vipassì khỏi phải xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và, này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì sống tận hưởng đầy đủ sung túc năm món dục lạc.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời Hoàng tử cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!"
- Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ: "Không thể để cho Hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì! Không thể để cho Hoàng tử Vipassì xuất gia! Không thể để cho lời của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật". Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà, lại sắp đặt cho Hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để Hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để Hoàng tử Vipassì không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời Hoàng tử Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch Hoàng tử Vipassì: "Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời Hoàng tử, cho đánh xe đến người vừa mới mệnh chung. Này các Tỷ-kheo, khi thấy thây người chết, Hoàng tử Vipassì hỏi: "Này khanh, sao người ấy được gọi là người đã chết?" - "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người đã chết vì nay bà mẹ, ông cha, các người bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa; và người ấy cũng không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác!" - "Này khanh, vậy Ta chưa chết, rồi có bị chết không? Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng, và Ta sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những bà con ruột thịt chăng?" - "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi sẽ cũng bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Hoàng tử, và Hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương. Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác". - "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời Hoàng tử, cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!"
- Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho Hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để Hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để Hoàng tử Vipassì không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không đúng sự thật. Và này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời Hoàng tử Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch Hoàng tử Vipassì: "Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời Hoàng tử Vipassì, đánh xe đến gần người xuất gia. Này các Tỷ-kheo, rồi Hoàng tử Vipassì hỏi vị xuất gia: "Thưa Hiền giả, Ngài đã làm gì, mà đầu của Ngài không giống những người khác, và áo của Ngài không giống các người khác?" - "Thưa Hoàng tử, tôi là một người xuất gia!" - "Thưa Hiền giả, thế nào gọi là người xuất gia?" - "Thưa Hoàng tử, tôi là người được gọi là xuất gia, vì tôi khéo tu Phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh". - "Thưa Hiền giả, lành thay hạnh xuất gia của Ngài, lành thay khéo tu Phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh".
Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Bồ-tát Vipassì sống một mình, lánh xa đồ chúng, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này đi một ngả, Bồ-tát Vipassì đi một ngả.
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, già chết mới có mặt? Do duyên gì, già chết sanh?” Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do sanh có mặt, nên già, chết có mặt. Do duyên sanh, già chết sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, sanh mới có mặt? Do duyên gì, sanh phát khởi?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu có mặt nên sanh mới có mặt. Do duyên hữu, nên sanh phát khởi".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, hữu mới có mặt? Do duyên gì, hữu phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ có mặt nên hữu mới có mặt. Do duyên thủ, hữu phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt thủ mới có mặt? Do duyên gì, thủ phát sanh?” Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái có mặt, thủ mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, ái mới có mặt. Do duyên gì, ái phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ có mặt, ái mới có mặt. Do duyên thọ, ái phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên gì, thọ mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên xúc, thọ mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên gì xúc mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên lục nhập, xúc mới phát sanh”.
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên gì, lục nhập mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ pháp sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên danh sắc, lục nhập mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, danh sắc mới có mặt? Do duyên gì, danh sắc mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ pháp sanh minh kiến sau đây: "Do thức có mặt, danh sắc có mới có mặt. Do duyên thức, danh sắc mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, thức mới có mặt. Do duyên gì, thức mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, thức mới có mặt. Do duyên danh sắc, thức mới phát sanh".
"Tập khởi, tập khởi". Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassì, khởi sanh pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, sanh không có mặt? Cái gì diệt, sanh diệt?” Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu không có mặt, sanh không có mặt, do hữu diệt, sanh diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, hữu không có mặt? Cái gì diệt, hữu diệt?” Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ không có mặt, hữu không có mặt, do thủ diệt, hữu diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, thủ không có mặt? Cái gì diệt, thủ diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái không có mặt, thủ không có mặt, do ái diệt, thủ diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, ái không có mặt? Cái gì diệt, ái diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ không có mặt, ái không có mặt, do thọ diệt, ái diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, thọ không có mặt? Cái gì diệt, thọ diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc không có mặt, thọ không có mặt, do xúc diệt, thọ diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt xúc không có mặt? Cái gì diệt, xúc diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập không có mặt, xúc không có mặt, do lục nhập diệt, xúc diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì có mặt, lục nhập không có mặt? Cái gì diệt, lục nhập diệt". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có mặt, lục nhập không có mặt, do danh sắc diệt, lục nhập diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, danh sắc không có mặt? Cái gì diệt danh sắc diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ pháp sanh minh kiến sau đây: "Do thức không có mặt, danh sắc không có mặt, do thức diệt, danh sắc diệt".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì không có mặt, thức không có mặt? Do cái gì diệt, thức diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ pháp sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có mặt, thức không có mặt, do danh sắc diệt, thức diệt".
"Diệt, diệt". Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassì, khởi hành pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.
Và đối với Ngài, sau khi sống quán pháp sanh diệt trong năm thủ uẩn, chẳng bao lâu các lậu hoặc được tiêu trừ và Ngài được giải thoát.
III.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác suy nghĩ: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Ida-paccayata paticcà-samuppàda: Y tánh duyên khởi pháp; thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta!"
Sao nay Ta lại nói lên Chánh pháp mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn.
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó thấy pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
Này các Tỷ-kheo, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề, tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp. Khi bấy giờ, một trong các vị Đại Phạm thiên, khi biết được tư tưởng của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, nhờ tư tưởng của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ bị tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp!"
Sao nay Ta lại nói lên Chánh pháp mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn?
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó mà thấy được pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.
Này Phạm thiên, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác biết được lời khuyên thỉnh của vị Phạm thiên, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, nhìn đời với Phật nhãn. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nhìn đời với Phật nhãn, thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, sen hồng hay sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước; có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm đẫm ướt. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, nhìn quanh thế giới với Phật nhãn. Ngài thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm.
Như con người đứng trên đỉnh núi nhìn quanh dân chúng phía dưới.
Cũng vậy Ngài Sumedha lên lầu Chánh pháp, bậc biến nhãn, thoát ly sầu muộn.
Nhìn xuống quần chúng, âu lo sầu muộn bị sanh già áp bức.
Hãy đứng lên, bậc anh hùng, bậc chiến thắng ở chiến trường!
Vị trưởng đoàn lữ khách, đấng thoát ly nợ nần!
Thế Tôn hãy đi khắp thế giới hoằng dương Chánh pháp.
Có người nhờ được nghe, sẽ thâm hiểu diệu nghĩa!
Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trả lời vị Đại Phạm thiên với bài kệ sau đây:
Cửa bất diệt đã được mở rộng,
Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ tà kiến của mình.
Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này Phạm thiên.
Ta không muốn giảng Chánh pháp vi diệu cho loài người!
Này các Tỷ-kheo, rồi vị Đại Phạm thiên với ý nghĩ: "Ta đã là người mở đường cho Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết pháp", rồi đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác suy nghĩ: "Nay vương tử Khanda (Kiển-trà) và con vương sư Tissa (Đề-xá) trú ở kinh đô Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề) là bậc tri thức đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm ô bởi bụi đời. Nay ta hãy thuyết pháp cho vương tử Khanda và con vương sư Tissa trước tiên, hai vị này sẽ sớm thâm hiểu Chánh pháp này".
Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng, biến mất từ cây Bồ đề, hiện ra tại vườn Lộc Uyển Khenma, kinh đô Bhadhumatì.
Này các Tỷ-kheo, người giữ vườn vâng theo lời dạy của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vào kinh đô Bandhumatì và thưa với vương tử Khanda và con vương sư Tissa: "Thưa quý vị, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã đến kinh đô Bandhumatì và hiện ở Lộc Uyển Khema. Ngài muốn gặp quý vị!"
Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng ấy gồm khoảng tám vạn bốn ngàn vị đi ra khỏi kinh thành Bandhumatì đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Này các Tỷ-kheo, Đại Phạm thiên thuyết như vậy. Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, lưng bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
- Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta yên lặng tịnh cư tại chỗ thanh vắng, ý nghĩ sau đây khởi lên: "Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhamatì. Sao Ta lại không khuyến dạy các Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng Chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe Chánh pháp sẽ bị nguy hại. (Nếu được nghe), sẽ thâm hiểu Chánh pháp. Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn".
Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy, một phần lớn trong ngày ấy đã lên đường đi khắp quốc độ.
Hai năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, hai năm vừa mãn, nay còn lại bốn năm. Sau bốn năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".
Ba năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, ba năm đã mãn, nay còn lại ba năm. Sau ba năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".
Bốn năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, bốn năm đã mãn, nay còn hai năm. Sau hai năm, hãy đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!"
Năm năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, năm năm đã mãn, nay còn lại một năm. Sau một năm, hãy đến tại đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!"
Sáu năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, sáu năm đã mãn. Nay đã đến ngày đi đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn".
Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy, một số vị với thần lực của mình, một số với thần lực của chư Thiên trong ngày ấy đã đi đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn.
"Chư Phật dạy Niết-bàn là đệ nhất.
"Nhẫn nhục, khổ hạnh, kham nhẫn, là đệ nhất.
"Người xuất gia hại người xuất gia khác.
"Hại người khác như vậy không xứng gọi là Sa-môn.
"Mọi điều ác không làm, hướng tâm các thiện nghiệp.
"Giữ tâm trí thanh tịnh, chính lời chư Phật dạy.
"Không chỉ trích, không đánh đập, giữ mình trong giới bổn.
"Ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ riêng một mình.
"Hướng tâm đến cao khiết, chính lời chư Phật dạy".
Này các Tỷ-kheo, như một lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay đã duỗi ra, Ta biến mất ở Ukkattha, trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Ta-la vương và hiện ra trước chư Thiên ở Tịnh Cư thiên. Trong đại chúng chư Thiên ấy một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau:
"Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác sanh thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã). Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Pàtali (Ba-ba-la). Này Hiền giả, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Đề-xá). Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội, một Tăng hội sáu trăm tám mươi vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất. Này Hiền giả, phụ vương Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tên là Bandhumà, mẫu hậu tên là Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhumà tên là Bandhumatì. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này. Này Hiền giả, chúng con là những người đã tu Phạm hạnh với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này".
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihà, chư Thiên Atappà, chư Thiên Sudassà và chư Thiên Sudassì đến chư Thiên Akanitthà (Sắc Cứu Kính thiên). Này các Tỷ-kheo, lại trong Đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau: "Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời... (như số 29)".
Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Thích Minh Châu
_____________________________________________
>>> 13.Kinh Tevijja
(Jivakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương-xá), tại rừng xoài của Jivaka Komarabhacca. Rồi Jivaka Komarabhacca đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Jivaka Komarabhacca bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nghe nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình”. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết (vì mình) và được làm cho mình”, bạch Thế Tôn, những người ấy có nói chính lời Thế Tôn, họ không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật, họ trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai như pháp, thuyết đúng (pháp) thuận (pháp) không có thể quở trách?
– Này Jivaka, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama (tuy) biết thế (vẫn) dùng các loại thịt được giết (vì mình) được làm cho mình”, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng.
Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai và này Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia hay con người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Vị Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy, với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Jivaka, Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng từ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này, Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ.
– Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây ta-la, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời Ta đồng ý với Ông.
– Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.
– Ở đây, này Jivaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng nào hay một thị trấn nào. Vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng bi... với tâm có lòng hỷ... với tâm có lòng xả và an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy, biến mãn với tâm có lòng xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai. Và này Jivaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia, hay con của người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng vị cư sĩ này, hay con vị cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jivaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến hại mình, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này Jivaka, vị Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy, có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng xả! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng xả.
– Này Jivaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lai đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây ta-la, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jivaka, nếu như vậy thì ý nghĩa Ông muốn nói, thời ta đồng ý với Ông.
– Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.
– Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: “Hãy đi và dắt con thú này đến”, đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: “Hãy đi và giết con thú này”, đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.
Khi nghe nói vậy, Jivaka Komarabhacca bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn một cách hợp pháp. Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!... Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
KINH JIVAKASUTTAM, THỨ NĂM MƯƠI LĂM HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________________
>>> 54. Kinh Potaliya
(KINH TAM MINH)
- Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo. Đó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy.
- Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy.
- Này Bhàradvàja, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay trú ở Manasàkata, tại một vườn xoài trên bờ sông Aciravati, phía Bắc làng Manasàkata. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Này Bhàradvàja, hãy đến Sa-môn Gotama và hỏi Sa-môn Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
- Tôn giả, xin vâng!
Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja trả lời với thanh niên Bà-la-môn Vàsettha.
- Tôn giả Gotama, một cuộc nghị luận về chánh đạo và tà đạo khởi lên giữa hai chúng tôi trong khi đi bách bộ để tĩnh dưỡng vừa đi vừa suy nghĩ, tư duy. Tôi nói như vầy: "Đây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Pokkharasàti giảng dạy". Thanh niên Bà-la-môn Bhàradvàja nói như vầy: "Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo, đó là con đường do Bà-la-môn Tàrukkha giảng dạy". Tôn giả Gotama, đó là sự tranh luận, sự luận chấp, đó là sự bất đồng ý kiến.
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến?"
- Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
- Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Này Vàsettha, có phải Ngươi nói: "Chúng dẫn đến".
- Tôn giả Gotama, vâng, tôi nói: "Chúng dẫn đến".
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
- Thế nào Vàsettha? Có Tôn sư nào của các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên?
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
- Thế nào Vàsettha? Có Bà-la-môn nào cho đến bảy đời Tôn sư và đại Tôn sư của những vị Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt nhìn thấy Phạm thiên?
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
- Tôn giả Gotama, không có vị nào.
Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý?
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.
- Thưa vâng, Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà như phần đông nhiều người khác có thể thấy mặt trăng, mặt trời, trong khi các vị này cầu khẩn, tán thán, vừa đi xung quanh, vừa chấp tay đảnh lễ chỗ mặt trăng, mặt trời mọc và lặn.
- Tôn giả Gotama, không thể được!
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy, thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.
- Lành thay, này Vàsettha! Những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo". Thật không có sự kiện ấy.
Vâng phải, Tôn giả Gotama. Sự kiện là như vậy, thời lời nói của người kia không chánh xác, hợp lý.
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý.
- Lành thay, Vàsettha, những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà không biết, không thấy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: "Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cọng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo", thật không có sự kiện ấy.
- Vâng phải, bạch Thế Tôn. Sự kiện là như vậy thời lời nói của người kia là không chánh xác, hợp lý.
- Tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy thời lời nói của những Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà là không chính xác hợp lý.
- Tôn giả Gotama, không thể vậy.
- Tôn giả Gotama, không thể vậy.
- Tôn giả Gotama, không có thể được.
- Tôn giả Gotama, không có dục ái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
- Tôn giả Gotama, không có hận tâm.
- Có sân tâm hay không sân tâm?
- Tôn giả Gotama, không có sân tâm.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Tôn giả Gotama, có tự tại.
- Tôn giả Gotama, có dục ái.
- Có hận tâm hay không hận tâm?
- Tôn giả Gotama, có hận tâm.
- Có sân tâm hay không có sân tâm?
- Tôn giả Gotama, có sân tâm.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Tôn giả Gotama, có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Tôn giả Gotama, không có tự tại.
- Tôn giả Gotama, không thể có được.
Giữa các Bà-la-môn tinh thông ba tập Vedà, không có tự tại với Phạm thiên có tự tại có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Tôn giả Gotama, không thể có được.
Này Vàsettha, ở đời các Bà-la-môn dầu có tinh thông ba tập Vedà, khi các vị này ngồi (với sự tự tín), thật sự đang chìm (trong bùn lầy), và khi đang chìm (trong bùn lầy) phải sống trong thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối với những Bà-la-môn tinh thông Vedà sự tinh thông ấy được gọi là bãi sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy cũng được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh.
- Tôn giả Gotama, tôi có nghe nói Sa-môn Gotama biết con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên.
- Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có người sinh trưởng ở Manasàkata, nhưng chưa bao giờ rời khỏi chỗ này. Có người hỏi con đường đưa đến Manasàkata. Này Vàsettha, đối với người ấy đã sinh trưởng ở Manasàkata, chắc không có gì nghi ngờ hay khó khăn thì phải?
- Tôn giả Gotama, thật không có gì nghi ngờ hay khó khăn. Vì cớ sao? Tôn giả Gotama, người ấy sinh trưởng ở Manasàkata đều biết rõ tất cả con đường đưa đến Manasàkata.
- Tôn giả Gotama, tôi đã nghe: "Sa-môn Gotama, giảng dạy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên". Lành thay, nếu Sa-môn Gotama thuyết dạy con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên! Mong Tôn giả Gotama tế độ chúng Bà-la-môn!
- Này Vàsettha, vậy hãy lóng nghe và khéo tác ý kỹ? Ta sẽ nói:
43-75. Này Vàsettha, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc?
Ở đây, này Vàsettha, Tỷ-kheo từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh... (như Kinh Sa Môn Quả, số 43 - 75) do lạc thọ, tâm được định tĩnh... (như Kinh Sa Môn Quả số 75-98).
- Tôn giả Gotama, không có dục ái.
- Có hận tâm hay không có hận tâm?
- Tôn giả Gotama, không có hận tâm.
- Có sân tâm hay không có sân tâm?
- Tôn giả Gotama, không có sân tâm.
- Có nhiễm tâm hay không có nhiễm tâm?
- Tôn giả Gotama, không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Tôn giả Gomata, có tự tại.
- Tôn giả Gotama, có thể có được.
- Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy.
Này Vàsettha, Ngươi nói Tỷ-kheo không có hận tâm, Phạm thiên không có hận tâm... Tỷ-kheo không có nhiễm tâm, Phạm thiên không có nhiễm tâm. Tỷ-kheo có tự tại, Phạm thiên có tự tại. Giữa Tỷ-kheo có tự tại với Phạm thiên có tự tại, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
- Tôn giả Gotama, có thể có được.
- Lành thay, Vàsettha. Này Vàsettha, Tỷ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cọng trú với Phạm thiên. Sự kiện ấy thật có thể có.
Thích Minh Châu
____________________________________________________
>>> 12.Kinh Lohicca
(Potaliyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Anguttarapa. Apana là một thị trấn của Anguttarapa. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Apana để khất thực. Sau khi đi khất thực, ăn xong, trên con đường khất thực trở về, Thế Tôn đi đến một khu rừng để nghỉ trưa. Sau khi đi sâu vào khu rừng ấy, Ngài ngồi dưới một gốc cây. Gia chủ Potaliya, toàn thân mặc đồ đầy đủ, mang dù, đi dép, ngao du tản bộ khắp mọi nơi, và đi đến khu rừng ấy. Sau khi đi sâu vào (khu rừng), Gia chủ Potaliya, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời hỏi thăm, sau khi nói lên những lời hỏi thăm, thân hữu rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya đang đứng một bên:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi. Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Nghe nói vậy, Gia chủ Potaliya nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ”, nên phẫn nộ không hoan hỷ và đứng im. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi. Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Lần thứ hai, Gia chủ Potaliya nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ”, nên phẫn nộ, không hoan hỷ và đứng im. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với Gia chủ Potaliya:
– Này Gia chủ, có các chỗ ngồi. Nếu Ông muốn, hãy ngồi xuống.
Nghe nói vậy, Gia chủ Potaliya nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama gọi ta với danh từ Gia chủ”, nên phẫn nộ, không hoan hỷ, nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, thật không thích đáng, không hợp lẽ, Tôn giả gọi tôi là Gia chủ.
– Này Gia chủ, nhưng hình dung của Ông, tướng mạo của ông, hình tướng của Ông giống như một gia chủ.
– Nhưng Tôn giả Gotama, tất cả nghiệp vụ đã được tôi từ bỏ, tất cả tục sự đã được tôi đoạn tận.
– Nhưng này Gia chủ, như thế nào tất cả nghiệp vụ đã được Ông từ bỏ, tất cả tục sự đã được Ông đoạn tận?
– Ở đây, này Tôn giả Gotama, tài sản, ngũ cốc, hay vàng bạc, tất cả đều giao cho các con tôi thừa hưởng. Ở đây, tôi không khuyên bảo, tôi không can gián; tôi sống với tối thiểu đồ ăn, đồ mặc. Như vậy, này Tôn giả Gotama, tất cả nghiệp vụ được tôi từ bỏ, tất cả tục sự được tôi đoạn tận.
– Này Gia chủ, sự đoạn tận các tục sự mà Ông nói khác với sự đoạn tận các tục sự trong giới luật của bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn, như thế nào là sự đoạn tận các tục sự trong giới luật của bậc Thánh? Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho tôi về sự đoạn tận các tục sự trong giới luật của bậc Thánh.
– Này Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Gia chủ, tám pháp này đưa đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh. Thế nào là tám? Y cứ không sát sanh, sát sanh cần phải từ bỏ. Y cứ không lấy của không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ. Y cứ lời chân thật, nói láo cần phải từ bỏ. Y cứ không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ. Y cứ không tham dục, tham dục cần phải từ bỏ. Y cứ không hủy báng sân hận, hủy báng sân hận cần phải từ bỏ. Y cứ không phẫn não, phẫn não cần phải từ bỏ. Y cứ không quá mạn, quá mạn cần phải từ bỏ. Này Gia chủ, tám pháp này được nói một cách vắn tắt, không được giải thích rộng rãi, đưa đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn tám pháp này được Thế Tôn nói một cách vắn tắt, không được giải thích rộng rãi, đưa đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn vì lòng thương tưởng, giải thích rộng rãi tám pháp này.
– Này Gia chủ, vậy Ông hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Khi được nói: “Y cứ không sát sanh, sát sanh cần phải từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những ta tự trách mắng ta vì duyên sát sanh, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên sát sanh; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên sát sanh. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự sát sanh này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên, do duyên sát sanh, đối với vị đã từ bỏ sát sanh, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không sát sanh cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không lấy của không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể lấy của không cho, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của không cho, không những ta tự trách mắng ta vì duyên lấy của không cho, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên lấy của không cho; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên lấy của không cho. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự lấy của không cho này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên lấy của không cho, đối với vị đã từ bỏ lấy của không cho, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không lấy của không cho, lấy của không cho cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ lời chân thật, nói láo cần phải từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói láo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói láo, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên nói láo; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên nói láo. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính nói láo này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên, do duyên nói láo, đối với vị đã từ bỏ nói láo, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ lời chân thật nói láo cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể nói hai lưỡi, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hai lưỡi, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói hai lưỡi, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu cũng khiển trách ta vì duyên nói hai lưỡi, và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên nói hai lưỡi. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói hai lưỡi này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên nói hai lưỡi, đối với vị đã từ bỏ nói hai lưỡi, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không nói hai lưỡi, nói hai lưỡi cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không tham dục, tham dục cần phải từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào, ta có thể có tham dục, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta tham dục, không những ta tự trách mắng ta vì duyên tham dục, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu cũng khiển trách ta vì duyên tham dục; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên tham dục. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự tham dục này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên tham dục, đối với vị đã từ bỏ tham dục, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không tham dục, tham dục cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không hủy báng sân hận, hủy báng sân hận cần được từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta hủy báng sân hận, không những ta tự trách mắng ta vì duyên hủy báng, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên hủy báng sân hận; và sau khi thân hoại mạng chung ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên hủy báng sân hận. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự hủy báng sân hận này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên hủy báng sân hận, đối với vị đã từ bỏ hủy báng sân hận các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không hủy báng sân hận, hủy báng sân hận cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không phẫn não, phẫn não cần được từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có thể có phẫn não, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn não, không những ta tự trách mắng ta vì duyên phẫn não, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên phẫn não; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên phẫn não. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự phẫn nào này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên phẫn não, đối với vị đã từ bỏ phẫn não, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không phẫn não, phẫn não cần được từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Khi được nói: “Y cứ không quá mạn, quá mạn cần được từ bỏ”, do duyên gì, lời nói như vậy được nói lên? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Do nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng ta vì duyên quá mạn, các bậc có trí sau khi tìm hiểu, cũng khiển trách ta vì duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên quá mạn. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự quá mạn này. Những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên quá mạn, đối với vị đã từ bỏ quá mạn, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”. “Y cứ không quá mạn, quá mạn cần phải từ bỏ”, do duyên như vậy, lời nói như vậy được nói lên.
Này Gia chủ, tám pháp được nói lên vắn tắt và được giải thích rộng rãi này, đưa đến sự đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc Thánh, nhưng thật sự chưa phải là sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh.
– Bạch Thế Tôn, như thế nào là sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh? Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp cho con như thế nào là sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ, toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh.
– Này Gia chủ, vậy Ông hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Gia chủ Potaliya vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Gia chủ, ví như có con chó đói lả, suy nhược, đi đến một lò thịt giết bò. Ở đây, có người giết bò thiện xảo hay người đệ tử quăng cho nó một khúc xương, khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Con chó ấy, khi gặm khúc xương ấy, khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu có thể đoạn trừ được đói lả suy nhược của nó không?
– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Với khúc xương khéo lóc, tận lóc, không có thịt, chỉ có dính máu ấy, bạch Thế Tôn, con chó kia chỉ có mệt nhọc khốn khổ mà thôi.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như khúc xương, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y cứ nhất chủng, ở đây, mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như con chim kên, con chim diều hâu, hay con chim ưng giành được miếng thịt liền bay bổng lên; các con chim kên khác, chim diều hâu khác, hay chim ưng khác bay đuổi theo, đuổi sát theo giành giựt xé nát miếng thịt ấy. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Nếu con chim kên, chim diều hâu hay chim ưng ấy không vứt bỏ ngay miếng thịt ấy, nó có thể do nhân duyên ấy, đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như miếng thịt, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy, với chánh trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y cứ nhứt chủng, ở đây mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như một người cầm một bó đuốc cỏ đang cháy rực đi ngược gió. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào, nếu người ấy không vứt bỏ ngay bó đuốc ấy, bó đuốc cỏ đang cháy rực ấy có thể đốt cháy tay, hay đốt cháy cánh tay, hay đốt cháy một thân phần của người ấy, người ấy có thể do nhân duyên ấy, đi đến chết, hay đi đến khổ gần như chết không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như bó đuốc cỏ, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy... (như trên)... với chánh trí tuệ, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như một hố than hừng, sâu hơn thân người, đầy những than hừng, cháy không thành ngọn, cháy không thành khói, và một người đi đến muốn sống, muốn không chết, muốn lạc, né tránh khổ. Nhưng có hai nhà lực sĩ, nắm chặt hai cánh tay người ấy và lôi người ấy đến hố than hừng. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có co rúm thân, vật qua vật lại phía này phía kia không?
– Bạch Thế Tôn, có. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì người ấy biết: “Nếu ta rơi vào hố than hừng này, do nhân duyên này, ta sẽ đi đến chết hay đau khổ gần như chết.
– Cũng vậy, này cư sĩ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như hố than hừng, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như có người nằm mộng, thấy vườn khả ái, rừng núi khả ái, đất đai khả ái, ao hồ khả ái; khi tỉnh dậy, người ấy không thấy gì cả. Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ,... (như trên)... vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như có người mượn tài vật cho mượn, xe cộ xứng đáng bậc sang trọng, các đồ châu báu trang sức mỹ diệu, và với những đồ vật vay mượn ấy, người ấy đi vào chợ phố, được (tôn trọng) đi trước, được nhiều người vây quanh, và quần chúng thấy người ấy bèn nói: “Người này thật sự giàu sang, và người giàu sang hưởng thọ tài vật như vậy”. Nhưng những người chủ thấy người kia ở chỗ nào liền lấy lui những vật sở hữu của mình. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có phải sự (trá hình) dị tính của người kia được chấm dứt ở đây?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì những người chủ lấy lui những vật sở hữu của mình.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như tài vật vay mượn, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với chánh trí tuệ... (như trên)... vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, ví như gần thôn làng hay gần thị tứ có một nhóm rừng, ở đấy, có một cây đầy những trái chín, nhưng không có trái nào rơi xuống đất. Rồi một người đi đến, ước mong trái cây, tìm cầu trái cây, đi khắp đó đây để tìm trái cây. Người ấy đi sâu vào ngôi rừng ấy, thấy cây ấy đầy những trái chín. Người ấy có thể nghĩ như sau: “Cây này đầy những trái chín nhưng không có trái nào rơi xuống đất, nhưng ta biết leo cây. Vậy ta hãy leo lên cây ấy ăn cho thỏa thích và bọc đầy áo (để đem về). Rồi người ấy leo lên cây ấy, ăn cho thỏa thích và bọc đầy áo (để đem về). Rồi một người thứ hai đi đến, ước mong trái cây, tìm cầu trái cây, đi khắp đó đây để tìm trái cây, và tay mang một búa sắc bén. Người này đi sâu vào ngôi rừng ấy, thấy cây ấy đầy những trái chín. Người này có thể nghĩ như sau: “Cây này đầy những trái chín, nhưng không có trái nào rơi xuống đất. Nhưng ta không biết leo cây. Vậy ta hãy chặt cây này tận gốc, ăn cho thỏa thích, và bọc đầy áo (để đem về)”. Rồi người này chặt cây ấy tận gốc. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Nếu người kia không leo xuống thật mau, thời cây ấy khi rơi đổ xuống, sẽ làm cho người thứ nhất, hoặc bị gãy tay, hoặc bị gãy chân, hoặc bị gãy một phần thân nào. Và do nhân duyên ấy, sẽ bị chết hay đi đến đau khổ gần như chết.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Thế Tôn đã nói, dục được ví như cây có trái, khổ nhiều, não nhiều, tai họa ở đây càng nhiều hơn”. Sau khi thấy như chân như vậy với trí tuệ, sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả thuộc loại nhứt chủng, y cứ nhứt chủng, ở đây mọi chấp thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn, không có dư tàn, vị ấy tu tập loại xả như vậy.
Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử ấy, sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng này, nhớ đến các đời sống trước, như một đời, hai đời, ba đời... (như trên)... Vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử ấy sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng này, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... (như trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng. Này Gia chủ vị Thánh đệ tử ấy, sau khi thành tựu xả niệm thanh tịnh vô thượng này, và với các lậu hoặc được đoạn trừ, vị này với thượng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Này Gia chủ, cho đến như vậy là sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ông có thấy ở nơi Ông một sự đoạn tận tục sự như vậy, giống như sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh?
– Bạch Thế Tôn, con là ai mà có thể có sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh? Bạch Thế Tôn, con còn rất xa với sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt, tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch Thế Tôn, xưa kia, đối với các vị Du sĩ không phải thù thắng, chúng con xem là thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con mời họ ở trong những trú xứ thù thắng, Bạch Thế Tôn, còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con xem là không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con mời các vị ấy ở trong các trú xứ không thù thắng. Nhưng nay, bạch Thế Tôn, đối với các Du sĩ không thù thắng, chúng con sẽ biết là không thù thắng; vì họ không thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn không thù thắng; vì họ không thù thắng chúng con sẽ mời họ ở trong các trú xứ không thù thắng. Còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con sẽ biết các vị ấy là thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ mời các vị ấy ở trong các trú xứ thù thắng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thật sự đã gợi ở nơi con lòng ái kính Sa-môn đối với các vị Sa-môn, lòng tịnh tín Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tôn kính Sa-môn đối với các Sa-môn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
KINH POTALIYA, THỨ NĂM MƯƠI BỐN HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________
>>> 53. Kinh Hữu Học
(KINH LÔ-GIÀ)
- "Này thiện nhân Bhesika, hãy đi đến Sa-môn Gotama thay mặt ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có được ít bệnh ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không: "Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không?" và nói thêm: "Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm cùng với đại chúng Tỷ-kheo!".
Bhesika người hớt tóc vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca đến với Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Bhesika người hớt tóc bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm "Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không?" và nói thêm: "Mong đức Thế Tôn nhận lời mời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo".
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.
- Tôn giả, chúng tôi đã thay mặt Tôn giả thưa với Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn Gotama có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn không" và nói thêm: "Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo" và Thế Tôn nhận lời.
- Này thiện nhân Bhesika, hãy đi đến Sa-môn Gotama, khi đã đến, hãy báo giờ cho Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, cơm đã sẵn sàng".
- Tôn giả, xin vâng!
Bhesika người hớt tóc, vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca, đi đến Thế Tôn, khi đã đến, liền đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Bhesika người hớt tóc báo thời giờ cho Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng". Khi ấy Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát và cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến Sàlavatikà.
- Bà-la-môn Lohicca có khởi lên ác kiến sau đây: "Ở đời có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được? Ví như một người, sau khi cắt sợi dây trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được"? Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn có thể giúp Bà-la-môn Lohicca trừ ác kiến ấy!
- Này Bhesika, việc ấy có thể được. Này Bhesika, việc ấy có thể được.
- Này Lohicca, có thật chăng, Ngươi khởi lên ác kiến như sau: "Ở đời, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được? Ví như một người sau khi cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu ấy là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được?"
- Vâng phải, Tôn giả Gotama!
- Vâng phải, Tôn giả Gotama!
- Này Lohicca, nếu có người nói: "Bà-la-môn Lohicca sống ở Sàlavatikà. Hãy để Bà-la-môn Lohicca hưởng một mình mọi sản phẩm của Sàlavatikà, không cho một ai khác". Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai sống tùy thuộc vào Ngươi, có phải không?
- Tôn giả Gotama, là người gây chướng ngại.
- Này Lohicca, đã là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia?
- Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.
- Đã không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm?
- Tôn giả Gotama, hại tâm!
- Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến?
- Tôn giả Gotama, là tà kiến!
- Này Lohicca, Ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.
- Tôn giả Gotama, vâng phải!
- Này Lohicca, nếu có người nói: "Vua Pasenadi Kosala sống ở Kasi-Kosala. Hãy để vua Pasenadi Kosala hưởng một mình mọi sản phẩm của Kasi - Kosala, không một ai khác". Người nói như vậy có phải là người gây chướng ngại cho những ai sống tùy thuộc vào vua Pasenadi Kosala, có phải không?
- Tôn giả Gotama, là người đã gây chướng ngại.
- Này Lohicca, đã là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia hay là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia.
- Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.
- Đã không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm?
- Tôn giả Gotama, hại tâm!
- Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến?
- Tôn giả Gotama, là tà kiến!
- Này Lohicca, ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.
Này Lohicca, ở đời có một vị Đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả, vị này thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người!" Những đệ tử này không nghe lời dạy của vị ấy, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị Bổn sư. Đạo sư như vậy cần phải được khiển trách: "Đại đức không chứng mục đích Sa-môn quả mà Đại đức xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Đại đức thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người. Như thế này là hạnh phúc cho các người". Những đệ tử này không nghe lời dạy của Đại đức, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị Bổn sư. Như người tán tỉnh cô gái muốn xa mình, hay ôm hôn cô gái muốn né mặt mình, ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp vì có ai lại làm giúp cho ai được?"
Này Lohicca, như vậy là hạng Đạo sư thứ nhất đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích Đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.
Này Lohicca, như vậy là hạng Đạo sư thứ ba đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích Đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.
19-53. Khi nghe nói như vậy, Bà-la-môn Lohicca bạch đức Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, ở đời có vị Đạo sư nào không đáng bị chỉ trích?
- Này Lohicca, ở đời có vị Đạo sư không đáng bị chỉ trích.
- Tôn giả Gotama, ở đời, thế nào là Đạo sư không đáng bị chỉ trích?
- Này Lohicca, ở đời, đức Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn... (như Kinh Sa Môn Quả, số 40 - 74, với những thay đổi cần thiết).
Này Lohicca, đệ tử của vị Đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị Đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị Đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.
56-61. Này Lohicca, lại nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm... thiền thứ ba... chứng và trú thiền thứ tư (như Kinh Sa Môn Quả, số 77 - 84, với những thay đổi cần thiết).
Này Lohicca, đệ tử của vị Đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị Đạo sư như vậy không đáng bị chỉ trích, và ai chỉ trích một vị Đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thật, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.
Này Lohicca, đệ tử của vị Đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, này Lohicca, vị Đạo sư như vậy không đáng bị chỉ trích, và ai chỉ trích một Đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thật, không chơn chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm!
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________________
>>> 11. Kinh Kevaddha
(Sekhasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống giữa các Sakka, (Thích-ca), thành Kapilavatthu, tại Tinh xá Nigrodha. Lúc bấy giờ, một ngôi giảng đường mới được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Rồi các Sakya ở Kapilavatthu đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đang ngồi một bên, bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, có một ngôi giảng đường mới, được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy dùng nhà giảng đường ấy trước tiên, rồi các Sakya ở Kapilavatthu sẽ dùng sau, và như vậy các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Các vị Sakya ở Kapilavatthu, sau khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi đi đến ngôi giảng đường, sau khi đến, cho lấy nệm trải khắp giảng đường, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước, treo đèn dầu, rồi đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đứng một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ngôi giảng đường đã được trải nệm tất cả, các chỗ ngồi đã được sắp đặt, ghè nước đã được đặt sẵn, đèn dầu đã được treo lên. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy làm những gì Thế Tôn nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo Tăng đi đến giảng đường, sau khi đến Ngài rửa chân, bước vào ngôi giảng đường và ngồi xuống, dựa vào cột ở giữa, mặt hướng phía Đông. Chúng Tỷ-kheo Tăng, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, ngồi dựa vào bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Đông, với Thế Tôn ngồi trước họ. Các Sakya ở thành Kapilavatthu cũng rửa chân, bước vào ngôi giảng đường, rồi ngồi xuống dựa vào bức tường phía Đông, mặt hướng phía Tây, với Thế Tôn ngồi trước mặt. Rồi Thế Tôn cho đến quá nửa đêm, thuyết pháp, khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Sakya ở Kapilavatthu, rồi nói với Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, hãy giảng hữu học đạo cho các Sakya ở Kapilavatthu, Ta bị đau lưng. Ta sẽ nằm nghỉ.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn trải đại y gấp bốn lại, nằm xuống phía bên hông bên hữu như dáng nằm con sư tử chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại.
Rồi Tôn giả Ananda nói với Sakya Mahanama:
– Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh, hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, thành tựu bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học các học pháp. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử hộ trì các căn? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hộ trì các căn. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử biết tiết độ trong ăn uống? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử chơn chánh giác sát, thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn”. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử biết tiết độ trong sự ăn uống. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử chú tâm cảnh giác? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ban ngày trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh giữa, vị này nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử chú tâm cảnh giác. Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử có lòng tin, có lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này có lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện pháp. Vị này có lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì, đọc tụng bằng lời, được ý suy tư, được chánh kiến thể nhập. Vị ấy sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Vị ấy có niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này Mahanama, như vậy vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp. Và này, Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức? Ở đây, này Mahanama, (vị ấy) ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức.
Này Mahanama, khi một vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh như vậy, hộ trì các căn như vậy, biết tiết độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang đi trên con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các ách phược. Này Mahanama, ví như có tám, có mười hay có mười hai trứng gà, được gà mái khéo ấp ngồi, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng; dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: “Mong rằng, các con gà con của ta, sau khi phá vỡ vỏ trứng với móng chân, hay với mỏ của chúng, thoát ra ngoài một cách an toàn”. Những con gà con ấy, sau khi phá vỡ vỏ trứng với móng chân hay mỏ của chúng, có thể thoát ra ngoài một cách an toàn. Cũng vậy, này Mahanama khi một vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh như vậy, hộ trì các căn như vậy, biết tiết độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang đi trên con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các ách phược. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai đời... (như trên)... nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Đây là sự phá vỡ thứ nhất của con gà con ra khỏi vỏ trứng. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh.. (như trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng. Đây là sự phá vỡ thứ hai của con gà con ra khỏi vỏ trứng. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Đây là sự phá vỡ thứ ba của con gà con ra khỏi vỏ trứng.
Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào thành tựu giới hạnh, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào hộ trì các căn, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào có tiết độ trong ăn uống, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào chú tâm cảnh giác, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào đầy đủ bảy diệu pháp, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đăc không phí sức, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào, nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai đời... (như trên)... cùng với các nét đại cương và các chi tiết như vậy thuộc về trí đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh... (như trên)... đều do hạnh nghiệp của chúng, như vậy thuộc về trí đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như vậy thuộc về trí đức của vị ấy. Như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử được gọi là minh cụ túc, hạnh cụ túc, minh hạnh cụ túc. Này Mahanama, Phạm thiên Sanankumara (Thường Đồng Hình Phạm thiên) có nói bài kệ như sau:
Chúng sanh tin giai cấp
Vương tộc là tối thượng.
Vị minh hạnh cụ túc,
Tối thắng ở Nhơn Thiên.
Này Mahanama, bài kệ ấy được Phạm thiên Sanankumara khéo hát, không phải vụng hát, khéo nói, không phải vụng nói, có ý nghĩa, không phải vô nghĩa, và được Thế Tôn ấn khả.
Rồi Thế Tôn ngồi dậy, nói với Tôn giả Ananda:
– Lành thay, lành thay Ananda! Thật lành thay, này Ananda, người đã giảng hữu học đạo cho các Sakka (Thích tử) ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Tôn giả Ananda thuyết giảng như vậy, bậc Đạo sư ấn khả. Các vị Sakka ở Kapilavatthu hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda dạy.
KINH HỮU HỌC, THỨ NĂM MƯƠI BA HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________________
>>> 52. Kinh Bát Thành
(KINH KIÊN CỐ)
- Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa.
Được nghe nói vậy, Thế Tôn nói với cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha:
- Kevaddha, Ta không dạy cho các Tỷ-kheo pháp này: "Này các Tỷ-kheo các Ngươi hãy hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa cho các cư sĩ áo trắng".
- Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: "Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa".
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha:
- Này Kevaddha, Ta không dạy cho các Tỷ-kheo pháp này: "Này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa cho các cư sĩ áo trắng".
- Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: "Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa".
- Này Kevaddha, có ba pháp thần thông này Ta đã tự mình giác ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là ba? Tức là biến hóa thần thông, tha tâm thần thông, giáo hóa thần thông.
- Bạch Thế Tôn, có thể nói như vậy.
- Này Kevaddha chính vì ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hóa thần thông mà ta nhàm chán, hổ thẹn, ghê sợ biến hóa thần thông.
- Bạch Thế Tôn, có thể nói như vậy.
- Này Kevaddha chính Ta thấy sự nguy hiểm trong sự tha tâm thần thông mà Ta nhàm chán, hổ thẹn, ghê sợ tha tâm thần thông.
Này Kevaddha, như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
9-43. Này Kevaddha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán Chánh Biến Tri... (như Kinh Sa Môn Quả số 40 - 74).
46-50 ... chứng và trú thiền thứ tư... (như Kinh Sa Môn Quả số 77 - 81 trừ câu kết sau chót mỗi chương). Này Kevaddha như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
52-66. ... sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa... (xem Kinh Sa Môn Quả số 84 - 98), trừ câu kết sau chót của mỗi chương). Này Kevaddha, như vậy là giáo hóa thần thông.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Bốn Thiên vương thiên nói với vị Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại - đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn". Này Tỷ-kheo, có bốn Đại vương ưu thế hơn và thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, cả bốn vị Đại vương nói với vị Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại - đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn. Này vị Tỷ-kheo, có Ba mươi ba thiên ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, các vị Ba mươi ba thiên nói với vị Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có vị Đế thích chư thiên tên là Sakka ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn."
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Đế thích chư Thiên tên là Sakka nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có chư Thiên tên là Yàma (Dạ-ma) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Yàma (Dạ-ma) nói với Tỷ-kheo: “Chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Suyàma ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn.”
Này Kevaddha, được nghe nói vậy Thiên tử Suyàma nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Tusità ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn.
Này Kevaddha, được nói vậy chư Thiên Tusità nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Santusita ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Santusita nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này vị Tỷ-kheo có chư Thiên tên là Nimmànarati (Hóa lạc thiên) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Nimmànarati nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có Thiên tử tên là Sunimmita ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Sunimmita nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có chư thiên gọi là Paranimmitavasavatti (Tha hóa tự tại thiên) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy chư Thiên Paranimmitavasavatti nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, tôi không được biết - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có Thiên tử tên là Vasavatti ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Vasavatti nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có chư Thiên gọi là Brahmà Kayikà ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên Brahmà Kayikà: "Này các Hiền giả, bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Brahmà Kayikà nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có vị Phạm thiên, Đại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Vị này ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn".
- Này Hiền giả, hiện nay Đại Phạm thiên ấy ở đâu?
- Này Tỷ-kheo, chúng tôi không biết Phạm thiên ở đâu, vì sao có Phạm thiên và Phạm thiên từ đâu đến. Nhưng này Tỷ-kheo, khi nào triệu tướng hiện, khi nào ánh sáng sanh, khi nào hào quang hiển, thời Phạm thiên xuất hiện. Ánh sáng sanh, hào quang hiển là tướng Phạm thiên xuất hiện từ trước là như vậy.
Này Kevaddha, lần thứ hai, Đại Phạm thiên ấy nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, ta là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh".
Này Kevaddha, khi bấy giờ Đại Phạm thiên cầm tay Tỷ-kheo ấy, kéo ra một bên rồi nói với Tỷ-kheo: "Này Tỷ-kheo, chư Thiên Brahmà Kayikà xem rằng không có gì Phạm thiên không thấy, không có gì Phạm thiên không hiểu, không có gì Phạm thiên không chứng. Do vậy, trước mặt chúng, ta không có trả lời: "Này Tỷ-kheo, ta không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn". Do vậy, này Tỷ-kheo, Ngươi đã làm sai, Ngươi đã lầm lẫn, khi Ngươi bỏ qua Thế Tôn, hướng đến người khác để trả lời câu hỏi ấy. Này Tỷ-kheo, Ngươi hãy đi đến Thế Tôn hỏi câu hỏi ấy, và hãy thọ trì những gì Thế Tôn trả lời".
"Chỗ nào mà địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, dài ngắn, tế, thô, tịnh, bất tịnh không có chân đứng? Chỗ nào cả danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn?" và đây là câu trả lời cho câu hỏi này:
"Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng.
Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh.
Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn.
Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận".
Thế Tôn thuyết như vậy. Kevaddha, cư sĩ trẻ tuổi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Thích Minh Châu
______________________________________________
>>> 10.Kinh Subha
(Atthakanagarasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở Vesali (Tỳ-xá-ly), tại (Trúc Lâm Ấp). Lúc bấy giờ Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đến tại Pataliputta (Ba-la-lị-phất Thành) có công việc. Rồi Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với Tỷ-kheo ấy:
– Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda nay an trú ở đâu? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.
– Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.
Rồi Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền đi đến Vesali, ấp Beluvagamaka, đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Gia chủ Dasama người ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc nhất gì do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt?
– Này Gia chủ, có pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
– Bạch Tôn giả Ananda, pháp độc nhất ấy là gì, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt?
– Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: “Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm, vị ấy suy tư và được biết: “Thiền thứ hai này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy suy tư và được biết: “Thiền thứ ba này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy suy tư và được biết: “Thiền thứ tư này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy suy tư và được biết: “Từ tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy do vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... Với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy suy tư và được biết: “Xả tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, Phàm sự việc gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: “Không vô biên xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: “Thức vô biên xứ này là pháp hữu vi do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.
Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này suy tư và được biết: “Vô sở hữu xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt”. Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát, được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.
Khi được nghe nói vậy, Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka bạch Tôn giả Ananda:
– Bạch Tôn giả Ananda, như người tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được mười một kho tàng cất giấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi tìm một pháp môn bất tử mà được nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con có thể đạt được sự an toàn cho con. Bạch Tôn giả, đệ tử các ngoại đạo này sẽ tìm cầu tiền của cúng dường cho vị thầy của mình, sao con lại không cúng dường cho Tôn giả Ananda.
Rồi Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka cho mời họp Tỷ-kheo Tăng ở Pataliputta và Vesali, tự tay mời ăn và làm cho thỏa mãn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tặng cho mỗi Tỷ-kheo, mỗi vị một cặp y, tặng cho Tôn giả Ananda ba y và xây dựng một Tăng xá trị giá năm trăm đồng tiền vàng (hay có năm trăm Tăng phòng) cho Tôn giả Ananda.
KINH BÁT THÀNH, THỨ NĂM MƯƠI HAI HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________________
>>> 51.Kinh Kandaraka
(KINH TU-BÀ)
I
- Này thanh niên Bà-la-môn, hãy đi đến chỗ Sa-môn Ànanda ở, thay mặt ta hỏi thăm Sa-môn Ànanda có ít bệnh ít não, khinh an, khí lực an ổn: "Thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta hỏi thăm Tôn giả Ànanda có ít bệnh ít não, khinh an, khí lực an ổn", và nói thêm: "Hân hạnh thay, nếu Tôn giả Ànanda có lòng từ mẫn đến tại trú xứ của thanh niên Subha Todeyyaputta".
Thanh niên Bà-la-môn vâng lời thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta đến tại chỗ của Tôn giả Ànanda, sau khi đến, nói lên những lời chúc tụng thân hữu xã giao với Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn ấy nói với Tôn giả Ànanda: "Thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta hỏi thăm Tôn giả Ànanda ít bệnh ít não, khinh an, khí lực an ổn. Hân hạnh thay, nếu Tôn giả Ànanda có lòng từ mẫn đến tại trú xá của thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta".
- Này thanh niên Bà-la-môn, nay không phải thời, vì hôm nay tôi vừa mới uống thuốc. Ngày mai tôi sẽ đến, vừa hợp thời, hợp nghi.
Rồi thanh niên Bà-la-môn ấy từ chỗ ngồi đứng dậy, đến tại chỗ của thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta; khi đến xong, liền thưa với thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta:
- Chúng tôi đã thay mặt Tôn giả thưa với Tôn giả Ànanda: "Thanh niên Bà-la-môn Subha Todeyyaputta hỏi thăm Đại đức Ànanda có ít bệnh ít não, khinh an, khí lực an ổn. Hân hạnh thay, nếu Tôn giả Ànanda có lòng từ mẫn đến tại trú xá của thanh niên Bà-la-môn, Subha Todeyyaputta". Này Tôn giả, khi được nói vậy Sa-môn Ànanda nói với tôi: "Này thanh niên Bà-la-môn, nay không phải thời, vì hôm nay tôi mới vừa uống thuốc. Ngày mai, tôi sẽ đến, vừa hợp thời hợp nghi". Này Tôn giả, sự việc đã như vậy, khiến Tôn giả Ànanda đã có cơ hội ngày mai đến.
- Tôn giả Ànanda đã lâu ngày là thị giả của Tôn giả Gotama, sống gần và ở một bên Ngài. Tôn giả Ànanda chắc biết Tôn giả Gotama đã tán thán những pháp nào và Ngài đã khích lệ, khuyến đạo, y chỉ mọi người theo những pháp ấy. Tôn giả Ànanda, những pháp Tôn giả Gotama tán thán là những pháp gì và Ngài đã khích lệ, khuyến đạo, y chỉ mọi người theo những pháp ấy?
- Tôn giả Ànanda, thế nào là Thánh giới uẩn, Tôn giả Gotama tán thán và Ngài đã khích lệ, khuyến đạo, y chỉ mọi người theo pháp ấy?
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Ànanda, thật hy hữu thay, Tôn giả Ànanda, Thánh giới uẩn này thật viên mãn, không phải không viên mãn; Tôn giả Ànanda, tôi không thấy Thánh giới uẩn viên mãn này ở những Sa-môn, Bà-la-môn nào ngoài giáo hội này. Tôn giả Ànanda, và nếu những Sa-môn, Bà-la-môn khác có thấy Thánh uẩn này tự nơi mình, các vị này cũng đã thỏa mãn với pháp ấy: "Hành trì như vậy là đầy đủ, chứng đạt như vậy là đầy đủ. Đó là mục đích Sa-môn hạnh của chúng tôi, không có gì cao thượng hơn cần phải hành trì nữa!" Nhưng Tôn giả Ànanda còn nói: "Còn pháp uẩn cao thượng hơn cần phải hành trì".
II
1-12. Tôn giả Ànanda, thế nào là Thánh định uẩn, Tôn giả Gotama tán thán và Ngài đã khích lệ, khuyến đạo y chỉ mọi người theo pháp ấy?
- Này thanh niên Bà-la-môn, thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn?... Không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
(xem Kinh Sa Môn Quả, số 64 - 76).
14-15. Này thanh niên Bà-la-môn, lại nữa Tỷ-kheo ấy diệt tầm diệt tứ... không thấm nhuần.
(xem Kinh Sa Môn Quả, số 77-78)...
Đó là thiền định của vị ấy.
16-18. Lại nữa, này thanh niên Bà-la-môn, ly hỷ trú xả... không thấm nhuần. (Xem Kinh Sa Môn Quả, số 79-82)... Đó là thiền định của vị ấy.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Ànanda! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ànanda! Thánh định uẩn này thật viên mãn, không phải không viên mãn; Tôn giả Ànanda, tôi không thấy Thánh định uẩn viên mãn này ở những Sa-môn, Bà-la-môn nào ngoài giáo hội này. Tôn giả Ànanda, và nếu những Sa-môn khác có thấy Thánh định uẩn này tự nơi mình, các vị này cũng đã thỏa mãn với pháp ấy: "Hành trì như vậy là đầy đủ. Đó là mục đích Sa-môn hạnh của chúng tôi. Không còn gì cao thượng hơn cần phải hành trì nữa". Nhưng Tôn giả Ànanda còn nói: "Còn pháp uẩn cao thượng hơn cần phải hành trì".
20-21. Tôn giả Ànanda, thế nào là Thánh tuệ uẩn, Tôn giả Gotama tán thán và Ngài đã khích lệ, khuyến đạo, y chỉ mọi người theo pháp ấy?
- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm... và bị trói buộc (xem Kinh Sa Môn Quả, số 83-84).
23-24. Với tâm định tĩnh... không thiếu một căn nào (xem Kinh Sa Môn Quả, số 85-86). Đó là trí tuệ của vị ấy.
25-35. Với tâm định tĩnh... Sau đời sống hiện tại, không có đời sống nào khác nữa (xem Kinh Sa Môn Quả, số 87-98).
_________________________________________________________________
>> 9.Kinh Potthadada
(Kandarakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Campa, trên bờ hồ Gaggara cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Rồi Pessa, con trai người huấn luyện voi và Du sĩ Kandaraka đi đến chỗ Thế Tôn ở Pessa, con trai người huấn luyện voi sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn du sĩ Kandaraka nói lên với Thế Tôn những lời hỏi thăm, sau khi nói lên những lời hỏi thăm thân hữu rồi đứng một bên. Du sĩ Kandaraka đứng một bên, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo đang giữ im lặng, thật im lặng, liền bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Chúng Tỷ-kheo này được Tôn giả Gotama chơn chánh hướng dẫn. Tôn giả Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, không biết quý vị Thế Tôn ấy đã có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Tôn giả Gotama chơn chánh hướng dẫn? Tôn giả Gotama, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong tương lai, không biết quý vị Thế Tôn ấy sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy sẽ chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Tôn giả Gotama chơn chánh hướng dẫn?
– Thật sự là vậy, này Kandaraka! Thật sự là vậy, này Kandaraka! Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, những vị Thế Tôn ấy đã có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn. Này Kandaraka, các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời tương lai, những vị Thế Tôn ấy sẽ có một chúng Tỷ-kheo tuyệt diệu như vậy, mà quý vị ấy chơn chánh hướng dẫn, như nay chúng Tỷ-kheo được Ta chơn chánh hướng dẫn. Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ chánh trí. Này Kandaraka, trong chúng Tỷ-kheo này, có những Tỷ-kheo là bậc hữu học, giới luật kiên trì, giới hạnh kiên trì, sáng suốt, hạnh nghiệp sáng suốt, sống với tâm khéo an trú Bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn? Ở đây này Kandaraka, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu trên đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời.
Được nghe nói vậy, Pessa, con trai người huấn luyện voi bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bốn Niệm xứ này đã được Thế Tôn khéo trình bày, để chúng sanh được thanh tịnh, để sầu bi được vượt qua, để khổ ưu được diệt trừ, để chánh lý được thành đạt, để Niết-bàn được chứng ngộ. Bạch Thế Tôn, chúng con là hàng tại gia, mặc đồ trắng, thỉnh thoảng chúng con sống khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ này. Ở đây, Bạch Thế Tôn, chúng con sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con sống quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời; chúng con sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để nhiếp phục tham ưu trên đời. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hiểu được hạnh phúc và sự bất hạnh của chúng sanh trong khi loài người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự cặn bã như vậy, trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài người. Bạch Thế Tôn, cởi mở thay như loài thú vật. Bạch Thế Tôn, con có thể nhiếp phục con voi, một cách khiến con voi ấy mỗi khi đi hay đến Campa, liền trình bày mọi sự gian dối, giả dối, xảo trá, xảo quyệt. Nhưng bạch Thế Tôn, những người đầy tớ của chúng con, những người phục dịch, những người làm công, thân hành họ làm một cách, khẩu hành họ làm một cách khác, ý hành họ làm một cách khác nữa. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn biết được hạnh phúc và sự bất hạnh của chúng sanh, trong khi loài người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự cặn bã như vậy, trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài người! Bạch Thế Tôn, cởi mở thay, như loài thú vật!
– Thật như vậy, này Pessa! Thật như vậy, này Pessa! Này Pessa, rối ren thay, như loài người! Cởi mở thay, như loài thú vật! Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Pessa, có người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này Pessa, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, lại có người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Người ấy không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này Pessa, bốn hạng người này, hạng người nào, được tâm Ông thích ý nhất?
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng người không tự hành khổ mình không hành khổ người, ngay trong hiện tại không có tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này, tâm con thích ý.
– Này Pessa, vì sao Ông không thích ý ba hạng người này?
– Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, hạng người này hành khổ mình, hành hạ mình, trong khi tự ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này, hành khổ người khác, hành hạ người khác, trong khi người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này hành khổ, hành hạ mình và người khác, trong khi mình và người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Nhưng bạch Thế Tôn, người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng người này không hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể; do vậy, tâm con thích ý hạng người này. Và này, bạch Thế Tôn, chúng con phải đi, chúng con có nhiều công vụ, có nhiều công việc phải làm.
– Này Pessa, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Pessa, con trai người huấn luyện voi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, sau khi Pessa, con trai người huấn luyện voi ra đi không được bao lâu, liền nói với các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện voi là bậc có trí; Pessa, con trai người huấn luyện voi là người có đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu Pessa, con trai người huấn luyện voi ngồi thêm một chút nữa, cho đến khi Ta phân tích rộng rãi hơn bốn hạng người này, thời anh ta sẽ thâu đạt được nhiều lợi ích. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện voi như vậy cũng đã thâu đạt được nhiều lợi ích.
– Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời để Thế Tôn phân tích rộng rãi hơn bốn hạng người này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo léo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang giao cấu người đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, hay chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, hay chỉ nhận ăn hai miếng... hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy nhà, hay vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát,... nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa,... bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bột tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cừu. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là người ngồi chõ hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chõ hỏ, một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người? Ở đây, các Tỷ-kheo, có người giết trâu bò, là người giết heo, là người giết vịt, săn thú, là Thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm, cai ngục và những người làm các nghề độc ác khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh, hay một Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây dựng một giảng đường mới về phía Đông thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục tô và dầu, gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống trơn chỉ có lát cỏ. Vị vua sống với sữa từ vú một con bò cái, có con bò con cùng một màu sắc; bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai; và vị Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa từ vú thứ tư dùng để tế lửa. Còn con nghé con thì sống với đồ còn lại. Vị vua nói như sau: “Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy chặt một số cây để làm cột tế lễ, hãy thâu lượm một số cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ. Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người này vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt. Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt sống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: “Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: “Đây là Khổ”, tuệ tri như thật: “Đây là Khổ tập”, tuệ tri như thật: “Đây là Khổ diệt”, tuệ tri như thật: “Đây là con Đường đưa đến khổ diệt” tuệ tri như thật: “Đây là những lậu hoặc”, tuệ tri như thật: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc”, tuệ tri như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, tuệ tri như thật: “Đây là con Đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc.” Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có trở lui đời sống này nữa”.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH KANDARAKA, THỨ NĂM MƯƠI MỐT HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________
>>> 50. Kinh Hàng Ma
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Thế-Tôn ở trong núi Kỳ-Xà-Quật thuộc thành Vương-Xá, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ-Khưu và các vị Đại Bồ-Tát.
Bấy giờ, Cụ Thọ(2) Xá-Lỵ-Tử đến chốn kinh-hành (3) của Đại Bồ-Tát Di-Lặc. Đến nơi, hai vị cùng hỏi thăm nhau và cùng ngồi trên bàn đá rộng lớn. Liền đó, Cụ Thọ: Xá-Lỵ-Tử hướng vào Đại Bồ-Tát Di-Lặc nói rằng: "Bồ-Tát Di-Lặc! Hôm nay đức Thế-Tôn quán-sát thấy những lúa nếp nơi đồng nội, Ngài bảo các vị Tỳ-Khưu: "Các vị Tỳ-Khưu Nếu ai thấy được Nhân-duyên, tức là người ấy thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp, tức là người ấy thấy được Phật". Ngài nói những lời ấy rồi, Ngài lặng thinh không nói gì nữa. Bồ-Tát Di-Lặc! Đấng Thiện-Thệ(4) cớ sao lại nói ra những lời ấy? Việc ấy thế nào? - Gì là Nhân-duyên? - Gì là Pháp? - Gì là Phật? Thế nào là thấy được Nhân-duyên, tức là thấy được Pháp? - Thế nào là thấy được Pháp, tức là thấy được Phật?
Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử nói lời ấy rồi, Đại Bồ-Tát Di-Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử rằng: "Nay Phật, Pháp-Vương, Chánh-Biến-Tri(5) bảo các vị Tỳ-Khưu: "Nếu ai thấy được Nhân-duyên, tức là người ấy thấy được Pháp; nếu ai thấy được Pháp tức là người ấy thấy được Phật", vậy trong này thời cái gì là Nhân-duyên? Nói là Nhân-duyên, thời: "đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh". Như: Vô-minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên cho Danh-sắc, Danh-sắc duyên cho Lục-nhập, Lục-nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thụ, Thụ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sinh, Sinh duyên cho Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh-khởi được. Như thế, là chỉ sinh-khởi sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao, thuần-nhất, cùng cực vậy.(6)
Cũng trong này, Vô-minh diệt nên Hành diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt nên Danh-sắc diệt, Danh-sắc diệt nên Lục-nhập diệt, Lục-nhập diệt nên Xúc diệt, Xúc diệt nên Thụ diệt, Thụ diệt nên Ái diệt, Ái diệt nên Thủ diệt, Thủ diệt nên Hữu diệt, Hữu diệt nên Sinh diệt, Sinh diệt nên Lão-tử, sầu, thán, khổ, ưu, não cũng diệt được. Như thế là chỉ diệt sự kết-tụ những khổ đau lớn-lao, thuần-nhất, cùng-cực là được(7). Đó là đức Thế-Tôn nói ra pháp Nhân-duyên vậy.
- Gì là Pháp? - Là tám Thánh-đạo: chính-kiến (thấy rõ lý chính-xác), chính-tư-duy (suy-nghĩ chân-chính), chính-ngữ (nói-năng chân-chính), chính-nghiệp (hành-động chân-chính), chính-mệnh (mưu-sinh chân-chính), chính-tinh-tiến (cố-gắng trong chân-chính), chính-niệm (ghi nhớ rõ lẽ chân-chính), và chính-định (chú-định vào chính-lý, chính-đạo). Thế là tám Thánh-đạo-quả và Niết-Bàn, đức Thế-Tôn nói ra, gọi đấy là Pháp.(8)
- Gì là Phật? - Là bậc biết hết thảy pháp, gọi là Phật. Tuệ-nhãn (con mắt trí-tuệ), Pháp- thân (pháp-tính-thân) của bậc kia trông thấy hết thảy pháp, tạo-tác nhân Bồ-Đề(9) và đạt tới địa-vị Học, Vô-học-pháp.)10)
- Thế nào là thấy được Nhân-duyên? - Như đức Phật nói: "Nếu ai thấy được những pháp của nhân-duyên là thấy được nhân-duyên. Những pháp ấy là: thường (thường còn không sinh-diệt), vô thọ (không còn có hình-sắc, thọ-mệnh liên-tục), ly thọ (xa lìa cả lời nói về thọ-mệnh vắn hay dài), như-thực-tính (tính thuộc chân-không, như thực), vô-thác-mậu-tính (tính chân-không, như thực, phổ-biến không chút sai-lầm thiên-lệch), vô-sinh (tính như thực nên không còn sinh-diệt), vô khởi (không phát-khởi), vô tác(không tạo-tác), vô vi (không tác-vi), vô-chướng-ngại (không còn bị ngăn-cản), vô-cảnh-giới (không còn chia ranh giới), tịch-tĩnh (thường hằng vắng-lặng), vô úy (không có sợ-hãi), vô xâm-đoạt (không bị xâm đoạt) và bất tịch-tĩnh-tướng (không còn có cả hình tướng của tịch-tĩnh vắng-lặng).(11)
Nếu ai thấy được pháp của nhân-duyên như thế rồi, đối với Pháp ấy cũng phải thấy là: thường, vô thọ, ly thọ, như-thực-tính, vô thác-mậu-tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng-ngại, vô cảnh-giới, tịch-tĩnh, vô úy, vô xâm-đoạt, bất tịch-tĩnh-tướng(12). Được Chính-trí ngộ được Thắng-pháp, dùng Vô-thượng Pháp-thân mà thấy Phật.(13)
Hỏi: Tại sao gọi là Nhân-Duyên?
Đáp: Có Nhân, có Duyên gọi là Nhân-duyên, không phải là không có nhân, không có duyên, nên gọi là nhân-duyên-pháp. Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ. Cho đến pháp-tính (nhân-duyên-tính), pháp-trụ-tính (tính trong pháp của nhân-duyên vẫn thường-trụ), pháp-định-tính (tính của mọi pháp quyết-định như thế), dữ nhân-duyên tương-ứng-tính (tính cùng nhân-duyên ứng-hợp nhau), chân như tính (tính của mọi pháp là như thực), vô-thác-mậu-tính (tính chân-như phổ-biến không sai-lầm, thiên-lệch), vô biến dị-tính (tính chân-như không thay đổi sai khác), chân-thực-tính (tính chân-thực), thực-tế-tính (tính thực-tế), bất hư-vọng-tính (tính không giả-dối), bất điên-đảo-tính (tính không xáo-lộn) v.v... Đó là đức Thế-Tôn nói những lời nói như thế.(14)
Nhân-duyên-pháp này, vì hai thứ mà nó sinh-khởi được. Hai thứ ấy là gì? - Là: Nhân-tương-ứng và Duyên-tương-ứng. Nhân-duyên kia lại có hai thứ: ngoại-nhân-duyên và nội- nhân-duyên.(15)
Trong này gì là ngoại-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng? - Từ hạt giống sinh ra mầm, từ mầm sinh ra lá, từ lá sinh ra thân cây, từ thân cây sinh ra đốt, từ đốt sinh ra nụ, từ nụ sinh ra hoa, từ hoa sinh ra trái; nếu không có hạt giống, mầm tức không sinh, cho đến nếu không có hoa, trái cũng không sinh được. Có hạt giống, mầm mới sinh được, như thế thời có hoa, trái cũng mới sinh được.(16)
Song, hạt giống kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta sinh ra mầm". Mầm cũng không khởi ra ý-niệm: "ta từ hạt giống sinh ra". Cho đến hoa cũng không khởi ra ý-niệm: "ta sinh ra trái". Trái cũng không khởi ra ý-niệm: "ta từ hoa sinh ra".(17)
Tuy thế, vì có hạt giống mà mầm được sinh ra và cũng như thế, vì có hoa mà trái liền được thành tựu.
Nên quán-sát cái nghĩa "ngoại nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng" như thế!
- Nên quán-sát ngoại-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng như thế nào? - Cần sáu giới (giới-phận) hòa-hợp. - Gì là sáu giới hòa-hợp? - Là: địa-giới (đất), thủy-giới (nước), hỏa-giới (lửa), phong-giới (gió), không-giới (không-gian) và thời (thời-gian). Những giới-phận ấy hòa-hợp với nhau, thời ngoại-nhân-duyên-pháp sinh khởi được.
Nên quán-sát cái nghĩa "ngoại-nhân-duyên-pháp, duyên-tướng-ứng" như thế!(18)
Nói về Địa-giới là thứ thường giữ gìn cho hạt giống; Thủy-giới là thứ thường nhuần-thấm cho hạt giống; Hỏa-giới là thứ thường giúp hơi ấm cho hạt giống; Phong-giới là thứ thường giúp sự dao-động cho hạt giống; Không-giới là thứ không làm chướng-ngại cho hạt giống; Thời, thời có thể làm cho hạt giống biến đổi. Nếu không có những duyên ấy, hạt giống không thể nào sinh ra mầm được.
Nếu ngoài, địa-giới hoàn-toàn đầy-đủ, cho đến thủy, hỏa, phong, không, thời-giới... cũng hoàn-toàn đầy-đủ như thế, lại hết thảy hòa-hợp, thời khi hạt giống diệt rồi, mầm sinh ra được.(19)
Và, trong này địa-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường giữ-gìn hạt giống". Cùng như thế, thủy-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường nhuần-thấm cho hạt giống"; hỏa-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường giúp hơi ấm cho hạt giống"; phong-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường giúp sự dao-động cho hạt giống"; không-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường không làm chướng-ngại cho hạt giống"; thời cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm cho hạt giống biến-đổi". Hạt giống cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường sinh ra mầm"; mầm cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay từ những duyên ấy mà sinh ra".(20)
Tuy thế, có những duyên ấy, khi hạt giống diệt rồi, mầm liền sinh ra được. Và, cũng như thế, khi có hoa, trái liền sinh ra được. Thế là, mầm kia cũng không phải tự mình tạo-tác, cũng không phải là cái khác tạo-tác, không phải tự nó (mầm) cùng cái khác tạo-tác, không phải là tự-tại tạo-tác, cũng không phải là thời biến-đổi, không phải là tự-tính sinh ra, cũng không phải là không có nhân mà sinh ra được. Dù vậy, địa, thủy, hỏa, phong, không, thời-giới... hòa-hợp, khi hạt giống diệt rồi, mầm được sinh ra.(21)
Nên quán-sát cái nghĩa "ngoại-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng" như thế!
Nên đem năm thứ quán-pháp, quán ngoại-nhân-duyên-pháp kia. Năm thứ ấy là gì? - Là: không thường còn (bất thường), không dứt đoạn (bất đoạn), không chuyển dời (bất di), từ nhân nhỏ sinh quả lớn và cùng tương-tự với nhân cũ kia.
Thế nào là không thường còn? - Vì, mầm cùng hạt giống, hai đàng đều khác biệt nhau; mầm kia không phải là hạt giống; không phải khi hạt giống hoại rồi, mầm mới sinh ra, cũng không phải là hạt giốngkhông diệt, mà mầm sinh-khởi được; khi hạt giống hoại đi, mầm sinh ra được, nên là "không thường còn".
Thế nào là không dứt đoạn? - Không phải là hạt giống của quá-khứ hoại đi, mà sinh ra mầm, cùng không phải là hạt giống không diệt, mầm sinh-khởi được, hạt giống cũng hoại, đương trong khi ấy, nó chỉ như cán cân cao, thấp một chút, mà mầm sinh ra được, nên là "không dứt đoạn".
Thế nào là không chuyển dời? - Vì, mầm và hạt giống khác nhau, mầm không phải là hạt giống, nên là "không chuyển dời".
Thế nào là nhân nhỏ sinh quả lớn? - Từ hạt giống nhỏ, sinh ra quả lớn, nên gọi là "Từ nhân nhỏ, sinh ra quả lớn".
Thế nào là cùng tương-tự với nhân cũ kia? - Vì, như hạt giống khi mới trồng, sinh ra quả kia, nên gọi là "cùng tương-tự với nhân cũ kia".
Thế là đem năm thứ quán-pháp, quán ngoại-nhân-duyên-pháp!(22)
- Cũng như thế, nội-nhân-duyên-pháp cũng do hai thứ mà được sinh-khởi. Hai thứ ấy là gì? - Là: nhân-tương-ứng và duyên-tương-ứng.
- Thế nào mà có nghĩa gọi là nội-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng? - Nghĩa là, trước từ vô-minh duyên cho hành, cho đến sinh duyên cho lão-tử. Nếu vô-minh không sinh, hành cũng không có, cho đếnnếu không có sinh, lão-tử cũng không có. Như thế, có vô-minh nên hành mới sinh ra được, cho đến có sinh nên lão-tử mới có được.(23)
Song, vô-minh cũng không khởi ra ý-niệm: "ta sinh ra hành"; hành cũng không khởi ra ý-niệm: "ta từ nơi vô-minh mà sinh ra"; cho đến sinh cũng không khởi ra ý-niệm: "ta sinh ra lão-tử"; lão-tử cũng không khởi ra ý-niệm: "ta từ nơi sinh mà có".(24)
Tuy thế, vì có vô-minh, hành mới sinh được; cũng như thế, vì có sinh, lão-tử mới có được.(25)
Vì vậy, nên quán-sát nghĩa "nội-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng" như thế!
- Nên quán-sát sự của nội-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng thế nào? - Cần sáu giới hòa-hợp. Sáu giới hòa-hợp là gì? - Là: địa-giới, thủy-giới, hỏa-giới, phong-giới, không-giới và thức-giới hòa-hợp.
Nên quán-sát sự của "nội-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng" như thế!(26)
- Gì là hành-tướng của sáu giới, trong nội-nhân-duyên-pháp? - Thứ làm cho trong thân này bền-chắc, gọi là "địa-giới"; thứ làm cho thân này tụ-tập lại, gọi là "thủy-giới"; thứ làm tiêu hóa những thức ăn, uống trong thân này, gọi là "hỏa-giới"; thứ làm cho hơi thở ra, vào trong, ngoài trong thân này, gọi là "phong-giới"; chứ làm cho thân này rỗng thông, gọi là "không-giới" năm thức của thân tương-ứng (hợp nhau) cùng hữu-lậu ý-thức, cũng như bó cây lau, thành-tựu được cái mầm danh-sắc (tâm, thân) của thân này, gọi là "Thức-giới"(27). Nếu không có những duyên ấy, thời không sinh ra thân được. Nếu nội-địa-giới hoàn-toàn đầy đủ, và cùng như thế, cho đến thủy, hỏa, phong, không, thức-giới cũng hoàn-toàn đầy đủ, lại hết thảy hòa-hợp với nhau, thời thân liền sinh ra được.(28)
Song, địa-giới kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm những sự bền chắc trong thân"; thủy-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường vì thân làm những sự tụ-tập"; hỏa-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm tiêu-hóa những thức ăn, uống trong thân"; phong-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm cho hơi thở ra, vào trong, ngoài thân"; không-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm những sự rỗng thông trong thân"; thức-giới cũng không khởi ra ý-niệm: "ta thường làm thành-tựu cái mầm danh-sắc của thân này; thân cũng không khởi ra ý-niệm: "ta từ nơi mọi duyên này mà sinh ra". Tuy thế, có thời của các duyên này, thân liền sinh ra được. Nhưng, địa-giới kia cũng không phải là Ta, không phải là chúng sanh, không phải là mệnh-giả, không phải là sinh-giả, không phải là Nho-đồng, không phải là tác-giả, không phải là con trai, không phải là con gái, không phải giống Hoàng-môn, không phải tự-tại, không phải ngã-sở, cũng không phải là những thứ gì khác. Cho đến, thủy-giới, hỏa-giới, phong-giới, không-giới, thức-giới cũng không phải là Ta, không phải là chúng-sanh, không phải là mệnh-giả, không phải là sinh-giả, không phải là Nho-đồng, không phải là tác-giả, không phải là con trai, không phải là con gái, không phải là giống Hoàng-môn, không phải tự-tại, không phải ngã-sở, cũng không phải là những thứ gì khác như thế.(29)
- Gì là Vô-minh? - Đối với sáu giới này khởi ra nhất-tưởng (tưởng là nhất thể), nhất-hợp-tưởng (tưởng là thực-thể do các pháp hợp-thành), thường-tưởng (tưởng là thường còn vĩnh-viễn), kiên-lao-tưởng (tưởng là bền chắc), bất-hoại-tưởng (tưởng là không hoại-diệt), an-lạc-tưởng (tưởng là được an-vui) tưởng là chúng-sinh, mệnh, sinh-giả, dưỡng-dục, sĩ-phu, nhân (người), Nho-đồng, tác-giả, ngã, ngã sở v.v...(30) cùng nhiều thứ vô tri (không biết) khác, thế là "vô-minh".
Có vô-minh, đối với các cảnh-giới khởi ra: tham, sân, si; cái đối với cái cảnh-giới khởi ra: tham, sân, si ấy, ấy là vô-minh duyên cho hành; cái mà đối với mọi sự thường phân-biệt rõ-ràng, gọi là "thức"; cùng với thức đồng sinh bốn uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành), gọi là danh-sắc; y vào các căn của danh-sắc, gọi là lục-nhập; ba pháp hòa-hợp (căn, trần, thức) gọi là xúc; biết cảm-thụ sự xúc-chạm ấy, gọi là thụ; tham-đắm vào sự cảm-thụ ấy, gọi là ái; tăng-trưởng sự tham-ái ấy, gọi là thủ; từ chỗ chấp-thủ ấy sinh ra "năng-sinh-nghiệp" (chủ-động trong hành-động sinh danh-sắc khác), gọi là hữu; mà từ nhân kia (nghiệp) sinh ra năm uẩn (danh-sắc), gọi là sinh; sinh ra rồi năm uẩn thành-thục, gọi là lão (già); lão rồi năm uẩndiệt-hoại, gọi là tử (chết); trong khi sắp mất, nội-tâm đủ cả tham-đắm và nhiệt-não, gọi là sầu (buồn rầu); từ chỗ sầu bi ấy, sinh ra những lời nói, gọi là thán (than-thở); thân của năm thức chịu khổ, gọi là khổ; tác-ý (khởi ra ý-tưởng); ý-thức chịu mọi sự khổ, gọi là ưu (lo); đủ những thứ trên như thế cùng những phiền-não tùy-thuộc, gọi là não.(31)
Đen tối nhiều nên gọi là vô-minh; tạo-tác, nên gọi là chư hành (mọi hành-động); phân-biệt rõ ràng, nên gọi là thức; nương-dựa nhau, nên gọi là danh-sắc; làm cửa sinh-khởi, nên gọi là lục-nhập; xúc-chạm nên gọi là xúc; cảm-thụ nên gọi là thụ; khát-khao nên gọi là ái; chấp lấy, nên gọi là thủ; sinh-khởi sự có thân sau này (hậu-hữu thân) nên gọi là hữu; sinh ra năm uẩn nên gọi là sinh; năm uẩn thành-thục nên gọi là lão; năm uẩn diệt-hoại, nên gọi là tử; buồn-rầu nên gọi là sầu; than-thở nên gọi là thán; não thân gọi là khổ; não tâm gọi là ưu; phiền-não nên gọi là não.(32)
Hơn nữa, không rõ chân-tính, điên-đảo không biết, gọi là "vô-minh". Vì có "vô-minh" như thế, thành ra ba thứ hành (hành-động): phúc-hành (làm phúc), tội-hành (làm tội) và bất-động-hành (làm trong sự không dao-động)(33). Từ nơi phúc-hành (làm phúc) sinh ra phúc-hành-thức (nghiệp-thức trong việc làm phúc), ấy là vô-minh duyên cho hành; từ nơi tội-hành (làm tội), sinh ra tội-hành-thức (nghiệp-thức trong việc làm tội), ấy thời gọi là hành duyên cho thức; từ nơi bất-động-hành (làm trong sự không dao-động), sinh ra bất-động-hành-thức (nghiệp-thức trong việc làm không dao-động), ấy thời gọi là thức duyên cho danh-sắc. Vì sắc tăng-trưởng, từ trong cửa lục-nhập thành sự việc, ấy là danh-sắc duyên cho lục-nhập. Từ lục-nhập mà sinh ra sáu thứ tụ-tập, xúc-chạm, ấy là lục-nhập duyên cho xúc. Từ nơi xúc-chạm mà sinh ra cái kia, cái kia cảm-thụ nhau, ấy thời gọi là xúc duyên cho thụ. Phân-biệt rõ-ràng sự cảm-thụ rồi, mà sinh ra nhiễm-ái, đam-chước, ấy thời gọi là thụ duyên cho ái. Biết rồi mà sinh nhiễm-ái, đam-chước, không muốn xa-lìa sắc đẹp và ở nơi yên vui mà sinh ra ý-nguyện hoan-lạc, ấy là ái duyên cho thủ. Sinh ra ý-nguyện hoan-lạc rồi, từ nơi thân, miệng, ý tạo ra hậu-hữu-nghiệp (nghiệp của sự có thân sau này), ấy là thủ duyên cho hữu. Từ nghiệp của hữu kia sẽ sinh ra năm uẩn, ấy là hữu duyên cho sinh. Sinh rồi, năm uẩn kia thành-thục và diệt-hoại, ấy thời gọi là sinh duyên cho lão-tử.(34)
Thế nên mười hai chi pháp nhân-duyên kia, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô-thường, không phải hữu-vi (có sự tạo-tác), không phải vô-vi (không có sự tác-vi), không phải là không có nhân, không phải là không có duyên, không phải cảm-thụ "hữu-nghiệp", không phải là pháp (nhân-duyên) hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt; từ vô-thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn-tuyệt.(35)
Tuy thế, mười hai chi pháp nhân-duyên ấy, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô-thường, không phải hữu-vi, không phải vô-vi, không phải là không có nhân, không phải là không có duyên, không phải cảm-thụ "hữu-nghiệp", không phải là pháp hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt; từ vô-thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn-tuyệt và nó có bốn chi thường nhiếp-thủ mười hai nhân-duyên-pháp. Bốn chi ấy là gì? - Là: vô-minh, ái, nghiệp, thức.
"Thức", lấy chủng-tử-tính làm nhân. "Nghiệp" lấy điền-tính(36) làm nhân. "Vô minh" và "ái" lấy phiền-não-tính làm nhân. Trong này, "nghiệp" và "phiền-não", sinh ra "thức" của chủng- tử (hạt giống). "Nghiệp" thời làm mảnh ruộng cho "thức" của chủng-tử, "ái" thời nhuần-thấm cho "thức" của chủng-tử, "vô-minh" thời sinh nở cho "thức" của chủng-tử. Nếu không có những duyên ấy, "thức" của chủng-tử không thể thành được.(37)
Song, nghiệp kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm mảnh ruộng cho "thức" của chủng-tử; ái cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm nhuần-thấm cho "thức" của chủng-tử"; vô-minh cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm sinh-nở cho "thức" của chủng-tử"; "thức" của chủng-tử kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay từ mọi duyên ấy sinh ra".(38)
Tuy thế, "thức" của chủng-tử, y vào nơi ruộng nghiệp và ái kia nhuần-thấm, phẩn vô-minh sinh nở, vào trong thai mẹ sinh ra mầm danh-sắc(39). Mầm danh-sắc kia cũng không phải tự-tác (mình làm ra), cũng không phải tha-tác (cái khác làm ra), không phải mình và cái khác đều làm ra, không phải tự-tại hóa ra, cũng không phải thời biến; không phải tự-tính sinh, không phải là tác-giả tạm bợ (dả-tác-giả), cũng không phải là không có nhân mà sinh.(40)
Tuy thế, khi phụ mẫu hòa-hợp cùng khi các duyên khác hòa-hợp, pháp (nhân-duyên): vô-ngã (không có cái TA), vô-ngã, ngã-sở (không có cái TA, cái của TA), cũng như hư-không. Các huyễn-pháp kia, nhân và các duyên hoàn-toàn đầy đủ, y nơi sinh của nhân-duyên kia, vào trong thai mẹ, thời thành-tựu được cái "thức", giữ lấy thai mẹ, là cái mầm danh-sắc.(41)
Song, mắt kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay là chỗ nương-tựa của nhãn-thức", hình-sắc cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm cảnh cho nhãn-thức"; ánh-sáng cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm việc hiển-hiện cho nhãn-thức"; không-gian cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm việc không ngăn-che cho nhãn-thức"; tác-ý cũng không khởi ra ý-niệm: "ta nay làm chỗ tư-tưởng cho nhãn-thức"; nhãn-thức kia cũng không khởi ra ý-niệm: "ta là từ các duyên ấy mà có". Tuy thế, có các duyên ấy nhãn-thức mới sinh ra được; cho đến các căn khác, tùy từng loại của nó sẽ biết được nó.(43)
Như thế, không có chút pháp (nhân, duyên) nào từ đời này di-chuyển đến đời khác; dù vậy, nhân và các duyên, được hoàn-toàn đầy-đủ, thời nghiệp-quả (kết-quả của nghiệp-thức) cũng hiện.(44)
Ví như trong tấm gương sáng hiện ra diện-tượng, tuy diện-tượng kia không dời gương, nhân và các duyên, được hoàn-toàn đầy đủ, nên diện-tượng cũng hiện. Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, nhân và các duyên hoàn-toàn đầy-đủ, nên nghiệp-quả cũng hiện(45).
Ví như vầng trăng, vận-hành trên đây chừng bốn vạn hai nghìn do-tuần, thế mà hình tượng vầng trăng kia hiện trong cái bát nhỏ có nước, vậy vầng trăng kia cũng không phải từ nơi kia di-chuyển đến cái bát có nước này. Tuy thế, nhân và các duyên hoàn-toàn đầy-đủ, nên vầng trăng cũng hiện. Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, mà nhân và các duyên hoàn-toàn đầy đủ, nên nghiệp-quả cũng hiện.(46)
Ví như lửa, nhân và các duyên nếu không đầy đủ, thời không cháy được, khi nhân và các duyên đầy đủ, mới có thể cháy được. Như thế, pháp vô-ngã, vô ngã ngã sở cũng như hư-không; y vào huyễn-pháp kia nhân và các duyên hoàn-toàn đầy-đủ, y nơi sở sinh, vào trong thai mẹ, thời thành-tựu được cái thức của chủng-tử, nghiệp và phiền-não sinh ra mầm danh-sắc.(47)
Vậy nên, cần quán-sát về sự: nội-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng" như thế!
Nên đem năm thứ quán-pháp, quán-sát nội-nhân-duyên-pháp. Năm thứ ấy là gì? - Là: không thường còn (bất thường), không dứt đoạn (bất đoạn), không chuyển dời (bất di), từ nhân nhỏ sinh quả lớn và cùng tương-tự với nhân cũ kia.
Thế nào là không thường còn? Nghĩa là năm uẩn tối-hậu của báo-thân kia diệt đi, cùng với năm uẩnđang chịu phần sinh ra kia, hai đàng đều khác nhau, vì năm uẩn tối-hậu diệt đi, không phải là năm uẩnđang chịu phần sinh ra; báo-thân tối-hậu kia diệt, năm uẩn cũng diệt, năm uẩn đang chịu phần sinh ra cũng hiện ra được nên gọi là "không thường còn".(48)
Thế nào là không dứt đọan? - Không phải y vào khi diệt hoại của năm uẩn tối-hậu diệt, mà năm uẩnđang chịu phần sinh ra, có được; và cũng không phải là không diệt, báo-thân tối-hậu kia diệt, năm uẩncũng diệt, đương trong khi ấy, năm uẩn đang chịu phần sinh ra, nó chỉ như cán cân, cao, thấp một chút, mà sinh ra được, nên gọi là "không dứt đoạn.(49)
Thế nào là không chuyển dời? - Vì, các loài hữu-tình, từ nơi không phải là "chúng-đồng-phận", sinh ra nơi "chúng-đồng-phận", nên gọi là "không chuyển dời".(50)
Thế nào là từ nhân nhỏ, sinh quả lớn? - Làm nghiệp nhỏ, cảm quả dị-thục(51) lớn, nên từ nhân nhỏ mà sinh quả lớn.
- Như làm nhân kia, cảm được quả kia, cùng tương-tự với nhân kia, nên gọi là "tương-tự".
Bởi thế, nên đem năm thứ quán-pháp, quán-nhân-duyên-pháp!
Tôn-giả Xá-Lỵ-Tử! Nếu có người dùng chính trí, quán-sát những pháp của nhân-duyên, mà đức Như-Lai nói ra, như vô thọ, ly thọ, như-thực-tính, vô-thác-mậu-tính, vô-sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh-giới, tịch-tĩnh, vô úy, vô xâm-đọat, vô tận, bất-tịch-tĩnh-tướng(52), bất-hữu (không có sự chân-thực), hư (dả-dối), cuồng (lừa gạt không thực), vô kiên-thực (không bền, thực), như bệnh (như người đau), như ung (như người có nhọt), như tiễn (như bị tên bắn), quá thất (lỗi-lầm), vô thường(không thường còn), khổ, không, vô ngã (không có TA), vậy: ta trong đời quá-khứ có sinh hay là không sinh, mà không phân-biệt được bờ cõi của thuở quá-khứ? Trong đời vị-lai sinh ở chốn nào, mà cũng không phân-biệt được bờ cõi của thuở vị-lai? Đây (hiện-tại) là gì? Đây lại là thế nào, mà làm ra vật gì? Các loài hữu-tình này từ đâu lại? Từ đây diệt đi sẽ sinh vào chốn nào? Mà cũng không phân-biệt được cái "có" của hiện-tại.)53)
Lại diệt những tà-kiến (tư-tưởng lệch-lạc) bất đồng của hàng Sa-môn, Bà-la-môn(54) ở thế-gian, là ngã-kiến, chúng-sinh-kiến, thọ-giả-kiến, nhân-kiến, hy-hữu-kiến, cát-tường-kiến, khai-hợp-kiến. Biết được rành-rẽ, như cây Đa-la, đoạn trừ sạch mọi căn rồi, trong đời mai sau, chứng được pháp vô sinh, vô diệt.(55)
Tôn-giả Xá-Lỵ-Tử! Nếu có người đầy đủ được "vô sinh pháp-nhẫn"(56) như thế, là người phân-biệt rõ ràng được nhân-duyên-pháp ấy, Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hành-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Điều-Ngự-Trượng-Phu, Thiên- Nhân-Sư, Phật, Thế-Tôn(57), liền thụ-ký cho đạo-quả Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác.
Bấy giờ, Đại Bồ-Tát Di-Lặc nói lời ấy rồi, Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử cùng hết thảy những người trong thế-gian, Thiên, Nhân, A-Tu-La, Càn-Thát-Bà v.v..., nghe Đại Bồ-Tát Di-Lặc nói pháp ấy, đều tín-thụ phụng-hành.
Chú thích:
(1) Xét trong Đại-Tạng Kinh, thời kinh này cùng một tỷ-dụ, cùng một chân-nghĩa mà có 5 bản dịch khác nhau: 1) Liễu bản sinh-tử kinh: số 708, do Cư-Sĩ Chi-Khiêm dịch. 2) Phật thuyết Đạo-Can kinh: số 709, mất tên người dịch, phụ vào Đông-Tấn-Lục. 3) Từ-Thị Bồ-Tát sở thuyết Đại-thừa Duyên-sinh Đạo-can dụ kinh: số 710, do Sa-Môn Bất-Không dịch. 4) Đại-thừa Xá-Lê-Sa-Đảm-Ma kinh: số 711, do Pháp-Sư: Thí-Hộ dịch. 5) Phật thuyết Đại-thừa Đạo-can kinh: số 712, mất tên người dịch. Kinh này thuyết-minh lý nhân-duyên-sinh trong 12 nhân-duyên. Để cho các hàng Phật-tử trông đề-mục kinh, đã biết được nội-dung của kinh bằng cách dễ-dàng, nên tạm mượn hai chữ "duyên-sinh", trong bản dịch thứ 3 (ghi trên) làm đề-kinh, còn toàn kinh dịch đúng bản "Phật thuyết Đại-thừa Đạo-can kinh". (Lời Dịch-giả).
- Đạo-Can kinh: tiếng Phạm (Ấn-độ) gọi là Xá-Lê-Sa-Đảm-Ma kinh (Salistambasutra). Đạo-Can nghĩa là lúa nếp. Đức Phật nhân trông thấy cánh đồng lúa nếp Ngài nói ra lý nhân-duyên-sinh này.
(2) Cụ Thọ: Tiếng gọi thông thường, chỉ cho những vị có đầy-đủ thọ-mệnh thế-gian và pháp-thân thọ-mệnh.
(3) Kinh-hành: Nơi đặc-biệt để sau khi ngồi Thiền, đi đi, lại lại nuôi dưỡng thân-thể và trừ khỏi bệnh-hoạn. Hoặc là nơi để đi đi, lại lại sau bữa ăn cho tiêu cơm.
(4) Thiện-Thệ: Tiếng Phạm gọi là Tu-già-đà (Sugata) có nghĩa là đi trong đường chính, đạt tới nơi tốt đẹp. Đấng Giác-ngộ dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi trên đường bát chính, rảo tới nơi Niết-bàn, nên gọi là Thiện-Thệ.
(5) Phật, Pháp-Vương, Chính-Biến-Tri: Phật (Buddha): Là bậc giác-ngộ hoàn toàn. Pháp-Vương: Phật đối với pháp (sự, vật) tự-tại, nên gọi là Pháp-Vương. Chính-Biến-Tri: Tiếng Phạm gọi là Tam-miệu tam Phật-Đà (Samya Ksambuddha) nghĩa là chính thực biết khắp hết thảy mọi pháp, nên gọi là "Chính-Biến-Tri".
(6) Trên đây Bồ-Tát Di-Lặc đáp câu hỏi của Cụ Thọ Xá-Lỵ-Tử về hai chữ Nhân-duyên. Nhân là nguyên-nhân, duyên là những cái giúp-đỡ (hoàn-cảnh) cho nguyên-nhân phát-sinh và đạt tới kết-quả: "Đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh", đó là nghĩa của nhân-duyên-sinh vậy. Chúng-sinh hay sự, vật có ra hình-sắc đều do sự tạo-tác tiếp nối của 12 nhân-duyên: 1) Vô-minh: Tức là si-mê, một trong 6 phiền-não căn-bản và có nghĩa là không hiểu rõ sự, lý của sự-vật luôn luôn vọng-chấp theo vọng-niệm phân-biệt. 2) Hành: Hành-động. Là chủ-động dẫn-dắt hành-nghiệp sinh-tử nghiệp-báo. Nghĩa là vì vô-minh nên phát-khởi ra những hành-động sai lầm. 3) Thức: Nghiệp-thức phân-biệt. Do sự si-mê và hành-động trên kết thành nghiệp-thức phân-biệt sai lầm. Vì phân-biệt nên chấp có Mình có Người có Năng (chủ-quan), có Sở (khách-quan) nên thành động-lực sinh-tử luân-chuyển. 4) Danh-sắc: Là tổng-báo-thân của sự vật. "Danh" là tên gọi của tâm hay là tinh-thần linh-hoạt: "Sắc" tức là hình-sắc do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hòa hợp tạo thành. Đã có nghiệp-thức tất nhiên phải có sự kết thành hình-sắc, trong đó có sự linh hoạtđể bảo vệ, sai sử hình-sắc ấy. 5) Lục Nhập: Có Danh-Sắc rồi dĩ nhiên là có 6 căn (6 quan-năng): mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp-nhập với 6 trần (cảnh vật): sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên gọi là "lục nhập". 6) Xúc: Có sự tiếp nhập rồi, hai đàng phải có sự xúc chạm với nhau, nên gọi là "xúc". 7) Thụ: Đã có sự xúc chạm là có sự cảm-thụ, lĩnh-thụ, nên gọi là "thụ". 8) Ái: Đã có sự cảm-thụ, lĩnh-thụ sẽ sinh ra yêu mến, nên gọi là "ái". 9) Thủ: Đã yêu mến nên cố tâm gìn giữ lấy, nên gọi là "thủ". 10) Hữu: Vì sự cốthủ ấy mà lại sẽ thành ra có cái thân hình lưu chuyển của sau này, nên gọi là "hữu". 11) Sinh: Đã có sự kết tinh của thân hình mai sau, đương nhiên sẽ sinh ra, nên gọi là "sinh". 12) Lão-Tử: Đã có thân hìnhsinh ra, theo sự biến-chuyển lại sẽ già (tàn lụi) và chết. Nhưng, trong khi ấy chịu đựng bao nỗi: buồn rầu, than thở, khổ đau, lo lắng, áo não, nên gọi là "lão-tử sầu, thán, khổ, ưu, não". Tóm lại, do 12 nhân-duyên này hỗ-tương tiếp nối, chỉ là phát-sinh ra sự kết-tụ khổ đau cùng cực vậy (cuối kinh có giải rộng).
(7) Trước đây đã nói về sự sinh khởi của nhân-duyên, nay đây nói về sự đoạn diệt nhân-duyên. Biết rằng có ra lão-tử là do duyên nơi: sinh, hữu, thủ, ái, thụ, xúc, lục-nhập, danh-sắc, thức, hành, vô-minh liên lạc, tiếp nối nhau sinh khởi, nay muốn đoạn diệt cần đoạn diệt vô-minh, thời các duyên kia đều diệt. Hết thảy đều diệt, thời sinh-tử, phiền-não diệt hẳn, nỗi khổ đau lớn lao, thuần nhất, cùng cực kia, biến thành cực-lạc thanh-tịnh.
(8) Tu tám Thánh-đạo tới chỗ cứu cánh là sẽ chứng được 4 quả của Thanh-Văn: Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán, và y vào quả-trí ấy, giải-thoát được sinh-tử, nên gọi là Thánh-đạo-quả và Niết-bàn. Và, đức Phật nói ra những pháp ấy, đó là Phật pháp.
(9) Nhân Bồ-Đề: Tức là nguyên-nhân để giác-ngộ, như thực-hành 8 Thánh-đạo, đoạn 12 nhân-duyên v.v...
(10) Học, Vô-Học: Người đạt chân-lý cứu cánh, vọng hoặc diệt hết, không còn tu, học, là "Vô-học". Người còn phải nghiên-cứu chân-lý để diệt hẳn vọng hoặc, là "Hữu-học". Ba quả trên của Tiểu-Thừa là "Hữu-học", A-La-Hán là "Vô-học". Thập địa Bồ-Tát của Đại-thừa là "Hữu-học", Phật là "Vô-học".
(11) Đây là hiển minh nghĩa tối thắng của pháp trong nhân-duyên.
(12) Trên kia đã từ 12 nhân-duyên quán-sát Nhân-Duyên, đoạn này từ nơi tám Thánh-đạo quán-sát Pháp. Quán-sát tính của nhân-duyên là Thường, Vô Thọ... nay quán-sát tính của Pháp cũng thế.
(13) Đây là quán-sát về Phật. Phật là bậc được trí-tuệ, hiểu biết hết thảy bằng các chính-xác (chính-trí). Đã có chính-trí, tất nhiên giác-ngộ hết thảy nghĩa tối-thắng của Pháp (ngộ được thắng-pháp). Ngộ được thắng-pháp tức là chứng-ngộ đệ-nhất nghĩa pháp-tính làm Vô-thượng pháp-thân của Phật, tức là thấy Phật. Nói cho dễ hiểu, muốn thấy Phật phải chứng được Chính-trí, có Chính-trí mới hiểu được bản-thể của sự-vật (pháp), hiểu được bản-thể sự-vật gọi là Pháp-tính, là Pháp-thân Phật, là thấy Phật.
Xét chung lại: muốn thấy được Nhân-Duyên phải quán-sát được những Pháp trong nhân-duyên; muốn thấy được Pháp, phải quán-sát được bản-thể của các pháp và muốn thấy được Phật, phải có chính-trí, chứng-ngộ bản-thể tối-thắng của các pháp, tức là Pháp-tính, thành Pháp-thân-Phật.
(14) Đây nói: có nhân là có duyên, không có nhân là không có duyên. Có cái này là có cái kia như thế, tức là bản-thể (tính) của sự-vật (pháp) như thế. Đã như thế, là thường hằng, không biến-đổi, sai-khác... thời dù Phật ra đời hay không ra đời nói pháp, sự-vật (pháp) vẫn như thế, nghĩa là Nhân thì Duyên.
(15) Đây nói: Mặc dầu nhân-duyên-pháp là lẽ thường hằng như thế, nhưng đứng trên phương-diện tạo-thành và liên-tục, nhân-duyên phải hợp với nhau (tương-ứng) mới được. Sự tương-ứng này có hai 1/ Nhân-tương-ứng: nhân hợp nhau với duyên mới thành 2/ Duyên-tương-ứng: duyên hợp nhau với nhân mới được. Trong Nhân và Duyên Tương-Ứng này phân-tích ra sẽ thành 4 loại: 1/ Ngoại Nhân-Duyên-Pháp, Nhân-Tương-Ứng: Nhân-tương-ứng, hợp với những pháp thuộc nhân-duyên ngoại-phụ. 2/ Ngoại-Nhân-Duyên-Pháp, Duyên-Tương-Ứng: Duyên-tương-ứng, hợp với những pháp thuộc nhân-duyên ngoại-phụ. 3/ Nội-Nhân-Duyên-Pháp, Nhân-Tương-Ứng: Nhân-tương-ứng, hợp với những pháp thuộc nhân-duyên nội-chính. 4/ Nội-Nhân-Duyên-Pháp, Duyên Tương-Ứng: Duyên-tương-ứng hợp với những pháp thuộc nhân-duyên nội-chính. Và trong 4 loại này, mỗi loại đều chia làm hai phần: phần công nhậncó sự tạo-thành nhân và phần phủ-nhận, vì mỗi pháp, không có tự-thể.
(16) Đây nói về phần tạo-thành nhân của ngoại-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng.
(17) Đây nói về phần không có tự-thể của ngoại-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng.
(18) Trên đây là quán-sát chung về 6 giới, tức là ngoại-nhân-duyên-pháp, duyên-tương-ứng. Sau sẽ quán-sát riêng từng giới một.
(19) Đây nói về sự tạo thành của 6 giới.
(20) Đây nói về phần không có tự-thể của 6 giới.
(21) Đây nói về sự viên-dung.
(22) Để ngăn-ngừa những ác-kiến mê-lầm, ngoài sự quán-sát nội, ngoại-nhân-duyên tương-ứng trên kia, cần quán-sát thêm 5 thứ quán-sát này.
(23) Đây nói về phần tạc-thành nhân của nội-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng.
(24) Đây nói về phần không có tự-thể của nội-nhân-duyên-pháp, nhân-tương-ứng.
(25) Ý nói về sự viên-dung.
(26) Trên đây là quán-sát chung về 6 giới. Sau đây quán-sát riêng từng giới một.
(27) Thức: là do 5 thức: nhãn-thức (mắt), nhĩ-thức (tai), tỵ-thức (mũi), thiệt-thức (lưỡi), thân-thức (thân-thể) hợp nhau cùng với ý-thức thứ 6 mà thành ra Danh (tâm) Sắc (hình-sắc: thân): "Thức" có nghĩa là phân-biệt rành-rẽ. Do phân-biệt tạo nghiệp phải lưu-chuyển sinh-tử, nên gọi là "Hữu-lậu ý-thức".
(28) Đây nói về phần tạo-thành nhân của 6 giới.
(29) Đây nói về phần không có tự-thể của 6 giới, vì chính nó không phải là: TA (thực-thể thường hằng, bất biến), Chúng-Sanh (sinh-loại qua nhiều sinh-tử). Mệnh-Giả (người tạo ra thân-mệnh), Sinh-Giả (người sinh-thành ra), Nho-Đồng (tức là tạo-vật chủ-tể, Nho-đồng như chữ "Hóa-nhi", ta thường gọi), Tác-Giả (người tạo-tác ra), Con Trai (đàn ông), Con Gái (đàn bà). Hoàng-Môn (người không phải đàn ông, không phải đàn bà). Tự-Tại (tự-do không bó buộc). Ngã-Sở (cái của ta).
(30) Nghĩa như trang 23 đã giải.
(31) Đoạn văn trên đây biện-minh về thể-tướng.
(32) Trên đây là giải-thích về danh-nghĩa.
(33) Bất-Động-Hành: Là sự hành-động trong Thiền-định của cõi Sắc và Vô-sắc. Và còn có nghĩa là hành-động trong sự im-lặng, không dao-động.
(34) Biện-minh sự tương-tục của 12 nhân-duyên.
(35) Trên đây nói về nhân-duyên là hỗ-tương và tương-tục, chứ không phải nhất-định là nhân hay nhất định là duyên, không phải định thường và không phải diệt hẳn, mà nó cứ thế làm nhân-duyên cho nhau, truyền tiếp mãi mãi.
(36) Điền-Tính: Nghiệp như mảnh ruộng, tạo-tác ra các chủng-tử (hạt giống).
(37) Đây giải-thích về tác-dụng của: vô-minh, ái, nghiệp, thức.
(38) Đây nói về phần không có tự-thể của bốn chi.
(39) Đây nói về duyên-vô-tác.
(40) Đây nói về quả-vô-tác.
(41) Nói tổng-quát tuy là không có tự-thể, không tạo-tác, nhưng hạt giống của thức, y vào ruộng nghiệp, được nước tham-ái, phẩn vô-minh tẩm-nhuận, sinh nở, nhân-duyên hòa-hợp, vào trong thai mẹ, kết thành hình-thể (mầm danh-sắc) và hình-thể ấy có ra sáu căn để tiếp nhập với sáu trần (lục-nhập) thành thân-tâm người thật sự.
(42) Đây thuộc về hiện-nghiệp, nhưng nói về sự tạo thành của nhãn-thức.
(43) Đây nói về phần không tự-thể và nghĩa viên-dung của năm duyên.
(44) Đây nói mặc dù không có tự-thể, nhưng nhân-duyên đầy-đủ, quả-báo cũng hiện.
(45) Đây là ví-dụ về sinh-nghiệp.
(46) Đây là ví-dụ về hậu-nghiệp.
(47) Đây là ví-dụ về bất-động-nghiệp.
(48) Đây nói: Cái thân do nghiệp-báo mà có này (báo-thân) gồm năm uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Báo-thân này đến khi mất đi, thời năm uẩn ấy cũng không còn. Đã không còn trong báo-thân trước, mà báo-thân sau có năm uẩn trong đó, sẽ không giống với báo-thân và năm uẩn trước. Nói rõ hơn, thân-tâm (danh-sắc) trước không giống với thân-tâm sau, gọi là "không thường còn".
(49) Đây nói: Tuy rằng báo-thân và năm uẩn trước diệt, nhưng không phải không có sự liên-lạc gì với báo-thân và 5 uẩn sau. Nó có sự liên-lạc với nhau trong khoảng thời-gian tích-tắc, như cán cân hơi cao, thấp một chút mà thôi, nên gọi là:không dứt đoạn". Nghĩa là vẫn có sự liên-lạc với nhau từng tích tắc, không dứt đoạn hẳn.
(50) Chúng-Đồng-Phận: Nghĩa là chúng-sinh (động-vật) đồng có cái nhân quả-báo tương-tự nhau. Đây nói báo-thân của loài động-vật sinh trong đời sau này, không phải là báo-thân của đời trước chuyển dời đến, vì, báo-thân đời trước diệt trong đời trước rồi, nên gọi là "không chuyển-dời".
(51) Đây nói: Nghiệp-nhân nhỏ, mà đến một thời khác nghiệp-nhân ấy thành-thục đạt tới kết-quả lại lớn hơn nhân trước, gọi là "cảm quả dị-thục lớn". Tỷ-dụ: một hạt cam trồng thành cây cam, khi cam có quả thành nhiều, chứ không phải có một hạt cam như trước.
(52) Xem trang 11 đã giải.
(53) Đây nói nên trừ bỏ sự mê-lầm trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai. Vì, nhân trong ba đời chỉ là giả-định, không có tự-thể: nhân-duyên-quá-khứ hòa-hợp thời thành quá-khứ, nhân-duyên vị-lai hòa-hợp thời thành vị-lai, nhân-duyên hiện-tại hòa-hợp thời thành hiện-tại. Quá-khứ giả-định và vô cùng, mê chi mà đi tìm về sự có sinh hay không sinh! Vị-lai cũng giả-định và vô-tận, mê chi mà đi tìm xem sinh ở chốn nào! Hiện-tượng (cái có) của hiện-tại phân-tích đến cực-để vô cùng, mê chi mà đi tìm-tòi!
(54) Sa-Môn, Bà-La-Môn: Sa-Môn đây không hẳn là chỉ cho các đệ-tử Phật đi xuất-gia, mà là danh-từ gọi chung cho những người tu-hành. Bà-la-môn là một giai-cấp trí-thức tối-cao của nước Ấn-Độ xưa, quản-chướng về lễ-nghi, văn-hóa.
(55) Những Tà-Kiến: 1/ Ngã-kiến: Tư-tưởng chấp cái thân do năm uẩn giả-hợp là cái TA có thực. 2/ Chúng-sinh-kiến: Tư-tưởng cố chấp chúng-sinh là có thực. 3/ Thọ-giả-kiến: Tư-tưởng cho thọ-mệnh của cái Ta này chỉ có một thời hạn là hết. 4/ Nhân-kiến: Tư-tưởng chấp có ta và người. 5/ Hy-hữu-kiến: Tư-tưởng kỳ-quái hiếm có. 6/ Cát-tường-kiến: Tư-tưởng xem về ngày, giờ tốt, xấu... 7/ Khai-hợp-kiến: Tư-tưởng khi có, khi không, hoặc nhiều, hoặc ít.
Đây nói: nên trừ bỏ hết các tà-kiến, như cây Đa-la đã đẵn gốc rồi không còn mọc chồi lên nữa. Và, nếu trừ bỏ được thế, mai sau sẽ chứng được pháp không sinh, diệt.
(56) Vô Sinh Pháp Nhẫn: Chân-như thực-tướng lý-thể, xa lìa sự sinh, diệt vậy. Chân-trí an-trụ nơi lý-thể ấy mà không động, là "vô sinh pháp nhẫn". Nói rõ hơn, chứng được pháp không sinh, diệt rồi, không tạo-tác, không sinh khởi ra các nghiệp-hành nữa.
(57) Xem kinh Quán-Âm thụ-ký đã giải rõ.
(Maratajjaniyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahamoggallana trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira, rừng Bhessakalavana, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahamoggallana đang đi kinh hành ngoài trời. Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Mahamoggallana, ở trong bao tử. Rồi Tôn giả Mahamoggallana nghĩ như sau: “Nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?” Rồi Tôn giả Mahamoggallana từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Mahamoggallana tự chánh tư niệm. Tôn giả Mahamoggallana thấy Ác ma, sau khi đi vào trong bụng, đang ở trong bao tử. Thấy vậy, Tôn giả liền nói với Ác ma:
– Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!
Rồi Ác ma suy nghĩ: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai, và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài”. Chính vị Bổn sư cũng chưa biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”
Rồi Tôn giả Mahamoggallana lại nói với Ác ma như sau:
– Này Ác ma, ta biết Ngươi. Đừng có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Ngươi là Ác ma. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!” Chính vị Bổn sư cũng không biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”
Rồi Ác ma suy nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta và nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài”. Rồi Ác ma từ miệng Tôn giả Mahamoggallana bước ra, và đứng dựa nơi cửa (miệng?). Tôn giả Mahamoggallana thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa thấy vậy, bèn nói Ác ma:
– Ác ma, ở đây, ta cũng thấy Ngươi. Ngươi chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không thấy ta”. Này Ác ma, nay Ngươi đang đứng dựa nơi cửa (miệng?). Này Ác ma, thuở xưa, ta là Ác ma tên là Dusi, và chị ta tên là Kali. Ngươi con trai chị ta. Như vậy Ngươi là cháu ta. Này Ác ma, lúc bấy giờ, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác có hai vị đệ tử tên là Vidhura, và Sanjiva, hai bậc tối thượng, hai bậc Hiền giả. Này Ác ma, đối với các vị đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác không một ai ở đây có thể bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô song). Còn Tôn giả Sanjiva là vị đi rừng, đi gốc cây, đi các chỗ không người và chứng Diệt thọ tưởng định không khó khăn gì. Này Ác ma, thuở xưa, Tôn giả Sanjiva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sanjiva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây, thấy vậy liền nói với nhau như sau: “Thật vi diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi. Chúng ta hãy hỏa táng Ngài!” Rồi này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành liền thâu lượm cỏ, củi và phân bò chồng lên thân Tôn giả Sanjiva, đốt lửa và bỏ đi. Này Ác ma, Tôn giả Sanjiva, sau khi đếm ấy đã tàn, liền xuất định, phủi áo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào làng khất thực. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sanjiva đang đi khất thực, thấy vậy liền nghĩ: “Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay được sống lại”. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Sanjiva được xưng danh là Sanjiva, Sanjiva.
Này Ác ma, rồi Ác ma Dusi nghĩ như sau: “Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này. Vậy nay ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ. “Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh như sau: “Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”. Và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con giả can trên bờ sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu... (như trên)... dại thiền. Ví như con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu... (như trên)... dại thiền. Ví như con lừa, gánh nặng được đặt xuống, đang tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”, và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền”. Này Ác ma lúc bấy giờ, phần lớn những người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, những Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dusi nhập vào và nói: “Hãy đến phỉ báng, mạ lỵ, thống trách và nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lụy, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”.
Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu hữu với hỷ... (như trên)..., biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.
Rồi này Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ không vắng, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu hữu với hỷ... (như trên)... biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Này Ác ma, rồi Mara Dusi suy nghĩ như sau: “Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến hay chỗ đi của các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh này. Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”.
Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”, Rồi này Ác ma, những Bà-la-môn gia chủ, bị Ác ma Dusi xâm nhập, tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusamdha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dusi xâm nhập và nói như sau: “Các Người hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Người tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”. Này các Tỷ-kheo, các Người hãy sống quán bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành”.
Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành.
Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất thực. Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào một đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu. Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa và suy nghĩ như sau: “Thật vậy, Ác ma Dusi không biết sự vừa phải”. Này Ác ma, khi Thế Tôn nhìn xung quanh, thì Ác ma Dusi liền từ chỗ ấy từ trần và sinh vào cõi địa ngục. Này Ác ma, địa ngục ấy được ba tên gọi: Sáu xúc xứ địa ngục, Thiết qua địa ngục, Biệt thọ khổ địa ngục. Rồi các người giữ địa ngục đến ta và nói như sau: “Này Tôn giả, khi cọc sắt sẽ gặp cọc sắt trong tim của Ngươi, Ngươi mới hiểu như sau: “Ta sẽ bị trụng nước sôi một ngàn năm ở địa ngục.” Và ta, này Ác ma, ta bị trụng nước sôi, trải nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục. Trải qua một vạn năm trong đại địa ngục ấy, ta bị nấu sôi và cảm thọ cảm giác gọi là Vutthanima. Do vậy, này Ác ma, thân của ta là như vậy, thân như con người, và đầu ta là như vậy, đầu như con cá.
Địa ngục ấy thế nào
Dusi bị nấu sôi
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt
Địa ngục là như vậy,
Dusi bị nấu sôi.
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
Dựng lên giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu.
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ Thọ,
Ai Thế Tôn khuyến khích,
Được chư Tăng chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Vijayanta!
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
Với ngón chân rung chuyển
Lâu đài Vijayanta?
Đầy đủ thần thông lực,
Chư thiên cũng hoảng sợ.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,!
Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayanta,
Hiền giả, Người có biết,
Chứng ái tận giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,
Ai từng hỏi Phạm thiên,
Tại hội chúng Thiện pháp,
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới?
Brahmà đã chân thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Tôn giả, tôi không chấp,
Các tà kiến thuở xưa!
Tôi thấy sự huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên ơi!
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!
Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao sơ đảnh,
Rừng Đông Videha,
Và người nằm trên đất,
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Thật sự lửa không nghĩ:
“Ta đốt cháy kẻ ngu”,
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
Cũng vậy, này Ác ma,
Ngươi đột kích Như Lai.
Tự mình đốt cháy mình
Như kẻ ngu chạm lửa,
Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
“Ác quả không đến ta”.
Điều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!
Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakala,
Vị Dạ xoa, thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.
KINH HÀNG MA, THỨ NĂM MƯƠI HẾT.
HẾT TẬP I
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________
>>> 49. Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh
Danh mục Đại Tạng Phật giáo Tây Tạng: Kangyur-Tengyur khoảng trên 5000 tên các tác phẩm Kinh Luận thuộc về truyền thừa Nalanda
Danh mục bao gồm 4 ngôn ngữ Tạng - Phạn (dạng Latin hóa) - Hoa - Việt
Đính kèm là 3 tập tin đã đươc trình bày theo các dạng:
1. Tạng-Phạn-Hoa-Việt
2. Phạn-Tạng-Hoa-Việt
3. Hoa-Tạng-Phạn-Viêt
Trình Bày Chung
Nam Mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
Nam Mô Đại Trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát
Nam Mô Đại bi Quán thế Âm Bồ-tát
Kính Ngưỡng chư Tổ và các Đại Thiện Tri Thức dòng truyền thừa Nalanda
Danh mục Kangyur-Tengyur này (tức danh mục các tác phẩm Phật giáo được lưu truyền từ truyền thốngPhật giáo Nalanda Ấn-độ hay một số khác có nguồn gốc từ Phật giáo Tây Tạng) có được do việc tổng hợp từ hai nguồn tài liệu Kangyur-Tengyur khác nhau. Sau đó, tên của từng tác phẩm Phật giáo lại được tra cứu xuyên qua nhiều loại từ điển Phật học để cuối cùng hoàn thành một danh mục tương đối đủ đi cùng với cách phiên âm của thuật ngữ Tạng. Danh mục Kangyur-Tengyur được biết là danh mục giáo pháp hay tác phẩm bao gồm cả Kinh và Luận cuối cùng và đầy đủ nhất của phẩm Đại thừa và Kim Cang thừa thuộc về truyền thống Nalanda.
Thuật ngữ Hán trích dụng từ hai từ điển chính:
1. Kho Dữ Liệu Số về Tam Tạng Kinh Điển -- Hán Tịch Toàn Văn Phật Điển Kinh Lục Tư Liệu do Hiệp Hội Phật Điển Điện Tử Trung Hoa Phát hành - http://jinglu.cbeta.org/
2. Tam Tạng Danh Điển Truy Cứu -- Hiệp Hội Các Nghiên Cứu Phật Học Trung-Tạng Bắc Mỹ - http://search.stbsa.org/tripitakaindex/
Về phiên âm Tạng – trong tài liệu này có dùng đến hai hệ thống phiên âm: Wylie và phiên âm khác của kho dữ liệu số Đàì Loan Cbeta cung cấp. Tuy nhiên, có nhiều phiên âm hoặc không tìm thấy trong hệ thống Wylie hoặc không tìm thấy trong hệ thống còn lại. Để phân biệt đâu là phiên âm Wylie đâu là phiên âm kiểu trung Hoa thì có thể nhận ra phiên âm Wylie không có các kí tự như ḥ, ṅ, và ā mà thay vào đó là các kí tự ‘, ng, và A.
Thuật ngữ Phạn, do hạn chế về ngôn ngữ, tài liệu này chỉ trình bày các tên tìm thấy và đã được chuyển định dạng sang hệ thống phiên âm dùng chữ Latin chuẩn. Tuy nhiên cũng còn nhiều tác phẩm không tìm thấy tên Phạn tương ứng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau chẳng hạn như tài liệu đã thất truyền hay tài liệu đó chỉ xuất hiện tại Tây Tạng mà không có tại Ấn ….
Theo sau một tên tác phẩm Tạng thường có từ một đến hai tên cách phiên âm. Tuy nhiên có khi không có đủ các dạng phiên âm.
Thuật ngữ Việt được dịch lại từ tên Hán. Tuy nhiên, các tên phiên âm có thể hoặc được truy chiếu lại tên gốc Phạn mà dịch ra hay được giữ nguyên tên Phạn ngữ. Việc làm này nhằm vào mục tiêu tránh dùng lối phiên âm của phiên âm Hán tự một cách không chính xác và không giúp truy cứu thêm gì được trên hệ thống Internet vốn có phiên âm Phạn Latin làm chuẩn mực. Các thuật ngữ được xem là tương tự hay tương đương sẽ được đặt vào trong ngoặc vuông và ngăn cách nhau qua các dấu phẩy ( ‘tên chính [tên tương đương 1, tên tương đương 2]’ ). Vì đây không phải là từ điển tra cứu nên các tên tương đương chỉ có tinh tương đối; có thể có tên tương đương khác mà vẫn không có mặt trong tài liệu này
Hình thức trình bày
Các tác phẩm Phật giáo sẽ được xếp theo bảng mẫu tự Anh ngữ. Có một số tác phẩm trùng tên hay chỉ là dị bản hay do có dịch giả khác đều có thể được lặp lại hay không.
Các tác phẩm có tên dị bản đôi khi được phân cách nhau qua dấu ‘/’ hay dấu ‘\’ Một số phiên âm của một tác phẩm nào đó, do nhận thấy có sự khác biệt so với tên chánh thì có khi được để vào trong dấu ngoặc.
Một số trường hợp về tên dịch do có độ khả tín chưa đủ tin cậy thì sẽ có các dấu ‘?’ đi kèm sau tên đó, dù rằng nhóm làm việc đã cố gắng đối chiếu, xin cẩn trọng ở mức cao trong trường hợp này.
Một số tác phẩm khác như đã nêu thiếu tên Phạn ngữ, thiếu phiên âm theo cách Wylie hay theo cách Hoa ngữ hay có khi ngay cả thiếu vắng tên Hoa ngữ. Trong khi đó, có nhiều tác phẩm không có tên dịch giả hay tác giả kể cả nguồn gốc Ấn (Pāḷi, Sanskrit) hay Tạng.
Thí Dụ:
Tham khảo:
1. Kho dữ liệu số về Tam tạng kinh điển -- Hán Tịch Toàn Văn Phật Điển Kinh Lục Tư Liệu do Hiệp HộiPhật Điển Điện Tử Trung Hoa Phát hành - http://jinglu.cbeta.org/
2. Tam Tạng Danh Điển Truy Cứu -- Hiệp Hội Các Nghiên Cứu Phật Học Trung-Tạng Bắc Mỹ - http://search.stbsa.org/tripitakaindex/
3. Hán-Việt Từ Điển -- Paris http://www.hanviet.org/
4. Từ Điển Ngôn Ngữ Nói Phạn-Anh http://spokensanskrit.de/
5. Từ Điển Phạn-Anh Monier Williams http://sanskritdictionary.com/
6. Anh-Hán Từ Điển http://www.tigernt.com/dict.shtml
7. Hán-Anh Từ Điển http://www.mandarintools.com/worddict.html
8. Từ điển Đa Ngữ http://vdict.com/
9. Nhiều Từ Điển Online khác bao gồm Wikipedia.org, Rigpa wiki, ...
Kết:
Ngoài ra chúng tôi có giữ bản Excel của danh mục Kangyur –Tengyur này bao gồm 4 thứ tiếng. Có hơn 5000 danh điển trong đó nhiều tác phẩm trùng tên hay cùng tác phẩm nhưng dịch nhiều lần. Nếu quý vị nào cảm thấy cần thiết xin liên lạc với chúng tôi theo địa chỉ điện thư đề cập dưới đây.
Rất mong và hoan hỉ được tiếp nhận bổ khuyết bất kì chỗ trống hay sai lạc nào và xin chân thành bái tạ.
Nếu Quý vị có điều chỉnh, thêm thắt hay đóng góp xin hoan hỉ email trực tiếp đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. để chúng tôi có thể thay đổi bản chính cho thống nhất. Xin tránh sự thay đổi tùy tiện có thể đem lại hậu quả không tốt cho việc định danh các tác phẩm Phật học.
Dù cố gắng hết sức nhưng chắc chắn còn thiếu sót nhiều. Kính mong quý thiện tri thức, quý dịch giả và học giả vui lòng cho biết ý kiến nếu thấy có gì không phù hợp.
Chân thành cảm tạ tất cả các đạo hữu đã góp sức hình thành tài liệu này cũng như tất cả thiện tri thức, dịch giả đã đóng góp công giữ gìn chánh pháp của đức Như Lai.
Ngày 24 tháng 12 năm 2013
Vi Trần Biên Soạn
(Brahmanimantanikasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn Ông Anathapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkattha trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tala vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: “Cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn”. Này các Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện ra tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Ta:
“– Hãy đến, Tôn giả, thiện lai Tôn giả, đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này không có một giải thoát nào khác hơn.
Khi nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với Phạm thiên Baka:
“– Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, khi cái vô thường lại nói là thường, cái không thường hằng lại nói là thường hằng, cái không thường tại lại nói là thường tại, cái không toàn diện lại nói là toàn diện, cái bị biến hoại lại nói là không biến hoại, và tại chỗ có sanh, có già, có chết, có diệt, có khởi, lại nói không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi; có một giải thoát khác hơn lại nói là không có một giải thoát nào khác hơn... ”
Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc và nói với Ta như sau:
“– Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chớ có can thiệp vào đây! Chớ có can thiệp vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm thiên này là Đại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Này Tỷ-kheo, thuở xưa có những Sa-môn, Bà-la-môn, ở đời phỉ báng địa đại, ghê tởm địa đại, phỉ báng thủy đại, ghê tởm thủy đại, phỉ báng hỏa đại, ghê tởm hỏa đại, phỉ báng phong đại, ghê tởm phong đại, phỉ báng chúng sanh, ghê tởm chúng sanh, phỉ báng chư Thiên, ghê tởm chư Thiên, phỉ báng Sanh chủ, ghê tởm Sanh chủ, phỉ báng Phạm thiên, ghê tởm Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, phải an trú vào thân ti tiện. Này các Tỷ-kheo, còn những Sa-môn, Bà-la-môn ở đời xưa kia, tán thán địa đại, hoan hỷ địa đại, tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy đại, tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa đại, tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại, tán thán chúng sanh, hoan hỷ chúng sanh, tán thán chư Thiên, hoan hỷ chư Thiên, tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ, tán thán Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, những vị này được an trú vào các thân vi diệu. Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này, ta nói như sau: “Phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy. Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này các Tỷ-kheo, nếu Ông đi quá xa lời Phạm thiên nói, thì giống như người dùng gậy đánh đập thần tài (Siri) đang đi đến; giống như một người đang rơi vào vực thẳm, tay chân lại không bám vào đất. Này Tỷ-kheo, sự việc sẽ xảy ra cho Ông như vậy. Này Tỷ-kheo, phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy, Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này Tỷ-kheo, Ông có thấy chúng Phạm thiên đang ngồi chăng?”
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dắt Ta đến chúng Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
“– Này Ác ma, Ta biết Ngươi. Chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Người là Ác ma. Này Ác ma, phàm là Phạm thiên, phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của Ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của Ngươi. Này Ác ma, nếu Ngươi nghĩ rằng: “Mong vị này nằm trong tay ta; mong vị này nằm trong quyền lực của ta!. Này Ác ma, Ta không nằm trong tay của Ngươi. Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm thiên Baka nói với Ta như sau:
“– Này Tôn giả, cái gì thường còn, ta nói là thường còn; cái gì thường hằng, ta nói là thường hằng; cái gì thường tại, ta nói thường tại; cái gì toàn diện, ta nói là toàn diện; cái gì không biến hoại, ta nói là không biến hoại. Ở đây, cái gì không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ta nói rằng cái ấy không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và vì không có một sự giải thoát nào khác hơn, ta nói là không có một sự giải thoát nào khác hơn. Này Tỷ-kheo, xưa kia có những Sa-môn, Bà-la-môn ở trong những đời trước Ông; những vị này đã tu hành khổ hạnh lâu dài cho đến trọn tuổi thọ của những người đó, những vị này phải biết:” Hoặc có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng có một sự giải thoát khác hơn; hoặc không có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng không có một sự giải thoát nào khác hơn”. Này Tỷ-kheo, ta nói như sau với Ông: Ông sẽ không thấy một giải thoát nào khác hơn, dầu ông có phải chịu đựng mệt nhọc và khổ cực. Này Tỷ-kheo, nếu Ông y trước địa đại, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ngoài lề; nếu Ông ý trước thủy đại... hỏa đại... phong đại... chúng sanh... Chư thiên... Sanh chủ... Nếu Ông y trước Phạm thiên, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ra ngoài lề.
“– Này Phạm thiên, Ta biết việc này. Nếu Ta y trước địa đại... thủy đại... hỏa đại... phong đại... chúng sanh... chư Thiên... Sanh chủ... Nếu Ta y trước Phạm thiên, Ta sẽ gần Ông, trú tại lãnh địa của Ông, làm theo ý Ông muốn, bị đứng ra ngoài lề. Lại nữa, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú (gati) của Ông và Ta biết sự quang vinh của Ông. Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy.
“– Này Tỷ-kheo, Như Ông biết sanh thú, Ông biết sự quang vinh của ta: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”.
“– Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của Ông.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu này và hữu kia,
Chỗ đến, đi hữu tình.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết chỗ sanh thú và sự quang vinh của Ông: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”. Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Này Phạm thiên, có loại chư Thiên tên là Abhassara (Quang âm thiên), từ chư Thiên này, Ông mạng chung, và sanh ở nơi đây. Nhưng vì Ông an trú ở đấy quá lâu, nên Ông không nhớ được. Do đó, Ông không biết, không thấy, còn Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm Thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông. Này Phạm thiên, lại có một loại chư Thiên tên là Subhakinna (Biến tịnh thiên)... lại có một loại chư Thiên tên là Vehapphala (Quảng quả thiên) mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy. Ta thù thắng hơn Ông. Này Phạm thiên, Ta biết địa đại từ địa đại, cho biết giới vức địa đại, Ta không lãnh thọ địa tánh; do biết địa đại, Ta không nghĩ: “Ta là địa đại. Ta ở trong địa đại, Ta từ địa đại, địa đại là của Ta, và Ta không tôn trọng địa đại”. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông. Này Phạm thiên, Ta biết thủy đại... Này Phạm thiên, Ta biết hỏa đại... Này Phạm thiên, Ta biết phong đại... Này Phạm thiên, Ta biết chúng sanh... Này Phạm thiên, Ta biết chư Thiên... Này Phạm thiên, Ta biết Sanh chủ... Này Phạm thiên, Ta biết Phạm thiên... Này Phạm thiên, Ta biết Abhassara (Quang âm thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Subhakinna (Biến tịnh thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Vahapphala (Quảng quả thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Abhibhu (Thắng giải)... Này Phạm thiên, Ta biết tất cả (Sabba) từ tất cả, cho đến giới vức tất cả, Ta không lãnh thọ nhứt thiết tánh, Ta không nghĩ: “Ta là tất cả, Ta ở trong tất cả, Ta từ tất cả, tất cả là của Ta, và Ta không tôn trọng tất cả”. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
“– Này Tôn giả, đối với tất cả, nếu Tôn giả không lãnh thọ nhất thiết tánh, thì đối với Tôn giả, trở thành trống không, trống rỗng, Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói sáng tất cả, nếu không thể lãnh thọ địa đại ngang qua đại tánh, không thể lãnh thọ thủy đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh ngang qua chúng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qua chư Thiên tánh, không thể lãnh thọ Sanh chủ ngang qua Sanh chủ tánh, không thể lãnh thọ Phạm thiên ngang qua Phạm thiên tánh, không thể lãnh thọ Quang âm thiên ngang qua Quang âm thiên tánh, không thể lãnh thọ Biến tịnh thiên ngang qua Biến tịnh thiên tánh, không thể lãnh thọ Quảng quả thiên ngang qua Quảng quả thiên tánh, không thể lãnh thọ Abhibhu (Thắng giả) ngang qua Abhibhu tánh, không thể lãnh thọ nhứt thiết ngang qua nhứt thiết tánh. Này Tôn giả, nay ta sẽ biến mất trước mặt Tôn giả.
“– Này Phạm thiên, hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Ông có thể biến được.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka nói:
“– Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama. Ta sẽ biến mất trước Sa-môn Gotama.
Nhưng Phạm thiên Baka không biến mất trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Phạm thiên Baka:
“– Này Phạm thiên, Ta sẽ biến mất trước mặt Ông.
“– Này Tôn giả, Tôn giả hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Tôn giả có thể biến được.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần thông như sau: “Hãy để cho Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc nghe tiếng Ta chớ không thấy Ta”, Ta biến mất và nói lên bài kệ như sau:
“Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu, tìm phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước”.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc, tâm sanh vi diệu hy hữu, nói lên như sau: “Thật vi diệu thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu thay, chư Tôn giả! Đại thần lực, đại uy lực của Sa-môn Gotama. Thật sự từ trước đến nay chưa từng thấy, chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có được đại thần lực, đại uy lực như Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ giòng họ Sakya. Đối với quần chúng ái trước hữu, lạc nhiễm, hoan hỷ đối với hữu (Sa-môn Gotama) đã nhổ hữu lên tận cả gốc rễ!”
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma sau khi nhập vào một trong Phạm thiên quyến thuộc đã nói với Ta như sau:
“– Này Tôn giả, nếu Ông biết như vậy, giác ngộ như vậy, chớ có hướng dẫn đệ tử, chớ có hướng dẫn các vị xuất gia, chớ có thuyết pháp cho các đệ tử, chớ có thuyết pháp cho các vị xuất gia, chớ có ái luyến đệ tử, chớ có ái luyến các vị xuất gia. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị này hướng dẫn đệ tử, hướng dẫn các vị xuất gia, thuyết pháp cho các đệ tử, thuyết pháp cho các vị xuất gia, ái luyến các đệ tử, ái luyến các vị xuất gia. Sau khi hướng dẫn các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi thuyết pháp cho các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi ái luyến các đệ tử, các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, những vị này bị an trú trong các thân hạ liệt. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời, tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị này không hướng dẫn đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia. Sau khi không hướng dẫn các đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho các đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, các vị này được an trú trong thân vi diệu. Này Tỷ-kheo, ta nói với Ông như sau: “Này Tôn giả, chớ có phiền lao cực nhọc, hãy sống lạc trú hiện tại. Này Tôn giả, chớ có nêu rõ việc thiện. Này Tôn giả, chớ có giảng dạy cho người khác!”
Này các Tỷ-kheo khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
“– Này Ác ma, Ta biết Ngươi! Ngươi chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Này Ác ma, Ngươi là Ác ma! Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, Ngươi nói như vậy không phải vì lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nói như vậy vì không có lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: “Những ai được Sa-môn Gotama thuyết pháp, những người ấy sẽ thoát ra ngoài tầm tay ảnh hưởng của ta”. Này Ác ma, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không phải Chánh Đẳng Giác, nhưng tự xưng là: “Chúng ta là Chánh Đẳng Giác”. Này Ác ma, Ta là Chánh Đẳng Giác và Ta tự xưng Ta là Chánh Đẳng Giác. Này Ác ma, Như Lai có thuyết pháp cho đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không thuyết pháp cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai có hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Vì sao vậy? Này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ưng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục; đưa đến sanh, già, chết trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây Tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Ác ma, ví như cây tala, dầu thân cây này bị chặt dứt, khiến không thể lớn lên được; cũng vậy, này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ứng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục, đưa đến sanh, già, chết, trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai”.
Như vậy, vì Ác ma đã thất bại, không thể thuyết phục (Ta), vì có lời mời Phạm thiên, nên bài trả lời này cũng được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh.
KINH PHẠM THIÊN CẦU THỈNH, THỨ BỐN MƯƠI CHÍN HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________
>>> 48. Kinh Kosambiya
CÓ NÊN DỊCH LẠI TÂM KINH HAY KHÔNG
Nguyễn Minh Tiến
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
Trước khi trình bày một vài ý riêng, tôi muốn kể lại một câu chuyệnmà có lẽ rất nhiều người đã biết
Xưa có bà lão tin theo Phật pháp nhưng chẳng học hành gì nhiều, chỉ chuyên tâm trì tụng duy nhất một câu chú, nhưng nhờ đó đã có được rất nhiều sự ứng nghiệm nhiệm mầu. Ngày kia, có vị tăng đi ngang qua, nhận ra trong câu chú của bà trì tụng có vài âm đọc bị sai, ông liền chỉ ra và dạy bà sửa lại. Từ đó về sau, mỗi lần trì chú đến những chỗ được sửa lại thì bà lão lại cứ phân vân, lẫn lộn, không biết phải đọc như thế nào mới thật là đúng. Thế rồi, những sự linh nghiệm mà bà từng đạt được trước kia giờ không còn nữa.
Tâm kinh Bát-nhã trước hết là một bài chú đối với rất nhiều người. Trong số hàng triệu Phật tử trì tụng Tâm kinh trong thời khóa công phu mỗi ngày của mình, không phải ai cũng hiểu thấu suốt được ý nghĩa của từng câu chữ. Trong thực tế, số người trì tụng Tâm kinh mỗi ngày nhưng khônghiểu ý nghĩa Tâm kinh còn có thể chiếm đại đa số, và tôi đã nghe rất nhiều người gọi đây là "chú Bát-nhã" thay cho tên gọi Tâm kinh. Ngài Cưu-ma-la-thập khi chuyển dịch Tâm kinh cũng đặt tiêu đề là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh[摩訶般若波羅蜜大明咒經].
Bài viết này sẽ đề cập đến 2 vấn đề: Thứ nhất, có nên dịch lại Tâm kinh hay không, và thứ hai,Tâm kinh đã được dịch lại như thế nào. Người viết sẽ giới hạn trong phạm vi nhận hiểu từ chính bài viết của thầy Nhất Hạnh trên trang Làng Mai và không dựa vào những ý kiến trái chiều hiện đang lưu hành ở nhiều nơi trên mạng Internet.
1. Có nên dịch lại Tâm kinh hay không?
Câu hỏi này đã được chính thầy Nhất Hạnh giải đáp trong phần "Lý do tại sao phải dịch lại Tâm kinh". Ở đây, chúng ta chỉ cần đọc lại những lý do thầy đã nêu ra để xem đó có phải là những lý do thuyết phục hay không mà thôi. Thầy đã nêu rõ lý do rất ngắn gọn là:
" Sở dĩ Thầy phải dịch lại Tâm kinh, vì vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không đủ khéo léo trong khisử dụng ngôn từ; do đó, đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại."
Như vậy, theo thầy Nhất Hạnh thì lý do phải dịch lại là vì bản Tâm kinh hiện nay đã được dịch với sự "không đủ khéo léo trong khi sử dụng ngôn từ", hay nói ngắn gọn và dễ hiểu hơn là "diễn đạt vụng về" và do sự"diễn đạt vụng về" đó nên "đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại".
Thật ra chưa từng có vị tổ sư nào biên tập Tâm kinh cả! Có đến 8 bản Hán dịch Tâm kinh từ Phạn ngữ, hiện còn giữ được 7, đã mất đi 1, và bản dịch mà hầu hết Phật tử ngày nay đang trì tụng là bản dịch của ngài Huyền Trang. Theo những câu chữ được trích dẫn thì có phần chắc chắn là thầy Nhất Hạnh đang đề cập đến bản dịch này. Nhưng trong các tạng kinh khác nhau qua nhiềuthời đại như Vĩnh Lạc, Càn Long, Đại Chánh... đều khắc rõ tên ngài Huyền Trang là người dịch, không hề thấy nói đến việc biên tập.
Trong phần tiếp theo, thầy Nhất Hạnh đưa ra dẫn chứng về "sự diễn đạt vụng về" của ngài Huyền Trang cũng như việc "đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại". Luận chứng của thầy dựa trênmột số điểm sau đây:
Thứ nhất, thầy kể lại câu chuyện về chú sa-di bị kéo mũi (mời xem tại đây), qua đó thầy cho rằng chú sa-di đã "bị kẹt vào những cái như “không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi…”", và lý dolà vì "vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không thêm vào bốn chữ không có, không không ngay sau bốn chữ không sinh, không diệt".
Thật ra, vị thiền sư trong câu chuyện này đã nhận ra cách hiểu của chú sa-di về chữ "không" trong Tâm kinh là sai lệch, nên việc ngài kéo mũi chú thật đau là để chú phải nhận ra rằng Tâm kinh không hề phủ nhận sự hiện hữu của các pháp trong thế giới hiện tượng. Việc nhận hiểu sai lầm chữ "không" trong câu mở đầu của Tâm kinh sẽ dẫn đến việc hiểu sai các ý kinh tiếp theo, bởi "tánh Không" được đề cập trong kinh với "sự trống không, không tồn tại" là hoàn toàn khác nhau. Do chú sa-di đã hiểu sai nên cho rằng "không có cái mũi",và vị thiền sư kéo mũi chú là để nhắc chú rằng "cái mũi vẫn thật có đó".
Như vậy, sai lầm của chú sa-di làm sao có thể quy cho là do "sự vụng về" trong bản dịch Tâm kinhcủa ngài Huyền Trang? Và việc trách ngài Huyền Trang "đã không thêm vào bốn chữ không có, không không" cũng không hợp lý, vì như đã nói, ngài là người dịch kinh chứ không phải biên tập. Người dịch chỉ có quyền chuyển dịch những gì có trong nguyên tác, việc tự ý thêm vào những gì không có trong nguyên tác sẽ là một việc làm sai trái, phản bội nguyên tác. Và khi nguyên tác là một bản kinh văn thì điều này lại càng tối kỵ.
Câu chuyện thứ hai cũng được đưa ra nhằm mục đích như trên, nhưng người khai thị là Tuệ Trung Thượng Sĩ, một vị thiền sư cư sĩ Việt Nam lỗi lạc vào đời Trần, và người được khai thị là một vị tăng. Trong câu chuyện này, Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng nhận ra được việc vị tăng nhận hiểu sai lệch về nghĩa "không" trong Tâm kinh, nên ngài đã cảnh tỉnh bằng cách đưa ra một phát biểu ngược lại "không chẳng phải sắc, sắc chẳng phải không". Tất nhiên, những trường hợp tùy căn cơ để phá chấp như vậy thì không thể dựa vào đó để cho rằng Thượng Sĩ "đã động tới cáicông thức "sắc tức thị không, không tức thị sắc" linh thiêng, bất khả xâm phạm của nền văn họcBát-nhã", càng không thể lấy cách nhìn của người ngoài cuộc để cho rằng Thượng Sĩ "đã đi quá đà" trong việc khai thị cho người trong cuộc. Chỗ này, thầy Nhất Hạnh đưa ra nhận xét:
"Thượng sĩ chưa thấy được rằng cái lỗi không nằm ở công thức "sắc tức thị không" mà nằm ở chỗvụng về nơi câu "Thị cố không trung vô sắc"."
Thật khó để có thể biết được rằng Tuệ Trung Thượng Sĩ đã "thấy được" hay "chưa thấy được", nhưng đối với"chỗ vụng về nơi câu "Thị cố không trung vô sắc" thì mỗi chúng ta có thể nhận biếtđược. Bản dịch của ngài Huyền Trang có thực sự "vụng về" hay không thì quãng thời gian 14 thế kỷ từ lúc nó ra đời đến nay, trải qua nhiều thế hệ độc giả nối tiếp nhau sử dụng, có lẽ cũng đã quá đủ để nhận ra. Hơn thế nữa, bản dịch này được chấp nhận bởi một tuyệt đại đa số người sử dụng, vượt trên 6 bản dịch khác, trong đó có cả bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, một cao tăngẤn Độ đã đến Trung Hoa và trở thành một đại dịch giả, đóng góp rất lớn cho sự nghiệp chuyểndịch Kinh điển. Điều đáng chú ý hơn nữa là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập có nhiều chỗ khác với bản dịch của ngài Huyền Trang, nhưng riêng ở câu kinh "bị chê" là vụng về này thì cả hai bản đều giống hệt nhau: Thị cố không trung vô sắc... (是故空中無色). Hóa ra hai vị đều "vụng về" như nhau, và tất cả những dịch giả khác thì còn kém hơn cả mức độ "vụng về" này.
Để tiếp tục chứng minh cho việc "đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại" của bản dịch Tâm kinh, thầy Nhất Hạnh viết:
"Cái mũi của sư chú còn đau tới bây giờ là vì sự vụng về này. Cho đến bài kệ kiến giải tương truyền là của tổ Huệ Năng cũng bị kẹt vào ý niệm vô đó: "bản lai vô nhất vật!"
Tôi lấy làm lạ vì không biết vô tình hay cố ý mà luận chứng này của thầy Nhất Hạnh đã mắc vào một lỗi cấu trúc hết sức tế nhị. Trong mệnh đề thứ nhất, thầy tiếp tục quy lỗi cho sự nhận hiểu sai lệch của chú sa-di là do "sự vụng về" của bản dịch Tâm kinh. Trong mệnh đề thứ hai, thầy chuyển qua phê phán "tổ Huệ Năng cũng bị kẹt vào ý niệm vô đó". Nhưng thay vì trình bày 2 vấn đề là tách biệt và hoàn toàn không liên quan đến nhau, thầy lại sử dụng một cụm từ liên kết "cho đến... ... cũng... đó" khiến người đọc không khỏi rơi vào sự liên tưởng nhầm lẫn rằng đây là hai trường hợp liên quan đến nhau, và do đó sẽ hiểu rằng ngài Huệ Năng"kẹt vào ý niệm vô" cũng là do "sựvụng về đó của Tâm kinh". Sự liên kết này càng thêm rõ rệt khi thầy đưa ra hai câu thơ để kết ý đoạn này:
"Thật là:
Một áng mây qua che cửa động
Bao nhiêu chim chóc lạc đường về.”
Theo mạch tư duy thông thường, cả đoạn văn trên dẫn người đọc đến một liên tưởng hết sức rõ ràng rằng trong số "bao nhiêu chim chóc lạc đường về" đó có sự hiện diện của chú sa-di bị kéo mũi, vị tăng tham vấn ngài Tuệ Trung và Lục tổ Huệ Năng.
Ngài Huệ Năng sinh cùng thời và nhỏ hơn ngài Huyền Trang khoảng 38 tuổi. Ngài đọc bài kệ "bản lai vô nhất vật" này sau 8 tháng đến chùa Đông Thiền xin học với Ngũ Tổ. Năm đó ngài chỉ vào khoảng 23 tuổi, lại xuất thân là một người đốn củi thất học, mù chữ nên không thể đọc qua bản dịch Tâm kinh của ngài Huyền Trang (lúc đó thậm chí còn có thể chưa được lưu hành). Nhưng ngay cả cho dù ngài Huệ Năng có học được Tâm kinh từ người khác, thì việc quy lỗi cho bản dịchTâm kinh trong trường hợp này cũng hoàn toàn vô lý. Hơn thế nữa, chúng ta cần đặt lại vấn đề là ngài Huệ Năng có thật sự "bị kẹt vào ý niệm vô" hay chăng? Và nếu điều này là đúng, thì thật buồn thay vì chính Ngũ Tổ cũng là người "có mắt không tròng" khi đã vội vàng trao truyền mạng mạch Phật pháp cho một kẻ rơi vào "chấp không". Bài kệ của ngài Huệ Năng xuất hiện trong bối cảnh sau khi đọc bài kệ của ngài Thần Tú và là căn cứ để Ngũ Tổ quyết định chọn ngài làm người được truyền y bát làm Tổ thứ sáu. Để bàn đến hai bài kệ này, chúng ta cần đến cả một chương sách chứ không chỉ là vài dòng ngắn ngủi trong một bài viết. Quý vị quan tâm đến sự kiện này có thể đọc thêm ở đây.
Vấn đề niên đại dường như cũng cho chúng ta thấy một nhận xét chủ quan khác của thầy Nhất Hạnh về ngài Huyền Trang trong bài viết này. Thầy viết:
"Tâm kinh Bát-nhã ra đời muộn khi tín ngưỡng mật giáo đã bắt đầu thịnh hành. Vị tổ sư biên tậpTâm kinh đã muốn tín đồ Mật giáo đọc tụng Tâm kinh, nên trong đoạn cuối đã trình bày Tâm kinhnhư một linh chú."
Lịch sử ghi nhận vị Tổ sư hình thành Mật giáo tại Trung Hoa là ngài Bất Không (Amoghavajra), cho dù trước đó có các vị Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí truyền bá giáo pháp Mật tông, nhưng phải sau khi ngài Bất Không thỉnh về một số lượng lớn kinh điển và chuyển dịch sang Hán ngữ thì Mật tông mới bắt đầu phát triển mạnh. Ngài sinh năm 705 và mất năm 774, trong khi ngài Huyền Trang sinh năm 596 và mất năm 664. Khi ngài Huyền Trang dịch (chứ không phải biên tập) Tâm kinh thì ngài Bất Không chưa ra đời. Và ngài Huyền Trang cũng không "trình bày Tâm kinh như một linh chú", bởi câu chú cuối cùng không dịch là nằm trong nguyên tắc "ngũ chủng bất phiên" của chính ngài đề ra, không liên quan gì đến việc "muốn tín đồ Mật giáo đọc tụng Tâm kinh" (vào một thời điểm chưa có Mật giáo!)
Và điều này dường như cũng rất có khả năng tạo ra một sự liên tưởng sai lầm cho người đọc. Bởi nếu như quả thật người "biên tập" Tâm kinh đã cố ý hướng đến "các tín đồ Mật giáo" thì việc dịch lại để có một bản dịch khách quan hơn sẽ là hết sức cần thiết.
Như vậy, những lý do mà thầy Nhất Hạnh đưa ra để "phải dịch lại Tâm kinh" là hoàn toàn chủ quan và không đủ thuyết phục. Thầy đã phê phán bản dịch Tâm kinh là "vụng về" nhưng khôngchứng minh được sự vụng về đó, cũng tương tự như thầy phê phán Tuệ Trung Thượng Sĩ là "quá đà" nhưng không đưa ra luận điểm nào để chứng minh sự "quá đà" đó, và phê phán Lục Tổ Huệ Năng là người "kẹt vào ý niệm vô" nhưng cũng không đưa ra được điều gì để chứng minh cho sự "chấp không" này.
Vậy có những lý do nào để "không cần phải dịch lại Tâm kinh" hay không? Thứ nhất, sự tồn tại và chọn lọc qua thời gian hơn 14 thế kỷ đã quá đủ để nói lên giá trị của bản dịch Tâm kinh. Thứ hai, như đã nói từ đầu, Tâm kinh đối với rất nhiều người vốn là một bài chú, vì nó được trì tụng vớiniềm tin nhiều hơn sự phân tích, quán chiếu. Tuy rằng những người này không thực sự nhận được hết những lợi ích nhiệm mầu vô hạn của Tâm kinh là giải thoát rốt ráo, nhưng họ vẫn cóđược những lợi ích nhất định từ sự ươm mầm trí tuệ qua từng câu chữ của Tâm kinh.
Bản thân tôi là một ví dụ. Thuở nhỏ, tôi đã thuộc lòng Tâm kinh qua những lần theo mẹ lên chùatụng kinh buổi tối, nhưng thực sự không hiểu được chữ nào trong đó cả. Lớn lên, tôi mới bắt đầutìm hiểu ý nghĩa Tâm kinh, và những ý niệm như "sắc tức thị không, không tức thị sắc" vẫn ăn sâu trong tiềm thức, thỉnh thoảng lại lóe sáng để soi chiếu vào những luận giải mà tôi học được trong đời sống. Hai mươi năm, rồi ba mươi, bốn mươi, năm mươi năm qua... mỗi ngày tôi càng hiểu được nhiều hơn và sâu sắc hơn về ý nghĩa của những câu kinh, dù tự biết mình vẫn chưa hiểu được là bao nhưng đã thực sự nhận được vô vàn lợi ích từ chỗ hiểu hạn hẹp đó.
Từ sự trải nghiệm này của bản thân, tôi tin rằng việc dịch lại Tâm kinh chưa thấy được lợi ích gì, nhưng ảnh hưởng đến những "lão bà" đã từ lâu trì tụng Tâm kinh là điều có thể xảy ra. Đặc biệt, điều này có thể tác động khá mạnh đến lớp người trẻ tuổi, giàu tri thức nhưng chưa vững niềm tin. Qua sự việc "dịch lại Tâm kinh" này, rất có thể nhiều người trong số họ rồi sẽ tiếp cận Tâm kinh theo cách "soi mói" hơn là "soi chiếu".
2. Tâm kinh đã được dịch lại như thế nào?
Câu trả lời cũng đã nằm trong bài viết của thầy Nhất Hạnh. Sau khi nêu ra những "vụng về" và "sai lầm" như đã nói ở phần trên, thầy viết:
"Cũng vì vậy mà trong bản dịch mới này, Thầy đã đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Phạn và bản dịch chữ Hán của thầy Huyền Trang."
Như vậy, chúng ta có thể hiểu là không phải thầy "dịch lại Tâm kinh", mà thầy đã "viết lại một bản Tâm kinh mới", bởi vì thầy "đã đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Phạn".
Nếu thầy muốn thay đổi cách diễn đạt để "khéo léo hơn" và tránh đi "sự vụng về" như trong bản dịch của ngài Huyền Trang, thì điều đó hoàn toàn là quyền của thầy, tuy rằng việc chấp nhận bản dịch ấy hay không lại là quyền của người đọc. Nhưng nếu thầy "đã đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Phạn" thì không thể gọi đó là một "bản dịch" được nữa, vì đó là một sự lệch lạc và cố ý gây hiểu lầm cho người đọc. Chẳng hạn, tôi không thể dịch lại "Romeo and Juliet" của William Shakespeare và "đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Anh" rồi gọi đó là một bản dịch mới được.
Dựa vào những gì thầy đã viết, nếu muốn diễn đạt một cách thật rõ ràng để không gây hiểu lầmcho người đọc thì nên viết lại là: "Bản Tâm kinh trong Kinh tạng rất vụng về và gây nhiều hiểu lầmtai hại qua nhiều thời đại, nên thầy đã viết lại một bản Tâm kinh mới".
Trong trường hợp đó, người đọc đã được thông tin một cách đầy đủ và trung thực về bản "kinh mới" này, và họ có toàn quyền lựa chọn đặt niềm tin nơi thầy Nhất Hạnh hay nơi ngài Huyền Trang, hay phải nói chính xác hơn là lựa chọn giữa việc tin vào thầy Nhất Hạnh hay tin vào Đức Phật, người đã thuyết giảng Tâm kinh"cũ".
Tuy nhiên, cho dù sự biện giải rõ ràng buộc chúng ta phải hiểu như thế, nhưng khi đăng tải thầyNhất Hạnh vẫn gọi nó là một "bản dịch Tâm kinh mới". Vì thế, chúng ta hãy thử xem qua đôi dòng trong "bản dịch mới" này để xem Tâm kinh đã được "dịch lại" như thế nào. Câu đầu tiên của "bản dịch mới" này như sau:
"Bồ-tát Avalokiteśvara, trong khi quán chiếu sâu sắc với tuệ giác qua bờ, bỗng khám phá ra rằng tất cả năm uẩn đều trống rỗng, tất cả đều là cái không. Giác ngộ điều ấy xong, bồ-tát vượt quađược mọi khổ đau ách nạn.
Có chút gì đó dường như không nhất quán với phong cách của thầy Nhất Hạnh mà tôi từng được biết qua cách dùng "chư Bụt" cũng được thấy ngay trong bài viết này. Là người giỏi chữ Hán, chắc thầy thừa biết một kết hợp "Hán-Nôm" như thế là một sự phá cách. Dù vậy, thầy vẫn dùng, có lẽ vì muốn Việt hóa cho gần gũi hơn với đa số người Việt, và tôi cũng hoan nghênh tinh thầnnày, cho dù bản thân tôi đã "lỡ quen" với cách dùng "Chư Phật" nên không thể đổi lại giống như thầy.
Nhưng từ danh xưng "Quán Tự Tại Bồ Tát" hay "Bồ Tát Quán Tự Tại" mà ngay lập tức chuyển sang " Bồ-tát Avalokiteśvara" thì e rằng thầy đã làm khó cho rất nhiều người học Phật theo kiểu "lão bà" như tôi. Và tại sao đang trên đà Việt hóa các danh xưng, thầy lại bỗng dưng quay hẳn sang Phạn hóa?
Tôi chưa đủ nhân duyên học nhiều tiếng Phạn, cho dù tôi vẫn nhớ mãi một lần trò chuyện với thầy Tuệ Sỹ, thầy đã hết sức khuyến khích tôi học tiếng Phạn. Và vì chưa đủ vốn tiếng Phạn để đọc trực tiếp Phạn bản Tâm kinh, nên tôi đành phải dựa vào các bản Hán ngữ để so sánh với "bản dịch mới" của thầy Nhất Hạnh ở đây. Bản dịch Hán văn của ngài Huyền Trang viết:
“Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” (觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄。)
Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch sang tiếng Việt là:
"Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt quamọi khổ ách."
Câu kinh gãy gọn như một lời tuyên bố chứng ngộ, bao gồm pháp môn tu tập (hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa) và kết quả tu tập (độ nhất thiết khổ ách).
Nổi bật lên trong "bản dịch mới" khi đưa ra so sánh là các liên từ được thêm vào "trong khi... bỗng..." khiến người đọc có cảm giác đây là một sự kiện bất ngờ đã xảy ra vì một lý do nào đó, thay vì là mối quan hệ tất yếu giữa "hành thâm", "chiếu kiến" và "độ nhất thiết khổ ách". Chính điều này làm cho câu kinh không còn mang tính dứt khoát, rõ ràng nữa, mà trở thành một sự kiệndàn trải, mang tính tuần tự. Điều này càng bộc lộ rõ hơn khi mệnh đề cuối được tách ra thành một câu riêng biệt và viết lại là: "Giác ngộ điều ấy xong, bồ-tát vượt qua được mọi khổ đau ách nạn."
Như vậy, cảm nhận đầu tiên của tôi khi đọc câu đầu tiên của "bản dịch mới" là đã mất hẳn đi tính chất gãy gọn và chính xác. Nói cách khác, ý tưởng không có gì mới nhưng cách diễn đạt với những "thêm thắt" đã làm cho câu kinh trở nên quá rườm. Chỉ riêng 4 chữ "ngũ uẩn giai không" đã được dịch thành "tất cả năm uẩn đều trống rỗng, tất cả đều là cái không". Trong khi đó,Hòa thượng Trí Thủ dịch là "năm uẩn đều không" đâu có gì sai, đâu có gì thiếu?
Bài viết này sẽ rất dài dòng nếu phải xem xét đến từng chi tiết trong "bản dịch mới", và điều đó cũng không giúp đưa ra một nhận định khác hơn. Vì thế, tôi sẽ đề cập đến một câu duy nhất nữa thôi, chính là câu có thể xem là "cốt lõi" của "bản dịch mới", bởi thầy Nhất Hạnh cho rằng ngàiHuyền Trang đã "vụng về" khi không "thêm vào bốn chữ" như vừa nói trên. Vì vậy, chúng ta cầnxem lại câu kinh khi đã "thêm vào bốn chữ" và dịch lại theo ý thầy sẽ như thế nào:
"Này Śāriputra, tất cả mọi hiện tượng đều mang theo tướng không, không hiện tượng nào thực sự có sinh, có diệt, có có, có không, có dơ, có sạch, có thêm và có bớt."
Nguyên văn bản dịch chữ Hán của ngài Huyền Trang là:
"Xá-lợi tử! Thị chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm." (舍利 子!是諸法空相,不生不滅,不垢不淨,不增不減。)
Hòa thượng Trí Thủ dịch như sau:
" Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt."
Khi so sánh với "bản dịch mới", chúng ta có thể nhận ra ít nhất là 3 điểm khác biệt:
Thứ nhất, "chư pháp không tướng" (tướng không của các pháp), thầy Trí Thủ dịch là "tướng không các pháp", trong "bản dịch mới" được diễn dịch là " tất cả mọi hiện tượng đều mang theo tướng không".
Vì hiện tượng "mang theo" tướng không, nên người đọc đương nhiên phải hiểu rằng "tướng không" và "hiện tượng" là hai thực thể riêng biệt, khác nhau. Tôi "mang theo" cái túi xách thì tất nhiên tôi không phải cái túi xách, cái túi xách không phải là tôi, tôi và túi xách là hai thực thể khác biệt nhau...
Nhưng thực tế không phải vậy. Kinh văn không nói như thế, mà nhiều bản luận giải về tánh Khôngcũng không nói như thế. Ở đây, "tướng không của các pháp" không phải một đối tượng nằm ngoài các pháp để có thể "mang theo", mà đó là thực tướng vốn có của các pháp, sẽ hiển lộ dưới sự quán chiếu của vị Bồ Tát "hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa". Vì thế, điểm thêm vào này chỉ có "lạ" mà không có "lợi". Nó làm cho người đọc hiểu sai ý nghĩa Kinh văn.
Thứ hai, cấu trúc diễn đạt đã thay đổi. Trong bản Hán văn liên tục lặp lại các chữ "bất" trong một câu kinh rất ngắn, tạo ra cảm giác phủ nhận hoàn toàn, dồn dập và mạnh mẽ. Hòa thượng Trí Thủđã trung thành với thủ pháp này của nguyên bản nên lặp lại những chữ "chẳng" ở cùng vị trí. "Bản dịch mới" không dùng cấu trúc này, mà thay vì vậy chỉ đặt một chữ "không" duy nhất ở trước để làm nhiệm vụ phủ nhận tất cả các yếu tố theo sau. Cấu trúc phủ định này tuy vẫn có thể hiểu được nhưng đã đánh mất đi tính chất mạnh mẽ và triệt để, dứt khoát vốn có trong nguyên bản. Hơn thế nữa, sáu yếu tố được nêu thành ba cặp (sinh-diệt, dơ-sạch, thêm-bớt...) trong nguyên bản hoàn toàn không có nghĩa là "chỉ có chừng đó". Chúng được nêu lên thành chuỗi liên tục để chuyển tải một hàm ý rộng hơn là phủ nhận tất cả các cặp giá trị phạm trù đối đãi khác nữa trongnhận thức của các giác quan. Vì thế, chúng ta hoàn toàn có thể nối dài các cặp giá trị phạm trù đối đãi này ra đến vô tận trong thế giới hiện tượng này, chẳng hạn như cao-thấp, trắng-đen, dài-ngắn, tốt-xấu, yêu-ghét... và đây chính là chỗ cần nêu thêm ở điểm thứ ba.
Thứ ba, "bản dịch mới" quả thật đã thêm vào "bốn chữ" như đã nói ở đoạn trước. Tuy nhiên, trong phần nói về "Lý do phải dịch lại Tâm kinh" thì thầy đề nghị "thêm vào bốn chữ không có,không không ngay sau bốn chữ không sinh, không diệt", nhưng khi bắt tay vào "bản dịch" thì thầy đã đổi ý, nên với cấu trúc mới này thì thầy đã thêm vào những chữ "có có, có không" và sử dụngchữ "không" đặt trước chúng để "phủ định từ xa"như đã nói ở điểm trên. Điều đặc biệt cần lưu ý ở đây là thầy đã thêm vào chữ "và" trong cấu trúc liệt kê này, nên câu kinh trở thành "... ... có thêm và có bớt."
Chữ "và" được thêm vào đã giết chết hàm ý kéo dài của câu kinh như tôi vừa nói ở điểm trên. Vì không thể liệt kê tất cả các phạm trù giá trị đối đãi, nên kinh văn chỉ nêu ra ba cặp (sinh-diệt, dơ-sạch, thêm-bớt...), nhưng xưa nay người đọc Tâm kinh ai ai cũng hiểu được. Chúng ta không thểquán chiếu ý nghĩa "không dơ không sạch" rồi lại chấp nhận cho là bền chắc, thường hằng đối với các cặp giá trị khác như dài-ngắn, tốt-xấu, vinh-nhục... chỉ vì Tâm kinh đã không liệt kê chúng vào. Trong ý nghĩa đó, việc thêm vào "bốn chữ" như thầy Nhất Hạnh đã làm là không cần thiết, vì "bốn chữ" đó cũng không đủ lấp đầy cái hàm ý còn kéo dài vô tận của Kinh văn. Ngược lại, việc thầy thêm chữ "và" vào cuối cấu trúc liệt kê đã tạo ra ý nghĩa "khóa chặt"câu kinh lại, vì nó hàm ý rằng "kể ra như vậy đến đây là hết rồi".
Thay lời kết
Đến đây, tôi tin là độc giả đã có đủ căn cứ để tự trả lời cho hai câu hỏi được nêu ra: "Có nên dịch lại Tâm kinh không?" và "Tâm kinh đã được dịch lại như thế nào?" Điều băn khoăn của tôi khi viết đến đây là cho dù hết sức cố gắng nhưng tôi đã không thể nào trình bày những vấn đề trên một cách ngắn gọn hơn nữa. Vì thế, mong rằng quý độc giả có thể lượng thứ cho về những ý tưởngrườm rà nào đó mà quả thật tôi đã không đủ sức nhận ra để cắt bỏ.
Trước khi viết bài này, tôi đã có một vài trao đổi với anh Quảng Minh (hiện cư trú tại Hoa Kỳ và là người vừa dịch và xuất bản sách Đại thừa Trang nghiêm Kinh luận). Qua đó mới biết anh có để lại một số nhận xét ở trang Thư viện Hoa Sen sau khi đọc bản "dịch lại" Tâm kinh. Tôi hết sức khâm phục sự kiên nhẫn của anh khi ngay sau sự kiện "dịch lại Tâm kinh", anh đã miệt mài mang các bản dịch Tâm kinh khác nhau trong Hán tạng ra Việt dịch tất cả, với tâm nguyện qua đó có thể giúp người đọc so sánh và khẳng định lại giá trị bản dịch của ngài Huyền Trang. Nhờ đó, hiện nay quý độc giả đã có thể xem bản dịch tiếng Việt của tất cả các bản Tâm kinh khác nhau tại đây..
Tôi cũng đã trao đổi với nhiều vị thân hữu, thiện tri thức khác, trong đó có Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là người tôi rất quý trọng qua việc anh đã nhiều năm kiên trì truyền bá những lời Phật dạy một cáchhết sức hiệu quả bằng những quyển sách cũng như các bài nói chuyện trước công chúng của anh. Là người "ở ẩn", tôi không có điều kiện tiếp xúc với nhiều bạn trẻ cũng như các trí thức Phật tử như anh. Vì thế, chỉ khi trò chuyện với anh qua điện thoại, tôi mới được biết nhiều hơn về "sự kiện dịch lại Tâm kinh" cũng như những phản ứng, ý kiến trái chiều nhau của Phật tử các giới. Anh đã nói rất thân mật nhưng cũng hết sức dứt khoát với tôi: "Em phải viết một bài để bày tỏ ýkiến, giúp các bạn trẻ bớt đi sự hoang mang." Thú thật, lời khuyên của anh như"giọt nước tràn ly" để tôi quyết định viết ra bài này, cho dù trước đó tôi đã có ý định nhưng rồi lại không viết chỉ vì còn bận bịu với khá nhiều công việc khác. Tuy nhiên, tôi cũng đã có phần nào không làm được như lời anh nói, khi anh bảo tôi "viết ngắn, chừng vài ba trang thôi, nhưng thật sắc gọn vào để nêu rõ vấn đề". Biết làm sao được, tôi cũng đã cố gắng chỉ đề cập đến những nét cơ bản nhất, nhưng chỉ "vài ba trang" như anh nói thì tôi thật không đủ sức. Hơn thế nữa, những sai sót trong bài viết là điều có thể không sao tránh khỏi, vì thế rất mong quý độc giả rộng lòng lượng thứ.
(Kosambiyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Kosambi, tại Tinh xá Ghosita. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ở Kosambi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa giải, không chấp nhận hòa giải. Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ở Kosambi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm; họ không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải.
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo và bảo như sau:
– Này các Tỷ-kheo, hãy đi, và nhân danh Ta, bảo các Tỷ-kheo ấy như sau: “Bậc Đạo sư cho gọi chư Tôn giả”.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến chỗ các Tỷ-kheo ấy ở sau khi đến, liền thưa với các Tỷ-kheo ấy:
– Bậc Đạo sư cho gọi chư Tôn giả.
– Hiền giả, vâng.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên:
– Này các Tỷ-kheo, có đúng sự thật chăng, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Và các Ông không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Trong khi các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi; trong khi ấy các Ông có an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không, các Ông có an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không, các Ông có an trú từ ý hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông đã chấp nhận rằng, trong khi các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy, không có an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không có an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sanh lưng, không có an trú từ ý hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, do biết gì, do thấy gì, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi; và các Ông không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, các Ông sẽ phải chịu bất hạnh, đau khổ trong một thời gian dài.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ khẩu hành... (như trên)... an trú từ ý hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận được đúng pháp, hợp pháp, cho đến những tài vật thâu nhận chỉ trong bình bát, Tỷ-kheo không phải là người không san sẻ, các tài vật nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng phạm hạnh có giới đức. Pháp này... (như trên)... đưa đến nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các giới luật không có vi phạm, không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế tạp, giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu trong các giới luật ấy với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này... (như trên)... đưa đến nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến thuộc về bậc Thánh có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo, sống thành tựu tri kiến như vậy, cùng với các đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Này các Tỷ-kheo, trong sáu pháp cần phải ghi nhớ này, có một pháp tối thượng, thâu nhiếp tất cả, làm giềng mối cho tất cả, chính là tri kiến này, thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, ví như một căn nhà có mái nhọn như ngọn tháp, có một pháp tối thượng, thâu nhiếp tất cả, làm giềng mối cho tất cả, chính là mái nhọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong sáu pháp cần phải ghi nhớ này, có một pháp tối thượng... khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là tri kiến thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng, hay đi đến dưới gốc cây, hay đi đến chỗ trống vắng và suy nghĩ như sau: “Không biết ta có nội triền nào chưa đoạn trừ không? Do nội triền này nếu tâm ta bị triền phược, thì ta không thể biết như thật, không thể thấy như thật?” Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị tham dục triền phược, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị sân triền phược, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị hôn trầm thụy miên triền phược, cho đến như vậy tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị trạo hối triền phược, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo bị nghi triền phược, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có tâm bị thế sự đời này ràng buộc, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo có tâm bị thế sự đời sau ràng buộc, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi, cho đến như vậy, tâm (của vị này) bị triền phược. Vị ấy biết rõ như sau: “Ta không có nội triền chưa được đoạn trừ, do nội triền này nếu tâm ta bị triền phược, ta không thể biết như thật, không thể thấy như thật. Ý của ta được khéo hướng đến sự giác ngộ các sự thật”. Đó là trí thứ nhất mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Trong khi ta thực tập, tu tập, luyện tập nhiều lần tri kiến này; ta tự đạt được tịch chỉ, ta tự đạt được tịnh chỉ”. Vị này biết rõ như sau: “Trong khi ta thực tập, tu tập, luyện tập nhiều lần tri kiến này; ta tự đạt được tịch chỉ, ta tự đạt được tịnh chỉ”. Đó là trí thứ hai mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Tri kiến như ta đã thành tựu có thể có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào ngoài tổ chức này, thành tựu tri kiến như vậy không?” Vị ấy hiểu rõ như sau: “Tri kiến như ta đã thành tựu không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, ngoài tổ chức này, thành tựu tri kiến như vậy”. Đó là trí thứ ba mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Pháp tánh (Dhammata) mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy ta có thành tựu hay không?” Và này các Tỷ-kheo, pháp tánh ấy là gì mà một vị chứng được tri kiến thành tựu? Đây là pháp tánh, này các Tỷ-kheo, mà một vị chứng được tri kiến thành tựu. Bất cứ giới tội nào vị này vi phạm, giới tội ấy liền được xuất tội. Vị này lập tức phát lộ, tỏ bày, trình bày trước bậc Đạo sư hay trước các vị đồng phạm hạnh có trí. Sau khi phát lộ, tỏ bày, trình bày, vị ấy phòng hộ gìn giữ trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, ví như một đứa trẻ con, ngây thơ, nằm ngửa, lập tức rút lui tay hay chân nếu tay hay chân của nó chạm phải than đỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đây là pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu. Bất cứ giới tội nào... (như trên)... phòng hộ gìn giữ trong tương lai. Vị ấy biết rõ như sau: “Pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy ta có thành tựu”. Như vậy là trí thứ tư mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy ta có thành tựu hay không?” Và này các Tỷ-kheo, pháp tánh ấy là gì mà một vị chứng được tri kiến thành tựu? Đây là pháp tánh, này các Tỷ-kheo, mà một vị chứng được tri kiến thành tựu. Bất luận sự việc cần phải làm dầu lớn nhỏ gì, giúp cho các vị đồng phạm hạnh; vị này nỗ lực thực hiện, nhưng tha thiết hướng đến tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Này các Tỷ-kheo, ví như con bò có các con nghé, khi đang nhổ lùm cỏ lên (ăn), vẫn coi chừng con nghé. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đây là pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu. Bất luận... (như trên)... tăng thượng tuệ học. Vị này biết rõ như sau: “Pháp tánh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy ta có thành tựu”. Như vậy là trí thứ năm mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Sức mạnh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, sức mạnh như vậy ta có thành tựu hay không?” Và này các Tỷ-kheo, sức mạnh ấy là gì mà một vị chứng được tri kiến thành tựu? Đây là sức mạnh, này các Tỷ-kheo, một vị chứng được tri kiến thành tựu. Trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, sau khi chú tâm chú ý, chuyên chú toàn tâm trí, vị này lóng tai nghe Pháp. Vị này biết rõ như sau: “Sức mạnh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu sức mạnh như vậy ta có thành tựu”. Như vậy là trí thứ sáu mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không có thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Sức mạnh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu, sức mạnh như vậy ta có thành tựu hay không?” Và này các Tỷ-kheo, sức mạnh ấy là gì mà một vị chứng được tri kiến thành tựu? Đây là sức mạnh, này các Tỷ-kheo, mà một vị chứng được tri kiến thành tựu. Trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, vị này chứng được nghĩa tín thọ (atthaveda), Pháp tín thọ (Dhammaveda), và sự hân hoan tương ứng với pháp; vị này hiểu rõ như sau: “Sức mạnh mà một vị chứng được tri kiến thành tựu sức mạnh như vậy ta có thành tựu”. Như vậy là trí thứ bảy mà vị này chứng được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, pháp tánh được khéo an trú đối với vị Thánh đệ tử thành tựu bảy chi này để chứng được quả Dự Lưu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu bảy chi này tức là đã thành tựu Dự Lưu quả.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH KOSAMBIYA, THỨ BỐN MƯƠI TÁM HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________
>>> 47. Kinh Tư Sát
ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
Âm Việt Nam theo bản tiếng sanscrit (chữ Phạn).
Sư cụ Thích Tuệ Nhuận xuất bản ở Hà Nội năm 1949
1 - Nam mô sát tát tha, sô ga đa da, a ra ha tê, sam muya sam bô đa sê.
2 - Nam mô sát tát tha, bu đa cô ti, si ni sam.
3 - Nam mô sát va, bu đa bu ti, sát ta bê tê.
4 - Nam mô sát ta nam, sam muya sam bô đa cô ti nam.
5 - Sa sê ra pa ca, săng ga nam.
6 - Nam mô lu kê a ra han ta nam.
7 - Nam mô su ru ta pa na nam.
8 - Nam mô sa khít ri ta ca mi nam.
9 - Nam mô lu kê sam mya ca ta nam.
10 - Sam mya ca pa ra, ti pa ta na nam.
11 - Nam mô đê va li si nan.
12 - Nam mô si ta da pi ti da, ta ra li si nan.
13 - Sê pa nu, gơ ra ha, sô ha sa ra ma tha nam.
14 - Nam mô pát ra ha ma ni.
15 - Nam mô in đa ra da.
16 - Nam mô ba ga va tê.
17 - Ru đa ra da.
18 - U ma pun ti.
19 - Sô hê da da.
20 - Nam mô ba ga va tê.
21 - Na ra da, na da.
22 - Phun cha ma ha, sam mu ta ra.
23 - Nam mô si khít ri ta da.
24 - Nam mô ba ga va tê.
25 - Ma ha ca ra da.
26 - Ti ri pa ra na ga ra.
27 - Pi ta ra, pa na ca ra da.
28 - A ti mu tê.
29 - Si ma sa na ni, ba si ni.
30 - Ma tát ri ga na.
31 - Nam mô si khít ri ta da.
32 - Nam mô ba ga va tê.
33 - Ta tha ga ta cô ra da.
34 - Nam mô pát tâu ma cô ra da.
35 - Nam mô pát cha ra cô ra da.
36 - Nam mô ma ni cô ra da.
37 - Nam mô ga cha cô ra da.
38 - Nam mô ba ga va tê.
39 - Ti ri đa su ra si na.
40 - Pa ra ha ra na ra cha da.
41 - Ta tha ga ta da.
42 - Nam mô ba ga va tê.
43 - Nam mô a mi ta ba da.
44 - Ta tha ga ta da.
45 - A ra ha tê.
46 - Sam mya sam bô đa da.
47 - Nam mô ba ga va tê.
48 - A sô bi da.
49 - Ta tha ga ta da.
50 - A ra ha tê.
51 - Sam mya sam bô đa da.
52 - Nam mô ba ga va tê.
53 - Bi sa cha da, cu ru phi chu ri da.
54 - Pa ra bà ra cha da.
55 - Ta tha ga ta da.
56 - Nam mô ba ga va tê.
57 - Sam pu su pi ta.
58 - Sát lin nai ra si cha da.
59 - Ta tha ga ta da.
60 - A ra ha tê.
61 - Sam mya sam bô đa da.
62 - Nam mô ba ga va tê.
63 - Sê kê dê mu na dây.
64 - Ta tha ga ta da.
65 - A ra ha tê.
66 - Sam mya sam bô đa da.
67 - Nam mô ba ga va tê.
68 - Si tát na kê tu ra cha da.
69 - Ta tha ga ta da.
70 - A ra ha tê.
71 - Sam mya sam bô đa da.
72 - Ti piêu, nam mô sát khít ri ta.
73 - Ê đam, ba ga va ta.
74 - Sát tát tha, ga tu si ni sam.
75 - Sát tát ta, pát tát lam.
76 - Nam mô a ba ra si đam.
77 - Paùt ra ti, dang ky ra.
78 - Sát ra ba, pu ta gơ ra ha.
79 - Ni gơ ra ha, khít ca ra ha ni.
80 - Pát ra, pi ti da, cha đa ni.
81 - A ca ra, mớt ri chu.
82 - Pát ri tát ra da, nang khít ri.
83 - Sát ra ba, pun đa na, mu sa ni.
84 - Sát ra ba, tát si cha.
85 - Tát si pháp, pun ma ni, phát ra ni.
86 - Chê tu ra, si ti nam.
87 - Gơ ra ha, sô ha sát ra nha cha.
88 - Pi ta pang sa na khít ri.
89 - A si cha pinh sê ti nam.
90 - Na sa sát tát ra nha cha.
91 - Pa ra sát tha na khít ri.
92 - A si cha nam.
93 - Ma ha gơ ra ha nha cha.
94 - Pi ta pang sát na khít ri.
95 - Sát va sê tu ru, ni ba ra nha cha.
96 - Hu lam tát si pháp, nan cha na sê ni.
97 - Pi sa sê, si tát ra.
98 - A kít ni, u đa ca ra nha cha.
99 - A pát ra si ta khu ra.
100 - Ma ha pát ra chên chi.
101 - Ma ha típ ta.
102 - Ma ha ti cha.
103 - Ma ha suê ta cha ba ra.
104 - Ma ha pát ra pun đa ra, ba si ni.
105 - A ri da ta ra.
106 - Pi ri cô ti.
107 - Si va pi cha da.
108 - Pát cha ra, ma ly ty.
109 - Pi sê ru ta.
110 - Pút tang mang ca.
111 - Pát cha ra, chi hô na a cha.
112 - Ma ra chi ba, pát ra chi ta.
113 - Pát cha ra sin chi.
114 - Pi sê ra cha.
115 - Sin ta sê, bê đê va, pu si ta.
116 - Su ma ru pa.
117 - Ma ha suê ta.
118 - A ri da ta ra.
119 - Ma ha ba ra, a pát ra.
120 - Pát cha ra, xương khít ra chê ba.
121 - Pát cha ra, cu ma ri.
122 - Cu lam ta ri.
123 - Pát cha ra, hốt sát ta cha.
124 - Pi ti da khin chê na, ma ri ca.
125 - Quát su mu, ba khít ra ta na.
126 - Vê rô cha na, cu ri da.
127 - Da ra thâu, si ni sam.
128 - Pi chi lam ba ma ni cha.
129 - Pát cha ra, ca na, ca pa ra ba.
130 - Rô cha na, pát cha ra, tân chi cha.
131 - Suê ta cha, ca ma ra.
132 - Sát sa si, pa ra ba.
133 - Ê tê di tê.
134 - Mu ta ra, kít na.
135 - Sô bê ra sam.
136 - Quát pham tu.
137 - In thâu na, ma ma sê.
*- II -
138 - U hum,
139 - Ry si kít na.
140 - Pa ra, sê si ta.
141 - Sát tát tha, ga tu si ni sam.
142 - Hu hum,
143 - Tu ru ung,
144 - Chim ba na.
145 - Hu hum,
146 - Tu ru ung,
147 - Si đam ba na.
148 - Hu hum,
149 - Tu ru ung,
150 - Pa ra si đi da, sam pát soa, na khít ra.
151 - Hu hum,
152 - Tu ru ung,
153 - Sát va dác sa, hát ra sát sa.
154 - Gơ ra ha nha cha.
155 - Pi tang pang sát, na khít ra.
156 - Hu hum,
157 - Tu ru ung,
158 - Chê tu ra, si ti nam.
159 - Gơ ra ha, sa ha sát ra nam.
160 - Pi tang pang sát na ra.
161 - Hu hum,
162 - Tu ru ung,
163 - Ra soa,
164 - Ba ga va.
165 - Sát tát tha, ga tu si ni sam.
166 - Pa ra tim, cha kít ri.
167 - Ma ha, sô ha sát ra.
168 - Bút su sa, ha sát ra, si ri sa.
169 - Cô ti, sô ha sát ni, ti lê.
170 - A pi đi si, ba ri ta.
171 - Cha cha ang ca.
172 - Ma ha pát cha ru ta ra.
173 - Ti ri bô ba na.
174 - Man ta ra.
175 - U hum,
176 - Sa si ti, bô ba tu.
177 - Ma ma,
178 - In thâu na, ma ma sê.
- III -
179 - Ra cha ba da.
180 - Chu ra pát da.
181 - A chi ni ba da.
182 - U đa ca ba da.
183 - Pi sa ba da.
184 - Sê sát ta ra ba da.
185 - Ba ra chước khiết ra ba da.
186 - Tát sít soa ba da.
187 - A sê ni ba da.
188 - A ca ra mơ ri chu ba da.
189 - Đa ra ni, pu mi kim, ba ga va ta ba da.
190 - U ra ca, ba đa ba da.
191 - Rát cha than đa ba da.
192 - Na ga ba da.
193 - Pi thiêu tát ba da.
194 - Sô pa ra na ba da.
195 - Dác soa gơ ra ha.
196 - Ra soa si gơ ra ha.
197 - Pê ri ta gơ ra ha.
198 - Pi sa cha gơ ra ha.
199 - Pu ta gơ ra ha.
200 - Cu ban đa gơ ra ha.
201 - Pu tan na gơ ra ha.
202 - Ca cha pu tan na gơ ra ha.
203 - Si kin tu gơ ra ha.
204 - A pa si ma ra gơ ra ha.
205 - U than ma ta gơ ra ha.
206 - Sa da gơ ra ha.
207 - Hê ri ba ti gơ ra ha.
208 - Sê ta ha ri nam.
209 - Khít ba ha ri nam.
210 - Ru ti ra ha ri nam.
211 - Mang sa ha ri nam.
212 - Mê ta ha ri nam.
213 - Ma cha ha ri nam.
214 - Cha ta ha ri nu.
215 - Si pi ta ha ri nam.
216 - Pi ta ha ri nam.
217 - Ba đa ha ri nam.
218 - A su cha ha ri nu.
219 - Chít ta ha ri nu.
220 - Ti sam sát bi sam.
221 - Sát va gơ ra ha nam.
222 - Pi đa da cha, san đa da mi
223 - Kê ra da mi,
224 - Pa ri pát ra chê ca, cát ri tam.
225 - Pi đa da cha, san đa da mi
226 - Kê ra da mi,
227 - Đa din ni, cát ri tam.
228 - Pi đa da cha, san đa da mi
229 - Kê ra da mi,
230 - Ma ha pát su pát tát da,
231 - Ru đa ra, cát ri tam.
232 - Pi đa da cha, san đa da mi
233 - Kê ra da mi,
234 - Na ra da na, cát ri tam.
235 - Pi đa da cha, san đa da mi
236 - Kê ra da mi,
237 - Tát toa ga ru đa si, cát ri tam.
238 - Pi đa da cha, san đa da mi
239 - Kê ra da mi,
240 - Ma ha ca ra, ma tát ri ga na, cát ri tam.
241 - Pi đa da cha, san đa da mi
242 - Kê ra da mi,
243 - Ca pa ri ca, cát ri tam.
244 - Pi đa da cha, san đa da mi
245 - Kê ra da mi,
246 - Cha da khít ra, ma tu khít ra.
247 - Sát va ra tha sa tát na, cát ri tam.
248 - Pi đa da cha, san đa da mi
249 - Kê ra da mi,
250 - Chư chát ra, ba ky ni, cát ri tam.
251 - Pi đa da cha, san đa da mi
252 - Kê ra da mi,
253 - Pi ri dang cát ri chi
254 - Nan đa kê sa ra, ga na phun ti.
255 - Sát hê da, cát ri tam.
256 - Pi đa da cha, san đa da mi
257 - Kê ra da mi,
258 - Na khít na sa ra ba na, cát ri tam.
259 - Pi đa da cha, san đa da mi
260 - Kê ra da mi,
261 - A ra han, cát ri tam, pi đa da cha, san đa da mi,
262 - Kê ra da mi,
263 - Pi ta ra ga, cát ri tam.
264 - Pi đa da cha, san đa da mi
265 - Kê ra da mi, pát cha ra pa mi,
266 - Cu hê da cu hê da,
267 - Ca đi pát ti cát ri tam.
268 - Pi đa da cha, san đa da mi
269 - Kê ra da mi,
270 - Ra soa mang,
271 - Ba ga va,
272 - In thâu na ma ma sê.
- IV -
273 - Ba ga va,
274 - Si ta ta, pa tơ ra.
275 - Nam mô suy tu tê.
276 - A si ta na ra chi ca.
277 - Pa ra va, si phu cha.
278 - Pi ca sát tát ta pát ti ri.
279 - Sập phật ra sập phật ra,
280 - Đa ra đa ra,
281 - Văn đa ra, văn đa ra, san đa san đa.
282 - Hu hum,
283 - Hu hum.
284 - Phun cha,
285 - Phun cha, phun cha, phun cha, phun cha.
286 - Sô ha,
287 - Hê hê phun.
288 - A mâu ca da phun.
289 - A pa ra đê ha ta phun.
290 - Ba ra pa ra ta phun.
291 - A sô ra, pi ta ra, pa ca phun.
292 - Sát va đê bê pi phun.
293 - Sát va na ga pi phun.
294 - Sát va dác sa pi phun.
295 - Sát va gan đa va pi phun.
296 - Sát va pu ta na pi phun.
297 - Ca cha pu ta na pi phun.
298 - Sát va tát lang chi ti pi phun.
299 - Sát va tát sít pi lây, cát si ti pi phun.
300 - Sát va sấp ba lay pi phun.
301 - Sát va a pa si mô lay pi phun.
302 - Sát va sê ra ba na pi phun.
303 - Sát va ti tê kê pi phun.
304 - Sát va tát ma ta ky pi phun.
305 - Sát va pi ta da ra si cha lây pi phun.
306 - Cha da khít ra, ma tu khít ra,
307 - Sát va ra tha sa đa kê pi phun.
308 - Pi ti da cha lây pi phun.
309 - Chê tu ra, phác ky ni pi phun.
310 - Pát cha ra, cu ma ri,
311 - Pi ta da, ra si pi phun.
312 - Ma ha pa ra tinh dang, soa ky ri pi phun.
313 - Pát cha ra sang khít ra da,
314 - Pa ra chang ky ra cha da phun.
315 - Ma ha ca ra da,
316 - Ma ha mút tát ri ca na,
317 - Nam mô sa khít ri ta da phun.
318 - Pi si na phi dây phun.
319 - Pu ra ha mâu ni dây phun.
320 - A ky ni dây phun.
321 - Ma ha khít ri dây phun.
322 - Khít ra than chi dây phun.
323 - Mít tát ri dây phun.
324 - Ru tát ri dây phun.
325 - Cha man đa dây phun.
326 - Khít la ra tát ri dây phun.
327 - Ca phun ri dây phun.
328 - A ti mu chít ta, ca si ma sa na,
329 - Ba su ni dây phun.
330 - Din kít chít,
331 - Sát tô va sê,
332 - Ma ma in thâu na ma ma sê.
- V -
333 - Tát si cha chít ta.
334 - A mút tát ri chít ta.
335 - U cha ha ra.
336 - Ga ba ha ra.
337 - Rô ti ra ha ra.
338 - Ba sa ha ra.
339 - Ma cha ha ra.
340 - Cha ta ha ra.
341 - Si pi ta ha ra.
342 - Pát lác da ha ra.
343 - Khin ta ha ra.
344 - Pu sư pa ha ra.
345 - Phô ra ha ra.
346 - Ba sê ha ra.
347 - Pún pa chít ta.
348 - Tát si cha chít ta.
349 - Lu ta ra chít ta.
350 - Dác sa gơ ra ha.
351 - Ra sát sa gơ ra ha.
352 - Pay lê ta gơ ra ha.
353 - Pi sa cha gơ ra ha.
354 - Pu ta gơ ra ha.
355 - Cu ban đa gơ ra ha.
356 - Si khin ta gơ ra ha.
357 - U tát ma ta gơ ra ha.
358 - Sê dê gơ ra ha.
359 - A pa sát ma ra gơ ra ha.
360 - Chác khu cát, đa ky ni gơ ra ha.
361 - Ri pút ti gơ ra ha.
362 - Cha mi ca gơ ra ha.
363 - Sa cu ni gơ ra ha.
364 - Mu ta ra, nan ti ca gơ ra ha.
365 - A lam ba gơ ra ha.
366 - Khin tu pa ni gơ ra ha.
367 - Sập phạt ra, in ca hê ca.
368 - Chuy ti dác ca.
369 - Tát lê ti dác ca.
370 - Chê tát thác ca.
371 - Ni đê sập phạt ra, pi sam ma sập phạt ra.
372 - Pô ti ca,
373 - Pi ti ca,
374 - Sít lê si mi ca.
375 - Sa ni pun ti ca.
376 - Sát va sập phạt ra.
377 - Sít ru kít tê.
378 - Mút đa bi tát ru chê kim.
379 - A y ru khim.
380 - Mu khu ru khim.
381 - Khít ri tát ru khim.
382 - Khít ra ha, khít lam.
383 - Khít na su lam.
384 - Tan ta su lam.
385 - Ngát ri da su lam.
386 - Mát ma su lam.
387 - Pát ri si ba su lam.
388 - Pi lát si cha su lam.
389 - U ta ra su lam.
390 - Khít chi su lam.
391 - Pát si ti su lam.
392 - U ru su lam.
393 - Sang ca su lam.
394 - Hát si ta su lam.
395 - Pát ta su lam.
396 - Sa phang ang ca pát ra, chang kha su lam.
397 - Pu ta bi ta đa.
398 - Đa ky ni sấp ba ra.
399 - Ta tát ru ca, kin chát ru kít chi, ba lu ta pi.
400 - Sát pát ru ha lang ca.
401 - Su sa tát ra, sa na khít ra.
402 - Pi sa du ca.
403 - A ky ni, u ta ca.
404 - Mát ra bê ra, kin ta ra.
405 - A ca ra, mít ri chát, than lim pu ca.
406 - Ti lất chi cha.
407 - Pi ri sít chít ca.
408 - Sát va na khu ra.
409 - Si dan ga pi, khít ra ri dác sa, tát ra sô.
410 - Mát ra si, phê ti sam sa bê sam.
411 - Si ta ta, pa tơ ra.
412 - Ma ha pát cha ru, sít ni sam.
413 - Ma ha pa ra chang ky lam.
414 - Da pa tát đa sa du cha na.
415 - Pin tan ly na.
416 - Pi đa da, ban đam ca ru mi.
417 - Ti su, ban đam ca ru mi.
418 - Pát ra pi đa, ban đam ca ru mi.
419 - Ta đya tha.
420 - A ôm,
421 - A na lê,
422 - Bi su đê,
423 - Bê ra, pát cha ra, đa ri.
424 - Pun đa pun đa ni,
425 - Pát cha ra pang ni phun.
426 - Hu hum tu ru ung phun,
427 - Sô va ha.
(Vimamsakastuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, Tinh xá của Ông Anathapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn biết rõ tập tánh (Cetapariyayam) của người khác, cần phải tìm hiểu về Như Lai, để ý thức được Ngài có Chánh Đẳng Giác hay không?
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm bậc lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay, Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này! Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành trì.
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, vị tư sát Tỷ-kheo muốn biết rõ tập tánh của người khác, cần phải tìm hiểu về Như Lai trên hai loại pháp: Các pháp do mắt, tại nhận thức, nghĩ rằng: “Những pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?” Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo được biết như sau: “Những pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai”. Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: “Những pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai”. Vị ấy tìm hiểu thêm: “Những tạp pháp (khi nhiễm khi tịnh) do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?” Sau khi tìm hiểu như vậy và vị Tỷ-kheo biết được như sau: “Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai”. Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: “Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai.” Vị ấy tìm thiểu thêm: “Những pháp hoàn toàn thanh tịnh, do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không hiện khởi?” Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo biết được như sau: “Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai”. Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: “Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai”. Vị ấy tìm hiểu thêm: “Vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian lâu dài hay trong một thời gian ngắn?” Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo biết được như sau: “Vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian lâu dài, vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này không phải trong một thời gian ngắn”. Sau khi tìm hiểu như vậy và biết được như sau: “Vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này trong một thời gian lâu dài, vị Tôn giả này thành tựu thiện pháp này không phải trong một thời gian ngắn”. Vị ấy tìm hiểu thêm: “Vị Tôn giả Tỷ-kheo hữu danh này, khi có danh, một số nguy hiểm có khởi lên cho vị ấy ở đây không?” Này các Tỷ-kheo, một số nguy hiểm không khởi lên ở đây cho vị Tỷ-kheo, khi vị ấy chưa được hữu danh, chưa có danh tiếng. Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo ấy được hữu danh, có danh tiếng, thì một số nguy hiểm có thể khởi lên ở đây cho vị ấy. Sau khi tìm hiểu như vậy, vị Tỷ-kheo biết được như sau: “Vị Tôn giả Tỷ-kheo hữu danh này, khi có danh, một số nguy hiểm không khởi lên cho vị ấy”. Sau khi tìm hiểu như vậy, vị ấy biết được như sau: “Vị Tôn giả Tỷ-kheo hữu danh này, khi có danh, một số nguy hiểm không khởi lên cho vị này.” Vị ấy tìm hiểu thêm: “Vị Tôn giả này, do vô úy mà từ bỏ, vị Tôn giả này không phải vì sợ hãi mà từ bỏ. Có phải do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn các dục?”. Sau khi tìm hiểu như vậy, vị ấy biết được như sau: “Vị Tôn giả này, do vô úy mà từ bỏ, vị Tôn giả này không phải vì sợ hãi mà từ bỏ. Do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn các dục”. Này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác hỏi vị Tỷ-kheo ấy như sau: “Những dữ kiện Tôn giả là gì, những bằng chứng của Tôn giả là gì, mà Tôn giả nói: “Vị Tôn giả này, do vô úy mà từ bỏ, vị Tôn giả này không phải vì sợ hãi mà từ bỏ”. Do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái, nên vị này không thỏa mãn các dục”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn trả lời một cách chân chánh phải trả lời như sau: “Vị Tôn giả này sống giữa Tăng chúng hay sống một mình, dầu cho những vị sống ở đây là thiện hạnh, là ác hạnh, dầu cho có những vị giáo giới hội chúng, ở đây có những vị chuyên trọng tài vật, có những vị ở đây không bị ô nhiễm bởi tài vật, vị Tôn giả này không vì vậy mà khinh bỉ họ vì lý do này. Như vậy tôi nghe trước mặt Thế Tôn, như vậy tôi được biết trước mặt Thế Tôn: “Ta do vô úy mà từ bỏ, Ta không phải vì sợ hãi mà từ bỏ. Do vì đoạn diệt tham ái, vì không có tham ái nên ta không thỏa mãn các dục”.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai cần phải được hỏi thêm như sau: “Các pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không có hiện khởi?” Được hỏi vậy, Như Lai sẽ trả lời như sau: “Các pháp ô nhiễm do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy không hiện khởi ở Như Lai. Những tạp pháp ở mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không có hiện khởi?” Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai sẽ trả lời như sau: “Những tạp pháp do mắt, tai nhận thức, những pháp ấy không có hiện khởi ở Như Lai. Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai hay không có hiện khởi?” Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai trả lời như sau: “Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt, tai nhận thức; những pháp ấy có hiện khởi ở Như Lai”. Ta lấy như vậy làm đạo lộ, làm hành giới. Không có ai giống Ta như vậy. Này các Tỷ-kheo, một đệ tử phải đến gần bậc Đạo sư có nói như vậy để được nghe pháp. Vị Đạo sư thuyết pháp cho vị ấy từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch cùng với các pháp tương đương (Sappatibhaga). Này các Tỷ-kheo, tùy theo vị Đạo sư thuyết pháp cho vị Tỷ-kheo, từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch cùng với các pháp tương đương; vị Tỷ-kheo, tùy theo như vậy, sau khi chứng tri trong pháp ấy, đạt đến sự cứu cánh của từng pháp một. Vị ấy khởi lòng tịnh tín đối với bậc Đạo sư: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng thật khéo hành trì”. Này các Tỷ-kheo, nếu có người khác hỏi Tỷ-kheo ấy như sau: “Tôn giả có những dữ kiện gì, có những bằng chứng gì để Tôn giả nói rằng: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng thật khéo hành trì?” Này các Tỷ-kheo, muốn trả lời một cách chân chánh, vị Tỷ-kheo phải trả lời như sau: “Ở đây, này Hiền giả, tôi đến yết kiến Thế Tôn để nghe thuyết pháp, Thế Tôn thuyết pháp cho tôi, từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch với các pháp tương đương của chúng. Này Hiền giả, tùy theo Thế Tôn thuyết pháp cho tôi như thế nào, từ vấn đề này đến vấn đề khác, từ vi diệu này đến vi diệu khác, các pháp hắc bạch với các pháp tương đương của chúng; tùy theo như vậy, sau khi chứng tri trong pháp ấy, tôi đạt đến sự cứu cánh của từng pháp một. Tôi khởi lòng tịnh tín đối với bậc Đạo sư: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng thật khéo hành trì”.
Này các Tỷ-kheo, đối với ai mà lòng tin đối với Như Lai được an lập, căn cứ, an trú trên những dữ kiện, những văn cú, những văn tự như vậy, này các Tỷ-kheo, lòng tin như vậy được gọi là có dữ kiện đầy đủ, căn cứ trên (chánh) kiến, vững chắc, không thể bị phá hoại bởi một Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, Ma ra, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tìm hiểu về Như Lai, và như vậy Như Lai mới được khéo tìm hiểu một cách đúng pháp.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH TƯ SÁT, THỨ BỐN MƯƠI BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________-
>>> 46. Đại kinh Pháp Hành
(Mahadhammasamadanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, Jetavana, tại Tinh xá Ông Anathapindika. Ở đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu tình có dục như thế này, có ước vọng như thế này, có nguyện vọng như thế này: “Ôi, mong rằng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tiêu diệt! Mong rằng các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được tăng trưởng!” Này các Tỷ-kheo, dầu cho các loài hữu tình ấy có dục như vậy, có ước vọng như vậy, có nguyện vọng như vậy, nhưng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Người có biết vì nguyên nhân gì không?
– Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này! Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành trì.
– Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, không biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết rõ các pháp không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên thân cận, không biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì không biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết rõ các pháp không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên thân cận, không biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận. Vị này vì phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, vì thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận, cho nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì người ấy không có trí đối với pháp này. Và này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, biết rõ các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì biết rõ các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận. Vị này vì phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận, cho nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp hành. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, các pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như chân: “Đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ”. Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc tương lai quả báo khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê nên không biết như chân: “Đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”. Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê nên không tuệ tri như chân: “Đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc”. Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Vì không phục vụ pháp này, tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đấy là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như chân: “Đây là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc”. Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Vì không phục vụ pháp này, vì tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chơn: “Pháp hành này hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ”. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chơn, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục vụ pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chơn: “Pháp hành này hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chân, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục vụ pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do có trí đối với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp này hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc”. Do có trí đối với pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chân, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, không tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp hành này hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc”. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, do tuệ tri như chân, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, do không tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ, với ưu, sát sanh, và do duyên sát sanh, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu lấy của không cho, và do duyên lấy của không cho, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu sống theo tà hạnh trong các dục, và do duyên sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu nói lời vọng ngữ, và do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu nói lời hai lưỡi, và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, nói lời ác ngữ, và do duyên nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, nói lời phù phiếm và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, có tâm tham ái, và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu có tâm sân hận, và do duyên có tâm sân hận cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu có tà kiến, và do duyên tà kiến cảm thọ khổ ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, sát sanh và do duyên sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, lấy của không cho và do duyên lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, sống theo tà hạnh trong các dục, và do duyên sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, nói lời vọng ngữ, và do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, nói lời hai lưỡi, và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, nói lời ác ngữ và do duyên nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, nói lời phù phiếm, và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, có tâm tham ái và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ lạc và hỷ, với lạc, với hỷ, có tâm sân hận, và do duyên có tâm sân hận, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, có tà kiến, và do duyên có tà kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị này sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ với ưu, từ bỏ sát sanh, và do duyên từ bỏ sát sanh cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu từ bỏ nói lời vọng ngữ và do duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ nói lời hai lưỡi, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời ác ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời phù phiếm, và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tâm tham ái, và do duyên từ bỏ tâm tham ái, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tâm sân hận, và do duyên từ bỏ tâm sân hận, cảm thọ khổ ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tà kiến, và do duyên từ bỏ tà kiến, cảm thọ khổ ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, từ bỏ sát sanh và do duyên từ bỏ sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ các tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ các tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời vọng ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ ác ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời phù phiếm, và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, không có tham ái, và do duyên không có tham ái, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, không có sân tâm và do duyên không có sân tâm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ, có chánh kiến và do duyên chánh kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.
Này các Tỷ-kheo, ví như trái bí đắng có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến muốn sống, muốn không chết, ưa lạc, hiềm ghét khổ, và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, trái bí đắng này có tẩm thuốc độc, nếu bạn muốn, hãy ăn. Trong khi ăn, bạn không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi ăn, bạn có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết”. Người ấy có thể ăn không có suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi ăn, người ấy không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi ăn, người ấy bị chết, hay bị đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.
Này các Tỷ-kheo, ví như một bình đồng đựng nước uống, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn ưa lạc, hiềm ghét khổ. Và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, bình đồng đựng nước uống này, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, bạn có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết”. Người kia có thể uống, không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, người ấy được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, người ấy có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.
Này các Tỷ-kheo, ví như nước đái quỷ được trộn nhiều loại thuốc. Rồi có người đi đến, bị bệnh hoàng đản, và có người nói với người đó như sau: “Này bạn, nước đái quỷ này được trộn với nhiều loại thuốc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Nhưng sau khi uống, bạn sẽ được an lạc”. Người ấy có thể uống, sau khi suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi uống, người ấy không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Nhưng sau khi uống, người ấy được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
Này các Tỷ-kheo, ví như lạc, mật, thục tô và đường trộn lẫn với nhau. Rồi có người đi đến bị bệnh kiết lỵ. Và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, đây là lạc, mật, thục tô và đường trộn lẫn với nhau. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, bạn sẽ được an lạc”. Người kia có thể uống, sau khi suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi uống, người kia được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, người kia được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Này các Tỷ-kheo, ví như trong tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, mùa gặt hái, khi bầu trời quang đãng, không có mây, và mặt trời mọc lên giữa bầu trời, phá sạch hắc ám khắp cả hư không, và chói sáng, hực sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc này, sau khi phá sạch các dị thuyết của các Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường, chói sáng, hực sáng và rực sáng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
ĐẠI KINH PHÁP HÀNH, THỨ BỐN MƯƠI SÁU HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________-
>>> 45. Tiểu kinh Pháp Hành
Lời tựa
Chú Lăng Nghiêm là vua trong các Chú, vì dài nhất và khó nhất trong Phật Giáo. Hầu hết những người xuất gia đi tu, đều phải thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm từ lúc mới xuất gia, hoặc cũng có những người thuộc lòng trước khi xuất gia, vì nghĩ rằng trước sau gì cũng phải học, học trước thì thôi sau, nên thuộc lòng trước khi xuất gia.
Chú Lăng Nghiêm tuy dài và khó nhất, nhưng tụng thì nghe hay nhất. Trước kia không hiểu nghĩa Chú Lăng Nghiêm, chỉ học và tụng thôi. Vì đa số hầu hết các Chùa đều tụng khoá lễ sáng không thể nào thiếu Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi và thập Chú, rồi Bát Nhã, niệm Phật, hồi hướng… Bây giờ nhờ sự giảng giải của cố Hoà Thượng Tuyên Hoá, mới hiểu được tầm quan trọng của Chú Lăng Nghiêm. Đây cũng là nhân duyên lớn, tôi được gặp Hoà Thượng tại nước Pháp, nhân chuyến Ngài sang hoằng phápở Âu châu vào năm 1990 và tôi có xin Ngài sang Vạn Phật Thành tu học, tu học được khoảng 5 năm thì Ngài viên tịch (1995), tôi trở về lại Pháp và có xin đem những Kinh giảng giải của Ngài bằng Hán văn, mang về Pháp để dịch ra tiếng Việt, truyền bá cho người Việt mình. Không màng tài hèn đức mọn, xin dịch ra để cống hiến cho tất cả mọi người đọc, nếu có gì sơ sót, mong các bậc cao Tăng chỉ dạy thêm.
Thiết nghĩ, gặp được Chú Lăng Nghiêm là nhân duyên rất lớn của người con Phật, xuất gia cũng như tại gia, và hiểu được nghĩa lý của Chú Lăng Nghiêm thì nhân duyên thật là không thể nghĩ bàn, có thể nói là trăm ngàn vạn kiếp mới gặp được. Vì như lời cố Hoà Thượng Tuyên Hoá nói, thì sẽ không có người thứ hai giảng giải Chú Lăng Nghiêm. Cho nên chúng ta có nhân duyên thù thắng mới được trì tụng và hiểu nghĩa lý của Chú Lăng Nghiêm.
Chú Lăng Nghiêm là cốt tuỷ trong Phật Giáo, nhờ Chú Lăng Nghiêm mà chánh Pháp mới tồn tại lâu dài. Trong năm đệ Chú Lăng Nghiêm thì hai đệ đầu đa số là danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, chư Thiên, Hộ Pháp thiện thần, còn ba đệ cuối đa số là danh hiệu của các vị Quỷ Thần Vương. Nhưng rất tiếc là bản Hán văn chỉ thấy đệ Nhất và đệ Nhị thôi, cò ba đệ cuối thì không thấy, nên không thể dịch ra tiếng Việt. Nhưng trong hai đệ nầy, cố Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng đã nói rõ tầm quan trọng của Chú Lăng Nghiêm, chỉ cần chúng ta người xuất gia, hoặc tại gia, trì tụng mỗi ngày, thì công đức thật khôngthể nghĩ bàn, giúp cho hành giả tăng trưởng trí huệ, vượt qua mọi sự chướng ngại thử thách trên đường tu tập, đồng thời giúp bảo vệ chánh pháp trụ thế lâu dài, lợi lạc chúng sinh.
Điều quan trọng là hành trì đều đặng mỗi ngày, bất cứ lúc nào, ở đâu, tụng ra tiếng, hoặc tụng thầm, công đức đều không thể nghĩ bàn được. Vì Chú Lăng Nghiêm là đại định, cũng là vua trong các định. Định lực của Chú Lăng Nghiêm hàng phục được tất cả tà ma ngoại đạo. Chỉ cần tụng lên thì chư Thiên, hộ pháp, thiện thần đều cung kính bảo hộ hành giả.
Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nhờ đại định Chú Lăng Nghiêm mà thành tựu. Nói chung người tu hành không thể nào thiếu đại định Lăng Nghiêm. Như chúng ta đều biết, Ngài A Nan là đa vănbậc nhất, thuộc lòng Đại Tạng Kinh không sót một chữ, mà lúc gặp nạn, nếu không nhờ đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù dùng thần Chú Thủ Lăng Nghiêm đến cứu, thì Ngài A Nan đã mất giới thể, mà mất giới thểthì làm sao mà thành tựu đạo Nghiệp ! Như thế mới biết, trên đường tu gặp rất nhiều chướng ngại, thử thách. Nếu không nhờ sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thiện thần, thì rất khó thành tựu đạo nghiệp. Những bậc cao Tăng, Tổ sư, thời nào cũng thế, đều nhờ tu hành giới đức trang nghiêm, phước huệ song tu, tích luỹ nhiều đời nhiều kiếp, được sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thiện thần, mới vượt qua chướng ngại thử thách, cuối cùng giác ngộ chứng quả.
Chú Lăng Nghiêm là hành trang, tư lương, không thể thiếu của người tu Phật. Chỉ cần chúng ta cố gắngtrì tụng mỗi ngày, thì công đức không nhỏ, đồng thời cũng là góp phần vào bảo vệ chánh pháp trụ thế lâu dài, lợi lạc tất cả chúng sinh.
Nam Mô Thủ Lăng Nghiêm hội thượng Phật Bồ Tát
Dịch giả
Tỳ Kheo Thích Minh Định - Hằng Lý
Dẫn nhập
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộvà Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương :
1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu trên thế gian này, không còn người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì Ma Vương sẽ xuất hiện. Nếu còn một người trì tụng, thì thiên ma Ba Tuần không dám xuất hiện. Vì chúng chỉ sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Chúng muốn tiêu diệt nhất là Chú Lăng Nghiêm. Khi pháp bắt đầu diệt, thì Chú Lăng Nghiêm sẽ mất trước nhất, kể cả Kinh Lăng Nghiêm. Lúc đó thiên ma Ba Tuần sẽ xuất hiện, hoành hành đầy dẫy khắp nơi. Lúc ấy sẽ không có trời đất, không có Phật, chúng tuyệt đối chẳng sợ gì. Cho nên tôi khuyên mỗi người Phật tử, (tại gia và xuất gia) học thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm và trì tụng mỗi ngày, đây chính là hộ pháp, và khiến cho pháp tồn tại lâu dài, đừng xem thường không có ý nghĩa và quan hệ gì. Hiện tại ở đây chỉ có mấy chục người nghe giảng Chú Lăng Nghiêm. Nhưng chính mấy chục người này nghe giảng, đã giữ chân của bọn thiên ma. Khiến chúng hoảng sợ khi đề cập đến Chú này.
Tôi đã nghiên cứu Phật Pháp nhiều năm, không dám nói là hoàn toàn hiểu biết hết Chú Lăng Nghiêm và Chú Đại Bi, nhưng bạn không thể nói tôi hiểu biết nhiều, cũng không thể nói tôi hiểu biết ít.
Có một lần đệ tử của tôi nói : "Chú Lăng Nghiêm thật là làm cho con bối rối, không cách chi con học và nhớ được.’’ Đừng nhìn biển mà thở dài, đừng nghĩ Chú như biển cả, mà ra vẻ bạn không khi nào học thuộc nó. Tôi chỉ cho bạn một phương pháp. Đừng có học hết một lần, mà phải học từng câu, từng hàng, từng hàng. Khi bạn học thuộc câu đầu, thì học câu kế tiếp. Nếu chưa thuộc câu đầu, thì đừng học câu kế tiếp. Ví dụ, đọc câu ‘’Nam Mô Tát Đát Tha Tô Già Đa Da A La Ha Đế Tam Miệu Tam Bồ Đà Tỏa...’’, đọc đi đọc lại, đến khi bạn thuộc lòng, nhắm mắt lại đọc thuộc trôi chảy, thì hãy học câu kế tiếp. Nếu bạn tham học hết một lần thì bạn không thể nào nuốt chửng một lần được. Đừng học hết một lần, đó cũng giống như muốn ăn một lần hết cả con bò. Học Chú phải từng chút, từng chút. Đừng giống như nhìn biển chằm chằm rồi nghĩ : ‘’Nước nhiều quá, làm sao tôi có thể uống hết được.’’ Mặc dù Chú Lăng Nghiêm rất dài, nếu bạn định tâm thì sẽ học được. Nếu ai muốn xuất gia với tôi, thì phải học thuộc Chú Lăng Nghiêm và Chú Đại Bi. Nếu không tôi sẽ không nhận làm đệ tử.
Nếu bạn thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm thì tôi công nhận bạn thành tâm một mức nào đó. Tại Trung Quốc thường thường học Chú Lăng Nghiêm phải mất sáu tháng. Vào mùa hè, có một đệ tử của tôi không ăn, không ngủ để học Chú Lăng Nghiêm, đó là biểu thị sự thành tâm, để bụng đói thì học dễ nhớ.
Tất cả các pháp đều là pháp diệu. Tôi giảng chữ "pháp diệu" phải mất nhiều ngày, nhưng sự giảng của tôi không sao sánh kịp được với Trí Giả Đại Sư. Ngài giảng một chữ "diệu", phải mất chín chục ngày. Cảnh giới pháp diệu vượt ra ngoài sự tính toán phân biệt. Muốn học thuộc Chú Lăng Nghiêm, đừng rơi vào sự tính toán phân biệt, càng phân biệt thì bạn càng khó học, càng tính toán thì càng không hiểu. Đừng nghĩ : ‘’ Tại sao tôi không thể học Chú này ? ‘’ Đừng nghĩ gì hết ! Mà phải đọc tụng, đọc tụng như là bổn phận và trách nhiệm của bạn. Đừng học với sự vọng tưởng phân biệt so lường. Phân biệt là thức thứ sáu, tính toán là riêng về thức thứ bảy. Kinh Lăng Nghiêm mà chúng ta đọc là do nguyên nhân vấn đề của Ngài A Nan. Tại sao ? Vì Ngài chú tâm việc học mà coi nhẹ việc tu định. Nếu bạn muốn thâm nhập Chú Lăng Nghiêm, thì bạn phải trừ khử sạch sự tính toán và phân biệt. Đừng dùng thức để học Phật Pháp, mà dùng chân tâm, đó mới chính là diệu pháp.
Hoà Thượng Tuyên Hoá
CHÚ LĂNG NGHIÊM
Kệ và giảng giải
Kệ :
"Cứu kính kiên cố định trung vương
Trực tâm tu học chí đạo tràng
Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh
Tham, sân, si niệm yếu tảo quang
Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng
Chuyên năng thành tựu đại thần thông
Hữu đức ngộ tư vinh diệu cú
Thời khắc mạc vong thiệu long xương".
Giảng Giải : Lăng Nghiêm là tiếng Phạn dịch là "tất cả sự cứu kính kiên cố", cũng có nghĩa là " định.’’ định này là vua trong tất cả các định.
"Cứu kính kiên cố định trung vương.’’ Lăng Nghiêm là vua trong tất cả các định. ‘’Trực tâm tu học chí Đạo tràng.’’ Tu đạo phải dùng tâm ngay thẳng, đừng dùng tâm cong vạy. Tâm ngay thẳng mới đạt đượcmục đích. Nếu bạn dùng tâm cong vạy ngoằn ngoèo tu Phật Pháp, thì tu chẳng thành tựu. ‘’Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh,’’ ‘’Tham, sân, si niệm yếu tảo quang.’’ Tu pháp này thì miệng không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không chưởi mắng. Thân thì không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Ý niệm thì không tham, sân, si. Khi thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh tức là tổng trì. ‘’ Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng.’’ Phải thành tâm thì mới có cảm ứng. Hiện tại thì chứng được năng lực không thể nghĩ bàn của Chú này. Lực lượng của Chú không thể nghĩ bàn. ‘’Chuyên năng thành tựu đại thần thông.’’ Nếu bạn chuyên tâm, tâm không phóng túng, không có tạp niệm, thì sẽ thành tựu đại thần thông. Chú Lăng Nghiêm có năm hội (năm đệ), có trên ba mươi đoạn pháp. Trong Chú lại có : Pháp hàng phục, pháp câu triệu, pháp tiêu tai, pháp tăng ích, pháp thành tựu, pháp cát tường .v.v., rất nhiều loại pháp. ‘’ Hữu đức ngộ tư linh diệu cú.’’ Có đức hạnh mới gặp được pháp này. Người không có đức hạnh, thì có gặp được cũng không hiểu. Những câu Chú thâm diệu này, thâm sâu không thể nghĩ bàn. ‘’ Thời khắc mạc vong thiệu long xương.’’ Thời thời phút phút đừng quên pháp này, hay thành tâm chuyên nhất, thì rạng rỡ hưng thạnh Phật Pháp. Đó là lược nói đại khái về Chú Lăng Nghiêm. Nếu nói tỉ mỉ thì nói không hết được. Bạn muốn minh bạch, thì phải tự mình nghiên cứukỹ càng. Đây là diệu pháp trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, đừng để lỡ mất cơ hội.
PHƯƠNG TIỆN TRÌ CHÚ
Trì tức là thọ trì, thọ nơi tâm, trì nơi thân. ‘’Trì‘’ cũng giống như dùng tay cầm vật gì. Trì niệm thần Chúthì đừng quên nó, đừng thiếu nó, phải niệm từ từ, thời thời phút phút tụng trì Chú này.
Trì Chú nên có một đàn tràng, gọi là Chú đàn, cũng giống như truyền giới, cần có giới đàn. Chú đàn phải thanh tịnh, không cho người vào hỗn tạp, chỉ có người trì Chú, tu pháp ở trong đó. Nghi kiến lập đàn là phương tiện trước khi trì Chú, kiến lập đàn vốn có quy củ nhất định, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến, đây là vì người tụng Kinh hành đạo, cầu hiện chứng mà thiết lập. Hiện chứng là đời này đắc được lợi ích của Chú. Nếu "truy tố" phát tâm tán trì. "Truy" là người xuất gia ; "tố" là người tại gia, tán trì tức là không có đàn tràng, như vậy phải chuyên nhất tâm ý kiền thành cung kính. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Nếu có chúng sinh, tâm khởi tán loạn, thì chẳng phải là Tam Ma Địa (định lực). Tâm nhớ miệng trì là Kim Cang Vương, thường tùy tùng theo các người thiện nam, hà huống người quyết định phát đại tâm bồ đề.’’ ‘’ Tán tâm trì Chú không ở trong định, thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Vương hộ pháp thường theo bạn, hà huống quyết định phát đại tâm bồ đề !‘’ Trong Kinh lại nói : ‘’ Nếu không làm đàn, không nhập đạo tràng, cũng không hành đạo, tụng trì Chú này, vẫn đồng công đức nhập đạo tràng không khác. Cho đến đọc tụng biên chép Chú này, có ở trong người, thì ở đâu cũng yên nhà cửa vườn tược, tích nghiệp như thế không lâu sẽ ngộ vô sinh nhẫn.’’
Chỉ nói đơn giản chỗ chính yếu. Trì Chú phải "ba mật" tương ưng mới đắc được cảm ứng. Ba mật tức là : Miệng tụng thần Chú, tâm tưởng chữ Phạn, tay kết ấn tướng, cũng gọi là ba đàn. Tại sao gọi là thần Chú ? Vì diệu không thể tả. Tâm tưởng chữ Phạn, là quán tưởng mặt sau tâm Chú của mỗi chữ Phạn. Ba mật tương ưng tức là phương tiện trước khi trì Chú.
Thứ nhất là ‘’ Chú ngữ đàn.’’ Trì Chú thì tự nhiên kết thành đàn, đây là nói mỗi ngày, hoặc mỗi lần trước tiên niệm Chú Lăng Nghiêm một biến, sau đó trì tâm Chú một trăm lẻ tám biến. Tâm Chú tức là : ‘’ Đát điệt tha. Án a na lệ tì xá đề, bệ ra bạt xa ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàng ni, phấn hổ hồng đô lô ung, phấn ta bà ha.’’ Tâm Chú này diệu không thể tả. Nếu trên thế gian không còn ai niệm Chú Lăng Nghiêm, thì tất cả yêu ma quỷ quái đều xuất hiện ra đời. Tâm Chú này có hai câu : ‘’ A na lệ, tì xá đề.’’ Một câu nghĩa là "dọc cùng tam tế", một câu nghĩa là "ngang khắp mười phương". Một khi niệm hai câu Chú này, thì thiên ma ngoại đạo không có chỗ đào thoát. Chúng sẽ lão lão thực thực nghe vẫy kêu. Chỉ sức lực của hai câu Chú này, thật không thể nghĩ bàn. Nếu sáng sớm bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm một lần, sau đó tụng tâm Chú 108 lần, thì sẽ được phước báu vô lượng vô biên. Cho nên nói, nếu bạn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, thì đời sau sẽ đắc được giàu sang phú quý bảy đời. Đây là nói bạn muốn cầu phước báu trời người, nếu không muốn cầu, thì đương nhiên không cần. Nếu bạn muốn cầu quả báoxuất thế, thì sẽ đạt được mục đích. Đây là ‘’ Chú ngữ đàn.’’
Thứ hai là :‘’ Tâm tưởng đàn.’’ Nghĩa là khi tụng tâm Chú, thì quán tưởng từng chữ Phạn. Nói đến chữ Phạn, có lúc sự tình không nhất định minh bạch, nếu minh bạch thì nhuệ khí, cảm thấy đã đủ rồi. Nếu không minh bạch, thì cảm thấy có chút ý nghĩa trong đó. Không minh bạch thì ví như ăn thức ăn, chưa ăn thì cảm thấy ngon, ăn rồi thì nếm qua : chua ngọt đắng cay, tâm tham ăn đã dừng lại, cảm thấychẳng còn ngon nữa. Tu hành cũng như thế.
Nếu bạn không biết ý nghĩa của Chú, ý nghĩa chữ Phạn thì cảm thấy diệu không thể tả. Tâm niệm luôn luôn nghĩ muốn biết, nếu bạn biết rồi thì không chú ý. Quán tưởng chữ Phạn cũng lại như thế, vì chữ Phạn chúng ta chưa học qua, nên không biết ý nghĩa của nó, không giống như chữ Tàu. Đây là chữ ‘’ đại ‘’ kia là hai chữ ‘’ Bồ Tát.‘’ Quán tưởng chữ Phạn sẽ đắc được ngũ nhãn lục thông, phải quán tưởngtừng chữ rõ ràng, mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng, lâu dần thì chỗ diệu dụng sẽ phát sinh, có thể khiến cho bạn khai mở ngũ nhãn lục thông, thông nhân đạt quả, là vì chúng ta không minh bạch chữ Phạn, thì có một sức lực thần diệu.
Quán tưởng chữ Phạn cũng là phương pháp khóa tâm lại, chế tâm tại một chỗ đừng cho khởi vọng tưởng, ấn nhập từng chữ Phạn vào trong tâm, bất cứ mở hoặc nhắm mắt đều rõ ràng. Như thế lâu dần sẽ đắc được tam muội.
Thứ ba là :‘’ thủ ấn đàn.’’ Thủ ấn cũng gọi là thủ quyết. Một số cho rằng Kháp quyết niệm Chú tức là Sáp quyết. Đã minh bạch Chú ngữ đàn và quán tưởng đàn rồi, thì Thủ ấn đàn cũng phải minh bạch. Trong quyển Nhứt Tự Phật Đảnh Luân Vương Niệm Tụng Nghi Quy cũng nói rõ : ‘’ Bạch tản cái Phật đỉnh ấn ‘’, dùng hai ngón cái, mỗi ngón bắt lấy đầu ngón thứ tư, chạm nhau, hai đầu ngón cong như hình cái lọng, hai ngón giữa cong một chút chạm nhau, hai ngón út dựng thẳng chạm nhau tức thành đại bạch tản cái Phật đỉnh luân vương. (Xem hình ở dưới).
Kháp quyết niệm Chú, tức là bạn phải tập trung tinh thần, bạn làm động tác này, thì không nên khởi vọng tưởng gì khác. Chẳng phải ý nghĩa gì khác, chẳng phải nói một khi Kháp quyết thì linh. Nếu bạn không có vọng tưởng gì khác, không Kháp quyết cũng là ba mật tương ưng. Nên biết chân lý, tại sao phải có ba mật tương ưng ? Vì Chú ngữ đàn, quán tưởng đàn, thủ ấn đàn, đều muốn bạn đừng khởi bất cứ vọng tưởng gì. Cho nên chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán loạn.
Lại có Thủ ấn Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược. Không giống ‘’ Bạch tản cái Phật đỉnh ấn ’’ rất phức tạp. Hai bàn tay nắm lại, gọi là Kim Cang chưởng, nhưng đừng trợn mắt, bằng không thì thành Kim Cang trợn mắt. Mười ngón tay bắt chéo với nhau ngửa lên, gọi là thủ ấn Kim Cangchưởng, úp xuống gọi là thủ ấn Kim Cang phược. (Xem hình ở dưới) Hết thảy pháp Tam muội đều do Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược sinh ra. Khi bạn niệm Chú thì ba đàn tương ưng. Ba thủ ấn này muốn kết ấn nào cũng được, đều thành ‘’Lăng Nghiêm vương đại bạch tản cái Phật đỉnhtâm Chú ấn.’’ Sau đó quán tưởng tụng niệm Chú này, thì ba mật sẽ tương ưng. Được như thế thì sẽ đắc được thân, miệng, ý tam luân không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật. Bất cứ sở cầu thế gian, xuất thế gian, không có gì mà chẳng được như ý, nhưng tốt nhất vẫn là vô sở cầu. Vì có sở cầu thì có tâm tham, có tâm tham thì chẳng đắc được cảm ứng hiện thời, không thể được vô lượng công đức. Nếu vô sở cầu thì công đức mới lớn.
Nếu bạn không thể bắt ấn, thì trong bộ mật có ba bài Chú, tùy ý niệm cũng thành đàn. Thứ nhất là Pháp Giới Chân Ngôn : "Án phạ nhật la đà đổ một.’’ Niệm rồi thì pháp giới đều thanh tịnh. Thứ hai là Thanh Tịnh Chân Ngôn : ‘’ Án lam sa ha.’’ Thứ ba là khi Phóng Diệm Khẩu thì niệm Ba Đàn Chân Ngôn : ‘’ Án hạ hồng.’’ Ba đàn tức là Phật, Pháp, Tăng.
Chữ "Án" là trên đỉnh Tỳ Lô làm Phật đàn.
Chữ "Hạ" là trong miệng Di Đà làm Pháp đàn.
Chữ "Hồng" là trong tâm A Súc làm Tăng đàn.
Ba câu Chú này mỗi câu niệm bảy biến, thì ba mật cũng tương ưng. Trước khi niệm Chú, niệm ba bài Chú này cũng rất tốt.
(Culadhammasamadanasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, Tinh xá ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo!
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, có bốn loại pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện tại lạc, và tương lai quả báo cũng lạc.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là loại pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau: “Không có lỗi trong các dục”. Những vị này đắm mình trong các dục, hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như sau: “Làm sao các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn kia thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có lông mịn của các cô gái lang thang trẻ trung này!” Sau khi đắm mình trong các dục, khi thân hoại mạng chung, các vị ấy phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt. Họ nói như sau: “Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Nhưng chúng ta, do các dục này làm nhân, do các dục này làm duyên, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt”. Này các Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa nóng, một bẹ hột giống cây leo nứt ra và này các Tỷ-kheo, một hột giống cây leo rơi dưới gốc một cây sa-la. Này các Tỷ-kheo, các vị thần ở trên cây sa-la ấy lo sợ, run sợ, và hoảng sợ. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống các vị thần trên cây sa-la ấy, thần vườn, thần rừng, thần cây, thần các dược thảo, cỏ, rừng hội họp lại, an ủi như sau: “Này Tôn giả, chớ có sợ hãi! Này Tôn giả, chớ có sợ hãi! Vì hạt giống ấy, con khổng tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có thể không nẩy mầm”. Nhưng này các Tỷ-kheo, hạt giống ấy, con khổng tước không nuốt, con nai không ăn, lửa rừng không đốt, người làm rừng không nhặt đi, các loài mối không ăn, và hạt giống có thể nẩy mầm. Được mưa lớn nhờ các làn mây đúng mùa, hạt giống ấy được lớn lên, và một dây leo trẻ, mềm mại, có lông, chậm chậm mọc lên và bám dính cây sa-la ấy. Này các Tỷ-kheo, các vị thần trên cây sa-la ấy suy nghĩ như sau: “Không hiểu vì sao các Tôn giả bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy, các thần vườn, thần rừng, thần cây, các vị thần trên các dược thảo, cỏ, rừng, thấy sự sợ hãi tương lai trong hột giống, hội họp lại, an ủi như sau: “Này Tôn giả, chớ có sợ hãi! Này Tôn giả chớ có sợ hãi! Vì hột giống ấy, con khổng tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, những người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có thể không nẩy mầm”. Khoái lạc thay sự xúc chạm của cây leo trẻ trung mềm mại, có lông đang bám vào!” Cây leo ấy có thể bao trùm cây sa-la ấy, sau khi bao trùm, liền làm thành một tàn che trên cây ấy, và ở dưới khởi lên cả một lùm cây rậm rạp. Khi ở dưới khởi lên cả một lùm cây rậm rạp, các cành lớn của cây sa-la ấy có thể bị bóp nghẹt. Rồi này các Tỷ-kheo, các thần trú trên cây sa-la ấy suy như sau: “Chính vì thấy sự sợ hãi tương lai này, trong hột giống cây leo ấy mà những Tôn giả, bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy, các thần vườn, thần rừng, thần cây, các vị thần ở trên các dược thảo, cỏ, rừng, đã hội họp lại và an ủi như sau: “Này Tôn giả chớ có sợ hãi! Này Tôn giả, chớ sợ hãi! Vì hạt giống ấy, con khổng tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, những người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có thể không nẩy mầm”. Và nay ta, vì nguyên nhân hạt giống cây leo, cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau: “Không có lỗi trong các dục”. Những vị này đắm mình trong các dục, họ hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như sau: “Làm sao các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có lông mịn của cô gái lang thang trẻ trung này!” Sau khi đắm mình trong các dục, khi thân hoại mạng chung, họ phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt. Họ nói như sau: “Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Nhưng chúng ta, vì nhân các dục này, vì duyên các dục này, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt”. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn đặt tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo cám. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị ấy chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn cám, uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tikitaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người tập tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, là người ngồi chò hỏ, sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dấu thân mình, sống và ngủ ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, theo hạnh ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như vậy, vị ấy sống theo hạnh hành hạ xác thân dưới nhiều hình thức như vậy. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra quá nặng về tham ái, luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh; có người tự tánh sanh ra quá nặng về sân hận, luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do sân hận sanh; có người tự tánh sanh ra quá nặng về si mê, luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Với khổ và với ưu, với mặt đầy nước mắt và khóc than, vị ấy sống theo phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra không quá nặng về tham ái, không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh; có người tự tánh sanh ra không quá nặng về sân hận, không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do sân hận sanh; có người tự tánh sanh ra không quá nặng về si mê, không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Vị ấy ly dục, ly các pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ; diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba; xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc. Này các Tỷ-kheo, như vậy là bốn loại pháp hành.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
TIỂU KINH PHÁP HÀNH, THỨ BỐN MƯƠI LĂM HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________________
>>> 44.Tiểu kinh Phương Quảng
CHÚ LĂNG NGHIÊM (CỔ PHẠN) Bài chú này gồm 458 câu, dài hơn bài chú thường phổ biến 31 câu, do Cư sĩ Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả phiên âm từ cổ Phạn trong Mật tạng (bản in của Nhật Bản): “Phật Đảnh Quang Tụ, Bạch Tán Cái, Đà Ra Ni”, để cúng dường Tam Bảo và hồi hướng công đức về Pháp Giới Chúng Sinh.
|
(Culavedallasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương-xá), tai Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visakha đến chỗ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visakha thưa với Tỷ-kheo-ni Dhammadinna:
– Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya), được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền giả Visakha, năm thủ uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.
– Lành thay, thưa Ni sư.
Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinna nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinna thêm một câu hỏi nữa:
– Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân tập khởi (Sakkaya samudaya) là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha, khát ái này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.
– Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.
– Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, Con đường Thánh tám ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
– Thưa Ni sư, thủ này tức là năm thủ uẩn kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?
– Không phải, Hiền giả Visakha. Thủ này tức là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia, Hiền giả Visakha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.
– Thưa Ni sư, thế nào là thân kiến?
– Ở đây, Hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc là tự ngã hay xem tự ngã là có sắc, hay xem sắc là trong tự ngã hay xem tự ngã là trong sắc; xem thọ là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thọ; xem tưởng là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự ngã, xem tự ngã là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong hành; xem thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha, là thân kiến.
– Thưa Ni sư, thế nào là không phải thân kiến?
Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Đa văn Thánh đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc; không xem thọ là tự ngã, không xem tự ngã là có thọ, không xem thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ; không xem tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem các hành là tự ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các hành là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong các hành; không xem thức là tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha, là không có thân kiến.
– Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo Tám ngành?
– Hiền giả Visakha, đây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
– Thưa Ni sư, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi hay vô vi?
– Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi.
– Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
– Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn.
– Thưa Ni sư thế nào là định, thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?
– Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy.
– Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?
– Hiền giả, có ba loại hành này: thân hành, khẩu hành, và tâm hành.
– Thưa Ni sư, thế nào là thân hành, thế nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?
– Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, là thân hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm hành.
– Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra là thân hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?
– Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, thuộc về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra thuộc về thân hành. Hiền giả Visakha, trước phải tầm và tứ rồi sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu hành. Tưởng và thọ là tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên tưởng và thọ thuộc về tâm hành.
– Thưa Ni sư, như thế nào là chứng nhập Diệt thọ tưởng định?
– Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: “Tôi sẽ chứng nhập Diệt thọ tưởng định”, hay “Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định” hay “Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định”. Vì rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.
– Thưa Ni sư, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, những pháp gì diệt trước, thân hành, hay khẩu hành, hay tâm hành?
– Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành, rồi đến tâm hành.
– Thưa Ni sư, làm thế nào xuất khởi Diệt thọ tưởng định?
– Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, không có nghĩ rằng: “Tôi sẽ xuất khởi Diệt thọ tưởng định”, hay “Tôi đang xuất khởi Diệt thọ tưởng định”, hay: “Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định”. Vì rằng tâm của vị này trước đã tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.
– Thưa Ni sư, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành, hay khẩu hành hay tâm hành?
– Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến thân hành, rồi đến khẩu hành.
– Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?
– Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô nguyện xúc.
– Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về gì, khuynh hướng về gì?
– Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư, hướng về độc cư, khuynh hướng về độc cư.
– Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ?
– Hiền giả Visakha, có ba thọ này, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
– Thưa Ni sư, thế nào là lạc thọ, thế nào là khổ thọ, thế nào là bất khổ bất lạc thọ?
– Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy là lạc thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách đau khổ, không khoái cảm, như vậy là khổ thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm không khoái cảm, không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.
– Thưa Ni sư, đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Đối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Đối với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?
– Hiền giả Visakha, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ. Đối với khổ thọ, cái gì trú là khổ, cái gì biến hoại là lạc. Đối với bất khổ bất lạc thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.
– Thưa Ni sư, trong lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong bất khổ bất lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại?
– Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
– Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
– Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.
– Thưa Ni sư, trong lạc thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, cái gì phải từ bỏ?
– Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
– Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ?
– Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm và tứ. Do vậy tham đã được từ bỏ, không còn tham tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo suy tư như sau: “Chắc chắn ta sẽ chứng và an trú trong trú xứ mà nay các vị Thánh đang an trú”. Vì muốn phát nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô thượng, do ước nguyện ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vậy vô minh đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại ở đây.
– Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, lạc thọ lấy khổ thọ làm tương đương.
– Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, khổ thọ lấy lạc thọ làm tương đương.
– Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, bất khổ bất lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.
– Thưa Ni sư, vô minh lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, vô minh lấy minh làm tương đương.
– Thưa Ni sư, minh lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, minh lấy giải thoát làm tương đương.
– Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, giải thoát lấy Niết-bàn làm tương đương?
– Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm tương đương?
– Hiền giả Visakha, câu hỏi đi quá xa, vượt ra ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền giả Visakha, phạm hạnh là để thể nhập vào Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để đạt cứu cánh Niết-bàn. Hiền giả Visakha, nếu Hiền giả muốn, hãy đến chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời cho Hiền giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Rồi nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni Dhammadinna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna, thân bên phải hướng về phía Tỷ-kheo-ni rồi từ biệt, đi đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, nam cư sĩ Visakha thuật lại cho Thế Tôn tất cả câu chuyện đàm đạo với Tỷ-kheo-ni Dhammadinna. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với nam cư sĩ Visakha:
– Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc Hiền trí! Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc Đại tuệ. Này Visakha, nếu Ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, Ta cũng trả lời như Tỷ-kheo-ni Dhammadinna đã trả lời. Ông đối với nghĩa này, hãy như vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
TIỂU KINH PHƯƠNG QUẢNG, THỨ BỐN MƯƠI BỐN HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________________________________
>>> 43. Đại Kinh Phương Quảng
CHÚ LĂNG NGHIÊM
Trong phần giảng giải Chú Lăng Nghiêm, câu chú 472 và câu chú 488, Hòa Thượng Tuyên Hóa nói:
“Mỗi câu Chú đều có ý nghĩa của nó, các tổ sư trong quá khứ từng có sớ Chú Lăng Nghiêm, thịnh hànhsâu rộng, chiếu theo chân ngôn để phiên dịch, nhưng đều không dễ hiểu. Hiện tại tôi là sơn tăng, chẳng có tri thức gì, lại vào thời mạt pháp, biết rằng Chú Lăng Nghiêm rất quan trọng. Có Chú Lăng Nghiêm thì thế giới sẽ có sáng tỏ, không có Chú Lăng Nghiêm thì thế giới sẽ đen tối. Tôi dùng bốn câu kệ để giảng mỗi câu Chú Lăng Nghiêm. Mặc dù tôi không đủ tư cách để làm kệ, nhưng tôi không ngại sự khó khăn, khai quật mỏ đá để tìm cho được ngọc. Có thể sau này có người chân chánh hiểu biết, chân chánh Bồ Tát thị hiện, chân chánh tổ sư khai ngộ, sẽ mô tả, phô bày minh bạch những thuyết minh về Chú Lăng Nghiêm. Đây chính là hy vọng của tôi, hy vọng mọi người đều hiểu rõ Chú Lăng Nghiêm, đây cũng là động cơ khiến tôi tả kệ. Mặc dù các vị đã nghe nhiều năm, nhưng vẫn không biết vì sao tôi lại giải thíchnó. Nếu hiểu rõ Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ minh bạch tất cả bí mật tinh hoa của Phật giáo.”
Từ Hoa tôi không quản ngại sức hiểu biết thô thiển của chính mình, cố gắng sử dụng âm điệu thi ca, ghi âm, hầu giúp cho sự ghi nhớ dễ dàng hơn, phiên dịch 554 bài thi kệ từ nguyên bản Hán văn của Hòa Thượng. Một vài chỗ người dịch sử dụng phần giảng giải của tác giả khi chú dịch phần kệ tụng để nghĩa lý không quá cô đọng, dù mở rộng chút ít nhưng vẫn theo sát đường lối giảng giải của Hòa ThượngTuyên Hóa. Người đọc có thể đối chiếu phần Hán văn 554 bài kệ đính kèm.
(bắt đầu dịch ngày rằm tháng 3, Đinh Dậu 2017, hoàn tất mùng 1 tháng 5, Đinh Dậu 2017)
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Hội thứ nhất
Tỳ Lô Chân Pháp Hội
Hội thứ nhất
Tỳ Lô Chân Pháp Hội
Con nay cung kính khấu đầu quy mạng
Tam nghiệp đều thanh tịnh cả thân tâm
Bồ đề hay phiền não vốn do tâm
Mê tức tục, giác ấy là chư Phật
Như hoa trong gương, không đi, không đến
Nước lồng trăng, chẳng có cũng chẳng không
Tuyệt tướng, ly trần, đâu là chỗ cầu mong
Đầu lại thêm đầu chẳng khác chàng Diễn Nhã
Chân cúng dường cõi trời người tiếp nhận
Phước tuệ gieo trồng như ý toại thông
Vạn hạnh viên toàn đầy đủ quả nhân
Nên danh hiệu gọi là vua Đại Giác
Pháp giới hư không quang minh trùm khắp
Thập phương tam thế đại trí tuệ tôn
Thân tâm con quy phục tánh thiên chân
Biết cùng tột diệu pháp tràng chư Phật
Tin ngài phước tuệ tròn đầy, con quy ngưỡng
Hằng bố thí trong ngoài, nên hiệu gọi Năng Nhân
Không cấu nhiễm, không cố chấp, biện phân
Nên cái thấy ta, người, đều buông bỏ
Muôn ức thân tướng trang nghiêm rạng rỡ
Đại Phật đảnh nghiêm mật, áng linh văn
Nếu người chuyên tâm trì tụng tinh cần
Lòng mở rộng khi nương về đại pháp
Nhất tâm cung kính hằng sa Bồ Tát
Mầm mống Bồ Đề là ruộng phước sạch trong
Tinh tấn đắp bồi vun tưới gieo trồng
Công quả viên thành dự Long Hoa hội
Đại triệt ngộ bậc trượng phu các cõi
Phước tuệ đủ đầy làm sư biểu trời người
Nhân địa lấy lục độ ba-la-mật vun bồi
Thành vạn hạnh quả như như diệu giác
Trước con cầu con đường vào Phật tuệ
Sau dùng tâm bi hóa độ chúng sanh
Khẩu, ý, thân, khéo chế phục, tu hành
Thuyết sâu rộng tham sân si tam độc
Bậc đại đạo tâm kiên trì dũng mãnh
Vốn như hoa sen không vướng bụi trần
Ngày đêm sáu thời cảnh giác chuyên cần
Như đang luyện vàng ròng trong lửa đỏ
Khắp cả ba đời mười phương chư Phật
Tích lũy công đức vì pháp xã thân
Nương Bồ Tát đạo kiếp kiếp cung huân
Giúp cọp, cứu chim, mong cầu đại giác
Chư Phật, Bồ Tát, số nghìn muôn ức
Đứng đầu thánh chúng giúp đỡ người tu
Dùng chân tâm cầu đạo chẳng thối lui
Vị lai hẳn sinh Vô Ưu quốc độ
Tu đạo huyền chốn núi sâu rừng thẳm
Thập nhị nhân duyên, vạn vật diệt rồi sanh
Xuân đơm hoa, thu úa lá rời cành
Hằng quán chiếu hốt nhiên tâm tỉnh giác
Quả vị Tư Đà Hàm, Bích Chi Phật
Duyên Giác và Độc Giác, nghĩa như nhau
Tinh tiến nhất tâm quyết chí chùi lau
Làm thượng thủ hữu học và vô học
Vô sinh là Ứng cúng và Sát tặc
Cần phải cấy cầy ruộng phước thế gian
Quả vị bồ đề vô thượng vun trồng
Khi Hoặc tận, Chân thuần, thành Phật đạo
Nay vào được dòng thánh nhân pháp tánh
Tức ngược lại dòng phàm tục sáu trần
Kiến Hoặc nơi Sơ Quả đã đoạn trừ
Thuyền đại đạo gắng công vào bến giác
Tư Đà Hàm, gọi Nhất Vãng Lai mà chẳng thật
Đoạn tận Tư Hoặc an tọa đài hoa
Mười tám quyền biến, hóa hiện lại qua
Du hí tự tại muôn nghìn ức cõi
Chư hiền thánh tăng thế gian mỗi mỗi
Cầu bậc chánh đẳng chánh giác đại trí tôn
Bảo trì, dung nạp, tiếp nhận chúng con
Viên mãn Bồ Đề bất tăng bất giảm
Không nơi Dục giới Niết Bàn chứng đắc
Nguồn cội vạn pháp thấu hiểu tận tường
Tâm thường thanh tịnh chẳng chút vấn vương
Không động không tĩnh, im lời lặng tiếng
Chư vị hộ pháp thiên thần, thiên tướng
Nay con khẩn cầu chư vị quang lâm
Thưởng thiện phạt ác, tra xét công tâm
Cẩn thận tu trì không hề rối loạn
Con đảnh lễ Dục Giới và Sắc Giới
Cõi trường sinh bất lão luyện tiên đơn
Ngũ khí hội tụ thấy được tánh chơn
Hoán chuyển thuần dương thọ thân vạn tuế
Biết đủ nên an lạc, bậc Bổ Xứ
Không âu sầu lo nghĩ chướng ngại tâm
Thuận cơ duyên giáng hạ cõi phàm trần
Dạy trai gái đang trầm luân trong các cõi
Tứ Đại Thiên Vương chiếu soi thiện ác
Thống lãnh quỷ thần tra xét ngày đêm
Phước họa do tâm người tự kiếm tìm
Nhân quả xoay vòng chớ nên than trách
Hóa Lạc thiên cung diệu kỳ biến hóa
Thế gian khó lường tự tại tiêu dao
Thực phẩm, thiên y toại ý mong cầu
Nên là cõi không ưu tư, phiền não
Tha Hóa Tự Tại cực kỳ thâm áo
Vô cùng khoái lạc rất đổi bình an
Ưa đạm bạc, lìa dục, giảm thiểu tâm tham
Lập công hạnh, tu thiện và tích đức
Quyến thuộc chư thiên năng trồng nhân phước
Đồng tu thiện đạo se kết thiện duyên
Biết khoái lạc kia chẳng phải chỗ hoàn nguyên
Nên tu tập phát tâm cầu giải thoát
Chư vị thiên tiên trong ba nghìn thế giới
Nhẫn nhục tinh tấn tu đạo kiên tâm
Dù thánh hay phàm không thể xem thường
Hầu trừ khử tâm cống cao ngã mạn
Đại Phạm Thiên vốn lìa xa trần cấu
Đức độ trang nghiêm lẫm liệt uy phong
Nên là giáo chủ Bà-la-môn tông
Tự tại an nhiên tâm hằng thiểu dục
Nhân-đà-la, vị chân thần thiên chủ
Hành Bồ-tát-đạo, ẩn thực, dụng quyền
Tích thiện tu phước lục độ cần chuyên
Chư thánh chúng, Phạm thiên đều tôn kính
Nghĩa Bà-già-phạm không nên phiên dịch
Cực kỳ tự tại tối diệu đoan nghiêm
Nghe được danh xưng ứng hiện điềm lành
Bậc tôn quý trời người đồng chiêm ngưỡng
Trời Tự Tại, các thiên thần quyến thuộc
Các Thổ Địa thần bảo vệ trước sau
Hành giả nhất tâm tu chân lý tối cao
Chớ sân hận thì chư thần gia hộ
Tối Thắng, Mãnh Tật là tên thần gió
Dời nhà, bứng gốc, kinh hãi lắm thay
Cõi tam thiền cũng e sợ nạn tai
Tự chiêu cảm trầm luân vì sân hận
Lửa dữ khó cam đốt thiêu gay gắt
Bảy mặt trời cùng hiện với nạn tai
Núi khô biển cạn hủy diệt muôn loài
Thành trụ hoại không mênh mông biển nghiệp
Quy mạng Thế Tôn thân tâm thu nhiếp
Pháp bảo vô tận thường tại tịch nhiên
Hội khắp mười phương chư vị thánh hiền
Trước Phật tổ đồng nhất tâm đảnh lễ
Nơi cung rồng cai quản loài thủy tộc
Đại dương xanh sâu thẳm sóng trùng trùng
Nước dưỡng sinh muôn vật được thấm nhuần
Biển lớn mênh mông mưa rơi tầm tã
Thuấn-nhã-đa tức Không, vô hình tướng
Nhìn mà chẳng thấy, nghe ấy chẳng nghe
Hai mươi kiếp số thành trụ hoại không
Kim cang đại định không lay không động
Ca nhạc diệu âm mở ra đại hội
Người câm xướng tụng, kẻ điếc lại nghe
Ông lão mù lòa mở đôi mắt tròn xoe
Hoan hỉ hợp hòa ngói gỗ đá đất
Như mây quang minh, tam muội hải ấn
Sum la vạn tượng ảnh hiện chập chùng
Như mộng huyễn, như bóng bọt nước trong
Như ánh chớp, như giọt sương đọng lại
Không vọng tuởng an trụ trong tự tại
Đuốc trí rạng ngời chiếu sáng Phạm cung
Ba nghìn thiên giới đoan chính uy phong
Như gốc tùng mãi xanh tươi không ủ rủ
Đại Bi là tên Đại Phạm thiên chủ
Cứu hộ chúng sinh tất cả hồi quy
Quán chánh tà dùng ba mắt bốn tay
Tâm minh chánh khi thưởng hiền phạt ác
Vua đại dũng mãnh quang minh chiếu khắp
Trí tuệ bất-không hiển lộ tánh chân
Quyền biến thị hiện, cổ Phật Nhiên Đăng
Đưa khắp chúng sinh vào nơi thọ pháp
Binh trời tướng trời oai hùng, dũng mãnh
Quét sạch quần ma, trấn áp khí tà
Thanh lọc pháp giới, công đức hằng sa
Bảo vệ chánh giáo đời đời hưng thạnh
Chư vị tuần tra thế gian bốn cách
Quán sát thiện ác chẳng trọng chẳng khinh
Năm tháng ngày giờ rất mực phân minh
Nhân quả báo ứng không hề sai khác
Trí tuệ tư duy khó ai trấn áp
Các bậc đại hùng tam thập tam thiên
Những kẻ ngỗ nghịch trong tứ đại châu
Quả ác báo, vòng luân hồi khó tránh
Vị đại thiên thần Bảo Kế Hỏa Đảnh
Tu hành thập thiện tích tụ công phu
Quỷ tiên linh vật đồng đến bái ân
Một lòng tin giữ con đường nhân quả
Hiệu là Thắng Quân, đội binh vô địch
Quân đối phương bỏ giáp tự quy hàng
Dứt họa tai, lấy đức phục nhân quần
Dẹp kẻ dữ khiến an bình các chốn
Vân Đồng Mộc Mẫu đi trong gió cuốn
Sấm chớp vang rền lay tỉnh kẻ điếc mù
Vạn vật hóa sinh tịch tĩnh tự nguyên lai
Viên thông bởi tục, chân, đồng hỗ dụng
Năng lễ, sở lễ tánh tướng không tịch
Tĩnh lặng không lời nhưng cảm ứng đạo giao
Khi quyền, khi thực, thiên chúng hiện thân
Khắp các cõi hằng khấu đầu đảnh lễ
Từ Đâu Suất nhập thai mà giáng thế
Xuất gia khổ hạnh tu đạo đắc thành
Chuyển đại pháp luân hóa độ quần sanh
Mở chánh pháp thuyết Bồ Đề vô thượng
Tỳ Lô Giá Na trung ương Phật bộ
Chủng tộc Như Lai giáo hóa quần sinh
Hành vạn hạnh ba-la-mật pháp môn
Chứng đắc viên thông chư pháp vô ngã
Cõi Tây phương A Di Đà hoa sen báu
Mong đợi chúng sinh sớm đến nhà thôi
Một lòng trì danh hiệu Phật chớ thoái lui
Mười vạn ức cõi đến liền trong chớp mắt
Chủ Kim Cang bộ là Phật A Súc
Đại tướng Dược Xoa lần lượt tuần tra
Phải ẩn thân các quyến thuộc thiên ma
Ngựa thần, trâu quỷ nhanh chân chạy trốn
Chủ Ma Ni bộ là Bảo Sinh Phật
Bồ tát Hư Không và quyến thuộc vây quanh
Vị trí phương Nam thuộc lửa Bính Đinh
Hào quang đỏ chiếu Khảm Ly rực rỡ
Bộ Yết Ma chủ về quy tắc và chức sự
Bồ tát Địa Tạng và quyến thuộc đông đầy
Nghiệp báo thiện ác không sai khác mảy may
Diêm Chúa vốn lạnh lùng gương mặt sắt
Bậc đại đạo sư chánh đẳng chánh giác
Hồ sen thơm tiếp dẫn chúng hữu tình
Thấy Di Đà, Quán Tự Tại lúc vãng sinh
Đại Thế Chí vẫy tay mau chóng đến
Tâm bồ đề vững vàng không lui sụt
Tinh tấn dũng mãnh, đã chân lại càng chân
Mầm mống nảy sinh, trổ lớn, đến bờ kia
Đất gạch ngói đá hóa thành vàng khối
Phá lưới Ma La thắng loài ma quái
Kẻ không ngay thẳng rất đổi hãi kinh
Uy đức trang nghiêm khuất phục giặc trời
Mắt khéo thấy xưa nay không ngăn ngại
Không một ai hơn, như ý tự tại
Sư tử vương cất tiếng rống uy linh
Kết vòng hoa, hương vi diệu trang nghiêm
Ngộ chân tuệ nếu năng trì chánh giới
Vi diệu vô cùng Như Lai biến hóa
Giảng kinh thuyết giáo độ kẻ mê si
Ai biết tín thọ phụng hành thì khổ xả ly
Niệm Phật hiệu, trì chân ngôn, thấy Phật
Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Như Lai Ứng Cúng cõi trời người
Minh Hạnh Thiện Thệ Thế Gian Giải
Nay con chí tâm quy mạng kính lễ
Con quy mạng Tây Phương Vô Lượng Giác
Tướng tướng hoàn hảo trí tuệ quang minh
Y báo, chánh báo thanh tịnh trang nghiêm
Vô lượng số thánh hiền trong cõi nước
Đảnh lễ môn đồ Như Lai cùng khắp
Chư đại trượng phu, con cung kính một lòng
Nguyện chư vị từ bi nhiếp thọ ban ân
Thường vì chúng con mà phù trì, gia hộ
Tất cả dòng tộc quốc vương ứng hóa
Theo duyên xưa sinh vào chốn giàu sang
Trợ giúp chư Phật hoằng hóa, tuyên dương
Hướng dẫn kẻ ương ngạnh lìa ba cõi ác
Nay quy mạng chư thánh hiền chánh giác
Độ ba cõi, trời người đều phải kính dâng
Phát lời thề thoát khổ cứu chúng sinh
Đất chấn động, loài ma trời kinh hãi
Là bậc cha lành của chúng sinh trong chín cõi
Khắp mười phương cõi nước Đại Giác Tôn
Hóa độ người thấy tướng hoặc nghe danh
Dù sâu bọ cũng dựa nương, phó thác
Đông Phương Bất Động Hoan Hỷ Quang Phật
Hiện tướng dữ hàng ma, Bồ tát Kim Cương
Độ người dùng nhiếp thọ, chiết phục, hai đường
Thuận hoặc nghịch đều hổ tương vi diệu
Lễ kính chư Phật chí thành thiết yếu
Cảm ứng đạo giao tự nhiên tương thông
Vì pháp nên tinh tấn chẳng nản lòng
Thấy chư Phật hiện thân trong giấc mộng
Con đảnh lễ tất cả các hàng vương tộc
Một lòng cung kính chờ mối duyên lành
Công viên quả mãn đại đạo tựu thành
Chứng đắc như như vào nhà chư Phật
Con quy mạng Thiên Trung Thiên chánh giác
Chư vị thánh hiền pháp giới hư không
Cầu xin từ bi nhiếp thọ chúng con
Giúp Vạn Phật Thành vạn ức năm không mất
Khắp cả mười phương ba đời chư Phật
Một pháp thân bản thể vốn tự đồng
Bất cấu, bất tịnh, bất giảm, bất tăng
Là đuốc lớn cho chúng sinh mãi mãi
Đông Phương Dược Sư Lưu Ly Quang Phật
Vào được nước ngài, Phật độ kẻ hữu duyên
Họa tiêu trừ, tăng phước báu, sống dài lâu
Đảnh lễ Phật, xưng danh, liền thấy Phật
Dược Sư Như Lai hào quang xanh biếc
Thân Phật đủ đầy tướng hảo trang nghiêm
Nhiếp hộ chúng sinh hiện vô số ứng thân
Mong sớm phát tâm Bồ Đề thoát khổ
Trí tuệ quang minh đại tài Bát Nhã
Chiếu khắp pháp giới bản thể Như Lai
Quán Tự Tại đạo tràng bất động bổn tòa
Tịch diệt an vui rỡ ràng sáng tỏ
Xưng tán Phật, trước môn đồ ngài con đảnh lễ
Khắp các cõi nước con nguyện cúng dường
Sám hối nghiệp chướng con nguyện tinh cần
Với công đức người, con luôn luôn tùy hỷ
Bậc giác ngộ viên mãn nhất thiết trí
Hiện tướng lưỡi rộng dài phá quần mông
Thuyết lời thành thật thức tỉnh kẻ cuồng ngông
Nương giáo lý thực hành, đời mấy kẻ?
Các cõi nước có quang minh rạng rỡ
Trên trời Hữu Đảnh dưới Địa Ngục tam đồ
Độ từ bọ sâu đến vi khuẩn muôn loài
Khiến phát tâm Bồ Đề, lập thành nơi hóa đạo
Chí tâm đảnh lễ Sa La Thụ Vương Phật
Kiên cố tinh chuyên tạo lập đức ân
Lục độ vạn hạnh viên mãn hằng ngày
Có thể khiến người chết đi sống lại
Niệm niệm chân thật khiêm cung thành khẩn
Đảnh lễ tất cả môn đồ Như Lai
Một lòng cầu thâm nhập, chẳng đổi thay
Giác đạo viên thành pháp thân hiển hiện
Chân thực, chân thực, lại rất chân thực
Khiêm cung, khiêm cung, lại rất khiêm cung
Đảnh lễ hóa thân của tất cả vương tôn
Khi hoàn tất sen nở hồ Cực Lạc
Quy mạng Phật Thế Tôn Chánh Giác
Từ bi tam bảo đại uy thần
Khiến đồng cung kính tất cả thánh thần
Công đức viên dung trí không ngăn ngại
Vì có sáu nghĩa Bạt Già không chuyển dịch
Khắp ba nghìn cõi Diệu Giác Như Lai
Tự tại cát tường pháp giới du hành
Thấy tướng, nghe danh tất siêu phàm nhập thánh
Muôn cây xanh trong cánh rừng đại thụ
Quý hiếm thay bóng mát, lá, thân, cành
Nhà lớn cũng do gỗ tốt dựng thành
Loại sư, lịch, kinh, gai thì quăng vào lửa
Chiêm ngưỡng Phật, kính Tăng, thêm tin tưởng
Trọng môn đồ tức báo đáp ân sư
Hiếu thuận là gốc công đức vun bồi
Gieo nhân thiện đạo tự sinh quả thiện
Vào nhà Pháp Vương sinh nơi tôn quý
Diệu Quán Sát Trí, tứ trí, tam thân
Thành Sở Tác Trí, ngũ nhãn, lục thông
Đại Viên Cảnh Trí chiếu Bình Đẳng Tánh
Bồ Tát, A La Hán bậc tăng giải thoát
Cùng khổ được bảo châu, đuốc thắp chỗ tối tăm
Chánh giác lộ bày chỉ dẫn kẻ mê tâm
Vĩnh viễn thoát vòng luân hồi, ái dục
Trí tuệ quang minh chiếu soi thế giới
Lay tỉnh kẻ ngu, biến hiện thần thông
Con tu tinh cần ba-la-mật pháp môn
Cũng chứng được đại giác tâm như Phật
Bảo Quang, Bảo Tràng, hoặc Bảo Tích Phật
Bảo Thắng Như Lai khéo hàng phục thiên ma
Có năng lực giao tranh tất cả vương gia
Khiến tả đạo chiết phục và nhiếp thụ
Tam Bảo Phật Pháp Tăng thường trụ
Nhất tâm cung kính chủ yếu chí thành
Các A La Hán là chư Phật môn sinh
Như đuốc sáng phá đêm dài dằng dặc
Có lại hóa không, vốn không thành có
Nơi cõi Cực Lạc thị hiện ứng hóa thân
Rộng cúng dường các cõi, luôn tinh cần
Con đảnh lễ tất cả dòng giống Phật
Quy mạng chánh giác Phật Đà Da
Quy mạng chánh giác Đạt Ma Da
Quy mạng chánh giác Tăng Già Da
Quy mạng chánh giác Tam Bảo Da.
Với các yêu ma gọi vời, triệu tập
Quang minh chiếu khắp khiến người chết hồi sinh
Chủ quán đảnh, Phật Tỳ Lô Giá Na
Kim Cang Thượng Sư, Phật hóa ra Phật
Trước ứng thân Phật, con nhất tâm đảnh lễ
Luôn hướng về hằng sa đại thánh nhân
Tội nghiệp tiêu trừ, tăng phước, biết báo ân
Phản bổn hoàn nguyên, cổ kim phản ảnh
Ngã phá không, kinh điển khó lường, khó sánh
Hãy tiếp thu đại pháp độ quần luân
Khéo thuyết giảng lời phá tham, si, sân
Giống dòng Thánh vốn cát tường, tôn quý
Cung kính lễ bảo hoa đại Phật đảnh
Tràng phan và bảo cái rất trang nghiêm
Loài cỏ cây, động vật, thấp hóa sinh
Đều cùng vào được cánh đồng Vạn Phật
Dù báu, lọng hoa, Tỳ Lô Giá Na Phật
Là đại tâm chú hàng phục ma quân
Khiến tự tại, chở che người vạn đức ân
Diễn pháp đại thừa cơ huyền thấm nhuận
Trước chư vị thánh hiền nay con đảnh lễ
Nguồn đạo cao sâu nguyện được chứng minh
Hộ niệm, gia bị cho con tam muội tựu thành
Sớm đắc được quả Phật Đà tối thắng
Người và con sớm đến bờ giải thoát
Về căn nhà chân thật, tất cả chúng sinh
Mục đích cuối cùng là phản bổn hoàn nguyên
Mặc tình ngao du an vui cùng khắp
Như người thổi loa pháp, đánh trống pháp
Dứt trừ bệnh khổ, hàng phục oán ma
Khiến chúng sinh sớm đến được bờ kia
Cầm chày kim cang, Vi Đà Bồ tát
Giáo hóa quần sinh, Phật Phật nói pháp
Tất cả thần linh bí mật, ẩn tàng
Hộ trì chánh pháp thường trụ thế gian
Dùng đại trí dạy chúng sinh giác ngộ
Gieo trồng căn tánh Đại thừa Phật đảnh
Khổ đế thoát ra, độ khắp chúng sinh
Hư không tận cùng, nguyện lực vô biên
Trí tuệ thâm sâu, cùng qua bến giác
Lãnh đạo tam thừa, chân như mong chứng đắc
Là bậc đứng đầu tuyển chọn Phật môn
Nhẫn nhục, tinh cần, mầm mống thánh nhân
Không thoái chuyển, viên toàn, thành Phật quả
Năm thừa trời người là cội mầm căn bản
Là bậc thượng thủ giáo hóa chúng sinh
Từ hữu tưởng, vô tưởng cho đến các hàm linh
Chứng vô sinh nhập pháp thân thanh tịnh
Bát nhã diệu trí tựu thành Phật quả
Thẳng đến Bảo Sở, không dừng tại Hóa Thành
Quán chiếu thực tướng, thể dụng phân minh
Thành Chánh Đẳng Giác liên hoa đóa đóa
Chú thuật, La Võng thiên ma trừ phá
Giải tai họa bất ngờ khiến phải mất thân
Cứu thoát tất cả nghiệp thống khổ, oan khiên
Lại thêm cát tường quang minh thanh tịnh
Vô thượng đại bi chánh văn tâm ấn
Hộ pháp thiện thần Phật bộ Liên Hoa
Từ bi hỷ xả bố thí tăng gia
Chuyển vận diệu vời đoạt quyền tạo hóa
Khắp cả hư không cầm chùy, bưng núi
Trấn giữ quân ma Đông Phương Kim Cang
Bồ tát ủng hộ có tám vạn bốn ngàn
Khiến người tu trì nhập vào đại định
Luân bảo như ý khó lường kỳ diệu
Cõi Nam phương vô-úy-thí hóa sinh
Thọ trì tâm chú yêu quỷ hiện nguyên hình
Như hút sắt đá Si Mị Vọng Lượng
Tâm kim cang thi triển pháp tối thượng
Cõi Bắc phương thành tựu pháp chuyển luân
Định tuệ vốn từ giới luật công huân
Giác ngộ viên mãn trời người tôn kính
Giải oan, mở oán, hòa bình vui thích
Trận chiến tranh dằng dặc hóa bình an
Giúp người tháo mở tất cả khó khăn
Vô cùng vi diệu ngũ đại tâm chú
Đạo tràng thù thắng thanh tịnh kiết giới
Niệm Phật đường, đại pháp hội trang nghiêm
Tán thán thường chuyển vô thượng pháp luân
Đệ nhất nghĩa, tâm đắm chìm tái tạo
Tối thắng giải thoát Đạt Ma pháp bảo
Rạng rỡ huy hoàng rất hiếm có xưa nay
Vượt qua tất cả đau khổ, nạn tai
Sớm chứng Bồ Đề xa lìa điên đảo
Đắc an lạc giải trừ bao khổ nạn
Tiêu diệt não phiền hưởng được thanh lương
Lời nguyền ác hiểm, chú thuật ma quân
Đều không thể hại được người trì niệm
Che khuất quang minh do não phiền, tà kiến
Tỏ lòng sám hối như đuốc thắp chỗ tối đen
An lành vô sự, phản bổn quy nguyên
Buông bỏ tánh phàm tức thành chư Phật
Diệt ác mộng và những điều xấu ác
Phiền não tức Bồ Đề, hoán chuyển thanh lương
Phá tà hiển chánh, đại giáo chấn hưng
Tám vạn lỗ lông hào quang khai phát
Trí tuệ bậc nhất, ngài Xá Lợi Phất
Biện tài vô ngại khai triển cơ đồ
Đây chính là trí tuệ đến bờ kia
Bậc thượng thủ chứng chân như thực thể
Không có hai thực tướng ngu si và trí tuệ
Bồ tát và ngoại đạo bản tánh nhất như
Phân chia pháp pháp bởi kẻ phàm phu
Bậc giác ngộ không vướng vào ngôn thuyết
Oan gia thế gian là ân nhân nước Phật
Thoát cõi trầm luân tri thức độ ta
Chân hộ pháp chính là Đề Bà Đạt Đa
Không vướng bụi trần, hàng tâm giận dữ
Tai họa tiêu trừ vô cùng hoan hỷ
Khó thể so bì pháp Thủ Lăng Nghiêm
Cứu cánh giác ngộ, vượt thoát não phiền
Khế hợp chân như, chuyển phàm siêu thánh
Các binh thần hộ trì nghìn cõi cảnh
Uy phong lẫm liệt ma quỷ hãi kinh
Đồng hướng điều lành dòng tộc chư thiên
Quyến thuộc yêu tà cùng nhau trốn chạy
Giới hạnh nhẫn nhục kiên trì bất thối
Dùng vòng móc hàng phục kẻ cang cường
Chiêu tập thiện tín tam bảo dựa nương
Đại pháp hội cát tường ma-ha-tát
Phá chướng, bình nạn hoặc là quát mắng
Khiến tất cả như ý và cát tường
Nghìn cõi trừ ma giáng hạ chư thần
Khiến khắp cõi kính tin đảnh lễ Phật
Thần hộ già lam, hộ giới, hộ pháp
Vô lượng quang minh chiếu khắp đại thiên
Thành tựu đệ nhất tự tại an nhiên
Chứng nhập Niết Bàn thường lạc ngã tịnh
Vòng móc ánh lửa hào quang màu tím
Hình tướng lực sĩ thần đại Kim Cang
Giải ách, cứu họa, khổ nạn tiêu tan
Bái kiến pháp vương, chúng sinh nhiếp phục
Chuyên tu hành diệu pháp đáo bỉ ngạn
Cầu quả Bồ Đề, dũng mãnh phát tâm
Khiến quy tam bảo, chiết phục thiên ma
Giúp ngộ bổn nguyên, nhiếp thu ngoại đạo
Pháp lực thâm sâu Kim Cang tay báu
Chưởng báu, quyền báu trấn áp ma quân
Vời vợi công đức, đại lực thần thông
Thân tâm đồng hành nơi nơi chân thật
Gìn giữ năm phương uy thần binh tướng
Tính khí Đại Thừa hiển thị oai linh
Rạng rỡ đất trời, Kim Cang quang minh
Tinh tú, nhật nguyệt đưa tay hoán chuyển
Bảo vệ an bình phá tan ác hiểm
Kim Cang thần tướng tranh đấu đầu tiên
Lời lời khiển trách quỷ quái yêu tinh
Hiển chánh trừ tà khắp nghìn cõi nước
Tất cả pháp lành phá trừ pháp ác
Giải trừ tật bệnh như ý toại tâm
Xua đuổi cấu uế, an lạc trong lòng
Vi diệu thay, những lời kệ chân chánh
Trừng phạt oán ma, Kim Cang thủ lãnh
Tìm bắt ngay ma quỷ hại chúng sanh
Bệnh lan truyền do nhiệt độc lưu hành
Kẻ trì tụng hồi sinh từ cõi chết
Ái kính chúng sinh, trừ khổ tử biệt
Chống gậy thần, các thiên chúng lặng yên
Tăng gia phước tuệ, bảo vệ người hiền
Hàng phục ma bệnh, bình an, yên ổn
Tên của thần biển vô cùng ảo diệu
Trừ bệnh do nước, lập được kỳ công
Hoán đổi sinh lão bệnh tử xoay vòng
Tất cả tai ương khác gì dúm bụi
Trị các oan ương hư không thuốc giỏi
Cảm lạnh, nóng bức, ẩm ướt, khô khan
Thời tiết đổi thay gây bệnh truyền lan
Ta bà ha, chuyên tâm trì thần chú
Cõi Ta Bà địa thần Kiên Trì bảo hộ
Khó khăn nguy hiểm núi đổ cát bay
Bệnh tật nặng nhẹ đều chữa khỏi nạn tai
Tâm chú gia trì diệt muôn bệnh khổ
Thần lửa phát nguyện diệt trừ lửa đỏ
Tất cả bệnh nhiệt đều bị san bằng
Không còn dấu vết phiền não hận sân
Ngọt ngào mát mẻ vui mừng khôn xiết
Giải trừ nước độc, các chứng phong thấp
Tê liệt, bại xụi, thận, ruột, bướu dư
Phù thủng, ghẻ lở, sốt rét, hủi cùi
Tất cả thống khổ đều hóa thành như ý
Đức Từ Thị Vô Năng Thắng dũng kiện
Lượng sánh hư không tất cả chứa dung
Thánh chúng trang nghiêm tề chỉnh vây quanh
Hằng mong đợi tâm Bồ Đề tăng trưởng
Cõi Kham Nhẫn bậc đại tâm tế độ
Bồ tát Nguyệt Quang cứu kẻ đắm sông mê
Siêu thoát luân hồi, vượt biển khổ quay về
Cứu quần ma phát bốn lời thệ nguyện
Bậc đại tướng quân Kim Cang Hỏa Thủ
Gạn lọc tâm ly dục thoát hồng trần
Chánh niệm nhiếp trì, hành pháp chánh chân
Làm khuôn mẫu giúp người phân thiện ác
Đại lượng bao dung, Hư Không Tạng Bồ tát
Cùng tận pháp giới tất cả nhiếp thu
Trời, người, a tu la, ngạ quỷ chúng dân
Phóng quang thanh tịnh cõi súc sinh, địa ngục
Đại Bồ tát Bạch Y Quán Tự Tại
Vô phương biến hóa diệu lực thần thông
Cứu giúp chúng sinh chẳng kể ngày đêm
Chỉ e chúng sinh sa vào hầm lửa
Các thiên tướng và thần binh đại lực
Dẫn đạo đại quân, Bồ Tát Phổ Hiền
Châu Lợi Bàn Đà mở lối trước tiên
Dạy kẻ trí và người ngu bình đẳng
Hòa hợp ứng đối, ngài Ba Tư Nặc
Tứ địa Bồ tát thời Phật Long Quang Vương
Trí tuệ biện tài giải thích hoài nghi
Khéo giáo hóa chúng hàm linh các cõi
Ngữ ngôn bậc thánh hỗ tương ứng đối
Phân tích tận tường kẻ tóc đường tơ
Bồ tát Trì Địa chứng kiến trước sau
Đều cùng hoan hỷ an vui vô tận
Lưu Ly Pháp Vương Quang tối thắng
Thuốc quý vào thân trong suốt long lanh
Biết rõ trong ngoài thấu triệt đắng cay
Thần Nông thị hiện trang nghiêm đoan chính
Là bậc y vương cứu sống tất cả bệnh
Dược Vương và Dược Thượng phóng hào quang
Chân chánh tinh cần cúng dường Phật đốt thân
Khắp mười phương không mảy may chấp trước
Ngũ bộ thần trong Kim Cang cảnh giới
Phá thiên ma ngoại đạo hiển lộ kỳ công
Đại Duyệt Ý, Sự Nghiệp Bất Không
Cứu giúp quần sinh thoát vòng khốn khó
Khiến ác hướng thiện, động tĩnh biến hóa
Lò lớn luyện đơn tinh diệu chánh chân
Phật Tỳ Lô Giá Na bộ chủ Kim Cang
Khiến tất cả chúng sinh thành hảo hán
Thần hộ pháp của Đức Thế Tôn Phật
Bảo vệ đạo đức rất đổi công bình
Hàng phục tất cả ma quái yêu tinh
Quy y chánh giáo tuân hành mệnh lệnh
Thương chúng sinh khổ giúp xuất ly ba cõi
Thiền định giải trừ cấu uế vô minh
Hàng phục ma chướng, vọng dục, mạn khinh
Hộ niệm tế độ chúng sinh bệnh khổ
Chùy Kim Cang đoạn dục tình, ma chướng
Kiến lập đại pháp tràng, tế độ chúng sanh
Diệt thói quen xấu, đức tướng tựu thành
Hộ thần Quán Đảnh thường theo bảo vệ
Phá tan ma quái không gì hơn trí tuệ
Hồng Liên Hoa Thủ Nhãn thấy Phật Đà
Sắc xanh trắng tím, đóa đóa liên hoa
Khiến kẻ đã chết hốt nhiên sống lại
Khí thiêng ngút trời, Kim Cang kiếm báu
Tung hoành ngang dọc biến hóa khắp đại thiên
Giữ gìn chánh pháp chém quái, trừ yêu
Chứng vô sinh vạn ức năm giải thoát
Thiên thần lực sĩ đại uy đại đức
Hàng phục chúng ma trấn giữ sơn hà
Lúa gạo đủ đầy an định gần xa
Bốn mùa thuận hòa tình người rộng lớn
Diệt tai họa bất ngờ, Thiên Tài Lực Sĩ
Nước cuốn, lửa dữ, cướp bóc an bài
Sự chẳng như lòng đổi lại vui thay
Sao sáng đẹp chiếu mặt cười hớn hỡ
Trước dùng lời khéo khuyên răn tỉnh ngộ
Thuận theo lời dạy bảo, miễn lỗi lầm
Bỏ tà tu chánh, nếu biết dụng tâm
Đại Bát Nhã sẽ tự nhiên khai mở
Giáo hóa khai đạo khiến kẻ ngu sáng tỏ
Giúp tựu thành tâm hoang phế xưa kia
Năng trồng cây, nhổ cỏ, chẳng cầu gặt hái mang về
Giới Định Tuệ tu chuyên cần, tiếp thụ
Thương người, người thờ ơ, thương đà thật đủ?
Kính người, người không đáp, kính đã thật đầy?
Tự chiếu soi, cầu nơi mình chính thật là đây
Cảm ứng đạo giao, chớ tin điều huyền hoặc
Cung trời nhật nguyệt an cư thiên chúng
Bạch Y Thánh Giả cứu độ quần mê
Cảnh giới thuận nghịch bất động lặng yên
Ma ha bát nhã ba-la-mật
Chiếu cõi đại thiên, Nhật Quang thiên tử
Khắp tứ phương, tứ hướng, tứ vô cùng
Cung nguyệt Hằng Nga thanh tịnh hư không
Hai mươi tám vì sao chầu sau trước
Phóng ánh hào quang, nhật nguyệt tinh tú
Tung hoành thần biến ma quái khó chỗ nương
Mệnh lệnh ban hành, Thiên Tử Phổ Hương
Yêu ma, quỷ quái cao bay, xa chạy
Áo giáp Kim Cang mắt chói lòa khó thấy
Oai đức cao vời đạo lực vô ngần
Phá vỡ quần ma đoạn tuyệt dấu chân
Ngũ cốc thu hoạch an bình, hoan lạc
Kim Cang đồng nam thậm thâm chân thật
Không dụng công phân biệt thị hoặc phi
Một sát na ba nghìn cõi đến đi
Tâm chúng sinh tỏ tường trong nhất niệm
Lìa xa trói buộc, gần người có đức
Giáo hóa cõi ta bà, La Sát Kim Cang
Khiến đạo tràng thêm tốt đẹp, nghiêm trang
Bát nhã ba-la-mật thiên mẫu công đức
Lực sĩ Kim Cang bàn tay năm ngón lớn
Yêu khí gần xa đều phải ẩn mình
Hộ niệm chúng sinh đại đạo viên thành
Đường trước mặt thuận lòng như ý nguyện
Khiến chúng sinh cõi thế gian thức tỉnh
Dùng lời lành khuyến dạy xả trần mê
Tinh tấn dũng mãnh đến được bờ kia
Cứu người khổ, thuyền từ quay trở bước
Bốn vị thiên vương hộ trì giới luật
Quyến thuộc là thái tử dáng vẻ uy nghi
Thiện ác trong ba cõi ghi chép đủ đầy
Qua lại xem xét ngày đêm không dừng nghỉ
Tam Quang Thiên Vương đông đầy gia quyến
Ba-la-mật, ánh lửa hồng phản chiếu bóng thái dương
Xóa dấu vết nhiễm ô, Đại Lực Kim Cương
Hộ niệm người chân tu qua bể ái
Tâm chúng sinh, thần Nguyệt Quang ban trải
Chẳng vướng bụi trần, tự tại thanh lương
Đức A Di Đà pháp chủ Tây Phương
Các ngài Thế Chí, Quán Âm thân thiết
Lòng cong vẹo sửa ngay thì đạo hiện
Đức lớn cận kề, thành tựu đạo trường
Che chở, giữ gìn, chư thánh bắc phương
Mỗi ngày một mới, Thủy Quang Đồng Tử
Ánh hào quang chiếu quanh người uy đức
Sấm to, gió lớn đều thuyết diệu pháp âm
Hàng phục ngoại đạo tìm lại chánh tâm
Vĩnh viễn xuất ly lưới giăng ngũ trược
Tự tính pháp lực chu toàn tối thượng
Tất cả muôn loài đều hàm chứa, bao dung
Trang Chu gõ bồn đạo lớn thành công
Bước xuống thuyền từ, buông tay, nhìn xuyên suốt
Vô lượng thanh tịnh hào quang chư Phật
Thiên Vương thiên chúng gìn giữ đài sen
Kỳ diệu vô kiến đảnh tướng, rất mực ngợi khen
Bồ tát đại sĩ nở nụ cười hoan hỷ
Trăm quang minh báu, đảnh tướng nhục kế
Trên đài sen nghìn cánh, bậc Pháp Vương
Diễn thuyết vô tận diệu nghĩa trùng trùng
Rưới cam lộ, Tỳ Lô Giá Na Phật
Thần quỷ La Sát vừa thiện vừa ác
Dạy nhẫn nhục dùng chiết nhiếp hai môn
Chúng sinh can cường khó điều phục khác thường
Vốn là Phật, chợt hiện ma, hiện Phật
Ngài Kim Cang Tạng Vương hiện uy đức
Dùng tướng vô ngôn giác ngộ chúng hữu tình
Công đức và diệu trí chuyển pháp luân
Đồng nhập Niết Bàn dứt trừ tranh biện
Chiếu khắp tam thiên, quang minh thần biến
Dù nhỏ như sợi tóc động niệm khởi tâm
Dừng thói quen chất chứa, phá tối tăm
Chúng hữu tình viễn ly tâm điên đảo
Bộ chúng Kim Cang cầm chùy, nâng núi
Thiên ma ngoại đạo cao chạy, xa bay
Hàng phục quỷ thần tam bảo quy y
Ngày cũng như đêm luôn dùng đức uy cảm hóa
Sen trắng, sắc trắng, quang minh trắng
Chiếu rạng đất trời, bóng đổ nghiêng
Núi lay, biển động, tiếng tiếng vang rền
Lòng vui thích y theo chánh pháp
An tọa trên hoa sen, vua đại pháp
Đông tây nam bắc bảo vệ trung tâm
Tất cả thần hộ pháp cố sức gắng công
Năm phương, năm bộ, hào quang năm Đức Phật
Bậc uy đức thị hiện chư đại sĩ
Tay nâng cao lọng báu với tràng phan
Nương đạo giác ngộ dạy dỗ nhân quần
Cùng giong ruổi trên pháp thuyền viên mãn
Như cát sông Hằng, lực sĩ hiện thân cao lớn
Tinh diệu, tuyệt luân, ánh sáng cao thâm
Bảo hộ, giám sát thế giới phương nam
Kẻ ác đọa lạc, người hiền thăng tiến
Hộ trì mười phương tinh cần giải thoát
Tam tai, bát nạn không phải đọa sa
Thế giới thanh bình, dân chúng an hòa
Cùng tu tập, quả Bồ đề chứng đắc
Là vua trong các định, tam muội trí ấn
Là diệu âm thành tựu đại đạo trường
Tâm chúng sinh đầy đủ tam muội vương
Một lòng cầu đạo quang minh cảm ứng
Nhất tâm sám hối gia tăng trí lực
Thần linh gìn giữ cõi nước bắc phương
Trong tâm Tỳ Lô hiện Bồ tát Kim Cương
Y giáo tu hành bất tăng bất giảm
Thân khẩu ý năng cầu sám hối pháp
Ba nghiệp thanh tịnh không phạm lỗi lầm
Giữ giới tinh nghiêm như đêm hiện tròn trăng
Trong khoảnh khắc nhảy vào hàng Thập Địa
Chư Phật Thế Tôn từ bi rộng lớn
Phương tiện quyền xảo độ cõi luân hồi
Đổi tà thay chánh tinh tiến không thôi
Mới biết chuyện sắp đến còn kịp thời theo dấu
Việc con làm nguyện cầu xin ấn chứng
Không làm sao lấy lại ngày tháng qua đi
Thánh đạo nương theo cẩn trọng tu trì
Tôn kính thanh quy, tuân hành giới luật
Hội thứ hai
Thích Tôn Ứng Hóa Hội
Trên đỉnh Tỳ Lô hiện hào quang trắng
Khiến kẻ ngu, người mù điếc hãi kinh
Phát âm thanh giác ngộ tất cả hàm linh
Đồng quy hướng Bồ Đề tràng vô thượng
Ánh sáng trí tuệ trụ vô kiến đảnh
Chư đại Bồ Tát bảo bộ Kim Cang
Bồ Tát Hư Không Tạng là thượng thủ đạo tràng
Dẫn đạo chư thần hộ trì chánh pháp
Trí tuệ cứu cánh là mẹ chư Phật
Pháp bộ Liên Hoa huyền diệu tinh anh
Hy hữu thay, thành tựu các nghiệp lành
Phế phương tiện, trực nhập vào Bảo Sở
Chư tiên đảnh lễ Lăng Nghiêm Phật Đảnh
Cung kính cúng dường chư vị thánh hiền
Sám hối, tu phước lành, trí tuệ gia tăng
Cầu sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc
Thủ Lăng Nghiêm tướng vô kiến đảnh
Cứu kẻ treo ngược, Phật bộ trung ương
Tỳ Lô Giá Na khắp cả mười phương
Trong tôi và trong anh đều có mặt
Án Á Hồng tổng trì chân ngôn chú ngữ
Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Tỳ Lô
Pháp, Báo, Hóa Thân, ba nghĩa gồm thu
Tự nơi đây sinh ra muôn hiền thánh
Cây vàng ròng hoa vàng thân cao lớn
Chim đại bàng nơi đạo Phật Thánh dừng bay
Pháp thân thơm khắp các cõi nước này
Bất thoái Bồ Đề tâm tiêu dao tự tại
Lực bất tư nghì chân ngôn chú ngữ
Tam muội gia trì nếu niệm cần chuyên
Liều thuốc thanh lương hoán chuyển não phiền
Phật bảo vô thượng thường xuyên gia hộ
Tất cả pháp cát tường đủ đầy sáng tỏ
Kho báu vô tận thảy thảy gồm thâu
Các pháp ba-la-mật đều được tựu thành
Trên hoa sen tím đoan nghiêm an vị
Đã thật càng thật, thật tâm, thật ý
Hành thật, tu thật, đã chân lại càng chân
Tạo thật, thành thật, đã thật càng thật
Tất cả, tất cả, thật thật thật
Thống lĩnh cõi tà ma tu chánh giáo
Viên mãn sự lý đến được cõi vô cùng
Sinh tử não phiền rốt ráo dung thông
Chứng nhập Bồ Đề thường lạc ngã tịnh
Hạnh nguyện Bồ Tát tròn đầy chân chính
Đều hiển lộ ra ngũ nhãn, lục thông
Giải thoát vi diệu phước tuệ viên toàn
Tế độ người hiền Vô Thượng Đẳng Giác
Tự tánh Không, các pháp con tu tập
Chân như tự tại bình đẳng chí công
Ruộng phước vô thượng ra sức gieo trồng
Tự giác, giác tha, đông tây mặc ý
Chánh niệm thọ trì chí thành khẩn thiết
Lâu dần thành tam muội khó nói ra lời
Trong thánh, ngoài vương, công đức vun bồi
Lớn không ngoài, nhỏ không trong, Bồ Đề viên mãn
Hàng phục tất cả quân binh quỷ ác
Phụng lệnh thi hành dũng kiện quỷ vương
Hộ trì hành giả tinh tấn đảm đương
Giáo hóa chúng sinh từ bi phổ độ
Đại Thừa mầu nhiệm nhiều phen giáo hóa
Các quỷ La Sát vất vả nổi trôi
Dùng pháp thuận nghịch dạy dỗ khắp nơi
Độ tất cả chúng sinh quay về nguồn gốc
Quyến thuộc giữa trời, hư không, trên mặt đất
Sinh ra vô số manh mối khác xa
Cha mẹ, con cái La Sát Dạ Xoa
Binh tướng, anh em, cùng hàng sứ giả
Uy lực hai loại vua thần thâm áo
Phá hung tinh, trừ thù hận thành công
Giúp vượt qua tất cả hiểm nạn khó khăn
Trước Phật Thích Ca Mâu Ni quy mệnh
Chí tâm trì tụng đắc Lăng Nghiêm đại định
Thành ý tinh tấn chứng pháp vô sinh
Thiện ác nhiễm tịnh hỗn tạp tự hành
Khó vượt bể khổ, đời đời chìm đắm
Tôi nay cảnh tỉnh tám vạn đại chúng
Kim Cang đại lực cùng các vua thần
Hãy hàng phục hoạn nạn và các nạn ma
Trí tuệ, cung tên, quan chức thăng tiến
Kiếm báu thần Chấp Kim Cang sắc bén
Nhập tam ma địa trấn áp khí chẳng lành
Hàng phục quỷ ma tất cả mọi loài
Sửa ác hướng thiện tự tâm đổi mới
Diệu cát tường, dũng mãnh phát tâm bố thí
Kim Cang Tạng Vương dẹp phá tà si
Bậc Sát Tặc Ứng Cúng Khôi Đa Sĩ
Quyến thuộc hòa hợp lâu dài an ổn
Thần Kim Cang khắp ba nghìn thế giới
Thí dụ, toán số, khó tính đếm cho xong
Ủng hộ người tu thiện pháp chánh tâm
Đủ công đức, tự nhiên thành tựu đạo
Ngăn ma tác hại khiến người an ổn
Gặp dữ hóa hiền, nghiệp trước tiêu tan
Không gặp ác mộng, biến nguy thành an
Trời xanh không mây, nơi nơi hoan hỷ
Ứng nghiệm bởi chuyên tâm, lấp che vì chia trí
Vĩnh viễn không dừng tụng niệm chí thành
Ngày một cao thâm, tam muội tựu hình
Chứng đắc Bồ Đề, bất lai bất khứ
Kim Cang Thiên Tiên chở che, gìn giữ
Thịnh vượng thuận lợi dáng vẻ nghiêm trang
Nhiếp thọ, chiết phục trăm nghìn vạn lần
Uy đức vô cùng, đầy đủ phước tuệ
Con nương dựa Thế Tôn uy thần lực
Cứu hộ đảo điên của tất cả chúng sinh
Nguyện cho người lìa khổ được an bình
Sớm giác ngộ, lập căn cơ đạo hạnh
Khắp mười phương vô tận thường trụ Thánh
Tất cả hộ pháp cùng thắp ngọn đuốc thiêng
Chiết phục, nhiếp thọ, khéo thuyết thuận cơ duyên
Hóa độ chúng sinh, ngài Kim Cang Mật Tích
Nay chúng con quy mạng Đại Phật Đảnh
Ánh sáng trí tuệ, kho pháp báu bất tư nghì
Nguyện con hiểu rõ pháp vi diệu tổng trì
Phụng hành đúng nghĩa Như Lai giáo thuyết
Diệu âm tự tại, pháp quang thần biến
Con chí thành đảnh lễ mật linh văn
Mong cầu uy lực cảm ứng đạo giao
Hồi phục bản lai, quả Bồ Đề chứng đắc
Đảnh lễ vô trụ hóa sinh sinh hóa
Nghĩa lý vô lượng vô tận vô cùng
Chư Phật đồng nhiếp thọ khắp mười phương
Thoát hầm lửa dữ, an vui lìa khổ nhiệt
Thắng Đại Kim Cang uy phong mãnh liệt
Phá ngoại ma trấn áp khí yêu tà
Phiền não chướng ngại kiên nhẫn vượt qua
Vì giáo pháp nhọc nhằn nên thành công lớn
Hàng phục tà ma Kim Cang múa kiếm
Hóa sinh nơi hồ thất bảo liên hoa
Thành đạo Bồ Đề, Đức Phật Thích Ca
Phổ độ chúng sinh thoát bùn lầy chìm đắm
Cát Tường Đại Kim Cang Diệu Thủ
Nghe đến tên cảm hóa khó suy lường
Cải ác tùng thiện sửa đổi lỡ lầm
Tại Vạn Phật Đường vào ngay pháp giới
Quân, Tạng, đều là tên Kim Cang Bồ Tát
Giới đức dư thừa xá lợi xương thân
Năm sắc đủ đầy, định tuệ trang nghiêm
Hào quang chiếu lâu dài không hư hoại
Trước Thần Đại Luân Kim Cang con kính lễ
Đấng tôn quý nghìn đầu, nghìn mắt, nghìn tay
Là bậc quán đỉnh uy đức thấm nhuần
Hộ trì người tu, khó suy lường, so sánh
Có khả năng phá tan bao chướng ngại
Bậc Sinh Quý Trụ pháp pháp dung thông
Hộ trì tam bảo, chiếu khắp quang minh
Hộ giới thiện thần cứu người phiêu bạt
Hộ niệm người tu, Đại Kim Cang Bồ Tát
Như tiếng rống sư tử, âm pháp rền vang
Khiến chúng sinh trừ chướng ngại đeo mang
Bát nhã thâm sâu độ tất cả khổ tập
Con quy y tất cả ba đời chư Phật
Chí thành đảnh lễ tất cả thánh hiền
Kim Cang Tạng Bồ Tát tám vạn bốn nghìn
Hộ trì người tu thoát nơi mê đắm
Lập pháp đàn, bậc giác giả ấn chứng
Cứu khổ treo ngược, tam muội sớm thành
Xa lìa thống khổ, thu nhiếp chúng sanh
Đại định Lăng Nghiêm vĩnh viễn hiển lộ
Phật lại truyền lệnh chư thần bảo hộ
Khắp các đồng nam đồng nữ y lời
Luôn cận kề hành giả khắp nơi nơi
Dự Long Hoa hội, bậc thư hùng kiệt xuất
Đắc được chánh định, thành tựu các pháp
Là bậc Diệu Giác tam đức viên thành
Tự độ, độ tha, vị Bồ Tát tu hành
Ngự cảnh Niết Bàn, trên đỉnh đồi Bát Nhã
Phật Thế Tôn Bà Già Bà Đế
Cũng là viên mãn và tùy tâm
Nhập định Lăng Nghiêm vui ý toại lòng
Và từ đó trí phát sinh vô lượng
Mong cầu Phật gia hộ, con khát ngưỡng
Khiến được viên thành các pháp con làm
Nguyện tinh tấn sớm chứng bất thoái tâm
Sớm nêu danh trong hội tuyển hiền, chọn thánh
Tụng trì mặc niệm, ý lời nên giảm thiểu
Giáo pháp chỉ bày lợi ích khắp đại thiên
Pháp pháp tu trì đều trọn vẹn lộ trình
Đắc cõi Niết Bàn không tăng không giảm
Hội thứ ba
Hội Quán Âm hợp đồng
Ách nạn từ cung vua diệt trừ tất cả
Cứu độ những người cô độc, lênh đênh
Tối thượng, tột cùng, lợi lạc tất cả chúng sinh
Được cung kính, tiêu tai, tăng tuệ phước
Đây là linh chú diệt trừ nạn cướp
Nhãn nhĩ tị thiệt thân ý buộc ràng
Chúng bộ Thượng Sư Xá Na Phật chu toàn
Giáo pháp Phật nên hết lòng truy cứu
Lập lại tên thần, tiêu trừ hỏa hoạn
Bồ tát Bạch Y phương nam ứng với Bính Đinh
Xa lìa nhiệt não, cứu hộ chúng sinh
Được đèn chiếu sáng, khắp nơi mát mẻ
Năm tướng suy nơi sáu cõi trời Dục giới
Cõi tam thiền chịu nạn gió thổi bay
Dù anh tu đến cõi Phi Phi Tưởng có ngày
Cũng không sánh được về Tây Phương Cực Lạc
Câu chú này tiêu trừ các chất độc
Các loài cỏ cây có hóa chất hại người
Đọc linh văn hẳn sẽ được bình an
Lìa khổ nạn lại được vui cứu thoát
Thần Kim Cang khéo khiến người thuận đạt
Biện tài vô ngại tránh mũi kiếm đao
Mở trói kẻ bị gông xiềng ràng buộc bấy lâu
Tai nạn đều tiêu trừ thôi tranh chấp
Luận nghĩa, tu hành, chuyển luân diệu pháp
Đại tướng Kim Cang chấm dứt phân tranh
Nhận lệnh ban truyền bất động quân binh
Chúc tụng thái bình, buông gươm, cởi giáp
Siêng năng trì giới xa lìa khổ ách
Tránh nạn mất mùa thoát cảnh cơ hàn
Uy lực xuất thần, Bảo Hộ Kim Cang
Nghèo nàn, đói rét đều được cứu thoát
Nghe danh Không Thần không cản trở
Trừ nạn sấm sét khiến hãi kinh
Tai nạn tiêu trừ do tin hiểu phân minh
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú
Cái chết bất ngờ quá đau thương, buồn thảm
Nạn trên không, đất, biển, khó lo toan
Nhất tâm trì niệm trừ chướng ngại, được an toàn
Hộ trì mười phương, Kim Cang Đại Tướng
Pháp chưa từng nghe qua, vi diệu khó tưởng
Tất cả nạn bất ngờ đều được bảo toàn
Thiên thần giáp vàng ngầm giúp đỡ bình an
Thưởng thiện phạt ác không hề thiên lệch
Pháp đại tổng trì, con nay quy mệnh
Địa thần Kiên Lao chẳng thể bỏ qua
Luôn luôn trừ diệt tai nạn, yêu tà
Sớm chứng vô sinh, đạo tâm ngay thẳng
Các chất độc trong bạc vàng đá đất
Tụng trì thần chú biến hóa cam lồ
Hộ niệm trao truyền tối thượng kim cang
Bạn lành là Bồ tát, không còn cô lẻ
Mỗi bước hiểm nguy hóa an lành khó kể
Hi hữu thay, diệu pháp tựa suối tuôn
Các pháp Cô Khởi, Bổn Sự, Nhân Duyên
Sao cát tường chiếu, tháo mở người treo ngược
Loài cắn hại người như rắn độc, bò cạp
Trượng báu này hàng phục miễn tai ương
Loài bọ sâu, nước cam lộ thấm nhuần
Cùng quy hướng về Tây Phương Lạc Quốc
Biển cả, sông, hồ, chảy xuôi dòng nước
Lợi hại tương quan ngũ cốc tiếp thu
Các loài rồng, cá, kình, sấu, khi gặp nạn tai
Đời đời như vậy, hiểm nguy thành an ổn
Khéo điều phục, khắp không gian rộng lớn
Sấm dữ, gió cuồng làm tan tác sinh linh
Mưa đá, điện chớp giáng họa xuống chúng sinh
Giới thần Kim Cang cứu người vô tội
Nạn chim cánh vàng, Tây Phương Liên Hoa bộ
Giải thoát nghiệp xưa vốn tựa cát sông Hằng
Tu trì bát-nhã, tích lũy đức ân
Viên mãn Bồ Đề, sớm quay về quê cũ
Địa hành, không hành, Dũng Kiện, Bạo Ác
Các loài chủng tộc đều lắng tai nghe
Người y giáo tu hành, hồn phách có quỷ chở che
Đức tràn ba nghìn cõi tự mình siêu độ
Quỷ La Sát chạy mau rất đáng sợ
Bảo vệ kẻ kiên trinh, hàng phụ nữ giữ gìn
Diệt nạn chết oan, tự hủy hoại thân mình
Rời đường hiểm, tránh sấm trời truy đuổi
Quỷ tổ phụ giữ gìn thây người chết
Con hiếu thường nhớ tưởng đến ngày cùng
Chết sống như nhau, cúng tế một lòng
Ma ha bát nhã ba la mật đa
Đây dịch là loài quỷ ăn tinh khí
Hút lấy tủy người và tánh khí thức ăn
Thoát nạn thuốc độc, ma túy hại thân
Thọ trì thần chú Như Lai vô tận nghĩa
Tự làm thân to lớn đặt thành tên quỷ
Sức mạnh dời non như Hạng Vũ một thời
Diệu dụng thần thông biến hóa, đổi dời
Nhiều đầu, nhiều chân, uy linh hiển thị
Quỷ đè người hình cái vò, trái bí
Thành quách, xe cộ, sấm chớp tai ương
Họa bất ngờ đều ngăn lối, tránh đường
Ra vào bình an, nạn không xâm phạm
Bám lấy thi hài vì sinh lòng cố chấp
Xa lìa điên đảo, trong mộng cũng an thần
Tu Ba-la-mật nhẫn nhục, tinh cần
Trí tuệ chiếu ngời, ngự đài sen báu
Quỷ đói giữ vía người cực kỳ hôi hám
Đông tây nam bắc đều chẳng đến gần
Cùng cực khổ vì uống tiểu, ăn phân
Tạo nghiệp báo vì tự mình dối gạt
Khí độc của quỷ Chủ Trùng khiến người mê hoặc
Còn có tên đặc biệt là Hương Thần
Gây bệnh hoàng đản vàng mắt, vàng da
Đồng tử hộ pháp khiến người mau lành bệnh
Dáng như con cáo, còn gọi cao-đại-thụ
Nhiễu loạn người, quỷ có sắc màu xanh
Chủ loài Dê điên nhân đó gọi tên
Đồng tử thần dê thường chiêm bái Phật
Uy thế thần gió cực kỳ nhanh chóng
Biển sóng cuồng, cây cối ngã, đất rung
Gió xoắn hình trôn ốc giữa không trung
Hai bàn tay quỷ vương đen đẩy mạnh
Vui theo ngũ dục che trùm chân tánh
Tam độc tràn đầy khuất lấp trí minh
Căn trần duyên ảo ảnh tự trói mình
Giữa trời không, bát nhã dòng mây nổi
Không hợp đàn, một mình nơi đầm trạch
Gõ vào gỗ đá vàng thành tám âm thanh
Như loài sư tử thích thú nhảy quanh
Dáng điệu như đứng đầu trong loài chó
Chuyên ăn tinh khí, tên gọi là Chí Đức
Quỷ mẹ quỷ con hợp với các thiên thần
Chưa quy y tam bảo thì Oán Tặc là tên
Sau khi tin Phật thì Trừ Ma là hiệu
Ăn bào thai, sau lại âm thầm giúp đỡ
Làm đế thần tôn thiên cùng với họ hàng
Nam nữ, cháu con, cha mẹ, thiếp với chàng
Cùng bảo vệ đạo tràng và phổ độ
Quỷ uống máu người tìm dơ kiếm bẩn
Hút lấy tinh huyết bồi bổ quỷ tiên
Tu ba-la-mật, hiệu là tối thượng cần chuyên
Lên thuyền đại pháp ma ha bát nhã
Quỷ lớn sắc trắng uống ăn dầu mỡ
Kim-Cang-bộ-mẫu và các quỷ linh thiêng
Chuyên cần quan sát thiện ác ngày đêm
Công thưởng tội trừng không thiên không vị
Loài ăn thai sản có trăm nghìn vạn quỷ
Rình rập gây chướng nạn đưa đến Diêm quan
Sinh ra liền chết, luân chuyển tuần hoàn
Lòng ưa giết hại, quả báo không sai lệch
Tự ta tạo nên cảnh giàu, nghèo, thọ, yểu
Mệnh do mình lập chẳng phải do trời
Say mê, tạo nghiệp báo ứng đời đời
Tội nghiệp buộc ràng mảy may không lầm lẫn
Loài quỷ tên Cứu Hộ thích ăn chất bẩn
Uống ăn ô uế, ưa thích hôi tanh
Dầu sáp nhiều mỡ dùng trong gia đình
Lạnh nóng rét mát đều tăng gấp bội
Rừng lạnh lẽo dưới tàng cây cung bái
Vô số quỷ đói chạy đến vội vàng
Răng run lập cập trên dưới hai hàng
Do dục báo từ tâm tham cuồng dại
Đóa hàm tiếu nở hoa khoe đài nhụy
Bạn bè, thân quyến quỷ đến bên vườn
Trừ cơn đói khát, ăn mật uống sương
Mong quả báo tạm dừng cơn thiêu đốt
Dịch ba nghĩa: nương mẫu, trái tươi, thân lớn
Thấy sắc, ngửi hương, nếm vị trước tiên
Tiếp xúc, nghĩ tưởng thức ăn thì hưởng được liền
Nhân duyên như vậy bởi nghiệp xưa qua lại
Cây Vô Ưu, tên hoa là Khả Ái
Hạt giống ngũ cốc bổn tánh bất sinh
Không gì so sánh được ánh quang minh
Thiên biến vạn hóa đến đi không trở ngại
Uống ánh sáng, ăn đèn, nuốt lửa khói
Háo thắng, cang cường, tranh đoạt dở với hay
Tâm không ngăn ngại, kinh hãi viễn ly
Điên đảo mộng tưởng tất cả đều trừ dứt
Phá tà, chém ác ma hiện uy đức
Nói lời đức lành nhiếp thọ chúng sinh
Khuyến tu giới định cảm hóa hàm linh
Quay về tự tánh là chân quy y Phật
Tất cả vua quỷ thần đồng đến trước
Làm thủ lãnh hộ pháp khắp mười phương
Thiện nam tín nữ cầu chánh đạo phát tâm
Đồng hỗ trợ nhập tòa đường Phật đạo
Vi diệu khó suy lường đại minh chú tạng
Bậc chánh giác uy đức tối thắng vương
Ánh quang minh chiếu rạng khắp muôn phương
Phật bảo thường trụ cát tường vĩnh viễn
Chém tà khí yêu tinh nương dựa
Tâm đại pháp vương như ý bảo luân
Nay con hướng về đệ nhất nghĩa quy chân
Ngày đêm thực hành Liên Hoa pháp bộ
Vị pháp vương tử đồng chân nhập đạo
Truy tìm bắt Dạ Xoa đại tướng quân
Tự lợi, lợi tha hiển hiện lại qua
Luôn luôn tinh tấn quy y Tăng bảo
Sang đến bờ kia vượt qua hạn lượng
Ba vị đại thần tướng thống lĩnh đại binh
Chỗ tận cùng là bát-nhã uy linh
Mắt thanh tịnh tánh thì bất động
Dù phàm thánh, tâm sắc pháp đều sâu rộng
Sớ thịt cứng và tánh giác tinh anh
Ba tạng Như Lai nghĩa đệ nhất tựu thành
Quang minh viên dung ba nghìn thế giới
Điều hòa nhiệt não, quỷ mị, hồ ly
Tà ma, quỷ quái vì chánh đạo quy y
Khai triển lớn lao, hộ trì Phật pháp
Lại thành tựu pháp đại-thừa năng thắng
Trời Tự Tại thanh tịnh các Phạm-thiên
Bậc chánh giác dạy pháp lìa khổ cho chúng sinh
Phá vướng mắc chứng nhập hàng Phật quả
Bồ tát Đại Kim Cang, bậc tối thượng
Siêng trì định tuệ chánh pháp hoằng dương
Hộ vệ người tu hành đạo thánh khắp mười phương
Chứng đắc Thường Tịch Quang không thối chuyển
Như núi Tu-Di kiên cố bất động
Dũng mãnh, thiện chiến khiến kẻ địch hãi kinh
Lực sĩ hiện ra tám mặt uy linh
Loài giặc cỏ vội vàng buông vũ khí
Hàng quyến thuộc vua đại bàng Kim Xí
Giác ngộ nguồn cội các pháp nên gọi Như Lai
Tâm bi tận độ cùng khắp muôn loài
Thông suốt, giữ gìn pháp tựa như suối chảy
Các vị binh thần Trời Đen lớn nhỏ
Tâm bi tha thiết tai mắt sáng ngời
Suốt ngày thọ trì không dám biếng lười
Thành tựu tam muội tinh thông, linh lợi
Luận về bổn nguyên đứng đầu trong chúng hội
Theo pháp giải thích cũng là Kim Cang
Tam muội vô ngại biện luận khó ai hơn
Giúp kẻ có duyên khéo dùng phương tiện
Các thần tiên đầu lâu thuộc ngoại đạo
Tiêu trừ năm dục, tẩy sạch ác tâm
Phụng hành thập thiện, khuyến khích chuyên cần
Xuất huyền nhập tẫn muôn nghìn biến hóa
Đại tướng quân bảo trọng người và vật
Tất cả thần vương dẫn đạo thiên binh
Vượt ba cõi tối thắng thần chú Phật kinh
Bổn tánh tự tịnh là pháp bảo tâm ấn
Bậc giác ngộ vì chúng sinh từ bi tiếp dẫn
Thánh hiền tìm cách dạy dỗ kẻ muội mông
Bảo ấn chủng tộc chư Phật Thế Tôn
Đuốc nối đuốc, tâm truyền tâm, tương chiếu
Pháp tự lợi và lợi tha đầy đủ
Hóa độ chúng sinh thoát chốn ngục hình
Phù trì Tăng bảo Kim Cang thiện thần
Chứng giác đạo sống ung dung tự tại
Hóa độ cõi Ta Bà, chị em thần nữ
Dứt nẻo luân hồi sông ái lìa xa
Cực kỳ dũng mãnh hàng phục oán ma
Đánh thì thắng, ra công thì thu phục
Bỏ tà về chánh giữ giới luật nghiêm minh
Tự ta tuân thủ nên cảm hóa chúng sinh
Chính ta thực sự làm nên càng huyền diệu
Mũi tên quý, chim cú, hạnh vô cấu
Người đã chết rồi còn đứng dậy đi
Ba mũi kích lớn, Linh Thứu tên chim
Lực vô cùng tận biến hóa bay lượn
Thần Kim Cang hoan hỷ vung tích trượng
Chim hót líu lo, tiếng tiếng hợp hòa
Thân thích xa gần vua Càn Thát Bà
Lìa sinh tử đồng tu hành tinh tấn
Căn bản trí sông trăng ghi dấu ấn
Thần Khí Trượng giáo hóa khắp các châu
Chim Tu Hú cùng mang sợi dây câu
Ý chí vững chắc, biện tài vô ngại
Tinh tấn trì niệm, Diệu Trí khuyến dạy
Thành Nghĩa Lợi Hành, tên bồ-tát Kim Cang
Đạp trên phong hỏa luân như chim Oanh Vũ bay
Giáo hóa mười phương, khắp nơi chiến thắng
Các rồng thần khỏa thân ngoại đạo
Đại lực A-la-hán và quyến thuộc gần xa
Độc Giác, Duyên Giác và Phật Bích Chi
Chư Tăng Thanh Văn, Tứ quả Ứng Cúng
Các vua quỷ La sát đã hung lại dũng
Tung hoành vũ trụ rất khéo tranh hùng
Trên trời, dưới đất, biến hóa khôn cùng
Hàng phục oán ma chứng vô sinh nhẫn
Ma quỷ hãi kinh Thần Vương Đại Lực
Dời non, lấp bể, hái mặt nhật, trăng, sao
Hai tay chuyển đổi đất nước, địa cầu
Năm anh em trời uy linh hiển thị
Chư Bồ tát Kim Cang hàng tà ma, quỷ mị
Tay cầm chày báu nhanh nhẹn vạn lần
Yêu ma quỷ quái kinh hãi ẩn thân
Chánh pháp trụ thế dài lâu hòa hợp
Chư thánh hiền khắp mười phương vân tập
Mở pháp hội trong Vạn Phật Thánh Thành
Tại Như Lai Tự đồng tụ hội, tập trung
Nơi Vô Ngôn Đường chân thường giải ngộ
Bậc bất động chuyên hành trì giải thoát
Lời kinh Bát Nhã chiếu rạng huy quang
Chúng hội bồ tát Kim Cang Tạng Vương
Tam bảo, chư vị thiên long bát bộ
a. Đức nhẫn Từ Thị vì tôi dung thứ
Khoan thứ cho người tâm ấy đại bi
Tinh tiến tu hành nguyện lực chẳng thị phi
Giới định tuệ, hạt châu trừ bóng tối
b. Chấp nhận tội mình hẹn rằng sửa đổi
Cảm ứng đại từ giáo hóa chúng sinh
Thành tựu chánh quả phổ độ hữu tình
Trí lực quang minh chiếu soi kim cổ
Bậc Vô Thượng Tôn tổng quản pháp giới
Tứ sinh lục đạo độ trầm luân
Tu tập điều lành khiến các hàm linh
Tự nhiên thành tựu ma-ha bát-nhã
Khẩn cầu pháp tu được Phật ấn khả
Thông đất trời tán thán khắp mười phương
Trên đồng từ, dưới hợp bi, đấng đại pháp vương
Quy mạng tam bảo nhất tâm cung kính
Hội Thứ Tư
Hội Kim Cang Tạng chiết phục, nhiếp thọ
Lại chiêm ngưỡng lọng hoa và Phật lực
Tỳ Lô Kim Cang chiếu khắp muôn phương
Hàng phục ma, y chánh giáo dựa nương
Giáo hóa chúng sinh xa lìa nước lửa
Không-Như-Lai-Tạng vô cùng vi diệu
Tánh Bất-Không-Tạng siêu việt hóa công
Không-Bất-Không-Tạng lìa bỏ ngữ ngôn
Trung-đạo-liễu-nghĩa viên dung toàn thể
Con nay trước đấng pháp vương đảnh lễ
Chí thành khẩn thiết trừ dục, nghiêm thân
Vọng cầu gia hộ chứng bất thối tâm
Chư Phật phóng đại hào quang tiếp dẫn
Đấng đại lực vương không ai thắng được
Vòng hào quang đỏ xoay chiếu mười phương
Kiên cố Kim Cang phá vỡ ma quân
Bồi dưỡng đức lành đời đời sáng tỏ
Hào quang tím cuốn quanh hộ trì hành giả
Thiện tịnh uy đức xem xét ngày đêm
Mầm bồ đề kết thành quả diệu viên
Long Hoa hội, Vạn Phật Thành tham dự
Đại uy thần Bồ tát Kim Cang phá vỡ
Ba đầu sáu tay đều khiếp sợ vậy thay
Nghe gió lướt qua đồng cung kính chắp tay
Rồng khoanh, hổ nép, an bình thế giới
Hào quang trắng chiếu xoay không gián đoạn
Thiên chú Tôn Thắng hóa độ đại thiên
Tâm ấn Mật-Tích tạng Không-Bất-Không
Ngũ tâm truyền thụ ngũ phương ngũ bộ
Đại Phật bảo vô lượng quang phổ chiếu
Chiếu khắp pháp giới vô tận hư không
Khai thị ngộ nhập chánh kiến, chánh tri
Vô Thượng Bồ Đề, tức vua đại giác
Lọng báu mây lành kết thành năm sắc
Muôn đạo hào quang chiếu sáng đại thiên
Tất cả giới luật gìn giữ cần chuyên
Dự Long Hoa hội một lòng trân trọng
Lọng hương thơm khắp hư không pháp giới
Giáo huấn hữu tình bổn tánh thật chân
Duy trì tịnh giới thắng lực tinh cần
Bộ chủ trì thuộc Yết Ma phương Bắc
Hào quang lọng ngọc tỏa ngời pháp giới
Ráng trời bất nhiễm tựa tấm lòng son
Nhiếp thụ chúng sinh được bất thối tâm
Chủ trì thuộc Tây phương Liên Hoa bộ
Nhận sắc lệnh khắp trời cao đất rộng
Hàng phục yêu ma, quỷ quái, các loài tinh
Ủng hộ tam bảo tạo lập đức ân
Giác đạo viên mãn ngày càng phát triển
Sớm được tựu thành pháp môn tu luyện
Vi diệu khôn cùng, đập vỡ để khai thông
Ngũ bộ, ngũ giác thừa khắp cả ngũ phương
Trừ tai họa, đóa sen thơm như ý
Tất cả nạn tai hóa thành hoan hỷ
Việc dữ tiêu trừ phóng đại hào quang
Pháp Bát-nhã-ba-la-mật viên thông
Phúc tuệ trang nghiêm hưởng thọ vô tận
Phật Bộ Tâm Không Như Lai Tạng
Giải thoát khai thông chỉ rõ bến mê
Nghĩa vô cùng vi diệu không giới hạn cõi bờ
Bảo châu như ý khí thần biến hóa
Con nguyện thành Phật vì chúng sinh tế độ
Bất Không đức tánh mở chỗ tối tăm
Yết Ma phương Bắc giác đạo viên dung
Nam mô Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đại Phật Đảnh
Chiếu tam thiên đại thiên trí quang khó sánh
Cõi trời thắng diệu, trong sạch, tịnh thanh
Quang diệm chiếu rạng rỡ bộ Bảo Sanh
Từ trong lửa đóa sen hồng hiển lộ
Ánh quang minh, diệu âm, vô lượng thọ
Cứu cánh Cực Lạc Đức Phật Di Đà
Tây phương biểu hiện Phật bộ Liên Hoa
Đắc thượng phẩm, nguyện tùy tâm viên mãn
Phá vỡ A-tu-la ngu si, sân hận
Háo dũng, háo chiến, gọi là phi thiên
Nữ đố kỵ, nam xấu xí, chẳng được đoan nghiêm
Do nghiệp báo cảm thọ mà tổn thất
Đây chẳng phải A-tu-la đại lực
Hóa hiện kịp thời uy đức Thế Tôn
Đức Bất Động Giáo Chủ Hoan Hỉ Quang
Đông phương Kim Cang tùy nguyện hạnh
Thù thắng vi diệu tối tôn Phật đảnh
Ba mươi hai tướng hóa độ quần luân
Tất cả như ý hiển hiện tùy tâm
Vạn sự thông suốt, bến mê chỉ rõ
Cõi Dục giới có thánh phàm thiên chúng
Cõi thánh nhân có chủ, bạn, quân, thần
Nghe chân ngôn liền hàng phục, quy tâm
Hộ trì tam bảo gia tăng phước tuệ
Dòng giống Rồng cùng nhiễu quanh đảnh lễ
Các rồng độc và quyến thuộc dưới trên
Cải tà quy chánh tự biết tu hành
Kết quả tự thành nếu lập công tinh tấn
Quỷ thần dũng mãnh tinh thông đại lực
Bay lượn biến hóa khéo biết ngũ thông
Gái trai dòng quỷ chịu hàng phục tận cùng
Đồng quy thuận pháp Ma-ha-bát-nhã
Chúng thần âm nhạc, hàng phục tất cả
Kim, thạch, trúc, quản, huyền, thổ, mộc, ti
Thiên chủ tụ hội vạn dặm hương bay
Cùng đến dự buổi xướng ca vô tận
Các loài quỷ đói tanh hôi dơ bẩn
Thường ở quanh đống phân tiểu hôi dơ
Cũng vì tật đố nên tạo nghiệp chẳng ngờ
Nay nghe linh văn cõi luân hồi giải thoát
Tán thán đảnh lễ, quy kính chư Phật
Hàng phục loài quỷ vương hôi thối lạ lùng
Khai thông pháp giới mật ngữ chân ngôn
Cải ác hướng thiện mặt mày đổi mới
Tất cả ma quái hại sinh linh nhân loại
Thế lực quyến thuộc hưng thịnh tăng gia
Tụng chú này chế phục các loài ma
Khiến an bình khắp hư không pháp giới
Lại hàng phục loài yêu ma quỷ quái
Bất động giải thoát tịch diệt hạnh môn
Ngàn vạn yêu tà đồng nhất kính tôn
Mau chóng tu hành, trùng độc chế ngự
Vô sinh, vô diệt, vô lai, vô khứ
Tạo lập, hóa hiện, siêu thoát, vi diệu thay!
Than thở, tâm thần não loạn ưu bi
Nghe tụng chân ngôn mỉm cười cảm kích
Phóng đại quang minh chiếu thế gian u tịch
Phá trừ đen tối hóa độ nữ nam
Khiến chúng sinh được tự tại nhàn an
Nhảy khỏi vòng luân hồi trong ba cõi
Trong một chén canh oán thù như biển
Nửa cân thịt béo nghiệp tựa núi non
Góp phần kinh doanh vốn đã hao mòn
Đọa lạc tam đồ chớ cho là lạ
Thanh tịnh, không ô nhiễm, phá trừ tai họa
Phúc hữu dư như tàng cây lớn sa-la
Vi diệu chân ngôn hàng phục quần ma
Pháp Đại thừa, hộ pháp thiện thần diễn giảng
Cứu độ chúng sinh phá tan cừu hận
Thậm thâm uy dũng chế phục độc trùng
Uy lực tam muội xoay chuyển càn khôn
Tất cả nạn tai hóa thành thái bình, êm ả
Biến nguy nan thành an lành tất cả
Tai nạn bất ngờ thảy thảy tiêu tan
Hành trì pháp Phật không chút khó khăn
Biển khổ ta bà hộ trì người mê mệt
Tất cả độc khí hóa ra thanh khiết
Thuyền đại từ chánh giác nguyện quy y
Lên thuyền bát nhã cùng đến bờ kia
Đắc bất thoái, hiện trang nghiêm tướng mạo
Tu đạo Bồ Đề nương theo Phật giáo
Lục độ vạn hạnh chớ có nghi nan
Việc làm đã xong, lìa chốn thế gian
Ra khỏi ba cõi mới gọi là kỳ đặc
Giải trừ tai nạn được bình an, yên ổn
Trọng tội, nghiệp báo tựa nước bõng, dầu sôi
Lực tam muội gia trì con nguyện dựa nương
Các nạn hung hiểm bao quanh đều quét sạch
Kim Cang Tạng Vương ủng hộ đạo tràng chư Phật
Cầm chùy vác núi hiển hiện uy linh
Thưởng thiện phạt ác chánh giáo trung hưng
Bàng môn tả đạo thảy đều lẩn trốn
Chúng thần hộ pháp vì hữu tình làm lợi ích
Hiền thánh tăng già, chư vị long thần
Cứu khổ cho người, một dạ kính tin
Khiến cây khô héo đơm tươi hoa lá
Sơ phát tâm, nhất niệm liền giác ngộ
Vạn duyên buông xuống mới hiện chân tâm
Tu Bồ Tát hạnh, Thập Địa viên toàn
Trăm nghìn tam muội, luyện vàng trong lửa đỏ
Cây thuốc lớn, đại nguyện, và đại hạnh
Khai quyền hiển thật, biểu lộ chân thường
Trị được bệnh người, lục độ, tứ hoằng
Có được thuốc, bệnh trừ, thân tâm an ổn
Thiên ma ngoại đạo tánh tình cuồng loạn
Thô lỗ, táo bạo, khoác lác, huyênh hoang
Quy thuận theo Phật khi nghe tụng chân ngôn
Chắp tay, cúi đầu, trước Pháp Vương đảnh lễ
Ma trong các ma hung cuồng, ỷ thế
Thiên biến vạn hóa lộ ánh hào quang
Quy thuận theo Phật khi nghe tụng chân ngôn
Y giáo tu hành, theo Pháp Vương ủng hộ
Tám vạn bốn nghìn Kim Cang Tạng Bồ Tát
Ba trăm sáu mươi tả đạo bàng môn
Tất cả đều ủng hộ tánh thiên chân
Mãi mãi an vui, diệt trừ tai ách
Hoa Man thần đồng diệt trừ tai chướng
Độ thoát khổ ách hộ pháp thánh tăng
Diễn thuyết nan tư nghì vi diệu linh văn
Khiến chúng sinh xa lìa lò lửa đỏ
Trước Phật đại hùng chúng con đảnh lễ
Chí thành xưng tán Diệu Giác Thế Tôn
Đều lìa xa họa bát nạn, tam đồ
Đồng chứng đắc thân Pháp Vương thanh tịnh
Hóa độ trầm luân vô sinh pháp bảo
Phật bảo, Tăng bảo đại lực uy thần
Trừ diệt tận cùng tam độc tham sân
An vui thanh khiết thong dong tự tại
Pháp môn Đại Thừa bốn ngàn tám vạn
Pháp pháp bình đẳng không nông không thâm
Khế hợp căn cơ tức Bồ Tát Quán Âm
Luận nghị cũng là Thích Ca Văn Phật
Hàng phục quỷ yêu trên núi, dưới nước
Tất cả ngoại đạo thành khẩn đầu hàng
Ác độc tà ma đều quy thuận chánh tông
Ưa thích pháp báu, quỷ thần khâm phục
Phá ma cang cường, Kim Cang lực sĩ
Đại pháp điều phục thông suốt đất trời
Pháp ba-la-mật cứu cánh viên dung
Vạn sự cát tường oan khiên tiêu diệt
Độ ba nghìn cõi quang minh chiếu khắp
Tự tại an lạc không trước không sau
Hộ trì những người đức thiện, ân sâu
Vun bồi gốc rễ, dưỡng tu nguyên bản
Quỷ trâu thần rắn tánh tình ngạo mạn
Độc dữ hung tàn tựa giống sói lang
Dùng đại thủ nhãn khó nổi thoát thân
Trước pháp vương, quần ma đều quy phục
Đúng đúng, sai sai, quả theo nhân hiện
Thiện thiện, ác ác, giả trở lại chân
Khi nào thì dứt cãi cãi, tranh tranh
Nhường nhường, nhịn nhịn giải tan thù hận
Con đảnh lễ hộ pháp Kim Cang Tạng
Thiên tướng Mật Tích và các thần linh
Tín thọ phụng hành hiệu lệnh kính tin
Vì thánh tăng ngày đêm lại qua bảo bọc
Hàng phục các bọn thuật sư ác độc
Tất cả thiên chúng Tha Hóa Tự Tại reo cười
Bị phá tan nên khâm phục nghe lệnh triệu mời
Tà ma quỷ quái đồng quy y tam bảo
Thầy bùa chú ác cang cường nan giáo
Lọng mây chiếu sáng như lệnh nhiếp thu
Chúng thần Hóa Lạc Tự Tại thiên cung
Thêm sấm chớp, Cổ Âm Vương Phật hiện
Cõi Sắc Cứu Kính và cõi trời Trường Thọ
Đại thần luyện lửa hiển lộ quyền uy
Nghe tụng chân ngôn cung kính chắp tay
Bảo vệ chánh pháp hóa độ ba nghìn cõi
Bốn tay, ba mắt, tiên cô tự tại
Thiên nữ sắc đen qua lại trong mây
Cười nói kiêu căng chẳng kiêng nể một ai
Nghe chân ngôn tức thì liền vâng lệnh
Các thần rồng tên Thải Hà Nghiêm Tịnh
Không phân chia, trời với nước một màu
Bảo vệ đàn tràng, chánh giáo hộ trì
Chân, chân, chân. Chuyên cần tu thiện pháp
Dẫn đạo thiên binh, vua trời Đế Thích
Người làm thiện ác, qua lại tuần tra
Trung hiếu nhân nghĩa phúc tuệ tăng gia
Sát đạo dâm vọng chiêu cảm tai họa
Tịch diệt không, hiệu thần vương sân nộ
Lấy vô tâm, vô ý, vô cấu làm tông
Sai khiến ma nữ đố kị, ghét ghen
Cải tà quy chánh tung hoành nhậm vận
Quyến thuộc tự tại thiên ma sân hận
Đại thần ăn thịt người vây đánh bạo tàn
Duy nguyện chúng sinh sớm ngộ đạo vàng
Buông duyên ô nhiễm đắc thành Phật quả
Hát Sơn là hiệu thiên chủ Đế Thích
Đắc pháp thanh tịnh lìa keo kiệt, tham lam
Bốn đại bộ châu tuân phục lệnh truyền
Sáu nẻo luân hồi nối liền không dứt
Thần Thiện Xã giữ giới nghiêm minh, tinh mật
Oán ma độc ác không còn chỗ thối lui
Đoạn tuyệt sai lầm, cần nhắc nhỡ, vun bồi
Bậc đại thánh hiền đổi mê về giác
Trú Tạp Cư Thiên, thần Vô Năng Áp
Tất cả quỷ thần đều có uy quyền
Tuân thủ hiệu lệnh bảo hộ người hiền
Công thưởng tội trừng không hề thiên vị
Quang minh chiếu vô biên đại tinh tú
Kim tinh, thổ tinh liên hợp phóng hào quang
Phật Lô Xá Na sáng hơn nhật nguyệt bội phần
Có thể chuyển đổi đêm ngày, sớm tối
Quang minh Đại Nguyệt chiếu mười phương thế giới
Các thiên tử và quyến thuộc rất hiền lành
Đồng đến quy y, hàng phục, kính tin
Trước đấng pháp vương khấu đầu vâng mệnh
Khiến ác thần khắp nơi vỡ tan như cát bụi
Đảnh lễ tam bảo bậc cứu cánh Thế Tôn
Việc đã làm xong tự tại, thong dong
Tâm pháp đều quên, chuyển luân diệu đạo
Vi diệu thay! Phật Pháp Tăng tam bảo
Khát ngưỡng chứng tri dù không ngôn từ
Diệt trừ chướng ngại, gia bị người tu
Sớm chứng đắc bậc vô thượng đẳng giác
Việc con làm cúi xin ngài ấn khả
Cứu cánh bồ đề chứng đắc viên thành
Không mà chẳng không, diệu hữu hóa sanh
Hữu mà chẳng hữu, làm thầy tất cả
Hội thứ năm
Hội Văn Thù hoằng truyền
Nặng tâm vô minh quỷ vương ác độc
Phiền não nghiệp chướng khó thoát thân
Lập công tích đức phước tuệ gia tăng
Vâng phục tu hành diễn đại thừa giáo nghĩa
Quỷ buồn lo khi kẻ ác tâm niệm chú
Tự ý rong chơi địa ngục thiên đường
Trí tuệ vô lượng hiền thánh dựa nương
Vi diệu thay, linh văn cứu ưu tư, khổ não
Phóng dật, tà kiến, quỷ ăn tinh khí
Từ vô thủy nghiệp tội đã nhiễm tâm
Điên đảo trắng đen, chân thật mê lầm
Nhận kẻ cướp làm cha nên chìm đắm
Chủ uy thần, Đức Đại Không Vương Phật
Hàng phục ác quỷ ưa thích ăn thai nhi
Duy nguyện chúng sinh hướng thiện, quy y
Khi hung hiểm gặp điềm lành cứu giúp
Pháp thù thắng bố thí quỷ uống máu
Đại trượng phu hiệu Địa Quang Minh Nhân
Có thể hóa ra thiên bách ức ứng thân
Bốn loại sáu đường lẻ loi đều được cứu
Quỷ uống dầu, hút đuốc đèn tinh chất
Báo ứng là Phục Bảo Hỏa Phật Như Lai
Vũ trụ quang minh trong suốt vạn dặm dài
Cứu khổ địa ngục, độ cõi âm u ám
Quỷ ăn sinh sản tánh tình hiểm ác
Bồn máu kia bởi lầm lẫn âm dương
Đắc đạo hiệu là Phật Hải Thủy Thiên Thần
Gặp hung hiểm hóa cát tường nên cung phục
Thập nhị bộ kinh đồ thư bổn sự
Quỷ ưa ăn thịt béo mập tựa hồ lô
Đắc quả hiệu là Phật Thủy Tự Tại cứu tội đồ
Con khấu đầu quy mạng đấng Lưỡng Túc
Âm nhạc cõi trời thiên thần ca hát
Lệnh truyền rõ ràng không ăn thịt chúng sanh
Hiệu Bồ Tát Kim Cang Tạng chuyển nghiệp đắc thành
Bậc tự tại Đà La Ni Tôn Phật
Vật tinh anh cúng tế, quỷ thần ẩm thực
Nương chú thần hiện dù báu lọng hoa
Đại Phương Quảng Phật giáo hóa vạn tượng bao la
Người gánh vác pháp quang minh chứng đắc
Quỷ vương ngửi hương thơm hóa Kim Cang Bồ Tát
Phật Đà tự tại cứu độ mười phương
Sáu nẻo luân hồi lên xuống nổi trôi
Các loài tứ sinh thai noãn đều hứng chịu
Phật Hoa Tự Tại chiếu soi các cõi
Cầm chùy Kim Cang Bồ Tát hiển uy linh
Bướm như thoi đưa bay vút, lượn quanh
Mặc niệm chân ngôn hào quang óng ánh
Quả thơm tươi dâng cúng dường chư Thánh
Loài quỷ này rình rập đến tranh ăn
Thọ hưởng rồi bồ đề lực gia tăng
Đắc an lạc, chứng pháp môn huyền diệu
Bản chất dưỡng sinh là tinh hoa hạt giống
Tam muội rong chơi hóa giải ưu tư
Như ý thần thông biến hóa có dư
Đắc pháp vô biên nếu người tự tại
Quỷ thân xấu ác hung tàn khó địch lại
Miệng vuông răng lớn phun lửa đốt thiêu
Tự thân não nhiệt sân nộ quái yêu
Hàng phục giận dữ tà ma chia cách
Kẻ tà kiến vô minh lại càng mê loạn
Nhận giặc làm cha đánh mất bổn chân
Quỷ mắt ác độc sát khí dữ hung
Bậc Chúng Trung Tôn viên thành trí tuệ
Đầu như Tu Di, mắt rộng như bể
Miệng lớn răng nhọn nuốt trăm cá voi
Phật thị hiện thiên vạn ức mắt, tay
Năng hàng phục các quỷ vương vạn lực
Quỷ vương nuốt lửa có nhiều chủng loại
Nam nữ sinh ra chung sống với nhau
Đắc quả Bồ Đề, Phật thọ ký nhiếp thu
Quyền thật phân minh nhập Đại Thừa tông phái
Quỷ sinh ra cũng khá nhiều giống loại
Uống nước biển, sống chen chúc cùng nhau
Chiết phục, thọ ký, trước tam bảo khấu đầu
Sa bà yết la ha nữ La Sát
Hai tay khoanh lại ra oai hung ác
Quyền thật, nghịch thuận, hàng phục, phá tan
Hiển mật, bất định, đồng hóa, nhiếp thu
Mau chóng quay về Bồ Đề chứng đắc
Vua quỷ tréo chân thích ăn sinh khí
Bồ Đề Tâm chưa phát nên hại hàm linh
Gặp cơ duyên cải ác tu tập đạo lành
Xa rời bến mê, hộ trì chánh pháp
Quái thai do quỷ tréo thân biến dạng
Dính như keo sơn, chướng ngại trùng trùng
Bản tính hiện tiền, đốn phá vô minh
Tích công bồi đức quả vị tăng trưởng
Hợp mạng, phân thân hại muôn mạng sống
Thần thông diệu dụng ma thuật vô cùng
Có thể tránh xa đao kiếm hại thân
Vì ái dục mất trân châu dễ gì tìm lại
Hiển thị uy thần phun lửa, nuốt khói
Che đất, phủ trời, đã dữ lại hung
Tùy ý rong chơi lấp bể dời sông
Thọ ký quy y, thanh bình an ổn
Nghiệp cảm giao nhau phun ra ánh lửa
Quả báo làm quỷ khổ khó thể than
Nếu biết phản chiếu nhất niệm hồi quang
Cắt đứt luân hồi thoát vòng sinh diệt
Làm việc giả dối không hề thân thiết
Chỉ trổ hoa hèn, kết quả chẳng mấy khi
Quả báo làm quỷ hiện bóng, lúc đến, lúc đi
Cảnh tỉnh si mê thị hiện thuyết giảng
Lửa đốt thiêu ngoài trong vì sân hận
Lửa giận bốc tận trời muôn dặm cao
Hiện thân làm quỷ do nghiệp báo cảm giao
Tội tiêu diệt vì quy y tin nhận
Nhân quả tuần hoàn quanh co qua lại
Quả báo hỗ tương ràng buộc bời bời
Ái dục là đao kiếm hại mạng người
Hộ trì chánh pháp lòng nên quảng đại
Qua nhiều năm hồ li thành yêu quái
Khéo biết biến hóa mê hoặc hữu tình
Mê người hại vật ngược lại luật dưỡng sinh
Phật pháp thịnh hưng khi oán thân bình đẳng
Khiến không yên giấc, trẻ con não loạn
Hốt nhiên kinh hoàng khóc ngất chẳng thôi
Trì tụng linh văn thông suốt đất trời
Diệt ác sinh thiện an bình hoan hỷ
Bay trong không trung, các loài vua quỷ
Khiến mây mưa giăng mắc khắp mười phương
Nay trước Như Lai giáo pháp dựa nương
Hộ trì tam bảo, tai ương độ thoát
Sức lực vô biên, chim cánh vàng quyến thuộc
Đầy khắp đại thiên lấp kín không gian
Tay hái nhật nguyệt, lấp bể dời non
Trấn giữ càn khôn, hàng phục si mị
Chó canh giữ đêm, gà lo buổi sớm
Quỷ mèo, yêu chuột mặc sức trổ tài
Hung thần ác quỷ giáo thọ truyền khai
Mật chú tụng trì linh văn chuyển vận
Bạo ngược hại sinh linh khi hạn hán
Lửa dậy ngút trời cây cỏ héo khô
Bồ tát Quán Âm bố thí cam lồ
Gia trì thần chú hữu tình tỉnh giác
Sắc diện xanh lam, lúc rồng, lúc rắn
Hình dáng dị kỳ, tướng mạo hung hăng
Cải ác tu tập, chánh giáo phục tùng
Huân tập công đức, hộ trì tam bảo
Gà ăn sâu bọ, rắn thì ăn trứng
Đôi bên kết oán, hận khó giảng hòa
Hồn quỷ không quên cừu địch sâu xa
Khéo biết hòa hợp, oán thân bình đẳng
Miệng nhả lửa khói đốt thiêu nhân thế
Ôn dịch lưu hành giết hại sinh linh
Ngày nay hộ pháp trước tam bảo quy y
Chánh niệm lìa khổ vào thành chư Phật
Một ngày, ba ngày, năm ngày, phát tác
Quỷ gây sốt rét gieo rắc pháp tà
Đại lực uy đức tam bảo ngưỡng trông
Đồng nhập vô sinh liên hoa thất bảo
Phật Đông Phương A Súc Kim Cang lãnh đạo
Bệnh sốt rét hai ngày bay cao chạy xa
Giải thoát tai ách tự tại bình hòa
Vi diệu khôn lường, vô sinh pháp nhẫn
Sa bà giáo chủ Thích Ca Tôn Phật
Gia trì thần chú trăm vạn do tuần
Oan hồn quỷ sốt rét nghe lệnh phục tùng
Áng linh văn Bồ Đề Đạt Ma trì tụng
Tu đạo tập pháp cần chân thành cung kính
Lúc một mình dè dặt chớ phóng tâm
Quỷ sốt rét tung độc khiến mê dục buông lung
Người tu đạo cứu chúng sinh trừ gốc khổ
Quỷ khiến nóng sốt, thân người rối loạn
Như đun nước, nấu dầu, khổ sở chẳng dừng
Trì tụng linh văn trừ chướng ngại, tai ương
Tịch diệt, thanh lương, bình an, hoan lạc
Quỷ khiến người lúc lạnh, khi nóng, mát
Truyền nhiễm dây dưa khó sống được thay
Có cơ duyên nương lực tam muội này
Trừ bệnh hoạn, niệm A Di Đà Phật
Bệnh phong thấp kéo dài chân khó bước
Năm tháng dài bệnh khó dứt chẳng an
Nếu biết chuyên cần sám hối, hồi quang
Hư không thanh tịnh, thống khổ tiêu tán
Pháp thuật cao cường, học tập dũng mãnh
Quỷ gây bệnh vàng da rất mực dối gian
Phật chủ trì Yết Ma Bộ Bắc phương
Đọc tụng thọ trì tiêu trừ tai nạn
Chí kiên cố vững vàng như giáp sắt
Thiện hưởng cát tường, ác thọ báo chẳng sai
Ôn dịch lưu hành truyền bệnh khổ thay
Chém yêu quái, Kim Cang gươm trí tuệ
Quỷ vô biên, biển nghiệp vô tận khó tính kể
Thọ báo tùy theo nghiệp, quả do tâm
Bệnh kiết lị đều do miệng lưỡi tham ăn
Tất cả các pháp, nhân đều như vậy
Quỷ khiến đau đầu hung hăng ỷ thế
Đau nhức khó nhẫn chịu, khổ khó an
Tiêu tai nghiệp chướng, vô lượng trí quang
Phật bảo tự tại là thuốc thần trị bệnh
Tương tự như điên, đầu như búa bổ
Điên đảo tâm thần, chết cũng là xong
Thanh tịnh pháp quang chiếu diệu sắc thanh
Yên ổn, điều hòa, an lành giấc ngủ
Các nghiệp báo tánh đều sai khác
Không hề đói khát, cũng chẳng thở than
Uy đức quảng đại, trí tuệ thánh hiền
Cứu khổ ban vui, từng là phương pháp
Quỷ khiến đau miệng do tham ăn uống
Khó ăn khó nuốt, bệnh ác khó lường
Chánh giác, không thể sánh nếu dùng pháp thế gian
Thiên thần sấm chớp tiêu trừ bệnh tật
Quỷ ma khiến đau răng phá tan bướng bỉnh
Sâu răng thì đập đá cũng như không
Chứng đắc tự tại pháp tánh chân không
Như ráng mây, thần linh giải oan nghiệt
Một thể phân ra môi, răng, cuống họng
Các phần thống khổ cũng bởi quả nhân
Tội tiêu trừ nếu nghe được linh văn
Khôi phục thanh tịnh hướng về tam bảo
Quỷ ma thân bệnh triền miên khổ não
Năm tháng kéo dài ơi hỡi trời xanh
Tất cả chủng tộc giống loại tà tinh
Chân ngôn đại lực giải trừ tội lỗi
Hạt giống kết tụ, thân hình chưa thành tựu
Quỷ đầy oai lực hung dữ kiếm tìm
Nghe được cát tường ngôn ngữ chân ngôn
An định hồn phách, hữu tình hóa độ
Nói chẳng ra lời, má cằm thống khổ
Ngày đêm rên rỉ kêu thấu trời cao
Thần giữ đất đai sắc lệnh vâng theo
Gia hộ bình an bệnh lạ kỳ thuyên giảm
Một nắm thịt sinh tâm, quỷ thần nương dựa
Đau nhức không dừng hít thở khó khăn
Hốt nhiên khỏi bệnh khi nghe được linh văn
Tam bảo cảm ứng thế gian hy hữu
Chết đã đến nơi, các căn đều hoại
Đầu đau dữ dội khó thể nhẫn thay
Dường như mơ hồ cân nhắc, nghĩ suy
Tam muội gia trì, cổ kim chấn động
Hình tượng năm bảy, các căn đầy đủ
Quỷ khiến đau xương sườn thoắt đã đến ngay
Tìm nhân kiếm quả, báo oán, trả vay
Căn trần thức nhập linh văn trì tụng
Thống khổ vô vàn, eo lưng đau nhức
Xúc chạm sinh si ái, kiêu ngạo, tự cao
Ngày một đắm mê, bể dục luân lưu
Trước pháp vương đảnh lễ, Bát Nhã chiếu phá
Tiếp nối liền nhau nhân nhân quả quả
Quỷ khiến đau bụng khổ não bao vây
Nay nương nhờ lực tam muội gia trì
Tai nạn tiêu trừ giải tan oan uất
Âm dương điên đảo trái trời nghịch đất
Xác chết trổi dậy, lưng đau nhức liên miên
Nhân trồng thuở xưa nay kết quả liền
Gió nghiệp thổi khắp tam thiên chuyển động
Đôi chân làm nền cho toàn thân thể
Đau chân khó làm việc hoặc đứng, đi
Vô thường bắt hồn chờ đúng thời kỳ
Trì tụng linh văn xấu xa thành tốt đẹp
Bắp chân đau bước lại qua chậm chạp
Không hứng thú, suy nhược, tính từng ngày
Ác quỷ Bạch Vô Thường chiếm đoạt mang đi
Lực thần chú đề phòng, ngăn kẻ cướp
Quỷ khiến đau cổ tay khó nhẫn được
Rèn sắt, mài câu móc với gông cùm
Vung múa gươm đao, khoét bụng, xuyên tim
Thần chú gia trì được tự do, thoát khổ
Cả hai tay đớn đau khó co duỗi
Đầu trâu mặt ngựa sư tử kiếm tìm
Quỷ bệnh dã man không thể trị lành
Chú lực Lăng Nghiêm viên thông thần biến
Xương lóng tay chân đến khi đau nhức
Hết tháng rồi năm bệnh chẳng giảm dần
Dũng tướng uy nghi thiện thưởng, ác răn
Nghe được thần chú khổ đau trừ giải
Quỷ đến, đau hai cánh tay và năm phần thân thể
Binh khí là vòng hoa ngón tay, đoạt ánh đèn dầu
Địa ngục hỏa thiêu khôn xiết khổ sầu
Giữ gìn an ổn, chân ngôn mật ngữ
Thiện và ác tri thức dạy người hiền, kẻ dữ
Dùng pháp thuận nghịch hết lòng giúp kẻ bị treo
Khóa chuông nện chùy hàng phục quỷ yêu
Tiêu diệt tội khiên, giải oan, cứu khổ
Vi diệu vô phương, pháp Đại Thừa hiếm có
Bồ Đề Kim Cang nhiếp thụ các quỷ vương
Quyến thuộc yêu ma được truyền dạy chỗ thây chôn
Pháp lệnh câu triệu an lành các nơi hoang dã
Tà thuật quỷ mị lạ kỳ biến hóa
Mất đi chủ tể phát khởi hồ nghi
Ếch nhái kêu vang cùng tiếng loa, linh
Thần chú gia trì, tiêu trừ lạnh nóng
Khắp ba nghìn cõi, quang minh chiếu khắp
Tất cả nhọt độc tai ác tẩy trừ
Quang minh quét sạch ma thuật huyễn hư
Tụng trì thần chú quy y tôn Phật
a. Quỷ bệnh nhọt hung ác tổn thương sinh mệnh
Thế Tôn từ mẫn diễn thuyết linh văn
Hành giả tụng trì tai chướng tiêu tan
Giải trừ các bệnh ung thư thống khổ
b. Tất cả quỷ mụt nhọt hại người thâm độc
Ghẻ lở, hủi, bướu cổ, mụn lông dê
Lực thần chú, mẹ của trí tuệ, gia trì
Nghiệp quá khứ giải trừ, bình an yên ổn
a. Quỷ quái bay giữa trời phóng ra hơi độc
Bệnh nhọt con nhện rất khó chữa lành
Bộ Chủ Phật Bảo Sinh phóng ánh quang minh
Hư không Tạng Vương trước sau trừ sạch
b. Nhền nhện hung ác phun ra khí độc
Giống như bệnh sởi mụn đỏ sưng phù
Trừ tội chướng, Phật Bảo Sinh chiếu quang minh
Chứng bệnh kỳ quái tức thì trừ diệt
Vô số dạng hình dữ dội, độc ác
Bệnh không tên gọi, sưng đau như mũi đinh
Diệu pháp đáo bỉ ngạn có tám mươi nghìn
Bộ chủ Liên Hoa trừ vong linh quỷ quái
Vi khuẩn ngấm ngầm biến thể lan ra mãi
Đây lành kia phát rất đổi hãi kinh
Bát Nhã gươm thiêng chém đứt gốc tình
Khôi phục thanh tịnh bản lai chân thật
Quỷ nhọt đỏ ác tâm thường nổi giận
Đại chúng hội Tăng già tác Yết Ma
Nguyện làm Phật sự cầu trí Phật Đà
Thích việc pháp mong tựu thành chánh giác
Xâm phạm thai nhi quỷ sinh nhọt độc ác
Giới luật cải tiến nghiêm tịnh tỳ ni
Khôi phục thể thanh tịnh, phương pháp diệu kỳ
Lìa ô nhiễm, trừ tham dục, pháp thân hiển lộ
Phát cuồng điên vì hít độc, uống thuốc
Ăn nói hồ đồ, tự giả mạo xưng vương
Không tin nhân quả, yêu quái dựa nương
Trấn giữ tám phương, ngũ bộ pháp chủ
Bùa ngãi ngông cuồng gây hủi, nhọt, bướu
Vọng tưởng tạp niệm nên khiến tà dâm
Thiên thần bảo hộ kẻ trì tụng chuyên cần
Nghĩa Không, cùng tương ứng giải ngộ hay đốn giác
Quỷ lửa độc hại khiến cháy bùng hung hãn
Dục tình mãnh liệt ngày cũng như đêm
Tụng trì vi diệu thần chú linh văn
Hộ pháp gia trì, tai ương thiêu đốt
Quyến thuộc quỷ và mẹ rất độc ác
Nổi trận phong ba lấp bể dời sông
Gìn giữ người hiền Kim Cang thần rồng
Biến nguy thành an, A Di Đà Phật
Đố kỵ sân hận, tánh tình chật hẹp
Thay đổi khó lường, mê muội quỷ ma
Sấm loạn gió cuồng giúp sức yêu tà
Hồn phiêu lãng mặc tình theo cát bụi
Thiên thần thổ địa hộ trì nhân thế
Ghi chép thiện ác ngay thẳng không sai
Tâm nguyện từ bi hóa độ muôn loài
Học hiền thánh, chứng vô sinh pháp nhẫn
Phải bỏ thân bởi tai bay vạ gởi
Gieo nhân sai lầm rước lấy oan khiên
Tâm đại từ cứu khổ não, muộn phiền
Diệu pháp thuật cứu độ người thoát nạn
Thoắt sống, thoắt chết, một trời ai oán
Chờ tìm cơ hội thay thế phận duyên
Phương tiện thích nghi đối ứng bởi người hiền
Mở trói lỗi lầm khiến an vui thoát khổ
Tâm ý độc ác sát hại trăm họ
Mất mạng rồi hóa vàng đá, cỏ cây
Bản chất quá ư độc hại, gắt gay
Nha phiến độc dược nhân tình bại hoại
Loài rắn độc bò cạp và loài rết
Sâu bọ cóc nhái, cổ độc côn trùng
Sân hận thâm thù báo oán cùng chung
Linh văn tẩy sạch cảm thông cởi mở
Loài quỷ mị bò cạp tánh hiểm ác
Bắn lén hại người, mất mạng liền khi
Bố thí cam lồ, Độc Giác, Bích Chi
Mùa xuân đến cây khô đơm nhánh mới
Quỷ rắn tác quái phun ra lửa khói
Miệng lưỡi khô khan, thân nóng không thôi
Thống khổ vô cùng chỉ muốn xong đời
Duyên lành gặp chân ngôn giải trừ oan trái
Hung mãnh tàn bạo hơn loài lang sói
Hoành hành ngang ngược, cậy sức khinh khi
Bậc Năng Nhân dùng phương tiện từ bi
Ban an lạc trong rừng cây thẳng tắp
Quỷ sư tử rống, muôn thú đều kinh hãi
Loài yêu ma vọng lượng phải ẩn hình
Bậc dũng kiện Thành Tựu nhiếp hóa quần sinh
Ác hóa thiện được bình an, thanh thản
Tất cả ác quỷ đều bạo tàn, hung hãn
Hiểm độc, gian trá, nguy hại vô cùng
Diệu pháp cao thượng trừ tội nghiệp ngăn đường
Liên Hoa Bộ Chủ từ bi, công chính
Quỷ gấu độc hại khó lường khó tính
Dáng vẻ mạnh bạo không thể chống ngăn
Như ý, cát tường, lìa ô nhiễm, cấu trần
Cứu tai họa, Nam Phương Bảo Sinh Phật
Kẻ phản phúc thường gây việc rối loạn
Ác độc tàn hại các loài hàm linh
Uy đức nhiếp phục loài ương ngạnh, nghịch tinh
Trên dưới hát ca cùng vui an định
Ngày ngày đổi mới, cải ác hướng thiện
Quy y chánh pháp vượt thoát mê tâm
Ngũ Bộ Chư Phật hoan hỷ, vui mừng
Muôn phương đảnh lễ Đại Oai Âm Vương Phật
Các thứ tàn lọng hương hoa mây báu
Giúp ích người đời trừ chướng tiêu tai
Ma chúng năm phương cung kính chắp tay
Một lòng vâng phục, muôn loài yêu quỷ
Trấn áp yêu tà, Kim Cang Lực Sĩ
Hộ pháp giữ gìn thanh lọc thế gian
Quy y, lễ kính, ác diệt, thiện tăng
Phật-Đà-Gia Thế Tôn Đại Chánh Giác
Khải Hỏa Kim Cang Tạng Vương Chúng
Hóa hung tàn thành tốt đẹp ma chắp hai tay
Bảo quang quán đảnh trừ ách nạn tai
Kiết giới thành tựu quy y Phật Bất Động
Ánh sáng trí tuệ quang độ người mông muội
Liên Hoa bảo loa, bảo sách, hóa độ san tham
Không pháp chi chẳng phải thánh pháp môn
Phản bổn hoàn nguyên vô cùng hoan hỷ
Cho đến các vị hộ thần chú, lực sĩ
Phật bảo vô thượng chư pháp trung vương
Khuyến dạy ác nên diệt, thiện nên sinh
Vì vậy nơi nầy cát tường tối thượng
Tất cả lực sĩ tà ma trấn giữ
Hộ pháp Kim Cang bảo vệ Tăng già
Một tiếng hét rung động khắp tam thiên
Nhiếp phục ngoại ma tiêu trừ tai họa
Lệnh triệu tập các vương thần hộ pháp
Đến trước pháp đàn tham dự đạo tràng
Bộ chủ Liên Hoa sắc lệnh ban hành
Bậc cao quý phóng hào quang thù thắng
Vô thượng đại uy thần lực thành tựu
Quang minh thanh tịnh chiếu khắp không gian
Chánh Giác Thế Tôn pháp lệnh ban ân
Kiết giới hộ pháp uy nghi nghiêm mật
Pháp đại quang minh kiết giới thành tựu
Đảnh lễ từ bi Tăng bảo chúng trung tôn
Việc đã làm xong, tà quy thuận chánh môn
Đạo quả Bồ Đề bất tăng bất giảm
Tuyệt đối cấm kẻ ngông cuồng, ngạo mạn
Vua quỷ thần, yêu quái, các tà ma
Tất cả đồng quy mệnh trước pháp tòa
Gươm trí tuệ giữ bình an các cõi
Tuyệt đối cấm các ác ma, thần quỷ
Không được vào nơi kiết giới hại người
Khai bảo pháp đàn, mở hội thánh hiền
Chuyển luân diệu pháp, cổ kim xuyên suốt
Lực linh văn trí tuệ khiến chúng ma trói buộc
Chánh giác đạo, Phật Mẫu hóa độ sa bà
Thi hành pháp lệnh, pháp bộ Liên Hoa
Kinh nói: “Kẻ đã chết hóa ra sống lại”.
Pháp hội Lăng Nghiêm tựu thành viên mãn
Kết giới đàn hàng phục các ác thần
Thực tế lý địa đại lực tận cùng
Hộ trì hành giả, Phật giáo hưng thịnh
Với các hữu tình, Phật ban sắc lệnh
Hòa hợp, kính lễ, tuân phục, phụng hành
Không nên xa rời, bảo hộ luôn luôn
Cùng đến thành pháp vương, đạo chánh giác
Trước tổng-trì-vương chắp tay cung kính
Khiến sinh ra vô lượng thần diệu cú chương
Tất cả tà ma chánh giáo quy hàng
Si mị võng lượng khó toan ẩn trốn
Cao ngất trời xanh, dọc cùng tam tế
Cao không gì hơn, rộng khắp vô biên
Giáo pháp thuận hòa, hợp nghĩa, khó diệt vong
Phật Pháp Tăng tùy cơ quyền ban rải
Phật ban sắc lệnh chúng sinh tụ hội
Đảnh lễ, bảo hộ, không thể xa rời
Dọc cùng cõi nước, ngang khắp mười phương
Bước thẳng đến đại bồ đề vô thượng
Loài yêu ma quản thúc hàng quyến thuộc
Tuân theo khuôn phép để lập kỳ công
Hộ trì tam bảo hoằng hóa Phật tông
Oai nghi nghiêm chỉnh, thiện căn thuần thục
Kim Cang trợn mắt thần uy hùng dũng
Pháp lôi chấn động, hiển chánh phá tà
Thưởng thiện, phạt ác, trừ diệt ngoại ma
Công bình vô tư phóng ra ánh sáng
Tâm chú thần lực vượt ngoài lý luận
Cải ác hướng thiện phát bồ-đề tâm
Đồng nhiếp thọ pháp giới chúng hữu tình
Vô lượng tổng trì muôn duyên hóa độ
Dọc ngang cùng khắp bao la vô tận
Khắp cõi tụ về như cát bụi mười phương
Hoa tạng Tỳ Lô Giá Na đại pháp tràng
Khai triển Đại Thừa nhập vào pháp giới
Bồ tát Kim Cang hộ trì hành giả
Tay cầm chày báu trấn giữ ma quân
Chiết phục, nhiếp thọ, khai triển thần thông
Đồng nhập vào vô lượng môn Bát Nhã
Thánh nhân phàm phu tất cả đều giác ngộ
Năm bộ, năm Đức Phật tại năm phương
Tăng gia ích lợi, thành tựu các cầu mong
Toại tâm như ý, khẩn cầu đều mãn nguyện
Lập công bồi đức hổ tương viên mãn
Quả chướng tiêu diệt, thiện nghiệp hoàn toàn
Đến thẳng bồ-đề, phấn chấn khí thần
Trên đóa sen thơm ngự tòa chánh giác
Hết
………………………………………………………….
Bản Hán Văn (Hòa Thượng Tuyên Hóa)
001.南無薩怛他
皈命敬投義南無 三業清淨薩怛他
煩惱菩提唯心現 迷時凡夫覺佛陀
002.蘇伽多耶
無來無去鏡中華 非空非色水月斜
離塵絕相有何住 頭上安頭演若達
003.阿羅訶帝
應受人天真供養 種福植慧感遂通
因圓果滿成萬行 是則名為大覺王
004.三藐三菩陀寫
虛空法界光明藏 十方三世大智尊
我今皈命真實性 正徧知覺妙法堂
005.南無薩怛他
信從聖教兩足尊 內施外施效能仁
一切無著即自在 解脫知見無我人
006.佛陀俱胝瑟尼釤
百億相好莊嚴身 大佛頂首秘靈文
若人受持勤精進 皈依法寶日日新
007.南無薩婆
恭敬一切摩訶薩 清淨福田菩提芽
培養灌溉常精進 功圓果滿赴龍華
008.勃陀勃地
大徹大悟大丈夫 人天師表福慧足
因修六度波羅蜜 果成萬行妙覺如
009.薩跢鞞弊
上求諸佛智慧道 下化眾生同體悲
善治調伏身口意 廣解勝說貪瞋癡
010.南無薩多南
大勇猛者大道心 猶如蓮華不染塵
晝夜六時勤警策 常在火裏煉精金
011.三藐三菩陀
十方三世一切佛 捨身為法積功德
累劫躬行菩薩道 飼虎救鷹求達摩
012.俱知南
百億菩薩百億佛 上首聖眾護行者
真心求法恒不退 當來必生無憂國
013.娑舍囉婆迦
深山窮谷修道玄 萬物生滅十二緣
春花自開秋葉落 豁然朗照悟真詮
014.僧伽喃
辟支迦羅斯陀含 獨覺緣覺義通兼
專心致志勤拂拭 有學無學上首傳
015.南無盧雞阿羅漢跢喃
應供殺賊暨無生 世間福田須力耕
栽培無上菩提果 惑盡真純佛道成
016.南無蘇盧多波那喃
今入聖人法性流 背逆凡夫六塵遊
見惑斷除證初果 繼續精進大慈舟
017.南無娑羯唎陀伽彌喃
名一往來實不來 思惑斷盡坐蓮臺
空中常現十八變 此界他方百萬該
018.南無盧雞三藐伽跢喃
一切世間賢聖僧 正等正覺大智尊
皈命頂禮求攝受 圓滿菩提不減增
019.三藐伽波囉
不還欲界證涅槃 了知萬法徹底源
無識無知常清淨 非動非靜離說言
020.底波多那喃
諸天神將護法城 我今祈請願降臨
賞善懲惡查功過 謹慎修行莫胡云
021.南無提婆離瑟赧
頂禮欲界色界天 長生久視煉仙丹
五氣朝元明大道 九轉純陽壽萬年
022.南無悉陀耶
補處知足甚悠閒 無思無慮無罣牽
緣熟降生娑婆界 普化群倫度女男
023.毗地耶
四大天王察善惡 統領鬼神日巡邏
禍福無門人自召 因果循環莫怪他
024.陀囉離瑟赧
化樂天宮變化奇 逍遙自在世間稀
衣食遂意適可止 既無煩惱更無悲
025.舍波奴
他化自在妙無窮 快樂滔滔最安寧
淡泊少貪離諸欲 積德修善兼立功
026.揭囉訶
諸天眷屬種福因 同修善道作勝親
當知斯非究竟樂 仍須發大菩提心
027.娑訶娑囉摩他喃
三千大千諸天仙 忍辱精進修道虔
若聖若凡皆皈敬 貢高我慢盡除蠲
028.南無跋囉訶摩泥
離垢清淨大梵天 威德凜凜甚莊嚴
婆羅門教為宗主 少欲知足自安然
029.南無因陀囉耶
天主真神因陀囉 為實施權大菩薩
積善修福行六度 釋梵聖眾尊重他
030.南無婆伽婆帝
多含不翻薄伽梵 自在熾盛妙端嚴
名稱普聞吉祥處 尊貴人天同仰瞻
031.盧陀囉耶
天神眷屬自在仙 地祇等眾護衛前
行者一心修真諦 常隨保佑勿瞋貪
032烏摩般帝
最勝猛疾大風神 倒舍拔樹甚驚人
三禪猶懼此災難 瞋恚感召自沉淪
033.娑醯夜耶
烈火炎炎熱難當 此災現時七太陽
山枯海乾無生物 成住壞空業茫茫
034.南無婆伽婆帝
皈命世尊薄伽梵 無盡法寶妙湛然
十方賢聖同聚會 一心頂禮天中天
035.那囉野
掌握水族住龍宮 汪洋大海波浪湧
滋潤灌溉生萬物 澎湃滂沱演洪濛
036.拏耶
無形無象舜若多 視之不見聞亦歇
成住壞空二十劫 金剛大定未曾挪
037.槃遮摩訶三慕陀囉
歌樂大會演妙音 啞吧唱頌聾者聽
瞽目老翁睜眼看 土木瓦石喜融融
038.南無悉羯唎多耶
海印三昧光明雲 森羅萬象影現中
如夢如幻如泡沫 如露如電如是窮
039.南無婆伽婆帝
無妄自在大定中 熾盛智炬照梵宮
端嚴威儀三千界 吉祥如意不老松
040.摩訶迦羅耶
大梵天王名大悲 救護一切眾生歸
四臂三眼觀邪正 賞善罰惡守法回
041.地唎般剌那
光明徧照大勇王 不空智慧露真常
燃燈古佛權示現 普攝群機入法堂
042.伽囉毗陀囉
天兵天將猛勇軍 掃蕩群邪鎮妖氛
法界澄清功德大 衛護正教永昌興
043.波拏迦囉耶
四值功曹巡世間 觀察善惡過不偏
年月日時仔細記 因果報應毫髮端
044.阿地目帝
無能壓義善思惟 三十三天抖雄威
四大部洲忤逆者 惡報難逃墮輪迴
045.尸摩舍那泥
寶髻火頂大天神 奉行十善積功勳
鬼仙靈物來瞻禮 躬行實踐因果真
046.婆悉泥
所向無敵號勝軍 不戰而降棄甲兵
以德服人弭災禍 望風披靡護安平
047.摩怛唎伽拏
雲童木母御風行 閃電霹靂醒瞶聾
萬物並作原無事 真俗互用本圓通
048.南無悉羯唎多耶
能禮所禮性相空 感應道交默然通
如是權實現天眾 悉皆皈命永無窮
049.南無婆伽婆帝
兜率降世入母胎 出家成道苦修來
大轉法輪度群眾 無上菩提正法開
050.多他伽跢俱囉耶
中央佛部毘盧尊 如來種族化群倫
普修萬行波羅蜜 諸法無我證圓通
051.南無般頭摩俱囉耶
西方彌陀寶蓮華 等候眾生早到家
一心持名恒不退 十萬億土剎那達
052.南無跋闍囉俱囉耶
金剛部主阿閦佛 藥叉大將各巡邏
天魔眷屬望風避 牛鬼馬神急奔波
053.南無摩尼俱囉耶
寶生佛部主摩尼 虛空菩薩眷屬俱
南方位在丙丁火 熾然紅光照坎離
054.南無伽闍俱囉耶
作法辦事部羯磨 地藏菩薩族眾多
善惡業報毫不錯 鐵面無私老閻羅
055.南無婆伽婆帝
正等正覺大導師 接引有情赴蓮池
親見彌陀觀自在 勢至招手快來時
056.帝唎茶
堅固不退菩提心 勇猛精進真又真
發芽長大登彼岸 土磚瓦石變黃金
057.輸囉西那
破魔羅網勝魔軍 無端正者甚驚心
威德降伏天賊眾 善眼妙目視古今
058.波囉訶囉拏囉闍耶
如意自在無能勝 知足怒吼獅子王
莊嚴結鬘香殊妙 能持寶戒悟真常
059.跢他伽多耶
如來變化妙無方 說法談經度迷氓
信受奉行皆離苦 念佛持咒見覺王
060.南無婆伽婆帝
無上正等正覺尊 如來應供天人中
明行善逝世間解 志心皈命禮敬恭
061.南無阿彌多婆耶
皈投西方無量覺 智慧光明眾相好
依正清淨及莊嚴 賢聖充滿知多少
062.跢他伽多耶
普禮如來眾門徒 一心恭敬大丈夫
惟願慈悲哀攝受 常為我等作護符
063.阿囉訶帝
應真一切眾王族 生尊貴家夙緣熟
助佛揚化弘正法 指引頑愚出三塗
064.三藐三菩陀耶
皈命正覺賢聖眾 救度三界皆應供
普願有情俱離苦 天魔恐怖地震動
065.南無婆伽婆帝
九界眾生慈悲父 十方國土大覺尊
見相聞名均得度 蠢動含靈作依怙
066.阿芻鞞耶
東方不動歡喜光 降伏天魔怒金剛
折攝二門化群眾 順逆互用妙無方
067.跢他伽多耶
禮敬諸佛要至誠 感應道交默然通
為法精進常不退 面見如來神夢中
068.阿囉訶帝
普禮應真眾王族 志心恭敬待緣熟
功圓果滿成大道 與佛同室證如如
069.三藐三菩陀耶
皈命正覺天中天 虛空法界諸聖賢
願垂慈悲哀攝受 護萬佛城億萬年
070.南無婆伽婆帝
十方三世諸如來 本體同共一法身
不增不減不垢淨 永作眾生大明燈
071.鞞沙闍耶
東方藥師琉璃光 普度有緣入彼邦
增福消災延長壽 稱名禮敬見法王
072.俱盧吠柱唎耶
藥師如來青色寶 具足莊嚴眾相好
塵剎現身攝群類 惟望速發菩提早
073.般囉婆囉闍耶
大哉般若智慧光 普照法界性中王
不動道場觀自在 寂滅為樂露堂堂
074.跢他伽多耶
稱讚如來禮門人 廣修供養徧剎塵
懺悔業障恒精進 隨喜功德更殷勤
075.南無婆伽婆帝
具一切智圓滿覺 出廣長舌破迷倒
說誠實言醒聾瞶 依教奉行知多少
076.三補師毖多
普徧一切殊勝光 上至有頂下無鄉
蠢動含靈均蒙度 發菩提心建道場
077.薩憐捺囉剌闍耶
南無娑羅樹王佛 堅固精專立功德
六度萬行圓滿日 能使死者變成活
078.跢他伽多耶
虔誠懇切念念真 普禮如來眾門人
專一不二求深入 圓成覺道現法身
079.阿囉訶帝
至誠至誠更至誠 恭敬恭敬復恭敬
普禮應真眾王族 究竟極樂蓮華生
080.三藐三菩陀耶
皈命正覺佛世尊 三寶慈悲大威神
一切賢聖皆恭敬 功圓德滿證智通
081.南無婆伽婆帝
薄伽六義故不翻 妙覺如來徧三千
自在吉祥遊法界 見相聞名盡超凡
082.舍雞野母那曳
萬木叢中大樹林 棟樑枝葉蔭眾珍
良材堪能擎巨廈 樗櫟荊棘付丙丁
083.跢他伽多耶
看佛敬僧培信根 尊重弟子報師恩
孝順乃是務德本 因善果良道自生
084.阿囉訶帝
生貴住居法王家 三身四智妙觀察
五眼六通成所作 大圓鏡照平等達
085.三藐三菩陀耶
菩薩羅漢解脫僧 如貧得寶暗得燈
指引有情獲正覺 永出輪迴愛慾坑
086.南無婆伽婆帝
智慧光明照世間 神通變化醒愚頑
我等勤修波羅蜜 亦證大覺薄伽梵
087.剌怛那雞都囉闍耶
寶光寶幢寶積佛 寶勝如來善降魔
一切王眾皆能戰 旁門左道盡折攝
088.跢他伽多耶
常住三寶佛法僧 一心恭敬要虔誠
如來弟子阿羅漢 漫漫黑夜大明燈
089.阿囉訶帝
自無化有有化無 應真示現極樂圖
廣修供養恒精進 普禮一切眾王族
090.三藐三菩陀耶
皈命正覺佛陀耶 皈命正覺達摩耶
皈命正覺僧伽耶 皈命正覺三寶耶
091.帝瓢
鉤召捉拿眾妖魔 光明徧照死者活
毘盧遮那灌頂主 金剛上師佛化佛
092.南無薩羯唎多
一心皈禮往來親 朝覲恒沙大聖人
報恩增福消罪業 返本還原照古今
093.翳曇婆伽婆多
無比法藏我法空 順承大教化群倫
巧說諸法三毒破 吉祥尊貴聖所宗
094.薩怛他伽都瑟尼釤
敬禮寶華大佛頂 幢幔幡蓋眾莊嚴
飛潛動植胎濕化 同入蓮邦萬佛田
095.薩怛多般怛藍
寶傘華蓋毘盧佛 一切咒心降眾魔
用蔭萬德獲自在 體潤群機衍摩訶
096.南無阿婆囉視耽
我禮今會諸聖賢 普求證明大道源
加被護念成三昧 速得無勝天中天
097.般囉帝
早登彼岸你我他 一切眾生到真家
返本還原獲究竟 逍遙自在樂無涯
098.揚岐囉
吹大法螺擊法鼓 摧伏怨魔離病苦
普使有情登覺岸 韋陀常舉金剛杵
099.薩囉婆
代佛宣物化群倫 一切祕密眾神靈
護持正法常住世 摩訶般若覺有情
100.部多羯囉訶
大乘佛頂種性根 廣度含識出苦倫
虛空有盡願無盡 同登彼岸般若深
101.尼羯囉訶
領袖三乘趣真如 眾中上首選佛圖
忍辱精進聖種性 圓滿不退果成熟
102.羯迦囉訶尼
五乘人天大種性 位居上首化群靈
有想無想皆得度 同入毘盧證無生
103.跋囉毖地耶
般若妙智菩提果 化城莫停達寶所
觀照實相明體用 成正等覺蓮朵朵
104.叱陀你
斷他咒術破羅網 解除橫死消災障
救拔一切冤苦業 清淨光明更吉祥
105.阿迦囉
無上大悲心印文 西方蓮華部眾神
更加慈喜兼施捨 妙運巧奪造化功
106.密唎柱
擎山持杵徧虛空 東方金剛鎮魔軍
八萬四千常擁護 能使行人入大中
107.般唎怛囉耶
如意輪寶妙難思 南方化生無畏施
心咒受持原形現 魑魅魍魎鐵吸石
108.儜揭唎
最上作法金剛心 轉輪成就北方尊
智慧正定戒根本 大圓滿覺人天欽
109.薩囉婆
解冤釋怨慶和平 戰爭永息化康寧
一切禁縛皆消散 五大心咒妙無窮
110.槃陀那
結界清淨勝道場 法會莊嚴念佛堂
讚歎常轉無上輪 真諦理趣破洪荒
111.目叉尼
最勝解脫達摩寶 耀古輝今甚稀少
超越一切諸苦難 速證菩提離顛倒
112.薩囉婆
解除苦厄得安樂 消滅熱惱獲清涼
咒詛毒蠱諸邪術 一切無能害身者
113.突瑟吒
障惱別見遮性明 覆藏發露暗得燈
返本歸元觀自在 放下凡情佛即成
114.突悉乏
除滅惡夢及不祥 煩惱菩提化清涼
破邪顯正興大教 八萬毛孔放毫光
115.般那你
智慧第一舍利弗 辯才無礙展鴻圖
此是般若到彼岸 眾中上首證真如
116.伐囉尼
智慧愚癡無二相 菩薩外道本一如
凡夫分別種種法 覺者了悟離言說
117.赭都囉
人間怨家佛國恩 知識度我出沉淪
提婆達多真護法 降伏瞋恚不染塵
118.失帝南
解脫消災大歡喜 首楞嚴法世無比
一切障礙究竟覺 革凡超聖契真了
119.羯囉訶
護持千界眾神兵 威風凜凜鬼魔驚
諸天種族齊向善 妖邪眷屬各奔騰
120.娑訶薩囉若闍
忍界堅固不退轉 引領歸往鉤鎖拿
普集善信依三寶 法會吉祥摩訶薩
121.毗多崩娑那羯唎
破平障難或訶譴 一切如意更安祥
千界神臨除魔害 普令欽伏禮能仁
122.阿瑟吒冰舍帝南
護戒護法護伽藍 無量色光照大千
成就妙首得自在 常樂我淨證涅槃
123.那叉剎怛囉若闍
鉤鎖紫燄色光芒 力士形狀大金剛
解厄拯災消諸難 攝受眾生謁法王
124.波囉薩陀那羯唎
妙法專修達彼岸 發勇猛心求菩提
折伏天魔皈三寶 收攝外道悟本源
125.阿瑟吒南
金剛寶手法力深 寶掌寶拳鎮魔軍
功德巍巍神通大 身心實踐處處真
126.摩訶羯囉訶若闍
護五方神眾將兵 大乘種性顯威靈
金剛光明耀天地 手把日月換星英
127.毗多崩薩那羯唎
打破諸害保平安 金剛神將各爭先
種種訶責降妖怪 除邪扶正滿大千
128.薩婆舍都嚧
一切善法滅諸惡 妙喜如意救沉痾
驅除不祥得安樂 大哉靈文真伽陀
129.你婆囉若闍
金剛首主治怨魔 惱害眾生即捕捉
火毒流注傳染病 受持讀誦死者活
130.呼藍突悉乏
敬愛除滅眾死苦 天神器杖肅靜從
衛護善者增福慧 降伏病魔獲安寧
131.難遮那舍尼
水神名字妙無窮 壬癸抑疾奏奇功
能除生老病死難 一切災殃化為塵
132.毖沙舍
虛空妙藥治瘟魔 風寒暑濕燥火痾
時氣流行傳染病 持咒消除娑婆訶
133.悉怛囉
堅持地神護娑婆 山崩土裂災難多
增損病患皆獲癒 心咒加被除百痾
134.阿吉尼
火神發願滅火毒 一切熱病盡蠲除
煩惱瞋恨無蹤影 清涼甘冽慶有餘
135.烏陀迦囉若闍
解除水毒風濕症 癱瘓虛痿腎腸癭
胖腫皮膚疥癩癬 一切痛苦化吉徵
136.阿般囉視多具囉
慈氏勇健無能勝 量等虛空總包容
莊嚴聖眾齊擁護 佇望菩提日日增
137.摩訶般囉戰持
大道心者度娑婆 月光菩薩濟愛河
超出輪迴脫苦海 四弘誓願救群魔
138.摩訶疊多
火首金剛大將軍 清心止欲離紅塵
攝持正念行真法 為眾儀型善惡分
139.摩訶帝闍
大量包容虛空藏 一切法界盡包融
天人修羅餓鬼眾 畜生地獄放淨光
140.摩訶稅多闍婆囉
觀光自在白衣尊 變化無方妙神通
普度日夜不休息 惟恐有情墮火坑
141.摩訶跋囉槃陀囉
大力天將眾神兵 普賢菩薩率領行
周利槃陀前開路 智愚平等入化中
142.婆悉你
勝軍和悅答眾問 龍光王佛四地臣
智慧辯才釋疑難 善巧教化諸含靈
143.阿唎耶多囉
聖者語言互陳答 條分縷析細如髮
持地菩薩為見證 皆大歡喜樂無涯
144.毗唎俱知
最勝琉璃法王光 玲瓏透體藥親嚐
內外瑩徹知苦辣 神農示現露堂堂
145.誓婆毗闍耶
諸病固活醫中王 藥王藥上放毫光
焚身供佛真精進 一切無著徧十方
146.跋闍囉摩禮底
金剛界中五部神 摧碎魔外顯奇能
不空事業大悅意 拯濟群生出苦淪
147.毗舍嚧多
動靜變化惡向善 大冶洪爐煉精真
毘盧遮那金剛主 為救眾等作鐵漢
148.勃騰罔迦
佛陀世尊護神名 衛道保德志公平
降伏一切邪魔怪 皈依正教遵令行
149.跋闍囉制喝那阿遮
愍苦眾生使出離 除禪定垢洗塵迷
卻魔障礙斷欲慢 護念濟度諸病袪
150.摩囉制婆
斷魔欲障金剛杵 建大法幢度眾生
成就德相滅惡習 灌頂部神常護佑
151.般囉質多
無能勝智摧群魔 紅蓮華手見佛陀
青白紫色觀自在 縱然死者變成活
152.跋闍囉擅持
金剛寶劍氣沖天 豎窮橫徧盈大千
斬妖除邪護正法 解脫無生萬億年
153.毗舍囉遮
天神力士大威德 降伏眾魔鎮山河
五穀豐登民安樂 四時順序仁愛博
154.扇多舍
天才力士息橫災 水火刀兵盜賊排
不如意事生歡喜 吉星高照笑顏開
155.鞞提婆
鉤召善語警告先 順御教命赦罪愆
如能改邪修正道 摩訶般若自現前
156.補視多
教化開導智愚氓 增益成就久廢荒
一心耕耘不期穫 勤修戒定慧收藏
157.蘇摩嚧波
愛人不親顧其仁 禮彼弗答敬未真
迴光返照求諸己 感應道交莫迷神
158.摩訶稅多
日月星宮天眾居 白衣聖者度群迷
順逆境界皆不動 摩訶般若波羅蜜
159.阿唎耶多囉
日光天子照大千 四方四隅四無邊
月宮嫦娥清涼傘 二十八宿侍後前
160.摩訶婆囉阿般囉
日月星宿放霞光 豎窮橫徧難遁藏
普香天子施號令 妖魔鬼怪各遠颺
161.跋闍囉商羯囉制婆
金剛鎧甲眼難睜 至德巍巍力無窮
摧碎群邪絕蹤跡 五穀豐收慶康寧
162.跋闍囉俱摩唎
金剛童男甚天真 不假思索善惡分
剎那徧遊三千界 一念照了眾生心
163.俱藍陀唎
遠離結縛近有德 金剛羅剎化娑婆
莊嚴道場成殊勝 天母功德般若多
164.跋闍囉喝薩多遮
金剛巨手五指輪 遐邇妖氛盡遁形
護持有情成大道 遂心滿願向前程
165.毗地耶
普覺世間諸眾生 善語教化遠離塵
勇猛精進登彼岸 倒駕慈航救苦淪
166.乾遮那
四大天王護正規 太子眷屬各逞威
三界善惡記功過 日夜巡遊時刻推
167.摩唎迦
三光天王眷屬多 陽燄日照蜜波羅
大力金剛除穢跡 護持行者出愛河
168.啒蘇母
月光徧照眾生心 清涼自在淨無塵
阿彌陀佛為法主 觀音勢至親上親
169.婆羯囉跢那
曲心為直道心真 成就道場德為鄰
北方眾聖同擁護 水光童子日日新
170.鞞嚧遮那
眾光拱照大威德 迅雷風烈變化說
降伏外道歸正法 五濁永離出網羅
171.俱唎耶
最上勝生法力全 一切種類盡包含
莊周鼓盆成大道 看破放下登慈船
172.夜囉菟
無量光淨諸如來 天王部眾護蓮臺
嗟歎無見頂相妙 菩薩大士笑顏開
173.瑟尼釤
肉髻頂相百寶光 千葉蓮華坐法王
演說無盡重重義 毘盧遮那甘露漿
174.毗折藍婆摩尼遮
羅剎神鬼善又惡 折攝二門化忍濁
剛強眾生難調伏 是故忽魔亦忽佛
175.跋闍囉迦那迦波囉婆
金剛藏王威伏行 無言說相覺有情
功德妙智法輪轉 同入涅槃息紛爭
176.嚧闍那
光明徧照滿三千 舉心動念毫髮間
息滅積習破黑暗 有情遠離顛倒顛
177.跋闍囉頓稚遮
擎山持杵眾金剛 天魔外道各遠颺
降伏鬼神皈三寶 威德感化日夜忙
178.稅多遮
白色白光白蓮華 照天照地照影斜
山搖海嘯聲威遠 心悅誠服皈正法
179.迦摩囉
蓮華座上大法王 東西南北守中央
一切護界神努力 五方五部五佛光
180.剎奢尸
威德示現諸大士 幢幡寶蓋各擎持
化導眾生修覺道 同乘圓滿法航馳
181.波囉婆
恒沙力士現大身 光明遠照妙無倫
守護監察南方界 惡者必墮善者昇
182.翳帝夷帝
解脫精勤護十方 三災八難免害傷
世界清平民安樂 同修共證菩提堂
183.母陀囉
智印三昧定中王 妙音成就大道場
眾生心中各具足 虔誠求之自放光
184.羯拏
作法辦事智慧豐 維護北方界神明
金剛毘盧心所現 依教修行不減增
185.娑鞞囉懺
求證懺悔身口意 三業清淨無瑕疵
持戒精嚴如滿月 剎那感應超十地
186.掘梵都
諸佛世尊大慈悲 方便權巧度輪迴
捨邪歸正恒精進 始知來者之可追
187.印兔那麼麼寫
印可證明我所為 光陰空過難再追
從此謹慎修聖道 恪遵戒律守清規
十方無盡常住聖 一切護法大明燈
折攝二門巧施度 金剛密跡化眾生
第二會 釋尊應化會
毘盧頂上白毫光 發聾振瞶驚癡氓
一切含識皆覺悟 趣向無等菩提場
189.唎瑟揭拏
智光安住無見頂 金剛寶部眾菩薩
其中上首虛空藏 率領諸神護正法
190.般剌舍悉多
智度究竟諸佛母 蓮華法部微妙玄
善哉成就眾勝業 直抵寶所實施權
191.薩怛他
我等天仙禮佛頂 恭敬供養諸聖賢
修福增慧懺業障 求生西方極樂鄉
192.伽都瑟尼釤
無見頂相首楞嚴 中央佛部救倒懸
毘盧遮那徧一切 是故常在你我間
總持真言唵啞吽 毘盧彌陀阿閦東
法報化身三大義 十方賢聖從此生
194.瞻婆那
金色黃花樹形高 大鵬鳥居佛聖道
法身香徧恒沙界 不退菩提樂逍遙
真言咒力妙難思 三昧加持念在玆
熱惱變為清涼散 無上佛寶常護之
196.悉耽婆那
悉皆具足吉祥法 無盡寶藏總含攝
成就種種波羅蜜 端然正坐紫蓮華
真心真意真又真 真行真修真更真
真作真為真加真 一切一切真真真
198.波囉瑟地耶
總攝魔界修正教 事理行滿度無極
生死煩惱皆究竟 常樂我淨證菩提
199.三般叉
真正滿足菩薩行 五眼六通俱現前
勝妙解脫圓福慧 無上等覺度群賢
200.拏羯囉
我所作法本性空 真如自在平等公
無上福田勤耕種 自覺覺他任東西
至誠懇切受持念 久成三昧妙難言
內聖外王培功績 圓滿菩提天外天
202.薩婆藥叉
摧伏一切惡鬼兵 勇健鬼王奉令行
護持善者勤精進 慈悲普度化眾生
203.喝囉剎娑
大多勝法衍摩訶 速疾鬼等各奔波
順教逆教弘佛化 萬類歸源度娑婆
204.揭囉訶若闍
所有地空天眷屬 生起無邊差別門
夜叉羅剎父母子 兄弟軍將雜使臣
205.毗騰崩薩那羯囉
二種神王威力深 普成破怨除災星
度去一切諸苦厄 皈命教主釋迦文
至心誦持獲妙定 誠意精進證無生
善惡夾雜染淨半 難超苦海永浮沉
207.者都囉
我今警覺八萬眾 大力金剛各神王
降伏災害諸魔難 智慧弓箭職高升
208.尸底南
執金剛神劍利鋒 入三摩地鎮妖氛
降伏一切鬼魔等 改惡向善允自新
209.揭囉訶
妙吉祥義及勇施 金剛藏王破邪癡
殺賊應供魁多士 眷屬合和永安居
210.娑訶薩囉南
盡大千界金剛神 譬喻算數計不清
擁護行人修善法 功德足時道自成
211.毗騰崩薩那囉
屏諸魔害施安寧 逢凶化吉消夙業
履險如夷夢弗驚 普慶雲散滿天晴
專一則靈分馳弊 至誠誦念永弗替
日久功深成三昧 證得菩提無去來
213.囉叉
金剛天仙各守護 富饒利行可畏途
攝授折伏百千萬 威德無窮福慧足
214.婆伽梵
惟仗世尊威神力 救護顛倒諸含靈
普願離苦獲安樂 早為覺道立根基
215.薩怛他
十方無盡常住聖 一切護法大明燈
折攝二門巧施度 金剛密跡化眾生
216.伽都瑟尼釤
我今皈命大佛頂 無盡法藏智慧光
願我明了妙總持 奉行如來所說義
217.波囉點
法光徧照音自在 至誠作禮秘靈文
希使感應道交力 還我本來證菩提
218.闍吉唎
作禮無住化生生 無窮無盡義彌豐
十方如來同攝受 離苦得樂出火坑
219.摩訶娑訶薩囉
勝大金剛威猛雄 摧碎魔外鎮妖氛
能忍堅固煩惱障 為教辛勞立奇功
220.勃樹娑訶薩囉
金剛舞起降魔劍 蓮華化生七寶池
釋迦成道菩提樹 普度含識出陷泥
221.室唎沙
妙首吉祥大金剛 聞風向化不思量
改惡從善寡過錯 直入法界萬佛堂
222.俱知娑訶薩泥
鉤藏並皆金剛名 骨身舍利戒德盈
定慧莊嚴五色俱 堅固不壞永光明
223.帝隸阿弊提視婆唎多
敬禮大輪金剛神 千頭千手千眼尊
威德潤澤兼灌頂 護持行人無能勝
224.吒吒甖迦
離障行動能摧碎 眾法無礙住生貴
光明徧照護三寶 我等戒神救迷醉
225.摩訶跋闍嚧陀囉
大金剛眾護行人 作獅子吼法雷震
使令有情除障礙 度一切苦般若深
226.帝唎菩婆那
皈依一切三世佛 至誠頂禮諸聖賢
八萬四千金剛藏 護持行人出迷津
227.曼茶囉
覺者印證設法壇 速成三昧救倒懸
普攝眾生離痛苦 楞嚴大定永現前
再敕一切護法眾 普令諸部各神童
常隨行人使覺悟 同赴龍華會群雄
229.娑悉帝
成就諸法正定聚 圓滿三德妙覺尊
自度度他菩薩行 登涅槃山般若峰
230.薄婆都
婆伽婆帝佛世尊 也譯圓滿及隨心
善喜能入楞嚴定 無量智慧此中生
231.麼麼
仰祈佛力加護持 我所作法令圓成
早證不退常精進 選聖拔賢速題名
232.印兔那麼麼寫
誦持默念少意言 示教利喜化大千
所作諸法悉究竟 不增不減到涅槃
覺者慈悲攝有情 聖賢設教化頑冥
世尊種族佛寶印 燈燈互照心傳心
第三會 觀音合同會
233.囉闍婆夜
除滅一切王難苦 救助所有眾孤獨
最勝尊上能利樂 可畏消災增慧福
234.主囉跋夜
此咒除滅賊寇難 眼耳鼻舌身意拴
上師舍那佛眾部 世尊教法當細參
235.阿祇尼婆夜
重頌神名熄火難 白衣南方應丙丁
救護有情離熱惱 普獲清涼得明燈
236.烏陀迦婆夜
六欲諸天具五衰 三禪尚且有風災
任君修到非非想 不如西方歸去來
237.毗沙婆夜
此咒能免諸毒藥 草木化學害人者
一切所有皆平定 離苦得樂又解脫
238.舍薩多囉婆夜
善利眾生金剛神 辯才無礙息刀鋒
杻械枷鎖均解脫 消災免難止紛爭
239.婆囉斫羯囉婆夜
論議作法轉妙輪 金剛大將息戰氛
軍旅聽命干戈止 兵戎解甲慶昇平
240.突瑟叉婆夜
能持戒法離苦厄 除饑饉難得解脫
守護金剛威神力 貧窮凍餒悉復活
241.阿舍你婆夜
無有障礙空神名 免除雷電怖畏行
論議教詮消災難 大佛頂首楞嚴文
242.阿迦囉
橫死非命太悲傷 陸海空難不勝防
最上念誦除災障 金剛大將度十方
243.密唎柱婆夜
未曾有法妙難言 一切意外悉安全
金甲天神默護佑 賞善罰惡愛不偏
244.陀囉尼部彌劍
我今皈命大總持 堅牢地神不失時
能除一切災害難 速證無生道心直
245.波伽波陀婆夜
金銀砂石土木毒 誦持神咒變甘露
護授最上金剛記 菩薩為友德不孤
246.烏囉迦婆多婆夜
履險如夷妙難言 大希有法似湧泉
本事因緣孤起頌 吉星高照解倒懸
247.剌闍壇茶婆夜
毒蛇蚖蠍咬害傷 寶杖降伏免災殃
甘露潤澤孑孓眾 同往無生極樂鄉
248.那伽婆夜
江河湖海水長流 利害相關五穀收
龍魚鯨鱷諸災難 化作吉祥傳萬秋
249.毗條怛婆夜
方廣天授善調伏 迅雷風烈猛荼毒
冰雹閃電成災害 金剛戒神救無辜
250.蘇波囉拏婆夜
金翅鳥難妙蓮華 解脫宿業恒河沙
積功累德修般若 圓滿菩提早回家
251.藥叉揭囉訶
勇健暴惡地空行 同類種族各諦聽
守護魂魄依正教 功滿三千自超生
252.囉叉私揭囉訶
速疾可畏羅剎鬼 守宮婦女保堅貞
滅除一切非命難 遠離險道免雷追
253.畢唎多揭囉訶
守尸祖父薜荔多 慎終追遠孝思博
事死如生常祭祀 摩訶般若蜜波羅
254.毗舍遮揭囉訶
此翻顛鬼啖精氣 吸食人髓五穀真
免除毒藥麻醉障 受持如來義無窮
255.部多揭囉訶
大身自生鬼王名 力可拔山項羽能
神通妙用擅變化 多頭多足顯威靈
256.鳩槃茶揭囉訶
甕形冬瓜魘魅精 城郭車乘五雷崩
意外災難皆避免 出入平安遠禍侵
257.補丹那揭囉訶
生大執著守尸形 遠離顛倒夢魂清
忍辱精進波羅蜜 智光普照寶蓮登
258.迦吒補丹那揭囉訶
守魄奇臭大餓饑 東西南北各遠離
食屎飲尿苦乾渴 造業受報難自欺
259.悉乾度揭囉訶
善品主蟲蠱毒迷 亦名香神甚稀奇
黃色疸病諸厄難 護法童子令速離
260.阿播悉摩囉揭囉訶
形如野狐高大樹 青色鬼怪擾人族
主羊癲瘋神名號 童子禮拜朝如如
261.烏檀摩陀揭囉訶
迅疾猛烈主風威 陸地樹倒海浪摧
空中形成螺旋力 烏色鬼王雙手推
262.車夜揭囉訶
五欲諸樂覆真性 三毒充滿蓋智明
根塵緣影多障礙 般若空中起浮雲
263.醯唎婆帝揭囉訶
獨處川澤不同群 八音齊奏木石金
獅子娛樂常起舞 其形如狗主獸魂
264.社多訶唎南
食精氣鬼翻志德 鬼子母眾天神合
未皈三寶名怨賊 從佛之後號除魔
265.揭婆訶唎南
啖胎藏鬼又密護 帝神尊天偕眷屬
男女夫婦父母子 保衛道場助普度
266.嚧地囉訶唎南
尋羶覓穢食血鬼 吸飲精血補陰仙
最上精進波羅蜜 摩訶般若大法船
267.忙娑訶唎南
白色大鬼食油脂 金剛部母眾靈賢
日夜勤勞察善惡 功賞過罰毫不偏
268.謎陀訶唎南
食產大鬼百萬千 伺機障難閻王關
生即夭折輪迴轉 好殺果報不錯偏
269.摩闍訶唎南
壽夭窮通自造緣 命由我立不由天
起惑作業應受報 絲毫不差罪纏牽
270.闍多訶唎女
救護鬼道諸眾生 食垢飲漿喜羶腥
油膩膏脂家常飯 冷熱寒涼倍加增
271.視比多訶唎南
祭祀寒林大樹王 無量凍鬼各奔忙
戰戰兢兢齒交擊 貪心業報欲發狂
272.毗多訶唎南
諸花含苞蕊正開 朋友眷屬鬼齊來
食蜜飲露解飢渴 略止火焚救業災
273.婆多訶唎南
大身娘母果新鮮 見色聞香嗅味前
觸食思之同受用 因緣如是業交煎
274.阿輸遮訶唎女
無憂可愛花樹名 五穀種子性不生
又翻無比色光燄 千變萬化妙通靈
275.質多訶唎女
食燈飲光吞火煙 好勝剛強爭長短
心無罣礙離恐怖 顛倒夢想一概蠲
276.帝釤薩鞞釤
威德折邪破惡魔 笑言善哉攝正德
感化含識修戒定 返本還原皈依佛
277.薩婆揭囉訶南
上來一切鬼神王 皆為首領護十方
善信發心求正道 助汝直達菩提堂
278.毗陀夜闍
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
279.瞋陀夜彌
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
280.雞囉夜彌
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
281.波唎跋囉者迦
度無極限彼岸登 三大神將領天兵
諸事究竟深般若 性清淨眼不動中
282.訖唎擔
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
283.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
284.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
285.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
286.茶演尼
淨垢清涼普摧枯 狐魅熱惱能調伏
邪魔鬼祟皈正教 護持佛法展鴻圖
287.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
288.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
289.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
290.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
291.摩訶般輸般怛夜
大乘能勝多成就 清淨梵眾自在天
正覺教化離諸苦 破除執著證金仙
292.嚧陀囉
最為上首大金剛 能持明淨義弘揚
衛護行者修聖道 永獲不退常寂光
293.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
294.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
295.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
296.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
297.那囉夜拏
堅固不動須彌山 勇猛善戰敵膽寒
力士威風攝八面 流賊草寇投降先
298.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
299.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
300.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
301.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
302.怛埵伽嚧茶西
金翅大鵬鳥王眾 如來覺悟法底源
普徧悲心究竟度 貫攝常則若湧泉
303.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
304.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
305.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
306.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
307.摩訶迦囉
大小黑天眾神兵 悲心切切手眼明
受持日久不懈倦 成就三昧自通靈
308.摩怛唎伽拏
本母作論上首眾 約法解釋亦金剛
三昧無礙得大辯 善巧方便度有緣
309.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
310.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
311.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
312.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
313.迦波唎迦
髑髏外道眾神仙 捨去五欲諸惡蠲
奉行十善勤鞭策 出玄入牝化萬千
314.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
315.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
316.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
317.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
318.闍夜羯囉
執持人物大將軍 一切神王率領兵
最勝經咒超三界 生性自淨法寶心
319.摩度羯囉
覺者慈悲攝有情 聖賢設教化頑冥
世尊種族佛寶印 燈燈互照心傳心
320.薩婆囉他娑達那
一切利行兼富饒 度有情眾出獄牢
金剛善神護僧寶 自在菩提樂逍遙
321.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
322.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
323.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
324.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
325.赭咄囉
神女姊妹度娑婆 止息輪迴離愛河
降伏怨魔最勇猛 戰則必勝攻必克
326.婆耆你
勝軍名句二義詮 捨邪歸正守戒嚴
律己化人感萬物 躬行實踐妙通玄
327.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
328.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
329.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
330.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
331.毗唎羊訖唎知
寶箭鴟鴞無垢行 所作皆辦起尸神
三頭大戟靈鷲鳥 飛騰變化力難窮
332.難陀雞沙囉
歡喜金剛寶杖擎 好聲鳥唱和雅音
乾闥婆王偕眷屬 精勤行滿了死生
333.伽拏般帝
根本智慧月印江 器仗神名化無方
鷹鳩同行執鉤索 辯才無礙勝議強
334.索醯夜
妙智教導精進念 成義利行名金剛
哪吒火輪鸚鵡鳥 戰無不勝化十方
335.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
336.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
337.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
338.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
339.那揭那舍囉婆拏
裸形外道眾神龍 羅漢眷屬大力尊
獨覺緣覺辟支佛 四果應供聲聞僧
340.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
341.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
342.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
343.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
344.阿羅漢
羅剎王眾猛又兇 縱橫宇宙善戰爭
地空飛行多變化 降伏怨魔證無生
345.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
346.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
347.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
348.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
349.毗多囉伽
大力神王魔鬼驚 擎山倒海日月星
雙手互移此他界 五兄弟天顯靈威
350.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
351.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
352.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
353.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
354.跋闍囉波你
金剛部眾降群邪 手持寶杵速而捷
妖魔鬼怪皆遠離 正法久住永和悅
355.具醯夜具醯夜
十方雲集眾聖賢 萬佛城中開法筵
如來寺裏同聚會 無言堂上悟真常
356.迦地般帝
勤行解脫無動尊 般若妙句照光明
金剛藏王菩薩眾 三寶諸天八部神
357.訖唎擔(同282句)
心法色法凡聖通 肉團堅實覺靈明
三如來藏第一義 光照大千總圓融
358.毗陀夜闍(同278句)
大明咒藏妙難量 正覺威德最勝王
徧一切處光普照 佛寶常住永吉祥
359.瞋陀夜彌(同279句)
依附罪者斬其精 如意寶輪法王心
我今首念第一義 蓮華法部晝夜行
360.雞囉夜彌(同280句)
童真入道法王子 捕捉夜叉大將軍
所作二利善現驗 精進首皈眾中尊
361a.囉叉罔
容恕我罪慈氏忍 原諒他非大悲心
平等願力精進行 智慧禪定戒珠明
361b.
容忍我罪許自新 大慈化物感應真
普度有情成正果 智光常耀照古今
362.婆伽梵
總管法界無上尊 四生六道度沉淪
攝令含靈修諸善 摩訶般若自然成
363.印兔那麼麼寫
懇證作法妙覺圓 十方讚歎通地天
上同佛慈下合悲 皈命三寶至心虔
白光旋轉照無間 尊勝天咒度大千
空不空藏密跡印 五方五部五心傳
第四會 剛藏折攝會
364.婆伽梵
再仰佛力華蓋光 毘盧金剛照萬方
降伏眾魔依正教 普化群倫出火湯
365.薩怛多般怛囉
空如來藏妙無窮 不空藏性超化功
空不空藏離言說 中道了義總圓融
366.南無粹都帝
我今皈敬禮法王 至誠懇切更齋莊
惟望加護登不退 諸佛接引放毫光
367.阿悉多那囉剌迦
無能勝者大力王 赤光繚繞照萬方
金剛堅固摧魔眾 德善栽培壽永昌
368.波囉婆
紫光盤簇護行人 善淨威德日夜巡
發菩提芽結妙果 同赴龍華萬佛城
369.悉普吒
摧碎金剛大威神 三頭六臂膽戰驚
望風披靡皆拱服 龍盤虎臥世安寧
370.毗迦薩怛多鉢帝唎
白光旋轉照無間 尊勝天咒度大千
空不空藏密跡印 五方五部五心傳
371.什佛囉什佛囉
佛寶普放無量光 照徧法界虛空藏
開示悟入正知見 無上菩提大覺王
372.陀囉陀囉
五色瑞雲結寶蓋 萬道毫光照大千
一切戒律勤能持 珍重龍華赴法筵
373.頻陀囉頻陀囉
香蓋徧滿太虛空 普薰有情法性中
勝力能持清淨戒 北方羯磨部主公
374.瞋陀瞋陀
珠蓋光明照法界 赤心無垢如意霞
攝化眾生登不退 西方蓮華部主家
敕令天上地下眾 降伏妖魔鬼怪精
擁護三寶立功勳 圓滿覺道果日隆
376.泮吒泮吒泮吒泮吒泮吒
速能成就調練法 摧碎開通妙難窮
五方五部覺五乘 息災如意寶蓮華
377.娑訶
一切災難化吉祥 惡障頓消放毫光
圓成般若波羅蜜 福慧莊嚴壽無疆
378.醯醯泮
空如來藏佛部心 解脫開通指迷津
妙義難窮無涯際 如意寶珠變化神
379.阿牟迦耶泮
我願成佛度眾生 不空德性啟迷蒙
北方羯磨滿覺道 南無頂首楞嚴經
380.阿波囉提訶多泮
無比智光照大千 清淨皎潔最勝天
光焰熾盛寶生部 南方丙丁化紅蓮
381.婆囉波囉陀泮
光明壽量及妙音 究竟極樂彌陀尊
西方蓮華部開現 高登上品願隨心
382.阿素囉
破碎修羅瞋恚癡 好勇鬥狠非天時
女妒男醜不端正 業報所感大損失
383.毗陀囉
非為修羅大力持 諸佛威德化及時
不動教主歡喜光 東方金剛念在玆
384.波迦泮
殊勝妙好佛頂尊 三十二相度群倫
一切如意隨心現 萬事亨通指迷津
385.薩婆提鞞弊泮
欲禪正魔凡外天 聖人君臣主伴連
聞咒降伏皆欽敬 護持三寶福慧綿
386.薩婆那伽弊泮
一切龍眾皆朝拱 善毒天地眷屬親
改邪歸正修諸己 立功精進果自成
387.薩婆藥叉弊泮
勇猛鬼神大力精 飛行變化善五通
男女眷屬盡降伏 同歸摩訶般若門
388.薩婆乾闥婆弊泮
降伏一切音樂眾 絲竹管絃木石金
天主聚會香萬里 來赴盛筵歌無窮
389.薩婆補丹那弊泮
腥羶垢穢臭餓鬼 常處染污屎尿堆
嫉妒造此不淨業 今遇靈文脫輪迴
390.迦吒補丹那弊泮
讚禮皈敬天中天 降伏奇臭鬼王仙
密語真言通法界 改惡遷善換新顏
391.薩婆突狼枳帝弊泮
一切魔眾害生靈 增加勢力眷屬興
此咒誦持即降伏 虛空法界慶康平
392.薩婆突澀比犁
降伏諸惡鬼怪精 無動解脫寂滅行
萬千妖邪同授首 急修快度制毒蟲
393.訖瑟帝弊泮
無生無滅無去來 大造大化大超哉
嗟歎憂愁心煩亂 聞誦真言笑開懷
394.薩婆什婆犁弊泮
大放光明照世間 破除黑暗度女男
普使眾生獲自在 跳出三界輪迴圈
395.薩婆阿播悉摩犁弊泮
一碗羹湯冤似海 半斤肥肉業如山
合股公司虧資本 墮落三塗非怪哉
396.薩婆舍囉婆拏弊泮
無垢清淨破災厄 覆他有餘樹娑羅
堅固妙句降魔眾 護法善神衍摩訶
397.薩婆地帝雞弊泮
破諸冤害救群生 甚勇無畏制毒蟲
三昧威力能逆轉 一切災難化吉祥
398.薩婆怛摩陀繼弊泮
破一切厄險如夷 意外橫禍盡消弭
無礙行持諸佛法 娑婆苦海度迷眾
399.薩婆毗陀耶
一切毒氣化清涼 皈依正覺大慈航
登上般若船同濟 永得不退露堂堂
400.囉誓遮犁弊泮
依法王教修菩提 六度萬行莫狐疑
所作已辦離後有 超出三界始歎奇
401.闍夜羯囉
解除災難得安康 重罪業報油火湯
藉此三昧加持力 諸橫凶險一掃光
402.摩度羯囉
金剛藏王護佛城 持杵擎山顯威靈
賞善罰惡興正教 旁門左道悉遁形
403.薩婆囉他娑陀雞弊泮
利益有情護法眾 賢聖僧伽諸龍神
一切敬信救苦難 咸使枯木又向榮
404.毗地夜
一念覺悟初發心 萬緣放下始現真
十地圓成菩薩行 百千三昧火中金
405.遮唎弊泮
大願大行大醫王 開權顯實露真常
四弘六度能治病 藥到疾除壽而康
406.者都囉
天魔外道性猖狂 粗野強暴更荒唐
誦此神咒皆皈命 垂首拱服禮法王
407.縛耆你弊泮
魔中大魔勢兇狂 千變萬化露光芒
聞誦靈文皆皈命 依教修行護法王
408.跋闍囉
八萬四千金剛藏 三百六十左道王
悉皆擁護真如性 永除災厄降吉祥
409.俱摩唎
華鬘童神除災障 護法聖僧度苦厄
演說難思微妙句 普使眾生出火坑
410.毗陀夜
頂禮大雄佛陀耶 至誠稱讚妙覺尊
三塗八難俱離苦 同獲清淨法王身
411.囉誓弊泮
無生法寶度沉淪 佛陀僧伽大威神
貪瞋癡毒盡除滅 清涼自在又從容
412.摩訶波囉丁羊
大乘八萬四千門 法法平等無淺深
對機即是觀自在 論議乃屬釋迦文
413.乂耆唎弊泮
降伏山妖水怪精 一切外道亦投誠
惡毒邪魔咸歸正 愛樂法寶鬼神欽
414.跋闍囉商羯囉夜
金剛力士碎魔堅 調伏大法通地天
圓滿究竟波羅蜜 諸事吉祥滅罪愆
415.波囉丈耆囉闍耶泮
光明徧照化三千 安樂自在無後先
王者居之護善德 培根固本修道源
416.摩訶迦囉夜
牛鬼蛇神性猖狂 苦毒兇惡似虎狼
大作手眼難逃避 降伏群魔佐法王
417.摩訶末怛唎迦拏
是是非非果從因 善善惡惡假復真
爭爭吵吵何時了 揖揖讓讓解讎恨
418.南無娑羯唎多夜泮
頂禮護法金剛藏 密跡天將眾靈神
信受奉行遵號令 日夜巡邏保聖僧
419.毖瑟拏婢曳泮
降伏諸惡毒術師 他化天眾盡呼時
摧折欽奉聽鉤召 邪魔鬼祟總皈依
420.勃囉訶牟尼曳泮
惡毒咒王甚剛強 光明雲蓋如意降
化樂自在天神眾 雷電交加鼓音王
421.阿耆尼曳泮
色究竟及長壽天 煉火大神顯威權
聞誦靈文皆拱伏 保衛正法度三千
422.摩訶羯唎曳泮
四臂三眼自在仙 大黑天女彩雲間
笑傲驕狂無忌憚 此咒能使速收歛
423.羯囉檀遲曳泮
嚴淨彩霞諸龍神 水天一色了無垠
保衛壇場護正教 勤修善法真真真
424.蔑怛唎曳泮
釋提桓因率領兵 巡察善惡各主賓
忠孝仁義增福慧 殺盜淫妄災禍侵
425.嘮怛唎曳泮
瞋怒神王寂滅空 無心無意無垢宗
役使鬼魔嫉妒女 改邪歸正任縱橫
426.遮文茶曳泮
自在天魔眷屬兇 噉人大神猛相攻
惟願眾生速醒悟 放下染緣佛果成
427.羯邏囉怛唎曳泮
帝釋天主號喝山 清淨法中遠慳貪
四大部洲皆皈命 六道輪迴共相連
428.迦般唎曳泮
善捨戒神護精嚴 惡毒怨魔退無前
離過絕非勤警策 返迷歸覺大聖賢
429.阿地目質多
無能壓勝雜居天 一切有力鬼神權
遵守號令護良善 功賞過罰正不偏
430.迦尸摩舍那
巨星光明照無邊 金土聯輝緊相連
盧舍那佛超日月 能將黑夜變白天
431.婆私你曳泮
大月光明徧十方 諸宮天子眷屬良
悉來歸降皆授首 信伏奉行叩法王
432.演吉質
普令惡神碎為塵 頂禮三寶究竟尊
所作已辦真自在 心法雙亡妙覺輪
433.薩埵婆寫
妙哉三寶佛法僧 仰祈證知默默中
加被行人離障礙 早登無上等覺尊
434.麼麼印兔那麼麼寫
我所辦事印證知 圓滿究竟大菩提
空無所空生妙有 有而非有一切師
豎窮橫徧盡包羅 微塵剎海十方合
華藏毘盧大壇場 普入此界衍摩訶
第五會 文殊弘傳會
435.突瑟吒質多
惡心鬼王無明多 煩惱事障難解脫
立功積德增福慧 奉行大教衍摩訶
436.阿末怛唎質多
惡念毒咒鬼見愁 天堂地獄自遨遊
效法聖賢無量慧 大哉靈文救苦憂
437.烏闍訶囉
風流邪見食精鬼 無始染著罪業魂
顛倒黑白迷真際 認賊作父故沉淪
438.伽婆訶囉
大空王佛主威神 降伏吸胎惡性靈
但願眾生同向善 逢凶化吉遇救星
439.嚧地囉訶囉
集殊勝法施食血 地光明人大丈夫
故能化身千百億 四生六道濟孤獨
440.婆娑訶囉
食油鬼吸燈燭精 自伏寶火佛來應
澄清宇宙光萬丈 濟地獄苦度幽冥
441.摩闍訶囉
食產鬼祟性殘毒 陰錯陽差造血湖
海水天神佛陀耶 逢凶化吉皆拱服
442.闍多訶囉
十二部經本事圖 食肉饞鬼胖葫蘆
水自在佛哀攝受 皈命頂禮叩兩足
443.視比多訶囉
音樂天上歌詠神 聲明律令食命爭
使成金剛菩薩藏 陀羅尼佛自在尊
444.跋略夜訶囉
祭祀鬼神食精英 寶傘花蓋毳衣行
大方廣佛化萬物 光明人勝道自成
445.乾陀訶囉
食香鬼王化金剛 自在佛陀度十方
六道輪迴浮沉轉 四生胎卵各承當
446.布史波訶囉
花自在佛映群芳 金剛持杵露堂堂
蝴蝶飛翔穿梭過 靈文默誦放毫光
447.頗囉訶囉
供養諸聖果新鮮 此鬼伺便卻爭先
享之增長菩提力 得大安樂證妙玄
448.婆寫訶囉
種子精華補先天 嬉戲三昧解愁煩
如意神通多變化 人自在佛法無邊
449.般波質多
惡形醜鬼猛無敵 巨口獠牙噴火機
獨頭熱惱瞋毒怪 降伏怒恨魔遠離
450.突瑟吒質多
無明邪見疑惑深 認賊作父失本真
惡眼大鬼殺氣重 智慧成就眾中尊
451.嘮陀囉質多
頭如須彌眼如海 巨口獠牙吞鯨百
佛現手眼千萬億 降伏大力鬼主宰
452.藥叉揭囉訶
吞火鬼王種類多 男女同生共處合
攝歸與授菩提記 權實違順入摩訶
453.囉剎娑揭囉訶
同生族類頗眾多 雜居共處吞水海
折服授記皈三寶 囉剎娑婆揭囉訶
454.閉隸多揭囉訶
雙手交加猛凶威 權實違逆各伏摧
顯密不定攝同化 同證菩提速疾歸
455.毗舍遮揭囉訶
交足鬼王食氣生 未發菩提害含靈
機熟改惡修善道 擁護正法覺迷津
456.部多揭囉訶
交身鬼化連體嬰 如膠似漆障重重
頓破無明現本性 積功培德果位增
457.鳩槃茶揭囉訶
分形合命害生靈 妙用神通術無窮
刀劍傷身猶可避 欲愛失寶不易尋
458.悉乾陀揭囉訶
吞火吐煙顯威神 遮天蓋地猛又兇
翻江倒海渾閒事 皈命與記慶昇平
459.烏怛摩陀揭囉訶
業感交攻吐火焰 報在鬼趣苦難言
若能一念迴光照 了生脫死斷循環
460.車夜揭囉訶
行事虛偽欠忠實 只開謊花結果稀
化成形影鬼怪類 示現說法警癡迷
461.阿播薩摩囉揭囉訶
瞋恚如火內外燒 熱惱沖天萬丈高
業報感召現為鬼 皈依信受罪孽消
462.宅祛革
因果循環輾轉交 糾葛不清互相報
刀劍愛欲刑人命 護持正法故饒饒
463.茶耆尼揭囉訶
多年狐狸成魅精 善能變化惑有情
迷人害物反教育 冤親平等佛法興
464.唎佛帝揭囉訶
惱亂幼兒睡不寧 忽然驚惶泣弗停
持誦靈文通天地 滅惡生善慶安平
465.闍弭迦揭囉訶
飛行羅剎諸鬼王 興雲佈雨徧十方
而今皈依如來教 護持三寶救災殃
466.舍俱尼揭囉訶
金翅眷屬法無邊 能塞虛空滿大千
移山倒海摘日月 降伏魑魅鎮坤乾
467.姥陀囉
犬職守夜雞司晨 貓鬼鼠妖各逞能
凶神惡煞皆授首 誦持秘咒轉靈文
468.難地迦揭囉訶
旱魃為虐害蒼生 草木皆枯火炎蒸
甘露普施觀自在 神咒加持覺有情
469.阿藍婆揭囉訶
如蛇似龍藍面容 奇形怪狀貌猙獰
馴服改惡習正教 維護三寶立勳功
470.乾度波尼揭囉訶
蛇食雞卵雞吞蟲 互相結怨恨難平
鬼魂仍然懷仇意 調柔和合冤親同
471.什佛囉
口吐火煙燒世人 瘟疫流行害生靈
於今護法皈三寶 念之離苦進佛城
472.堙迦醯迦
一日三日五日發 瘧疾鬼祟施邪法
仰仗三寶威德力 同入無生寶蓮華
473.墜帝藥迦
東方阿閦統金剛 二日瘧疾向遠颺
解脫災厄得自在 無生法忍妙難量
474.怛隸帝藥迦
娑婆教主釋迦尊 神咒加持百由旬
冤魂瘧鬼聽敕命 菩提達摩誦靈文
475.者突託迦
修道習法要虔誠 時刻慎獨莫放心
瘧鬼施毒縱大慾 行者拔苦利蒼生
476.昵提什伐囉
熱鬼為瘧擾康平 水煮油煎苦難停
靈文誦持除災障 寂滅清涼慶安寧
477.毖釤摩什伐囉
寒熱溫平疫鬼魔 傳染流行死難活
有緣藉此三昧力 災消病滅念彌陀
478.薄底迦
風濕纏綿步維艱 連年累月病難安
若能迴光勤懺悔 虛空清淨頑疾蠲
479.鼻底迦
勇猛習學法術高 黃疸病鬼甚奸刁
北方佛統羯磨部 受持讀誦災難消
480.室隸瑟密迦
披精進鎧志堅牢 善則吉祥惡受報
瘟疫流行傳染病 金剛智劍斬魔妖
481.娑你般帝迦
業海無邊鬼無盡 循業受報果由心
痢病皆因貪口腹 一切法爾如是因
482.薩婆什伐囉
頭病鬼魔勢凶狂 痛楚難忍苦難當
無量智光消災障 自在佛寶解毒方
483.室嚧吉帝
頭痛腦裂欲魔狂 神智顛倒不怕亡
法光照射聲色定 寧靜平穩入睡鄉
484.末陀鞞達嚧制劍
諸惡業報各差別 不食不飢不號嗟
威德廣大聖賢眾 拔苦與樂有妙訣
485.阿綺嚧鉗
口痛鬼怪因貪吃 食難下嚥惡作劇
正覺世間無比力 雷電天神癒奇疾
486.目佉嚧鉗
齒痛魔鬼摧硬堅 蛀牙碎石各爭先
真空法性得自在 雲霞神靈解孽冤
487.羯唎突嚧鉗
一體分司唇齒喉 各部痛楚因果由
得聞神咒罪消滅 恢復清淨皈命投
488.揭囉訶
身病鬼魔苦纏綿 連年累月呼蒼天
一切邪神種族類 咒力滅惡解罪愆
489.揭藍羯拏輸藍
凝滑種子未成形 勇猛大力鬼來尋
靈文真言吉祥語 安魂定魄化有情
490.憚多輸藍
頤頷痛苦口難宣 日夜呻吟呼蒼天
守疆界神奉敕命 加護平安怪病痊
491.迄唎夜輸藍
肉團心生鬼神依 疼痛不止難呼吸
一聞咒力霍然癒 三寶感應世間稀
492.末麼輸藍
諸根老滅死亡臨 頭痛劇烈忍難禁
思量意識皆昏迷 三昧加持震古今
493.跋唎室婆輸藍
形位五七具諸根 兩脅痛鬼偶光臨
尋因覓果欲報復 六入期內誦靈文
494.毖栗瑟吒輸藍
背痛腰痠苦無量 觸生癡愛見慢強
染污日深流慾海 般若照破禮法王
495.烏陀囉輸藍
因因果果報循環 腹痛鬼魅苦相纏
蒙此三昧加持力 災消難除解孽冤
496.羯知輸藍
陰陽顛倒違地天 起尸腰痛怪連綿
往昔種因今結果 業風吹動徧三千
497.跋悉帝輸藍
足踝支持全體基 痛苦難行動轉移
勾魂無常伺機至 靈文改變凶化吉
498.鄔嚧輸藍
腿痛行動進退遲 頹靡不振度日時
賊寇惡鬼白無常 止盜防疾咒力施
499.常伽輸藍
腕痛鬼魔難忍受 鐵鍊枷鎖並鋼鉤
穿心刺腹揮刀劍 神咒加持得自由
500.喝悉多輸藍
兩手痛楚難屈伸 牛頭馬面獅子尋
野干鬼病不可治 楞嚴咒力妙通神
501.跋陀輸藍
四肢骨節痛楚纏 連年累月病無間
守善罰惡威猛將 一聞神咒除熬煎
502.娑房盎伽
兩膊五體痛鬼臨 刀兵指鬘油燭侵
火燒地獄災苦烈 真言密語保安寧
503.般囉丈伽輸藍
善惡知識化愚賢 順逆精進度倒懸
鎖鈴鎚杵降魔鬼 解冤救苦消罪愆
504.部多毖跢茶
希有大乘妙無方 金剛菩提攝鬼王
尸林眷屬皆授首 鉤召法令靖八荒
505.茶耆尼
魅鬼邪術幻化奇 失去主宰起狐疑
鈴聲螺響青蛙叫 神咒加持冷熱離
506.什婆囉
光明徧照滿三千 一切惡瘡疔毒蠲
激刺掃除諸魔術 誦咒皈命天中天
507a.陀突嚧迦
瘡鬼狠毒害生命 世尊慈愍說靈文
行者誦持消災障 解除眾苦癰疽病
507b
一切瘡鬼荼毒深 疥癩癬癭羊毛疔
神咒智母加持力 解除夙業獲安寧
508a.建咄嚧吉知
天行鬼怪放射毒 蜘蛛瘡病難降伏
寶生部主光救護 虛空藏王大掃除
508b
蜘蛛猙獰毒氣攻 帶狀泡疹菌腫紅
寶生光照消罪障 奇疾怪症一掃空
509.婆路多毗
劇烈陰毒種種形 無名腫痛如鋼疔
八萬妙法到彼岸 蓮華部主除鬼靈
510.薩般嚧
蔓延徧體浸淫菌 此癒彼起最堪驚
般若智劍斬情蒂 恢復清淨本來真
511.訶凌伽
赤瘡鬼毒心火盛 大眾僧伽作羯磨
願辦佛事求真智 愛作法務正覺成
512.輸沙怛囉
小兒瘡鬼胎毒侵 嚴淨毘尼戒律新
妙術恢復清淨體 離垢除貪現法身
513.娑那羯囉
吸毒服藥發癲狂 胡言亂語自稱王
撥無因果飛精附 五部法主鎮八方
514.毗沙喻迦
蠱毒猖獗癩瘡癭 妄想雜念邪淫成
堅持誦讀天神護 解空頓覺通相應
515.阿耆尼
火毒鬼祟熾然凶 熱烈情慾日夜攻
誦持靈妙清涼句 災消焚退護法擁
516.烏陀迦
水毒鬼母眷屬惡 翻江倒海興浪波
金剛龍神護良善 化險為夷念佛陀
517.末囉鞞囉
嫉妒瞋恚量窄狹 變化莫測毒醉麻
迅雷風烈助威虐 陰魂飄蕩赴黃沙
518.建多囉
天神地祇護人間 記錄善惡正不偏
慈心悲願化群品 同證無生學聖賢
519.阿迦囉
飛災橫禍罹難亡 無明錯因招罪殃
大慈心度諸惱苦 妙術拯救化吉祥
520.密唎咄
種種橫死怨沖天 俟機尋找替代緣
善者喜施方便力 解結釋愆免熬煎
521.怛斂部迦
心毒意狠害蒼生 性化金石草木形
本質烈於鴆砒等 鴉片麻藥殺人精
522.地栗剌吒
蚖蛇蝮蠍及蜈蚣 蚰蜒蟾蜍蠱毒蟲
瞋恚怨恨相尋報 靈文洗滌化亨通
523.毖唎瑟質迦
蠍毒鬼魅性陰惡 暗箭傷人死難活
獨覺辟支施甘露 枯木逢春起沉痾
524.薩婆那俱囉
蛇毒鬼祟吐火煙 口乾舌燥熱病纏
痛苦難當惟欲死 幸遇神咒解怨冤
525.肆引伽弊
兇猛殘暴賽虎狼 以力欺人鬼霸王
能仁慈悲方便度 直樹林中獲安康
526.揭囉唎藥叉
獅子鬼吼百怪驚 妖魔魍魎俱遁形
勇健成就攝群品 化惡為慈慶康寧
527.怛囉芻
一切惡毒鬼最兇 陰險狡詐害無窮
高勝妙法除罪障 蓮華部主慈悲公
528.末囉視
熊羆毒鬼甚難量 勢強力猛不可當
吉祥如意離濁垢 南方寶生救災殃
529.吠帝釤
反覆無常叛亂生 惡毒殘害眾含靈
威德攝服頑強類 天下謳歌慶康平
530.娑鞞釤
改惡從善日日新 皈依正法出迷津
五部諸佛皆歡喜 萬方同禮大威音
531.悉怛多鉢怛囉
各種寶蓋香花雲 消災除障利人群
五方魔眾皆拱伏 萬類鬼怪悉遵行
532.摩訶跋闍嚧
金剛力士鎮妖邪 護道衛生保清潔
增善滅惡皈敬禮 大覺世尊佛陀耶
533.瑟尼釤
啟火金剛藏王眾 化凶為吉魔手拱
灌頂寶光除厄難 結界成就皈不動
534.摩訶般賴丈耆藍
智光普照度冥頑 蓮華螺索化慳貪
無事不辦成聖法 皆大歡喜返本原
535.夜波突陀
乃至護咒力士眾 無上佛寶法中王
警策生善滅諸惡 是故此處最吉祥
536.舍喻闍那
一切力士鎮群邪 金剛保衛僧伽耶
吼震徧動三千界 攝伏魔外災患歇
537.辮怛隸拏
召集護法眾神王 聚會壇前赴道場
蓮華部主施敕令 尊勝最妙放毫光
538.毗陀耶
成就無上大威神 光明徧照淨絕氛
正覺世尊執法令 結界護教最嚴森
539.槃曇迦嚧彌
大光明法結界成 頂禮慈悲眾中尊
所作皆辦邪歸正 菩提道果不減增
540.帝殊
禁縛諸惡莫猖狂 邪魔妖怪鬼神王
一切皈命遵法令 堅固智劍鎮八荒
541.槃曇迦嚧彌
禁縛諸惡魔鬼神 莫入界內擾害人
法筵壇開聖賢會 轉教妙輪貫古今
542.般囉毗陀
智慧咒力縛眾魔 佛母覺道化娑婆
蓮華法部施法令 經云死者變成活
543.槃曇迦嚧彌
楞嚴法會圓滿成 結界壇中伏惡神
實際理地究竟力 護持行者佛教興
544.跢姪他
佛敕一切諸有情 各宜敬禮遵奉行
不相捨離時衛護 同登覺道法王城
545.唵
合掌恭敬總持王 引生無量神妙章
一切邪魔歸正教 魑魅魍魎難遁藏
546.阿那隸
豎窮三際妙高天 峻極無上廣無邊
難滅順教富有義 佛法僧寶施令權
547.毗舍提
佛敕眾等雲來集 頂禮衛護不捨離
橫徧十方一切剎 直至無上大菩提
548.鞞囉
各自約束諸眷屬 循規守矩立功圖
護持三寶弘佛法 嚴整威儀善根熟
549.跋闍囉
金剛怒目抖雄威 破邪顯正震法雷
賞善懲惡除魔外 公平無私放光輝
550.陀唎
咒心神力難思議 改惡向善發菩提
法界有情同攝受 總持無量化群機
551.槃陀槃陀你
豎窮橫徧盡包羅 微塵剎海十方合
華藏毘盧大壇場 普入此界衍摩訶
552.跋闍囉謗尼泮
金剛護持眾行人 手執寶杵鎮魔軍
開顯通達折攝力 同入無量般若門
覺悟一切聖凡流 五方五部五佛由
增益成就三根願 遂心如意滿所求
554.莎婆訶
功無不集德將圓 果障消滅善業全
直至菩提常抖擻 高登正覺大寶蓮
Xem thêm:
Chú Lăng Nghiêm Kệ và Giảng Giải (HT. Tuyên Hóa giảng | Thích Minh Định dịch)
(Mahavedallasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, Tinh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahakotthita (Đại Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahakotthita nói với Tôn giả Sariputta:
– Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Duppanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là liệt tuệ?
– Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không tuệ tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là Khổ tập, không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là con đường đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là liệt tuệ.
– Lành thay, Hiền giả!
Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:
– Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ?
– Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ. Có tuệ trí gì? Có tuệ tri: đây là Khổ, có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
– Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?
– Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri, này Hiền giả, nên được gọi là có thức.
– Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?
– Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
– Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không phải không kết hợp này?
– Này Hiền giả, Trí tuệ như vậy, thức như vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn thức cần phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa những pháp này.
– Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?
– Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc thọ. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ, nên được gọi là cảm thọ.
– Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?
– Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả, nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng. Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.
– Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?
– Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
– Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?
– Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.
– Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì có thể tuệ tri được?
– Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa đến có thể tuệ tri.
– Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì?
– Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).
– Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi?
– Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý. Này Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.
– Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả công đức?
– Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ, có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ trợ, có quán (Samadhi) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.
– Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)?
– Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
– Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai được xảy ra?
– Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.
– Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai không xảy ra?
– Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra.
– Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất?
– Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Thiền thứ nhất.
– Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi phần?
– Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần như vậy.
– Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
– Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.
– Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới của chúng?
– Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.
– Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an trú?
– Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu) mà chúng an trú.
– Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú?
– Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.
– Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an trú?
– Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
– Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?
– Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói. Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
– Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara) này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?
– Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.
– Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
– Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ như một khúc gỗ vô tri.
– Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định?
– Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định.
– Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
– Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc.
– Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?
– Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng tâm giải thoát.
– Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát?
– Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.
– Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?
– Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.
– Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
– Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì” chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: “Đây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở”. Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát. Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là nguyên nhân của hạn lượng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như thân cây ta-la được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là một vật gì (chướng ngại). Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như thân cây ta-la được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân, không có si. Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Đối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây ta-la được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả Mahakotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
ĐẠI KINH PHƯƠNG QUẢNG, THỨ BỐN MƯƠI BA HẾT.
Thích Minh Châu
>>> 42. Kinh Veranyaka
Nghe như vầy.
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại núi Linh Thứu, thành La Duyệt cùng chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội.
Đề Bà Đạt Đa[1] đến chỗ vua A Xà Thế; đến rồi, liền ngồi vào chỗ ngồi. Bấy giờ, vua A Xà Thế từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ dưới chân Điều Đạt rồi trở lại ngồi vào chỗ ngồi. Bấy giờ, vua A Xà Thếthưa Điều Đạt rằng: “Tôi từng nghe tôn giả Điều Đạt, người mà Sa môn Cù Đàm thường nói như vầy: ‘Có năm tội nghịch, nếu có người nam người nữ phạm vào năm tội này, người ấy không thể cứu tội được, liền vào trong địa ngục không có nghi ngờ gì nữa. Sao gọi là năm? Đó là: giết cha, giết mẹ, hại A la hán, đấu loạn[2] chúng Tăng, ở chỗ Như Lai khởi tâm ý tà ác. Năm tội như vậy không thể cứu được. Nếu người nam nữ nào làm các việc nầy thì liền vào địa ngục không có nghi ngờ gì cả.’ Ta nay, Điều Đạt! Tự mình giết cha, ta cũng bị vào địa ngục sao?”
Bấy giờ, Điều Đạt bảo với vua A Xà Thế rằng: “Đại vương! Chớ có lo lắng, sợ hãi. Làm sao có hại? Làm sao có lỗi? Ai làm hại mà thọ báo? Ai làm hại mà phải nhận quả nầy? Huống chi, đại vương không làm điều ác trái nghịch. Người làm điều ác, tự họ phải thọ nhận quả báo.”
Bấy giờ trong chúng, nhiều vị Tỳ kheo đến giờ đắp y ôm bát vào thành La Duyệt khất thực. Lúc ấy trong chúng, nhiều vị Tỳ kheo vào trong thành La Duyệt khất thực, nghe vua A Xà Thế nói chuyện với Điều Đạt rằng: “Tôn giả Điều Đạt! Ta nghe Sa môn Cù Đàm đã nói như vầy: ‘Có năm tội không cứu được. Nếu có nam nữ nào làm năm việc này thì liền vào trong địa ngục không có nghi ngờ gì nữa.’ Ta không phải một mình giết vua cha, ta sẽ phải vào trong địa ngục sao?” Bấy giờ Điều Đạt đáp rằng: “Chớ sợ, đại vương! Ai người làm hại, hại do đâu sanh ra? Ai làm ác đâu mà sau nhận quả báo? Vua cũng không làm hại. Người làm hại, tự họ phải thọ nhận quả báo.”
Bấy giờ trong chúng, nhiều vị Tỳ kheo, từ thành La Duyệt đã khất thực xong, sau khi thọ thực, thu dọn y bát, dùng toạ cụ chứa đựng, vác trên vai, đến chỗ của Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, ngồi vào một phía; rồi liền nói về vua A Xà Thế, chỗ cùng nhau luận bàn; rồi hướng về Đức Thế Tôn mà nói rõ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Kẻ ngu biết chỗ nầy
Hoạ nói không quả báo
Ta nay thấy về sau
Thọ báo quyết có chỗ.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ kheo: “Vua A Xà Thế nước Ma Kiệt kia dù đã giết vua cha, cũng chẳng bao lâu nữa sẽ đến chỗ của ta, sẽ có được những niềm tin tưởng ở chỗ của ta. Khiến sau khimạng chung sẽ đoạ vào địa ngục Phách cúc[3].
Bấy giờ, có một vị Tỳ kheo bạch Đức Thế Tôn rằng: “Từ cõi địa ngục[4] kia mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?”
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Từ cõi địa ngục ấy mạng chung sẽ sanh vào cõi Tứ thiên vương.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo! Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào cõi trời thứ ba mươi ba.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Từ cõi trời thứ ba mươi ba mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?”
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo! Từ cõi trời thứ ba mươi ba mạng chung sẽ sanh lên cõi Diệm thiên.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Đức Thế Tôn! Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Từ cõi Diệm thiên mạng chung sẽ sanh vào cõi trời Đâu Thuật.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Đức Thế Tôn! Từ cõi Đâu Thuật mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Từ cõi trời Đâu Thuật mạng chung sẽ sanh vào cõi trời Hoá tự tại.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Từ cõi trời Hoá tự tại mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo! Từ cõi trời Hoá tự tại mạng chung sẽ sanh vào cõi trời Tha hoá tự tại.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Đức Thế Tôn! Từ cõi trời Tha hoá tự tại mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo! Từ cõi trời Tha hoá tự tại mạng chung sẽ sanh vào cõi trời Hoá tự tại, sanh vào cõi trời Đâu thuật, cõi Diệm Thiên, cõi trời thứ ba mươi ba, cõi Tứ thiên vương, lại sẽ sanh vào cõi người.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Đức Thế Tôn! Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào nơi đâu?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo! Vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt, trong hai mươi kiếp không vào trong ba đường ác, lưu chuyển trong cõi Trời - Người. Thọ thân sau cùng, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, giữ lòng tin kiên cố, xuất gia học Đạo, sẽ thành Bích chi Phật, danh gọi là Vô Uế.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Hy hữu[5]! Hy hữu! Thưa Đức Thế Tôn! Tạo tội, lầm lỗi như vậy mà thọ hưởng vui sướng, thành Bích chi Phật, danh gọi là Vô Uế.”
Đức Thế Tôn dạy rằng: “A Xà Thế, vua nước Ma Kiệt phát khởi tâm ý thành tựu nên các việc lành đều đến. Tỳ kheo! Kham nhẫn, chịu đựng, phát khởi tâm ý thành tựu nên được cứu thoát khỏi địa ngục. Nếu người phát khởi tâm ý không thành tựu mà nhân duyên thành tựu, tuy chưa sanh vào địa ngục bởi vì đã chuẩn bị được phương tiện nên không đến địa ngục.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Nếu người ấy hai việc đều thành tựu thì người ấy sẽ sanh vào nơi đâu?”
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Hai việc ấy thành tựu sẽ sanh ở hai nơi. Sao gọi là hai? Sanh ở cõi Trời, cõi Người.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Người ấy phát khởi tâm ý thành tựu, nhân duyên không thành tựu; hai việc nầy đây có gì khác biệt?
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Tỳ kheo phát khởi tâm ý thành tựu mà nhân duyên không thành tựu, đây là căn tánh yếu mềm. Phát khởi tâm ý không thành tựu mà nhân duyên thành tựu, Tỳ kheo! Đây là căn tánhlanh lợi.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Độn căn, lợi căn có gì khác biệt?”
Đức Thế Tôn dạy rằng: “Độn căn là chỗ làm của Tỳ kheo không thăng tiến. Lợi căn là Tỳ kheo thông minh, sáng suốt.”
Tỳ kheo bạch rằng: “Hai việc nầy có gì khác biệt? Nghiệp nào sẽ trở lại?”
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Trí tuệ, nhất thế gian
Đưa đến chỗ an lành
Có thể biết các nghiệp
Dứt được sanh tử kia
Đây gọi là Tỳ kheo
Có khác biệt như vậy.”
Bấy giờ, Tỳ kheo ấy đã nghe Đức Phật nói, vui mừng mà phụng hành; liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, đi nhiễu quanh ba vòng rồi lui về. Bấy giờ Tỳ kheo ấy, đã đến ngày giờ, đắp yôm bát vào thành La Duyệt khất thực, đi đến bên ngoài cửa cung vua Ma Kiệt.
Lúc ấy, vua A Xà Thế xa thấy Tỳ kheo kia đi lại. Thấy rồi liền lệnh cho người giữ cửa: “Vì sao? Người giữ cửa, ta trước đã ra lệnh, chúng Tỳ kheo họ Thích chớ có vào đến nơi đây, ngoại trừ tôn giả Điều Đạt.”
Bấy giờ, người giữ cửa nắm lấy tay của Tỳ kheo ấy dắt ra bên ngoài cửa thành. Lúc đó, Tỳ kheo ấy giơ tay phải lên nói cho vua nước Ma Kiệt rằng: “Ta là đại thiện tri thức của đại vương, là chỗ an ổn, không có các phiền não.”
Bấy giờ, vua đáp lời rằng: “Tại sao Tỳ kheo lại thấy được nghĩa lý? Nói lời như vầy: “Ta là thiện tri thứccủa đại vương, là chỗ an ổn.”
Bấy giờ, Tỳ kheo ấy bảo vua A Xà Thế rằng: “Đức Thế Tôn nói về vua, lời như vầy: ‘Vua nước Ma Kiệt, do giết vua cha, việc tạo ác ấy sau khi mạng chung sẽ sanh vào địa ngục như Phách cúc. Từ chỗ ấy mạng chung sẽ sanh vào cung Tứ thiên vương. Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào cõi trời thứ ba mươi ba. Từ cõi ấy mạng chung sẽ sanh vào cõi Diệm thiên, trời Đâu Thuật, trời Hoá tự tại, trời Tha hoá tự tại. Từ cõi ấy mạng chung lại sanh vào cõi trời Hoá tự tại, cõi trời Đâu thuật, cõi Diệm thiên, cõi trời thứ ba mươi ba, cung Tứ thiên vương. Lại sẽ sanh vào cõi trần gian thọ thân người. Như vậy, đại vương, trong hai mươi kiếp không vào ba đường ác; lưu chuyển trong cõi nhân gian. Thọ thân người cuối cùng sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, giữ niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, đạt thành Bích chi Phật, danh hiệu là Vô Uế.’ Lý do là thế. Như vậy đại vương sẽ có được niềm tin không có gốc[6].” Bấy giờ, vị Tỳ kheo ấy nói lời này xong liền đi về.
Lúc ấy, vua A Xà Thế nghe Tỳ kheo ấy nói, cũng không hoan hỷ lại cũng chẳng sân hận, cũng không thọ nhận những lời nói ấy; bèn nói với vương tử Kỳ Vực rằng: “Kỳ Vực! Vị sa môn đi đến chỗ của tôi, nói lời thế nầy: ‘Đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác đã thấy biết truyền cho quyết định rằng: giết vua cha là làm việc ác nghịch, sau khi mạng chung sẽ sanh vào địa ngục như Phách cúc. Từ chỗ ấy mạng chung sẽ sanh vào cung Tứ thiên vương, cõi trời thứ ba mươi ba, cõi Diệm thiên, cõi trời Đâu Thuật, cõi trời Hoá Tự Tại, cõi trời Tha Hoá Tự Tại. Từ cõi trời ấy mạng chung lại sẽ sanh vào cõi trời Hoá Tự Tại, cõi trời Đâu Thuật, cõi Diệm thiên, cõi trời thứ ba mươi ba, cung Tứ thiên vương. Từ cõi ấy mạng chungsẽ sanh vào cõi người. Thọ thân người cuối cùng cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, giữ lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo, thành Bích chi Phật, hiệu là Vô Uế.’ Ngươi hãy đi, Kỳ Vực! Ngươi đi đến chỗ của Sa môn Cù Đàm, xem xét thử có lời nói đúng như vậy không?” Đáp rằng: “Thưa vâng, đại vương!”
Bấy giờ, vương tử Kỳ Vực nhận lời chỉ bảo của vua nước Ma Kiệt liền ra khỏi thành La Duyệt Kỳ đến núi Linh Thứu, chỗ của Đức Thế Tôn. Đến nơi rồi, đầu mặt đảnh lễ dưới chân rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ vương tử Kỳ Vực đem chỗ chỉ bảo, nói hỏi của vua nước Ma Kiệt hướng về Đức Như Lai mà nói hết. Đức Thế Tôn dạy rằng: “Đúng vậy. Kỳ Vực! Phật Thế Tôn nói không có hai lời, chỗ nói ấy tuỳ theo sự việc. Tại sao vậy? Kỳ Vực! Vua A Xà Thế kia sẽ có được niềm tin không có gốc. Kỳ Vực! Như có các nam nữ nào, tất cả họ cũng đều có được các cõi ấy mà không có gì khác nhau.”
Lúc ấy, vương tử Kỳ Vực từ chỗ Đức Như Lai thọ nhận những chỉ dạy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật rồi lui về; đi đến chỗ của vua nước Ma Kiệt, đến nơi rồi bèn nói cho vua A Xà Thếrằng: “Đức Như Lai kia, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác thật có nói lời nầy. Tại sao vậy? Vì (đối với) những người có niềm tin không có gốc thì không có gì khác nhau. Mong vua nên đến chỗ của Đức Như Lai kia, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác.”
Bấy giờ, vua đáp lời rằng: “Kỳ Vực! Ta nghe vị Sa môn Cù Đàm ấy có chú thuật, có thể hàng phục nhân dân, khiến cho kẻ ngoại đạo, kẻ khác học phái, không thể không thọ nhận giáo pháp của ông ta. Cho nên, ta không cam tâm đến gặp Sa môn Cù Đàm. Thôi vậy, Kỳ Vực! Ta sẽ quán sát vị Sa môn Cù Đàmkia, đã có tất cả trí tuệ phải không? Ví như thật là người có tất cả trí, sau này ta sẽ đi đến gặp vị Sa mônCù Đàm ấy.”
Bấy giờ, vương tử Kỳ Vực nghe lời nói từ vua nước Ma Kiệt, ra khỏi thành La Duyệt, đến tại núi Linh Thứu, đến chỗ của Đức Thế Tôn, đến nơi rồi đầu mặt đảnh lễ chân Phật, ngồi vào một phía; đem những nghĩa lý nầy mà bạch lên Đức Thế Tôn.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo rằng: “Kỳ Vực! Vua nước Ma Kiệt chẳng bao lâu nữa sẽ đến chỗ của ta, sẽ có được niềm tin không có gốc. Giả sử sau khi ta vào Niết bàn[7], sẽ cúng dường xá lợi của ta.” Vương tử Kỳ Vực vui mừng hớn hở, không có gì vui hơn được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp vi diệu cho vương tử Kỳ Vực khiến phát sinh hoan hỷ.
Bấy giờ, vương tử Kỳ Vực từ chỗ của Đức Như Lai đã nghe giáo pháp sâu xa nầy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi lui mà đi về. Bấy giờ, vương tử Kỳ Vực nghe Đức Phật nói rồi, hoan hỷ phụng hành.
A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Kinh
Dịch xong ngày 08/01/2014
No. 508
阿闍世王問五逆經
西晉沙門法炬譯
聞如是:
一時,婆伽婆在羅閱城靈鷲山,與大比丘眾五百人俱。
提婆達兜詣阿闍世王所,到已即就座坐;時王阿闍世,即從坐起,頭面禮調達足,還就座坐。
時王阿闍世白調達言:「我曾聞尊者調達,彼沙門瞿曇常作是語:『有五逆罪,若族姓子、族姓女,為是五不救罪者,必入地獄不疑。云何為五?謂殺父、殺母、害阿羅漢、鬪亂眾僧、起惡意於如來所。如是五不救罪,若有男女施行此事者,必入地獄不疑。』我今,調達!躬殺父王,我亦當入地獄耶?」
時調達告阿闍世王:「大王!勿懷恐懼,為有何殃?為有何咎?誰為殃而受報?誰作殃當受其果?然大王亦不為惡逆,所作惡者,自當受報。」
時眾多比丘,到時著衣持鉢,入羅閱城乞食。時眾多比丘,入羅閱城乞食,聞王阿闍世語調達言:「尊者調達!我聞沙門瞿曇作是說言:『有五不救罪,若有男女,施行此五事者,必入地獄不疑。』我無辜躬殺父王,我當入地獄中耶?」時調達報言:「勿懼,大王!誰作殃,殃由何生?誰作惡後受報?王亦不作殃,所作殃者,自當受報。」
時眾多比丘,從羅閱城乞食已,食後收攝衣鉢,以尼師壇著肩上,至世尊所,頭面禮足,在一面坐,便說阿闍世王所共論議,具向世尊說。
時,世尊便說此偈:
「愚者知是處, 言殃謂無報,
我今觀當來, 受報有定處。」
是時,世尊告諸比丘:「彼摩竭國阿闍世王,雖殺父王,亦當不久來至我所,當有等信於我所;命終之後,當墮地獄如拍毱。」
時有一比丘,白世尊言:「從彼泥犁命終,當生何處?」世尊告曰:「從彼泥犁命終,當生四天王處。」
比丘白言:「從彼命終,當生何處?」世尊告曰:「比丘!從彼命終,當生三十三天。」
比丘白言:「從三十三天命終,當生何處?」世尊告曰:「比丘!從三十三天命終,當生炎天上。」
比丘白言:「世尊!從彼命終,當生何處?」世尊告曰:「從炎天上命終,當生兜術天。」
比丘白言:「世尊!從兜術天命終,當生何處?」世尊告曰:「從兜術天命終,當生化自在天。」
比丘白言:「從化自在天命終,當生何處?」世尊告曰:「比丘!從化自在天命終,當生他化自在天。」
比丘白言:「世尊!從他化自在天命終,當生何處?」世尊告曰:「比丘!從他化自在天命終,當生化自在天、生兜術天、炎天、三十三天、四天王天,復當來生人間。」
比丘白言:「世尊!從此命終,當生何處?」世尊告曰:「比丘!摩竭國王阿闍世,二十劫中,不趣三惡道,流轉天人間,最後受身,剃除鬚髮,著三法衣,以信堅固,出家學道,當成辟支佛,名無穢。」
比丘白言:「甚奇!甚特!世尊!作如是殃罪,受是快樂,成辟支佛,名曰無穢。」
世尊告曰:「摩竭國王阿闍世,發意成就,眾善普至。比丘!堪任發意成就,得拔濟地獄;若發意不成就者,因緣成就,雖未生地獄,猶可設方便不至地獄。」
比丘白言:「若彼人二事俱成就者,彼當生何處?」世尊告曰:「彼二事成就,當生二處。云何為二?生天、人間。」
比丘白言:「彼發意成就、因緣不成就者,此二事有何差別?」
世尊告曰:「比丘!發意成就、因緣不成就,此是濡根;發意不成就、因緣成就,比丘!此是利根。」
比丘白言:「鈍根、利根,有何差別?」
世尊告曰:「鈍根者,比丘所為不進;利根者,比丘聰明黠慧。」
比丘白言:「此二有何差別?當還何業?」
是時,世尊便說此偈:
「智慧世為上, 當至安隱處,
諸能知等業, 斷彼生有死。
「是謂比丘有是差別。」
是時彼比丘,聞佛所說,歡喜奉行已,即從坐起,頭面禮足,遶三匝便退而去。
是時彼比丘,即其日到,時著衣持鉢,入羅閱城乞食,詣彼摩竭王宮門外。
時王阿闍世,遙見彼比丘來,見已便勅守門人:「云何守門人?我先已勅,釋種比丘,勿放入此,除尊者調達。」
時彼守門人,執彼比丘手,驅出門外。時彼比丘舉右手,語摩竭國王言:「我是大王大善知識,是安隱處,無有眾惱。」
時王報言:「云何比丘?而觀何義,作是說言:『我是大王善知識,是安隱處。』」
時彼比丘,告王阿闍世言:「世尊說王,作是言:『摩竭國王,雖殺父王,彼作惡命終已,當生地獄如拍毱。從彼命終,當生四天王宮。從彼命終,當生三十三天。從彼命終,當生炎天、兜術天、化自在天、他化自在天。從彼命終,復當生化自在天、兜術天、炎天、三十三天、四天王宮,復當生此間受人形。如是大王,二十劫中,不趣三惡道,流轉人間,最後受人身,當剃除鬚髮,著三法衣,以信堅固,出家學道,成辟支佛,名曰無穢。』所以然者,如是大王,當得是無根之信。」時彼比丘,說是語已,便退而去。
時王阿闍世,聞彼比丘所說,亦不歡喜,復不瞋恚,亦不受彼所說,便告耆域王子曰:「耆域!沙門來至我所,而作是言:『彼如來.至真.等正覺見授決,殺父王而作是惡逆,命終後當生地獄如拍毱。從彼命終,當生四天王天、三十三天、炎天、兜術天、化自在天、他化自在天。從彼命終,復當生化自在天、兜術天、炎天、三十三天、四天王宮。從彼命終,當生人間;最後受人身,剃除鬚髮,著三法衣,以信堅固,出家學道,成辟支佛,名曰無穢。』汝往,耆域!彼沙門瞿曇所,審有是語不?」對曰:「如是,大王!」
時耆域王子,受摩竭國王教,便出羅閱祇城,詣靈鷲山,至世尊所。到已頭面禮足,在一面坐。時耆域王子,從摩竭國王所說言教,盡向如來說。世尊告曰:「如是,耆域!佛世尊言無有二,所說隨事。所以然者?耆域!彼王阿闍世,當成無根信。耆域!諸有男女,彼一切亦當有是趣而無有異。」
時耆域王子,從如來受是教已,即從坐起,頭面禮足,便退而去,詣摩竭國王所。到已便語王阿闍世言:「彼如來.至真.等正覺,實有是語。所以然者?諸有得無根信者,而無有異。願王當詣彼如來.至真.等正覺所。」
時王報言:「耆域!我聞彼沙門瞿曇,有是呪術,能降伏人民,使外道異學無不受其教,是故我不堪任往見沙門瞿曇。且住,耆域!我當觀察彼沙門瞿曇,為有一切智不?設當有一切智者,然後我當往見彼沙門瞿曇。」
時耆域王子,從摩竭國王聞是語,出羅閱城,詣靈鷲山,至世尊所。到已頭面禮足,在一面坐,以此義白世尊言。
時,世尊告曰:「耆域!摩竭國王不久當來至我所,當成無根信,設我取泥洹日後,當供養我舍利。」耆域王子歡喜踊躍,不能自勝。時世尊與耆域王子說微妙法,令發歡喜。
時,耆域王子從如來聞此深法,即從坐起,頭面禮足,遶三匝,便退而去。時,耆域王子聞佛所說,歡喜奉行。
阿闍世王問五逆經
[1] Đề Bà Đạt Đa (sa. Devadatta) hoặc còn được phiên là Đề-bà-đạt-đâu, Địa-bà-đạt-đâu, Đế-bà-đạt-đâu, còn được gọi gọn là Điều Đạt hay Đề Bà.
[2] Đấu loạn hay não loạn, tức là gây rối làm cho chúng Tăng chia rẽ, phân tán, bất hoà với nhau.
[3] 拍毱 Phách cúc: Địa ngục có hình phạt kẹp tay.
[4] Nguyên tác dùng chữ 泥犁 Nê lê (niraya), tức Địa ngục.
[5] Nguyên tác: 甚奇!甚特!Thậm kỳ ! Thậm đặc: (acchariyaj abbhutaj) hy hữu, bất khả tư nghị.
[6] Vô căn tín 無根信. Tin mà không có thiện căn, có tín nhưng không có gốc rễ trong kiến đạo. Niềm tinkhông có gốc, nghĩa là lúc đầu không có căn lành, không biết kính tin Tam Bảo nhưng sau nhờ nghe lờiĐức Phật dạy mà khởi lòng tin.
[7] Nguyên tác 泥洹 nê hoàn: Niết bàn.
(Veranjakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), Tinh xá ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ các gia chủ Bà-la-môn Veranjaka đến trú tại Savatthi vì một vài công việc. Các gia chủ Bà-la-môn được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ giòng họ Sakya (Thích-ca), nay ở Savatthi, tại Jetavana, Tinh xá ông Anathapindika. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay, nếu được yết kiến một vị A-la-hán như vậy!” Rồi các gia chủ Bà-la-môn ở Veranja đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên những lời thân hữu chào đón xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên tên họ của mình trước mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các gia chủ Bà-la-môn ở Veranja bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới đời này?
– Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy ở đây, có một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy ở đây, có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này.
– Chúng con không thể hiểu một cách đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết giảng một cách vắn tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con, để chúng con có thể hiểu một cách đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết giảng một cách vắn tắt!
– Như vậy, này các Gia chủ, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Các vị Gia chủ Bà-la-môn ở Veranja vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các Gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, hành phi chánh đạo (như Kinh trước chỉ thế “Các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la” bằng “các Gia chủ Bà-la-môn ở Veranja”... cho đến hết Kinh).
KINH VERANJAKA, THỨ BỐN MƯƠI HAI HẾT.
Thích Minh Châu
____________________________________________________________________________
>>> 41. Kinh Saleyyaka
Kinh A Di Đà | Kinh Vô Lượng Nghĩa | Kinh Phổ Môn
Kinh Tứ Thập Nhị Chương | Kinh Dược Sư | Kinh Di Giáo | Kinh Kim Cang
Dịch và chú giải: Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến
Hiệu đính Hán Văn: Nguyễn Minh Hiều
Nhà xuất bản Tôn Giáo
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Phật mênh mông như biển cả, dù ai có bỏ suốt cuộc đời để học hỏi cũng không thể thông suốt hết được. Tuy nhiên, trong cái mênh mông đó, cũng như nước biển cả lúc nào cũng hàm chứa vị mặn của muối, hết thảy kinh Phật đều cùng hàm chứa mùi vị của giải thoát, an lạc.
Chúng tôi đã có cơ may được gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều vị thiền đức, cao tăng. Mỗi vị thường chỉ chuyên tu, hành trì một vài bộ kinh Phật, cho dù kiến thức các vị có thể là rất bao quát. Điều đó cho thấy việc hành trì kinh điển vốn quý ở chỗ tinh thông, không cốt ở chỗ nhiều mà không đạt lý.
Tuy nhiên, người học Phật sơ cơ cần phải có chỗ để nương vào mà tu tập. Vì thế xưa nay các vị minh sư truyền đạo đều chọn lấy một số kinh điển quan yếu, thông dụng nhất để khuyên người hành trì. Những kinh ấy đã trở thành quen thuộc với đa số Phật tử, đến nỗi hầu như không ai là không biết. Để thuận tiện cho việc tu tập, hành trì của đông đảo hàng Phật tử, chúng tôi không ngại tài hèn sức mọn, cố gắng dịch những kinh này sang tiếng Việt, biên soạn phần chú giải, đồng thời trình bày chung với cả phần kinh văn chữ Hán và cách đọc theo âm Hán Việt, lấy tên là Chư Kinh Tập Yếu.
Như vậy, vừa thuận tiện cho người đọc tụng, cũng có thể giúp cho người muốn tìm hiểu sâu xa ý nghĩa trong kinh, lại cũng góp phần giúp những ai muốn nghiên cứu đối chiếu với bản Hán văn đều được dễ dàng. Do trình độ giới hạn, nên mặc dù đã hết sức cố gắng cũng không thể tránh khỏi ít nhiều sai sót, chúng tôi chân thành cầu mong được đón nhận sự chỉ giáo từ các bậc cao minh, tôn túc.
Những người thực hiện
(Saleyyakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn đang du hành trong nước Kosala (Kiều tất la) cùng với Đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Sa-la. Các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la nghe rằng: “Người ta nói Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ gia tộc Sakya, đang du hành trong nước Kosala với Đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến Sa-la. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay nếu được yết kiến một A-la-hán như vậy!” Rồi các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên những lời chào đón, thân hữu xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên tên họ của mình trước mặt Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số giữ im lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này?
– Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh thiện thú, Thiên giới, đời này.
– Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt!
– Như vậy, này các Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Các vị gia chủ Bà-la-môn, ở Sa-la vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Này các gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Này các gia chủ, thế nào là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo. Này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì Ông biết”; dầu cho người ấy không biết, người ấy nói: “Tôi biết”; dầu cho người ấy biết, người ấy nói: “Tôi không biết”; hay dầu cho người ấy không thấy, người ấy nói: “Tôi thấy”; hay dầu cho người ấy thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”. Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia, nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp hay xúi dục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá hoại, nói những lời đưa đến phá hoại. Và người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo. Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!” Lại có người có tâm sân, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: “Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại!” Lại có người có tà kiến, có tưởng điên đảo như: “Không có bố thí, không có kết quả của bố thí, không có tế lễ, không có cúng dường, các hành vi thiện ác, không có kết quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau”. Như vậy, này các Gia chủ, là ba ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Như vậy do nhân hành phi pháp, hành phi chánh đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gia chủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình; từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy; từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Và này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì Ông biết”, nếu biết người ấy nói “Tôi biết”; nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết”; hay nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy, lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!” Lại có người không có tâm sân, không có khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: “Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân!” Người ấy có chánh kiến, không có tưởng điên đảo: “Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các hành vi thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và đời sau”. Như vậy, này các Gia chủ, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này.
Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lỵ!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lỵ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia Bà-la-môn... đại phú gia gia chủ!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào đại phú gia gia chủ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh thân hữu với chư thiên Tứ thiên vương... với chư thiên cõi trời Ba mươi ba... với chư thiên Dạ ma với chư thiên Đâu-suất-đà... với chư thiên Hóa lạc... với chư thiên Tha hóa tự tại... với chư thiên Phạm chúng... với chư thiên Quang thiên... với chư thiên Thiểu Quang thiên... với chư thiên Vô lượng quang thiên... với chư thiên Quang âm thiên... với chư thiên Tịnh thiên... với chư thiên Thiểu tịnh thiên... với chư thiên Vô lượng tịnh thiên... với chư thiên Biến tịnh thiên... với chư thiên Quảng quả thiên... với chư thiên Vô phiền thiên... với chư thiên Vô nhiệt thiên... với chư thiên Thiện hiện thiên... với chư thiên Thiện kiến thiên... với chư thiên Sắc cứu kính thiên... với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên... với chư thiên Thức Vô biên xứ thiên... với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên... với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên”! Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh thân hữu với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.
Khi nghe nói vậy, các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vị diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng, mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng!
KINH SALEYYAKA, THỨ BỐN MƯƠI MỐT HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________
>>> 40. Tiểu kinh Xóm Ngựa
BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
(Bản ngắn, dịch từ nguyên bản Sanskrit)
Mahāyāna-sūtra-saṁgraha, ed. By Vaidya, The Mithila Institute, 1961, p.97.
Prajñāpāramitāhṛdayasūtram [saṃkṣiptamātṛkā]
प्रज्ञापारमिताहृदयसूत्रम्।
[संक्षिप्तमातृका]
॥ नमः सर्वज्ञाय॥
आर्यावलोकितेश्वरबोधिसत्त्वो गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यां चरमाणो व्यवलोकयति स्म। पञ्च स्कन्धाः, तांश्च स्वभावशून्यान् पश्यति स्म॥
इह शारिपुत्र रूपं शून्यता, शून्यतैव रूपम्। रूपान्न पृथक् शून्यता, शून्यताया न पृथग् रूपम्। यद्रूपं सा शून्यता, या शून्यता तद्रूपम्॥
एवमेव वेदनासंज्ञासंस्कारविज्ञानानि॥
इहं शारिपुत्र सर्वधर्माः शून्यतालक्षणा अनुत्पन्ना अनिरुद्धा अमला न विमला नोना न परिपूर्णाः। तस्माच्छारिपुत्र शून्यतायां न रूपम्, न वेदना, न संज्ञा, न संस्काराः, न विज्ञानानि। न चक्षुःश्रोत्रघ्राणजिह्वाकायमनांसि, न रूपशब्दगन्धरसस्प्रष्टव्यधर्माः। न चक्षुर्धातुर्यावन्न मनोधातुः॥
न विद्या नाविद्या न विद्याक्षयो नाविद्याक्षयो यावन्न जरामरणं न जरामरणक्षयो न दुःखसमुदयनिरोधमार्गा न ज्ञानं न प्राप्तित्वम्॥
बोधिसत्त्वस्य(श्च ?) प्रज्ञापारमितामाश्रित्य विहरति चित्तावरणः। चित्तावरणनास्तित्वादत्रस्तो विपर्यासातिक्रान्तो निष्ठनिर्वाणः। त्र्यध्वव्यवस्थिताः सर्वबुद्धाः प्रज्ञापारमितामाश्रित्य अनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुद्धाः॥
तस्माज्ज्ञातव्यः प्रज्ञापारमितामहामन्त्रो महाविद्यामन्त्रोऽनुत्तरमन्त्रोऽसमसममन्त्रः सर्वदुःखप्रशमनः सत्यममिथ्यत्वात् प्रज्ञापारमितायामुक्तो मन्त्रः। तद्यथा- गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा॥
इति प्रज्ञापारमिताहृदयसूत्रं समाप्तम्॥
Bồ-tát Quán Tự tại (Avalokitésvara) trong khi thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mậtsâu thẳm, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn (skandha); và vị ấy thấy chúng là Không trong tự tính.
Này Xá-lợi-phất (Śāriputra)! Sắc ở đây là không, không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.”
“Này Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp ở đây có đặc tướng là tính không: chúng không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không phải không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá-lợi-phất, trong tính Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có minh, không có vô minh, không có sự diệt tận của minh, không có sự diệt tận vô minh cho đếnkhông có già và chết, không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có (hiện) chứng, bởi vì không có đắc.
Do y chỉ trên hay trong Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát mà vị ấy an trú với tâm không bị bưng kín và bởi vì không có những sự bưng kín trong tâm mình, nên Ngài không có sợ hãi, và mộng tưởng điên đảo đã viễn ly, Niết-bàn đã được cứu cánh. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.”
“Do đó, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là thần chú (mantra) vĩ đại, là chú của minh huệ vĩ đại, là thần chú tối thượng, thần chú không gì có thể so sánh, có thể trừ diệt hết thảy mọi khổ đau; đó là chân thật vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, điều ấy như vầy:
gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi, svāhā! (Hỡi bậc giác ngộ! Đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, là phẩm vật hiến dâng)
_____________________________________________
QUẢNG BẢN: BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
प्रज्ञापारमिताहृदयसुत्रम् Prajñāpāramitāhṛdayasutram|
(Bản dài, dịch từ nguyên bản Sanskrit)
Prajñāpāramitāhṛdayasutram [vistaramātṛkā]
प्रज्ञापारमिताहृदयसुत्रम्।
[विस्तरमातृका]
॥नमः सर्वज्ञाय॥
एवं मया श्रुतम्। एकस्मिन् समये भगवान् राजगृहे विहरति स्म गृध्रकूटे पर्वते महता भिक्षुसंघेन सार्धं महता च बोधिसत्त्वसंघेन। तेन खलु समयेन भगवान् गम्भीरावसंबोधं नाम समाधिं समापन्नः। तेन च समयेन आर्यावलोकितेश्वरो बोधिसत्त्वो महासत्त्वो गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यां चरमाणः एवं व्यवलोकयति स्म। पञ्च स्कन्धांस्तांश्च स्वभावशून्यं व्यवलोकयति॥
अथायुष्मान् शारिपुत्रो बुद्धानुभावेन आर्यावलोकितेश्वरं बोधिसत्त्वमेतदवोचत्- यः कश्चित् कुलपुत्रो [वा कुलदुहिता वा अस्यां] गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यां चर्तुकामः, कथं शिक्षितव्यः ? एवमुक्ते आर्यावलोकितेश्वरो बोधिसत्त्वो महासत्त्वः आयुष्मन्तं शारिपुत्रमेतदवोचत्- यः कश्चिच्छारिपुत्र कुलपुत्रो व कुलदुहिता वा [अस्यां] गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यां चर्तुकामः, तेनैवं व्यवलोकितव्यम्-पञ्च स्कन्धांस्तांश्च स्वभावशून्यान् समनुपश्यति स्म। रूपं शून्यता, शून्यतैव रूपम्। रूपान्न पृथक् शून्यता, शून्यताया न पृथग् रूपम्। यद्रूपं सा शून्यता, या शून्यता तद्रूपम्। एवं वेदनासंज्ञासंस्कारविज्ञानानि च शून्यता। एवं शारिपुत्र सर्वधर्माः शून्यतालक्षणा अनुत्पन्ना अनिरुद्धा अमला विमला अनूना असंपूर्णाः। तस्मात्तर्हि शारिपुत्र शून्यतायां न रूपम्, न वेदना, न संज्ञा, न संस्काराः, न विज्ञानम्, न चक्षुर्न श्रोत्रं न घ्राणं न जिह्वा न कायो न मनो न रूपं न शब्दो न गन्धो न रसो न स्प्रष्टव्यं न धर्मः। न चक्षुर्धातुर्यावन्न मनोधातुर्न धर्मधातुर्न मनोविज्ञानधातुः। न विद्या नाविद्या न क्षयो यावन्न जरामरणं न जरामरणक्षयः, न दुःखसमुदयनिरोधमार्गा न ज्ञानं न प्राप्तिर्नाप्राप्तिः। तस्माच्छारिपुत्र अप्राप्तित्वेन बोधिसत्त्वानां प्रज्ञापारमितामाश्रित्य विहरति चित्तावरणः। चित्तावरणनास्तित्वादत्रस्तो विपर्यासातिक्रान्तो निष्ठनिर्वाणः। त्र्यध्वव्यवस्थिताः सर्वबुद्धाः प्रज्ञापारमितामाश्रित्य अनुत्तरां सम्यक्संबोधिमभिसंबुद्धाः। तस्माद् ज्ञातव्यः प्रज्ञापारमितामहामन्त्रः अनुत्तरमन्त्रः असमसममन्त्रः सर्वदुःखप्रशमनमन्त्रः सत्यममिथ्यत्वात् प्रज्ञापारमितायामुक्तो मन्त्रः। तद्यथा- गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा। एवं शारिपुत्र गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यायां शिक्षितव्यं बोधिसत्त्वेन॥
अथ खलु भगवान् तस्मात्समाधेर्व्युत्थाय आर्यावलोकितेश्वरस्य बोधिसत्त्वस्य साधुकारमदात्- साधु साधु कुलपुत्र। एवमेतत् कुलपुत्र, एवमेतद् गम्भीरायां प्रज्ञापारमितायां चर्यं चर्तव्यं यथा त्वया निर्दिष्टम्। अनुमोद्यते तथागतैरर्हद्भिः॥
इदमवोचद्भगवान्। आनन्दमना आयुष्मान् शारिपुत्रः आर्यावलोकितेश्वरश्च बोधिसत्त्वः सा च सर्वावती परिषत् सदेवमानुषासुरगन्धर्वश्च लोको भगवतो भाषितमभ्यनन्दन्॥
इति प्रज्ञापारमिताहृदयसूत्रं समाप्तम्।
Quy kỉnh Bát-nhã ba-la-mật vượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính như hư không, không sinh, không diệt, là cảnh giới của huệ và giới, hiển nhiên trong nội tâm chúng ta, và là mẹ của tất cả các đức Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai [1] .
Kính lễ bậc Nhất Thiết Trí.
Tôi nghe như vậy:
Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành Vương xá (Rājagṛha), trên đỉnh Linh thứu (Gṛdhrakūta), cùng với đại Bí-sô Tăng và Bồ-tát Tăng.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giác thậm thâm và cùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara) trong khi thể hiệnsự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn (skandha); và vị ấy thấy chúng là Không trong tự tính.
Rồi thì, trưởng lão Xá-lợi-phất nương theo uy thần của Phật mà bạch (Bồ-tát) Thánh Quán tự tại rằng: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn thể hiện sự nghiệp trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu thẳm, thì phải nên chiêm nghiệm như thế nào?”
Khi ấy, Thánh Quán Tự Tại, là vị Bồ-tát Đại sĩ, nói với trưởng lão Xá-lợi-phất rằng:
“Này Xá-lợi-phất, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào muốn thể hiện sự nghiệp trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu thẳm này, người ấy hãy nên chiêm nghiệm như vậy: đây là năm uẩn, và người ấy luôn luôn quán sát chân chính (=trực tiếp) chúng như là Không trong tự tính.
(Thế nào nói là tự tính năm uẩn đều Không? Đó là) [2] Sắc là Không. Không là sắc. Sắc không khác Không. Không không khác sắc. Cái nào là Sắc cái đó là Không, cái nào là Không cái đó là Sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy là Không trong tự tính.
Này Xá-lợi-phất! Đặc tướng Không như vậy của tất cả các pháp này vốn không có cái gì được sinh, không có cái gì bị diệt, không cấu nhiễm, không thanh tịnh, không tăng trưởng, không tổn giảm.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Do đó, trong tính Không không tồn tại sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không tồn tại mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không tồn tại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tồn tạigiới của mắt, cho đến: không tồn tại giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh, cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự tận diệt của tuổi già và sự chết; không Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không Trí, không đắc và vô đắc.
Vì vậy, này Xá-lợi-phất! Do tính vô đắc, Bồ-tát y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật mà vị ấy an trú với tâm không bị bưng kín và bởi vì không có những sự bưng kín trong tâm mình, nên Ngài không có sợ hãi, và mộng tưởng điên đảo đã viễn ly, Niết-bàn đã được cứu cánh. Hết thảy chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.”
Do đó, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là thần chú vĩ đại, là chú của minh huệ vĩ đại, là thần chú cao tuyệt, thần chú không gì có thể so sánh, có thể trừ diệt hết thảy mọi khổ đau; đó là chân thật vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, điều ấy như vầy:
gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi, svāhā! (Hỡi bậc giác ngộ! Đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, là phẩm vật hiến dâng).
Này Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời khỏi Tam-muội và tán dương Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại rằng: “Lành thay, lành thay, này thiện nam tử! Đúng như vậy! Việc thể hiện sự nghiệp Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực hành như vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế Tôn hoan hỉ nói như thế, Trưởng lão Xá-lợi-phất và Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thể chúng hội và thế giới của chư Thiên, Nhân loại, A-tu-la (Asura) và Càn-thát-bà (Gandharva), tất cả đều hoan hỷ phấn chấn ca ngợi lời dạy của đức Thế Tôn.
Như vậy đến đây đã công bố một cách Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật.
-------------------------
[1] Phần mở đầu này chỉ có ở bản Tây Tạng Cf. བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ bcom ldan 'das ma shes rab kyi pha rol tu phyin pa'i snying po.
[2] Bản Phạn không có, dịch theo bản Thi Hộ, No.257: “…何名五蘊自性空耶。所謂…”
PHẦN CHÚ GIẢI SẼ ĐƯỢC ĐĂNG TẢI SAU
Xin mời xem thêm: Thiền và Bát-nhã, TT. Tuệ Sỹ dịch: http://phatviet.com/html/tuesy/thien_batnha/thienbn.htm
(Culaassapurasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Anga (Ương-già), tại một xã ấp của dân chúng Anga, tên là Assapura. Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo, dân chúng biết các Ông là vậy. Và nếu các Ông có được hỏi: “Các Ông là ai!” Các Ông phải tự nhận: “Chúng tôi là Sa-môn”. Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được danh xưng như vậy, đã tự nhận là như vậy, thì này, các Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập như sau: “Những pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn, chúng ta sẽ tu tập pháp môn ấy. Như vậy danh xưng này của chúng ta mới chân chính và sự tự nhận này của chúng ta mới như thật. Và những thứ cúng dường mà chúng ta thọ hưởng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh mới có được kết quả lớn, lợi ích lớn cho chúng ta. Và chúng ta xuất gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích”.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn? Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo có tâm tham dục và lòng tham dục không được đoạn diệt, có tâm sân hận và lòng sân hận không được đoạn diệt, có tâm phẫn nộ và lòng phẫn nộ không được đoạn diệt, có tâm thù hận và lòng thù hận không được đoạn diệt, có tâm giả dối và lòng giả dối không được đoạn diệt, có tâm não hại và lòng não hại không được đoạn diệt, có tâm tật đố và lòng tật đố không được đoạn diệt, có tâm xan lẫn và lòng xan lẫn không được đoạn diệt, có tâm man trá và lòng man trá không được đoạn diệt, có tâm xảo trá và lòng xảo trá không được đoạn diệt, có tâm ái dục và lòng ái dục không được đoạn diệt, có tà kiến và tà kiến không được đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, nếu vị ấy không thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn, thì không thể đoạn diệt được những cấu uế cho Sa-môn, những tỳ vết cho Sa-môn, những lỗi lầm cho Sa-môn, sự đọa sanh vào đọa xứ, sự thọ lãnh các ác thú. Này các Tỷ-kheo, ví như một loại võ khí nguy hiểm tên mataja có hai lưỡi rất sắc bén, có thể được bao lại và bỏ vào trong một cái bao. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói sự xuất gia của Tỷ-kheo ấy là như vậy.
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị mang đại y (Sanghati) chỉ tùy thuộc vào mang đại y. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị lõa thể chỉ tùy thuộc vào lõa thể. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống thoa bụi và đất chỉ tùy thuộc vào hạnh thoa bụi và đất. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống theo lễ nghi tắm rửa chỉ tùy thuộc vào lễ nghi tắm rửa. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống dưới gốc cây chỉ tùy thuộc vào hạnh sống dưới gốc cây. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị sống ngoài trời chỉ tùy thuộc vào hạnh sống ngoài trời. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của người theo hạnh đứng thẳng chỉ tùy thuộc vào hạnh đứng thẳng. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của một vị ăn uống có định kỳ chỉ tùy thuộc vào hạnh ăn uống có định kỳ. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của người sống theo chú thuật chỉ tùy thuộc vào hạnh sống theo chú thuật. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của vị bện tóc chỉ tùy thuộc vào hạnh bện tóc.
Này các Tỷ-kheo, nếu lòng tham dục của người có tâm tham dục được đoạn diệt chỉ nhờ vào hạnh mang đại y của người mang đại y, nếu lòng sân của người có tâm sân được đoạn diệt, nếu lòng phẫn nộ của người có tâm phẫn nộ được đoạn diệt, nếu lòng hiềm hận của người có tâm hiềm hận được đoạn diệt, nếu lòng giả dối của người có tâm giả dối được đoạn diệt, nếu lòng não hại của người có tâm não hại được đoạn diệt, nếu lòng tật đố của người có tâm tật đố được đoan diệt, nếu lòng xan lẫn của người có tâm xan lẫn được đoạn diệt, nếu lòng man trá của người có tâm man trá được đoạn diệt, nếu lòng xảo trá của người có tâm xảo trá được đoạn diệt, nếu lòng ái dục của người có tâm ái dục được đoạn diệt, nếu tà kiến của người có tà kiến được đoạn diệt, (chỉ nhờ hạnh mang đại y của người mang đại y), thì những thân hữu quyến thuộc, bà con cùng một huyết thống có thể khiến người đó mang đại y ngay khi người đó mới sanh, và khuyên người đó mặc đại y như sau: “Này hiền nhi, hãy mang đại y, nếu mang đại y thì lòng tham dục của người có tâm tham dục, sẽ được đoạn diệt, lòng sân của người có tâm sân sẽ được đoạn diệt, lòng giả dối của người có tâm giả dối sẽ được đoạn diệt, lòng não hại của người có tâm não hại sẽ được đoạn diệt, lòng tật đố của người có tâm tật đố sẽ được đoạn diệt, lòng xan lẫn của người có tâm xan lẫn sẽ được đoạn diệt, lòng man trá của người có tâm man trá sẽ được đoạn diệt, lòng xảo trá của người có tâm xảo trá sẽ được đoạn diệt, lòng ái dục của người có tâm ái dục sẽ được đoạn diệt, tà kiến của người có tà kiến sẽ được đoạn diệt chỉ nhờ mang đại y. “Này các Tỷ-kheo, bởi vì Ta thấy có người mang đại y nhưng vẫn có tâm tham dục, có tâm sân hận, có tâm phẫn nộ, có tâm giả dối, có tâm não hại, có tâm tật đố, có tâm xan lẫn, có tâm man trá, có tâm xảo trá, có tâm ái dục, có tâm tà kiến, nên Ta không nói rằng, Sa-môn hạnh của người có tham dục chỉ tùy thuộc vào hạnh mang đại y của vị ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu lòng tham dục của người có tâm tham dục được đoạn diệt chỉ nhờ hạnh lõa thể của người lõa thể... chỉ nhờ hạnh thoa bụi và đất của người sống theo hạnh thoa bụi và đất... chỉ nhờ hạnh lễ nghi tắm rửa của người sống theo hạnh lễ nghi tắm rửa... chỉ nhờ hạnh sống dưới gốc cây của người sống dưới gốc cây... chỉ nhờ hạnh sống ngoài trời của người sống ngoài trời... chỉ nhờ hạnh sống đứng thẳng của người sống đứng thẳng... chỉ nhờ hạnh ăn uống có định kỳ của người sống ăn uống có định kỳ... chỉ nhờ hạnh sống theo chú thuật của người sống theo chú thuật... Này các Tỷ-kheo, nếu lòng tham dục của người có tâm tham dục đoạn diệt chỉ nhờ hạnh bện tóc của người sống theo hạnh bện tóc; nếu lòng sân hận của người có tâm sân hận... (như trên)..., nếu tà kiến của người có tà kiến được đoạn diệt (chỉ nhờ hạnh của người sống theo hạnh bện tóc), thì những thân hữu quyến thuộc, bà con cùng một huyết thống có thể khiến người đó bện tóc ngay khi người đó mới sinh, và khuyên người đó bện tóc như sau: “Này hiền nhi, hãy bện tóc; nếu bện tóc thì lòng dục của người có tâm tham dục sẽ được đoạn diệt, lòng sân hận của người có tâm sân hận... nếu tà kiến của người có tà kiến sẽ được đoạn diệt, chỉ nhờ sống theo hạnh bện tóc”. Này các Tỷ-kheo, bởi vì Ta thấy có người theo hạnh bện tóc nhưng vẫn có tâm tham dục, có tâm sân hận, có tâm phẫn nộ, có tâm giả dối, có tâm não hại, có tâm tật đố, có tâm xan lẫn, có tâm man trá, có tâm xảo trá, có tâm ái dục, có tà kiến, nên Ta không nói rằng Sa-môn hạnh của người theo hạnh bện tóc chỉ tùy thuộc vào hạnh bện tóc của vị ấy.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn? Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo có tâm tham dục và lòng tham dục được đoạn diệt, có tâm sân và lòng sân hận được đoạn diệt, có tâm phẫn nộ và lòng phẫn nộ được đoạn diệt, có tâm hiềm hận và lòng hiềm hận được đoạn diệt, có tâm giả dối và lòng giả dối được đoạn diệt, có tâm não hại và lòng não hại được đoạn diệt, có tâm tật đố và lòng tật đố được đoạn diệt, có tâm xan lẫn và lòng xan lẫn được đoạn diệt, có tâm man trá và lòng man trá được đoạn diệt, có tâm xảo trá và lòng xảo trá được đoạn diệt, có tâm ái dục và lòng ái dục được đoạn diệt, có tà kiến và tà kiến được đoạn diệt... Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, nếu vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn, thì có thể đoạn diệt được những cấu uế cho Sa-môn, những tỳ vết cho Sa-môn, những lỗi lầm cho Sa-môn, đọa sanh vào đọa xứ, sự thọ lãnh các ác thú. Vị ấy thấy tự ngã được gột sạch tất cả những ác, bất thiện pháp và vị ấy thấy tự ngã được giải thoát. Do thấy tự ngã được gột sạch tất cả những ác, bất thiện pháp ấy, do thấy tự ngã được giải thoát nên hân hoan sanh; do tâm hân hoan nên hỷ sanh; do hỷ nên thân được khinh an; do thân khinh an nên lạc thọ sanh; do lạc thọ nên tâm được định tĩnh. Vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy, phương thứ ba, cũng vậy, phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận không sân. Với tâm câu hữu với bi... (như trên)... với tâm câu hữu với hỷ... an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp đẽ. Nếu có người từ phương Đông đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước. Người ấy đi đến hồ sen ấy giải trừ khát nước và giải trừ nóng bức. Nếu có người từ phương Tây đi đến... nếu có người từ phương Bắc đi đến, nếu có người từ phương Nam đi đến, nếu có người từ bất cứ ở đâu đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước, người ấy đi đến hồ sen ấy, giải trừ khát nước, giải trừ nóng bức. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có người từ gia đình Sát đế lỵ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đi đến Pháp luật do Như Lai thuyết dạy, sau khi tu tập từ, bi, hỷ, xả, nội tâm được định tĩnh... Ta nói rằng chính nhờ nội tâm định tĩnh, vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn. Nếu vị ấy từ gia đình Bà-la-môn... từ gia đình Phệ xá (Vessa)... từ gia đình Thủ đà (Sudda), xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đi đến Pháp luật do Như Lai thuyết dạy, sau khi tu tập từ, bi, hỷ, xả, nội tâm được định tĩnh... Ta nói rằng chính nhờ nội tâm định tĩnh, vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa-môn. Nếu từ gia đình Sát đế ly, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau khi đi đến Pháp luật do Như Lai thuyết dạy, nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ và thành đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị ấy thành Sa-môn nhờ đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu từ gia đình Bà-la-môn... từ gia đình Phệ xá... từ gia đình Thủ đà, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau khi đi đến Pháp luật do Như Lai thuyết dạy, nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ và thành đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, vị ấy thành Sa-môn nhờ đoạn diệt các lậu hoặc.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
TIỂU KINH XÓM NGỰA, THỨ BỐN MƯƠI HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________________________
>>> 39. Đại kinh Xóm Ngựa
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ. Đây là bản lưu hành phổ biến nhất trong giới Phật tử Nhật bản, Chân ngôn tông (Shingon), Thiên thai tông (Tendai) và Thiền tông (Zen).[42]Chủ đích của thiên luận này là khảo sát xem Tâm kinh giữ một địa vị quan trọng như thế nào trong giáo pháp của Thiền tông. Do đó, cũng nên có một kiến thức khá về chính bản kinh đó. Vì ngắn, nên dưới đây sẽ giới thiệu toàn thể nguyên bản Sanskrit cùng với bản Hán dịch của Huyền Trang, kèm theo là bản dịch Anh ngữ từ nguyên bản Sanskrit.
F. Max Muller đã hiệu đính và ấn hành Tâm kinh Bát-nhã vào năm 1884, từ bản lá bối cổ lưu trữ ở Nhật.[43] Nhưng bản dưới đây căn cứ trên bản Phạn Hán[44] của Huyền Trang với một ít thay đổi dựa trêncác bản Hán dịch khác. Huyền Trang dịch Tâm kinh (Hṛdaya) ra chữ Hán vào năm 649, được soạn tập vào ấn bản Đại tạng kinh Taishō, số hiệu 251,[45] với bài tựa ngự chế của Vua nhà Minh. Nhưng bản này hình như không được dịch từ bản Sanskrit của Huyền Trang, số hiệu 256, vì cả hai không phù hợpnhau mấy.
(Essays III 190)
[ saṃkṣiptamātṛkā ]
// namaḥ sarvajñāya //
āryāvalokiteśvarabodhisattvo gambhīrāṃ[47] prajñāpāramitācaryāṃ[48] caramāṇo vyavalokayati sma / pañca skandhāḥ, tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati sma //
iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam / rūpān na pṛthak śūnyatā, śūnyatāyā na pṛthag rūpam / yad rūpaṃ sā śūnyatā, yā śūnyatā tad rūpam //
evam eva vedanāsaṃjñāsaṃskāravijñānāni //
iha śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā anutpannā aniruddhā amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ / tasmāc chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpam, na vedanā, na saṁjñā, na saṃskārāḥ, na vijñānāni / na cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi, na rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ / na cakṣurdhātur yāvan na manodhātuḥ //na vidyā nāvidyā na vidyākṣayo nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo na duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptir nābhisamayas tasmād aprāptitvāt[49]//
boddhisattvasya[50] prajñāpāramitām āśritya viharato’ cittāvaraṇaḥ[51] / cittāvaraṇanāstitvād atrasto viparyāsātikrānto niṣṭhanirvāṇaḥ / tryadhvavyavasthitāḥ sarvabuddhāḥ prajñāpāramitām āśritya anuttarāṃ samyaksaṃbodhim abhisaṃbuddhāḥ
tasmāj jñātavyaḥ prajñāpāramitā mahāmantro mahāvidyāmantro ‘nuttaramantro ‘samasamamantraḥ
sarvaduḥkhapraśamanaḥ satyam amithyatvāt/ prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ / tadyathā gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā //
iti prajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ samāptam
般若波羅蜜多心經
(Taishō No 251)
唐三藏法師玄奘譯
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識 亦復如是。舍利子。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無 明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢 想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛 故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰
揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶
般若波羅蜜多心經
Khi (1) Bồ-tát Quán Tự tại (Avalokitésvara) thực hành tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm,[53] trực nhậnrằng, có năm uẩn (skandha)(2); và thấy năm uẩn đó không có tự tính trong chúng(3).
“Này Xá-lợi-phất (Śāriputra), sắc ở đây là không(4), không là sắc; sắc không khác không, không khôngkhác sắc; sắc tức thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy.”
“Này Xá-lợi-phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng là không : chúng không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá-lợi-phất, trong tính Khôngkhông có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức(5), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc(6), thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới(7), cho đến(8) không có ý thức giới; không có minh, không có vô minh(9), không có sự diệt tận của minh, không có sự diệt tận vô minh[54] cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ(10),tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng,++ bởi vì không có đắc.[55] Không có những chướng ngại+++trong tâm của Bồ-tát an trụ do y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật;[56] và bởi vì không có những chướng ngạitrong tâm mình, Ngài không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt đến Niết-bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãntối thượng.”
“Vì vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là đại thần chú (mantra), là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, có thể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chúđược công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật: gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi, svāhā!” (Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, Svāha!).
CHÚ THÍCH (Suzuki)
(1) Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hṛdaya (Tâm kinh): một bản được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng bản. Bản dịch ở trên, của bản lược, thông dụng ở Trung hoa và Nhật bản.
Đoạn mở đầu của Quảng bản trong nguyên bản Phạn ngữ và Tạng ngữ được tiết lược trong bản Lược như sau:
[Bản Tạng ngữ có thêm một đoạn: “Kính lễ Bát-nhã ba-la-mật vượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính như hư không, không sinh, không diệt, là cảnh giới của huệ và giới, hiển nhiên trong nội tâm chúng ta, và là mẹ của hết thảy các đấng Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai.”] “Tôi nghe như vậy. Một thời, đức Thế Tôn ngự tại thành Vương xá (Rājagṛha), trên đỉnh Linh thứu (Gṛdhrakūta), cùng với đại chúng Tì khưu và Bồ-tát. Bấy giờ đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giác thậm thâm.[57] Và cùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara) đang thực hành tu tập trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.”[58]
Đoạn kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:
“Này Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thực hành trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời khỏi Tam muội và tán dương Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại rằng: “Lành thay, lành thay, thiện nam tử! đúng như vậy! Sự tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực hành như vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và [59] A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế Tôn hoan hỉ nói như thế. Trưởng lão Xá-lợi-phất và Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thểchúng hội, và thế giới của chư Thiên, loài người, A-tu-la (Asura) và Càn-thát-bà (Gandharva), tất cả đều ca ngợi lời của đức Thế Tôn.”
(2) Nhìn từ quan điểm khoa học hiện đại, khái niệm về Skandha (uẩn) có vẻ quá mơ hồ và bất định. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng nguyên tắc phân tích của đạo Phật không phát xuất từ hứng thú khoa học suông; nó có mục đích giải cứu chúng ta ra khỏi ý tưởng về một thực tại cá biệt với ảo tưởng là nóhiện hữu như thế suốt mọi thời. Vì khi ý tưởng này được nhận làm cứu cánh, thì vướng mắc phải cái sai lầm của sự chấp trước,và chính do chấp trước đó đã từng bắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực ngoại giới. Năm uẩn (skandha) (các tập hợp thể, hay các yếu tố) là: sắc chất (rūpa), cảm thọ hay tri giác giác quan (vedanā), suy tưởng (saṁjñā), tập thành hay sự tác thành (saṁskāra), và thức (vijñāna). Uẩn thứ nhất là thế giới vật chất hay chất thể của mọi vật; bốn uẩn còn là thuộc về tâm giới. Vedanā xuất hiệnqua các quan năng của chúng ta; saṁjñā, suy tưởng hay tư duy (thought) theo nghĩa rộng nhất, không có từ ngữ tương xứng ở Anh ngữ; hay nó là cái mà tâm phức biến; saṁskāra là một từ rất khó, không có tương đương trong Anh ngữ; nó chỉ cho cái tạo nên hình chất, là nguyên lý tạo hình; vijñāna là thức hay tâm thái. Có những hình thái của tâm thái khá rõ như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và nghĩ tưởng.
(3) Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “(Vị ấy) thoát khỏi tất cả khổ ách 度一切苦厄.”
(4) Không (śūnya) hay “tính Không” (śūnyatā) là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa và đồng thời cũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc giả ngoài đạo Phật. Tính Không không có nghĩa là “tương đối tính“ (relativity) hay “hiện tượng tính“ (phenomenality), hay “cái không chi.” (nothingness). Nó chỉ cho Tuyệt đối thể, hay cái gì có bản tính siêu việt, dù nói thế cũng dẫn đến sai lầm như chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi các nhà Phật học tuyên bố hết thảy mọi vật đều Không, họ không xướng xuất một quan điểm hư vô luận; ngược lại nó hàm ngụ một thực tại tối hậu, vốn không thể đặt dưới các phạm trù luận lý. Với các phạm trù đó, nếu nói đến tính cách hữu vi của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện hữu của cái hoàn toàn vô vi siêu việt tất cả mọi xác định. Śūnyatā như thế thông thường cũng được diễn dịch rất chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn có đặc tướng (yếu tính) là Không (Không tướng), hay trong tính Không, không có sinh và diệt, không có nhiễm, tịnh, v.v…, thì có nghĩa rằng: đừng có gán cho Tuyệt đối thể những phẩm tính quyết định; trong khi nó tiềm tại trong tất cả mọi vật thể cụ thể và cá biệt, nó hoàn toàn không thể định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong triết lý Bát-nhã là một hệ quả tất yếu.
(5) “Không có mắt, tai, v.v…” chỉ cho sáu quan năng. Trong triết học Phật giáo, ý thức (manovijñāna) là quan năng đặc biệt để tri nhận các pháp (dharma) hay các đối tượng của tư tưởng.
(6) “Không có sắc, thanh. v.v…” là sáu phẩm chất của ngoại giới, chúng làm đối tượng cho sáu quan năng.
(7) “Nhãn giới v.v…,” chỉ cho mười tám giới (dhātu) hay các yếu tố của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya: căn), sáu phẩm tính (viṣaya: cảnh) và sáu thức (vijñāna).
(8) “Cho đến” (Skt: yāvat; Hán: nãi chí 乃至), rất thông dụng trong văn học Phật giáo dùng để tránh lặp lại những đề tài đã biết. Những lối phân loại này hơi có vẻ phức tạp và chồng chéo.
(9) “Không có minh, không có vô minh…” là phủ định toàn bộ 12 chi duyên khởi (pratītyasamutpāda), gồm vô minh (avidyā), hành (saṁskāra), thức (vijñāna), danh sắc (nāma-rūpa), sáu xứ (ṣaḍāyatana), ái (tṛṣṇā), thủ (upādāna), hữu (bhava), sinh (jāti), già và chết (jarāmaraṇa). 12 chi duyên khởi này đã được các học giả đạo Phật thảo luận rất nhiều.
(10) Đương nhiên ám chỉ bốn Thánh đế (satya): 1. Đời sống là đau khổ (duḥkha); 2. Do sự tích tập (samudaya) của các nghiệp xấu; 3. Có thể diệt tận nguyên nhân của khổ (nirodha); 4. Có con đường(mārga) dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.
Quán Tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiếtkhổ ách.
Xá-lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-lợi Tử, thị chư pháp Không tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm; thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tửtận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật, bất hư cố; thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ đề, tăng sa-ha.
Bồ-tát Quán Tự tại trong khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ ách.
Xá-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Xá-lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấy không sinh,[61] không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong Không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ-đề-tát-đỏa, do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bị bưng kín. Do không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảo và mộng tưởng, đạt đến Niết-bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đờido y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Do đó nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là minh chú vĩ đại, là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú rằng: yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha.
* Các chú thích một phần do chính tác giả; một số khác là tham chiếu của dịch giả. Những chú thích tham chiếu này đều có ghi TS.
[42] Nhật bản, kinh được gọi là Hannya Shingyô 般若心經 hay nói gọn là Shingyô 心經. Tại một thiền viện, kinh được tụng trong mọi thời. Có nhiều bản chú giải và các thiền sư thường cho một khóa giảng về kinh này.
[43] Thủ bản lưu trữ từ năm 609 tại chùa Hôryoji (法隆寺 Pháp long tự), Yamato, một trong những ngôi chùa tối cổ ở Nhật. Nó khá hấp dẫn về mặt khảo cổ vì cung cấp chúng ta “dạng bản tối cổ của mẫu tự Sanskrit được dùng cho các mục đích văn học.” Người ta nói thủ bản này được Bồ-đề đạt-ma mang vào Trung hoa, rồi sau đó tới Nhật bản.
[44] Bản Phạn-Hán, có nghĩa là bản phiên âm từ tiếng Sankrit sang tiếng Trung hoa, ấn hành trong Đại tạng Taishô, tập VIII, số hiệu 256: Đường Phạn phiên đối tự âm Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh 唐梵翻對字音般 若波羅蜜多心經, Quán Tự tại Bồ tát trực tiếp truyền cho Tam tạng Pháp sư Huyền Trang bản Phạn không nhuận sắc. TS
[45] T8n251, tr. 848c4 Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh 般若波羅蜜多心經, Đường Tam tạng Pháp sưHuyền Trang dịch 唐三藏法師玄奘譯. )
[46] Phiên âm theo bản Devanāgari của Suzuki, tham chiếu Mahāyāna-sūtra-saṁgraha, ed. By Vaidya, The Mithila Institute, 1961, p.97.
[47] Vaidya: gambjīrāyāṃ. TS
[48] Vaidya: prajñāpāramitāyāṃ caryāṃ. TS
[49] Vaidya: na jñānaṁ na prāptitvam. TS
[50] Vaidya: bodhisattvasya(śca?). TS
[51] Vaidya: viharati cittāvaraṇaḥ. TS
[52] Bản Việt này cố gắng dịch sát theo bản Anh làm cơ sở tham chiếu cho các bản Hán dịch. Các chú thích trong phần cước chú là của người dịch được đánh dấu hoa Ả-rập (không ngoặc). Một số cước chú của tác giả (Suzuki) được đánh dấu thập (+). Chú thích của tác giả (Suzuki) được được đánh số Ả-rập trong ngoặc đơn ghi ở cuối bản dịch Việt này.
+ Có hai điểm đáng lưu ý trong đoạn dịch này: 1) Bản Hán của Huyền Trang: chiếu kiến ngũ uẩn giai không 照見五蘊皆空; bản Hán của Cưu-ma-la-thập: chiếu kiến ngũ ấm không 照見五陰空; khác với lối nói: soi thấy có năm uẩn (ấm) rồi mới thấy tự tánh của chúng là không. 2) Cả hai bản Hán vừa dẫn đều có câu: vượt qua mọi khổ ách 度一切苦厄, tức nói tới hiệu lực của Bát-nhã. Bản Sanskrit hiện hành và bản phiên âm Taishô VIII, No 256 đều không có câu này. TS
[53] Chữ Hán: thị chư pháp Không tướng 是諸法空相. Phạn: iha … sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā, “ở đây, tất cả các pháp vốn có đặc tướng (=yếu tính) là tính không.” Ý nghĩa chữ này, có thể đọc nơi luận VI, đoạn nói về 8 cái Không. (TS).
[54] Các bản Hán đã dẫn: vô vô minh, diệc vô vô minh tận 無無明。亦無無明盡, không có vô minh và cũng không có sự chấm dứt của vô minh. Đoạn dịch trên tương đương với bản phiên âm Phạn Hán đọc được trong Taishō như sau: na vidyā nāvidya na vidyākṣhayo nāvidyākṣayo. TS.
++ Nābhisamayaḥ (không hiện quán hay hiện chứng - TS), không có trong các bản Hán dịch cũng như trong thủ bản chùa Pháp long.
[55] Hán: dĩ vô sở đắc cố (Skt. aprāptitvāt), một số chú giải đặt nhân do này lên đoạn trên như bản dịch Anh; một số khác đưa xuống đoạn sau. Prāpti (đắc) và aprāpti (phi đắc) là hai trong số các hành khôngtương ưng tâm (citta-viprayuktāḥ saṁskārāḥ). Kośa-Bhāṣya, k. ii. 36c-d: dvidhā hi prāptir aprāptaviḥīnasya ca lābhaḥ pratilabdhena ca samanvāgamaḥ, “đắc có hai: 1. sự thu hoạch (thủ đắc) những gì chưa có được hay những gì đã mất; 2. sự sở hữu (thành tựu, cụ túc) những gì đã có được mà chưa mất.” Chỉ khái niệm về sự hiện hữu của một phẩm tính nơi một nhân cách. Nói một người “đắc quả A-la-hán” là khi phẩm tính A-la-hán hiện hữu nơi vị ấy do đó nhân cách vị ấy được biết như là một Thánh giả A-la-hán. Trong bản Hán, prāpti được dịch là sở đắc, “cái được thủ đắc.” TS
+++ Chữ varaṇa, tất cả các bản Hán đều nói “quái ngại” và như thế hoàn toàn hợp với giáo pháp của Bát nhã. Max Muller dịch Anh ngữ “envelop”, bao trùm.
[56] Hán: Bồ-tát y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố tâm vô quái ngại 依般若波羅蜜多故。心無罣礙: Bồ tát do nương trên Bát-nhã ba-la-mật-đa nên tâm không quái ngại. Skt. bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya viharato’ cittāvaraṇaḥ, sau khi y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ tát, (vị ấy=hành giả) an trụ với tâm không bị chướng ngại (trùm kín). TS
[57] Skt. gambīrāvasaṁbodhaṁ nāma samādhiṁ; Hán, T8n253: tam-muội tên là Quảng đại thậm thâm三昧名廣大甚深; T8n254: tam-ma-địa danh Quảng đại thậm thâm chiếu kiến; 三摩地名廣大甚深照見; T8n255: Nhập thậm thâm minh liễu tam-ma-địa pháp 入甚深明了三摩地法. TS
[58] Skt. gambīrayāṁ prajñāpāramitāyāṁ caryāṁ caramaṇo, ngữ pháp, biến cách số 6, chỉ nơi chốn. Ở đây được hiểu là sự tu tập trong Bát-nhã ba-la mật-đa, là sở y chứ không phải đối tượng. TS
[59] Dịch sát bản Anh: by Tathāgatas and Arhats. Skt. tathāgatair arhadbhiḥ, trong đây, A-la-hán được hiểu là một phẩm đức của Như Lai. TS
[60] Bản dịch Việt này cố dịch sát theo bản Hán, theo sự lãnh hội phổ thông để có thể so sánh với một vài dị biệt có thể có trong bản Phạn hiện hành. TS
[61] Dịch theo cách ngắt câu khắc: “Xá-lợi-phất, các pháp, mà yếu tính là Không (Không tướng), vốn không sinh,… „
(Mahassapurasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Anga (Ương-già), tại một xã ấp của dân chúng Anga, tên là Assapura. Lúc bấy giờ Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Sa-môn! Sa-môn! Này các Tỷ-kheo, dân chúng biết các Ông là vậy. Và nếu các Ông được hỏi: “Các Ông là ai!” Các Ông phải tự nhận: “Chúng tôi là Sa-môn”. Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được danh xưng như vậy, đã tự nhận là như vậy, thì này, các Tỷ-kheo, các Ông phải tự tu tập như sau: “Chúng ta sẽ thọ trì và thực hành những pháp tác thành Sa-môn, những pháp tác thành Bà-la-môn. Như vậy, danh xưng này của chúng ta mới chân chánh và sự tự nhận này của chúng ta mới như thật. Và những đồ cúng dường mà chúng ta thọ hưởng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh mới có được kết quả lớn, lợi ích lớn cho chúng ta. Và chúng ta xuất gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích”.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp tác thành Sa-môn, và các pháp tác thành Bà-la-môn? “Chúng ta sẽ thành tựu tàm quý”, như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng ta đã đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải làm hơn nữa”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các Ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? “Thân hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì thân hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng ta đã đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải làm hơn nữa”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố cho các ông: Khi các Ông hướng đến mục đích Sa-môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? “Khẩu hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì khẩu hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ; đến mức độ này, như vậy đã làm xong. Chúng ta đã đạt được mục đích Sa-môn hạnh. Chúng ta không có gì phải làm hơn nữa”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? “Ý hành chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì ý hành thanh tịnh ấy, khen mình, chê người”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và ý hành thanh tịnh, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là công việc đáng phải làm hơn nữa? “Sanh mạng chúng ta phải được thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì sanh mạng thanh tịnh ấy, khen mình, chê người”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh. Đến mức độ này như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? “Chúng ta phải hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, và các căn đã được hộ trì, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? “Chúng ta phải biết tiết độ trong ăn uống, với chánh tư duy, chúng ta thọ thực, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy chúng ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh và các căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào la các công việc đáng phải làm hơn nữa? “Chúng ta phải chú tâm cảnh giác. Ban ngày đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh giữa, chúng ta phải nằm dáng nằm con sư tử, nghiêng bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến lúc thức dậy lại. Ban đêm canh đầu thức dậy, đi kinh hành (hay) trong lúc ngồi, chúng ta phải tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, các căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? “Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu tập. Nhưng này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: “Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, các căn đã được hộ trì, ăn uống có tiết độ, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, đến mức độ này, như vậy là vừa đủ... (như trên)... ”. Và cho đến mức độ ấy, các Ông có thể tự thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các Ông... (như trên)... khi đang còn công việc đáng phải làm hơn nữa.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Này các Tỷ-kheo, như một người mắc nợ liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia mắc nợ nên làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những trả được những nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ”. Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục”. Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. “Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy sau một thời gian thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do đi lại.
Người ấy nghĩ: “Ta trước kia bị cảnh nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Nay ta thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát, được tự do đi lại”. Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua bãi sa mạc. Người ấy sau một thời gian đã đi khỏi bãi sa mạc ấy, đến đầu làng, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua bãi sa mạc. Nay ta đã đi qua khỏi bãi sa mạc ấy, yên ổn, không có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm”. Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ-kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ.
Sau khi đã đoạn trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này các Tỷ-kheo, ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này lại trở về làng của mình, người ấy nghĩ: “Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây, ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đã trở về làng của ta”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến, Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... (như trên)... Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này các Tỷ-kheo, ví như có hai nhà có cửa, và ở đây, một người có mắt đứng ở giữa, người này có thể thấy các người (khác) đi vào nhà, đi ra, đi qua, đi lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang... đều do hạnh nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm, đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: “Đây là khổ”, biết như thật: “Đây là Nguyên nhân của Khổ”, biết như thật: “Đây là sự Diệt khổ”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này các Tỷ-kheo, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: “Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết như thật: “Đây là khổ... biết như thật: “Đây là Con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc!” Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát, vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần phải làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy được gọi là Sa-môn, là Bà-la-môn, là vị đã tắm sạch sẽ, là vị đã biết và hiểu rõ, là bậc có học, là bậc Thánh, là bậc A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, như thế nào, Tỷ-kheo là Sa-môn? Vị này đã làm cho dừng lại các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Sa-môn. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo là Bà-la-môn? Vị này đã tẩn xuất ra ngoài các ác, các pháp bất thiện, những pháp này ô nhiễm, đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến sanh già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là Bà-la-môn. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào Tỷ-kheo đã tắm sạch sẽ? Vị này đã tắm gội sạch sẽ các ác, các pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã tắm sạch sẽ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo đã biết và hiểu rõ? Vị này đã biết và hiểu rõ các ác, các pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã biết rõ. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo có học? Vị này đã tiêu diệt các ác, các pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có học. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh? Vị này đã làm cho xa lìa các ác pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được gọi là bậc Thánh. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo được gọi là bậc A-la-hán? Vị này đã làm cho xa lìa các ác, các pháp bất thiện... đưa đến sanh, già, chết trong tương lai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
ĐẠI KINH XÓM NGỰA, THỨ BA MƯƠI CHÍN HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________________
>>> 38. Đại kinh Đoạn Tận Ái
Lời tựa: Nhân dịp tình cờ tìm thấy văn bản Prajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ (Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) ở mạng internet nên chúng tôi có ý định tìm hiểu xem ý nghĩa bản văn với mục đích trau dồi thêm về phương diện ngôn ngữ. Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit. Những điểm sai sót do thiếu hiểu biết về các lãnh vực khác, ngưỡng mong quý vị hỷ xả cho.
(http://www12.canvas.ne.jp/horai/heart-skt.gif)
***
BÁT NHÃ TÂM KINH
(SANSKRIT - DỊCH ÂM - DỊCH NGHĨA)
***
॥ प्रज्ञापारमिताहृदयसूत्रम् ॥
Prajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ
Kinh Giảng về Yếu Lý của Trí Tuệ Đến Bờ Kia (Bát Nhã Ba La Mật)
॥ नमः सर्वज्ञाय ॥
Namaḥ sarvajñāya.
Kính lễ đấng Toàn Tri.
आर्यावलोकितत्तेश्वरबोधिसत्त्वो
गंभीरायं प्रज्ञापारमितायं चर्यां चरमाणो
व्यवलोकयति स्म । पंच स्कन्धाः ।
तांश्च स्वभावशून्यान्पश्यति स्म ।
āryāvalokiteśvarabodhisattvo
gaṃbhīrāyaṃ prajñāpāramitāyaṃ caryāṃ caramāṇo
vyavalokayati sma. paṃca skandhāḥ.
tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati sma.
Bồ Tát Avalokiteśvara thánh thiện
trong khi thực hành hạnh Ba-la-mật thâm sâu về Trí Tuệ
đã quan sát kỹ lưỡng năm uẩn
và đã nhìn thấy chúng có trạng thái KHÔNG ở bản thể.[1]
इह शारिपुत्र रूपं शून्यता शून्यतैव रूपं रूपान्न पृथक् शून्यता शून्याताया न
पृथग्रूपं यद्रूपं सा शून्यता या शून्यता तद्रूपं । एवमेव वेदनासंज्ञासंस्कारविज्ञानानि ।
iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā śūnyataiva rūpaṃ, rūpān na pṛthak śūnyatā śūnyātāyā na pṛthag rūpaṃ yad rūpaṃ sā śūnyatā yā śūnyatā tad rūpaṃ. evameva vedanā-saṃjñā-saṃskāravijñānāni.
Này Śāriputra, ở đây SẮC là trạng thái KHÔNG, chính trạng thái KHÔNG là SẮC; trạng thái KHÔNG không tách rời khỏi SẮC, SẮC không tách rời khỏi trạng thái KHÔNG; cái nào là SẮC, cái ấy là trạng tháiKHÔNG; cái nào là trạng thái KHÔNG, cái ấy là SẮC. Tương tợ y như thế là các THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC.[2]
इह शारिपुत्र सर्वधर्माः शून्यतालक्शणा अनुत्पन्ना अनिरुद्धा अमला न विमला नोना न परिपूर्णाः ।
iha śāriputra sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā anutpannā aniruddhā amalā avimalā nonā na paripūrnāḥ.
Này Śāriputra, ở đây tất cả các pháp có trạng thái KHÔNG là tướng trạng, thì không được sanh ra, không bị hoại diệt, không vết nhơ, không phải là khỏi bị vết nhơ, không là vơi, không bị tràn đầy.
न विद्या नाविद्या न विद्याक्षयो नाविद्याक्षयो यावन्न जरामरणं न जरामरणक्षयो न दुःखसमुदयनिरोधमार्गा न ज्ञानं न प्राप्तिरप्राप्तित्वेन ।
na vidyā nāvidyā na vidyākṣayo nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo na duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptiraprāptitvena.
không là minh, không là vô minh, không là sự hoại diệt của minh, không là sự hoại diệt của vô minh, cho đến (các trạng thái) không là già và chết, không là sự hoại diệt của già và chết, không là Khổ-Tập-Diệt-Đạo, không là trí, không là sự đạt đến cùng với trạng thái không đạt đến.[3]
तस्माच्छारिपुत्र शूयतायां न रूपं न वेदना न संज्ञा न संस्कारा न विज्ञानानि । न चक्षुःश्रोत्रघ्राणजिह्वाकायमनांसि । नरूपशब्दगंधरसस्प्रष्टव्यधर्माः । न चक्षुर्धातुर्यावन्न
ननोविज्ञानधातुः ।
tasmācchāriputra śūnyatāyām na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārā na vijñānāni. na cakṣuḥ-śrotra-ghrāṇa-jihvā-kāya-manāṃsi. na rūpa-sabda-gandha-rasa-spraṣṭavya-dharmāḥ. na cakṣur-dhātur yāvan na manovijñāna-dhātuḥ.
Này Śāriputra, vì thế ở trạng thái KHÔNG không có sắc, không có thọ, không có tưởng, không có các hành, không có các thức, không có các mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không có các sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
बोधिसत्त्वस्य प्रज्ञापारमितामाश्रित्य विहरत्यचित्तावरण: ।
चित्तावरणनास्तित्वादत्रस्तो विपर्यासातिक्रान्तो निष्ठनिर्वाणः ।
त्र्यध्वव्यवस्थिताः सर्वबुद्धाः प्रज्ञापारमितामा श्रित्यानुत्तरां
सम्यक् संबोधिमभिसंबुद्धाः ।
bodhisattvasya prajñāpāramitām-āśritya viharatyacittāvaraṇaḥ. cittāvaraṇanāstitvād-atrasto viparyāsātikrānto niṣṭha-nirvāṇaḥ. tryadhva-vyavasthitāḥ sarvabuddhāḥ prajñāpāramitām-āśrityānuttarāṃ samyaksaṃbodhim-abhisaṃbuddhāḥ.
[4]Vị Bồ Tát, sau khi nương tựa vào Trí Tuệ Đến Bờ Kia, sống có sự không bị che lấp ở tâm; do không có sự hiện diện của sự che lấp ở tâm, (trở nên) không bị dao động, (được) vượt qua ảo tưởng, có Niết Bàn được hoàn mãn. Tất cả chư Phật hiện hữu ở ba thời (quá khứ-hiện tại-vị lai), sau khi nương tựa vào Trí Tuệ Đến Bờ Kia, thì được chứng đắc phẩm vị Toàn Giác vô thượng.
तस्माज्ज्ञातव्यो प्रज्ञापारमितामहामन्त्रो
महाविद्यामन्त्रो ऽनुत्तरमन्त्रो ऽसमसममन्त्रः सर्वदुःखप्रशमनः
सत्यममिथ्यत्वात् प्रज्ञापारमितायामुक्तो मन्त्रः ।
tasmāj-jñātavyo prajñāpāramitā-mahāmantro mahāvidyāmantro ’nuttaramantro ’samasamamantraḥ sarvaduḥkhapraśamanaḥ satyam-amithyatvāt prajñāpāramitāyām-ukto mantraḥ.
Vì thế, nên biết rằng: lời chỉ dạy[5] vĩ đại về Trí Tuệ Đến Bờ Kia là lời chỉ dạy về sự hiểu biết vĩ đại, lời chỉ dạy vô thượng, lời chỉ dạy không gì sánh bằng, có sự làm lắng dịu tất cả khổ đau, là sự thật bởi vìtính chất không sai trái, là lời chỉ dạy được nói ở Trí Tuệ Đến Bờ Kia.
तद्यथा गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा ॥
tadyathā gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā.
Điều ấy là như vầy: “Khi đã đi đến, khi đã đi đến, khi đã đi đến bờ kia, khi đã hội tụ ở bờ kia, phẩm vị Giác Ngộ là vật dâng hiến.”
(gá-têêê gá-têêê paaa-rá-gá-têêê paaa-rá-xămmm-gá-têêê bô-đơhí xơ-vaaa-haaa).[6]
॥ इति प्रज्ञापारमिताहृदयं समाप्तं ॥
iti prajñāpāramitā-hṛdayaṃ samāptaṃ.
Như vậy Yếu Lý của Trí Tuệ Đến Bờ Kia được đầy đủ.
***
[1] Ở các bản dịch từ tiếng Hán có thêm: “độ nhất thiết khổ ách/vượt qua mọi khổ ách.” Không thấy đoạn này ở các bản tiếng Anh.
[2] Ở đây đang nói về ngũ nẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
[3] So sánh với bản dịch từ tiếng Hán và tiếng Anh, thì văn bản này có sự đảo lộn thứ tự của đoạn này và đoạn kế.
[4] Ở các văn bản khác có thêm: tasmād aprāptitvād / Dĩ vô sở đắc cố / Bởi không sở đắc / Therefore, O Sariputra, by reason of his nonattainment (of nirvana).
[5] Từ mantra ở đây được ghi nghĩa Việt là “lời chỉ dạy” thay vì “chú thuật.” Sanskrit - English Dictionaryghi nghĩa của từ mantra như sau: “... ‘instrument of thought,’ speech, sacred text or speech, a prayer or song of praise ...”
[6] Thay vì theo âm của tiếng Hán “Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha” thì được ghi âm theo cách đọc của tiếng Sanskrit: Ví dụ: gá-têêê: gá = âm ngắn, têêê = âm dài, đọc là tê rồi kéo dài ra.
Nguồn: http://www.paliviet.info/Sanskrit/Skrt_BatNha.htm
Phiên bản PDF: BÁT NHÃ TÂM KINH (SANSKRIT - DỊCH ÂM - DỊCH NGHĨA) Dịch Việt: Nguyệt Thiên
(Mahatanha sankhaya suttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác”.
Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: “Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác”. Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá ở, khi đến xong liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá như sau:
– Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật chăng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng... (như trên)... nhưng không đổi khác”.
– Thật sự là vậy, chư Hiền, theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác.
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
– Hiền giả Sati, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi; không có duyên thì thức không hiện khởi.
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, dù được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy.
– Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruỗi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.
Vì các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con người đánh cá từ bỏ ác tà kiến ấy, nên các vị ấy đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruỗi, luân chuyển, nhưng không đổi khác”. Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: “Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruỗi, luân chuyển, nhưng không đổi khác”. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá ở, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:
“– Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng... nhưng không đổi khác”.
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá nói với chúng con như sau:
“– Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... nhưng không đổi khác.
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
“– Hiền giả Sati chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi.
“Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá dầu cho được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy:
“– Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, Thế Tôn thuyết giảng..., nhưng không đổi khác”.
Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
Rồi Thế Tôn cho gọi là một Tỷ-kheo khác:
– Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, gọi Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá: “Hiền giả Sati, bậc Đạo sư gọi Hiền giả”.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:
– Hiền giả Sati, bậc Đạo sư gọi Hiền giả.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá đang ngồi xuống một bên:
– Này Sati, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác”?
– Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruỗi, luân chuyển nhưng không đổi khác.
– Này Sati, thế nào là thức ấy.
– Bạch Thế Tôn, chính thức ấy nói cảm thọ, thọ lãnh chỗ này, chỗ kia, kết quả các hành động thiện ác.
– Này kẻ mê mờ kia, vì ai mà Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Này kẻ mê mờ kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói là thức do duyên khởi, không có duyên, thì thức không hiện khởi? Và này kẻ mê mờ kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông còn tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ mê mờ kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong Pháp, Luật này không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể có được, không thể được, bạch Thế Tôn.
Được nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, im lặng, hổ người, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn sau khi biết được Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đang im lặng, hổ ngươi, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá.
– Này kẻ mê mờ kia, người ta sẽ biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng giống như Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức?
– Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi, không có duyên, thức không hiện khởi.
– Lành thay, chư Tỷ-kheo, lành thay, chư Tỷ-kheo, các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy! Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi. Không có duyên, thức không hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, còn tự pháp hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho kẻ mê mờ ấy.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mà thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sanh, và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh và thức ấy có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên nào lửa sanh và lửa ấy có tên tùy theo duyên ấy: duyên củi, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa củi. Duyên vỏ gỗ bào, lửa sanh, lửa ấy gọi là vỏ bào. Duyên cỏ, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa cỏ. Duyên phân bò, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa phân bò. Duyên trấu, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa trấu. Duyên đống rác, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa đống rác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên, thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sanh, và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh, và thức ấy có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý thức.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sanh vật này không?
– Bạch Thế Tôn, có thấy.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy sự tác thành sanh vật do món ăn ấy không?
– Bạch Thế Tôn có thấy.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy cũng bị đoạn diệt không?
– Bạch Thế Tôn, có thấy.
– Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh.
– Sanh vật này có thể không có mặt?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt hay không bị đoạn diệt?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Sanh vật này có thể không có mặt.
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ diệt. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật có thể bị đoạn diệt hay không bị đoạn diệt?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, sự tác thành của món ăn ấy, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này) có phải các Ông khéo thấy, nhờ như thật chánh trí tuệ không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, sự hiện hữu của sanh vật ấy là do các món ăn ấy tác thành,... này, có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối với vấn đề này), có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
– Này các Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông chấp trước, lấy làm hãnh diện, truy cầu, xem là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để đưa vượt qua, không phải để nắm lấy.
– Bạch Thế Tôn, không.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy, nếu các Ông không chấp trước, không lấy làm hãnh diện, không truy cầu, không xem là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để đưa vượt qua, không phải để nắm lấy.
– Bạch Thế Tôn, có.
– Này các Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực hoặc thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực. Và này các Tỷ-kheo bốn món ăn này, lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm sanh chủng, lấy thọ làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm nguyên nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sanh chủng, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm nguyên duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm sanh chủng, lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Sáu nhập lấy danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi, lấy danh sắc làm sanh chủng, lấy danh sắc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức là tập khởi, lấy thức làm sanh chủng, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sanh chủng, lấy hành làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, các hành này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các hành lấy vô minh làm sanh chủng, lấy vô minh làm nguyên nhân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được hiện hữu. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
– Trước đã nói: Sanh duyên già, chết (Do duyên sanh nên già, chết hiện khởi). Này các Tỷ-kheo, sanh duyên già, chết có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, sanh duyên già, chết. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sanh duyên già, chết.
- Trước đã nói: hữu duyên sanh. Này các Tỷ-kheo, hữu duyên sanh có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, hữu duyên sanh. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hữu duyên sanh.
- Trước đã nói: Thủ duyên hữu. Này các Tỷ-kheo, thủ duyên hữu có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, thủ duyên hữu. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thủ duyên hữu.
– Trước đã nói: Ái duyên thủ. Này các Tỷ-kheo, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây, (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Ái duyên thủ.
– Trước đã nói: Thọ duyên ái. Này các Tỷ-kheo, thọ duyên ái có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, thọ duyên ái. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thọ duyên ái.
– Trước đã nói: Xúc duyên thọ. Này các Tỷ-kheo, xúc duyên thọ có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, xúc duyên thọ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Xúc duyên thọ.
– Trước đã nói: Sáu nhập duyên xúc. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập duyên xúc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, sáu nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sáu nhập duyên xúc.
– Trước đã nói: Danh sắc duyên sáu nhập. Này các Tỷ-kheo, danh sắc duyên sáu nhập có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, danh sắc duyên sáu nhập. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Danh sắc duyên sáu nhập.
– Trước đã nói: Thức duyên danh sắc. Này các Tỷ-kheo, thức duyên danh sắc có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, thức duyên danh sắc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thức duyên danh sắc.
– Trước đã nói: Hành duyên thức: Này các Tỷ-kheo, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, hành duyên thức. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hành duyên thức.
– Trước đã nói: Vô minh duyên hành. Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, vô minh duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Vô minh duyên hành.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: “Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh”, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Do vô minh đoạn diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Trước đã nói: Do sanh diệt nên già, chết diệt. Này các Tỷ-kheo, do sanh diệt nên già, chết diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do sanh diệt nên già, chết diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sanh diệt nên già, chết diệt.
– Trước đã nói: Do hữu diệt nên sanh diệt. Này các Tỷ-kheo, do hữu diệt nên sanh diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do hữu diệt nên sanh diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hữu diệt nên sanh diệt.
– Trước đã nói: Do thủ diệt nên hữu diệt. Này các Tỷ-kheo, do thủ diệt nên hữu diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thủ diệt nên hữu diệt.
– Trước đã nói: Do ái diệt nên thủ diệt. Này các Tỷ-kheo, do ái diệt nên thủ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do ái diệt nên thủ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do ái diệt nên thủ diệt.
– Trước đã nói: Do thọ diệt nên ái diệt. Này các Tỷ-kheo, do thọ diệt nên ái diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do thọ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do thọ diệt nên ái diệt.
– Trước đã nói: Do xúc diệt nên thọ diệt. Này các Tỷ-kheo, do xúc diệt nên thọ diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do xúc diệt nên thọ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do xúc diệt nên thọ diệt.
– Trước đã nói: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Này các Tỷ-kheo, do sáu nhập diệt nên xúc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt.
– Trước đã nói: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Này các Tỷ-kheo, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt.
– Trước đã nói: Do thức diệt nên danh sắc diệt. Này các Tỷ-kheo, do thức diệt nên danh sắc diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do thức diệt nên danh sắc diệt.
– Trước đã nói: Do hành diệt nên thức diệt. Này các Tỷ-kheo, do hành diệt nên thức diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Do hành diệt nên thức diệt.
– Trước đã nói: Do vô minh diệt nên hành diệt. Này các Tỷ-kheo, do vô minh diệt nên hành diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
– Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Do vô minh diệt nên hành diệt.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: “Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt”, như vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Này các Tỷ-kheo, các Ông nên biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời quá khứ, và suy nghĩ: “Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt như thế nào trong thời quá khứ”?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị lai, và suy nghĩ: “Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai”?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại: “Ta có mặt hay ta không có mặt. Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt, hình vóc như thế nào? Hữu tình này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu”?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: “Bậc Đạo sư quá nặng nề (?) đối với chúng ta. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Đạo sư”?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: “Một Sa-môn nói với chúng tôi như vậy, các Sa-môn khác cũng vậy(?), và còn chúng tôi không có nói như vậy”?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có tìm một vị Đạo sư khác không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có trở lui lại các giới cấm, tế tự (?) đàn tràng của các tục tử Sa-môn, Bà-la-môn (và nghĩ rằng) chúng là căn bản không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỷ-kheo, có phải các Ông chỉ nói những gì các Ông tự biết, tự thấy, tự ý thức được?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Lành thay, này các Tỷ-kheo,! Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được ta giới thiệu Chánh Pháp, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói.
Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình. Rồi này các Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo, sau chín hay mười tháng, người mẹ sinh đẻ với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi (hài nhi ấy) với máu của mình. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa của bà mẹ được xem là máu. Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với những trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ, chơi khăng, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ. Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức, được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
Khi thấy sắc bằng mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, người đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, nên dục hỷ sanh, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Khi người đó nghe tiếng với tai... (như trên)... khi người đó ngửi hương với mũi... (như trên)... khi người đó nếm vị với lưỡi... (như trên)... khi người đó cảm xúc với thân... (như trên)... khi người đó nhận thức pháp với ý, người đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. Người đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của người đó được trừ diệt, không còn dư tàn. Như vậy, đối diện với thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy. Vì người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Ở đời, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên thuyết điều Như Lai đã chứng ngộ. Như Lai thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Như Lai truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy. Sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng kính ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng, vị ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Sau một thời gian, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sống thanh tịnh, không có trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, sống theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại đối với đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đến nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh Pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, trình diễn, từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thời trang, từ bỏ dùng giường cao và giường lớn, từ bỏ nhận vàng bạc, từ bỏ nhận các hạt sống, từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái, từ bỏ nhận nô tỳ, gái và trai, từ bỏ nhận cừu và dê, từ bỏ nhận gia cầm và heo, từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái, từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai, từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới, từ bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường, từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Vị ấy biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Vị ấy nhờ thành tựu Thánh giới uẩn này nên hưởng được lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... (như trên)... mũi ngửi hương... (như trên)... lưỡi nếm vị... (như trên)... thân cảm xúc... (như trên)... ý nhận thức các pháp; vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy với sự thành tựu Thánh giới uẩn này, với sự thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và với Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Sau khi từ bỏ năm triền cái làm ô nhiễm tâm, làm cho yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm giác sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng và trú Thiền thứ ba. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Khi vị ấy thấy sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ đối với sắc xấu, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Khi vị ấy nghe tiếng bằng tai... (như trên)... khi vị ngửi hương bằng mũi... (như trên)... Khi vị ấy nếm vị bằng lưỡi... (như trên)... Khi vị ấy cảm xúc bằng thân... (như trên)... Khi vị ấy nhận thức pháp bằng ý, vị ấy không tham ái đối với pháp tốt, không ghét bỏ đối với pháp xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, vị ấy đoạn trừ (thuận nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy thọ trì ái tận giải thoát này, được Ta nói một cách tóm tắt, nhưng (phải nhớ là) Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đã bị mắc trong cái lưới lớn của ái, trong sự rối loạn của ái.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
ĐẠI KINH ĐOẠN TẬN ÁI, THỨ BA MƯƠI TÁM HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________________________________
>>>> 37. Tiểu kinh Đoạn Tận Ái
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra,Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âmHán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Dưới đây là sáu bản dịch Việt từ sáu bản dịch tiếng Trung khác nhau:
Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Đại Minh Chú Kinh
No. 250
Diêu Tần, Thiên Trúc, Tam tạng Cưu-ma-la-thập dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Bồ-tát Quán Thế Âm khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, soi thấy năm ấm đều Không, vượt mọi khổ ách.
Xá-lợi-phất! Sắc là Không nên không có tướng não hoại, thọ là Không nên không có tướng cảm thọ, tưởng là Không nên không có tướng tri nhận, hành là Không nên không có tướng tạo tác, thức là Không nên không có tướng giác tri. Vì sao vậy? Xá-lợi-phất! Chẳng phải sắc khác Không, chẳng phải Không khác sắc; sắc tức là Không, Không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức, cũng như vậy.
Xá-lợi-phất! Tướng Không của các pháp ấy không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Pháp Không ấy chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí và không thủ đắc.
Vì không thủ đắc nên bồ-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng và khổ não, được cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nên biết Bát-nhã ba-la-mật là minh chú vĩ đại, là minh chú vô thượng, là minh chú không gì sánh bằng, trừ được mọi khổ não, chân thật không hư dối, nên được gọi là chú Bát-nhã ba-la-mật.
Nên thuyết chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-ha.
Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Đại Minh Chú Kinh
_______________________________________
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
No. 251
Đờ i Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Bồ-tát Quán Tự Tại khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt mọi khổ ách.
Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác Không. Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy.
Xá-lợi Tử! Tướng Không của các pháp ấy không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí và không thủ đắc.
Vì không thủ đắc nên Bồ-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng, được cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là chú rất sáng chói, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ được mọi khổ não, chân thật không hư dối, nên được gọi là chú Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nên thuyết chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-ha.
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
___________________________________________
Phổ Biến Trí Tạng Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
No. 252
Nước Ma-kiệt-đề, Tam tạng Sa-môn Pháp Nguyệt trùng dịch
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Phật trú tại núi Linh thứu, đại thành Vương xá, cùng với đủ trăm ngàn vị đại Tỷ-kheo và bảy vạn bảy ngàn vị Bồ-tát ma-ha-tát đến tụ tập. Danh hiệu của các vị là Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Di-lặc, v.v., đều là bậc thượng thủ, đều được tam-muội tổng trì, trú nơi Bất tư nghịgiải thoát.
Bấy giờ, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại đang ở chỗ mình ngồi, ngay trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Thế Tôn, chắp tay hướng về đức Phật, nghiêng mình cung kính, chiêm ngưỡngtôn nhan, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Trong chúng hội này, con muốn nói về tâm [chú/ yếu] của Bát-nhã ba-la-mật-đa, là Kho tàng Trí tuệ phổ biến của các Bồ-tát. Cúi mong Thế Tôn hứa khả cho những điều con nói. Con sẽ tuyên thuyết pháp yếu bí mật cho các Bồ-tát.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn, bằng âm thanh vi diệu của Phạm thiên, nói với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tạirằng: “Lành thay, lành thay! Bậc đầy đủ Đại bi, Ta hứa khả những điều ông nói, để làm ánh sáng vĩ đại cho các chúng sinh.”
Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại, sau khi được Phật hứa khả, được Phật hộ niệm, bèn nhập chánh thọ tên là Tuệ quang tam-muội. Khi nhập định này rồi, dùng năng lực của tam-muội mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Ngài soi thấy tự tính của năm uẩn đều Không. Ngài liễu tri tự tính của năm uẩn đều Không, rồi an lành xuất khỏi tam-muội kia, và nói với Tuệ mạng Xá-lợi-phất rằng: “Thiện nam tử, Bồ-tát có tâm [chú] của Bát-nhã ba-la-mật-đa, được gọi là Kho tàng Trí tuệ phổ biến, ông nay hãy lắng nghe, hãy khéo suy niệm. Tôi sẽ vì ông phân biệt giải thuyết.”
Sau lời nói ấy, Tuệ mạng Xá-lợi-phất bạch với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại rằng: “Thưa đức Đại Tịnh, kính thỉnh Ngài nói. Nay chính là đúng thời.”
Rồi Bồ-tát nói với Xá-lợi-phất: “Các Bồ-tát ma-ha-tát nên học như vầy: Sắc tính là Không, Không tính là sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy. Thức tính là Không, Không tính là thức. Thức chẳng khác Không, Không chẳng khác thức. Thức tức là Không, Không tức là thức.”
“Xá-lợi Tử, tướng Không của các pháp ấy không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí và không thủ đắc.”
“Vì không thủ đắc nên Bồ-đề-tát-đỏa y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng, được cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
“Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là chú rất sáng chói, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ được mọi khổ não, chân thật không hư dối, nên được gọi là chú Bát-nhã ba-la-mật-đa.”
Nên thuyết chú rằng: “Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề sa-bà-ha.”
Đức Phật nói kinh này xong thì các Tỷ-kheo và chúng Bồ-tát, hết thảy thế gian gồm Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà, v.v. nghe những điều đức Phật nói, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Phổ Biến Trí Tạng Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
_________________________________________
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
No. 253
Nước Kế Tân, Tam tạng Bát-nhã và Lợi Ngôn đồng dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Phật trú tại núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá, cùng với chúng đại Tỷ-kheo và chúng Bồ-tát đều đến tụ tập. Bấy giờ, đức Phật Thế Tôn liền nhập tam-muội tên là Quảng đại thậm thâm.
Bấy giờ, trong chúng có Bồ-tát ma-ha-tát tên là Quán Tự Tại. Khi Ngài tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều Không, lìa các khổ ách. Khi ấy, tôn giả Xá-lợi Tử nương uy lực của Phật, chắp tay cung kính, bạch với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại rằng: “Thưa Thiện nam tử! Nếu có hành giả muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì tu hành thế nào?” Hỏi như vậy rồi.
Bấy giờ, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại nói với Cụ thọ Xá-lợi-phất rằng: “Xá-lợi Tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, khi tu hành nên quán tự tính của năm uẩn đều Không. Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác Không. Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy.”
“Xá-lợi Tử! Tướng Không của các pháp ấy không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí và không thủ đắc.”
“Vì không thủ đắc nên Bồ-đề-tát-đỏa y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng, được cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
“Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là chú rất sáng chói, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ được mọi khổ đau, chân thật không hư dối, nên được gọi là chú Bát-nhã ba-la-mật-đa.”
Nên thuyết chú rằng: “Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề sa-bà-ha.”
“Như vậy, Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát ma-ha-tát đối với sự đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, nên tu hành như vậy.” Tuyên thuyết như vậy rồi.
Lúc ấy, đức Thế Tôn xuất khỏi tam-ma-địa Quảng đại thậm thâm, ca ngợi Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tạirằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Đúng thế, đúng thế! Như những điều ông tuyên thuyết. Đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, thì nên tu hành như vậy. Khi tu hành như vậy thì các đức Như Lai thảy đều tùy hỷ.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời này xong, Cụ thọ Xá-lợi-phất tràn đầy hoan hỷ, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại cũng rất hoan hỷ. Bấy giờ, trong chúng hội, Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà, v.v. nghe những điều đức Phật nói, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
_________________________________________
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
No. 254
Đời Đường, chùa Đại Hưng Thiện ở Thượng đô [Trường An],
Tam tạng sa-môn Trí Tuệ Luân phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe như vầy.
Một thời, đức Bạc-già-phạm trú tại núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá, cùng với chúng đại Bí-sô và chúng đại Bồ-tát đều đến tụ tập. Bấy giờ, đức Thế Tôn nhập tam ma địa, tên là Quảng đại thậm thâm chiếu kiến. Khi ấy, trong chúng có một vị Bồ-tát ma-ha-tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, đi vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi tu hành soi thấy tự tính của năm uẩn đều Không.
Khi ấy, tôn giả Cụ thọ Xá-lợi Tử nương uy thần của Phật, chắp tay cung kính, bạch với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Thế Âm Tự Tại rằng: “Thưa Thánh giả! Nếu có hành giả muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì tu hành thế nào?” Hỏi như vậy rồi.
Bấy giờ, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Thế Âm Tự Tại nói với Cụ thọ Xá-lợi Tử rằng: “Xá-lợi Tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đi vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi tu hành nên soi thấy tự tính của năm uẩnđều Không, lìa các khổ ách. Xá-lợi Tử! Sắc là Không, nơi tính Không thấy sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc. Sắc ấy tức Không, Không ấy tức sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy.”
“Xá-lợi Tử! Tính tướng Không của các pháp ấy không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí chứng và không thủ đắc.”
“Vì không thủ đắc nên Bồ-đề-tát-đỏa y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa mà an trú, thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng, được cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được Vô thượng bồ-đề, hiện thành Chánh giác.”
“Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là chân ngôn vĩ đại, là chân ngôn rất sáng chói, là chân ngôn vô thượng, là chân ngôn không gì sánh bằng, trừ được mọi khổ đau, chân thật không hư dối, nên được gọi là chân ngôn Bát-nhã ba-la-mật-đa.”
Nên thuyết chú rằng: “Án, nga đế, nga đế, bả la nga đế, bả la tán nga đế, mạo địa, sa-phộc hạ.”
“Như vậy, Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát ma-ha-tát đối với sự đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, nên học như vậy.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành xuất khỏi tam-ma-địa, ca ngợi Bồ-tát ma-ha-tát Quán Thế Âm Tự Tạirằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Đúng thế, đúng thế! Như những điều ông tuyên thuyết. Đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, thì nên tu hành như vậy. Khi tu hành như vậy thì các đức Như Lai thảy đều tùy hỷ.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời này xong, Cụ thọ Xá-lợi Tử, Bồ-tát Quán Thế Âm Tự Tại, và trong chúng hội, hết thảy thế gian gồm Trời, Người, A-tô-la, Nghiễn-đà-phược, v.v. nghe những điều đức Phật nói, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
____________________________________________
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
(Bản Thạch thất Đôn hoàng)
No. 255
[Đại Phiên] Quốc, Đại đức Tam tạng Pháp sư Sa-môn Pháp Thành dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe như vầy.
Một thời đức Bạc-già-phạm trú tại núi Thứu phong, thành Vương Xá, cùng với chúng đại Bí-sô và các Bồ-tát ma-ha-tát đều đến tụ tập. Bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nhập tam ma địa tên là Thậm thâm minh liễu– dị môn của giáo pháp.
Vào lúc đó, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại khi đi vào Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, quán sát soi thấy thể tínhcủa năm uẩn thảy đều là Không. Khi ấy, tôn giả Cụ thọ Xá-lợi Tử nương uy lực của Phật, bạch với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Thế Âm Tự Tại rằng: “Thưa Thánh giả! Nếu có thiện nam tử muốn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên tu học thế nào?” Nói lời đó xong.
Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại trả lời Cụ thọ Xá-lợi-tử rằng: “Xá-lợi Tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn tu hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, vị ấy phải quán sát như vầy: Thể tính của năm uẩn đều Không. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc. Cũng lại như vậy, thọ, tưởng, hành, thức thảy đều Không.”
“Thế nên Xá-lợi Tử! Tính Không của tất cả pháp là vô tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên, bấy giờ ở trong tính Không không sắc, không thọ, không tưởng, không hành, cũng không có thức; không nhãn, không nhĩ, không tỹ, không thiệt, không thân, không ý; không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc, không pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí, không thủ đắc và không không thủ đắc.”
“Thế nên Xá-lợi Tử! Vì không thủ đắc nên các chúng Bồ-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tâm không bị chướng ngại; không bị chướng ngại thì không có khiếp sợ, vượt qua mọi điên đảo, được cứu cánh Niết-bàn. Hết thảy chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”
“Xá-lợi Tử! Thế nên phải biết đại mật chú Bát-nhã ba-la-mật-đa là chú rất sáng chói, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, là chú trừ được mọi khổ đau, chân thật không điên đảo. Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là bài chú bí mật. “
Nên thuyết chú Bát-nhã ba-la-mật-đa rằng: “Nga-đế, nga-đế, ba-la-nga-đế, ba-la-tăng-nga-đế, bồ-đề sa-ha.”
“Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát ma-ha-tát nên tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn xuất khỏi định ấy, nói với Thánh giả Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Đúng thế, đúng thế! Như những điều ông tuyên thuyết. Các vị phải tu họcBát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Tất cả Như Lai cũng đều tùy hỷ.”
Bấy giờ, đức Bạc-già-phạm nói lời này xong, Cụ thọ Xá-lợi Tử, Thánh giả Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tạivà hết thảy thế gian, Trời, Người, A-tô-la, Càn-thát-bà, v.v… nghe những điều đức Phật nói, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
________________________________________________
Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
No. 257
Tây thiên dịch kinh Tam tạng, Triều phụng Đại phu,
Thí Quang lộc khanh, Truyền pháp Đại sư,
Thần được sắc ban tử y, Thi Hộ phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Thế Tôn trú tại núi Thứu phong, thành Vương Xá, cùng với chúng đại Bí-sô một ngàn hai trăm năm chục người tụ tập, và chúng Bồ-tát ma-ha-tát cùng nhau vây quanh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nhập tam-ma-địa tên là Thậm thâm quang minh tuyên thuyết chánh pháp. Khi ấy, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại đang ở giữa Phật hội. Vị Bồ-tát ma-ha-tát này có khả năng tu hànhBát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán chiếu thấy tự tính của năm uẩn thảy đều Không.
Bấy giờ, tôn giả Xá-lợi Tử nương uy thần của Phật, bước lên trước mà bạch với Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại rằng: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân ưa muốn tu học ở trong pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên học như thế nào?”
Khi ấy, Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại nói với tôn giả Xá-lợi Tử rằng:
“Ông nay hãy lắng nghe, tôi sẽ vì ông tuyên thuyết. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân ưa muốn tu họcở trong pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, hãy quán chiếu tự tính của năm uẩn thảy đều Không.”
“Thế nào gọi là tự tính của năm uẩn đều Không? Đó là, tức sắc là Không, tức Không là sắc; sắc khôngkhác với Không, Không không khác với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy.”
“Xá-lợi Tử! Tướng Không như vậy của tất cả các pháp ấy vốn không có cái gì được sinh, không có cái gì bị diệt; không cấu nhiễm, không thanh tịnh; không tăng trưởng, không tổn giảm.”
“Xá-lợi Tử! Thế nên, trong Không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không tồn tại mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không tồn tại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới và không nhãn thức giới, cho đến không ý giới và không ý thức giới; không vô minh và không sự diệt tận của vô minh; cho đến không lão tử và không sự diệt tận của lão tử; không khổ, tập, diệt, đạo; không quán trí, không thủ đắc, cũng không không thủ đắc.”
“Xá-lợi Tử, do vì không thủ đắc như vậy, Bồ-tát ma-ha-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thực hànhtương ứng, thì tâm không bị vướng mắc, cũng không bị chướng ngại; không bị vướng mắc, không bị chướng ngại, thì không có khiếp sợ, xa lìa tất cả điên đảo vọng tưởng, được cứu cánh viên tịch. Chư Phật trong ba đời y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Vì vậy, nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là minh chú quảng đại, là minh chú vô thượng, là minh chú không gì sánh bằng, có năng lực dứt trừ được mọi khổ não, vì đó chính là pháp chân thật, không hư vọng. Những ai tu học hãy tu học như vậy.”
“Nay tôi tuyên thuyết đại minh chú Bát-nhã ba-la-mật-đa rằng: Đát-ninh-dã-tha, nga-đế, nga-đế, bá-ra-nga-đế, bá-ra-tăng-nga-đế, mạo-đề, sa-hạ.”
“Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát ma-ha-tát nếu thường tụng đọc minh chú Bát-nhã ba-la-mật-đa này tức là tu họcBát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành xuất khỏi tam-ma-địa; Ngài ca ngợi Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Những điều ông tuyên thuyết, đúng vậy, đúng vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được tu học như vậy. Đó chính là cứu cánh chân thật tối thượng. Hết thảy đức Như Lai cũng đều tuỳ hỷ.”
Phật thuyết kinh này xong; Bồ-tát ma-ha-tát Quán Tự Tại, cùng các Bí-sô, cho đến thế gian gồm Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà, v.v. hết thảy đại chúng, sau khi nghe những điều Phật nói, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh.
23.10.2014
30.09.Giáp Ngọ
(Culatanhasankhavasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở tại Savatthi (Xá-vệ), Đông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc Mẫu (Migaramatu). Rồi Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Thiên chủ Sakka đứng một bên bạch Thế Tôn.
– Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?
– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”, vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người.
Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết giảng, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahamoggallana ngồi cách Thế Tôn không xa. Rồi Tôn giả Mahamoggallana suy nghĩ: “Không hiểu Dạ-xoa (Yakkaha) kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không? Ta hãy tìm biết Dạ- xoa kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không?” Rồi Tôn giả Mahamoggallana, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất ở Đông Viên Lộc Mẫu giảng đường và hiện ra ở giữa chư thiên cõi trời Ba mươi ba. Lúc bấy giờ Thiên chủ Sakka, với đầy đủ năm trăm nhạc khí chư thiên, đang vui chơi tại vườn Nhất bạch liên. Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả từ xa đến, bảo năm trăm nhạc khí chư thiên dừng nghỉ, đi đến Tôn giả Mahamoggallana, sau khi đến, thưa với Tôn giả Mahamoggallana: “Hãy đến đây, Thiện hữu Moggallana; thiện lai, Thiện hữu Moggallana! Này Thiện hữu Moggallana, lâu lắm Thiện hữu mới có dịp đến đây. Hãy ngồi, Thiện hữu Moggallana, trên chỗ đã soạn sẵn”. Tôn giả Mahamoggallana, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Thiên chủ Sakka lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Mahamoggallana nói với Thiên chủ Sakka đang ngồi xuống một bên:
– Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy.
– Thiện hữu Moggallana, chúng tôi bận nhiều công việc, chúng tôi có nhiều việc phải làm, việc làm cho chúng tôi và việc làm cho chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Lại nữa, này Thiện hữu Moggallana, lời thuyết giảng ấy được khéo nghe, khéo nắm vững, khéo suy tư, khéo thẩm lự nên không thể mau quên được. Này Thiện hữu Moggallana, xưa kia phát khởi chiến tranh giữa chư Thiên và chúng Asura (A-tu-la). Này Thiện hữu Moggallana, trong trận chiến này, chư Thiên thắng, chúng Asura bại. Này thiện hữu Moggallana, sau khi thắng trận chiến ấy và nhân dịp thắng trận, chúng tôi, sau khi trở về, cho xây dựng một lâu đài tên là Vejayanta (Tối Thắng Điện). Này Thiện hữu Moggallana, lâu đài Vejayanta có đến một trăm vọng tháp, trong mỗi vọng tháp có bảy ngôi nhà có hình tam giác, trong mỗi nhà tam giác có bảy tiên nữ, và mỗi tiên nữ có đến bảy thị nữ. Này thiện hữu Moggallana, Thiện hữu có muốn xem những điều khả ái của lâu đài Vejayanta không?
Tôn giả Mahamoggallana im lặng nhận lời. Rồi Thiên chủ Sakka cùng với đại vương Vessavana để Tôn giả Mahamoggallana đi trước và đi đến lâu đài Vejayanta. Các thị nữ của Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Mahamoggallana đi từ xa đến, sau khi thấy, liền hổ thẹn, bẽn lẽn, rồi bước vào phòng của mình. Ví như cô dâu khi thấy cha chồng liền hổ thẹn, bẽn lẽn; cũng như vậy, các thị nữ của Thiên chủ Sakka, khi thấy Tôn giả Mahamoggallana liền hổ thẹn, bẽn lẽn, vào phòng riêng của mình. Rồi Thiên chủ Sakka và đại vương Vessavana đưa Tôn giả Mahamoggallana đi thăm và xem khắp lâu đài Vejayanta: “Này Thiện hữu Moggallana, xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta; xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta. Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa; và loài Người, khi thấy cái gì khả ái liền nói: “Thật sự, cái này chói sáng từ chư thiên cõi trời Ba mươi ba. Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa”. Rồi Tôn giả Mahamoggallana suy nghĩ: “Dạ-xoa này sống phóng dật một cách quá đáng. Ta hãy làm cho vị này hoảng sợ”. Tôn giả Mahamoggallana liền thị hiện thần thông lực, dùng ngón chân cái làm cho lầu Vejayanta rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Thiên chủ Sakka, đại vương Sessavana và chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, tâm cảm thấy kỳ diệu, hy hữu: “Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay đại thần thông lực, đại oai lực của Tôn giả Sa-môn! Với ngón chân cái, vị này làm cho thiên cung này rung động, chuyển động, chấn động mạnh!” Tôn giả Mahamoggallana sau khi biết Thiên chủ Sakka đã hoảng sợ, lông tóc dựng ngược liền nói với Thiên chủ Sakka:
– Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy.
Ở đây, này Thiện hữu Moggallana, tôi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Này Thiện hữu Moggallana, sau khi đứng một bên, tôi bạch với Thế Tôn như sau:
“– Bạch Thế Tôn, một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo là ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?
Khi nghe nói vậy, này Thiện hữu Moggallana, Thế Tôn nói với tôi như sau:
“– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp”. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não; do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. “Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.
Như vậy, này Thiện hữu Moggallana, Thế Tôn nói một cách tóm tắt cho tôi về ái tận giải thoát.
Rồi Tôn giả Mahamoggallana, sau khi hoan hỷ, tín cho lời Thiên chủ Sakka nói, như một nhà lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất giữa chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, và hiện ra tại Đông Viên Lộc Mẫu giảng đường. Sau khi Tôn giả Mahamoggallana đi chẳng bao lâu, các thị nữ của Thiên chủ Sakka nói với Thiên chủ Sakka như sau:
– Thưa Thiên chủ, có phải vị ấy là Thế Tôn, bậc Đạo sư của Thiên chủ?
– Không, vị ấy không phải là Thế Tôn, bậc Đạo sư của ta. Vị ấy là đồng phạm hạnh với ta, Tôn giả Mahamoggallana.
– Thưa Thiên chủ, thật là điều tốt lành cho Thiên chủ, có một vị đồng phạm hạnh có đại thần thông, có đại oai lực như vậy. Chắc chắn vị ấy là Thế Tôn, bậc Đạo sư của Thiên chủ.
Rồi Tôn giả Mahamoggallana đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahamoggallana bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có biết chăng, Thế Tôn vừa mới nói về ái tận giải thoát một cách tóm tắt cho một Dạ-xoa có đại oai lực?
– Này Moggallana, Ta biết. Ở đây, Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Ta ở, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, này Moggallana, Thiên chủ Sakka bạch với Ta:
“– Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận, giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?
Khi nghe nói vậy, này Mahamoggallana, Ta nói với Thiên chủ Sakka:
“– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời. Do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận, giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.
Như vậy, này Moggallana, Ta biết Ta vừa nói một cách tóm tắt về ái tận giải thoát cho Thiên chủ Sakka.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Mahamoggallana hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
TIỂU KINH ĐOẠN TẬN ÁI, THỨ BA MƯƠI BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
___________________________________________________________________________
>>> 36. Đại kinh Saccaka
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa. Bài kinh nầy là một trong các bài kinh của bộ Bát Nhã kết tập tại Ấn Độqua bảy thế kỷ, từ năm 100 T.C.N. đến 600 C.N. Khi được truyền sang Trung Hoa, Tâm Kinh đã được nhiều vị cao tăng chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán: ngài Cưu Ma La Thập dịch vào khoảng năm 402-412 C.N., ngài Huyền Trang dịch năm 649 C.N., ngài Nghĩa Huyền (700 C.N.), ngài Pháp Nguyệt (732 C.N.), ngài Bát Nhã và Lợi Ngôn (790 C.N.), ngài Trí Tuệ Luận (850 C.N.), ngài Pháp Thành (856 C.N.) và ngài Thi Hộ (980 C.N.). Trong các bản dịch nầy, bản dịch của ngài Huyền Trang là phổ thông nhất.
Riêng tại Việt Nam, bản dịch của ngài Huyền Trang được chuyển sang chữ quốc ngữ Hán Việt và thường dùng để trì tụng hằng ngày. Quý vị cao tăng cũng có phát hành nhiều sách để giải thích nghĩa kinh, trong đó các sách của quý Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, và Thích Nhất Hạnh là phổ thôngnhất.
Sau đây là một số bài dịch Việt-Anh của Tâm Kinh:
Bản tụng Hán Việt:
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thứcdiệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Bản dịch nghĩa:
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)
Bản phổ kệ:
(Thích Nhất Hạnh)
Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức Diệu Pháp Trí Độ)
Bổng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương Diệu Pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lià mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Bụt trong ba đời
Y Diệu Pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, Yết đế
Ba la Yết đế
Ba la Tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha
Phổ thơ lục bát:
(Hệ phái Khất Sĩ)
Khi hành Bát Nhã Ba La
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều Không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua
Nầy Xá Lợi Tử xét ra
Không là sắc đó, sắc là không đây
Sắc cùng không chẳng khác sai
Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
Cũng như sắc uẩn ,một màu không không
Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
Không không tướng ấy, đều không tướng hình
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nhìn
Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh, cũng vẫn không
Hết già, hết chết, cũng không có gì
Không khổ, tập, diệt, đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là không không
Sở thành, sở đắc bởi không
Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không còn chút ngại ngăn
Nên không còn chút băng khoăng sợ gì
Đảo điên mộng tưởng xa lìa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ
Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.
Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha
Bản dịch Việt:
(Thích Tâm Thiện, Sài Gòn, 1998)
Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng
1. Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng (1), Người Tỉnh Thức Bình Yên (2) soi sáng như thật rằng tự tịnh của năm hợp thể (3) đều là Không (4), liền thoát ly mọi khổ ách.
2. Này người con dòng Sari (5), hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể. Hình thể là chân không, chân không là hình thể. Cảm xúc (6), niệm tự (7) và tư duy (8) và ý thức (9) đều là như vậy.
3. Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không, nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm.
4. Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức (10); không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, xúc chạm (11) và hiện hữu (12). Không có đối đượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh (13), không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứtcủa tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứtkhổ đau và không có con đuuờng đưa đến sự chấm dứt khổ đau (14); không có tri giác (15) cũng không có sự thành tựu tri giác, vì chăng có quả vị của tri giác nào để thành tựu.
5. Người Tỉnh Thức Bình Yên, do sống an lành trong Tuệ giác vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
6. Tất cả chư Phật trong ba đời (16) đều nương tựa vào Tuệ giác vô thượng mà thành tựu (17) chánh giác.
7. Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần (18) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng:
"Đi qua, đi qua
Đi qua bờ bên kia,
Đã đi qua đến bờ bên kia, reo vui!"
Chú thích:
(1) Trí tuệ Bát nhã (Prajnàpàramità).
(2) Dịch từ "Quán Tự Tại" theo cách chiết tự.
(3) Năm tổ hợp hay năm uẩn (skandhas).
(4) Vô tự tính hay bản tính Không (Sunyata).
(5) Mẹ của Sariputa là người rất thông minh nên có hiệu là Sari. Trung Hoa dịch chữ Sariputa là Xá Lợi tử, nghĩa là, đứa con dòng Xá Lợi (Sari). Do đó, tác giả dịch là Người con dòng Sari, lối dịch này đã được sử dụng trong bản dịch "Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt" của Thi Vũ, do HT. Trí Quang giới thiệu, xuất bản năm 1973, tại Paris.
(6) Thọ uẩn
(7) Tưởng uẩn
(8) Hành uẩn
(9) Thức uẩn
Bốn uẩn (hợp thể) này thuộc về tâm lý, sắc uẩn (hợp thể vật chất) thuộc về vật lý.
(10) Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (5 uẩn).
(11) Xúc (trong sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
(12) Hiện hữu đọc được dùng đồng nghĩa với pháp (dharma).
(13) Vô minh (ignorance), nguồn gốc của sự khổ đau.
(14) Tứ đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế).
(15) Tri giác (dịch từ Vô tri diệc vô đắc).
(16) Ba đời: quá lhứ, hiện tại, vị lai.
(17) Thành tựu ở đây có nghĩa là đã giải thoát khỏi thế giới nhị nguyên, không còn phân biệt, đối đãi nhân-pháp, hữu-vô v.v...
(18) Còn được dịch là linh ngữ hay thần chú (mantra).
Bản phổ thơ Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Laurence Cox - This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. , Trinity College, Dublin, Ireland)
THE HEART SUTRA
The Bodhisattva of Compassion,
when he meditated deeply,
saw the emptiness of all five skandhas
and sundered the bonds that caused him suffering.
Here then,
form is no other than emptiness,
emptiness no other than form.
Form is only emptiness,
emptiness only form.
Feeling, thought and choice,
consciousness itself,
are the same as this.
All things are the primal void,
which is not born or destroyed,
nor is it stained or pure,
nor does it wax or wane.
So, in emptiness, no form,
no feeling, thought or choice,
nor is there consciousness.
No eye, ear, nose, tongue, body, mind.
No colour, sound, smell,
taste, touch or what the mind takes hold of,
nor even act of sensing.
No ignorance nor all that comes of it,
no withering, no death,
no end of them.
Nor is there pain, or cause of pain,
or cease in pain,
or noble path to lead from pain,
nor even wisdom to attain.
Attainment too is emptiness!
So know that the Bodhisattva,
holding to nothing whatever
but dwelling in prajna wisdom,
is freed from delusive hindrance,
rid of the fears bred by it,
and reaches clearest Nirvana.
All Buddhas of past and present,
Buddhas of future time,
Using this prajna wisdom
Attain full and perfect enlightenment.
Hear then the great dharani,
the radiant peerless mantra,
the prajnaparamita
whose words allay all pain,
hear and believe its truth!
Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha
Bản dịch Anh ngữ:
(cung cấp bởi: Raja Hornstein, This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. )
GREAT WISDOM BEYOND WISDOM HEART SUTRA
Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved from all suffering.
O Shariputra, form does not differ from emptiness; emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness; that which is emptiness form. The same is true of feelings, perceptions, formations, consciousness.
O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. they do not appear nor disappear, are not tainted nor pure, do not increase nor decrease. Therefore in emptiness: no form, no feelings, no perceptions, no formations, no consciousness; no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind; no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind; no realm of eyes...until no realm of mind-consciousness; no ignorance and also no extinction of it...until no old-age and death and also no extinction of it; no suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment with nothing to attain.
A bodhisattva depends on Prajna Paramita and the mind is no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every perverted view one dwells in nirvana. In the three worlds all buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed complete perfect enlightenment. Therefore, know the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra which is able to relieve all suffering and is true not false; so proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says:
Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha
Bản dịch Anh ngữ:
(Trúc Huy tháng 11-2014)
Sariputra, know then: form does not differ from emptiness, nor does emptiness differ from form. Form is no other than emptiness, emptiness no other than form. The same is true of feelings, perceptions, impulses and consciousness.
Sariputra, all dharmas are marked with emptiness. None are born or die, nor are they defiled or immaculate, nor do they wax or wane. Therefore, where there is emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no impulse, nor is there consciousness. No eye, ear, nose, tongue, body, or mind. No color, sound, smell, taste, touch, or object of mind. There is no domain of sight, nor even domain of mind consciousness. There is no ignorance nor is there ceasing of ignorance. There is no withering, no death, nor is there ceasing of withering and death. There is no suffering, or cause of suffering, or cease in suffering, or path to lead from suffering. There is no cognition, nor even attainment.
So know that the Bodhisattva, indifferent to any kind of attainment whatsoever but dwelling in Prajna wisdom, is freed of any thought covering, get rid of the fear bred by it, has overcome what can upset and in the end reaches utmost Nirvana. All Buddhas of past and present, and Buddhas of future time, through faith in Prajna wisdom, come to full and perfect Enlightenment.
Therefore, one should know the Prajna paramita as the mantra of great knowledge, the miraculous, the utmost, the unequalled mantra, whose words relieve all suffering. This is highest wisdom, true beyond all doubt.
Know then and proclaim the Prajna paramita mantra. It spells like this:
Bản dịch Pháp ngữ:
(Trúc Huy tháng 11-2014)
Sariputra, les formes ne sont pas différentes du vide, le vide n'est pas différent des formes. Les formes ne sont rien d'autre que le vide, le vide n'est rien d'autre que les formes. Il en est de même des sensations, des perceptions, des formations mentales et de la conscience.
Sariputra, tous ces dharma ont l'aspect du vide. Ils ne naissent ni ne disparaissent. Ils ne sont ni souillés ni purs. Ils ne croissent ni ne décroissent. C'est pourquoi, dans le vide, il n'y a pas de forme, de sensation, de perception, de formation mentale, ni de conscience. Il n'y a pas d'oeil, d'oreille, de nez, de langue, de corps, ni de mental. Il n'y a pas de couleur, de son, d'odeur, de saveur, de toucher, ni d'objet de pensée. Il n'y a pas de domaine du visuel ni même de domaine de la connaissance mentale. Il n'y a pas d'ignorance et pas plus de cessation de l'ignorance. Il n'y a pas de vieillesse ni de mort, et pas plus de cessation de vieillesse ni de mort. Il n'y a pas de souffrance, d'origine de la souffrance, de cessation de la souffrance, ni de chemin qui mène à la cessation de souffrance. Il n'y a pas de connaissance ni même d'obtention.
Comme il n'y a rien à obtenir, c'est pourquoi les Bodhisattva s'appuient sur la Vertu de Sagesse. Leur esprit ne connaît pas d'entrave, ainsi ils n'ont pas de peur. En se libérant des erreurs et des égarements, ils atteignent enfin l'ultime Nirvana. Tous les Bouddhas du passé, du présent et du futur, en s'appuyant sur la Vertu de Sagesse, ont obtenu le suprême et parfait Éveil.
Aussi professe-t-on la grande Vertu de Sagesse, par un mantra miraculeux, un mantra de grande connaissance, un mantra insurpassable, un mantra sans égal, qui supprime toute souffrance, en vérité et sans fausseté.
Voilà donc le mantra qui proclame la grande Vertu de Sagesse. Ce mantra dit:
(Mahasaccakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng Đại Lâm, tại giảng đường Trùng Các. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y thật đầy đủ, cầm y bát, muốn vào Vesali để khất thực. Rồi Niganthaputta Saccaka tánh hay ngao du thiên hạ, trong khi đi khắp đó đây, đến tại Đại Lâm, giảng đường Trùng Các. Tôn giả Ananda thấy Niganthaputta Saccaka từ xa đi lại, liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Niganthaputta Saccaka đang đến, tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính. Bạch Thế Tôn, vị này ưa chỉ trích Phật, ưa chỉ trích Pháp, ưa chỉ trích Tăng. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn ngồi lại một lát.
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi Niganthaputta Saccaka đi đến chỗ Thế Tôn ở, nói lên những lời hỏi thăm, chúc tụng, xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Niganthaputta Saccaka nói với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn sống chuyên lo tu tập về thân, không tu tập về tâm. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về thân. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama, do cảm khổ về thân, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu nóng có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà tâm tùy thuộc thân, khi tâm chịu sự điều khiển của thân. Vì sao vậy? Vì tâm không được tu tập. Tôn giả Gotama, nhưng có một số Sa-môn, Bà-la-môn, sống chuyên lo tu tập về tâm, không tu tập về thân. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về tâm. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama; do cảm khổ thọ về tâm, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà thân tùy thuộc tâm, khi thân chịu sự điều khiển của tâm. Vì sao vậy? Vì thân không được tu tập. Này Tôn giả Gotama, rồi tôi suy nghĩ: “Thật sự, Thanh văn đệ tử của Tôn giả Gotama sống chuyên lo tu tập về tâm không tu tập về thân?”
– Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về thân như thế nào?
– Như Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, Makhkàli Gosàla, những vị này, này Tôn giả Gotama, sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ ruồi bu, không ăn cá thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo trấu. Những vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy các vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.
– Này Aggivessana, họ có thể tự nuôi sống với mức độ như vậy chăng?
– Không phải vậy, này Tôn giả Gotama. Thỉnh thoảng, này Tôn giả Gotama, họ ăn những món ăn thù thắng loại cứng, họ ăn những món ăn thù thắng loại mền, họ nếm những vị ăn thù thắng, họ uống những đồ uống thù thắng. Họ nhờ các món ăn ấy gầy dựng thân lực, làm cho thân to lớn, làm cho thân béo mập.
– Này Aggivessana, như vậy những gì ban đầu họ từ bỏ, về sau họ lại thọ dụng. Như vậy có tụ, có tán (có được, có mất) cho thân này. Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về tâm như thế nào?
Niganthaputta Saccaka, được Thế Tôn hỏi tu tập về tâm, không có thể trả lời được. Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
– Này Aggivessana, thân tu tập mà Ông vừa mới nói đầu tiên ấy không phải là thân tu tập đúng pháp trong giới luật của bậc Thánh. Này Aggivessana, Ông còn không hiểu thân tu tập, làm sao Ông có thể hiểu tâm tu tập. Và này Aggivessana, như thế nào là thân không tu tập, tâm không tu tập; như thế nào là thân tu tập, tâm tu tập? Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Niganthaputta Saccaka trả lời Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Aggivessana, thế nào là thân không tu tập và thế nào là tâm không tu tập? Ở đây, này Aggivessana, kẻ vô văn phàm phu khởi lên lạc thọ. Người này được cảm giác lạc thọ, liền tham đắm lạc thọ và rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ. Người ấy, do cảm giác khổ thọ, nên sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh. Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho người kia, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập. Khổ thọ ấy khởi lên chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập.
Này Aggivessana, không luận người nào mà cả hai phương tiện đều có lạc thọ khởi lên, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập; khổ thọ khởi lên, chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập. Như vậy, này Aggivessana, người ấy là người có thân không tu tập và tâm không tu tập. Và này Aggivessana, thế nào là thân tu tập và tâm tu tập? Ở đây, này Aggivessana, lạc thọ khởi lên cho vị Thánh đệ tử nghe nhiều. Vị này được cảm giác lạc thọ, nhưng không tham đắm lạc thọ, không rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ, vị ấy cảm giác khổ thọ nhưng không sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh. Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập. Này Aggivessana, không luận người nào mà cả hai phương tiện đều có lạc thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập, như vậy này Aggivessana, người ấy là người có thân tu tập, có tâm tu tập.
– Như vậy, tôi có lòng tin tưởng với Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama là vị có thân tu tập và có tâm tu tập.
– Này Aggivessana, dầu cho lời nói của Ông có vẻ trịch thượng và khiêu khích, nhưng Ta sẽ trả lời cho Ông. Này Aggivessana, khi Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,... và lạc thọ thật sự khởi lên nơi Ta, chi phối tâm và an trú, hay khổ thọ thật sự khởi lên nơi Ta, chi phối tâm và an trú, sự tình như vậy không thể xảy ra.
– Phải chăng, một lạc thọ không khởi lên nơi Tôn giả Gotama một cách khiến cho lạc thọ ấy không thể chi phối tâm và an trú, phải chăng một khổ thọ khởi lên nơi Tôn giả Gotama một cách khiến cho khổ thọ ấy không thể chi phối tâm và an trú?
– Này Aggivessana, sao có thể không như vậy được? Ở đây, này Aggivessana, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: “Đời sống gia đình bị gò bó, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia như sống giữa hư không. Thật rất khó sống tại gia đình mà có thể sống hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh đời sống phạm hạnh thuần tịnh. Hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Rồi này Aggivessana, sau một thời gian, Ta trong khi còn niên thiếu, trẻ tuổi... (như kinh Thánh Cầu trang 366 đến trang 372, với này Aggivessana thế cho này các Tỷ-kheo)... Và Ta, này Aggivessana, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ rằng: “Thật đáng cố gắng tinh tấn ở nơi đây”.
Rồi này Aggivessana, ba ví dụ khởi lên nơi Ta, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe: Này Aggivessana, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống và đặt trong nước. Có một người đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: “Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra”. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống đặt trong nước ấy, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa thì có thể nhen lửa, khiến lửa nóng hiện ra được không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì cành cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống lại bị ngâm trong nước, nên người ấy chỉ bị mệt nhọc và bực bội. Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa-môn hay những Bà-la-môn sống không xả ly các dục về thân, những gì đối với chúng thuộc các dục như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Đẳng Giác, và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Đẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ nhất, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.
Này Aggivessana, rồi một ví dụ thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Aggivessana, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: “Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra”. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô ấy, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể nhen lửa, khiến hơi nóng hiện ra được không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì khúc cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống, dầu được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, nên người ấy chỉ bị mệt nhọc và bực bội.
– Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa-môn hay Bà-la-môn sống không xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục như dục tham, dục ái, dục hôm ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt. Nếu những Tôn giả Sa-môn, hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Đẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.
Này Aggivessana, rồi một ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Aggivessana, ví như có một khúc cây khô, không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: “Ta sẽ nhen lửa, lửa nóng sẽ hiện ra”. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây khô, không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể nhen lửa, khiến hơi nóng hiện ra được không?
– Thưa được, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì khúc cây ấy khô, không nhựa, lại được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô.
– Cũng vậy, này Aggivessana, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục, như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm được khéo đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị này cũng có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Đẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta hãy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!” Này Aggivessana, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Aggivessana, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Aggivessana, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn. Cũng vậy này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc, cũng vậy này Aggivessana, khi ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu, một cách kinh khủng. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh; cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu một cách kinh khủng. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, ví như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dẫu cho niệm được an trú, không dao động nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại, nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy tu Thiền nín thở”. Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, ví như hai người lực sĩ sau khi nắm cánh tay một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú, không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Lại nữa, này Aggivessana, chư Thiên thấy vậy nói như sau: “Sa-môn Gotama đã chết rồi”. Một số chư Thiên nói như sau: “Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết”. Một số chư Thiên nói như sau: “Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như vậy”.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta hãy hoàn toàn tuyệt thực”. Rồi này Aggivessana, chư Thiên đến Ta và nói như sau: “Này Thiện hữu, Hiền giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu Hiền giả có hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Hiền giả, và nhờ vậy Hiền giả vẫn sống”. Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu Ta hoàn toàn tuyệt thực và chư Thiên này đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Ta và nhờ vậy Ta vẫn sống, thời như vậy Ta tự dối Ta”. Này Aggivessana, Ta bác bỏ chư Thiên ấy và nói: “Như vậy là đủ”.
Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: “Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ”. Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng”, thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện” thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: “Sa-môn Gotama có da đen”. Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám”. Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm”. Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?”
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?” Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện”.
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: “Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực ăn cơm chua”. Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Aggivessana, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: “Khi nào Sa-môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết”. Này Aggivessana, khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: “Sa-môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc”.
Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này”. Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là sự Diệt khổ”, biết như thật: “Đây là Con đường đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát” Ta đã biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Này Aggivessana, Ta biết rằng khi Ta thuyết pháp cho đại chúng gồm hàng trăm người, mỗi người nghĩ như thế này về Ta: “Đặc biệt cho ta, Sa-môn Gotama thuyết pháp”. Này Aggivessana, chớ có hiểu như vậy. Khi Như Lai thuyết pháp cho đại chúng, thì đó chỉ vì mục đích giảng dạy. Và Ta, này Aggivessana, sau khi chấm dứt một buổi thuyết giảng như vậy, Ta an trú nội tâm, làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất tâm, làm cho định tĩnh trên định tướng thứ nhất ấy, và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn.
– Như vậy, Tôn giả Gotama thật đáng tin cậy, vì Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Nhưng không biết Tôn giả Gotama có cho phép ngủ ban ngày không?
– Này Aggivessana, Ta có cho phép, vào cuối tháng hạ, sau khi khất thực về, sau khi xếp áo sanghati (đại y) thành bốn, chánh niệm tỉnh giác, Ta nằm xuống ngủ, nằm phía tay mặt.
– Này Tôn giả Gotama, như vậy một số Sa-môn, Bà-la-môn gọi là an trú nơi si ám.
– Này Aggivessana, như vậy không phải là si ám hay không si ám. Này Aggivessana, như thế nào là si ám và như thế nào là không si ám? Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Niganthaputta Saccaka trả lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
– Đối với ai, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là còn si ám. Này Aggivessana, đối với ai các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là không si ám. Này Aggivessana, sự đoạn trừ lậu hoặc là không si ám. Này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai. Này Aggivessana, ví như cây ta-la bị chặt đứt đầu, không lớn lên; cũng vậy, này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai.
Khi được nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka bạch Thế Tôn:
– Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mỉa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ, như một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Purana Kassapa biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn, liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận, tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Makkhali Gosa-la... Ajita Kesakambala... Pakudha Kaccayana... Sanjaya Belatthiputta... cùng với Nigantha Nataputta biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận và tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội, trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Và này Tôn giả Gotama, chúng tôi nay phải đi, chúng tôi có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm.
– Này Aggivessana, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Niganthaputta Saccaka hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
ĐẠI KINH SACCAKA, THỨ BA MƯƠI SÁU HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________
>>> 35. Tiểu kinh Saccaka
Gần như Phật tử nào cũng biết qua bài Bát nhã tâm kinh. Bát nhã tâm kinh là bài kinh nói về tâm, nhưng không phải là tâm suy nghĩ thường tình của người đời, mà nói về cái tâm “đến bờ kia”. Nó là cái trí có thể soi thấu được cội nguồn của mọi hiện tượng, sự vật v.v… trên thế gian. Bài kinh là ngọn đuốc dẫn đường cho một hành giả tu Phật.
Bát nhã, được người xưa phân làm ba :
1. Văn tự Bát nhã
2. Quán chiếu Bát nhã
3. Thực tướng Bát nhã
I. VĂN TỰ BÁT NHÃ
Bài tâm kinh viết bằng tiếng Phạn hay đã dịch ra tiếng Hán, tiếng Việt … gọi là VĂN TỰ BÁT NHÃ. Thực tướng của Bát nhã thì không ba cũng không một. Nhưng phân ba là do tâm của chúng sinh. Do căn cơchúng sinh cạn mỏng, chưa thể một bước vào thẳng Quán Chiếu hay Thực Tướng Bát Nhã, nên phải mượn ngôn từ chuyển tải mà thành VĂN TỰ BÁT NHÃ.
Nếu ngày đêm chỉ làm một việc là tụng Bát nhã, không cần hiểu cũng không cần hành, là ta đang ứng dụng Văn Tự Bát Nhã. Tuy chưa hiểu và hành theo những gì kinh nói, việc tụng niệm vẫn mang lại ít nhiều lợi lạc cho mình. Tụng kinh dù là kinh gì, đương nhiên phải là kinh Phật, thì ngoài việc giúp huân tập kinh điển vào tạng thức, đó chính là bước đầu giúp ta qui hướng Phật đạo. Nó có tác dụng giúp tâm an định phần nào. Nhờ vậy, tụng bất cứ kinh gì với tâm thành kính và tập trung, ta đều gặt được sự an lạc trong hiện tại.
Không chỉ tụng mà còn hiểu được ít nhiều bài kinh nói gì, là ta đang vận dụng VĂN TỰ BÁT NHÃ ở mức độ cao hơn. Đó là nhịp cầu giúp ta bước lần từ VĂN TỰ BÁT NHÃ sang QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ. Vì thế, chư vị thiện tri thức phải bỏ công dịch hết kinh này đến kinh khác để ta có thể hiểu mà hành. Bởi chỉ khi thực hành đúng những gì kinh đã nói, ta mới nhận được lợi ích thiết thực, không chỉ cho mình mà cả cho người.
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Đó là âm Hán của bài Bát nhã tâm kinh. Người không hiểu thì đọc thuộc lòng bao nhiêu, cũng chỉ thế và chỉ thế mà thôi. Cho nên, phải dịch ra tiếng Việt để hiểu. Hiểu rồi còn thăng tiến lên QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ.
Bồ tát Quán Tự Tại, khi hành sâu Bát nhã ba la mật đa, chiếu thấy 5 uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách. Câu kinh không nói đến chúng sanh cũng không nói đến Phật mà nói đến Bồ tát. Là những hữu tình giác đang học và hành theo những gì Phật Tổ đã dạy. Tất cả những ai đang qui hướng Phật đạo, đều gọi là Bồ tát.
Bồ tát nói đây có pháp hiệu là Quán Tự Tại. Tự tại là không bị trói buộc. Không bị trói buộc là do không dính mắc. Không dính mắc là nhờ không bị thói quen và tập khí dẫn chạy. Không nghiện ớt thì có ớt hay không ớt, mọi thứ vẫn tự nhiên. Ta tự tại với ớt. Nhưng một khi đã nghiện ớt thì không có ớt, mọi thứ thành lạt lẽo thiếu thốn. Đó là trạng thái dính mắc, không tự tại.
Ta tập quen với quá nhiều thứ, không chỉ trong hiện đời mà từ vô thủy đến nay, nên khó tự tại với sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu chúng đầy đủ thì ta thấy tự tại, nhưng thiếu chúng, mình như con thuyền gặp sóng, lao đao lận đận cô độc chênh vênh. Vì thế, ngũ uẩn thay vì không, đều thành có. Giờ muốn trở lại chỗ ban đầu, phải làm Bồ tát Quán Tự Tại. Muốn làm Bồ tát Quán Tự Tại thì phải tập bỏ dần các thói quen ở thân cũng như tâm.
Tụng Bát nhã tâm kinh, tuy tâm hồn có phơi phới. Nhưng kinh không nói tụng mà nói HÀNH SÂU. Nếu tụng Bát nhã mà thân tâm đều không, là điều kiện để ta vượt qua tất cả khổ ách, thì tụng Bát nhã chính là HÀNH SÂU. Khổ nỗi, muốn thân tâm đều không thì phải “Tâm hành ngôn ngữ đoạn” . Không chỉ ngôn ngữ phải đoạn, mà tâm hành cũng phải đoạn, thân tâm mới thành không. Vì thế, muốn hết khổ thật sự, muốn làm Bồ tát Quán Tự Tại, thì không thể cứ ứng dụng VĂN TỰ BÁT NHÃ mãi, mà phải chuyển qua QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ. Phải dụng cho được cái QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ đó thì mới có ngày làm Bồ tát Quán Tự Tại chiếu thấy ... Có chiếu thấy 5 uẩn đều không, mới qua được tất cả khổ ách.
II. QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ
Xá Lợi Tử! Một lời kêu gọi. Một lời nhắn nhủ. Một lời lay tỉnh. Kêu gọi ai? Nhắn nhủ ai? Lay tỉnh ai? Tất cả Phật tử đang qui hướng Phật đạo. Tất cả những ai có duyên với Bát Nhã tâm kinh. Chỉ một lần lướt qua kinh này, ta đã có phần trong đó.
Xá Lợi Tử! Là hãy lắng nghe, đừng quay lưng như những kẻ vô phần.
Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Cái thân mà các vị đang cho là thật đây, chúng không lìa không. Ngay sắc là không. Ngay không là sắc. Không đợi sắc phải hoại mới nói sắc không.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Không phải chỉ có sắc mà bốn thứ còn lại cũng như vậy. Tức, ngũ uẩn chẳng khác không. Không chẳng khác ngũ uẩn. Ngũ uẩn tức là không. Không tức là ngũ uẩn.
Xá Lợi Tử! Lại lần nữa kêu gọi, lần nữa lay tỉnh, lần nữa nhắn nhủ ... Bồ tát của Phật không phải ai cũng hoàn toàn tỉnh thức trong tất cả thời. Vẫn có kẻ nửa đường quên phận, dong ruỗi vui chơi theo nghiệp cũ Ta bà. Vì thế, khi muốn nhấn mạnh điều quan trọng, cần phải lay tỉnh lần nữa.
Tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm … Nói “tướng” là thuận theo ngôn từ thế gian mà nói. Bởi đây vẫn là VĂN TỰ BÁT NHÃ. Vì là văn tự nên nó cho phép ta sử dụng ngôn từ phù hợp với ngữ điệu của thế gian để chúng sanh dễ nhận. Cái không mà ta nói đó, không phải bỏ sắc nhập không, không phải bỏ không nhập sắc, không phải là cái không duyên khởi cùng với sắc, mà là cái không “không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch …”. Nó không thuộc nhị biên phân biệt. Nó không phải là cái sanh của phàm phu, cũng không phải là cái diệt của Nhị thừa. Phi tất cả mà tức tất cả. Nó chính là thế tánh của tất cả pháp.
Cho nên, trong cái không đó, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giới cho đến ý thức giới. Không có vô minh cũng không có hết vô minh. Cho đến, không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng không đắc. Vì không có sở đắc, nên Bồ táty nơi Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, ly hẳn tất cả điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn. Vì “không” không thuộc nhị biên phân biệt, nên cái không mà tâm kinh nói đây, không những không có ấm, giới, nhập như hàng Nhị thừa đã chứng nghiệm, mà cũng không luôn pháp Tứ đế hay Thập nhị duyên sanh. Ngay cả cái gọi là trí, là chứng, cũng không. Bởi phần thức ấm sâu sa (là Alaida và Matna) đều không. Đây là mượn ngôn từ để nói về THỰC TƯỚNG BÁT NHÃ như Bát bất của luận Trung Quán, 108 chữ Phi trong kinh Lăng Già. Chứng được chỗ này chính là chứng được cái nhân vô sanh, để có cái quả là niết bàn Phật.
Tánh thể vốn vậy, cái nhân để có cái quả niết bàn đã như vậy, thì QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ phải có tác dụng đưa tâm hiện nay của chúng ta thuận dần với cái không đó, để mỗi Xá Lợi Tử có thể “bùng vỡ” và thể nhập. Vì thế QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ là dùng trí dụng của chân tâm để thấy và chiếu vào những gì hiện lên trong tâm. Ngài Hám Sơn nó:
Tất cả chúng sanh mê chân tâm mình, một bề chỉ nương vọng tâm làm việc. Nên nay tu tập, lấy việc trừ tưởng làm đầu.
Vọng tưởng không tánh, vì sao lại trừ?
Tất cả các tưởng thuộc niệm đều trừ.
Nay mới dụng tâm, cần đề khởi nhất niệm này làm chủ. Do lực quán chiếu của nhất niệm này, chỉ cần thấy được chỗ khởi của vọng tưởng thì nhất niệm này lập tức chiếu phá, chẳng để vọng tưởng tương tục. Ngài Vĩnh Gia nói “Đoạn tâm tương tục” là đây.
Chủ yếu của việc tham thiền là không để mất nhất niệm này. Song một khi vọng tưởng đã diệt, thì nhất niệm này cũng phải bỏ. Vì nhất niệm này chỉ do trừ tưởng mà lập. Tự thể của chân tâm xưa nay ly tướng, đâu thể dung niệm. Vọng tưởng không tánh, nên xưa nay không phải là thứ có sẵn. Vọng tưởngkhông phải là thứ có sẵn, nếu lập nhất niệm - là cái đối đãi với vọng tưởng - thì nhất niệm này lại là cái gốc trợ cho vọng tưởng phát triển. Nên nhất niệm này cũng phải bỏ. Vì chỗ lập là chân, nên chân vọngđều hết, năng sở cả hai đều quên.
Nhất niệm chẳng lập thì niệm niệm chẳng sanh. Niệm niệm chẳng sanh thì cái sáng thường hằng hiện tiền. Tịch chiếu rực sáng nên niệm niệm chẳng diệt. Đây là yếu chỉ đích thực của việc tham thiền.
Theo đó thì thấy, với những gì hiện lên trong tâm, ta chỉ cần tỉnh giác biết được chúng, là ta đang ứng dụng QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ. Quan trọng là ta có tỉnh giác để thấy được vọng tưởng mà chiếu hay không, hay vẫn mãi mê đắm chìm trong những loạn tưởng sanh tử, bỏ mất cái dụng vô bờ của chân tâm.
Hỏi : (Trích từ thắc mắc của một Phật tử)
Vì sao Hán văn không có từ “đắc”, mà đa phần các bậc tôn sư xưa cũng như nay đều dịch “Xa hẳn tất cả điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh niết bàn”. Dịch như vậy có mấy vấn đề cần coi lại :
1. Nếu thật sự viễn ly điên đảo mộng tưởng để được cứu cánh niết bàn thì e rằng chúng ta đang cố vượt qua thế giới ảo này để bước vào thế giới ảo khác, vì kinh luận vẫn nói “Tôi nói Phật đạo như ảo như mộng, tôi nói niết bàn cũng như ảo như mộng … vì ảo mộng và niết bàn không hai” v.v...
2. Nếu viễn ly điên đảo mộng tưởng để được cứu cánh niết bàn rồi, thì câu “Chư Phật ba đời đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề” đâm thừa. Vì được cứu cánh niết bàn rồi, thì đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề chi nữa.
Đáp :
1. Bát nhã nói đây vẫn còn là VĂN TỰ BÁT NHÃ, nên ta phải chấp nhận một số hạn chế nhất định khi nói về chỗ tâm chứng. Nói chứng mà thực là không chứng, nói đắc mà thật là không đắc. Vì thế, một trong 4 pháp dạy người tu Đại thừa là “Y nghĩa bất y ngữ”. Tức khuyên người tu nên hiểu ý, không nên chấp vào văn tự.
Không chấp nhưng khôngvì vậy mà ta có quyền dùng văn tự tự do đến nỗi ý kinh trở thành sai lệch. Vì thế, cần xét coi việc thêm từ “được” hay “đạt đến” như thế, là hợp hay trái ý kinh. Nếu không trái thì không có lỗi để bàn.
Kinh nói “Ly hẳn tất cả điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh niết bàn”. ĐIÊN ĐẢO nói đây, được dùng để chỉ cho cái thấy không bị chi phối bởi nhị biên phân biệt. So với phàm phu, Nhị thừa được cho là bậc thánh giả. Nhưng so với chân lý tối hậu thì cái thấy của chư vị vẫn còn thiên lệch, vẫn bị coi là điên đảo. Vì thế, muốn hiểu đúng câu trên thì phải hiểu : Không chỉ viễn ly tâm thức phàm phu mà còn viễn ly luôn tâm thức “xả sanh tử trụ niết bàn” của hàng Nhị thừa. Tức được niết bàn nói đây, không phải là “Vượt qua thế giới ảo này để bước vào thế giới ảo khác”. Chỉ là xa lìa tâm thức hai bên. Ngay đó chính là niết bàn. Niết bàn này chính là thể tánh vô sanh của vạn pháp. Soi thấu được cái THỂ đó là soi thấu cội nguồn của mọi hiện tượng sự vật ở thế gian, nên nói “Cứu cánh niết bàn”.
Hiểu như vậy, thì thêm một từ “được” hay “đạt đến’ không có gì để bàn. Bởi nó vẫn thuận với những gì tâm kinh muốn nói. Nó chỉ giúp cho chúng sanh dễ hình dung hơn về những gì kinh nói. Dịch sát quá - như bài viết này đã dịch - thì nghĩa lại thành tối. Người đời khó mà hiểu được. Có khi còn hiểu lầm nếu không có phần giải thích bên cạnh. Cho nên, lỗi nếu có, không phải ở chư vị dịch thuật mà là ở người hiểu tâm kinh không đúng, hoặc giảng giải lầm lẫn.
2. Lăng Già Trực Giải của ngài Hàm Thị nói “Phật tánh là nhân, niết bàn là quả”. Vì thế, chứng nghiệmđược tánh thể tột cùng, mới chỉ là nhân. Y cái nhân đó, hành Bồ tát đạo, tiêu trừ tập khí, làm lợi ích cho chúng sanh, mới có cái quả là niết bàn Phật. Nói cách khác, chứng được Phật tánh chỉ mới là chứng được cái THỂ, còn TƯỚNG và DỤNG của thể ấy vẫn chưa hiển bày đầy đủ. Quả Phật, chính là lúc TƯỚNG và DỤNG của THỂ ấy được hiển hiện tròn đầy. Vì thế tâm kinh có hai câu rõ rệt :
a. Bồ tát y nơi Bát nhã ba la mật đa, đạt đến cứu cánh niết bàn.
b. Chư Phật ba đời y Bát nhã ba la mật đa mà được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Theo Biệt giáo, “Cứu cánh niết bàn” là cái QUẢ mà chư vị Bồ tát thuộc Tam hiền phải đến. Đạt được cái QUẢ đó là bước vào Thập địa. Đó là cái NHÂN để có cái QUẢ là niết bàn Phật, chính là thế giới Hoa Nghiêm của mười phương chư Phật.
III. THỰC TƯỚNG BÁT NHÃ
Thưc hành QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ liên tục, đủ thời tiết nhân duyên ta nhận ra được THỰC TƯỚNGBÁT NHÃ. Chính là nhận ra được cội nguồn của VĂN TỰ BÁT NHÃ cũng như QUÁN CHIẾU BÁT NHÃ. Nói nhận nhưng không có cảnh giới sở nhận cũng không có chủ thể năng nhận. Thực tướng Bát nhãcũng chính là thực tướng của vạn pháp. Đó là chỗ không thể dùng lời nói để diễn tả, không thể dùng thức phân biệt mà thấu được.
Vậy thì … Quán chiếu Bát nhã thôi, Xá Lợi Tử!
(Culasaccakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng Đại Lâm, tại giảng đường Trùng Các. Lúc bấy giờ Niganthaputta Saccaka ở tại Vesali tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính. Vị này thường tuyên bố cho hội chúng ở Vesali: “Ta không thấy một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, khi đối thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách. Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường”.
Rồi Tôn giả Assaji vào buổi sáng đắp y, cầm bát vào Vesali để khất thực. Niganthaputta Saccaka, thường hay ngao du thiên hạ, thấy Tôn giả Assaji từ xa đi lại. Sau khi thấy, Niganthaputta Saccaka liền đến gần Tôn giả Assaji, nói lên những lời hỏi thăm, chào đón, xã giao rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Niganthaputta Saccaka nói với Tôn giả Assaji:
– Này Tôn giả Assaji, Sa-môn Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Và có những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?
– Này Aggivessana, như thế này, Thế Tôn huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn như thế này, phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử: “Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã”. Như vậy này Aggivessana, Thế Tôn huấn luyện các đệ tử. Như vậy là các bộ môn mà phần lớn Thế Tôn giảng dạy được dành cho đệ tử.
– Này Tôn giả Assaji, thật sự chúng tôi đã thất vọng khi nghe Sa-môn Gotama thuyết giảng như vậy. Rất có thể chúng tôi sẽ gặp Tôn giả Gotama một thời nào đó và tại một chỗ nào đó. Rất có thể sẽ có một cuộc thảo luận. Rất có thể chúng tôi sẽ đoạn trừ ác tà kiến ấy.
Lúc bấy giờ, có khoảng độ năm trăm vị Licchavi tập hợp tại giảng đường vì một vài công vụ. Rồi Niganthaputta Saccaka đến chỗ các Licchavi ấy, sau khi đến, liền nói các vị ấy như sau:
– Hãy đến, các Tôn giả Licchavi; hãy đến các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta. Nếu Sa-môn Gotama đứng đối thoại với ta như Tỷ-kheo Assaji, một vị đệ tử danh tiếng của ông ta đã làm, thì như một lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một lực sĩ nghiện rượu, sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh. Cũng vậy, ta sẽ dùng lời nói, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, ta nghĩ ta sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Hãy đến, các Tôn giả Licchavi. Hãy đến các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta.
Một số Licchavi nói như sau:
– Làm sao Sa-môn Gotama có thể luận thắng Niganthaputta Saccaka? Niganthaputta Saccaka sẽ luận thắng Sa-môn Gotama.
Một số Licchavi lại nói như sau:
– Làm sao chỉ là Niganthaputta Saccaka lại có thể luận thắng Thế Tôn? Thế Tôn sẽ luận thắng Niganthaputta Saccaka.
Rồi Niganthaputta Saccaka với khoảng năm trăm Licchavi vây quanh, cùng đi đến Đại Lâm, giảng đường Trùng Các.
Lúc bấy giờ một số đông các Tỷ-kheo đang đi qua lại giữa trời. Niganthaputta Saccaka đến các Tỷ-kheo, sau khi đến, liền nói với các vị ấy:
– Chư Tôn giả, nay Tôn giả Gotama ở đâu? Chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Thế Tôn sau khi đi sâu vào rừng Đại Lâm, đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.
Rồi Niganthaputta Saccaka cùng với đại chúng Licchavi, sau khi đi sâu vào rừng Đại Lâm, đến tại chỗ Thế Tôn. Sau khi đến Niganthaputta Saccaka nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Một số Licchavi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi xưng tên họ của mình rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi im lặng ngồi xuống một bên.
Niganthaputta Saccaka sau khi ngồi xuống một bên nói với Thế Tôn:
– Tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama một vấn đề, nếu Tôn giả Gotama cho phép tôi được hỏi.
– Này Aggivessana, hãy hỏi như Ông muốn.
– Tôn giả Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?
– Này Aggivessana, như thế này Ta huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn này, phần lớn Ta giảng dạy được dành cho đệ tử: “Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã”. Như vậy này Aggivessana, Ta huấn luyện các đệ tử. Các bộ môn như vậy, phần lớn ta giảng dạy được dành cho đệ tử.
– Này Tôn giả Gotama, tôi có một ví dụ.
Thế Tôn nói:
– Này Aggivessana, hãy nói lên ví dụ ấy.
– Như các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh là vì tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất. Nhờ vậy các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh. Tôn giả Gotama, như các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác, tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất. Nhờ vậy, các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác. Cũng vậy, này Tôn giả Gotama, như người này mà tự ngã là sắc, nhờ nương tựa sắc làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thọ, nhờ nương tựa thọ làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là tưởng, nhờ nương tựa tưởng làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là các hành, nhờ nương tựa các hành làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thức, nhờ nương tựa thức làm thiện sự hay ác sự.
– Này Aggivessana, như vậy có phải ông nói: “Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”?
– Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: “Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”. Và như đại chúng này cũng vậy.
– Này Aggivessana, đại chúng này có quan hệ gì với Ông? Này Aggivessana, hãy giải thích lời nói của Ông.
– Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: “Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta”.
– Này Aggivessana, Ta sẽ hỏi Ông trở lại về vấn đề này. Ông có thể trả lời nếu Ông muốn. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Một vị vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất không?
– Tôn giả Gotama, một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất. Này Tôn giả Gotama, cho đến các giáo đoàn, các đoàn thể, như các Vajji, các Malla, vẫn có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất, còn nói gì một vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu con bà Vedehi nước Magadha. Này Tôn giả Gotama, vị ấy có quyền hành ấy và xứng đáng có quyền hành ấy.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Sắc là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: “Sắc của tôi như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
Được nói vậy Niganthaputta Saccaka giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Sắc là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: “Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
– Lần thứ hai, Niganthaputta Saccaka vẫn giữ im lặng.
Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
– Này Aggivessana, nay Ông phải trả lời. Nay không phải lúc Ông giữ im lặng nữa. Này Aggivessana, ai được Như Lai hỏi đến lần thứ ba một câu hỏi hợp lý mà không trả lời, thời đầu của người ấy sẽ bị bể ra làm bảy mảnh tại chỗ.
Lúc bấy giờ thần Dạ xoa Vajirapani (Kim Cang Thủ) đang cầm một chùy sắt to lớn, cháy đỏ, sáng chói, đứng trên hư không trên đầu Niganthaputta Saccaka với ý định: “Nếu Thế Tôn hỏi đến câu hỏi thứ ba, một câu hỏi hợp lý mà Niganthaputta Saccaka không trả lời, thì ta sẽ đánh bể đầu nó ra làm bảy mảnh”. Chỉ có Thế Tôn và Niganthaputta Saccaka mới thấy thần Dạ xoa Vajirapani. Niganthaputta Saccaka sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, chỉ tìm thấy sự che chở nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự an ổn nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự nương tựa nơi Thế Tôn, liền bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama hãy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Sắc là tự ngã của ta”, thì Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: “Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này” không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Thọ là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với thọ ấy và có nói được, rằng: “Thọ của tôi phải như thế này, thọ của tôi không phải như thế này” không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Tưởng là tự ngã của ta”, Ông có quyền hành gì đối với tưởng ấy và có nói được rằng: “Tưởng của tôi phải như thế này, tưởng của tôi không phải như thế này” không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Các hành là tự ngã của ta”, Ông quyền hành gì đối với tự ngã ấy và có nói được rằng: “Các hành của tôi phải như thế này, các hành của tôi không phải như thế này” không?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: “Thức là tự ngã của ta”, Ông quyền hành gì đối với tự ngã ấy và có nói được rằng: “Thức của tôi phải như thế này, thức của tôi không phải như thế này” không?
- Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
– Vô thường, Tôn giả Gotama.
– Cái gì vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?
– Là khổ, Tôn giả Gotama.
– Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thọ... (như trên)... tưởng... (như trên)... các hành... (như trên)... Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
– Vô thường, Tôn giả Gotama.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, Tôn giả Gotama.
– Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
– Thưa không, Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Ai ái luyến khổ, chấp trước khổ, tham đắm khổ, quán khổ và nói: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”. Người ấy có thể liễu tri cái khổ của tự mình hay có thể sống trừ diệt khổ không?
– Làm sao có thể được, Tôn giả Gotama? Không thể như vậy, Tôn giả Gotama.
– Này Aggivessana, như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi chỗ này chỗ kia tìm kiếm lõi cây. Người ấy cầm một cái búa sắc bén, đi vào rừng. Người ấy có thể thấy ở đây thân một cây chuối lớn thẳng đứng, còn trẻ, không có khúc đốt. Người ấy có thể chặt gốc cây ấy. Sau khi chặt gốc cây, người ấy chặt ngọn cây. Sau khi chặt ngọn cây, người ấy có thể lột ra các lá cuộn tròn. Nhưng khi lột ra các lá cuộn tròn, người ấy không tìm được giác cây, còn nói gì đến lõi cây. Cũng vậy này Aggivessana, khi được Ta hỏi, Ta cật vấn, Ta chất vấn về những lời của Ông, Ông đã tự tỏ ra trống rỗng, trống không, thất bại. Nhưng này Aggivessana, những lời nói mà Ông tuyên bố cho hội chúng ở Vesali: “Ta không thấy một Sa-môn hay Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu có tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, khi đối thoại với Ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không bị toát mồ hôi nách. Dầu Ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường”. Nhưng chính từ nơi trán của Ông, này một người thường. Nhưng chính từ nơi trán của ông, này Aggivessana, những giọt mồ hôi đang chảy xuống, sau khi thấm qua thượng y, đang rơi xuống đất. Còn Ta, này Aggivessana, nay không có mồ hôi nào trên thân Ta.
Rồi Thế Tôn để lộ kim thân cho Hội chúng ấy thấy. Khi nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời.
Rồi Dummukha, một người con Licchavi, biết được Niganthaputta Saccaka im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời, liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con có một ví dụ.
Thế Tôn nói:
– Này Dummukha, hãy nói lên ví dụ ấy.
– Bạch Thế Tôn, như một hồ sen không xa làng hay thị trấn bao nhiêu, ở đấy có con cua. Bạch Thế Tôn, rồi một số đông con trai hay con gái đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, đến tại hồ sen kia, sau khi đến, lặn xuống hồ nước ấy bắt con cua lên và đặt nó trên đất khô. Bạch Thế Tôn, khi con cua này thò ra cái càng nào, thì các đứa con trai hay con gái ấy, với cái gậy hay miếng sành, chặt, bẻ gãy và đập nát cái càng ấy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy bị chặt, bị bẻ gãy, bị đập nát tất cả càng, không thể lội xuống hồ sen ấy như trước. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, mọi khúc thuyết, gian kế, tranh luận của Niganthaputta Saccaka đã bị Thế Tôn chặt đứt, bẻ gãy, đập tan. Và nay, bạch Thế Tôn, Niganthaputta Saccaka, không thể đến gặp Thế Tôn, chớ đừng nói là có ý định đàm luận.
Khi được nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka nói với Licchavi Dummukha:
– Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Chúng tôi không đàm luận với Ông. Chúng tôi đang đàm luận với Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama, hãy để yên những lời nói của chúng tôi và lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Tôi nghĩ cuộc đàm luận vô bổ này thật đáng hối tiếc! Cho đến mức độ nào, một đệ tử Thanh văn của Tôn giả Gotama trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tận, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn Sư, khỏi phải nương tựa vào ai?
– Ở đây, này Aggivessana, đệ tử Thanh văn của Ta, đối với mọi sắc pháp, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Đối với mọi cảm thọ... đối với mọi tưởng... đối với mọi hành... đối với mọi thức, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, một đệ tử Thanh văn của Ta trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tận, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn sư, khỏi phải nương tựa một ai.
– Cho đến mức độ nào, này Tôn giả Gotama, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát?
– Ở đây, này Aggivessana, Tỷ-kheo đối với bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các sắc pháp, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, chứng được vô chấp thủ giải thoát. Đối với bất cứ thọ nào... bất cứ tưởng nào... bất cứ hành nào... đối với bất cứ thức nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các thức, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”, chứng được vô chấp thủ giải thoát. Cho đến mức độ này, này Aggivessana, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát. Với tâm giải thoát như vậy, này Aggivessana, Tỷ-kheo thành tựu ba pháp vô thượng: Kiến vô thượng, Đạo vô thượng, Giải thoát vô thượng. Được giải thoát như vậy, này Aggivessana, vị ấy chỉ kính lễ, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai: “Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch tĩnh, Ngài thuyết pháp để tịch tĩnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn”.
Được nghe nói vậy, Niganthaputta bạch với Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh suất. Chúng tôi đã dám nghĩ dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu chống đám lửa hừng, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con rắn độc dữ tợn, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, chúng tôi thật lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh suất. Chúng tôi đã dám nghĩ, dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama! Mong Tôn giả Gotama nhận lời, ngày mai dùng bữa ăn của tôi cùng với chúng Tỷ-kheo!
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Rồi Niganthaputta Saccaka, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền nói với các Licchavi:
– Các Tôn giả Licchavi hãy nghe tôi. Sa-môn Gotama ngày mai được mời ăn với chúng Tỷ-kheo. Hãy đem đến cho tôi những gì quý vị nghĩ là hợp thời.
Rồi những Licchavi ấy, sau khi đêm ấy đã mãn cho đem đến Niganthaputta Saccaka khoảng năm trăm phần cơm cúng dường nấu với sữa. Rồi Niganthaputta Saccaka, tại vườn của mình, cho soạn các món ăn thịnh soạn, loại cứng và loại mềm, rồi cho báo tin giờ cho Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, nay đã đến giờ. Cơm đã sửa soạn xong.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến khu vườn của Niganthaputta Saccaka, sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi Niganthaputta Saccaka, tự tay hầu hạ các món ăn thịnh soạn loại cứng và loại mền cho chúng Tỷ-kheo, cầm đầu là đức Phật. Rồi Niganthaputta sau khi biết Thế Tôn dùng bữa ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một chiếc ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Niganthaputta Saccaka bạch Thế Tôn:
– Này Tôn giả Gotama, trong cuộc bố thí này, nếu có công đức và công đức địa, mong rằng những vị bố thí sẽ được hưởng hạh phúc.
– Này Aggivessana, sẽ có (công đức) cho những người bố thí, đối với người đáng được cúng dường như Ông, dầu Ông không phải là không có tham, không phải là không có sân, không phải là không có si; sẽ có (công đức) cho Ông, này Aggivessana, đối với người đáng được cúng dường như Ta, và Ta là người không có tham, không có sân, không có si.
TIỂU KINH SACCAKA, THỨ BA MƯƠI LĂM HẾT.
Thích Minh Châu
_______________________________________________________________
>>> 34. Tiểu kinh Người Chăn Bò
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; âm Hán Việt: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.
Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.
Tình trạng xuất hiện của kinh này không được các tác giả thống nhất. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm 100 TCN đến thế kỷ thứ 2 và một số tác giả cho rằngbài kinh này do bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) viết.
Bản kinh phổ biến nhất ở Việt Nam là bản của sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm 649. Trước đó đã có nhiều sư dịch từtiếng Phạn ra Hán ngữ trong đó có Cưu Ma La Thập (402-412), Nghĩa Huyền,Pháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi Ngôn, Trí Tuệ Luận, Pháp Thành, và Thi Hộ.
Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.
Về đại cương thì các bản văn đều khá rõ và giống nhau nhưng về chi tiết ngay các bản chữ Phạn để lại cũng có chi tiết khác nhau. Dĩ nhiên là trong các bản dịch đều có những chi tiết khác nhau nhỏ (tiếng Hán, tiếng Pháp và tiếng Việt).
Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 thì bản kinh mới được Samuel Beal dịch ra Anh ngữ.
Edward Conze, một nhà nghiên cứu Phật học Anh (1904-1979) với nhiều côngnghiên cứu đã không thể tìm thấy được bài văn nguyên thủy của kinh này, mặc dù đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một nguyên bản ban đầu của kinh này.
Toàn bộ bộ kinh lớn Đại Bát Nhã cũng đã bị quân Hồi giáo tiêu hủy khi họ đánh chiếm Đại học Phật giáo Nalanda. (Xem thêm Lịch sử Phật giáo.)
Khi so lại bản dịch phổ biến hiện nay hầu hết dịch lại từ bản Hán ngữ của sư Trần Huyền Trang với một phiên bản khác còn lưu lại được trong Tạng ngữ thì bộ kinhnày thiếu vắng phần khai kinh và phần kết luận hoan hỉ vâng làm theo của chư vị nghe giảng kinh. Trong bản dịch từ Tạng ngữ, phần này vẫn còn đầy đủ[1]
Bản này do Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法 空相。 不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦 無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若 波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰 揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶
(Culagopalakasutttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa các bộ lạc Vajji (Bạt-kỳ) tại Ukkacela, trên bờ sông Hằng. Tại đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo.
– Này các Tỷ-kheo.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, không quan sát bờ bên này sông Hằng, không quan sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ kia tại Suvideha, tại chỗ không có thể lội qua được. Này các Tỷ-kheo, những con bò xô nhau tụ lại giữa dòng sông Hằng và gặp tai nạn tại nơi đây. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, không quán sát bờ bên này sông Hằng, không quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ không thể lội qua được. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn không khéo biết đời này, không khéo biết đời sau, không khéo biết ma giới không khéo biết phi ma giới, không khéo biết tử thần giới, không khéo biết phi tử thần giới, những ai nghĩ rằng cần phải nghe, cần phải tin những vị này, thì họ sẽ gặp bất hạnh đau khổ lâu dài.
Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Người đó đuổi đi đầu những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có được huấn luyện. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò con nhỏ, những con bò con còn bú. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo thời xưa ấy có con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là người có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết ma giới, khéo biết phi ma giới, khéo biết tử thần giới, khéo biết phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin những vị này, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Này các Tỷ-kheo, ví như những con bò đực già, đầu đàn, chúng đã lội cắt ngang dòng sông Hằng và qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo là những bậc A-la-hán, đã đoạn trừ các lậu hoặc, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, các hữu kiết sử đã hoàn toàn bị đoạn diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí. Những vị này, sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo, ví như những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có huấn luyện, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo đã diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa, sẽ diệt tận khổ đau. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò con, nhỏ, những con bò con còn bú, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác. Những vị này lội cắt ngang dòng sông Ma vương và sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, con bò con còn nhỏ, mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành, những vị này sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết đối với ma giới, khéo biết đối với phi ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo biết đối với phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin nơi Ta, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi Thiện Thệ nói vậy, bậc Đạo sư lại nói thêm bài kệ như sau:
Đời này và đời sau,
Bậc Trí khéo trình bày,
Cảnh giới Ma đạt được,
Cảnh Tử Thần không đạt.
Bậc Chánh Giác, Trí Giả,
Biết rõ mọi thế giới,
Cửa bất tử rộng mở,
Đạt an ổn Niết-bàn.
Dòng Ma bị chặt ngang,
Nát tan và hư hoại,
Hãy sống sung mãn hỷ,
Đạt an ổn Niết-bàn,
(Này các Tỷ-kheo).
TIỂU KINH NGƯỜI CHĂN BÒ, THỨ BA MƯƠI BỐN HẾT.
Thích Minh Châu
________________________________________________________________________-
>>> 33. Đại kinh Người Chăn Bò
Chân thành tán thán ghi nhận công đức các vị: Trí Siêu, Nguyên Chứng, Nguyên Giác và Nguyên Thanh, những vị đã đóng góp tích cực cho tập sách, bằng sự sưu tầm, sao chép, bổ túc các tư liệu văn bản, cùng là tham gia ý kiến về một số chi tiết khác nhau giữa các văn bản.
Nguyện hồi hướng công đức này đến khắp Pháp giới chúng sanh đồng triêm lợi lạc.
H.T. THÍCH TRÍ THỦ
Tâm kinh Bát nhã, kể từ ngày bản dịch của Ngài Huyền Tráng ra đời, đã được tất cả các Phật tử Á Đông chấp nhận và tụng niệm thường xuyên. Ai cũng thuộc lòng và ít nhiều thâm hiểu giá trị cùng vị trí của kinh này trong lịch sử tư tưởng Phật giáo. Đối với Việt Nam ta, cho đến nay, Tâm Kinh Bát nhã vẫn là một bài nhật tụng được chuyên trì nhiều nhất.
Ngay từ những năm khói lửa của cuộc kháng chiến Nguyên Mông đầy gian khổ nhưng cũng vừa hào hùng, vị anh hùng dân tộc, đồng thời là vị thành lập Thiền Phái Trúc Lâm thuần túy Việt Nam, vua Trần Nhân Tôn đã viết trong Cư trần lạc đạo:
Dựng cầu đò, xây chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Cứng hỷ xả, nhuyến từ bi,
Nội tự tại Kinh Lòng hằng đọc.
Ngài Minh Châu Hương Hải là người dịch và chú giải Tâm Kinh Bát nhã đầu tiên bằng tiếng dân tộc quốc âm hiện còn bảo tồn. Rồi ngài Chân Nguyên ca ngợi năng lực thâm diệu của kinh trong Nam Hải Quán Âm
Công chúa thấy thốt thương song
Bèn chuyển Kinh Lòng động đến hoàng thiên
Bảo hoa bay khắp bốn bên
Hào quang thấu lọt dưới trên cửa thành
Thiết tha giải tích tan tành
Nhất thiết tù rạc siêu sanh một giờ.
Ngài Toàn Nhật, một nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc ta, đã viết trong Thiền Cơ Yếu Ngữ Văn:
Một nồi hương huệ đốt xông
Ba biến Kinh Lòng thường niệm hôm mai.
Rồi trong Tham Thiền Vãn, ngài cũng nói:
Chí dồi mài công phu lựa lọc
Kết tri âm giảng đọc Tâm Kinh
Cốc mình thức tử tri sinh
Sá gì dế lỗ rành rành đặng mưa.
Thì ta cũng đủ thấy kinh này đã được dân tộc ta qua lịch sử hâm mộ như thế nào. Điều này cũng không có gì lạ, vì Tâm Kinh Bát nhã đã cô kết lại một cách trọn vẹn tất cả giáo nghĩa siêu việt của Phật giáo Đại thừa. Mà muốn hiểu Phật giáo Đại thừa, cũng như muốn thực hành phương pháp tu trì của Phật giáođó, ta không thể nào không biết, đọc, và hiểu nghĩa của Tâm Kinh. Vì thế hôm nay tôi phát nguyện dịch lại bản Tâm Kinh được ưa chuộng vừa nêu.
Mặc dù rằng nguyên bản Phạn văn của kinh này đã được tìm thấy, nhưng bản dịch của ngài Huyền Tráng cho đến nay vẫn còn được rất nhiều người hâm mộ. Cho nên, tôi đã dựa theo bản của ngài Huyền Tráng mà dịch ra Việt văn, đồng thời tham khảo bản Phạn văn cũng như các bản dịch khác, đặc biệt bản dịch và chú giải Tâm Kinh bằng quốc âm của thiền sư Minh Châu Hương Hải vừa được phát hiện.
Với mục đích cung ứng tài liệu cho việc học tập và nghiên cứu Tâm Kinh, tôi cũng tập thành tại đây các bản Phạn văn theo thư pháp Tất đàn và Devanagari, bản tiếng Mãn Châu, Tây Tạng, Vu Điền, Mông Cổ, Pali, các dịch bản và phiên bản Hán văn, bản chú giải bằng tiếng quốc âm xưa nhất của thiền sư Minh Châu Hương Hải, cùng các bản Anh, Pháp, Đức và Nhật.
Nguyện rằng, bản dịch này giúp các Phật tử hiểu sâu hơn nữa giáo nghĩa của Đại thừa mà Đức Phật đã lân mẫn trao phó. Và cũng vì mục đích giúp các Phật tử lĩnh hội ý nghĩa của bản văn, tôi đã mạo muội viết thêm bản chú giải của mình. Bản chú giải này thuộc phần một. Phần hai của tập này gồm các bản văn vừa kể trên. Phần ba dành riêng để chú thích, chỉ dẫn và bản so sánh từ điển thuật ngữ Phạn, Hán, Tây Tạng, Anh, để các thiện tri thức tiện tra cứu.
Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh gia hộ.
Già Lam, mùa An cư
H.T. THÍCH TRÍ THỦ
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cốkhông trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vôminh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Nói đến Phật giáo Đại thừa là nói đến Bát nhã. Vì, không có Bát nhã, là không có Phật giáo Đại thừa. Bát nhã là đầu mối, là mạch nguồn từ đó các trào lưu tư tưởng Đại thừa kể cả Mật giáo dậy khởi.
Như vậy trong thực chất, Bát nhã là gì mà có một nguồn sinh lực dồi dào bất tận đến thế?
Bát nhã do Phạn ngữ Prajnà phiên âm. Tàu dịch nghĩa là Tuệ, Trí Tuệ, Không Trí. Nhưng dù dịch gì đi nữa cũng không một từ nào trong Hoa văn lột được hết ý nghĩa hàm ẩn trong phạn ngữ Prajnà. Cho nên, văn học Phật giáo Trung Hoa cuối cùng cũng phải dùng từ ngữ phiên âm Bát nhã để chỉ cho loại trítuệ đặc biệt này, mới có thể tránh mọi ngộ nhận sai lạc cho người học.
Thông thường, cứ nói đến trí hay tuệ hay trí tuệ, người nghe lập tức liên tưởng đến trí năng, một trong ba năng lực (cảm năng, trí năng và ý chí) của con người mà các sinh vật không có, hoặc có nhưng ở một mức độ thấp kém. Trí hay trí tuệ thường được hiểu như trí khôn hay óc thông minh xán lạn, lãnh hộidễ dàng các kiến thức đã có, hoặc hội ý những kiến thức mới mà loài người sắp phát hiện ra. Cái bộ óc thông minh ấy đối với Phật giáo được mệnh danh là thế trí biện thông, bao gồm cả tốt lẫn xấu ngay trong bản chất, và tác dụng nó thì thường là lành ít dữ nhiều, bởi lẽ trí ấy gắn liền với phiền não khổ đau, hay tệ hơn nữa, nó chính là sản phẩm của chính phiền não khổ đau.
Khác với thế trí biện thông, Bát nhã là loại trí tuệ siêu thiện ác, trí tuệ vô phân biệt đã rủ sạch phiền não. Cho nên, từ trong bản chất, nó là loại trí tuệ thanh tịnh rỗng lặng, không chút bợn nhơ, trong suốt như hư không, nên cũng được gọi là không trí. Do đó, nó thường xuất hiện như một thứ trí tuệ sâu xa vi diệu, mà Tâm kinh Bát nhã gọi là thâm Bát nhã, trí tuệ sâu xa. Vì tính chất nó như thế nên nó hoàn toàn tự tạitrước mọi đối tượng nhận thức, trong mọi hoàn cảnh, nó không bị đối tượng hay hoàn cảnh chi phốibuộc ràng. Từ đấy, nó soi suốt thật thể các pháp tức các hiện tượng trên cõi đời, thấy rõ bản chất của chúng. Trí tuệ ấy tự bản chất nó được mệnh danh là Thật tướng Bát nhã. Lại cũng trí tuệ đó, trên phương diện tác dụng soi suốt các hiện tượng, thì mang tên Quán chiếu Bát nhã. Thật tướng trong suốtvắng lặng, quán chiếu cũng trong suốt rỗng lặng, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Và có trong suốt vắng lặng như thế thì mới thấy được cái thực chất nhân duyên sanh của tất cả các pháp. Vì đã do nhân duyên sanh, các pháp thảy đều không có tự thể, thảy đều giả hữu, hết thảy đều không. Không ở đây phải hiểu là không có thật thể. Thuật ngữ Phật giáo gọi cái không ấy là Thuấn nhã đa, tức phiên âm chữ Ínyat, thường dịch là tánh không.
Giáo nghĩa tánh không bắt nguồn từ đâu? Vị trí nó trong giáo lý Phật như thế nào? Chính thống chăng? Bàng thống chăng? Đó là những câu hỏi cần có giải đáp thì may ra mới tạm có một khái niệm tương đốirõ ràng về Bát nhã. Chỉ khái niệm mà thôi, Còn thực chất ra sao, thì phải tu mới chứng được.
Ai có nghiên cứu Phật giáo cũng đều biết rằng tinh hoa của Pháp mà Phật dạy chỉ tụ tại một điểm và chỉ một điểm mà thôi. Đó là duyên khởi, cũng gọi là duyên sanh. Phật giáo sở dĩ khác với các thần giáo chỉ một điểm này và ở một điểm này. Và ai đã thừa nhận luật duyên khởi thì không thể nào thừa nhận một đấng tạo hóa sáng thế nữa. Người đó trên hình thức, dù có theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, cũng đã là Phật tử trên bình diện tư tưởng rồi. Ngược lại, dù là tăng sĩ, nhưng không thông suốt duyên khởi, thì đó cũng chỉ là ngoại đạo trá hình. Nói thế, cốt để nhấn mạnh vai trò chỉ đạo, vai trò tiên quyếtcủa luật duyên khởi trong toàn bộ giáo pháp Phật. Không có duyên khởi, không có Phật giáo, cũng như không có Bát nhã thì không có Đại thừa, như đã khẳng định ngay trong câu mở đầu.
Khi đã thừa nhận duyên khởi thì đương nhiên phải thừa nhận hai hệ luận gắn liền với duyên khởi, đó là vô ngã và vô thường. Đã là vô thường thì tác dụng do nó gây ra là khổ. Còn vô ngã thì đương nhiên các sự kiện tự nó là không. Không, đây cần nhắc lại, là không có tự thể. Từ những cái mắt thấy tai nghe, cho đến những cái ý thức suy nghĩ, hết thảy đều không có tự thể dù chúng đang hiện hữu trước mặt. Sự hiện hữu ấy do các duyên (pratÌtyasamutpda) tức các điều kiện giả hợp mà thành, không có ngã thể, dù bất cứ là ngã thể của hữu tình hay ngã thể của vô tình. Vô ngã của hữu tình thì gọi là nhân vô ngã; vô ngã của vô tình thì gọi là pháp vô ngã. Nói rõ ra, tất cả mọi sự vật trong đó gồm cả con người, đều là vô ngã. Trường phái Bát nhã triển khai lý luận về hai thứ vô ngã ấy, tức vô ngã về con người, vô ngã về sự vật, mà thành lập thuyết tánh không, chứng minh cho triết học luận lý bát bất là thành tựu bằng đạo họccủa phương pháp hành trì thực tế để giải quyết khổ đau.
Tính chất nhất trí và liên tục từ Phật giáo Nguyên thủy đến Phật giáo Đại thừa như thế thật quá rõ ràng, trước khi Đại thừa hưng thịnh, các trường phái A tỳ đàm chỉ chú trọng đến nhân vô ngã, và ít lưu tâmđến pháp vô ngã. Thậm chí có trường phái như nhất thiết hữu bộ chẳng hạn, lại còn chủ trương cực đoan rằng nhất thiết pháp giai hữu với cách ngôn là tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu. Để đối khángvới chủ trương cực đoan đó, các trường phái A tỳ đàm thuộc Đại chúng bộ đưa ra chủ trương đối nghịch và cực đoan không kém là nhứt thiết pháp giai không. Bằng phương tiện triết học phân tích tinh vi, nghĩa là bằng thuần túy luận lý các trường phái sau đưa giáo nghĩa của họ đến một cái ngoan không rùng rợnthê thảm. Và Niết bàn theo quan điểm này là một trạng thái chết, trong đó xác thân phải biến ra tro bụi, còn ý thức và trí tuệ thì không còn một chút dấu vết lưu lại (khôi thân diệt trí).
Vô ngã, nếu chỉ hiểu được theo nghĩa nhân vô ngã mà thôi, thì không sao tránh khỏi pháp chấp. Còn vô ngã, dù bao trùm cả pháp vô ngã, nếu chỉ loanh quanh trong khái niệm triết học do thuần túy lý luận tạo dựng nên, thì xa rời thực tế, trở thành khô cằn và đưa đạo Phật vào cõi chết. Nguy hiểm của triết học dù cho đó là triết học tinh vi u huyền cùng cực đi nữa, chính là ở đó.
Thừa hưởng truyền thống không cả nhân lẫn pháp của Đại chúng bộ, trường phái Bát nhã chủ trương thực hiện cái không bằng trực quán tổng hợp, nghĩa là bằng hành trì thực tế theo con đường đạo học, để tự mình trực tiếp thể nghiệm cái không ấy trong khi các pháp đương giả hữu. Cái không hiện ra qua công phu tu chứng đó gọi là đương thế tức không, nghĩa là trong khi các pháp đương hiện hữu sờ sờtrước mặt, tự thể của chúng vẫn chỉ là không. Vì do nhân duyên giả hợp chúng không có ngã thể riêng. Sự hiện hữu của chúng chẳng qua chỉ là giả hữu mà thôi. Như vậy, cái sở quán (các pháp) vốn dĩ không, thì cái năng quán (trí) cũng phải là không, như vậy mới không bị chướng ngại và đạt tiêu đích là soi suốt thực tế các pháp. Trí ấy mệnh danh là Bát nhã (Prajnà).
Dứt khoát Bát nhã phải do tu chứng mà tựu thành, không do cái học mà un đúc nên. Trong địa hạt này, cái học hoàn toàn bất lực. Cái học chỉ giỏi tạo ra một mớ bòng bong khái niệm. Hiện thực hóa các khái niệm ấy, phải do công phu hành trì thực tế của đạo học. Bởi vì Bát nhã Ba La Mật Đa là một thứ gì sâu xa vi diệu, không dễ gì thể nhập nếu không có sự hành trì. Có thể hiểu được như thế thì mới xác định được ba chữ hành và chiếu kiến trong câu mở đầu của Tâm kinh Bát nhã.
Hành nghĩa là hành trì. Phương pháp hành trì ở đây là pháp quán Bát nhã, tức là một pháp hành thiền riêng của trường phái này, nhờ đó mà hành giả tự mình trực tiếp thấy được cái không của đương thể bị quán. Thấy được cái không ấy là quán chiếu. Quán chiếu không lìa thực tướng. Tuy hai mà một, như đã nói trên. Bên dụng bên thể. Ngay ở nơi dụng mà bắt được thể. Thể hay dụng cũng chỉ một Bát nhã mà thôi. Rõ ràng cái học từ chương không có giá trị gì ở đây cả. Cũng không có giá trị gì kể cả đến các khái niệm triết học duy lý được tạo dựng trên nền tảng luận lý học hữu danh vô thực.
Tuy nhiên, nếu phải do tu đắc mới biết có trí Bát nhã, thì những kẻ chưa tu hay không tu làm thế nào để có một khái niệm về cái trí này? Và làm sao khiến họ có được niềm tin để theo đòi hạ thủ công phu? Nhu cầu được đặt ra là phải thuyết minh trí ấy để hé cho người muốn tu biết dung mạo hình dáng của nó ra sao. Vì vậy mà phải dùng phương tiện để mô tả, đó là văn tự Bát nhã. Phạm vi của văn tự Bát nhã bao gồm toàn bộ văn học Bát nhã, từ ngôn thuyết cho đến triết học, nhằm mục đích thuyết minh giáo nghĩanày. Nhưng nói theo nghĩa hẹp thì văn tự Bát nhã chính là triết học Bát nhã. Cần nhấn mạnh lại một lầnnữa rằng, triết học Bát nhã chỉ được dùng như một phương tiện để giới thiệu Bát nhã mà thôi. Nó không thể nào thay thế được quán chiếu Bát nhã. Lý thuyết không đem lại kết quả cụ thể như công phu thực tập.
Nói đến triết học Bát nhã thì phải đề cập đến cơ sở lý luận, căn cứ vào đó triết học này được xây dựng. Đó là luận lý học bát bất mệnh danh là bát bất Trung đạo.
Khác với các hệ thống luận lý thông thường đặt cơ bản trên những dữ kiện coi như thực hữu và cố định, hệ thống luận lý mới này là một loại luận lý siêu luận lý, do Long Thọ sáng tạo, nhằm thuyết minh những hiện tượng giả hữu và chuyển biến trong từng sát na, là các pháp duyên sanh như huyễn. Phương phápluận lý này chuyên môn dùng phủ định để khẳng định. Bởi lẽ văn pháp vốn là duyên sanh vô thường, không có một pháp nào đứng yên một chỗ, thì thử hỏi trong trạng huống đó, ta có thể khẳng định được gì không? Cái hiện thực của lát giây trước, không phải là cái hiện thực của lát giây sau. Dòng sông phút trước không phải là dòng sông tiếp liền theo đấy. Càng không phải là dòng sông năm xưa hay dòng sông trong mười năm tới, tuy cùng mang tên một dòng sông chung. Cho nên, đúng theo sự thật, ta không thể khẳng định được gì cả. Để được gần sát với sự thật hơn, phép luận lý chơn chánh và lành mạnh buộc ta phải tìm khẳng định trong phủ định là vì thế.
Pháp luận lý phủ định này, mãi cho đến giữa thế kỷ XIX mới được các triết gia phương Tây biết đến và được họ tôn xưng là siêu biện chứng. Bát bất nghĩa là tám sự phủ định gồm bốn cặp tám điều: sanh, diệt; thường, đoạn; nhứt, dị; lai, xuất. Thật ra thì, gặp gì phủ định nấy, mới sát với lý vô thường biến chuyển của vạn pháp. Nhưng sở dĩ luận bát bất chỉ quy định có tám điều mà thôi, là vì đấy là tám hiện tượng rõ ràng nhất và tiêu biểu nhất trong tiến trình chuyển biến của sự vật. Hễ phủ định cái nọ thì lại khẳng định cái kia theo hai mặt tương đối của nó. Như nói bất sinh, đồng thời phải nói đến có diệt. Nói bất sinh bất diệt tức là đồng thời phải nói là thường. Nói bất thường thì đoạn tự hiện ra. Nói bất đoạn thì nhứt tự hiện ra. Nói bất nhứt thì dị tự hiện ra. Nói bất dị thì lai tự hiện ra. Nói bất lai thì xuất tự hiện ra. Nói bất xuất thì sanh lại tự hiện ra, v.v... Vì lẽ ấy, và để được sát với sự thật không ngừng biến chuyển, đừng nên khẳng định cái gì hết. Và khi muốn khẳng định thì dùng phủ định mà diễn đạt. Thay vì khẳng định diệt thì nên nói bất sanh. Thay vì khẳng định đoạn nên nói bất thường, v.v...
Phép phủ định này được Long Thọ phát kiến, và dựng thành một cơ sở luận lý học vĩ đại để thuyết minhgiáo nghĩa tánh không của trường phái Bát nhã. Có hiểu được then máy của phép luận lý này, mới hiểu được đoạn: chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm trong bài Tâm kinh. Sáu chữ bất ở trong đoạn này là một loạt phủ định dồn dập, nhằm mục đích khẳng định thực chất của tướng không ở nơi năm uẩn. Nói tướng không ấy bất sanh, tức nói nó tịch diệt. Nói nó bất diệttức nói nó thường tại, v.v... Trọn cả đoạn này cho đến vô trí diệc vô đắc là chứng minh tánh không bằng luận lý triết học, để rồi đi đến chỗ dĩ vô sở đắc cố ở đoạn tiếp theo là đưa hành giả vào đoạn thực tế hành trì. Triết học thuyết minh là gieo khái niệm để mở đường chỉ lối. Tiếp theo là công việc của đạo họcphải thành tựu bằng công phu tu hành. Thực ích lợi là phần của đạo học, nhưng nếu không nhờ phần triết học soi sáng thì không biết nương tựa vào đâu để lần theo dấu vết mà hành trì. Ngược lại, nếu chỉ thuyết minh suông mà không hạ thủ công phu thì chung quy chỉ dẫm chân một chỗ mà thôi. Có lẽ là tệ hơn nữa: đi giật lùi trên đường tu chứng.
Trên đây là những khái niêm căn bản về đạo học Bát nhã và triết học Bát nhã: đạo học thành tựu bằng phép quán chiếu; triết học xây dựng trên căn bản bát bất. Còn nguồn gốc và tiến trình tư tưởng Bát nhãthì như thế nào?
Như trên đã nói, nội dung của giáo nghĩa Bát nhã hàm ẩn ngay trong giáo nghĩa vô ngã, một trong hai hệ luận của duyên sanh do chính Đức Thế Tôn phát kiến và truyền dạy. Vô ngã của nhân (nhân không) và vô ngã của pháp (pháp không) đó chính là nội dung của không tính Bát nhã. Giáo nghĩa này đến khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch thì phát triển mạnh và kết thành đóa hoa đầu tiên là kinh Tiểu phẩm Bát nhã xuất hiện trên lá bối. Qua thế kỷ thứ I sau Tây lịch, tư tưởng Bát nhã được triển khai thêm nữa và kết tập thành Đại phẩm Bát nhã. Quan điểm lịch sử này, là căn cứ vào quá trình dịch thuật của hai bộ kinh này trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Chi lâu ca sấm lần đầu tiên dịch Tiểu phẩm thành Đạo hành Bát nhã kinh vào năm178 sau Tây lịch. Rồi Trúc Pháp Hộ và những người khác dịch Đại phẩm thành Quang tán và Phóng quang Bát nhã, vào giữa thế kỷ III trở đi. Đến đầu thế kỷ V, La Thập dịch lại với cái tên ta thường biết là Tiểu phẩm và Đại phẩm Bát nhã. Vào đầu thế kỷ VII Huyền Tráng du hành sang Ấn Độ thu góp tất cả các kinh điển thuộc hệ thống Bát nhã về Trung Quốc dịch thành bộ Đại Bát nhã 600 quyển chia ra tứ xứ lục thập hội. Kể cả trước lẫn sau, số kinh trong hệ thống Bát nhã hiện lưu giữ trong Đại Tạng chữ Hán gồm 720 quyển.
Tư liệu và tư tưởng Bát nhã triển khai phong phú vĩ đại như thế, nhưng nếu đúc kết tinh yếu thì thu gọnlại trong một bài Tâm kinh dịch ra Hán văn chỉ có 260 chữ theo bản của Huyền Tráng. Bản này được dịch lần thứ hai. Người đầu tiên dịch kinh này là ngài La Thập. Cả hai bản dịch này tương đối nhất trí với hai nguyên bản Phạn văn ghi bằng thư pháp Tất đàn trên Lá Bối, được bảo tồn tại Pháp Long tự, Hòryũji, trong thành Nara của Nhật. Thường hai bản này được gọi là Lược bản Bát nhã, ngắn gọn nhất, và được liệt kê theo thứ tự thời gian như sau:
1. Ma ha Bát nhã Ba la mật đại minh chú kinh, do ngài Tam Tạng Cưu Ma La Thập dịch đời Diêu Tần, vào khoảng năm 402 - 412 sau Tây lịch.
2. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng phụng chiếu dịch vào đời Đường, năm 649.
Ngoài hai lược bản này, kinh tạng còn có bản:
3. Phật thuyết Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch năm 700. Giống như bản Huyền Tráng, trừ phần chú, không dịch âm mà ghi bằng chữ Tất đàn và sau đó, thêm một đoạn.
Ngoài ra, còn có những bản khác, dài hơn, được gọi là Quảng bản Bát nhã, như sau:
4. Phổ biến Trí tạng Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh do Pháp Nguyệt (Dharmacandra) dịch năm 732 đời Đường.
5. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, sa môn Pháp Nguyệt dịch; mộc bản được bảo tồn tại Thanh Long tự, Đông Tháp viện. Tuy trùng tên người dịch với bản trên, nội dung hai bản lại khác nhau.
6. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Bát nhã (Prajnà) và Lợi Ngôn (Li yen) dịch năm 790 đời Đường.
7. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Trí Tuệ Luân (Prajnàcakra) dịch năm 850 đời Đường.
8. Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Pháp Thành dịch năm 856. Bản này vừa tìm thấy được ở Đôn Hoàng.
9. Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Thi Hộ (Dãnapãla) dịch năm 980 đời Tống.
Ngoài các bản trên, kinh lục còn ghi các bản khác, hiện nay không còn, gọi là thất bản:
10. Ma ha Bát nhã ba la mật đa Chú kinh, do Chi Khiêm dịch năm 223. So sánh tựa bản này với bản La Thập, ta có thể đoán đây là lược bản.
11. Bát nhã ba la mật đa Na kinh, do Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci)dịch năm 693.
12. Ma ha Bát nhã tùy Tâm kinh, do Từ Hiền (siksãnanda) dịch năm 700 đời Đường.
13. Phạn bản Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Bất Không Kim Cương (Amoghavajra) dịch năm 720 đời Đường.
Trong Đại Tạng Kinh Trung Hoa, tôi thấy có một bản dịch ghi là của Kim Cương thượng sư, nhưng vì không đủ chứng cớ cụ thể đây là bản của Bất Không Kim Cương, nên tôi liệt bản này ở phần cuối các bản văn. Thêm vào đó, gần đây lại tìm thấy ở Đôn Hoàng thạch thất bản dịch Phạn âm của ngài Huyền Tráng; bản này đã từng được khắc vào bia đá chùa Bạch Mã, nơi ngài Huyền Tráng trụ trì và dịch kinh.
Không Hải, tức Hoằng Pháp đại sư, sáng tổ Chân Ngôn tôn ở Nhật, là người đầu tiên dịch bản Huyền Tráng sang Nhật ngữ và chú giải kinh, làm kinh nhật tụng cho chính tôn này. Từ đây, ở Trung Hoa và Nhật Bản, cũng như ở Việt Nam, bản dịch Huyền Tráng là được hâm mộ và phổ biến sâu rộng hơn hết. Cho nên, tôi đã dùng bản Huyền Tráng để dịch và chú thích. Các bản kia ta dùng để nghiên cứu hay tham khảo cho rộng thêm phần kiến văn. Bản Huyền Tráng mọi người ai cũng biết, không ai là không thuộc vì rất ngắn và rất gọn.
Từ xưa, ngài Minh Châu Hương Hải đã viết bản chú giải tiếng quốc âm xưa nhất hiện còn, mang tên Bát nhã Tâm kinh thích giải. Ngài Toàn Nhật cũng đã từng viết trong Tham thiền vãn:
Chí dồi mài công phu lựa lọc
Kết tri âm giảng đọc Tâm kinh
Cốc mình thức tử tri sinh
Sá chi dế lỗ rành rành đặng mưa
Hơn nữa, ai đọc tụng bản dịch của Huyền Tráng cũng thấy tinh thần sảng khoái, tâm lý an tịnh, có một sự linh cảm vô cùng đặc biệt. Chính ngay ngài Huyền Tráng khi đi Ấn Độ thỉnh kinh, dọc đường trải quavô lượng gian khổ, gặp một vị Phạn tăng truyền cho bài Tâm kinh này. Ngài học thuộc lòng, âm thầm tụng niệm không ngớt, nhờ sức oai linh gia bị, ngài vượt qua tất cả nguy hiểm của rừng thiêng nước độc, của yêu tinh thú dữ, để rồi cuối cùng đạt được mục đích tham học, thỉnh được kinh pháp trở vềTrung Hoa, thành một nhà đại học vấn, thành tựu sự nghiệp vĩ đại hoằng pháp lợi sanh mà Đông Tây cổ kim thảy đều ngưỡng mộ. Cho nên, Tâm kinh Bát nhã này không những lý nghĩa vô cùng sâu xa mà sức cảm ứng cũng vô cùng linh nghiệm. Ai nhất tâm thành tín đọc tụng thì cũng có công đức vô lượng. Trong Nam Hải Quán Âm, ngài Chân Nguyên kể chuyện công chúa Diệu Thiện xuống địa ngục, gặp cảnh tội nhân khổ đau van xin nên
Công chúa thấy thốt thương song
Bèn chuyển Kinh Lòng động đến hoàng thiên
Bảo hoa bay khắp bốn bên
Hào quang thấu lọt dưới trên cửa thành
Thiết già giải tích tan tành
Nhất thíết tù rạc siêu sanh một giờ
Thì cũng đủ thấy Tâm kinh mầu nhiệm thâm diệu thế nào!
BỒ TÁT BÁT NHÃ
(Thai tạng giới Mạn đà la)
Theo:
Phật giáo Đại từ điển của
Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5, trang 4269c.
(Mochizuko Shinko Daijiten)
Tám chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH là đề mục của kinh này. Sáu chữ trước gồm hai danh từ tiếng Phạn phiên âm là Bát nhã, tức Prajnà và ba la mật đa, tức pramitã. Tâm là tiếng Hán dịch chữ Phạn hrdaya. Kinh là tiếng Tàu dịch chữ Phạn sÍtra. Vậy nguyên văn Phạn ngữ của Tâm kinh là Prajnpramit hrdaya sÍtra.
Bát nhã (prajn), Hán dịch là tuệ, trí tuệ. Nhưng vì trong Hoa ngữ không có một từ ngữ nào tương đương với từ Bát nhã trong tiếng Phạn nên về sau người ta bắt buộc phải tạo từ mới bằng cách ghép thêm chữ không vào để tăng cường và xác định ý nghĩa của từ tuệ và trí và ta có không tuệ và không trí. Nhưng cũng vẫn chưa lột hết ý nghĩa hàm ẩn trong danh từ Bát nhã. Nghĩa gốc của Bát nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, phát sinh từ công hạnh tu hành theo pháp quán không mà chứng đắc. Đây là loại trí tuệ thanh tịnh của chư Phật vừa rỗng lặng vừa suốt soi, nhờ đó mà quán chiếu được thật tướng của các pháp và thấy rõ các pháp là không có tự tánh. Đây không phải là loại trí tuệ thế trí biện thông. Vì thế để tránh mọi ngộ nhận vô tình hay cố ý, văn học Phật giáo Trung Quốc buộc lòng phải dùng y nguyên tiếng Phạn là Bát nhã với những chú giải kèm theo.
Trong kinh luận chia Bát nhã thành ba loại: văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã và thật tướng Bát nhã. Nương nơi văn tự ghi chép trong kinh luận hay nhân nghe diễn giảng về giáo nghĩa Bát nhã mà phát sinh trí tuệ, rồi nhờ đó mà thấu rõ nghĩa văn, không bị chướng ngại, trí tuệ ấy gọi là văn tự Bát nhã. Nó cũng được gọi là phương tiện Bát nhã, nghĩa là thứ trí tuệ do phương tiện của ngôn ngữ văn tự mà phát sanh. Tiến lên một bước nữa, do nương theo các khái niệm đã lý hội được để suy tư quán sát thật tướng các pháp, rời bỏ tướng ngữ ngôn văn tự, trong lúc tâm hành như thế mà thật tướng các pháp tựphơi bày ra dưới sự xem xét của trí tuệ thì gọi là quán chiếu Bát nhã. Từ quán chiếu ấy, gia công hành trì quán sát đến một mức thâm sâu nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn đến độ nhứt cử nhứt động, bất cứ nói phô hay im lặng, đều không lìa khỏi Bát nhã. Từ cạn vào sâu, nhờ sự quán sát nhỏ nhiệm mà xả bỏ được quán sát thô phù theo kiểu người đời gọi là dùng nêm nọ trục xuất nêm kia; cứ thế tiến mãi cho đến khi rủ bỏ hết tất cả các tướng phân biệt, tâm niệm bỗng nhiên bừng sáng chói, khế hợp hòa đồng và trùm khắp tất cả, không còn ranh giới giữa bỉ thử, nhơn ngã, nội ngoại, thị phi. Pháp tánh chơn như tự hiện bày. Cái trí tuệ sáng chói ấy gọi là thật tướng Bát nhã; cũng gọi là căn bản Bát nhã. Thật tướng Bát nhã là chơn thể của Bát nhã. Quán chiếu Bát nhã là diệu dụng của Bát nhã. Trong chơn thể, nó là trí tuệvô phân biệt Cho nên, nó có diệu dụng quán chiếu cùng khắp. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, vì dụng không lìa thể. Văn tự Bát nhã cũng chính là trí tuệ ấy, nhưng hiện ra trong năng lực lãnh hội những khái niệm về giáo nghĩa Bát nhã xuyên qua văn học và triết học Bát nhã. Vì vậy, văn tự Bát nhã chỉ được xem như một loại trí tuệ phương tiện giúp soi đường cho hành giả trên tiến trình tu tập quán chiếu Bát nhã, nhằm khai thông thật tướng Bát nhã để bước lên bờ bên kia: ba la mật đa.
Từ ngữ này La Thập phiên âm là ba la mật và dịch nghĩa là độ (đưa qua sông, sang sông), hay đáo bỉ ngạn: đến bờ kia. Độ hay đáo bỉ ngạn đều chỉ là những dụng ngữ nói lên sự giải thoát khổ đau. Cõi sanh tử mà chúng sanh đang trôi lăn được xem như bờ bên này, thì bờ bên kia được ví với Niết bàn, ở đó, chúng sanh được thoát ra ngoài vòng sanh tử. Ngăn cách giữa hai bờ là con sông phiền não. Vượt sôngphiền não tức đến Niết bàn. Vì vậy, bờ bên kia nguyên là dụ ngữ ngầm chỉ cho Niết bàn. Và phương pháp để đi đến Niết bàn (đáo bỉ ngạn) là 37 phẩm trợ đạo.
Với sự xuất hiện của Đại thừa mà mở đầu là Bát nhã, con sông ngăn cách không phải chỉ có phiền nãomà thôi, nó còn là con sông mê lầm nữa. Cho nên, bờ bên kia vừa là giải thoát (niết bàn) vừa là bờ giác ngộ (bồ đề). Để đạt được đến bờ bên kia, phải tu theo sáu pháp ba la mật (hay mười pháp). Sáu ba la mật gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (tức Bát nhã). Hành trì bất cứ pháp nào trong sáu pháp ấy cũng đều đạt kết quả mong muốn là bước lên bờ bên kia. Nhưng nếu tu theo 37 phẩm trợ đạo hay tu theo năm pháp ba la mật trước thì tâm giải thoát (Niết bàn) đạt được trước, tuệ giải thoát (Bồ đề) tiếp liền sau. Như vậy, với các phương pháp trên đây, bờ bên kia có nghĩa ưu tiên là bờ giải thoát. Phật giáo Đại thừa thiên trọng về quả vị giác ngộ hơn, Cho nên, ba la mật Bát nhã được xem như pháp tu đứng hàng đầu trong số sáu ba la mật. Theo Đại thừa, Niết bàn còn có nghĩa viên tịch. Tịch tức tịch diệt còn viên tức thành tựu viên mãn cả phước lẫn huệ. Nếu thành tựu được vô thượng Bồ đềthì viên mãn cả hai (phước túc và huệ túc) mà giải thoát. Như vậy, với Đại thừa, bờ bên kia có nghĩa là bờ giác ngộ. Có biết như thế thì mới hiểu được vì sao cùng theo một pháp tu Bát nhã ba la mật đa, nhưng chư Phật thì chứng đắc Vô thượng Bồ đề, còn Bồ tát thì đang trên con đường hướng đến Niết bàn, không còn vọng niệm chi phối nữa.
Tóm lại, Bát nhã ba la mật đa nghĩa là pháp tu đưa qua bờ giác ngộ ở bên kia sông mê. Nội dung của pháp tu này là quán chiếu Bát nhã.
Tâm có nghĩa là trung tâm, thông thường người đời cho rằng tinh túy của sự vật nằm ngay trong lòng của nó. Với con người cũng vậy. Như trong con người, đứng về mặt sinh lý mà nói, máu huyết từ tim (tâm) phát ra, chảy khắp thân thể để nuôi các tế bào, rồi quay về tim mà phát ra trở lại. Đứng về mặt tâm lý mà nói, các hiện tượng tâm lý đều phát xuất từ tâm, rồi cũng trở về đó để phối kiểm lại. Vì tâm được hiểu như trung tâm, Cho nên, tất cả tinh hoa được xem như đổ dồn và tập trung về đó. Cho nên, trại ra nghĩa bóng, tâm được hiểu là tinh yếu, nghĩa là cái chủ yếu tinh ròng của một việc gì hay một vật gì. Tùy từng sự việc khác nhau và theo cách quan niệm chủ yếu ấy đặt ở chỗ nào thì có một danh xưng riêng để nói lên cái chủ yếu ấy cho hợp cách và sát nghĩa. Như vậy chủ yếu trong cái thân này là lõi cây. Chủ yếu về mặt đạo đức đối với người Việt Nam là cái tấm bụng; còn chủ yếu về mặt tâm lý là cái ruột non v.v... Bụng, ruột, lõi lòng v.v... hay tâm, chung quy đều chỉ nói lên cái tinh yếu của sự vật hay của con ngườimà thôi.
Như vậy, Bát nhã Tâm kinh là bài kinh cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa Bát nhã. Cũng như A tỳ đạt ma Tâm luận là quyển luận cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa A tỳ đạt ma, Tâm kinh hay Tâm luận là những danh từ thường gặp trong văn học Phật giáo, chỉ cho các bản văn toát yếu của kinh hay của luận, để người học dễ nhớ, dễ thuộc. Tức loại "giúp trí nhớ" vậy.
Ta có thể dịch Bát nhã Tâm kinh ra tiếng Việt là kinh ruột Bát nhã, kinh lõi Bát nhã hay "bài toát yếu kinh Bát nhã", hoặc đảo ngược lại cho hợp với ngữ pháp Việt Nam và gọi là Tâm kinh Bát nhã, nếu thấy các danh từ mới dịch chưa quen tai. Ngày xưa ngài Chân Nguyên và ngài Toàn Nhật đã dịch là Kinh Lòng.
Kinh là danh từ dịch nghĩa Phạn ngữ sũtra, phiên âm tu đa la, Tu đa la Tàu dịch là tuyến, nghĩa là sợi chỉ, hoặc xâu với nhau.
Tu đa la so với kinh trong Hoa ngữ, hình thức cấu tạo tuy không giống nhau, nhưng nội dung hai bên tương đồng. Trong Hoa ngữ, những sách ghi chép những lời của thánh nhân truyền dạy thì gọi là kinh, vì những lời đó làm tiêu chuẩn cho muôn đời sau. Khác với sách ghi chép những lời của danh nhân, chỉ được gọi là truyện. Cho nên, mới có thành ngữ thánh kinh huyền truyện. Đức Phật là thánh nhânphương Tây (của Trung Hoa, tức Ấn Độ). Vậy sách ghi chép lời Phật dạy mà dịch là kinh thì quả thật rất đúng nghĩa gốc rồi.
Ta nên biết thêm rằng lời Phật dạy gồm có hai phần: pháp (đạt ma, dharma) và giáo (tỳ nại da, vinãya). Cả hai nguyên gọi là kinh hết, vì đều do Phật dạy. Nhưng về sau giải biệt thành hai tạng riêng, Cho nên, chỉ những sách ghi chép pháp mới gọi là kinh, còn những sách ghi chép giáo thì gọi là luật. Tạng ghi chép những lời chú thích biện giải của các Tổ về sau, thì được biệt lập thành một tạng riêng gọi là luận. Bài kinh này thuộc tạng kinh.
Tóm lại, "Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh" nghĩa là: bài kinh tóm thâu yếu nghĩa tinh ròng của pháp tu quán chiếu Bát nhã đưa hành giả lên bờ giác.
"ÁN, MA NI BÁT DI, HỒNG."
Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán tự tại khi hành trì bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách.
Đoạn văn mở đầu này trực tiếp hiển thị cái thực chất vô ngã rốt ráo và trọn vẹn ở nơi mỗi chúng sanh(hay nói theo nghĩa hẹp, ở nơi mỗi con người) mà thánh trí của Bồ Tát chứng đắc khi hành trì Bát nhã ba la mật đa sâu xa, và nhờ đó giải thoát tất cả khổ ách.
Lời mở đầu này bao hàm tất cả nội dung của giáo nghĩa Bát nhã. Trọn phần chánh tôn kế tiếp về sau, chỉ làm công việc quảng diễn nội dung này về hai mặt triết học và đạo học mà thôi. Ta có thể nói rằng, nếu lời Tâm kinh Bát nhã gồm 260 chữ này là tinh yếu của hệ thống Đại Bát nhã dày 720 quyển, thì đoạn mở đầu gồm có 25 chữ này lại thêm một lần nữa cô súc tinh yếu của bài Tâm kinh. Phần ròng của giáo nghĩa Bát nhã được kết tinh trong lời mở đầu này.
Quán Tự Tại Bồ tát
Bồ tát là tiếng gọi tắt danh từ Bồ đề tát đỏa (phiên âm từ chữ Boddhisattva). Bồ đề dịch nghĩa là giác ngộ, tát đỏa dịch là hữu tình hay chúng sanh. Hai chữ ghép chung với nhau thành ra Bồ đề tát đỏa, có nghĩa là chúng sanh cầu đạo giác ngộ. Tàu dịch nghĩa Bồ đề tát đỏa là giác hữu tình, tức hữu tìnhhướng về giác ngộ, hoặc sắp được giác ngộ.Vì vậy bất cứ chúng sanh nào phát tâm bồ đề cầu đạo giác ngộ, đều gọi là Bồ tát. Tuy nhiên, từ cấp mới hướng về đến cấp sắp đạt được, khoảng cách giữa hai bên thật là mù thẳm xa khơi. Trong khoảng cách ấy, có nhiều cấp bậc sai khác nhau. Từ những kẻ sơ phát tâm là hạng thập tín đến những bậc công hạnh sâu dày là hàng thập địa, có tất cả là 50 bậc.
Bồ tát Quán Tự Tại nói đây, ít nhất cũng từ bát địa (trong thập địa) trở lên. Vì chỉ sau khi trải qua địa vịbất động ở thập địa, bấy giờ mới được tự tại. Và cũng đến cấp đó mới đương nổi công việc thượng cầu hạ hóa, nghĩa là trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sanh. Quán Tự Tại là tên riêng của đức Bồ tátnày. Quán có nghĩa là xem xét. Trong lúc hành thiền, hành giả lắng lòng trầm tư mặc tưởng để suy cứuđề tài tham khảo thì gọi là quán. Quán phối hợp với Chỉ, đó là thiền, chứ không chi khác. Trong Chỉ, đối tượng bị rị lại một vị trí bất động. Trong Quán, đối tượng di động, chuyển biến theo quá trình tự nhiêncủa nó. Chỉ và Quán chỉ khác nhau ở đối tượng sở quán, không khác nhau về mặt tâm hành năng quán.
Bồ tát Quán Tự Tại, là dịch nghĩa Phạn ngữ Avalokitesvara. Từ này gồm hai chữ ghép lại: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến hay nhìn khắp mọi phương; và isvara có nghĩa là vị chúa tể, vì có quyền nănghành xử mọi việc một cách tự do. Vì thế, Avalokitesvara là vị bồ tát dùng pháp quán chiếu Bát nhã để quan sát đối tượng đương thể tức không, không bị chướng ngại bởi các yếu tố giả hợp tạo nên các ảo tượng của đương thể, nên gọi là Bồ tát Quán Tự Tại. Giống như trường hợp một vị Bồ tát chuyên tuhạnh Không mong khởi tâm khinh mạn bất cứ ai, dù đó là kẻ ngu hèn thấp kém nhất trong xã hội, đó là Bồ tát Thường Bất Khinh. Theo công hạnh riêng mà đặt tên, đó là công lệ chung trong Phật giáo Đại thừa.
Do vì công hạnh riêng mà đặt tên, Cho nên, Bồ tát Avalokitesvara còn có nghĩa là Quán thế âm, Kuan shih yin, theo truyền thống Trung Hoa, là vị Bồ tát được thờ phụng phổ biến nhất tại phương Đông, với công hạnh quan sát nghe thấy tất cả những tiếng kêu cứu của chúng sinh trên cõi ta bà này. Lời tụng "Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán thế âm Bồ tát", tất cả Phật tử đều khấn vái hằng ngày. Phẩm Phổ môn thuộc kinh Pháp hoa là dành riêng để xưng tán đức Bồ tát Quán thế âm trong công phunhật tụng triêu mộ cho cả hai giới xuất gia và tại gia.
Các ngài Pháp Hiền (du hành những năm 399 - 413) Huyền Tráng (dh 629 - 645) và Nghĩa Tịnh (dh 671 - 695) đều có ghi lại trong các quyển Phật quốc ký, Đại Đường Tây vực ký và Nam hải ký quy nội pháptruyện nhận xét của các ngài là Bồ tát Avalokitesvara rất được tôn thờ ở tất cả mọi nơi mà dấu chân các ngài trải qua, từ Tây Tạng, Nepal, ngay cả Ấn Độ. Bắt đầu khoảng thế kỷ thứ nhất là đã được dân gian sùng bái, cho đến thế kỷ thứ bảy là thịnh hành nhất. Bấy giờ Bồ tát Avalokitesvara hiện thân nam, tượng thờ đứng, một mặt hai tay; hoặc ngồi trên tòa sen một mặt hai tay hoặc sáu tay, đôi khi từ mười tay đến hai mươi tay. Biểu tượng của ngài là tràng hạt (màlà) và hoa sen (padma). Mạn trà xưng tán ngài là Om, mani padme, hùm tức là An, ma ni bác di, hồng. Đến vào khoảng thế kỷ XII trở đi thì Bồ tátAvalokitesvara được sùng bái với tượng thân nữ và tôn thờ là Bồ tát Quán thế âm, tại Trung Hoa cũng như tại Việt Nam, trong lúc ấy các nước ở Trung Á thì không còn ảnh hưởng gì nữa. Từ đây, Bồ tát Quán thế âm còn có các tên khác như Tống tử Quan âm, Quan âm Diệu Thiện, hay Thiên thủ thiên nhãnQuan thế âm, Bạch y Quan âm, Tử trúc Quan âm, Quan âm quá hải, đều rất phổ biến trong dân gian.
Ở Tây Tạng, Bồ tát được gọi là spyan ras gzigs, có nghĩa là vị Bồ tát có cái nhìn từ bi mẫn độ chúng sanh. Mông Cổ gọi ngài là Nidubarujekei, vị Bồ tát có đôi mắt quán chiếu, tức là quon sim bodhisattva. Tại Nhật, ngài là Kwan non (Canon).
Gần đây, các nhà khảo cổ tìm thấy dấu vết sùng bái Bồ tát này tại Chiêm Thành, tức miền Trung Việt Nam nước ta ngày nay, từ trước thế kỷ thứ mười. Khi ấy, Bồ tát được gọi là Lokesvara, gồm hai chữ Loka (thế gian) và isvara, tức nghĩa tương tợ như Quán thế âm. Một tượng đá đức Quán thế âm này vừa được tìm thấy ở chùa Đại Hựu, có bia ký ca tụng công đức của Bồ tát, được cho là khắc vào khoảng năm 900 về trước.
Tất cả các truyền thống đều tin rằng sở trú của Bồ tát là đỉnh núi Potala. Có nhiều địa điểm. Ngài Huyền Tráng ghi rằng đức Quán thế âm xuất hiện trên đỉnh Potala ở miền Nam Ấn. Tự viện của Đạt Lai Lạt Maở Lhasa cũng được gọi là Potala, vì Mật giáo Tây Tạng tin rằng Bồ tát là chúa tể của thế giới chúng ta, mà Đạt Lai là hóa thân của người. Quần đảo Châu Sơn, ngoài khơi Triết Giang, gần Ninh Ba (Ningpo), nơi đức Quán thế âm rất được sùng bái, còn được gọi là P'u t'o, tức Phổ Đà. Dân gian còn truyền tụngrằng núi Phổ Đà ở ngoài khơi Nam Hải.
Bồ tát Quán Tự Tại, do vì quán sát rằng "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc..." tất cả là hai mà chẳng phải hai, Cho nên, ngài còn là biểu tượng của Bồ tátBất Nhị Trí tuệ Bát nhã là công đức mà ngài hành trì, Cho nên, ngài cũng là Bồ tát Bát Nhã. Và Bồ tátBát Nhã Ba la mật đa là hiện thân siêu việt, tổng trì mọi công hạnh kể trên.
Bồ tát Bát Nhã Ba la mật đa
(theo truyền thống Tây Tạng)
Hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời
Khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu xa
Sáu chữ Bát nhã Ba la mật đa đã giảng rõ ở trên. Thâm là sâu xa, nói rằng Bát nhã Ba la mật đa là sâu xa vi diệu không dễ gì thể nhập mà đòi hỏi một quá trình hạ thủ công phu hành trì. Hành có nghĩa là hành trì, tức là tu tập và thực hành. Cần nhắc lại là trí tuệ Bát nhã không do cái học mang lại mà phải do công phu tu trì mới tựu thành, nên nói là hành. Vì vậy, do sâu xa vi diệu, Bát nhã Ba la mật đa đòi hỏi phải công phu tu hành mới tựu thành, chứ không phải một cái gì có thể tự nhiên mà có.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Soi thấy năm uẩn đều không
Soi thấy là diệu dụng của quán chiếu Bát nhã. Nói soi thấy, tức tự mình trực tiếp thấy rõ, như người uống nước, tự mình biết rõ nước ấy nóng hay lạnh, ngọt hay mặn, không qua trung gian của khái niệm hay ngữ ngôn văn tự.
Năm uẩn là năm nhóm họp thành một chúng sanh, tức là một con người. Chữ uẩn là do ngài Huyền Tráng dịch chữ kiền độ (skandha) tiếng Phạn. Ngài La Thập trước dịch là ấm với nghĩa là che phủ. Các dịch giả về trước nữa thì dịch là chúng, từ tập họp nhiều yếu tố lại. Sản phẩm do năm chúng, tức năm uẩn giả họp lại mà thành thì gọi là chúng sanh. Vì vậy nói cho dễ hiểu, khi nói đến tập họp của năm uẩntức chỉ con người; con người là sản phẩm của năm uẩn. Phật giáo trong các bộ kinh được gọi là nguyên thủy đã trịnh trọng xác nhận tính chất vô ngã của tập họp năm uẩn này rồi. Riêng từng uẩn có vô ngãhay không, đó là đối tượng khảo sát của trường phái Bát nhã. Theo trường phái này, không một uẩn nào trong năm uẩn là có tự thể, không có tự thể tức là vô ngã. Tập hợp của năm uẩn là vô ngã, tức nhân không; từng uẩn một trong tập hợp ấy cũng vô ngã, tức pháp không. Cả nhân lẫn pháp đều không, đó là nội dung trong nghĩa không của Bát nhã.
Trong năm uẩn, sắc uẩn chỉ nhóm vật chất bao gồm bốn đại, tức đất nước gió lửa, tạo nên xác thân con người. Thọ uẩn chỉ nhóm cảm giác, bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý hạ đẳng nơi con người. Tưởng uẩn, chỉ nhóm suy tư bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý cao cấp. Hành uẩn chỉ nhóm ý chíbao gồm những sinh hoạt có tính chất bản năng và ý chí. Hành là dấu vết của nghiệp cũ đang tạo tác và dìu kéo các sinh hoạt hạ đẳng và cao cấp nơi con người, đấy là loại ý chí mù quáng. Chính vì vậy, nó đóng một vai trò quyết định trong suốt đời người. Thức uẩn chỉ nhóm tri giác bao gồm mọi kiến thứctrong việc nhận diện sự vật bên trong và bên ngoài con người. Trong số năm uẩn vừa nêu, sắc uẩnthuộc sắc pháp, bốn uẩn kia thuộc tâm pháp. Sắc tâm hòa hợp tạo nên con người, mệnh danh là thân năm uẩn.
Trong thân ngũ uẩn ấy, các thần giáo và triết học Ấn Độ cho rằng có một thần ngã (atman) ngự trị bên trong bất di bất dịch, không chịu sự chi phối của vô thường. Nhưng Phật giáo vốn xây dựng trên lý duyên khởi, triệt để đánh ngã cái lý thuyết thần ngã ấy. Giáo lý vô ngã là câu trả lời đanh thép của thuyết có thần ngã vừa nói. Về sau, khi các trường phái A ty đàm vốn thuộc Thượng tọa bộ xuất hiện, giáo lývô ngã tuy càng ngày càng thêm bền gốc chắc rễ, nhưng lại bị hạn cuộc trong phạm vi của lý thuyếtnhân vô ngã. Đến lúc Đại thừa xuất hiện với giáo nghĩa Bát nhã, thì vô ngã mới bao trùm lên hết thảy, đó là pháp vô ngã.
Đoạn kinh trên nói tới việc năm uẩn đều không, tức đề cập đến vấn đế này đây, bởi vì vô ngã cả nhân lẫn pháp chính là nội dung của giáo nghĩa tánh không Bát nhã. Với giáo nghĩa tánh không, thuyết vô ngãnhư một trong hai hệ luận của duyên khởi, đã được triển khai, thuyết minh đến mức tuyệt đối cùng tột của nó. Thuyết vô ngã này không phải thuần túy là một khái niệm triết học tinh ròng, mà còn thể hiện một thực tế sống động tựu thành nhờ pháp trực quán tổng hợp, nghĩa là bằng hành trì mà chứng đắc. Do đó, nên nói soi thấy năm uẩn đều không.
Độ nhất thiết khổ ách
Vượt qua mọi khổ ách
Khổ ách có ba loại. Khổ ách do chính thân tâm tạo ra gọi là ngũ uẩn xí thạnh khổ, bao gồm sanh, già, bệnh, chết, mong cầu mà không đạt được, oán ghét mà phải gặp mặt, thương yêu mà phải chia lìa; đó là loại khổ thứ nhất. Loại khổ ách thứ hai do thiên nhiên mang lại như tai trời ách nước, bão lụt, gió mưa ... Ba là khổ ách do xã hội tạo ra như giai cấp xung đột, chế độ hà khắc, chiến tranh ... Tất cả những loại khổ ách này, nhờ hành trì Bát nhã ba la mật đa, hành giả có thể vượt qua chúng một cách dễ dàng. Vượt qua có nghĩa là không còn bị chúng chi phối, nhận chìm.
Tóm lại, đoạn tự phần này nói rằng Bồ tát Quán Tự Tại khi hành trì Bát nhã ba la mật đa sâu xa thì soi thấy năm uẩn họp thành con người không một uẩn nào là có tự thể, nhờ đó giác ngộ tánh không và giải thoát tất cả mọi ách khổ đau. Chỉ trong một đoạn này thôi, tất cả yếu lý căn bản của Bát nhã đã được trình bày đầy đủ. Các đoạn tiếp theo chỉ để triển khai yếu lý ấy về cả hai mặt triết học và đạo học.
Phần này trình bày giáo nghĩa tánh không của Bát nhã, chia làm ba đoạn:
1. Nguyên lý bất nhị giữa uẩn và không
2. Chứng minh nguyên lý ấy qua luận lý triết học, và
3. Hiện thực nguyên lý bằng hành trì thực tế về mặt đạo học.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng là như vậy.
Xá Lợi Tử còn gọi là Xá Lợi Phất, dịch nghĩa tiếng Phạn riputra là người đứng đầu trong hàng đệ tửPhật, được Đức Phật chia cho nửa ghế ngồi (bán tòa), ngài được Đức Phật gọi mà dạy bảo là điều tất nhiên.
Trong năm uẩn, sắc uẩn là nhóm vật chất, thuộc sắc pháp. Bốn uẩn còn lại là thuộc tâm pháp. Tâm pháplà hiện tượng tâm lý thường hay thay đổi, không thể sờ mó, bắt, nhìn, Cho nên, nói là không có thực thể; đó là điều có thể hiểu. Nhưng sắc pháp là hiện tượng vật chất, tự nó có chất ngại làm thể, thì sao lại bảo không thực thế được? Vì vậy đoạn kinh này phải lý giải vấn đề tại sao năm uẩn đều không tự thể.
Trước hết là nói sắc uẩn. Sắc uẩn chính là xác thân con người chớ không chi khác. Xác thân ấy, nói cho cùng, không ngoài bốn đại là đất nước gió lửa, giả hợp mà tạo thành. Khi bốn đại giả hợp thì có hiện tượng xác thân. Khi chúng chia lìa thì không tìm thấy đâu nữa. Rõ ràng xác thân là không tự thể, không thường còn, không bất biến, Cho nên, nói nó là không. Không đây chẳng phải là cái không đối lập với cái có, mà là cái đương thể tức không, tức là khi sự vật hiển dương tồn tại, cái thể của nó đã không rồi, tức là nó không có tự thể, không có cái ngã riêng của nó, nghĩa là nó vô ngã. Vì nó đương thể tức không, nên tương quan giữa các sắc uẩn và không được xác định qua hai khía cạnh: chẳng khác và tức là.
Trong câu "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc", hai chữ chẳng khác xác minh rằng sắc và không là hai pháp riêng biệt nhưng mang tính thống nhất. Còn câu "sắc tức là không, không tức là sắc", thì hai chữ tức là khẳng định ngược lại sắc và không chung quy cũng chỉ một pháp. Như thế, tính thốngnhất này xác định sự thật tuy hai mà một, tuy một mà hai, vừa nói lên được tính vô ngã vừa xác định được tính vô thường của nó. Nói cách khác, tính thống nhất ấy thể hiện được bản chất vô thường biến hành nhưng độc đáo của mỗi hiện tượng mà ngày xưa các vị Tổ thường gọi là nguyên lý bất nhị.
Bốn uẩn còn lại cũng giống như thế. Nghĩa là thọ chẳng khác không, không chẳng khác thọ; thọ tức là không, không tức là thọ. Cho đến thức chẳng khác không, không chẳng khác thức; thức tức là không, không tức là thức. Như vậy tương quan giữa uẩn và không là một tương quan chẳng khác và tức là, nghĩa là hoàn toàn xây dựng trên nguyên lý bất nhị. Do đó, không những cái tập hợp năm uẩn tức con người là vô ngã (nhân không), mà từng uẩn một trong tập hợp ấy cũng vô ngã (pháp không). Với ngã và pháp đều không, trường phái Bát nhã của Đại thừa đã triển khai thuyết vô ngã đến mức cùng tột mà hoàn thành giáo nghĩa tính không. Giáo nghĩa này mở đầu cho nhiều trào lưu tư tưởng khác tiếp nối và dấy khởi bất tận. Vì thế mà nói rằng Bát nhã là cái bào thai đẻ ra tất cả các kinh đại thừa.
Xá Lợi Tử thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Xá Lợi Tử: Tướng không của các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Xuất xứ từ nguyên lý bất nhị trên, bản kinh bây giờ trình bày cho ta cái trình tự làm sao mà đạt được cái nguyên lý bất nhị đó, để thấy rằng tất cả các pháp đều không. Luận lý áp dụng cho việc trình bày ở đây là bát bất trung đạo; đấy là luận lý phủ định hay còn gọi là biện chứng phủ định. Nói cái không ấy chẳng sanh chẳng diệt, tức nói bản thể nó thường tịch. Nói chẳng sạch chẳng dơ, tức nói tác dụng của nó vô phân biệt. Nói chẳng thêm chẳng bớt tức nói hiện tượng nó thường tự viên mãn. Ap dụng luận lý phủ định một cách cô đọng và ít lời đến mức đó để chứng minh cái không ở đây, trường phái Bát nhã đã khai thác nguyên lý bất nhị một cách tài tình, bởi vì nó chỉ cần nêu ra cái phủ định, thì ngay trong cái phủ định ấy hiện ra muốn khẳng định ngay liền. Sanh diệt ở đâu thì cũng chính ở đó là bất sanh diệt; bất sanh diệt ở ngay trong sanh diệt. Có sai khác là chỉ vì mê ngộ không đồng mà thôi. Vì vậy, Đại thừa đã quả quyếtrằng phiền não tức bồ đề, ta bà tức tịnh độ. Phủ định phiền não thì bồ đề tự hiện ra. Phủ định ta bà tức tịnh độ xuất hiện. Bất nhị mà!
Bồ tát Bất Nhị
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5, tr. 4429b.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Cho nên, trong không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức, không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Đối tượng con người, theo Phật giáo nguyên thủy phân tích và còn được ghi chép trong bốn bộ A Hàm(nhất là bộ Trung và bộ Tạp) được chia làm ba phạm trù:
a. Thành phần họp thành con người (năm uẩn);
b. Các yếu tố đóng vai trò trung gian giữa con người và ngoại giới (mười hai xứ);
c. Các khu vực hoạt động riêng rẽ trong toàn bộ sinh hoạt chung của con người (mười tám giới).
Cứu cánh mà con người phải đạt cho được là trí, vì trí có nhạy bén thì mới có giác ngộ mà chấm dứtđau khổ.
Giáo pháp đối trị được gói ghém trong pháp Tứ Diệu Đế, mà cái hồn sống động là Duyên khởi, khai triển thành lý mười hai nhân duyên (hay chín nhân duyên theo buổi nguyên thủy).
Như vậy, các chủ điểm quan trọng mà giáo pháp Phật phải khai thị gồm có:
a. 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới (trong phần đối tượng giải quyết);
b. 12 nhân duyên, 4 đế (hồn và xác của giáo pháp);
c. Trí (cứu cánh phải chứng đắc).
Tất cả sáu chủ điểm trên, đều được thuyết minh rất đầy đủ trong Tạp và Trung A Hàm.
Đối trị tất cả sáu chủ điểm trên, trường phái Bát nhã lần lượt áp dụng luận lý phủ định lên tất cả, để thuyết minh lý vô ngã một cách triệt để.
Áp dụng luận lý phủ định trong đoạn này, những khẳng định mới được ghi nhận thêm: 5 uẩn là giả hữu, 12 xứ là giả hữu, 18 giới là giả hữu. Như vậy, cái ngã trong con người chỉ là một ảo tưởng. Để đối trị cái ngã giả hữu ấy, giáo pháp Phật dạy cũng chỉ là phương tiện giả lập mà thôi. Cho nên, nói không 12 nhân duyên và cũng không có sự chấm dứt của 12 nhân duyên. Cũng như không bốn đế. Giáo pháp giả lập là nhằm đối trị cái ngã giả hữu. Dụng giả trừ giả. Như vậy thì cái trí mà giáo pháp nhằm thắp sáng lên ở nơi cái ngã ấy cũng không nốt. Mà trí đã không thì sự chứng đắc cũng không thành, Không có thành đạo, không có chứng quả. Mà thật đúng như thế. Đứng về mặt tâm lý mà nói, ai thật sự có đắc một cái gì thì không bao giờ nghĩ rằng mình đắc. Chỉ tơ tưởng ôm ấp theo đuổi là khi mình chưa có. Khi đã có rồi, thì lòng bình thản dửng dưng. Hóa ra, không đắc mới thật sự có đắc. Hơn nữa đứng về mặt lý trí mà xét, cái đắc ấy không khác chi hơn là cái mình sẵn có, nhưng vì vô minh che lấp, nay nhờ giác ngộ mà bắt gặp trở lại mà thôi.
Bây giờ, lý luận ngược chiều trở lại, ta mới thấy tất cả cái tài tình của phép luận lý phủ định. Vì không đắc nên không trí. Đã không trí thì giáo pháp thắp sáng cái gì? Và trí đã không thì 18 giới, 12 xứ và 5 uẩn thảy đều không.
12 xứ là 12 chỗ tiếp xúc giữa trong và ngoài thân, một đối một. Mắt đối sắc, tai đối thanh ... cho đến ý đối pháp. Như vậy, ta có 6 xứ bên trong (6 căn) và sáu xứ bên ngoài (6 trần) tiếp xúc với nhau theo từng cặp thích đáng để cho ta những cảm thọ. Trong các kinh A Hàm chỉ có sáu xứ thôi và được gọi là lục xúc nhập xứ. Đây là thuyết đầu tiên triển khai sáu trần sau làm thành 12 xứ.
18 giới là18 khu vực riêng rẽ, gồm có 6 khu vực như 6 căn, 6 khu vực như 6 trần và 6 khu vực như 6 thức. Không khu vực nào xen lẫn với khu vực nào, Cho nên, gọi là giới. Giới có nghĩa là có một giới hạnriêng biệt với nhau.
12 nhân duyên là12 khâu làm nhân cho nhau và vin vào nhau (duyên) mà tạo thành dây chuyền sanh tửtiếp nối không bao giờ ngừng. Nói nhân là nói chiều dọc, tiếp nối dòng thời gian. Nói duyên là nói chiều ngang, vin vào nhau trong không gian. Vì vậy, lý duyên sanh giàn trải cả hai chiều không gian và thời gian, và phải hiểu trong tinh thần ấy mới đúng cách. 12 nhân duyên gồm có:
A. Nhân quá khứ: 1 vô minh; 2 hành;
B. Quả hiện tại: 3 thức; 4 danh sắc; 5 lục nhập; 6 xúc; 7 thọ;
C. Nhân hiện tại: 8 ái; 9 thủ; 10 hữu;
D. Quả vị lai: 11 sanh; 12 lão tử.
12 nhân duyên là không, Cho nên, cũng không có sự chấm dứt của 12 nhân duyên. Vì vậy mà nói: không vô minh, cũng không vô minh hết, là thế.
Tứ đế là bốn sự thật căn bản: khổ, tập, diệt, đạo. Khổ bao gồm tất cả khổ đau về tinh thần và thể xác. Tập là nguyên nhân gây ra khổ đau, mà đầu mối là tham, sân, si. Diệt là chấm dứt khổ đau, tiêu diệtnguyên nhân khổ đau. Đạo là con đường, là phương pháp hành trì thực tế đưa đến chấm dứt khổ đau. Khổ và tập là hai nhân quả thuộc thế gian. Diệt và đạo là nhân quả xuất thế gian. Cặp nào cũng quả trước nhân sau, vì giáo pháp Phật xây dựng trên kinh nghiệm thực tế, chứ không phải trên khái niệm triết học.
Bồ tát Bát nhã Ba la mật
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 5, tr. 4268a.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữukhủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa nên tâm không mắc ngại, vì không mắc ngại mà không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Câu bởi không sở đắc, xưa nay các nhà chú giải thường dựa vào nội dung của bản văn để ngắt vào đoạn sau. Nhưng gần đây có một vài nhà luận giải cho rằng nó phải thuộc đoạn trước. Điều này gây ra nhiều phân vân. Tra với nguyên bản, thì lược bản Phạn văn do ngài Huyền Tráng phiên âm có câu: đa sa mỗi na bát ra tỉ để đạt phạ, tức tương đương Phạn văn: tásmãd apraptitvena (vì vậy, do vô đắc). Và quảng bản của kinh cũng thế. Theo văn pháp, câu dĩ vô sở đắc cố phải gắn liền với đoạn sau. Do thế, cách giải thích xưa nay về câu ấy như một câu "thừa thượng tiếp hạ" không phải là không có lý do và đã được các bản Phạn văn chứng thực là đúng đắn.
Bồ đề tát đỏa là một phiên âm tiếng Phạn chữ Bodhisattva, ta thường gọi là Bồ tát. Hành giả tu theo Đại thừa, sở dĩ được gọi là Bồ tát và xứng hợp với danh xưng này, là bởi kiên trì sáu phép ba la mật, trong đó tối thắng nhất là phép tu quán chiếu Bát nhã. Nhờ kiên trì thực hành phép quán này cho tới trình độvô sở đắc thì tâm không còn gì quái ngại.
Quái là bị nhốt vào lồng, mất hết tự do như chim trong lưới, như cá trong nơm. Ngại là bị ngăn trở từ khắp mọi phía, trên dưới trong ngoài, tả hữu, trước sau. Cả hai chữ đều có nghĩa là bị ngăn trở. Đầu mối của sự ngăn trở này là cái mạn nghi (nghi cái), Cho nên, mắc ngại đây là mắc nghi ngại. Vì mạn nghi chụp lên đầu, không cựa quậy được, như cá chậu chim lồng, nên lòng luôn luôn sợ hãi. Mà lòng đã sợ hãi thì vọng niệm dậy khởi liên miên như trong giấc mơ, lấy giả làm chân, lấy quấy làm phải, điên đảođảo điên, không biết đâu là bờ bến. Do đó, trên bước đường tu hành, có ba cái mốc lớn để kiểm chứng xem công phu hành trì có thực sự kết quả hay không. Một là đã giải tỏa mạn nghi chưa? Hai là đã được vô úy chưa? Ba là vọng niệm còn dậy khởi không? Nếu mốc đầu chưa lọt qua, thì chắc chắn đang còn dẫm chân tại chỗ, chưa nhích được bước nào kể từ khi khởi tu.
Bồ tát nhờ hành trì quán chiếu Bát nhã, soi thấy năm uẩn đều không, Do đó, không có gì chướng ngạinên được tự tại thoát ngoài vòng nghi mà bấy lâu giam hãm mình vào trong. Sau khi giải tỏa mạn nghi rồi, mới giải tỏa được sự sợ hãi, thành tựu vô úy. Đạt được vô úy rồi thì không còn bị chi phối nữa. Tâm thanh tịnh dần để mà thấy rõ sự thật, vọng niệm tan biến. Cơn ác mộng đảo điên điên đảo của cuộc sống được giải tỏa. Từ đây không còn gì vướng bận. Hành giả thong dong tiến thẳng đến Niết Bàn (giải thoát), để rồi cuối cùng bắt gặp cái mà chư Phật đã chứng ngộ: Bồ đề (giác ngộ).
Trên đây là tiến trình tu hành của Bồ tát qua ba giai đoạn lớn, đánh dấu bởi ba trụ mốc. Nếu không đạt được một trụ mốc nào trong ba trụ mốc ấy để kiểm chứng trên thực tế, thì mỗi ngôn từ chỉ là hý lộng ngoa ngôn, dù cho đó là ngôn từ của văn tự Bát nhã. Đó là chưa kể trường hợp càng sử dụng ngôn từbát nhã thiện xảo bao nhiêu thì lại mang tội lừa người dối mình bấy nhiêu, nếu không đạt được kiểm chứng bằng kết quả hành trì cụ thể.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn anuttara samyaksambodhi. A nậu đa la(anuttara), có nghĩa là vô thượng (không gì cao hơn). Tam miệu (samyak) có nghĩa chánh đẳng (bình đẳng chơn chánh) hay biến (cùng khắp). Tam bồ đề (sambodhi) có nghĩa chánh giác. Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là giác ngộ chơn chánh tuyệt đối, bình đẳng, không còn giác ngộ nào cao hơn. Còn vô thượng biến chánh giác thì nghĩa là giác ngộ chơn chánh cùng khắp không còn giác ngộ nào cao hơn. Chánh đẳng và biến, nghĩa gần tương đồng, vì đã tuyệt đối bình đẳng thì dàn trải ra cùng khắp mọi địa hạt. Để có một ý niệm rõ ràng về quả vị này, ta thử đem so sánh với những quả vị mà ngoại đạo và tam thừa đạt được để biết hơn kém thấp cao. Trừ phàm phu mê lầm, không nói đến, ngoại đạo có giác nhưng không có chánh. Nhị thừa có chánh giác nhưng không cùng khắp. Bồ tát có chánh giác cùng khắp nhưng không vô thượng. Chỉ Phật mới có giác ngộ gồm đủ ba khía cạnh nói trên. Cùng từ ngữ này có chỗ dịch là vô thượng chánh biến tri, vô thượng chánh đẳng giác, hoặc dịch gọn là vô thượng bồ đề.
Bồ tát trên tiến trình tu hành, nhờ nương vào quán chiếu Bát nhã mà được tự tại giải thoát (rốt ráohướng đến Niết bàn) để rồi bắt gặp quả vị tối cao của chư Phật là quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Và chư Phật sở dĩ thành Phật cũng do một pháp quán ấy mà thôi. Một bên đã thành, một bên sắp thành. Cả hai cùng do một nhân tu như nhau, cùng một hạnh tu như nhau.
Đến đây là thuyết minh xong giáo nghĩa tánh không của Bát nhã.
Phàm là một văn phẩm tuyệt hảo, bao giờ cũng có đủ ba phần: nhập, thân và kết. Nếu tự phần là phần nhập trong đó vấn đề đã được đặt ra rõ ràng chính xác, thì chánh tôn là phần thân, trong đó vấn đềđược triển khai và quảng diễn một cách viên mãn. Đến đây, phần lưu thông là phần kết với hai nhiệm vụ, vừa gói vừa mở. Gói tức là tóm tắt các ý chính nổi bật nhất của đề tài vừa thuyết minh. Mở là khai thông đề tài, hướng nó đến một chân trời bát ngát bao la hơn, gây cho người đọc niềm hy vọng.
Phần lưu thông của kinh này có đủ hai nhiệm vụ vừa nói. Nó có đoạn một, tóm tắt nội dung bằng cách tán thán công đức to lớn của phép tu quán chiếu Bát nhã; và đoạn hai, trình bày diệu dụng của thần chúĐà la ni trong Mật giáo.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không chi sánh bằng, trừ được tất cả khổ ách, chắc thật không dối.
Chú là dịch chữ mạn trà (mantra) trong tiếng Phạn. Theo nghĩa hẹp, mạn trà là những lời cầu đảo, nghĩa rất bí hiểm khi đọc lên, có tác dụng biến hóa ra các hiện tượng thiên nhiên, cả lành lẫn dữ. Theo nghĩa rộng, và đích thực của nó, mạn trà là cái gây cho ta suy nghĩ, có công năng nắm giữ tóm thâu mọi nghĩa lý, làm tiền đề cho việc tham khảo của ta, từ đó, đẻ ra mọi công đức, mọi diệu dụng. Trong nghĩa này, mạn trà thuộc một trong bốn thứ đà la ni, tức: pháp đà la ni, nghĩa đà la ni, nhân đà la ni và chú đà la ni. Chữ chú trong bài kinh này thuộc loại chú đà la ni.
Đại thần chú nghĩa là chú thần lớn, tức có thần lực vĩ đại, có thể chuyển dời, thay đổi mọi việc. Phép tu quán chiếu Bát nhã khêu sáng trí tuệ, Do đó, mà sinh tử trở thành Niết bàn, phiền não chuyển thành Bồ đề, nên nói là đại thần chú. Thần chú trí tuệ ấy chiếu phá vô minh, trừ dứt phiền não nên nói là đại minhchú, nghĩa là chú cực kỳ sáng chói, tức chú minh lớn. Cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được vô thượng Niết bàn nên nói là chú vô thượng, nghĩa là chú không có gì cao hơn nữa. Lại cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được vô thượng bồ đề, nên nói là chú vô đẳng đẳng, nghĩa là chú sánh với cái không gì sánh kịp.
Vì phép tu quán chiếu Bát nhã có công đức to lớn như thế, so với công đức của Đà la ni hai bên ngang nhau, vì thế nên đức Phật đã tán thán và tôn xưng phép tu ấy như là thần chú. Và vì có công đức như thế, Cho nên, trừ được tất cả thống khổ ách nạn. Cũng vì công đức ấy là công đức quả có trên hiện thựcCho nên, khẳng định lại một lần nữa rằng nó là chân thật, vì chẳng phải là dối gạt.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Nên nói chú Bát nhã Ba la mật đa. Nên nói chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Phép quán chiếu Bát nhã có công đức sánh ngang với công đức của chú đà la ni, tức nhiên diệu dụng của phép tu này cũng không thể nghĩ bàn được, Cho nên, thực hành lời chú. Tức thuyết chú viết, nghĩa đen là liền nói chú rằng. Nhưng để diễn đạt cái diệu dụng linh ứng không thể nghĩ bàn ấy, tưởng nên dịch câu ấy là: chú liền ứng rằng thì mới lộ hết ý sâu xa tàng ẩn trong đoạn này, có hô thì lập tức có ứng. Và có như thế mới gọi là linh, là huyền diệu.
Chú vốn là mật ngữ (lời bí mật). Đã là bí mật, làm sao cắt nghĩa? Tuy nhiên, dựa vào sự cấu tạo, có thể suy đoán một cách thô sơ nghĩa của một số chữ. Chẳng hạn như với câu chú này, nghĩa của nó không đến nỗi khó khăn lắm.
Yết đế, Tàu dịch nghĩa là độ, chữ Phạn vốn đọc là gate, có nghĩa đi qua, vượt qua. Yết đế lặp lại hai lần có nghĩa là độ cho mình và độ cho người. Ba la yết đế, do chữ pragate, có nghĩa là đi qua bờ bên kia. Ba la tăng yết đế, là do phiên âm chữ prasamgate, nghĩa là đi qua bờ bên kia hoàn toàn. Bồ đề là giác ngộ. Tát bà ha do phiên âm chữ svha có nghĩa là Ngài khéo nói. Như vậy, ý nghĩa của toàn bài chú có thể tạm dịch như sau:
Qua đi, qua đi, qua bờ bên kia đi, hoàn toàn qua bờ bên kia đi, thì có bồ đề. Ngài khéo nói như vậy.
Tạm dịch nghĩa đen của bài chú như trên, nhưng công hiệu của chú hoàn toàn không phải ở nghĩa hay lý. Vì thế, hiểu nghĩa hay lý đối với chú không ích lợi gì cả. Điều cốt yếu khi tụng chú, là phải thành tâm. Càng thành tâm thì càng nhiều linh nghiệm, bởi vì công dụng hàng đầu của việc trì chú là diệt niệm. Vọng niệm có diệt được thì thân tâm mới khinh an. Do đó, mới có cảm ứng linh nghiệm bất khả tư nghị. Riêng về chú Bát nhã trên đây, diệu dụng cứu cánh là đưa ta mau lên bờ giác.
"Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha"
Bồ tát Quán Thế Âm
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 1, tr. 802b.
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
VĂN BẢN
Nguyên bản xưa nhất của Tâm Kinh là bản Phạn văn ghi bằng thủ pháp Tất Đàn (Siddham) trên lá bối. Hiện nay, ta có một lược bản Tất Đàn được bảo tồn tại Trường Cốc tự (Hasedera) và một lược bản Tất Đàn khác tại Pháp Long tự (Hòryùji) của Nhật Bản (Để tiện định danh, bản trước ta gọi là lược bản Tất Đàn 1 và bản sau ta gọi là lược bản Tất Đàn 2). Truyền thuyết cho rằng Tổ Bồ đề Đạt Ma mang cả hai bản này đến Trung Hoa, rồi từ đó được truyền sang Nhật. Nhưng gần đây, các học giả phương Tây kiểm chứng lại, ghi rằng lược bản Tất Đàn 2, tồn trữ Pháp Long tự từ năm 609 đến nay, là được phiên dịch từ bản Hán văn của Huyền Tráng chứ không phải nguyên bản Phạn ngữ như trước đây đã lầm tưởng. Pháp Long tự (Hòryùji) được Thánh Đức thái tử (Shotoku Taishi), vị quốc vương hộ pháp đầu tiên của Nhật, trị vì những năm 593 - 622, xuống chiếu kiến lập chùa này vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, mục đích là để tồn bái lược bản Tất Đàn 2 này. Nhưng như thế, thì các học giả đã phạm phải lỗi lầm về thời gian tính, vì bản dịch của Huyền Tráng là vào năm 649, sau bản Tất Đàn 2 này. Pháp Long tự hiện nay được xem là ngôi chùa gỗ cổ kính nhất của Nhật Bản.
F. Max Muller là người đầu tiên tập thành và dịch cả hai, lược bản và quảng bản theo thư pháp Devanagari, ra Anh văn năm 1894, in trong Sacred Books of the East, tập 49, phần 2, trang 147 - 154. Trước đó đã có học giả Nanjo Bujiu là người đầu tiên khám phá ra hai bản Tất Đàn nói trên, nhưng ông chỉ tập thành, mà không phiên dịch ra Anh văn, đăng trong Anecdota Oxoniensia, t.1, tháng 3 (1884). Ngoài ra, còn có H. L. Feer chỉ tập thành và chú giải quảng bản, in trong L"Essence de la Science transcendante en langues, Tibetain, Sanscrit, Mongol (Paris, 1886). Sau đo, Bác sĩ D.T. Suzuki lại dịch lược bản và đăng trong quyển 3 của Essays in Zen Buddhism.
Nhưng phải đợi đến Edward Conze với những công trình nghiên cứu công phu về Bát nhã và các kinh điển và triết học thuộc bộ phái này, Tâm kinh mới được chú ý đến và từ đó có thêm rất nhiều học giả lớp trẻ để tâm phê giải và trùng dịch theo ý của họ. Edward Conze cũng là người đã tập thành hai bản kinhnày bằng thư pháp Devanagari mới được ông tìm thấy ở Bắc Ấn. Lại còn có giáo sư H. W. Bailey khám phá được một quảng bản của kinh bằng tiếng Vu Điền, được cho là bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 8, và là phiên dịch từ quảng bản Hán Văn, thủ bản Vu Điền này hiện được bảo tồn trong Fonds Pelliot Collection của Thư viện Quốc gia Pháp. Cùng vào khoảng thế kỷ này, các bản tiếng Tây Tạngxuất hiện, tất cả có 7 bản. Người dịch đầu tiên là Vimalamitra nhưng E. Conze có ý kiến rằng là bản dịch lần hai của Prasastrasena là chính xác nhất. Ngoài ra, Đại Tạng kinh Mông Cổ (Mongolian Kanjur) cũng có một bản, in trong Bí Mật Kinh, t.12, tr. 44a 45b. Điều đáng chú ý là kinh này không có trong Kinh tạngPali. Gần đây, học giả R. Exell dùng lược bản Phạn văn Devanagari phiên dịch ra Pali, đăng trong The Wisdom gone beyond, do hội Social Science Association Press của Thái Lan phát hành, trang 6.
Theo truyền thống Hoa văn thì bản dịch sớm nhất là của Chi Khiêm, năm 223, nhưng đã thất lạc. Bản dịch sớm nhất hiện tồn là lược bản của ngài La Thập dịch năm 402 đời nhà Tần. Sau đó hơn hai trăm năm, ngài Huyền Tráng mới trùng dịch vào năm 649. Bản này được khắc vào bia đồng trước cổng chùa Bạch Mã nơi Huyền Tráng trụ trì và dịch thuật kinh điển, hiện còn. Ngoài ra, còn có ngài Nghĩa Tịnh dịch lược bản, đại khái như bản Huyền Tráng, duy phần chú thì dùng thư pháp Tất Đàn chứ không dịch âm. Cả ba lược bản này tương đối giống nhau, duy bản Huyền Tráng lưu loát hơn cả, nên rất được phổ biến.
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát Nhã và Lợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản, nếu ta kể cả bản của Pháp Thành đời Đường vừa tìm thấy ở Đôn Hoàng. Chi tiết các văn bản được ghi ở các trang 11 và 13.
Sau đây, tôi sắp xếp các văn bản ra thành hệ thống một cách hợp lý tương đối như sau:
1. Bản Tất Đàn: lược bản 1 và 2,
2. Bản Devanagari: lược và quảng,
3. Bản Tây Tang: quảng,
4. Bản Tất Đàn phiên âm La Tinh: theo L. Hurvitz và R. Bucknell,
5. Bản Devanagari phiên âm La Tinh: lược và quảng,
6. Bản Tây Tang phiên âm La Tinh: quảng,
7. Bản Vu Điền phiên âm La Tinh: quảng,
8. Bản Pali: lược,
9. Bản Mông Cổ,
10. Bản Mãn Châu,
11. Bản Tất Đàn phiên âm Hoa ngữ: lược và quảng,
12. Lược bản La Thập.
13. Lược bản Huyền Tráng,
14. Quảng bản Bát Nhã và Lợi Ngôn,
15. Quảng bản Pháp Nguyệt (2 bản),
16. Lược bản Nghĩa Tịnh,
17. Quảng bản Trí Tuệ Luân,
18. Quảng bản Pháp Thành,
19. Quảng bản Thi Hộ,
20. Quảng bản Kim Cương.
Bản của Kim Cương thượng sư này, tôi nghi là thất bản Kim Cương Bất Không, nhưng chưa có chứng cớ cụ thể nên chưa đoan chắc, Do đó, mà liệt bản này cuối cùng. Bản này cùng bản Pháp Thành và quảng bản Phạn âm của Huyền Tráng được rút ra từ Trung Hoa Đại Tạng Kinh. Các bản khác từ số 12 đến số 19 được rút ra từ Nhật bản Đại Tạng Kinh, Nihon Daizokyo, tập 20, tr.1 11. Sở dĩ tôi không dùng Đại Chánh tân tu Đại Tạng Kinh, tức Taisho shinshu Daizokyo, là vì bộ trên có ghi chú cách đọc theo Nhật ngữ, Cho nên, tiện lợi cho các học giả biết Nhật văn.
Tiếp theo đó là:
21. Bản chú giải của ngài Minh Châu Hương Hải, bằng tiếng quốc âm của nước ta. Sau cùng là:
22. Bản Nhật ngữ,
23. Bản Anh ngữ,
24. Bản Pháp ngữ.
Riêng về bản dịch Anh ngữ, hiện nay có rất nhiều bản dịch, mỗi bản đều có một vài khuyết điểm, hoặc không sát nghĩa, hoặc dài dòng lủng củng. Do đó, tôi tổng hợp các bản dịch của Suzuki và Garma Chang, bỏ đi đoạn thừa, thêm vào chỗ thiếu, để tạo thành một bản Anh dịch tạm gọi là đầy đủ và sát nghĩa nhất làm dịch bản cho bản của ngài Huyền Tráng.
Khi so sánh lược bản Devanagari và bản dịch của ngài Huyền Tráng (cũng như bản La Thập), ta thấy có một vài khác biệt như sau: Bản Devanagari không có câu: "Độ nhất thiết khổ ách". Bản Devanagari lại có thêm "Tức không tức sắc" trước hai câu "sắc bất dị không..."; ngoài ra, còn có câu "diệc vô vô đắc" sau phần "vô trí (diệc) vô đắc" của Huyền Tráng. Một điều đáng chú ý là lược bản Tất Đàn lại rất giống với bản của Huyền Tráng, tức có những phần thừa thiếu như trên, Cho nên, một số học giả gần đây giả thiếtrằng lược bản Tất Đàn này là phiên dịch từ bản của Huyền Tráng ra, chứ không phải là nguyên bản Phạn ngữ như Max Muller và Nanjo Bujiu đã lầm tưởng.
Tôi rất tiếc là không có bản dịch tiếng Pháp trực tiếp từ Phạn ngữ, mà phải dùng bản của Herbert vốn dịch lại từ bản dịch của Suzuki. Tam sao thất bản. Lại cũng không có bản Đức ngữ, mặc dầu có một số học giả người Đức rất có công nghiên cứu văn học Bát nhã (Trong lần tái bản này, nhờ các Phật tử tại Tây Đức, chúng tôi có được bản dịch Tâm kinh sang Đức ngữ mà các Phật tử người Đức thường tụng. Điều đáng tiếc là chúng tôi không rõ dịch giả của bản này). Mong rằng các thiện tri thức chú ý đến các khuyết điểm này để bổ túc thêm cho.
Bồ tát Quán Tự Tại
(Theo truyền thống Tây Tạng)
Chemesig (Sanskrit: Avalokiteshvara). In this form, having one face and four arms, he personifies the Buddha's Great Compassion. All deities are manifest in his changes. His mantras is OM MANI PADME HUM.
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN 1
(Đọc từ trên xuống, trái qua phải)
BẢN TẤT ĐÀN 2
LƯỢCBẢN DEVANAGARI
QUẢNG BẢN DEVANAGARI
QUẢNG BẢN TÂY TẠNG
(Đọc từ trái sang phải, theo hàng ngang)
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN 1 & 2
Đối chiếu
LƯỢC BẢN TẤT ĐÀN
LƯỢC BẢN DEVANAGARI
BẢN TÂY TẠNG
BẢN VU ĐIỀN
BẢN PÀLI
BẢN MÔNG CỔ
BẢN ÂM TIẾNG MÃN CHÂU DỊCH
ĐỜI KHANG HY, KHOẢNG NĂM 1723
LƯỢC BẢN PHẠN ÂM
QUẢNG BẢN PHẠN ÂM
(Bản Đôn Hoàng)
LƯỢC BẢN LA THẬP
LƯỢC BẢN HUYỀN TRANG
QUẢNG BẢN BÁT NHÃ VÀ LỢI NGÔN
QUẢNG BẢN PHÁP NGUYỆT 1
QUẢNG BẢN PHÁP NGUYỆT 2
LƯỢC BẢN NGHĨA TỊNH
QUẢNG BẢN TRÍ TUỆ LUẬN
QUẢNG BẢN PHÁP THÀNH
(Bản Đôn Hoàng)
QUẢNG BẢN THỊ HỘ
QUẢNG BẢN KIM CƯƠNG
BẢN QUỐC ÂM MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
BẢN NHẬT VĂN
BẢN ANH VĂN
BẢN PHÁP VĂN
BẢN ĐỨC VĂN
THƯ TỊCH TÂM KINH
BÁT NHÃ: Đến Trường An năm 782. Một trong những vị thầy của Không Hải, tức Hoằng Pháp đại sư, sáng tổ Chân Ngôn tôn của Nhật.
BẤT KHÔNG KIM CƯƠNG (Amoghavajra, 705 - 774): Đệ tử của Kim Cương Trí (Vajrabodhi), sáng tổ Chân Ngôn tôn Trung Hoa. Bất Không Kim Cương là đệ nhị tổ, quốc sư của Đường Huyền Tông (713 - 755), Túc Tông (756 - 762) và Đại Tông (763 - 779), đưa Chân Ngôn tôn đến mức cực thịnh. Có truyền pháp cho Không Hải. Tuy bản dịch Tâm kinh của Bất Không đã mất, nhưng trong Đại Tạng còn ghi một số kinh nói về Bố tát Quán Tự Tại, do Bất Không dịch. Xem Đại Tạng tập 20, tr.1 ( ĐTK 1030), tr.19 ( ĐTK 1037), tr.32 ( ĐTK 1041), tr.33 ( ĐTK 1042), tr.203 ( ĐTK 1085), tr.206 ( ĐTK 1086) và tập 21, tr.292 ( ĐTK 1264). Được truy tặng Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng.
ĐẠO HÀNH BÁT NHÃ (Astasahasrikaprajna-paramita) được Chi Lâu Ca Sấm (Lokakshema) dịch lần đầu tiên vào năm 178. Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch lần thứ năm và Huyền Tráng dịch lần thứ bảy. Edward Conze đã dịch kinh này sang Anh văn.
HUYỀN TRÁNG (600 - 664): nhà du hành danh tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa.
KHÔNG HẢI (774 - 835), tức Hoằng Pháp đại sư. Đệ tử Huệ Quả (746 - 805), đệ tam tổ Chân Ngôn tôn. Được cả Bất Không là đệ nhị tổ truyền pháp. Sau này là sáng tổ Chân Ngôn tôn của Nhật. Không Hải có chú giải Tâm kinh, trong Hoằng Pháp đại sư toàn tập (Kòbò daishi zenshu), tập I tr. 554-562. Bản dịch Anh văn của Hakeda Yoshio, Secret key to the Heart Sũtra, trong Major works. Columbia U.P., 1972, tr. 262 275.
NGHĨA TỊNH (635 - 713): nhà du hành nổi danh không kém Huyền Tráng. Đệ tử Subhakarasimha và Vajrabodhi tức Kim Cương Trí, thầy của Bất Không.
PHÁP LONG TỰ, Hòrỳuji, trong thành Nara, Nhật. Kiến lập dưới triều đại Thánh Đức Thái tử, Shòtoku taishi (593 - 622) để làm kỷ niệm công đức hộ pháp của vị nhiếp chánh vương này, và cũng để tàng trữ lược bản Tâm kinh vừa được truyền vào Nhật, năm 609.
PHÁP NGUYỆT: Dưới triều Đường Huyền Tông, Phật giáo lại lâm Pháp nạn. Phần lớn các tăng sĩ phải hoàn tục hoặc lánh nạn các nơi. Chỉ riêng Pháp Nguyệt là được trở về Ấn Độ, năm 741 và thị tịch tại đó. Đến năm 765 mới được truy tặng là Đại Hoằng Giáo Tam Tang.
PHÁP THÀNH. Không rõ tiểu sử, nhưng chắc chắn là một học giả lớn của đạo Phật đời Đường, chuyên về Du già. Xem ĐTK 2801 và 2802, tr. 804 947, tập 51, ĐTK 2090, tr. 996; và ĐTK 2782, tr. 543.
PHÁP TẠNG (643 - 712), đệ tam tổ Hoa Nghiêm tôn. Viết Bát Nhã ba la mật đa Tâm kinh lược sớ năm (ĐTK 1712). Triết lý Hoa Nghiêm chịu ảnh hưởng rất lớn nguyên lý Bát Nhã ba la mật đa về Tâm Không(sùnyatà), mà căn bản là Tâm kinh. Bản sớ giải này được dịch ra Anh văn hai lần: Chang, Garma The Buddhist teaching of totality the philosophy of Hwa Yen Buddhism. tr. 197 - 206. Cook, Francis, Fa tsang's brief commentary on the Prajnaparamita hrdaya sutra. In trong Mahàyàna Buddhist meditation, theory & practice, ed. By Minoru Kiyota. Univ. P. of Hawaii, 1978. tr. 167 206.
TẤT ĐÀN: Thư pháp Tất Đàn (siddha) phát triển từ lối chữ Phạn (Brahmin style) cổ xưa. Viết từ phải sang trái. Thư pháp được sử dụng ở miền Bắc Ấn vào đầu thế kỷ thứ nhất, và ở Nam Ấn khoảng thế kỷ IV-V) Từ Bắc Ấn, thư pháp này biến dạng theo lối gupta (gypta style) và truyền vào Trung Hoa và Nhật Bản. Lối Nam Ấn được truyền vào Kucha và Khotan. Đến thế kỷ thứ XI, thư pháp Devanagari mới xuất hiện.
TRƯỜNG CỐC TỰ Hasedera, trên Cao Dã Sơn, thuộc Chân Ngôn tôn, Nhật.
Về cuộc đời và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam:
CHÂN NGUYÊN THIỀN SƯ
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ
TOÀN NHẬT THIỀN SƯ, xem:
Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập, Vạn Hạnh, 1979 (2 quyển).
Lê Mạnh Thát, Thơ văn thiền sư Minh Châu Hương Hải, sắp xuất bản.
Lê Mạnh Thát, Toàn Nhật thiền sư toàn tập, Vạn Hạnh, 1979 (2 quyển).
TÂM KINH TỪ ĐIỂN
(Mahagopalakasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này các Tỷ-kheo, nếu không đầy đủ mười một đức tánh này, một người chăn bò không thể chăn giữ đàn bò, không thể khiến đàn bò được hưng thịnh. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một người chăn bò không biết rõ sắc, không khéo (phân biệt), các tướng, không từ bỏ trứng con bò chét, không băng bó vết thương, không có xông khói, không biết chỗ nước có thể lội qua, không biết chỗ nước uống, không biết con đường, không khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, là người vắt sữa cho đến khô kiệt, là người không chú ý, không săn sóc đặc biệt những con bò đực già và đầu đàn. Này các Tỷ-kheo, người chăn bò nào không đầy đủ mười một đức tánh như vậy, không thể chăn giữ đàn bò, không thể khiến đàn bò được hưng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp, không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp luật này. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết sắc, không khéo (phân biệt) các tướng, không từ bỏ trứng con bò chét, không băng bó vết thương, không có xông khói, không biết chỗ nước có thể lội qua, không biết chỗ nước uống, không biết con đường, không khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, là người vắt sữa cho đến khô kiệt, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.
Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết rõ các sắc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với sắc pháp không như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết rõ các sắc. Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không khéo (phân biệt) các tướng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng của người đó, kẻ trí và nghiệp tướng của người đó. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không khéo (phân biệt) các tướng. Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thọ dụng dục tầm khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại, thọ dụng sân tầm khởi lên... (như trên)... thọ dụng hại tầm khởi lên... (như trên)... thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không băng bó vết thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì làm con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo không tự chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì con mắt, không thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo không chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không băng bó vết thương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không xông khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không xông khói. Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) nhưng không hỏi, không trả lời các vị ấy: “Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? ý nghĩa này là gì?” Những bậc Tôn giả ấy không làm cho hiển lộ những điều chưa hiển lộ, không làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị ấy không đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua. Và chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, không chứng đạt nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, không chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết chỗ nước uống. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết về con đường. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết đến con đường. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, Tỷ-kheo không biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có thân nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có khẩu nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đối với những Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp này, thì không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp, Luật này.
Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò, khiến đàn bò trở thành hưng thịnh. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò biết rõ sắc, khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ trứng con bò chét, băng bó vết thương, có xông khói, biết chỗ nước có thể lội qua, biết chỗ nước uống, biết con đường, khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, không vắt sữa cho đến khô kiệt, là người chú ý săn sóc đặc biệt, những con bò đực già và đầu đàn. Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò và làm cho đàn bò trở thành hưng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ mười một pháp này có thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp, Luật này. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, biết rõ sắc, khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ trứng con bò chét, băng bó vết thương, có xông khói, biết chỗ nước có thể lội qua, biết chỗ nước uống, biết con đường khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, không phải là người vắt sữa cho đến khô kiệt, đối với những Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ các sắc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với sắc pháp như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rõ các sắc. Chư Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo khéo (phân biệt) các tướng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng kẻ ngu, kẻ trí và nghiệp tướng kẻ trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khéo (phân biệt) các tướng. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng con bò chét? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thọ dụng dục tầm khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm dứt, làm cho không tồn tại, không thọ dụng sân tầm khởi lên... (như trên)... không thọ dụng hại tầm khởi lên... (như trên)..., không thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm dứt, làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng con bò chét. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo băng bó vết thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo băng bó vết thương. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo có xông khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có xông khói. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể lội qua. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn, được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) có hỏi, có trả lời các vị ấy: “Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? Ý nghĩa này là gì? Những bậc Tôn giả ấy làm cho hiển lộ những điều chưa được hiển lộ, làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước có thể lội qua. Và chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, giảng dạy, chứng đạt nghĩa tín thọ, chứng đạt pháp tín thọ, chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, là Tỷ-kheo biết chỗ nước uống. Và các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ về con đường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ con đường. Và này, các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không vắt sữa cho đến khô kiệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, Tỷ-kheo biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không vắt sữa cho đến khô kiệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có thân nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, có khẩu nghiệp, đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, có sự tôn trọng đặc biệt. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười một pháp này, thì có thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp, Luật này.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
ĐẠI KINH NGƯỜI CHĂN BÒ, THỨ BA MƯƠI BA HẾT.
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________________
>>>> 32. Đại kinh Rừng Sừng Bò
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Sàvatthi (Xá-vệ), rừng Jetavana (Kỳ viên), vườn Anàthapindika (Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Potthapada (Bố-sá-bà-lâu) cùng với đại chúng du sĩ ngoại đạo khoảng ba trăm vị, ở tại vườn của hoàng hậu Mallika (Mạt-lê-viên) tên là Ekasàlaka có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường luận bàn về chánh kiến, tà kiến.
(Mahagosingasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây ta-la cùng với một số đông Thượng tọa đệ tử nổi tiếng như Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) Tôn giả Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), Tôn giả Mahakassapa (Đại Ca-diếp), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata (Ly-bà-đa), Tôn giả Ananda (A-nan) cùng với một số Thượng tọa đệ tử nổi tiếng khác. Rồi Tôn giả Mahamoggallana vào buổi chiều, sau khi tham thiền đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Mahakassapa ở, sau khi đến bèn nói với Tôn giả Mahakassapa:
– Hiền giả Kassapa, chúng ta hãy đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahakassapa vâng đáp Tôn giả Mahamoggallana. Rồi Tôn giả Mahamoggallana, Tôn giả Mahakassapa và Tôn giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp. Tôn giả Ananda thấy Tôn giả Mahamoggallana, Tôn giả Mahakassapa và Tôn giả Anuruddha đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp, sau khi thấy vậy liền đi đến chỗ Tôn giả Revata và nói với Tôn giả Revata:
– Này Hiền giả Revata, các bậc Thượng nhân như vậy đã đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp. Này Hiền giả Revata, chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Revata vâng đáp Tôn giả Ananda. Rồi Tôn giả Revata và Tôn giả Ananda đi đến chỗ Tôn giả Sariputta để nghe pháp. Tôn giả Sariputta thấy Tôn giả Revata, Tôn giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy bèn nói với Tôn giả Ananda:
– Tôn giả Ananda hãy đến đây, thiện lai, Tôn giả Ananda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn. Này Hiền giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây Ta la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Ananda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát; vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Revata:
– Này Hiền giả Revata, Tôn giả Ananda đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Revata: Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu pháp, tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Anuruddha:
– Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha: Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Mahakassapa:
– Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa: Này Hiền giả Kassapa, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sống độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu Thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói Tôn giả Mahamoggallana:
– Hiền giả Moggallana, Tôn giả Mahakassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Mahamoggallana: Này Hiền giả Moggallana, khả ái thay khu rừng Gosinga!... Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ không dừng lại (không trả lời được), và cuộc đàm luận về pháp được tiếp tục. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Mahamoggallana nói với Tôn giả Sariputta:
– Hiền giả Sariputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Sariputta: Này Hiền giả Sariputta, khả ái thay, khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây Ta-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?
– Ở đây, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền giả Moggallana, ví như một vị vua hay vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Rồi Tôn giả Sariputta nói với các Tôn giả ấy:
– Này chư Hiền, chúng ta đã trả lời theo sự giải thích của chúng ta. Chư Hiền, chúng ta hãy đi đến chỗ Thế Tôn ở và thuật lại vấn đề này cho Thế Tôn rõ. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tôn giả ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Rồi những Tôn giả ấy đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, Tôn giả Revata và Tôn giả Ananda đến tại chỗ con ở để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, con thấy Tôn giả Revata và Tôn giả Ananda từ xa đi đến; thấy vậy, con nói với Tôn giả Ananda:
“– Tôn giả Ananda, hãy đến đây, thiện lai Tôn giả Ananda, vị thị giả Thế Tôn, vị hầu cận Thế Tôn. Này Hiền giả Ananda, khả ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây ta-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Ananda, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?”
Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, Tôn giả Ananda trả lời với con như sau:
“– Ở đây, Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và giữ gìn kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.”
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời cho được chơn chánh, Ananda phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Ananda là bậc đa văn, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát. Vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng, với văn cú viên dung lưu loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên.
– Bạch Thế Tôn khi nghe nói vậy, con nói với Tôn giả Revata:
“– Này Hiền giả Revata, Tôn giả Ananda, đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Revata:
“– Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Revata, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
“– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
– Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời cho được chơn chánh, Revata phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Revata ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh cư, nội tâm tu tập tịnh chỉ, không gián đoạn thiền định, thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch.
– Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với Tôn giả Anuruddha như sau:
“– Này Hiền giả Anuruddha, Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha:
“– Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Anuruddha, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?”
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Anuruddha nói với con:
“– Này Hiền giả Sariputta, ở đây, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt, lên trên đỉnh một ngôi lầu tốt đẹp rồi quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
- Lành thay, lành thay, Sariputta! Nếu trả lời cho được chơn chánh, Anuruddha phải trả lời như vậy. Này Sariputta, chính Anuruddha với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên quán sát ngàn thế giới.
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn giả Mahakassapa:
“– Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa:
“– Khả ái thay ngôi rừng Gosinga!... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?”
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Mahakassapa nói với con:
“– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cư và tán thán hạnh độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu thiền định và tán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình giải thoát và tán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo ấy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.”
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời cho được chân chánh, Kassapa phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Kassapa tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi... tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến.
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy, con nói với Tôn giả Mahamoggallana:
“– Hiền giả Moggallana, Tôn giả Mahakassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Mahamoggallana:
“– Này Hiền giả Moggallana, khả ái thay khu rừng Gosinga!... Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?”
Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Mahamoggallana nói với con:
“– Ở đây, này Hiền giả Sariputta, hai Tỷ-kheo đàm luận về Abhidhamma, (A-tỳ-đàm). Họ hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, họ trả lời được với nhau, chớ không dừng lại vì không trả lời được, và cuộc đàm luận về pháp của họ được tiếp tục. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga. ”
– Lành thay Sariputta! Nếu trả lời cho được chơn chánh, Moggallana phải trả lời như vậy. Này Sariputta, Moggallana là bậc thuyết về Chánh pháp.
Được nói vậy, Tôn giả Mahamoggallana bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con nói với Tôn giả Sariputta, như sau:
“– Hiền giả Sariputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Sariputta:
“– Này Hiền giả Sariputta, khả ái thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây ta-la trổ hoa cùng khắp, hương trời như tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?”
– Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với con:
“– Ở đây, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền giả Moggallana, ví như một vị vua hay vị đại thần của vua có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều. Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, Tỷ-kheo điều phục được tâm, không phải Tỷ-kheo không điều phục được tâm. An trú quả nào Tỷ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng, Tỷ-kheo ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả Moggallana, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?.”
– Lành thay, lành thay, Moggallana! Nếu trả lời cho được chơn chánh, Sariputta phải trả lời như vậy. Này Moggallana, Sariputta điều phục được tâm, không phải Sariputta không điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều.
Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, vị nào đã khéo trả lời (câu hỏi được đặt ra)?
– Này Sariputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời. Và này các Ông hãy nghe Ta nói hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở đây, này Sariputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: “Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”. Này Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tôn giả ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
ĐẠI KINH RỪNG SỪNG BÒ, THỨ BA MƯƠI HAI HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________
>>> 31. Tiểu kinh Rừng Sừng Bò
- Hiền giả Gotama, những pháp khổ hạnh này được những Sa-môn và Bà-la-môn công nhận là đưa đến Sa-môn quả và Bà-la-môn quả: Sống lõa thể, - Sống phóng túng, không theo lễ nghi (như đứng mà đi đại tiểu tiện, đứng ăn, không chịu ngồi theo lễ nghi), - Liếm tay cho sạch (sau khi ăn, không chịu rửa), - Đi khất thực không chịu bước tới (theo yêu cầu để thí chủ bỏ đồ ăn vào bát), - Không nhận đồ ăn mang đến (cho mình, trước khi đi khất thực), - Không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình. - Không nhận mời đi ăn. - Không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo (sợ nồi chảo bị nạo, bị cạy để cúng dường đồ ăn), - Không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo (sợ dành riêng cho mình), - Không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn (sợ đồ ăn chỉ do một người cho), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai (sợ đứa con trong bụng mẹ bị thiệt thòi), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú (sợ sữa đàn bà sẽ bớt đi), - Không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu (sợ làm trở ngại sự giao cấu), - Không nhận đồ ăn đi quyên (bởi tín đồ khi có nạn đói), - Không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng (sợ chó mất phần ăn), - Không nhận đồ ăn tại chỗ ruồi bu (sợ ruồi mất phần ăn), - Không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. - Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy chỉ nuôi sống với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.
Này Hiền giả Gotama, những pháp khổ hạnh này được chúng Sa-môn, Bà-la-môn công nhận là đưa đến Sa-môn quả và Bà-la-môn quả. Vị này chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, ăn nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.
Này Hiền giả Gotama, những pháp khổ hạnh này được công nhận bởi những Sa-môn, Bà-la-môn là đưa đến Sa-môn và Bà-la-môn quả. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da của con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường (kusa), mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập tục sống nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường dùng, không dùng chỗ ngồi, là người ngồi chò hỏ, sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, theo hạnh ăn các uế vật (phân bò, nước tiểu bò, tro và đất), sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi).
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, này Kassapa nếu người ấy chỉ ăn lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivàra... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống, nhưng nếu vị này không tu và không chứng được giới cụ túc, tâm cụ túc, tuệ cụ túc thời vị ấy cách rất xa Sa-môn vị, cách rất xa Bà-la-môn vị. Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn với các vải khác,... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi), nhưng nếu vị này không tu và không chứng được giới cụ túc, tâm cụ túc, tuệ cụ túc, thời vị ấy cách rất xa Sa-môn vị, cách rất xa Bà-la-môn vị. Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
- Tôn giả Gotama, khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!
- Này Kassapa, đó là lời nói thường tình ở đời: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh! Này Kassapa, như một người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần. Này Kassapa, nếu sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ tùy thuộc sự thực hành khổ hạnh này, thời thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Một người cư sĩ, hay con một người cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng ăn một lần".
Này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này, ngoài sự thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó hành trì, vẫn thật khó hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự tận diệt các lậu hoặc tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống, nếu sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ tùy thuộc sự thực hành khổ hạnh này thời thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh". Một người cư sĩ, hay con một người cư sĩ, cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rừng để sống". Này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này, ngoài sự thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó hành trì, vẫn thật khó hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn!
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi), nếu có sự khó hành, sự rất khó hành của Sa-môn hạnh, của Bà-la-môn hạnh chỉ tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ tùy thuộc sự thi hành khổ hạnh này, thời thật không xứng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi)", này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này, ngoài sự thực hành khổ hạnh này, Sa-môn hạnh hay Bà-la-môn hạnh vẫn khó hành trì, vẫn thật khó hành trì, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó hành thay Sa-môn hạnh! Khó hành thay Bà-la-môn hạnh!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
- Tôn giả Gotama, khó biết thay một vị Sa-môn! Khó biết thay một vị Bà-la-môn!
- Này Kassapa, đó là lời nói thường tình ở đời: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu một người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần. Này Kassapa, nếu trở thành một Sa-môn, nếu trở thành một Bà-la-môn chỉ tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ tùy thuộc sự thi hành khổ hạnh này, thời thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người cư sĩ, hay con một người cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần". Này Kassapa, nếu trở thành một Sa-môn, nếu trở thành một Bà-la-môn chỉ tùy thuộc khổ hạnh này, chỉ tùy thuộc sự thi hành khổ hạnh này, thời thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người cư sĩ, hay con một người cư sĩ cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh này: "Tôi sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay... như vậy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng chỉ ăn một lần". Này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này, ngoài sự thực hành khổ hạnh này, vẫn khó biết vẫn thật khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn, do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay, một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, vị Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người chỉ ăn cỏ lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Này Kassapa, nếu trở thành một Sa-môn, trở thành một Bà-la-môn chỉ tùy thuộc khổ hạnh này và chỉ tùy thuộc sự thực hành khổ hạnh này, thời thật không xứng đáng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Một người cư sĩ, hay con một người cư sĩ, cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi chỉ ăn lúa để sống, ăn lúa tắc, gạo lức... ăn trái cây, rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống". Này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này, ngoài sự thực khổ hạnh này, vẫn khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn. Do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay, một Sa-môn! Khó biết thay, một Bà-la-môn".
Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
Này Kassapa, nếu một người mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Này Kassapa, nếu trở thành một Sa-môn, trở thành một Bà-la-môn chỉ tùy thuộc khổ hạnh này, và chỉ tùy thuộc sự thực hành khổ hạnh này thời thật không xứng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!"
Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ, cho đến một người đầy tớ gái đội ghè nước có thể làm theo những hạnh: "Tôi mặc vải gai thô, mặc vải gai thô trộn lẫn với các vải khác... sống một đêm tắm ba lần". Này Kassapa, vì ngoài khổ hạnh này vẫn rất khó biết một người Sa-môn hay một người Bà-la-môn. Do vậy thật xứng đáng mà nói: "Khó biết thay một Sa-môn! Khó biết thay một Bà-la-môn!" Này Kassapa, nếu Tỷ-kheo sống tu tập từ bi tâm, không hận thù, không ác hại, và với sự diệt tận các lậu hoặc, tự giác chứng và an trú ngay hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy được gọi là Sa-môn, được gọi là Bà-la-môn.
- Tôn giả Gotama, thế nào là giới cụ túc? Thế nào là tâm cụ túc? Thế nào là tuệ cụ túc?
- Này Kassapa, nay ở đời, Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri... (xem Kinh Sa Môn Quả, từ số 40-42)... thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh, sanh hoạt trong sạch, giới hạnh cụ túc, thủ hộ các căn, đầy đủ chánh niệm, chánh trí và biết tri túc.
Này Kassapa, thế nào là Tỷ-kheo giới hạnh cụ túc? Ở đây, này Kassapa, Tỷ-kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật. (Như Kinh Sa Môn Quả, số 43-61,...) Trong khi một số Sa-môn, Bà-la-môn dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng, như dùng các ảo thuật để được an ổn, để khỏi làm các điều đã hứa... (như Kinh Sa Môn Quả, số 62)... ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên. Như vậy là giới cụ túc của vị ấy. Và như vậy, này Kassapa, vị Tỷ-kheo ấy, nhờ giới luật cụ túc nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về sự hộ trì giới luật. Này Kassapa, như một Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, đã hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy sợ hãi chỗ nào về sự thù địch. Cũng vậy, này Kassapa, Tỷ-kheo ấy nhờ giới luật cụ túc, nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về sự hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ cụ túc giới luật cao quý này, nên hưởng lạc thọ, nội tâm thanh tịnh. Như vậy, này Kassapa, Tỷ-kheo giới luật cụ túc.
Lại nữa, này Kassapa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm... (như Kinh Sa Môn Quả số 77-79)... đệ tam thiền (như Kinh Sa Môn Quả số 79-81)... chứng và trú vào thiền thứ tư... (số 81-82)... đó là tâm cụ túc của vị ấy. Này Kassapa, đó là tâm cụ túc.
Này Kassapa, ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt khéo giũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu nhạt. Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy ở trên tay sẽ thấy: "Hòn ngọc lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo giũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt". Cũng vậy, này Kassapa, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết: "Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phân toái, đoạn tuyệt, hoại diệt. Trong thân ấy, thức ta lại nương tựa và bị trói buộc". Đó là tuệ cụ túc của vị ấy... (như Kinh Sa Môn Quả, số 85-98)... Vị ấy biết: “... không có đời sống nào khác nữa". Đó là tuệ cụ túc của vị ấy. Này Kassapa, đó là tuệ cụ túc.
Này Kassapa, và không có một giới cụ túc, tâm cụ túc, tuệ cụ túc nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới cụ túc, tâm cụ túc và tuệ cụ túc này.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương khổ hạnh, yểm ly. Những vị này dùng nhiều phương tiện tán thán khổ hạnh, yểm ly. Này Kassapa, nói về khổ hạnh yểm ly tôn kính cao thượng nhất, Ta nhận thấy không có một ai bằng được khổ hạnh yểm ly của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy Ta hơn trên tất cả về khổ hạnh yểm ly, tức là tăng thượng yểm ly.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương trí tuệ. Những vị này dùng nhiều phương tiện tán thán trí tuệ. Này Kassapa, nói về trí tuệ tôn kính cao thượng nhất, Ta nhận thấy không có một ai bằng được trí tuệ của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy Ta hơn trên tất cả về trí tuệ, tức là tăng thượng trí tuệ.
Này Kassapa, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương giải thoát. Những vị này dùng nhiều phương tiện tán thán giải thoát. Này Kassapa, nói về giải thoát tôn kính cao thượng nhất, Ta nhận thấy không có một ai bằng được giải thoát của Ta, làm sao có ai hơn được. Như vậy, Ta hơn trên tất cả về giải thoát, tức là tăng thượng giải thoát.
Này Kassapa, sự tình này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể hỏi: "Sa-môn Gotama rống tiếng rống con sư tử giữa đại chúng, nhưng rống không với tinh thần vô úy... với tinh thần vô úy... và "Không có ai hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi gì... và "có người hỏi Sa-môn Gotama"... “Khi có người hỏi, Sa-môn Gotama không thể trả lời"... và "Khi có người hỏi, Sa-môn Gotama trả lời cho chúng"... và "Dầu cho có trả lời, câu trả lời không làm tâm người ta thỏa mãn"... và "Câu trả lời làm tâm người ta thỏa mãn"... “Nhưng người ta không xem ý kiến của Sa-môn Gotama là đáng được nghe”... “Người ta xem ý kiến của Sa-môn Gotama là đáng được nghe”... “Dầu cho có được nghe, người ta cũng không tin tưởng”... “Người ta nghe có lòng tin tưởng”... “Dầu cho người ta có lòng tin tưởng, người ta không biểu lộ lòng tin tưởng”... “Người ta có lòng tin tưởng và biểu lộ lòng tin tưởng”... “Dầu cho có biểu lộ lòng tin tưởng, người ta không đạt đến chỗ như thực”... “Người ta đạt đến chỗ như thực”... “Dầu cho đạt đến chỗ như thực, người ta không đem ra thực hành được". Nên nói với chúng: "Chớ có nói như vậy. Sa-môn Gotama rống tiếng rống con sư tử, rống ở giữa đại chúng, rống với tinh thần vô úy, có người hỏi Sa-môn Gotama, Sa-môn Gotama trả lời khi được hỏi, câu trả lời làm tâm người ta được thỏa mãn, người ta xem ý kiến của Sa-môn Gotama đáng được nghe, sau khi được nghe người ta tin tưởng, khi có lòng tin tưởng người ta biểu lộ lòng tin tưởng, người ta đạt đến chỗ như thực, đạt đến chỗ như thực, người ta đem ra thực hành". Này Kassapa, nên nói với chúng như vậy.
- Bạch Đại đức, ai có thể sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, lại không hoan hỷ như với một hoan lạc tối thượng? Thật vi diệu thay, bạch Đại đức! Thật vi diệu thay, bạch Đại đức! Bạch Đại đức, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Bạch Đại đức, con xin xuất gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
- Bạch Đại đức, nếu những người xưa kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng xuất gia cho con, thọ đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.
Và lõa thể Kassapa được xuất gia với Thế Tôn và được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Đại đức Kassapa ở một mình an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình hướng đến... Đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ và an trú: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa". Đại đức Kassapa liễu tri như vậy.
Và Đại đức Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.
Thích Minh Châu
________________________________________________________-
>> 7.Kinh Jaliya
(Culagosingasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Nadika, tại Ginjakavasatha. Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Nandiya, Tôn giả Kimbila trú tại khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây ta-la. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, sau khi tham thiền, đứng dậy đi đến khu vườn trong rừng Gosinga có nhiều cây ta-la. Người giữ vườn thấy Thế Tôn từ xa đi đến, liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Sa-môn, chớ có vào khu vườn này. Có ba Thiện nam tử đang trú tại đây, rất ái luyến tự ngã. Chớ có phiền nhiễu các vị ấy.
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ vườn nói chuyện với Thế Tôn như vậy liền nói với người giữ vườn:
– Này người giữ vườn, chớ có ngăn chận Thế Tôn. Thế Tôn, bậc Đạo sư của chúng tôi đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Nandiya Tôn giả Kimbila và nói:
– Chư Tôn giả hãy đến, chư Tôn giả hãy đến. Thế Tôn, bậc Đạo sư của chúng ta đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y bát của Thế Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn nước rửa chân. Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn, sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân. Rồi các Tôn giả ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi xuống một bên:
– Này các Anuruddha, các Ông có được an lành không? Có được sống yên vui không? Đi khất thực có khỏi mệt nhọc không?
– Bạch Thế Tôn, chúng con được an lành; bạch Thế Tôn, chúng con sống yên vui; bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực khỏi có mệt nhọc.
– Này các Anuruddha, các Ông có sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm không?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.
– Này các Anuruddha, như thế nào các Ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?
– Bạch Thế Tôn, ở đây, chúng con nghe như sau: “Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng phạm hạnh như vậy”. Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau: “Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này”. Bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con, và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm.
Rồi Tôn giả Nandiya... (như trên)... rồi Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ như sau: “Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích thay cho ta, khi ta được sống với các vị đồng phạm hạnh như vậy”. Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên từ thân nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch Thế Tôn, do vậy, chúng con nghĩ như sau: “Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống thuận theo tâm của những Tôn giả này”. Bạch Thế Tôn, con từ bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.
– Lành thay, lành thay, này Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
– Này các Anuruddha, như thế nào, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con, ai đi làng khất thực về trước, thì người ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư. Ai đi làng khất thực về sau, thì người ấy, còn đồ ăn thừa nếu muốn thì ăn, nếu không muốn thì bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào nước không có loài côn trùng và người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước, trống không thì người ấy sẽ lo liệu (nước). Nếu ai làm không nổi với sức bàn tay của mình, thì người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: “Chúng ta hãy lo liệu (nước)”. Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không vì vây mà gây ra tiếng động. Và đến ngày thứ năm, bạch Thế Tôn, suốt cả đêm, chúng con ngồi đàm luận về đạo pháp. Như vây, bạch Thế Tôn chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, sao có thể không được. Ở đây, bạch Thế Tôn, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Như vậy, bạch Thế Tôn, đối với chúng con, là pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh; chúng con chứng được và sống thoải mái, an lạc, nhờ chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây, bạch Thế Tôn, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con diệt tầm diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba, Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, và sống thoải mái, an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái an lạc.
– Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông có vượt qua sự an trú kia, có làm cho khinh an sự an trú kia, và chứng được một pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc không?
– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể không được. Ở đây lâu cho đến khi chúng con muốn, chúng con vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng; chúng con nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân khác, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ... (như trên)... Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây, lâu cho đến khi chúng con muốn; chúng con vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định. Sau khi đã thấy nhờ trí tuệ, các lậu hoặc của chúng con được đoạn trừ. Bạch Thế Tôn, chúng con vượt qua sự an trú kia, làm cho khinh an sự an trú kia; chúng con chứng được pháp thượng nhân này, một tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh và sống thoải mái, an lạc. Bạch Thế Tôn, chúng con không thấy một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự lạc trú này.
– Lành thay, lành thay, các Anuruddha! Này các Anuruddha, ngoài lạc trú này, không có một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn.
Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, khai thị, khích lệ làm cho hoan hỷ, làm cho phấn khởi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, sau khi tiễn đưa Thế Tôn và đi trở về. Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila nói với Tôn giả Anuruddha:
– Chúng tôi không bao giờ nói với Tôn giả Anuruddha như sau: “Chúng tôi là người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này”, và nhờ vậy, Tôn giả Anuruddha, trước mặt Thế Tôn, đã nêu rõ (các quả chứng) cho đến sự đoạn trừ các lậu hoặc.
– Chư Tôn giả không nói với tôi như sau: “Chúng tôi là người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này”, nhưng với tâm của tôi, tôi biết được tâm của các Tôn giả: “Chư Tôn này là Người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này”. Và chư Thiên có nói với tôi về vấn đề này: “Chư Tôn này là Người đã chứng và an trú quả này, an trú quả này”. Chính nhờ phương tiện này, các câu mà Thế Tôn hỏi đã được trả lời.
Rồi Digha Parajana, một Yakkha (Trường quỷ Dạ-xoa) đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Digha Parajana bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, thật lợi ích thay cho dân chúng Vajji (Bạt kỳ)! Thật khéo lợi ích thay cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đây, và cả ba Thiện nam tử, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila cũng vậy.
Sau khi nghe tiếng của Yakkha Digha Parajana, các địa thần làm cho tiếng này được nghe: “Chư Hiền giả, thật lợi ích thay cho dân chúng Vajji! Thật khéo lợi ích cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đây và cả ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila cũng vậy”. Sau khi nghe tiếng của các Địa thần, bốn Thiên vương... (như trên)... cõi trời Ba mươi ba... Dạ-ma thiên... Đâu-suất-đà thiên... Hóa lạc thiên... Tha hóa tự tại thiên... Phạm chúng thiên làm cho tiếng này được nghe: “Chư Hiền giả, thật lợi ích thay có dân chúng Vajji! Thật khéo lợi ích thay cho dân chúng Vajji! Vì Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đây, và cả ba Thiện nam tử này, Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya, và Tôn giả Kimbila”. Như vậy, trong giờ phút này, trong sát-na này, các Tôn giả ấy được biết cho đến Phạm thiên.
– Sự việc là như vậy, này Digha, sự việc là như vậy, này Digha, này Digha, nếu gia đình nào, ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì gia đình ấy sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, nếu bà con quyến thuộc của gia đình mà ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba Thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì bà con quyến thuộc của gia đình mà ba Thiện nam tử này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nghĩ đến ba thiện nam tử này với tâm niệm hoan hỷ, thì bà con quyến thuộc của gia đình ấy sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, nếu làng nào... nếu xã ấp nào... nếu thành phố nào... nếu quốc độ nào... nếu tất cả Sát đế lỵ... nếu tất cả Bà-la-môn... nếu tất cả Phệ xá (Vessa)... nếu tất cả Thủ đà (Sudda)... Này Digha, nếu thế giới với chư Thiên, với Ác ma, với Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người nhớ đến ba Tôn giả này với tâm niệm hoan hỷ, thì thế giới ấy với chư Thiên, với Ác ma, với Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người sẽ được an lạc, hạnh phúc lâu dài. Này Digha, hãy xem ba Thiện nam tử này sống như thế nào? - Vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Dạ xoa Digha Parajana hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
TIỂU KINH RỪNG SỪNG BÒ, THỨ BA MƯƠI MỐT HẾT.
Thích Minh Châu
_____________________________________________________________________
>>> 30.Tiểu kinh Thí Dụ Lõi Cây
KINH JALIYA
(Kinh này giống kinh Mahàli số VI từ số 15 đến số 19 vừa nói đến trước).
________________________________________________________________________-
(Culasaropamasuttam)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Rồi Bà-la-môn Pingalakoccha đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời hỏi thăm, chúc tụng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:
– Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn này là vị Hội chủ, vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khi Tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như Purana Kassapa, Makkhali Gosa-la, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nataputta, tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí, hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?
– Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn, hãy dừng lại ở đây: “Tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí? Hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?” Này Bà-la-môn, Ta sẽ thuyết pháp cho Ông, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Pingalakoccha vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi và tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, có thể nói: “Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Và người này đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu”.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây, có người do lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ, Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”. Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người ấy sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng: Người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bi chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”. Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”. Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta có Thiền định, nhứt tâm. Các Tỷ-kheo khác không có Thiền định, tâm bị phân tán”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”. Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Vì thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến này, hoan hỷ tự mãn. Vị ấy, do tri kiến này, khen mình, chê người: “Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống không thấy và không biết”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống ví dụ ấy.
Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”. Do vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do tri kiến này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động.
Và này Bà-la-môn, những pháp gì cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Này Bà-la-môn, các pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, lấy và mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy.
Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
TIỂU KINH THÍ DỤ LÕI CÂY, THỨ BA MƯƠI HẾT.
Thích Minh Châu
______________________________________________________________________________-
>>> 29.Đại kinh Thí Dụ Lõi Cây
- Tôn giả Nàgita, hiện nay Tôn giả Gotama ở tại đâu, chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.
- Các Hiền giả, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đang chỉ tịnh. Những sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha liền ngồi xuống tại một bên và nói: "Sau khi được yết kiến Tôn giả Gotama, chúng tôi mới đi".
- Hiện nay đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở tại đâu, chúng con muốn yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
- Màhàli, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn đang chỉ tịnh.
Otthadda người Licchavi liền ngồi xuống một bên tại chỗ ấy và nói:
- Sau khi được yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác con mới đi.
- Bạch Đại đức Kassapa (Ca-diếp) một số đông sứ giả Bà-La-môn ở Kosala và Magadha đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn; Otthada người Licchavi cũng đến đây với số đông dân chúng Licchavi để yết kiến đức Thế Tôn. Đại đức Kassapa, lành thay, nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn.
- Vậy Sìha hãy thưa với đức Thế Tôn.
- Thưa vâng, bạch Đại đức!
Sa-di Sìha vâng theo lời dạy của Đại đức Nàgita, đến tại chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Sa-di Sìha sau khi đứng một bên liền bạch đức Thế Tôn:
- Bạch đức Thế Tôn, một số đông sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Otthadda, người Licchavi cùng một số đông dân chúng Licchavi đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Lành thay nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn!
- Nay Sìha, hãy dọn chỗ ngồi trong bóng mát, trước mặt ngôi Tinh xá.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Sa-di Sìha vâng theo lời dạy đức Thế Tôn, sắp đặt một chỗ ngồi trong bóng mát trước mặt ngôi Tinh xá, và đức Thế Tôn đi ra khỏi Tinh xá và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn trong bóng mát, trước mặt ngôi Tinh xá.
- Bạch Đại đức, hai ba ngày về trước, Sunakkhatta, dòng họ Licchavi đến chỗ con ở và nói với con: "Này Mahàli, từ khi tôi sống gần đức Phật, không lâu quá ba năm, tôi được thấy những thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không được nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi". Bạch Thế Tôn, những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, không hiểu những thiên âm ấy có thật hay không có thật?
- Này Mahàli những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải không có.
- Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Đông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Đông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Đông các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Đông, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
- Này Mahàli, không phải muốn chứng được các pháp thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời Phạm hạnh, dưới (sự chỉ dạy của) Ta. Này Mahàli, có những pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn. Vì muốn chứng được những pháp ấy, các vị Tỷ-kheo sống đời Phạm hạnh, dưới (sự chỉ dạy của) Ta.
- Này Mahàli, ở đây Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không đọa ác thú, chắc chắn đạt quả Bồ-đề. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn, vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dạy của) Ta.
Lại nữa, này Mahàli, Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau. Này Mahàli, pháp này cao thượng hơn và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh, dưới (sự chỉ dẫn của) Ta.
Lại nữa, này Mahàli, vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Ta.
Này Mahàli, những pháp cao thượng và thù thắng này, vì muốn chứng được pháp ấy, các Tỷ-kheo sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Ta.
- Này Mahàli, có con đường, có đạo lộ đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.
- Bạch Thế Tôn, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy?
- Đó là con đường Thánh có tám ngành: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này Mahàli, con đường này, đạo lộ này đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.
- Này Hiền giả, mạng căn và thân thể là một hay là khác?
- Này Hiền giả, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Vâng, Hiền giả!
Hai vị xuất gia trả lời Ta như thế và Ta nói như sau:
Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, nhưng Ta không nói: "Mạng văn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề: "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác". Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Đức Thế Tôn thuyết như vậy. Otthadda người Licchavi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
___________________________________________________________
(Mahahatthipadopamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Ở đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Hiền giả Tỷ-kheo!
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế.
Chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, điều gì cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ. Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Chư Hiền, thế nào là sắc thủ uẩn? Bốn đại và sắc khởi lên từ bốn đại. Chư Hiền, thế nào là bốn đại? Chính là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.
Chư Hiền, thế nào là địa giới? Có nội địa giới, có ngoại địa giới. Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới. Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, trong thời ấy ngoại địa giới bị biến mất. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại địa giới xưa ấy có thể nêu rõ, tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là. Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: “Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân duyên gì? Do nhân duyên xúc”. Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng. Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như sau: “Sự thể của thân này là như vậy, nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm. Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: “Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân. Nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ, người ấy không làm đúng lời Ta dạy”... Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đãi. Niệm được an trú không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tỉnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm thân này, mặc cho gậy xúc chạm thân này, mặc cho gươm xúc chạm thân này, lời dạy chư Phật cần phải được thực hành. Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: “Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú”. Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: “Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú, thì Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, (viêm đàm dịch) mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới, đều thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, nước cuốn trôi làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn trôi thành phố, cuốn trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ thấp hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần, hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ thấp năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần, hạ thấp bảy trăm do-tuần. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến bảy cây ta-la, dâng cao đến sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây ta-la, dâng cao đến bốn cây ta-la, dâng cao đến ba cây ta-la, dâng cao đến hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương cao đến bảy đầu người, dâng cao đến sáu đầu người, dâng cao đến năm đầu người, dâng cao đến bốn đầu người, dâng cao đến ba đầu người, dâng cao đến hai đầu người, dâng cao chỉ đến một đầu người. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng cao chỉ đến đầu gối, dâng cao chỉ đến gót chân. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương không có để thấm ướt đốt ngón chân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại thủy giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ... (như trên)... và xả tương ứng với thiện được an trú. Chư Hiền, cho đến mức độ này, vị Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi hỏa giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy thị trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc độ. Lửa cháy cho đến cuối hàng cây cối, cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên, hay cho đến cuối hàng khu đất khả ái, rồi lửa bị tắt vì không nhiên liệu. Chư Hiền, một thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa phải dùng lông gà và dây gân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại hỏa giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ... (như trên)... và xả tương ưng với thiện được an trú. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các chi tiết (tay chân), hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi thấy như thật phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xảy ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người tìm cầu gió nhờ lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong tìm được cỏ tại chỗ có rạch nước chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là. Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: “Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do nhân duyên xúc vậy”. Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy thấy thọ là vô thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng. Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: “Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm”. Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: “Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ thì người ấy không làm đúng lời ta dạy”. Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đãi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành”. Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: “Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú”. Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: “Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú”. Chư Hiền, nếu Tỷ- Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, như một khoảng trống được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết là một nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi. Bất cứ sắc pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều được quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: “Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập hợp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi”. Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt”. Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.
Chư Hiền, nếu nội tại không bị hư hại... nếu lỗ mũi không bị hư hại... nếu lưỡi không bị hư hại... nếu thân không bị hư hại... nếu nội ý căn không bị hư hại nhưng ngoại pháp không vào trong tầm của ý căn, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi. Bất cứ pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: “Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi”. Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt”. Cho đến mức độ này, chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
ĐẠI KINH DỤ DẤU CHÂN VOI THỨ HAI MƯƠI TÁM HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________________
>>> 27.Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi
(KINH CỨU-LA-ĐÀN-ĐẦU)
- Này người gác cửa, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata, từng đoàn, từng đoàn, lũ lượt đi ra khỏi Khànumata và đến tại Ambalatthikà?
- Tôn giả, có Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca, đang du hành trong nước Magadha với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đến tại Khànumata, và tại đấy trú ở Ambalatthikà. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama: "Đây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Nay những người ấy đi đến yết kiến Tôn giả Gotama.
Rồi Bà-la-môn Kùtadanta gọi người giữ cửa kia:
- Này người giữ cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata như sau: "Bà-la-môn Kùtadanta có nói: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi, Bà-la-môn Kùtadanta sẽ thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Dạ vâng.
Người gác cửa ấy vâng theo lời bảo của Bà-la-môn Kùtadanta, đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata: "Bà-la-môn Kùtadanta có nói như vầy: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi Bà-la-môn Kùtadanta sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Có phải Tôn giả Kùtadanta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?
- Này các Hiền giả, đó là ý định của ta, ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama.
- Lại Tôn giả Kùtadanta thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì Tôn giả Kùtadanta thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sinh; do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Kùtadanta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Tôn giả Kùtadanta.
Lại Tôn giả Kùtadanta là nhà giàu có, đại phú, sung túc...
Lại Tôn giả Kùtadanta là nhà phúng tụng, là nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
Lại Tôn giả Kùtadanta đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô, tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Lại Tôn giả Kùtadanta có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày.
Lại Tôn giả Kùtadanta thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
Lại Tôn giả Kùtadanta là bậc Tôn sư trong các hàng Tôn sư của nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc chú thuật, thanh niên Bà-la-môn từ nhiều phương, từ nhiều nước, thiết tha với chú thuật, đến với Tôn giả Kùtadanta để học thuộc lòng các chú thuật.
Tôn giả Kùtadanta niên cao lạp lớn, bậc lão thành, đến tuổi trưởng thượng, còn Sa-môn Gotama thì trẻ tuổi, xuất gia chưa được nhiều năm.
Tôn giả Kùtadanta được vua Seniya Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) xứ Mangadha (Ma kiệt đà) kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Tôn giả Kùtadanta được Bà-la-môn Pokkhatasàdi kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Tôn giả Kùtadanta sống ở Khànumata, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha. Vì Tôn giả Kùtadanta sống ở Khànumata, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha, do điểm này thật không xứng đáng cho Tôn giả Kùtadanta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Tôn giả Kùtadanta.
- Các Hiền giả, hãy nghe ta giải thích vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta. Này các Hiền giả, thật vậy Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Này các Hiền giả, vì Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì điểm này, thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, Sa-môn Gotama xuất gia từ bỏ rất nhiều vàng bạc cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
Này các Hiền giả, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, dầu song thân không đồng ý, khóc than nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đức hạnh, gìn giữ giới của bậc Thánh, có thiện đức, dạy đủ thiện đức.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư các hàng Tôn sư của nhiều người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ tham dục, đã dứt bỏ mọi xao động của tâm.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ Sát-đế-lỵ thanh tịnh.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn.
Này các Hiền giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển (băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều quốc độ) đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, có hàng ngàn thiên nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền bá đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama nói lời chào đón, thân thiện, tao nhã, trang trọng, chân thực, thẳng thắn, lời nói có dẫn chứng (?)
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được bốn chúng kính trọng tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ trọng vọng.
Này các Hiền giả, rất nhiều thiên nhân tín ngưỡng Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy ở tại làng nào, thôn ấp nào, Sa-môn Gotama cư trú, tại làng ấy, tại thôn ấp ấy, các loài phi nhân không làm hại loài người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là giáo hội chủ, giáo phái chủ, giáo phái sư, được tôn là tối thượng trong các giáo tổ.
Này các Hiền giả, danh tiếng của một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa trên những bằng chứng không đâu, danh tiếng của Sa-môn Gotama dựa trên trí đức vô thượng của Ngài.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisàra nước Magadha, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng, đại thần đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala cùng với vương tử, cung phi, thị tùng, cận thần đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasàdi cùng với vương tử, cung phi, thị tùng, cận thần đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Seniya Bimbisàra nước Magadha kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Pasenadi nước Kosala kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được Bà-la-môn Pokkharasàdi kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Khànumata và đang ở tại Ambalatthikà. Những Sa-môn, những Bà-la-môn nào đến ruộng làng chúng ta đều là khách của chúng ta. Đối với khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này các Hiền giả, nay Gotama đã đến Khànumata đang ở tại Ambalatthikà, như vậy Sa-môn Gotama là khách của chúng ta. Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, đó là những ưu điểm, mà ta được biết về Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama không phải có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm.
- Tôn giả Kùtadanta đã tán thán Sa-môn Gotama như vậy, dầu cho ai ở xa Tôn giả Gotama đến một trăm do tuần cũng đủ cho người con của gia tộc đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, dầu phải đem theo lương thực. Vì vậy tất cả chúng tôi sẽ đi đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến Ambalatthikà, đến tại chỗ đức Thế Tôn ở, khi đi đến, liền nói lời thân ái, chào đón, chúc tụng rồi ngồi xuống một bên. Các Bà-la-môn và Gia chủ ở Khànumata, có người đảnh lễ Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên, có người nói lời thân ái chào đón, chúc tụng với Sa-môn Gotama, rồi ngồi xuống một bên, có người chấp tay vái chào Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên, có người nói tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên, có người yên lặng ngồi xuống một bên.
- Tôn giả Gotama, tôi được nghe như sau: "Sa-môn am hiểu ba cách thức tế tự và mười sáu tế vật". Tôi không biết đến ba tế tự và mười sáu tế vật và tôi muốn cử hành đại tế tự. Tốt đẹp thay nếu Tôn giả Gotama giảng cho tôi ba cách thức tế tự và mười sáu tế vật.
- Này Bà-la-môn, vậy người hãy nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ nói:
- Dạ vâng.
Bà-la-môn Kùtadanta trả lời đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thuyết như sau:
- Này Bà-la-môn, vua Mahàvijita vâng theo lời khuyên của vị Bà-la-môn chủ tế; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương Mahàvijita cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương Mahàvijita cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về quan chức, Tôn vương Mahàvijita cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm về nghề của mình không còn nhiễu hại quốc độ nhà vua; ngân quỹ nhà vua được dồi dào, quốc độ được an cư lạc nghiệp không có tai ương ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng.
Này Bà-la-môn, vua Mahàvijita nghe theo vị Bà-la-môn chủ tế cho mời tất cả những vị Sát-đế-lỵ trong quốc độ nhà vua cùng với các chư hầu cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành và nói: "Này các khanh, ta muốn tổ chức đại tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng hạnh phúc an lạc lâu ngày". - "Tôn vương hãy tổ chức tế đàn. Đại vương, tế đàn này là hợp thời".
Đối với tất cả những đại thần trong quốc độ nhà vua cùng với quyến thuộc cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành... tất cả những vị Bà-la-môn và đại Gia chủ cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành... tất cả những Gia chủ phú hào cả tại tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, vua Mahàvijita mời những vị ấy và nói: "Này các khanh ta muốn tổ chức đại tế đàn. Các khanh hãy tán thành để ta được hưởng hạnh phúc an lạc lâu ngày". - "Đại vương hãy tổ chức tế đàn, Đại vương, tế đàn này là hợp thời".
Như vậy bốn đại chúng đã thừa nhận tế đàn trở thành những yếu kiện cho lễ tế đàn này.
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước khi lễ đàn có giảng ba pháp cho vua Mahàvijita.
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế trước lễ tế đàn đã ngăn chận sự hối tiếc theo mười cách có thể khởi lên đối với những người tham dự (lễ tế đàn).
Này Bà-la-môn, vị Bà-la-môn chủ tế, khi vua đang làm lễ tế đàn đã khuyến giáo, tưởng lệ, kích thích và làm tâm (của vua) được hoan hỷ bằng mười sáu phương pháp.
Các vị bị vua từ khước như vậy đứng qua một bên và bàn luận như sau: "Tài sản này của chúng ta, nếu chúng ta đem về nhà lại, thật không phải. Vua Mahàvijita tổ chức đại tế đàn. Chúng ta hãy tổ chức một hậu tế đàn".
Như vậy là bốn sự chấp thuận, vua Mahàvijita thành tựu tám pháp, Bà-la-môn chủ tế thành tựu bốn pháp và cả ba tế pháp. Này Bà-la-môn như vậy gọi là ba tế pháp và mười sáu tế vật.
Này Bà-la-môn, ta công nhận tự mình đứng ra tổ chức lễ tế đàn hay khiến người tổ chức lễ tế đàn, và sau khi thân hoại mạng chung được sanh ở thiện thú, cõi trời ở đời này. Lúc bấy giờ ta là vị Bà-la-môn chủ tế đã đứng ra chủ lễ tế đàn này.
- Này Bà-la-môn, có một tế đàn khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều quả báo hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
- Tôn giả Gotama, tế đàn khác ấy là gì mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều quả báo, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này?
- Này Bà-la-môn, chính là những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho những vị xuất gia có giới đức. Tế đàn ấy, này Bà-la-môn ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
- Này Bà-la-môn, các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào con đường A-la-hán không đi đến tế đàn như vậy. Vì cớ sao?
Này Bà-la-môn, vì tại đấy có thấy những sự đánh đập bằng roi gậy, có những sự túm cổ lôi kéo. Do vậy các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào con đường A-la-hán không đi đến tế đàn như vậy. Những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho những vị xuất gia có giới đức, này Bà-la-môn, các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào con đường A-la-hán đi đến những tế đàn như vậy. Vì cớ sao? Này Bà-la-môn vì tại đấy không thấy những sự đánh đập bằng roi gậy, không có những sự tóm cổ lôi kéo. Do vậy các vị A-la-hán hay những vị đã bước vào con đường A-la-hán đi đến tế đàn như vậy. Này Bà-la-môn, do nhân ấy, do duyên ấy, những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi cúng dường cho những vị xuất gia có giới đức, tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp và mười sáu tế vật này.
- Này Bà-la-môn có một tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật và những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi này.
- Này Tôn giả Gotama, tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật và những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi này?
- Này Bà-la-môn, chính là sự xây dựng Tinh xá cho bốn phương Tăng. Tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, và những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi này.
- Này Bà-la-môn, có một tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi và sự cúng dường Tinh xá này.
- Tôn giả Gotama, tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều quả báo hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, những bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi và sự cúng dường Tinh xá này?
- Này Bà-la-môn, một ai với tâm thành quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, này Bà-la-môn, tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều quả báo hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự bố thí thường xuyên, đàn thí thuận lợi và sự cúng dường Tinh xá này.
- Này Bà-la-môn, có một tế đàn khác, ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, sự cúng dường Tinh xá và những sự quy y này.
- Tôn giả Gotama, tế đàn khác ấy là gì, mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều quả báo hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật ấy, sự bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, sự cúng dường Tinh xá và những sự quy y ấy?
- Này Bà-la-môn, một ai với tâm thành thọ trì những giới luật không sát sanh, không thâu đạo, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.
Này Bà-la-môn tế đàn ấy ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, sự cúng dường Tinh xá và những sự quy y này.
- Này Bà-la-môn, có một tế đàn khác ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vật, sự bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, sự cúng dường Tinh xá, những sự quy y, những giới luật này.
- Tôn giả Gotama, tế đàn ấy là gì mà ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn tế đàn với ba tế pháp, mười sáu tế vạt, sự bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, sự cúng dường Tinh xá, những sự quy y và những giới luật này?
- Này Bà-la-môn, ở đây đức Như Lai sanh ra đời, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác... (như kinh Sàmanaphala, Sa-môn Quả). Như vậy, này Bà-la-môn vị Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh.
... chứng và an trú sơ thiền. Này Bà-la-môn tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn những tế đàn trước.
... nhị thiền... tam thiền... chứng và an trú tứ thiền. Này Bà-la-môn, tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại hơn, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn những tế đàn trước... không còn một đời sống khác. Vị ấy biết như vậy. Này Bà-la-môn, tế đàn này ít phiền tạp hơn, ít nhiễu hại, nhiều kết quả hơn, nhiều lợi ích hơn những tế đàn trước. Này Bà-la-môn, không có một lễ tế đàn nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn lễ tế đàn này.
- Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng phương tiện trình bày giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng Tôn giả Gotama, con xin trả tự do và sự sống cho bảy trăm con bò đực, bảy trăm con bò cái, bảy trăm con dê và bảy trăm con cừu. Mong chúng được ăn cỏ xanh và uống nước mát, mong chúng được hưởng gió mát.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta được biết đức Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, thân phía hữu hướng về đức Phật và từ biệt... Rồi Bà-la-môn Kùtadanta khi đêm vừa tàn, liền làm cho sẵn sàng tại nhà các món thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi báo thì giờ cho đức Thế Tôn: "Giờ đã đến, Tôn giả Gotama, cơm đã sẵn sàng".
Khi ấy đức Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát và cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến cư xá của Bà-la-môn Kùtadanta, khi đi đến liền ngồi trên chỗ đã được soạn sẵn. Bà-la-môn Kùtadanta tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, thỏa mãn với những món thượng vị, loại cứng và loại mềm. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Kùtadanta, sau khi được biết đức Thế Tôn dùng cơm đã xong, đã rửa tay và bát, liền lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi Bà-la-môn Kùtadanta ngồi xuống một bên, đức Thế Tôn với một thời thuyết pháp giảng dạy, khích lệ, kích thích và làm cho Bà-la-môn Kùtadanta hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
------------------------------------------------------------------------------------
(Culahatthipadopamasutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-cô-độc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika:
– Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy?
– Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây.
– Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không?
– Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.
– Tôn giả Vacchayana thật sự tán thán Sa-môn Gotama với lời tán thán tối thượng.
– Này Tôn giả, tôi là ai mà có thể tán thán Sa-môn Gotama, bậc tối thượng được tán thán trong các bậc được tán thán, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.
– Nhưng Tôn giả Vacchayana thấy được lý do gì ở Sa-môn Gotama mà Tôn giả có lòng tin tưởng như vậy?
– Này Tôn giả, như một người săn voi thiện xảo vào một khu rừng có voi ở, và thấy một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang. Người đó đi đến kết luận: “Con voi này là con voi lớn”. Cũng vậy, này Tôn giả, tôi đã thấy bốn dấu chân của Sa-môn Gotama và đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì”. Thế nào là bốn? Tôi thấy ở đây có một số Sát đế lỵ bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này”. Họ sắp đặt câu hỏi: “Chúng ta, sau khi đến, sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này”. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này”. Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Được Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ nhất này của Sa-môn Gotama, Tôi đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì”.
Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số Bà-la-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe... (như trên)... trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ hai này của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì”.
Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số gia chủ bác học... (như trên)... có một số Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này”. Họ sắp đặt câu hỏi: “Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này”. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama đã đến ngôi làng này hay thị trấn này”. Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Được Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định sẵn), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ xin phép Sa-môn Gotama được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sa-môn Gotama cho họ được xuất gia. Được xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một mình, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần, và không bao lâu tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của phạm hạnh mà những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Họ nói như sau: “Thật sự chúng ta gần hoại vong. Thật sự chúng ta gần hoại diệt. Xưa kia chúng ta không phải là Sa-môn lại tự xem là Sa-môn, không phải là Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải là bậc A-la-hán, lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán”. Khi tôi thấy dấu chân thứ tư của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì”.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn Janussoni, từ cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, bước xuống, đắp thượng y lên một bên vai, chấp tay hướng về Thế Tôn vái lạy, và thốt ra ba lần cảm hứng ngữ sau đây: “Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Rất có thể, chúng tôi sẽ gặp Tôn giả Gotama tại một lúc nào, một chỗ nào đó. Rất có thể, sẽ có một cuộc đàm luận”. Rồi Bà-la-môn Janussoni đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni đem tất cả câu chuyện của Du Sĩ Pilotika, thuật lại với Thế Tôn. Sau khi nghe vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Janussoni:
– Này Bà-la-môn, ví dụ dấu chân voi như vậy chưa được đầy đủ một cách rộng rãi. Này Bà-la-môn, với tầm mức như thế nào ví dụ dấu chân voi được đầy đủ một cách rộng rãi, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói:
– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Janussoni vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Bà-la-môn, ví như một người săn voi vào một khu rừng có voi ở. Người đó thấy một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài và rộng bề ngang. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: “Con voi này chắc chắn to lớn”. Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, và những vật cao đều bị cọ xát. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: “Con voi này chắc chắn to lớn vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi, một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, và những vật cao bị ngà voi cắt chém. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: “Con voi này chắc chắn to lớn”. Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà lớn, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, những vật cao bị ngà voi cắt chém, và những vật cao bị gãy các cành. Và người đó thấy một con voi đực dưới gốc cây hay ở ngoài trời, đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm, người đó đi đến kết luận: “Con voi này thật là con voi đực lớn”.
Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây Như Lai sanh ra ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này, cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người... khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ. Ngài giảng dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch. Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy, sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng, vị này suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy thành tựu học giới và nếp sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu tình, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh, sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp, từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức; từ bỏ dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ nhận các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận gia cầm và heo; từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai; từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Vị ấy bằng lòng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không lỗi lầm. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược ly dục, ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc, do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”. Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là sự Khổ diệt”, biết như thật: “Đây là Con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là các lậu hoặc diệt”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt”.
Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”.
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa”. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, ví dụ dấu chân con voi thật sự được đầy đủ một cách rộng rãi.
Được nghe nói vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng!
TIỂU KINH DỤ DẤU CHÂN VOI, THỨ HAI MƯƠI BẢY HẾT.
Thích Minh Châu
_________________________________________________________________________________
>>> 26.Kinh Thánh Cầu
(KINH CHỦNG ĐỨC)
(Sonadanda Sutta)
Rồi các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà, từng đoàn từng đoàn, lũ lượt đi ra khỏi Campà và đến tại hồ nước Gaggara.
- Này người gác cửa, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà từng đoàn từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Campà và đến tại hồ Gaggara như vậy?
- Thưa Tôn giả, có Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca, đang du hành trong nước Anga với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đến tại thành Campà, và tại Campà Sa-môn Gotama ở trên bờ hồ Gaggara. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Nay những người ấy đi đến để yết kiến Tôn giả Gotama.
- Này người giữ cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn và Gia chủ: "Bà-la-môn Sonadanda có nói: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi! Bà-la-môn Sonadanda sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Dạ vâng!
Người giữ cửa ấy vâng theo lời của Bà-la-môn Sonadanda, đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà. Khi đến xong, liền nói với các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà:
- Bà-la-môn Sonadanda có nói: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi! Bà-la-môn Sonadanda sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Có phải Tôn giả Sonadanda sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?
- Này các Hiền giả, đó là ý định của ta. Ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama.
- Tôn giả Canke, chớ có đến yết kiến Sa-môn Gotama. Thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama. Nếu Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thì danh tiếng của Tôn giả Sonadanda bị hao tổn, danh tiếng của Sa-môn Gotama được tăng trưởng. Vì danh tiếng của Tôn giả Sonadanda bị hao tổn và danh tiếng của Sa-môn Gotama được tăng trưởng, do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama yết kiến Tôn giả Sonadanda.
Lại Tôn giả Sonadanda thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì Tôn giả Sonadanda thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Bà-la-môn Sonadanda. Lại Tôn giả Sonadanda là nhà giàu có, đại phú, sung túc... Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Tôn giả Sonadanda đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng người, với màu da thù thắng khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng. Tôn giả Sonadanda thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác. Tôn giả Sonadanda là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc chú thuật, thanh niên Bà-la-môn từ nhiều phương, từ nhiều nước, tha thiết với chú thuật đến với Tôn giả Sonadanda để học thuộc lòng các chú thuật. Tôn giả Sonadanda niên cao, lạp lớn, bậc lão thành, đến tuổi trưởng thượng; còn Sa-môn Gotama thì tuổi trẻ, xuất gia chưa được nhiều năm. Tôn giả Sonadanda được vua Seniya Bimbisara (Tần-bà-sa-la) xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn giả Sonadanda được Bà-la-môn Pokkharasàdi kính trọng tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn giả Sonadanda sống ở Campà, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama yết kiến Tôn giả Sonadanda.
- Các Hiền giả, hãy nghe ta giải thích vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến thăm chúng ta. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; vì điểm này thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ bỏ đại gia đình quyến thuộc.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ bỏ rất nhiều vàng bạc, bỏ cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên, tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama dầu song thân không đồng ý, khóc than, nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đức hạnh, gìn giữ giới hạnh của bậc Thánh, có thiện đức, đầy đủ thiện đức.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư trong các hàng Tôn sư của nhiều người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ tham dục, đã diệt trừ được mọi xao động của tâm.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ Sát-đế-lỵ thanh tịnh.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn.
Này các Hiền giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển (băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều quốc độ) đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, có hàng ngàn Thiên, Nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama nói lời chào đón, thân thiện, tao nhã, trang trọng, chân trực thẳng thắn, lời nói có dẫn chứng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được bốn chúng kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính nể, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, rất nhiều Thiên, Nhân tín ngưỡng Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, ở tại làng nào, thôn ấp nào, Sa-môn Gotama cư trú, tại làng ấy, tại thôn ấp ấy, các loài phi nhân không làm hại loài người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là giáo hội chủ, giáo phái chủ, giáo phái sư, được tôn là tối thượng trong các giáo tổ.
Này các Hiền giả, danh tiếng của một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa trên những bằng chứng không đâu, danh tiếng của Sa-môn Gotama không phải vậy. Danh tiếng của Sa-môn Gotama dựa trên trí đức vô thượng của Ngài.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisàra nước Magadha, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasàdi cùng với các con, vợ, thị giả, đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Seniya Bimbisàra nước Magadha kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, được Bà-la-môn Pokkharasàdi kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Pasenadi nước Kosala kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Campà, nay đang ở tại Campà, trên bờ ao Gaggara. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến ruộng làng chúng ta đều là khách của chúng ta. Đối với khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đã đến Campà, hiện ở tại Campà trên bờ hồ Gaggara, như vậy Sa-môn Gotama là khách của chúng ta. Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama. Này các Hiền giả, đó là những ưu điểm mà ta được biết về Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama không phải có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm.
- Tôn giả Sonadanda đã tán thán Sa-môn Gotama như vậy dầu cho một ai ở xa Tôn giả Gotama đến một trăm do tuần cũng đủ cho con người của gia tộc đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, dầu phải đem theo lương thực. Do vậy, tất cả chúng tôi sẽ đi đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sonadanda cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến bờ hồ Gaggara.
Rồi đức Thế Tôn hỏi Bà-la-môn Sonadanda:
- Này Bà-la-môn, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ bao nhiêu đức tính mới được gọi là Bà-la-môn, và để có thể khi nói "tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối?
- Có năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy chơn chánh, không phải là lời nói dối. Thế nào là năm? Ở đây, này Tôn giả, người Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Vị ấy đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng. Vị ấy có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày. Và vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng (để đổ bơ làm lễ tế thần). Này Tôn giả Gotama, đó là năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong năm đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ dung sắc. Thật vậy, dung sắc làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy lại là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Vị ấy có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày. Và vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Này Tôn giả Gotama, những đức tánh này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong bốn đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ chú thuật. Thật vậy, chú thuật làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy lại là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân, vị ấy lại có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. - Này Tôn giả Gotama, những đức tính này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong ba đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ thọ sanh. Thật vậy, thọ sanh làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Những đức tánh này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn” lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Này Tôn giả Sonadanda, chớ có nói như vậy! Này Tôn giả Sonadanda, chớ có nói như vậy! Tôn giả Sonadanda khinh bác dung sắc, khinh bác chú thuật, khinh bác thọ sanh. Thật sự Tôn giả Sonadanda đã ngả theo quan niệm của Sa-môn Gotama.
- Nếu các người Bà-la-môn nghĩ: "Bà-la-môn Sonadanda không phải là bậc đa văn, Bà-la-môn Sonadanda không phải là nhà hùng biện giỏi, Bà-la-môn Sonadanda không phải là nhà bác học và Bà-la-môn Sonadanda không có thể biện luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này", thời Bà-la-môn Sonadanda hãy đứng yên và để các ngươi biện luận với Ta. Nếu các người Bà-la-môn nghĩ: "Bà-la-môn Sonadanda là bậc đa văn, Bà-la-môn Sonadanda là nhà hùng biện giỏi, Bà-la-môn Sonadanda là nhà bác học, và Bà-la-môn Sonadanda có thể biện luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này", thời các ngươi đứng yên và để Bà-la-môn Sonadanda biện luận với Ta.
- Tôn giả Gotama hãy đứng yên. Tôn giả Gotama hãy giữ im lặng. Tôi sẽ trả lời cho các vị Bà-la-môn ấy đúng với Chánh pháp.
Rồi Bà-la-môn Sonadanda nói với những vị Bà-la-môn ấy:
- Này các Hiền giả, chớ có nói như vậy: "Tôn giả Sonadanda khinh bác dung sắc, khinh bác chú thuật, khinh bác thọ sanh. Thật sự Tôn giả Sonadanda đã ngả theo quan niệm của Sa-môn Gotama". Này các Hiền giả, tôi không có phỉ báng dung sắc hoặc chú thuật hoặc thọ sanh.
- Này các Hiền giả, các Hiền giả có thấy người cháu tôi, thanh niên Angaka không?
- Thưa Tôn giả, có thấy.
- Các Hiền giả, thanh niên Angaka là đẹp trai khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng, không một ai trong chúng này có thể bằng được về dung sắc, trừ Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, thanh niên Angaka là nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà, với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Chính ta dạy cho nó chú thuật. Này các Hiền giả, thanh niên Angaka thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Ta biết cha và mẹ nó. Này các Hiền giả nếu thanh niên Angaka giết hại các loại hữu tình, lấy của không cho, đi tư thông với vợ người, nói láo, uống rượu, như vậy này các Hiền giả, nay dung sắc làm được cái gì, thọ sanh làm được cái gì? Này các Hiền giả, khi một Bà-la-môn nào có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, lại là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Này các Hiền giả, những Bà-la-môn nào đầy đủ hai đứng tánh ấy mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, không thể được. Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh; người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời. Tôn giả Gotama, cũng như lấy bàn tay rửa bàn tay, lấy bàn chân để rửa bàn chân; cũng vậy, Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.
- Tôn giả Gotama, chúng tôi chỉ biết có vậy là tột bực về vấn đề này. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama giải thích ý nghĩa của câu nói ấy!
- Tôn giả, xin vâng. Bà-la-môn Sonadanda trả lời đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết như sau:
- Này Bà-la-môn, ở đây đức Thế Tôn ra đời, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... (giống như Kinh Sa Môn Quả, chương 40)... Này Bà-la-môn, như vậy vị Tỷ-kheo đầy đủ giới hạnh. Này Bà-la-môn, đó là giới hạnh.
... vị ấy chứng và trú sơ thiền... chứng và trú đệ nhị thiền... đệ tam thiền... chứng và trú đệ tứ thiền... tâm hướng đến tri kiến... Này Bà-la-môn như vậy là trí huệ [như kinh Sàmannaphala (Sa-môn Quả), từ chương 40 đến 63, và từ chương 75 đến chương 98].
- Thật là vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật là vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Và mong Tôn giả Gotama, ngày mai cùng chúng Tỷ-kheo nhận lời mời đến dùng cơm do con mời.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sonadanda được biết Đức Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, thân phía hữu hướng về đức Phật và từ biệt. Rồi Bà-la-môn Sonadanda khi đêm đã mãn liền làm cho sẵn sàng tại nhà các món thượng vị, loại cứng và loại mềm, rồi báo thì giờ cho đức Thế Tôn: "Giờ đã đến, Tôn giả Gotama, cơm đã sẵn sàng".
______________________________________________________________
(Ariyapariyesanasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika, (Cấp-cô-độc). Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Savatthi để khất thực. Có một số đông Tỷ-kheo đến chỗ Tôn giả Ananda ở, sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda:
– Hiền giả, đã lâu chúng tôi chưa được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. Lành thay, Hiền giả Ananda, nếu chúng tôi được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp!
– Các Tôn giả hãy đến chỗ Bà-la-môn Rammaka ở, và các Tôn giả sẽ được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda. Rồi Thế Tôn, khất thực ở Savatthi xong, sau buổi ăn trên con đường đi khất thực trở về, cho gọi Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbarama (Đông viên), ngôi lầu của Migaramatu (Lộc Mẫu Giảng Đường) để nghỉ trưa!
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến vườn Pubbarama, ngôi lầu của Migaramatu để nghỉ trưa. Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, gọi Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân. Sau khi rửa tay, rửa chân ở Pubbalotthaka xong, Thế Tôn leo đứng trên bờ, đắp một tấm y, phơi tay chân cho khô. Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, tinh thất của Bà-la-môn Rammaka không xa; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả ái; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả lạc; bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn vì lòng từ bi đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka!
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Thế Tôn đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka. Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo đang hội họp tại tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka để thuyết pháp. Thế Tôn đứng chờ ngoài cửa cho đến khi thuyết pháp xong. Thế Tôn biết cuộc thuyết pháp đã xong, liền đằng hắng và gõ vào thanh cửa. Các Tỷ-kheo ấy mở cửa cho Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bước vào tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka và ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, các Người nay hội họp bàn vấn đề gì? Và câu chuyện gì giữa các Người bị gián đoạn?
– Bạch Thế Tôn, câu chuyện giữa chúng con thuộc về Thế Tôn và câu chuyện ấy bị gián đoạn khi Thế Tôn đến.
– Này các Tỷ-kheo, lành thay khi Thiện nam tử các Người, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cùng nhau hội họp để luận bàn đạo pháp. Này các Tỷ-kheo, khi các Người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.
Này các Tỷ-kheo, có hai sự tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị già? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng và bạc là bị già. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh. Và này các Tỷ-kheo, cái gì các Người nói là bị chết? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu, gà và heo là bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng và bạc là bị ô nhiễm. Và này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, gọi là Thánh cầu.
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu”... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong Pháp luật này”. Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”. Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú”. Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú”. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?” Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú”. Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: “Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?”- “Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!” Như vậy này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là Đạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ”. Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong Pháp luật này. Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”. Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú”. Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú”. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?” Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú”. Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?” - “Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.” Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!” Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta là Đạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: “Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn”. Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn”.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khơi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!” Này các Tỷ-kheo, rồi những kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta:
Sao Ta nói Chánh pháp,
Được chứng ngộ khó khăn?
Những ai còn tham sân,
Khó chứng ngộ pháp này.
Đi ngược dòng, thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này.
Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: “Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp”. Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp”. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:
Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác thành.
Hãy mở tung mở rộng,
Cánh cửa bất tử này.
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
Như đứng trên tảng đá,
Trên đỉnh núi (tột cao)
Có người đứng nhìn xuống,
Đám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, ôi Thiện Tuệ,
Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài,
Xây dựng bằng Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Đứng lên vị Anh Hùng,
Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp,
Người nghe sẽ thâm hiểu!
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
(Ôi Phạm thiên)
Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati tự nghĩ: “Ta đã tạo cơ hội cho Thế Tôn thuyết pháp”, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng (về Ta) rồi biến mất tại chỗ.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này? Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: “Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này”. Này các Tỷ-kheo, rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: “Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu”. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này? Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta. Vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này.” Rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn Uddaka Ramaputta đã mệnh chung ngày hôm qua”. Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: “Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua”. Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu”. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?” Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nhóm năm Tỷ-kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỷ-kheo!” Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm Tỷ-kheo ở tại đâu?” Này các Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỷ-kheo hiện ở Baranasi (Ba la nại), tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi.
Này các Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi Ta còn đi trên con đường giữa Gaya và cây Bồ-đề.
Sau khi thấy, vị ấy nói với Ta:
“– Các căn của Hiền giả thật sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Đạo sư của Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?”
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với tà mạng đạo Upaka bài kệ như sau:
“– Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất Thiết Trí.
Hết thảy pháp, không nhiễm,
Hết thảy pháp, xả ly.
Ta sống chân giải thoát,
Đoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?
Ta không có Đạo sư,
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới Nhơn, Thiên,
Không có ai bằng Ta.
Bậc Ứng Cúng trên đời,
Bậc Đạo sư vô thượng.
Tự mình Chánh Đẳng Giác,
Ta an tịnh, thanh thoát.
Để chuyển bánh xe Pháp.
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù lòa.
“– Như Hiền giả đã tự xưng, Hiền giả xứng đáng là bậc Chiến thắng Vô tận.
“– Như Ta, bậc Thắng giả,
Những ai chứng lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp phục,
Do vậy, Ta vô địch”.
(Này Upaka)
Này các Tỷ-kheo, sau khi được nói vậy, tà mạng ngoại đạo Upaka nói với Ta:
“– Này Hiền giả, mong rằng sự việc là vậy”.
Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi theo một ngã khác.
– Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: “Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi”. Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với danh từ Hiền giả (Avuso). này các Tỷ-kheo khi ta nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
– “Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo nói Ta:
“– Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo tu này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến, thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì nay làm sao Hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
“– Hiền giả Gotama, với nếp sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc... (như trên)... các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ ba, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
“– Hiền giả Gotama, với nếp sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
“– Này các Tỷ-kheo, từ trước đến nay, các Ông có chấp nhận là Ta chưa bao giờ nói như vậy chăng?
“– Bạch Thế Tôn chưa bao giờ như vậy.
“– Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú”.
Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Đồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực. Đồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo, tự mình bị sanh, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái không chết... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến khởi lên nơi họ: “Sự giải thoát của chúng ta không bị dao động, đây thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa”.
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các Người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn”. Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: “Nó đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như ý muốn. Khi người thợ săn đến, con nai không thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc... (như trên)... đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các Người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bị Ác ma sử dụng như ý muốn”. Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: “Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị người thợ săn sử dụng như ý muốn”. Khi người thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc... không bị Ác ma sử dụng như ý muốn.
Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống trong rừng, đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay của người thợ săn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là: một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức Vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của Ác ma.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
KINH THÁNH CẦU, THỨ HAI MƯƠI SÁU HẾT.
Thích Minh Châu
__________________________________________________________________________
>>> 25. Kinh Bẫy Mồi
(KINH CHỦNG ĐỨC)
(Sonadanda Sutta)
Rồi các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà, từng đoàn từng đoàn, lũ lượt đi ra khỏi Campà và đến tại hồ nước Gaggara.
- Này người gác cửa, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà từng đoàn từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Campà và đến tại hồ Gaggara như vậy?
- Thưa Tôn giả, có Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca, đang du hành trong nước Anga với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, đến tại thành Campà, và tại Campà Sa-môn Gotama ở trên bờ hồ Gaggara. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Nay những người ấy đi đến để yết kiến Tôn giả Gotama.
- Này người giữ cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn và Gia chủ: "Bà-la-môn Sonadanda có nói: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi! Bà-la-môn Sonadanda sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Dạ vâng!
Người giữ cửa ấy vâng theo lời của Bà-la-môn Sonadanda, đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà. Khi đến xong, liền nói với các Bà-la-môn và Gia chủ ở Campà:
- Bà-la-môn Sonadanda có nói: "Này các Hiền giả, hãy chờ đợi! Bà-la-môn Sonadanda sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama".
- Có phải Tôn giả Sonadanda sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?
- Này các Hiền giả, đó là ý định của ta. Ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama.
- Tôn giả Canke, chớ có đến yết kiến Sa-môn Gotama. Thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama. Nếu Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thì danh tiếng của Tôn giả Sonadanda bị hao tổn, danh tiếng của Sa-môn Gotama được tăng trưởng. Vì danh tiếng của Tôn giả Sonadanda bị hao tổn và danh tiếng của Sa-môn Gotama được tăng trưởng, do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama yết kiến Tôn giả Sonadanda.
Lại Tôn giả Sonadanda thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vì Tôn giả Sonadanda thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Bà-la-môn Sonadanda. Lại Tôn giả Sonadanda là nhà giàu có, đại phú, sung túc... Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Tôn giả Sonadanda đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng người, với màu da thù thắng khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng. Tôn giả Sonadanda thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác. Tôn giả Sonadanda là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc chú thuật, thanh niên Bà-la-môn từ nhiều phương, từ nhiều nước, tha thiết với chú thuật đến với Tôn giả Sonadanda để học thuộc lòng các chú thuật. Tôn giả Sonadanda niên cao, lạp lớn, bậc lão thành, đến tuổi trưởng thượng; còn Sa-môn Gotama thì tuổi trẻ, xuất gia chưa được nhiều năm. Tôn giả Sonadanda được vua Seniya Bimbisara (Tần-bà-sa-la) xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn giả Sonadanda được Bà-la-môn Pokkharasàdi kính trọng tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Tôn giả Sonadanda sống ở Campà, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Sonadanda đến yết kiến Sa-môn Gotama, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama yết kiến Tôn giả Sonadanda.
- Các Hiền giả, hãy nghe ta giải thích vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến thăm chúng ta. Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; vì điểm này thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ bỏ đại gia đình quyến thuộc.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ bỏ rất nhiều vàng bạc, bỏ cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên, tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama dầu song thân không đồng ý, khóc than, nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đức hạnh, gìn giữ giới hạnh của bậc Thánh, có thiện đức, đầy đủ thiện đức.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư trong các hàng Tôn sư của nhiều người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ tham dục, đã diệt trừ được mọi xao động của tâm.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ Sát-đế-lỵ thanh tịnh.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn.
Này các Hiền giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển (băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều quốc độ) đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, có hàng ngàn Thiên, Nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama nói lời chào đón, thân thiện, tao nhã, trang trọng, chân trực thẳng thắn, lời nói có dẫn chứng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được bốn chúng kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính nể, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, rất nhiều Thiên, Nhân tín ngưỡng Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, ở tại làng nào, thôn ấp nào, Sa-môn Gotama cư trú, tại làng ấy, tại thôn ấp ấy, các loài phi nhân không làm hại loài người.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là giáo hội chủ, giáo phái chủ, giáo phái sư, được tôn là tối thượng trong các giáo tổ.
Này các Hiền giả, danh tiếng của một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa trên những bằng chứng không đâu, danh tiếng của Sa-môn Gotama không phải vậy. Danh tiếng của Sa-môn Gotama dựa trên trí đức vô thượng của Ngài.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisàra nước Magadha, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasàdi cùng với các con, vợ, thị giả, đều quy y Sa-môn Gotama.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Seniya Bimbisàra nước Magadha kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, được Bà-la-môn Pokkharasàdi kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama được vua Pasenadi nước Kosala kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ trọng vọng.
Này các Hiền giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Campà, nay đang ở tại Campà, trên bờ ao Gaggara. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến ruộng làng chúng ta đều là khách của chúng ta. Đối với khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đã đến Campà, hiện ở tại Campà trên bờ hồ Gaggara, như vậy Sa-môn Gotama là khách của chúng ta. Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn giả Gotama đến yết kiến chúng ta, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn giả Gotama. Này các Hiền giả, đó là những ưu điểm mà ta được biết về Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama không phải có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm.
- Tôn giả Sonadanda đã tán thán Sa-môn Gotama như vậy dầu cho một ai ở xa Tôn giả Gotama đến một trăm do tuần cũng đủ cho con người của gia tộc đi đến yết kiến Sa-môn Gotama, dầu phải đem theo lương thực. Do vậy, tất cả chúng tôi sẽ đi đến yết kiến Sa-môn Gotama.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sonadanda cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến bờ hồ Gaggara.
Rồi đức Thế Tôn hỏi Bà-la-môn Sonadanda:
- Này Bà-la-môn, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ bao nhiêu đức tính mới được gọi là Bà-la-môn, và để có thể khi nói "tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối?
- Có năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy chơn chánh, không phải là lời nói dối. Thế nào là năm? Ở đây, này Tôn giả, người Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Vị ấy đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng. Vị ấy có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày. Và vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng (để đổ bơ làm lễ tế thần). Này Tôn giả Gotama, đó là năm đức tánh, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn", lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong năm đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ dung sắc. Thật vậy, dung sắc làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy lại là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Vị ấy có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày. Và vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Này Tôn giả Gotama, những đức tánh này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong bốn đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ chú thuật. Thật vậy, chú thuật làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị ấy lại là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân, vị ấy lại có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. - Này Tôn giả Gotama, những đức tính này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, có thể được. Tôn giả Gotama, trong ba đức tánh này, chúng tôi có thể bỏ thọ sanh. Thật vậy, thọ sanh làm được gì? Khi một Tôn giả Bà-la-môn có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, vị ấy là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Những đức tánh này, những vị Bà-la-môn phải đầy đủ mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn” lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Này Tôn giả Sonadanda, chớ có nói như vậy! Này Tôn giả Sonadanda, chớ có nói như vậy! Tôn giả Sonadanda khinh bác dung sắc, khinh bác chú thuật, khinh bác thọ sanh. Thật sự Tôn giả Sonadanda đã ngả theo quan niệm của Sa-môn Gotama.
- Nếu các người Bà-la-môn nghĩ: "Bà-la-môn Sonadanda không phải là bậc đa văn, Bà-la-môn Sonadanda không phải là nhà hùng biện giỏi, Bà-la-môn Sonadanda không phải là nhà bác học và Bà-la-môn Sonadanda không có thể biện luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này", thời Bà-la-môn Sonadanda hãy đứng yên và để các ngươi biện luận với Ta. Nếu các người Bà-la-môn nghĩ: "Bà-la-môn Sonadanda là bậc đa văn, Bà-la-môn Sonadanda là nhà hùng biện giỏi, Bà-la-môn Sonadanda là nhà bác học, và Bà-la-môn Sonadanda có thể biện luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này", thời các ngươi đứng yên và để Bà-la-môn Sonadanda biện luận với Ta.
- Tôn giả Gotama hãy đứng yên. Tôn giả Gotama hãy giữ im lặng. Tôi sẽ trả lời cho các vị Bà-la-môn ấy đúng với Chánh pháp.
Rồi Bà-la-môn Sonadanda nói với những vị Bà-la-môn ấy:
- Này các Hiền giả, chớ có nói như vậy: "Tôn giả Sonadanda khinh bác dung sắc, khinh bác chú thuật, khinh bác thọ sanh. Thật sự Tôn giả Sonadanda đã ngả theo quan niệm của Sa-môn Gotama". Này các Hiền giả, tôi không có phỉ báng dung sắc hoặc chú thuật hoặc thọ sanh.
- Này các Hiền giả, các Hiền giả có thấy người cháu tôi, thanh niên Angaka không?
- Thưa Tôn giả, có thấy.
- Các Hiền giả, thanh niên Angaka là đẹp trai khả ái, làm đẹp lòng mọi người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng, không một ai trong chúng này có thể bằng được về dung sắc, trừ Sa-môn Gotama. Này các Hiền giả, thanh niên Angaka là nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà, với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân. Chính ta dạy cho nó chú thuật. Này các Hiền giả, thanh niên Angaka thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Ta biết cha và mẹ nó. Này các Hiền giả nếu thanh niên Angaka giết hại các loại hữu tình, lấy của không cho, đi tư thông với vợ người, nói láo, uống rượu, như vậy này các Hiền giả, nay dung sắc làm được cái gì, thọ sanh làm được cái gì? Này các Hiền giả, khi một Bà-la-môn nào có đức hạnh, đức độ cao dày, đầy đủ giới hạnh cao dày, lại là người học rộng, sáng suốt, là người đệ nhất hay đệ nhị trong những người cầm muỗng. Này các Hiền giả, những Bà-la-môn nào đầy đủ hai đứng tánh ấy mới được gọi là Bà-la-môn và để có thể, khi nói: "Tôi là Bà-la-môn”, lời nói ấy là chơn chánh, không phải là lời nói dối.
- Tôn giả Gotama, không thể được. Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh; người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời. Tôn giả Gotama, cũng như lấy bàn tay rửa bàn tay, lấy bàn chân để rửa bàn chân; cũng vậy, Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời.
- Tôn giả Gotama, chúng tôi chỉ biết có vậy là tột bực về vấn đề này. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama giải thích ý nghĩa của câu nói ấy!
- Tôn giả, xin vâng. Bà-la-môn Sonadanda trả lời đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết như sau:
- Này Bà-la-môn, ở đây đức Thế Tôn ra đời, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... (giống như Kinh Sa Môn Quả, chương 40)... Này Bà-la-môn, như vậy vị Tỷ-kheo đầy đủ giới hạnh. Này Bà-la-môn, đó là giới hạnh.
... vị ấy chứng và trú sơ thiền... chứng và trú đệ nhị thiền... đệ tam thiền... chứng và trú đệ tứ thiền... tâm hướng đến tri kiến... Này Bà-la-môn như vậy là trí huệ [như kinh Sàmannaphala (Sa-môn Quả), từ chương 40 đến 63, và từ chương 75 đến chương 98].
- Thật là vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật là vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Và mong Tôn giả Gotama, ngày mai cùng chúng Tỷ-kheo nhận lời mời đến dùng cơm do con mời.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sonadanda được biết Đức Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, thân phía hữu hướng về đức Phật và từ biệt. Rồi Bà-la-môn Sonadanda khi đêm đã mãn liền làm cho sẵn sàng tại nhà các món thượng vị, loại cứng và loại mềm, rồi báo thì giờ cho đức Thế Tôn: "Giờ đã đến, Tôn giả Gotama, cơm đã sẵn sàng".
______________________________________________________________